Sau đó hai tháng tôi lại vào Hiệp Mỹ, không kể những lần vào liên tiếp. ở Hiệp Mỹ bấy giờ anh Trương đã chuyển sang phụ trách ba ấp từ Cầu Sắt trở vô. Anh Dũng phụ trách ba ấp từ Cầu Sắt trở ra. Tôi vào Hiệp Mỹ lần đó để gặp tổ công tác anh Dũng bàn một việc đặc biệt, đồng thời thẩm tra lại các cơ sở: Công việc thẩm tra chính là do cán bộ ở cơ sở đó, nhưng tôi thì phải nắm được tình hình cụ thể. Vì tình hình thay đổi của cơ sở rất quan hệ cho những chuyến đưa tới.
Nhớ lại lần ấy tôi ra tới nhà anh Mười trời đã sụp tối. Giông mưa sắp kéo đến. Dạo đó còn giữa mùa mưa. Đêm đêm trời cứ đổ mưa từ đầu hôm tới suốt sáng. Anh Mười đi họp tổ du kích bí mật vừa về tới nhà. Tôi tưởng anh Dũng ở dưới hầm, định đến gõ nắp hầm, nhưng anh Mười khoát tay ra hiệu bảo không có. Tôi hỏi:
- Anh Dũng đi đâu rồi?
- Hồi nãy ảnh họp với chúng tôi. Nhưng tối nay ảnh không có ngủ nhà đâu.
- Ngủ chỗ khác à?
Anh Mười đến bên, khẽ nói vào vai tôi:
- Ngủ ngoài bờ. Mấy bữa nay không ngủ nhà được đâu. ở dưới hầm cũng ngủ không được. Mưa cứ làm sụp vách hầm luôn. Nằm trên nhà thì không đặng thím à. Tụi Cầu Sắt, Long Hưng cứ rõn vô luôn. Vì anh Dũng anh Trương đã tổ chức vận động phá kế hoạch bắt cu ly của nó. Bà con xé giấy cu ly tới tám phần, bắt đầu trốn không chịu đi xây cốt nữa. Bốn lượt tụi nó vào bắt, chỉ bắt được mấy thằng cha hương chủ với mấy ông già. Sự bắt cu ly của tụi nó bỗng nhiên hết linh nghiệm. Do đó tụi nó mới sanh nghi có cán bộ về nằm vùng. Ba bốn đêm nay, giữa khuya tụi nó cứ sục vào gõ cửa xét nhà.
- Có xét nhà mình và những nhà anh em ở không?
- Không... Choạng vạng là anh Dũng phải ra bờ rồi. Mà dạo này ông trời ổng cứ mưa đêm. Anh Dũng đâu có ngủ nghê được mấy. Tội quá. Tôi bảo, anh thôi cứ ở nhà ngủ, bất quá tôi với vợ tôi thay nhau gác cho mà ngủ. Nói hết sức mà anh không chịu là không chịu.
Đang nói chuyện, chợt nghe tiếng mưa lắc rắc rớt trên mái nhà. Chị Mười bước ra quơ tay ngoài trời, lo lắng kêu:
- Mưa rớt hột rồi. Thím coi, khổ chưa?
Tôi nói: - Không còn trú ở đâu được à?
Anh Mười đáp: Tôi định đưa ảnh ra ngủ ngoài chòi dưa. Nhưng không ổn thím à. Tụi "ba trui" nó chú ý mấy cái chòi dưa lắm. Đêm qua nó đi rõn vô chòi dưa của ông Tư Nhân...
Tôi nói: - Thôi được, để tìm cách sau. Bây giờ anh Mười làm thế nào đưa tôi ra gặp anh Dũng. Có công chuyện cần bàn gấp với ảnh.
- Thôi, mưa rồi. Thím ở đây, tôi ra đồng kêu ảnh vô.
- Không nên đâu. Anh Mười cứ đưa tôi ra ngoài đi.
- Vậy cũng được!
Chị Mười chạy vào nhà lấy một cái nón lá, đội lên đầu tôi. Tôi với anh Mười ra cửa hậu. Qua khỏi vườn cau thì tới một vùng lau rậm. Anh Mười vạch lau đi trước, tôi theo sau. Mưa bắt đầu trút xuống dữ dội. Trên trời, thỉnh thoảng một làn chớp lóe lên. Giữa lau sậy, thấy rải rác có những cây giá trụi cành. Đi đến cây giá cuối cùng, anh Mười rẽ sang tay phải mấy bước. Anh tắc lưỡi giả như có tiếng tắc kè kêu. Kế đó bóng lau động đậy. Một cái đầu nhô lên. Cái đầu người ấy là Dũng khẽ cất tiếng:
- Mười đó hả?
- ờ Mười đây.
Anh Mười kéo tôi chui tọt vào bụi. Tôi hỏi nhỏ:
- Anh Dũng đó à?
- Ai, chị Hậu hả? - Giọng Dũng như kêu lên.
- Phải, tôi đây.
- Có chuyện gì vậy chị?
- Có công việc cần bàn với anh. Thư trên Huyện gởi cho anh đây.
Tôi móc túi lấy bức thư trao cho Dũng. Anh cầm lấy. Bàn tay tôi chợt chạm phải bàn tay ướt át, lành lạnh của Dũng. Tôi ngồi bên. Dũng lấy đèn pin trong túi ra, chắn che trước mặt đèn rồi bấm đèn, coi thư. Trong lúc Dũng chăm chú xem thư, tôi nhìn thấy khắp người anh đều ướt cả. Chiếc nốp của anh ngủ cũng ướt sũng. Một tấm vải nhựa che giữa kẽ lau bị gió thổi rung phần phật. Mưa đổ xuống ngày một to. Dũng đọc thư xong, với tay kéo lại tấm vải nhựa che cho tôi và anh Mười. Nhưng tấm vải không đủ sức ngăn được cơn mưa to nặng hạt. Chúng tôi đều ướt hết. Song lúc đó tôi không thấy lạnh lẽo, mà thấy hai mí mắt cứ nóng lên. Gần suốt một tuần lễ rồi, Dũng và nhiều đồng chí khác của tôi phải chịu qua suốt những đêm mưa như thế.
Dũng bảo tôi:
- Được rồi. Chị Hậu về báo cáo với Huyện ủy rằng tình hình gần đây có khó khăn. Địch hình như đánh hơi được tụi tôi rồi. Nhưng điều đó không quan trọng. Khi chúng nó bắt đầu sục cơ sở thì chúng tôi và bà con đã lên tiếng với nó. Bà con hầu hết đã xé bỏ thẻ cu ly. Hai tổ du kích đầu tiên đã thành lập hồi đêm... Còn vấn đề đón vũ khí, thuốc đạp lôi, chị nhớ nói với các đồng chí cứ cho đưa vào, đúng mồng chín tới.
- Đi công khai hay bí mật.
- Nên đi bí mật. Chỉ cần đưa số thuốc đó tới đầu Hiệp Lộ. Tôi sẽ cho anh em ra đón. Đúng 12 giờ đêm mồng chín, chị Hậu nhớ rõ nghe!
- Nhớ rồi!
Dũng quay sang anh Mười:
- Nhân tiện tôi phân công luôn. Đồng chí Mười ngày kia chuẩn bị bố trí hai anh em đi.
- Tôi đi nữa chứ?
- Đồng chí sẽ đi với anh em.
ánh chớp nhoáng lên, sáng xanh. Gương mặt Dũng đẫm nước, vẻ trầm tĩnh và vui. Vừa nói anh vừa luôn tay vuốt nước mưa chảy ròng ròng trên mặt. Anh hỏi tôi:
- Còn gì cần bàn nữa không?
- Thế thôi!
- Vậy thì hai đồng chí về đi. Mưa to quá.
Anh nói và ngước nhìn mưa rơi. Có vẻ như tự nãy giờ anh không để ý đến mưa gió gì hết. Tôi với anh Mười đứng dậy. Dũng còn hỏi:
- Bé Thủy mạnh không chị?
- Cháu vẫn khỏe lắm anh à.
Tôi theo anh Mười rời khỏi bụi lau. Đi mấy bước, tôi lại thấy mí mắt nóng lên. Mưa vẫn tuôn xối xả. Từ phía Long Hưng, đèn bót rọi thành hình dẻ quạt. Qua màn mưa giăng, ánh đèn trở nên đục và sáng trắng.
... Rạng ngày tôi đến những cơ sở khác. Tình hình đều ổn. Nhiều cơ sở đã tỏa rộng ra được nhiều nơi khác. Có hai nơi bị chúng sục vào, nhưng không bắt được ai, vì tình cờ thôi chứ không phải là chúng đã biết.
Chiều hôm sau, tôi vững dạ trở về. Cùng đi có chú Tư Bường. Trên đường Hiệp Mỹ về bãi Sao, chú Tư Bường ái ngại nhìn tôi nói:
- Thím Tư đi chuyến này về nghỉ sanh là vừa?
- Tôi cũng định vậy.
Thời gian trôi qua thật là nhanh. Trong tám tháng kể từ khi nhà tôi về rồi đi, đã có bao nhiêu việc xảy đến làm thay đổi đời tôi. Tính cả chuyến đi này là vừa đúng sáu lần tôi chịu trách nhiệm đưa anh em cán bộ vào các cơ sở mà tôi xây dựng lên. ở Hiệp Mỹ cũng như ở Hiệp Lộ, nói chung những cơ sở của chúng tôi đều là tốt. Sáu chuyến qua chưa có chuyến nào bị vỡ lở, tuy cũng có nơi phải chuyển. Kết quả của công việc ấy khiến tôi càng tin nơi tôi, tin nơi bà con. Cái công việc mà trước kia chị Ba Dương bàn với tôi, tôi cảm thấy khó khăn hầu như không gánh vác nổi, giờ đã quen dần với tôi. Chính công việc ấy đã mang đến cho tôi niềm vui và nỗi sung sướng mới. Đến hôm nay, tôi sắp tạm nghỉ việc để làm nhiệm vụ sinh con.
Trên đường về bãi, nắng chiều vàng như mật. ở miền biển chúng tôi, giữa mùa mưa bất chợt có những ngày nắng rất đẹp, rất nồng nhiệt. Là là trên mặt biển, chim nhạn liệng từng đàn. Và những lớp sóng đẫm nắng vỗ rối rít. Ngoài khơi, hòn Con Nghê hiện lên rất rõ. Mỗi lần nhìn cái hòn cù lao nhỏ ấy, tôi không sao quên được kỷ niệm cũ, không sao tránh được mủi lòng. Cái đêm tôi tiễn nhà tôi, lúc xuồng chưa tới, chúng tôi ngồi bên nhau âu yếm, cùng ngắm hòn đảo đắm lặng trong sương đêm. Nhà tôi đã mất, nhưng hòn Con Nghê này vẫn còn đó. Dưới nền trời xôn xao ánh nắng, nó hiện ra với màu tím ngắt. Tôi không ngờ rằng cái đêm ấy lại là đêm vĩnh biệt. Thực sự thì nhà tôi đã mất, nhưng hình ảnh của nhà tôi vẫn ở lại với tôi. Và giòng máu sau cùng của anh ấy để lại trong tôi giờ đã hình thành. Ngày mai đứa bé sẽ ra đời...
Bụng tôi đã to nhiều hơn trước. Cái thai mấy ngày rày đã bắt đầu cựa quậy mạnh. Tôi thầm mơ ước có một đứa con trai. Tôi tin là đứa con tôi sẽ khỏe đẹp, cứng cát, nghĩ ngợi mong ước như vậy rồi, lòng tôi lại bùi ngùi đau xót. Sao nhà tôi mất đi sớm quá, không còn kịp ở lại trông thấy mặt con.
Đi quá đoạn đường sỏi, ra tới bãi cát chúng tôi đi chậm lại. Chúng tôi yên trí là đã qua khỏi chặng đường nguy hiểm. Không ngờ một tai họa đã tới sau lưng chúng tôi. Lúc chúng tôi ở Hiệp Lộ vượt qua đường thì bọn địch ở lô-cốt Cây Sao đã trông thấy. Bọn chúng đâm nghi và tức tốc phái bốn tên đuổi theo. Lúc chúng tôi nghe tiếng giầy đinh dẫm lạo sạo sau lưng, quay lại thấy chúng chỉ còn cách non trăm thước. Chú Tư Bường biến sắc bảo tôi:
- Thím Tư, tụi nó theo mình!
Tôi nói:
- Cứ bình tĩnh!
Từ đằng sau, bốn tên địch giơ súng quát:
- Con Hậu với thằng kia đứng lại.
Tôi lấy làm lo quá, không hiểu vì sao bọn nó lại gọi đúng tên tôi. Tôi bảo chú Tư:
- Chạy!
Rồi chúng tôi cùng chạy về xóm nhà đầu vạn lưới. Bọn địch liền nổ súng theo. Tôi vừa chạy vừa nói:
- Ráng chú Tư, một bước cũng chạy, hai bước cũng chạy!
Chúng tôi lên đến đầu xóm, liền vào một nhà nọ. Người chủ nhà biết chúng tôi. Không nói dài dòng anh chủ nhà liền dắt chúng tôi vào một cái hầm đứng, gần ngõ hậu. Chúng tôi đứng khom lưng trong hầm. Lát sau nghe bốn tên ngụy xộc vào hỏi anh chủ nhà:
- Có hai đứa vô đây phải không?
- Không có ai vô đây hết. à, có hai người chạy ngang qua đây thôi.
- Chạy đường nào?
- Ngõ kia kìa!
Anh chủ nhà chạy một hướng khác. Hình như sau đó một tên ngụy thúc nhẹ súng vào ngực anh:
- Nói láo. Rõ ràng tao thấy nó chạy vô đây!
- Dạ thưa ông có thiệt mà, không tin mấy ông cứ xét, nếu có tôi xin chịu tội liền!
- Chịu tội gì? - Tiếng tên ngụy hỏi gằn. Và nó nói tiếp:
- Nếu có tao tử hình mày nghe?
Tiếng anh chủ nhà đáp lại:
- Xét mà có mấy ông làm gì tôi cũng xin chịu.
Tên cầm đầu gọi bọn lính vào. Lục soát khắp nhà không thấy, nó dằn mặt anh chủ nhà:
- Chắc mày giấu nó ở dưới hầm.
- Dạ, thiệt là không có. - Tiếng nói anh chủ nhà vẫn không thay đổi. Tên ngụy bỗng cười lên khanh khách:
- Coi bản mặt của mầy tao đủ biết rồi. Đáng lẽ tao đem bắn mầy vì mầy không chịu khai ra. Nhưng chưa có cớ, tao chưa bắn mầy. Tánh tao làm việc gì cũng có bằng cớ, không làm oan ức ai... Thôi, vậy thì bây giờ mầy đi ra khỏi nhà, cho phép mầy dọn đồ đạc ra trong mười phút. Mau lên!
Tôi đứng trong hầm, nghe chúng nó nói rõ cả, nhưng không biết chúng nó định làm gì. Chỉ nghe sau đó trong nhà có tiếng dọn đồ, tiếng chì lưới kéo lết nghe lách cách. Chú Tư Bường và tôi đều không dám thở mạnh. Chốc sau tên ngụy quát hỏi:
- Dọn rồi chưa?
- Dạ, nhơn cho tôi một chút để tôi kéo bộ vạt ra đã.
Kế đó có tiếng "xạch xạch", rõ ràng là tiếng đánh bật lửa. Bấy giờ tôi đã đoán ra. Giọng anh chủ nhà kêu van:
- Mấy ông, thương cho tôi, tôi không có tội gì, xin mấy ông đừng đốt nhà tôi!
- Chính mắt tao trông thấy hai đứa vô đây mà mầy còn chối, giờ mầy chịu khai ra không? Khai ra thì tao không đốt.
ắng im một giây, anh chủ nhà lại kêu:
- Quả thật là không có, xin mấy ông...
Tôi đứng trong hầm, tim đập mạnh. Tôi không ngờ bọn địch lại khôn xảo đến như thế. Chúng nó định đốt nhà thiêu chết chúng tôi, hoặc bắt chúng tôi phải bò ra. Lúc đó tôi nghĩ: "Ra hàng thì tôi nhất định không ra, còn đứng chịu chết thì cũng không dại gì mà đứng chịu chết. Mà lẽ nào lại chết hôm nay..." Tôi nghĩ đến con Thủy tôi.
Bên ngoài, mồi lửa bén mái lá cháy rào rạo. Bỗng như có ai đứng tựa lưng vào vách hầm. Hai chúng tôi nín thở. Rất lâu, vẫn không thấy tiếng chân người đó rời tường đi. Gian nhà hình như đã cháy lan rộng. Lửa đốt kèo tre nổ lốp bốp. Sờ bàn tay vào vách hầm đã thấy nóng.
Có tiếng tên ngụy la lên:
- Thằng kia bộ muốn chết cháy sao còn đứng đó!
Tôi nghe thế đoán chừng người dựa tường hầm nãy giờ chắc là anh chủ nhà. Nước mắt tôi tự dưng ứa ra. Kế nghe tiếng cùi thúc cồm cộp vô vách hầm mấy cái, và tiếng chân người bước ra sau. Anh chủ nhà xổ chuồng vịt, thét vịt:
- Ra mau!
Vịt bị lùa khỏi chuồng kêu cạp cạp. Tôi hiểu ý anh chủ nhà nói lóng bảo chúng tôi chạy. Tôi bấm chú Tư. Đất hầm nóng ran như sắp bị nung tới. Mồ hôi trong người tôi vã ra như tắm. Khói theo lỗ thông hơi từ ngoài luồn vào. Tôi ngột ngạt khó chịu quá, suýt muốn nhảy mũi. Tôi bịt lấy mũi cố dằn. Đám cháy đã đến lúc dữ dội. Hầm đất nóng như lò nung gạch. Tôi lắc mạnh tay chú Tư, rồi xô cửa hầm chạy lao ra. Chúng tôi chạy trong lửa. Lửa nhuốm lên người, táp vào mặt. Nhưng lúc đó, tôi còn biết nóng là gì, chỉ biết là phải thoát ngay khỏi nơi này. Ra khỏi cửa sau, chúng tôi chạy miết lên hàng dương. Bọn giặc trông thấy, bỏ đám cháy rượt theo. Chúng nó nổ súng. Tôi và chú Tư Bường chạy lẫn qua những gốc dương to. Bọn giặc chạy một quãng đứng lại ngắm bắn. Súng nổ, đạn bay véo ở hai bên hông chúng tôi là thế, mà không có viên nào trúng chúng tôi cả.
Chạy gần tới miễu Voi thì trời đã choạng vạng tối. Tôi mệt quá, cổ họng khô khản không còn một tí nước bọt. Tôi vừa chạy vừa thấy cái thai trong bụng như là đang trụt xuống, bắp chân cứng và nặng khiến chân nhấc không muốn lên. May mà lúc tới đầu bãi Sao, trời tối sẫm, bọn giặc không đuổi nữa. Chú Tư dìu tôi đi. Tôi nói:
- Chú để tôi nghỉ một chốc, tôi mệt quá!
Rồi tôi ngồi xuống bãi cát, ôm bụng thở dốc. Mồ hôi khắp người tôi cứ tuôn ra. Mấy cơn gió lùa qua mới sợ chứ, y như là bắt mình phải rùng mình. Gắng gượng lắm tôi mới không lả đi. Ngồi một chốc thấy hơi khỏe lại, tôi đứng lên. Chú Tư dìu tôi đi chầm chậm về vạn lưới.
... Khi tôi chuyển bụng sanh, cha tôi lo lắm. - Chị Tư Hậu kể tiếp với tôi, vừa nói chị vừa cười. - Đêm hôm ấy cha tôi châm dầu vào đèn rồi chạy cho lối xóm hay. Mấy chị đàn bà sang. Họ ngồi nói chuyện với tôi một hồi rồi lăn ra ngủ, dặn tôi gần đẻ thì gọi họ dậy. Tôi tức cười quá. Họ sang thực ra chỉ để có bạn và giúp việc vặt thôi, chớ có người nào biết đỡ đẻ đâu. Anh coi, như tôi, cứ đi đỡ đẻ cho mọi người từ ngày này sang tháng khác, vậy mà tới lúc bản thân mình đẻ thì không có ai đỡ cho. Cái chuyện đó không có gì lạ đâu. Cho nên tôi định nếu chị Ba Dương không đến kịp thì tôi tự sanh lấy. Chị Ba Dương không rành đỡ lắm nhưng có biết qua. Tôi sửa soạn những vật liệu cần thiết để sẵn bên giường. May sao một lúc thì chị Ba Dương đến. Chị Ba đến khiến tôi rất vui và vững tâm.
Chị ngồi xuống bên tôi nói:
- Tối nay chị có hai cái mừng.
- Chị Ba nói cho em nghe với!
Chị Ba Dương sẽ vuốt tóc cho tôi:
- Cái mừng thứ nhất là em sanh. Em sanh nghĩa là có thêm một người đàn ông ra đời. Chị tin chắc chắn con em nó sẽ là con trai.
Tôi nắm tay chị Ba cười nói:
- Sao chị biết được. Có thể em sanh con gái chớ. Con trai hay con gái em cũng đều nuôi hết. Chỉ lo là...
- Lo sao?
- Sau cái bữa chạy đó em thấy đau nhói bên hông. Chẳng biết cái thai nó có hề gì không?
- Giờ chỗ ấy còn đau không?
- Giờ thì đỡ rồi, chỉ đau mấy bữa đó.
Chị Ba Dương vẫn vuốt tóc tôi.
- Không sao, em đừng lo. Em cứ đinh ninh là em sẽ sanh một đứa nhỏ tốt đẹp. Em sanh đủ tháng, điều ấy có thể làm cho em tin được.
Tôi im lặng. Chị Ba hỏi:
- Con Thủy ngủ rồi à?
- Ba em dỗ nó ngủ sớm rồi.
Tôi ngước hỏi:
- Nãy giờ chị mới nói có một cái mừng. Còn cái mừng thứ hai?
Chị Ba Dương chưa trả lời ngay, lấy trong túi áo ra một cái đồng hồ quả quít. Xem giờ xong, chị siết chặt tay tôi khẽ bảo:
- Tối nay đúng mười giờ có một cuộc võ trang tuyên truyền của ta ở dọc hệ thống lô cốt Hiệp Mỹ, Hiệp Lộ.
- Thật à?
- Chị mới hay hồi sáng. Ban Chấp hành tỉnh ủy lại gởi giấy khen phụ nữ huyện mình.
Tôi hỏi:
- Khen về việc gì?
Chị Ba Dương ngừng một chập, đoạn nhìn thẳng vào tôi, trang trọng nói:
- Đáng lẽ thì khen riêng em.
- Chị nói chơi, em có gì mà khen.
- Chị nói thiệt. Tỉnh uy khen thế nào em biết không? Nội dung là đề cao Ban chấp hành phụ nữ huyện ta đã lãnh đạo các xã xung yếu tích cực hoạt động xã hội kết hợp với công tác trung tâm gây cơ sở ngụy địch vận. Và đề nghị Ban Chấp hành khen cá nhân chị em nào đã tỏ ra xuất sắc nhất.
Tôi lặng thinh không nói gì. Chị Ba đang nắm tay tôi bỗng buông ra:
- ở mấy xã khác như Hiệp Vĩnh, Hiệp Trường có nhiều chị em xuất sắc, Ban Chấp hành đã quyết định khen rồi. Còn lại Hiệp Mỹ, Hiệp Lộ...
- Nói đến đấy, chị Ba Dương lại cầm cả hai tay tôi:
- Em, khen em, em biết không? Không phải chị khen riêng em mà là cả Ban Chấp hành... Em xứng đáng Hậu à. Chị đã tin em và em đã đáp được lòng tin của chị. Những nơi em đưa các đồng chí về thật là tốt. Cán bộ nào cũng phản ảnh như thế. Từ những cơ sở đó, các đồng chí ấy đã mở rộng ra rất nhanh... Nay mai người ta gởi giấy khen tới cho em. Riêng chị, chị cám ơn em...
Tôi nói:
- Sao lại không khen chị, chính chị mới đáng cho em phải cám ơn.
Chị Ba Dương lắc đầu:
- Tiếc là chị còn nhiều thiếu sót.
- Thiếu sót gì?
- Ví dụ như chuyến rồi, đáng lẽ lúc anh Tư Bường đi về chung với em, chị biết chị phải ngăn lại. Anh Bường đi thư từ không dính dấp gì đến chuyện của em. Chị muốn để anh ấy đi có gì thì giúp em. Quên phứt là tụi địch nó biết mặt anh ta. Cho nên nó mới rượt theo, may mà em với ảnh thoát được. Nhưng như thế là em bị lộ rồi.
Tôi nói:
- Không phải vì chú Tư mà em bị lộ đâu chị Ba à? Hình như tụi nó biết em từ trước rồi. Chính hôm đó nó kêu: "Con Hậu đứng lại!"
- Chị biết. Đúng như em nói. Nó để ý em từ chuyến thứ ba.
- Bót nào?
- Không phải bót nào hết, cái quán Cầu Sắt.
- Quán mụ Tư Bửu à?
Chị Ba Dương gật đầu:
- Đồng chí Trương, Dũng vừa nắm được một anh chuyên chở rượu trong quán nó. Anh nầy cho biết thế. Chưa kịp cho em hay.
Tôi bực tức xoắn hai bàn tay vào nhau:
- Em biết lắm, con mụ đó ghê lắm!
- Tiếc quá... Em mà không lộ, còn lợi biết bao nhiêu.
Tôi vội nói:
- Không đi công khai được thì em đi bí mật.
- Hoạt động công khai được vẫn là tốt hơn.
- Chuyến đưa thuốc nổ vào trót lọt không chị?
- ổn rồi!
Tôi nói chuyện với chị Ba đến đấy thì bụng đau oặn. Chị Ba vội vàng đỡ tôi xuống và bảo:
- Thôi, Hậu đi nằm. Đừng nói chuyện nữa.
Chị Ba lấy một chai dầu "Nhị thiên" còn mới, bóc vỏ đưa cho tôi xoa. Rồi chị đi xuống bếp nấu nước. Cha tôi lính quýnh chạy ra chạy vào. Tôi nằm yên. Cơn đau nhấm nhẩm trong bụng tôi. Tôi đã qua một lần sinh, tôi hiểu được. Với lại ở cương vị của tôi, một người hộ sinh, tôi càng biết rõ cái đau đớn mà người đàn bà phải vượt qua lúc này. Tôi đã từng lặn lội đi đỡ đẻ cho mọi người, thế mà chính lúc mình sắp đe thì không có một bàn tay mụ thực thụ hỗ trợ. Nghĩ tới nhà tôi, tôi muốn ứa nước mắt. Đời tôi hai lần sinh nở, hai lần đều vắng mặt chồng. Nhưng dẫu sao lần sinh con Thủy, vẫn có hy vọng là nhà tôi sẽ về với mẹ con tôi. Lần này, không hy vọng gì như thế nữa. Tôi nói với anh, cái tủi thân của người đàn bà bình thường lúc vượt cạn cô đơn đã là thấm thía, huống chi là hoàn cảnh của tôi lại đi quá mức bình thường ấy. Nếu không có chị Ba, không có cha tôi ở bên cạnh thì có lẽ tôi đã khóc, khóc vì tủi thân mình và tủi thân cho chồng, khóc thương đứa con tôi sắp ra đời đã mất cha từ tám tháng trước.
- Gắng lên, chịu khó một chút thôi em à.
Chị Ba dịu dàng nói. Tôi ngước mắt nhìn chị. Đau lắm, nhưng tôi cố gượng cười. Chị Ba Dương nhìn tôi với đôi mắt lo lắng, đầy vẻ trìu mến:
- Có chị đây, có chị bên em đây!
Bỗng tôi thấy ruột mình cơ hồ như bị tuốt xé. Cơn đau cuối cùng dồn lên tận ngực. Tôi thấy bụng nhẹ hẫng đi, rồi cả người bị dãn ra. Mắt tôi hoa lên không còn biết gì nữa, chỉ nghe một tiếng nói: "Con trai rồi!" Nghe xa lạ như tiếng trong giấc mơ.
Tôi sinh con trai. Những ngày tôi chưa dậy đi được, bé Thủy cứ vào ngồi vuốt ve tay tôi. Nó không dám nhìn em, vì em nó còn đỏ hỏn. Bé Thủy có khi ngồi suốt buổi bên tôi. Nó thương tôi lắm, và coi tôi như đang ốm vậy. Một buổi trưa nó vào ngồi như thế và hỏi:
- Má ơi! Má có đau không má!
Tôi ôm con nói:
- Không, má có đau đâu, bây giờ má nghỉ. Vài bữa nữa khỏe rồi má dắt con ra biển chơi, lấy cho bé Thủy vỏ hến, con tàu buồm.
Con bé hỏi:
- Chừng nào đi hả má?
- Ba bốn bữa nữa, nhưng Thủy hỏi nội, coi nội có cho Thủy đi không đã.
Con tôi nó buông tay tôi ra, tụt xuống chạy đi tìm ông nội để hỏi. Tôi ngồi dậy định cho con bú. Vừa lúc đó cha tôi hấp tấp chạy vào:
- Tư à, có tụi bót Đầu Cầu vô. Chú Chín nói hình như nó đang tìm nhà mình.
Tôi nói:
- Có lẽ là nó đi đâu đó thôi.
- Ba nghi lắm.
Rồi cha tôi trở ra ngoài. Một hồi sau người trở lại bảo tôi:
- Con xuống hầm liền đi. Bồng thằng nhỏ theo nữa. Để thằng nhỏ trên này nó gặp ắt biết con có nhà.
Tôi nghe vậy, vội vàng lấy chăn túm con, theo cha tôi xuống hầm. Cha tôi giở gấp nắp hầm, dìu tôi xuống:
- Con cứ ở dưới, ba với con Thủy ở trên này. Bọn nó tới rồi! Xuống liền đi.
Tôi bế con chui xuống hầm. Bên dưới, hầm lờ mờ tối. Đất cát đào sâu thấm nước âm ẩm. Ngồi thì ướt, thành ra tôi cứ bế con đứng. Đứa con tôi mới sinh sáu hôm, chỉ có biết khóc và bú, giờ lại phải xuống hầm rồi. Có sinh con vào buổi đó, mới biết phụ nữ trong chiến tranh là khổ, mới thấy trẻ nhỏ trong chiến tranh thật là đáng tội nghiệp. Con tôi mới ra đời có mấy ngày, chưa quen thuộc với mọi vật chung quanh, đem nó vào hầm tối om như thế nó cũng không biết gì để lo sợ. Càng thấy sự hoàn toàn không biết của con như thế, tôi càng thêm thương nó.
Hầm kín mít, trừ mấy lỗ thông hơi xuyên chéo ở hông hầm, không còn có một ngõ nào khác. Đứng dưới, tôi nghe rất rõ từng tiếng động trên mặt đất. Tôi áp tai vào vách lắng nghe. Có tiếng giày đinh xéo đi trên cát. Tôi đoán là chúng nó đã tới. Lát sau, tiếng giày thình thịch bước vào nhà. Bọn chúng hỏi cha tôi:
- Con dâu ông đâu rồi?
Cha tôi đáp:
- Con tôi nó đi vắng.
- Đi đâu?
- Dạ nó đi Hiệp Hưng.
- Nói láo, tụi tao ở Hiệp Hưng mới về đây!
Chúng nó dọa cha tôi. Nhưng cha tôi bảo:
- Thiệt, nó lên Hiệp Hưng hồi sáng, chắc mấy ông không thấy.
- Con nhỏ này là con nhỏ của ai?
- Dạ, cháu tôi.
- Con của con mụ Hậu phải không?
- Dạ.
Kế đó tôi không nghe rõ gì nữa. Hình như chúng nó đi ra gian nhà ngoài, sục sạo. Và hồi sau tiếng giày chúng bước ra khỏi nhà. Tôi nghĩ bụng có lẽ tìm không thấy nên chúng bỏ đi. Nhưng đợi rất lâu, không thấy cha tôi đến gọi tôi lên. Tôi hết sức chú ý lắng nghe, cũng không thấy tiếng nói của cha tôi hay tiếng con Thủy tôi. Tôi đứng ôm con như thế, lưng mỏi nhừ. Cha tôi và con Thủy đi đâu? Hay không tìm thấy tôi, chúng nó đã bắt cả hai dẫn đi rồi. Tôi lo quá. Nhưng chập sau, lại có tiếng chân đi vào nhà. Tôi mừng rỡ. Bỗng nhiên một tiếng nổ "ầm" làm rung chuyển mặt đất. Tôi đang đứng, bị ngã dúi vào vách hầm. Con tôi khóc oe oe. Tôi hốt hoảng ghì sát con vào lòng. Một tiếng nổ nữa tiếp theo như bưng cả người tôi lên. Tôi tối tăm cả mày mặt. Con tôi lại khóc. Làm sao trách nó được. Hai quả lựu đạn nổ ra đã làm cát sụp đổ, từ trên nóc hầm tuôn xuống rào rào. Tôi kéo khăn che mặt cho con, cho cát không lọt vào mắt nó. Người mẹ con tôi dính đầy cát. Hai bàn chân tôi dầm dưới nước tự nãy giờ đã tái lạnh.
Thời khắc chậm chạp, nặng nề trôi qua trong gian hầm nhỏ hẹp. Sau hai tiếng nổ, tôi chẳng còn nghe thấy gì nữa. Lâu sau, đâu từ ngoài bãi vọng tới tiếng thét văng vẳng, rồi tiếng rên rỉ, rõ là tiếng của cha tôi, sau cùng thì im đi.
Trời lúc ấy đã về chiều. ánh nắng từ lỗ thông hơi không còn rọi vào hầm nữa. Có một tiếng đồng hồ qua, liệu chừng bọn chúng nó đã bỏ đi, tôi một tay bế con nhỏ một tay nhấc cửa hầm. Cánh tay tôi suốt buổi bế con trĩu mỏi, nhấc cửa hầm muốn không nổi. Gắng sức lắm tôi mới đẩy được cửa ra. Lên đến nhà, một cảnh tượng phá phách sụp đổ bày ra trước mắt tôi. Giường chiếu lưới cá bị xốc tung lên. Những vạt lưới bị mảnh lựu đạn cào như nát, có vạt lưới bị xén như cầm dao rạch. Đất nền nhà cũng bị cào lên như chó bươi. Còn những lu mái chứa nước, nó đập vỡ tan cả anh ạ. ở chỗ tôi, chúng nó mà đập lu thật còn ác độc hơn là đốt nhà. ánh sáng nhợt nhạt của ngày choạng vạng soi rọi yếu ớt. Tìm khắp nhà không thấy hai ông cháu đâu cả, tôi vội bế con chạy ra ngoài.
Và tôi đã tìm thấy cha tôi ở ngoài bãi cát. Cha tôi nằm sấp, mặt úp xuống cát. Con Thủy tôi bơi bơi tay vào người ông nó. Nó gào. Cái tiếng gào của nó giờ đã khản giọng. Hai ông cháu ở bên nhau, nằm ắng lặng, dưới bóng đêm bắt đầu phủ xuống. Tôi chạy tới, cúi xuống vực cha tôi lên. Nghe thấy người rên nho nhỏ. Tôi sờ khắp người cha tôi, rồi đưa bàn tay lên tận mắt.
Tôi không tìm thấy một vết máu. Lúc đó cha tôi hỏi:
- Ai đó? Con Tư phải không?
Người ngước mắt lên. Tôi chỉ kịp thét một tiếng, rồi ôm chầm lấy cha tôi mà khóc. Cha tôi không còn nhận ra tôi nữa. Lúc đó đêm chưa tối hẳn. Tôi nhìn đôi mắt của người, thấy máu ở trong khóe mắt chảy tuôn ra xuống má, xuống cằm. Lớp máu trước khô lại, dán một lớp đỏ xạm trên má, và máu bện chòm râu của người dính chặt lại. Tôi kêu giật giọng:
- Ba, ba làm sao vậy ba?
- Không... ba... không có sao hết.
Cha tôi phều phào đáp bằng cử chỉ khẩn thiết, người quơ tay kéo tôi sát bên, nói gấp:
- Con Tư, lại đây coi.
Tôi kề sát mặt lại run run:
- Con đây nè ba, con ở trước mặt ba đây.
Cha tôi sờ soạng, ngước mắt lên. Cuối cùng người thất vọng, đưa cả hai bàn tay ôm chầm lấy mặt mình và kêu rú:
- Trời ơi, nó giết tôi rồi!
- Ba, ba có trông thấy con không?
- Có... có, ba thấy. Con có sao không, thằng nhỏ đâu rồi?
Tôi lập cập đáp:
- Dạ, con bồng đây.
Cha tôi giơ tay rờ rẫm đứa con trên tay tôi. Lúc ấy tôi như chết điếng cả người. Định rút khăn lau máu đẫm trên mặt cha, nhưng cả hai bàn tay tôi đều bận. Một tay ôm đứa con nhỏ, một tay thì con Ngọc Thủy nó cứ bíu lấy. Cả hai đứa lại cùng khóc thét một lúc.
- Thôi, để mặc ba, lo dỗ mấy đứa nhỏ đi, rồi bồng nó vô nhà đi.
Đoạn cha tôi đưa tay quờ quạng trên không:
- Sương xuống rồi, sương xuống nhiều quá!
- Ba để con dắt ba đi.
Rồi tôi dậy bảo con Thủy:
- Con vô nhà trước đi, Thủy.
- Không Thủy không đi một mình đâu, Thủy sợ...
Bé Thủy ấm ứ muốn khóc, không chịu buông tay tôi ra. Tôi mắng:
- Thủy hư lắm nghe, có đi không, má còn phải dắt nội.
- Má... má...
- Con Tư cứ dắt nó đi đi. Ba không hề gì, tức khắc ba đi được liền. Dứt lời, cha tôi nhổm dậy. Hai tay người bợ ngực đi tới. Nhưng không đầy năm bước cha tôi ngã vật xuống cát. Tôi liền vung tay con Thủy ra. Con bé sợ cứ bíu lấy tôi. Bực quá tôi tát vào má nó một cái. Sau đó tôi ôm con nhỏ chạy vào nhà. Đặt con nằm sát trong giường xong, tôi vội trở ra bãi dìu cha tôi đi. Tôi để người nằm trên cái bộ vạt tương đối còn vững. Chạy soạn bông băng. Sau khi thắp đèn lên xem kỹ lại, tôi thấy bên hông cha tôi bị một dấu dao đâm xốc vào. Vết thương sâu hút, rạch phạm vào mạng mỡ. Tôi nấu nước sôi rửa vết thương, dặn cha tôi nằm yên, rồi chạy ra bãi tìm con Thủy. Con bé nó đã mò vào đứng ở hè nhà, thút thít khóc, không dám vào trong. Thực là từ trước tới giờ tôi chưa hề đánh con. Hôm ấy là lần đầu tiên tôi đánh con Thủy. Nghĩ đến cái tát vào má đứa con nhỏ đang sợ hãi ban nãy, tôi thấy mình vô lý và đâm hối hận. Tôi mới đến nắm tay con Thủy dắt vô:
- Con sợ gì, má dắt nội đi mà con không cho, nội đau, con không thương nội à. Bữa nay con Thủy của má hư lắm nghe. Thôi, nín đi!
Con bé Thủy rón rén đi vào. Tôi dắt nó vào giường trong bảo:
- Ngồi coi em cho má!
Tôi trở ra pha nước nóng với thuốc đỏ, lau rửa vết thương cho cha tôi. Lau qua lớp máu trên mặt cha tôi xong, khi rửa đến khóe mắt, tôi đau đớn lặng người. Đôi mắt cha tôi không còn là một đôi mắt sống nữa. Lòng con ngươi của mắt đã tím bầm, và máu nó cứ rỉ rỉ ứa ra.
Qua một ngày. Cho đến đêm hôm sau, mỗi lần cha tôi gọi tôi đòi uống nước, giọng nói của người đã yếu lắm. Mỗi lần như thế, tôi chỉ rót lưng một thìa nước. Về sau cơn khát của cha tôi cứ tăng dần lên. Một chút nước trong thìa lúc đó đối với cha tôi nào có thấm gì. Người lâm vào một cơn khát ghê gớm. ở biển lắm lúc thiếu nước ngọt, những khi ra khơi, giữa biển rộng cha tôi đã nhiều phen bị cơn khát giày vò. Nhưng cái khát hôm nay dữ dội hơn nhiều. Cơ thể già nua của cha tôi bị thương tích làm cho oằn oại, hai ngay qua chịu đau đớn nhức nhối. Đến nay tôi còn nhớ rất rõ là lần ấy đã có lúc người trách tôi, bảo là cho người uống như cho con nhỏ tôi uống không bằng. Tôi không tiếc gì một miếng nước, nhưng đâu thể nào cho một người bị thương nặng như cha tôi uống nhiều nước. Càng ngày cha tôi càng rên rỉ. Tôi không chịu nổi, bèn rót một thìa nữa. Cha tôi nghe tiếng nước rỏ nhẹ vào thìa, đã giơ tay lên như đón lấy. Tôi sắp để thìa nước vào miệng cha, nhưng chú Chín Tốt và bà con ngồi chung quanh khoát tay cản lại. Cha tôi kêu lên:
- Trời ơi... tôi chết khát mất...
- Ráng một chút ba à.
Cha tôi lần ấy lặng yên, nghẹo đầu sang một bên, không thốt ra lời nào nữa. Chú Chín Tốt lắc đầu, bước đến, khe khẽ nắm bàn tay gầy guộc của cha tôi:
- Bác Bảy, chịu khó một chút bác Bảy...
- Ai đấy?
- Tôi, tôi là Chín Tốt đây!
- Chú Chín... chú Chín, chú giặt lưới rồi chớ. Bao giờ thì chú mua lưới mới...
Cha tôi nói sảng rồi. Đầu người vật nghiêng hẳn sang một bên. Tôi vội chạy tới quỳ gối nâng mặt cha tôi mà gọi. Từ đêm qua đến nay, cha tôi liên tiếp bị ngất đi như thế. Tôi cầm khăn ướt nhè nhẹ đắp lên trán người. Rất lâu sau, người mới hồi tỉnh. Tôi thì vẫn thụp hai gối chân dưới đất. Trước mắt tôi, cha tôi tuy là cha chồng, nhưng lòng tôi đau xót như đứng trước nỗi đau đớn của một người cha ruột. Thời gian qua, từ lúc tôi về đây, người đã coi tôi không khác như một đứa con gái ruột. Tin tôi, người không chút ngần ngại gì khi giao cho tôi coi sóc các khoản chi dụng trong nhà. Sự cư xử ấy từ lâu đã khiến tôi đầy lòng cảm kích và kính mến. Như tôi đã kể, là tôi trước kia vốn đã sống những ngày bơ vơ cô độc, thiếu tình cha mẹ, từ ngày về gặp một người cha chồng như thế, tôi tự coi đó là một may mắn lớn cho tôi. Giờ đây, vì tôi và các con tôi mà cha chồng tôi mù lòa. Bọn giặc chẳng những đã làm cho cha tôi không nhìn thấy mọi vật, mà còn làm cho bị trọng thương, hấp hối. Tôi đâm hoảng lên trong nỗi xót đau.
Trong tình thế đó, tôi mệt lả đi, anh biết đấy, tôi mới sinh chưa đủ một tuần. Người tôi hãy còn yếu, mà hai ba ngày đêm thức suốt. Bên cạnh thì hai đứa con bé bỏng nó cũng đòi mình phải chăm sóc nó. May là nhờ làng xóm vạn lưới tới lui giúp đỡ, nếu không mẹ con tôi không biết sẽ liệu như thế nào nữa.
Từ đó về sau, cha tôi có tỉnh lại một lần. Người gọi tôi đến bên, cầm lấy tay tôi, im lặng. Phút im lặng báo trước cho tôi những lời lẽ quan trọng mà người không thể không nói được. Tôi cảm thấy như thế. Lòng tôi chan hòa một cảm giác vừa xót xa vừa hồi hộp. Và tôi cứ để yên tay tôi trong bàn tay gầy guộc của người. Sóng biển về đêm vọng tới rõ quá, cứ rì rầm, rì rầm. Qua khung cửa, sương mù thì cứ phủ xuống trên bờ bãi, trắng mịt.
Bỗng cha tôi duỗi thẳng người, cố giương cặp mắt tối đục như tìm kiếm vật gì:
- Con bồng hai đứa nhỏ lại đây!
Tôi đem hai con đến. Cha tôi sờ chúng nó cẩn thận từ đầu đến chân. Hết sờ thằng Nhã lại sờ con Ngọc Thủy. Sờ cháu xong, khóe mắt cha tôi ngập đầy. Không biết bao nhiêu là nước mắt. Tôi nghẹn ngào không chịu nổi. Chín Tốt lúc đó mới bảo:
- Thím Tư rót cho bác Bảy một miếng nước đi!
Tôi nghe lời, vội rót cốc nước đem đến. Cha tôi uống một hơi. Uống nước xong, cha tôi có phần tỉnh hơn. Mà cái tỉnh táo đó càng khiến cho tôi lo sợ. Giọng nói của cha tôi bấy giờ rất sõi:
- Con ở lại ráng nuôi sấp nhỏ. Chồng con đã mất, còn ba... phần số của ba cũng chỉ đến chừng này. Con Tư, lâu nay ba coi con như con của ba... Ba biết, từ nay... rồi con sẽ cực khổ...
Cha tôi đang nói bỗng dừng lại. Chú Chín Tốt đi ra ngoài. Cha tôi quàng tay ôm hai cháu, rờ rẫm chúng nó hồi lâu, rồi nói tiếp:
- Con Tư, con hãy còn trẻ, không lẽ con cứ sống như vầy. Lâu nay ba định nói với con... giờ thì ba phải nói... đời con còn dài, con cứ tự ý liệu lo. Miễn cho sấp nhỏ của con sau này khỏi cực.
Tôi nghe cha tôi nói tới đó liền vùng khóc nức.
- Con Tư có nghe ba nói không?
- Con có nghe.
- Ba chết... thằng Khoa nó là con ba, là chồng của con. Con thương sấp nhỏ là thương nó.
Tiếng nói của cha tôi đến đây yếu dần. Bàn tay người đang cầm tay tôi tự nhiên ngay ra. Tôi thấy cha tôi vùng nghiêng người sang một bên rồi không động đậy gì nữa. Tôi ôm cha tôi lay gọi, song người không đáp lời tôi nữa. Lúc ấy là khoảng một giờ khuya. Tôi mất người cha thứ hai. Có thể nói như vậy. Không nhớ là lần thứ mấy trong đời, tôi trở lại cái cảm giác chới với như cây bị bật gốc. Tôi nhìn cánh tay của người cha độ lượng quàng lấy hai con tôi. Cánh tay từ từ trớt ngay ra dần. Tôi khóc lặng. Bà con xóm lưới chung quanh vội dìu tôi ra khỏi giường, sợ tôi khóc như thế nước mắt rơi xuống người cha tôi. ở biển, bà con rất kiêng điều ấy. Họ bảo không nên để người đã khuất còn vương mang theo nỗi đau thương của người ở lại...
Chị Tư Hậu kể cho tôi nghe tới đây thì ngừng nói. Trong mường tượng, tôi thấy thoáng hiện cảnh đau lòng. Kế lại hình dung thấy những ngôi nhà vạn lưới, những lượn sóng xô vào bờ bãi, và những ánh sương đêm trên mặt biển đang trầm tư, im lặng. Tôi đăm đăm nhìn chị Tư, bồi hồi nghĩ ngợi. Tôi miên man nghĩ đến những ngày qua của chị. Mãi sau, tôi khẽ hỏi:
- Chị Tư, sau lúc ông cụ mất rồi thì thế nào, chị nói nữa đi! - Chị Hậu đan hai bàn tay vào nhau ngước nhìn tôi. Vẫn với đôi mắt hiền dịu và lặng lẽ. Nhìn kỹ mới thấy nỗi đau đớn, thấy cái nghị lực chất chứa trong đôi mắt đó. Sau một lúc im lặng, chị kéo chiếc khăn rằn xanh quấn kín cổ rồi đứng dậy. Chị chậm rãi bảo tôi:
- Sau khi cha tôi chết thì tôi gởi mấy đứa con tôi và thoát ly hẳn... Mà thôi, tối quá rồi anh ạ. Để mai, mai tôi nói tiếp cho anh nghe. Kìa, cô hộ lý đã ra rồi kia kìa!
Tôi đứng dậy. Buổi chiều đã tắt từ lâu. Bóng đêm phủ xuống bệnh viện. Chị hộ lý dịu dàng vẫy gọi chúng tôi vào. Câu chuyện chiều nay của chị Tư Hậu tạm kể cho tôi nghe đến đấy...
... Đêm đó, là một đêm tháng tư mờ trời. tôi cõng con trai một tuổi, tay dắt con gái lên bốn, băng đồng. Gần một năm trời tôi mới thực hiện được ý định ấy, sau bao nhiêu sự cấu xé giằng co trong lòng. Xa các con là xa nguồn an ủi lớn nhất đối với tôi. Nhưng không có cách nào nữa - khi bản thân tôi đã thấu hiểu ý nghĩa về những lời nói của chị Ba Dương, thấu hiểu nguyên nhân những đau đớn mà đám phụ nữ chúng tôi phải chịu. Tôi cần có mặt trong trường hợp sinh đẻ của bất cứ người mẹ nào, nhất thiết phải nhóm lên trong những gian nhà tôi đã sinh đỡ, những tấm lòng bền chặt với kháng chiến, những ngọn lửa sau này có thể xua đuổi bóng thù địch từ các lô-cốt tỏa xuống xóm làng.
Vì tôi muốn như vậy, nên tôi đem gởi các con tôi. Mẹ con tôi ăn cơm từ sớm và chập choạng tối thì từ giã cái nhà bãi Sao. Lưng cõng con, tay dắt con, tôi đi băng qua những cánh đồng dâu Hiệp Hưng. Không còn bao xa nữa thì đến nhà thím nông dân đón nuôi con tôi. Xa xa phía đồng dâu mông quạnh đã thấy có ánh đèn le lói.
Cái nhà ở giữa đồng, vắng vẻ trơ vơ. Mặt ngoài là bãi biển. Hai bên và mé trong hậu toàn là ruộng dâu, rẫy bí. Những con chồn đen ban đêm mò đi ăn, chạy nghe sột soạt. Con Ngọc Thủy bíu lấy tay tôi. Tôi chỉ ánh đèn bảo nó:
- Thủy, tới nhà bác Ba rồi kìa!
Con bé lấy làm thích lắm. Nó đã tới đây vài bận với tôi, những lần đi thăm con thím ba Tuất ốm. Về sau đứa con thím Ba chết, thím buồn bã khóc lóc mấy ngày trời. Lần nào tôi dắt con Thủy vào, thím cưng nó như vàng, thím dắt nó ra rẫy hái bí, hái dưa, làm bánh nấu chè cho nó ăn. Thành thử nó cứ nhắc thím với tôi mãi. Khi đến nơi, chính nó vùng khỏi tay tôi chạy lại đập cửa mà kêu. Thím Ba vội xô cửa ra. Thím ôm con Thủy, hỏi:
- Con ăn cơm rồi chưa?
- Dạ con ăn cơm rồi.
- Đợi mãi, tưởng mẹ con bây không lên chớ.
Thím Ba vừa nói vừa quàng một cánh tay bế luôn cả thằng Nhã tôi, mỗi bên một đứa, cứ thế mà nói chuyện với chúng không ngớt. Con Ngọc Thủy thì hớn hở lên, lúc nào cũng lẩn quẩn bên thím. Về khuya, thằng Nhã đã ngủ, nhưng con Ngọc Thủy vẫn ngồi bên tôi và thím Ba. Do đó, tôi thật khó mà nói chuyện về chúng nó với thím Ba. Tôi bảo con Thủy:
- Đi ngủ con!
- Thủy không buồn ngủ.
- Đi ngủ rồi sáng bác Ba cho đi rẫy.
Khi cả hai đứa đều ngủ cả, tôi nói với thím Ba Tuất:
- Thím Ba à, giờ tôi phải đi đây.
- Đi đâu, ở ngủ rồi mai hẵng đi.
Tôi lắc đầu: - Đêm nay tôi phải đi Hiệp Lộ có công chuyện.
Tôi nói xong ngồi thừ ra đó. Sắp sửa tới giờ tạm biệt hai con, lòng tôi bùi ngùi vô hạn. Bắt đầu từ đêm nay tôi sẽ xa chúng nó, và những ngày tới đầy nguy hiểm, gian khổ, đang chờ đợi tôi. Trong những ngày ấy tôi sẽ không còn các con bên cạnh để âu yếm thương yêu chúng nó nữa. Gởi con cho thím Tuất, tôi yên lòng, nhưng vẫn có cái gì bắt tôi cứ áy náy, lo lắng. Tôi móc túi lấy món tiền trăm bạc xanh dành dụm được bấy lâu đưa cho thím Ba và nói:
- Nói thiệt với thím, nhà cửa của tôi bị tụi nó phá phách, gạo lúa cũng không còn...
Thấy cảnh tôi bồng bế con cái tới, thím Ba đã xót lòng, giờ thấy tôi đưa tiền nói thế, thím khóc. Tôi lại nói:
- Tôi còn có một trăm, thím cầm lấy. Nhờ thím trông nom các cháu thay tôi, còn tôi, tôi phải đi công tác.
Thím Ba chùi nước mắt, cầm tiền nhét trả lại túi tôi, nghiêm giọng nói:
- Cô Tư cất đem theo mà xài, tôi không có lấy đâu.
- Thím không nhận thì tôi không dám nhờ thím đâu.
- Tôi đủ sức nuôi các cháu. Cô coi tôi là người thế nào mà cô nói vậy. Tôi không nuôi mướn, tôi làm việc chung, việc của cô tôi làm không được thì tôi nuôi mấy cháu thay cô, đó là phận sự của tôi.
Tôi nghe thím Tuất nói, nghẹn ngào ôm chầm lấy thím. Hai thím cháu chúng tôi cùng thông cảm, ôm nhau với cả chân tình. Lát sau tôi buông thím ra, buộc lại khăn cổ, khoác bọc quần áo lên vai định đi. Nhưng lúc ấy chừng như có sức mạnh gì níu kéo tôi lại. Tôi đặt bọc áo quần xuống, nhè nhẹ bước trở vào buồng. Hai con tôi đang yên giấc. ánh đèn mờ chiếu vẻ mặt thơ ngây của hai đứa. Tôi đứng ngây ngất nhìn chúng nó rất lâu. Rồi nghĩ tới lúc sáng sớm mai dậy, các con nó không thấy mình, tôi xót cả lòng. Lần cuối cùng, tôi lặng lẽ cúi xuống hôn hai đứa, rồi mới trở ra.
Thím Ba Tuất cầm hộ bọc quần áo, đưa chân tôi qua một thửa ruộng dâu.
Ra đến nhà anh Mười, tôi đã gặp anh Dũng chờ tôi ở đấy. Thấy vắng mặt anh Trương, tôi hỏi:
- Anh Trương đâu rồi anh?
- Đi bố trí rồi. Còn tôi ở nhà đợi chị nãy giờ đây.
- Tôi phải đưa mấy cháu đi thành ra hơi trễ.
Dũng xem đồng hồ tay và nói:
- Không, mới mười rưỡi. Sao, hai cháu mạnh không chị?
- Nó vẫn mạnh. Con Ngọc Thủy biết coi chừng em rồi.
- Tôi nhớ nó quá. Nói hồi Tết về thăm nó mà về không được. Tôi cúi đầu không đáp, đưa bọc quần áo cho anh Mười cất dùm rồi cùng đi với anh Dũng. Chúng tôi đến nhà chị Tám vợ lính. Khi chúng tôi đến ấp ngoài đã gặp chị Mười đón ở đầu Cầu Sắt. Gặp nhau, chúng tôi trở về nhà chị. Chị Tám, tức là vợ Tám Tân, người lính đã gặp tôi một lần ở bãi Sao. Nhà chị Tám ở cách Cầu Sắt non trăm thước. Sau khi tôi căn dặn chị lần chót, chị liền ra đi. Còn chị Mười thì bế con chị Tám đi ngõ tắt về trước trong ấp trong.
Anh Dũng, anh Trương dắt tiểu đội du kích ra đầu cầu. Tôi cũng cùng theo. Trời tối đen như mực. Đứng ở đầu cầu nhìn vào quán Tư Bửu thấy rõ cả. Đèn măng-xông thắp sáng. Trong buồng bọn lính đánh "dì dách" rì rầm to nhỏ, ăn thua nhau quyết liệt. Tiếng cái vừa tiền, tiếng mụ Tư Bửu lấy xâu cũng nghe rõ. Bọn Tư Bửu từ lâu coi vùng Cầu Sắt này như vùng tự do của chúng. Một bên là bót Long Hưng, một bên là lô-cốt, chúng nó cứ tha hồ lui tới quán uống rượu, chơi gái, đánh bài. Mụ vợ Tư Bửu dung chứa hết, lấy tiền mối, ăn xâu. Đôi khi Tư Bửu tới, muốn ngủ với mụ, nhưng nhằm lúc mụ bận lo toan, mụ tìm cho Tư Bửu một con điếm hạng khá. Thế là hai đứa đều được việc.
Đêm nay, sòng bài rất đông tay con. Tư Bửu có mặt từ đầu hôm, đóng vai thủ cái. Mụ Tư vừa lấy xâu vừa làm hổ cho chồng.
Anh lính Tân, người lính có vợ được tôi sinh cho, đêm nay cũng có mặt trong sòng bài. Chính anh ta làm nội ứng đêm nay. Giác ngộ được anh Tám Tân, tôi đã mất một thời kỳ lui tới khá lâu. Vợ anh - chị Tám là người cương quyết nhất trong việc thúc giục chồng rời bót mà đi. Bấy lâu nay, sau khi gây được một số cơ sở nội ứng ở các bốt, chúng tôi gặp khó khăn - không rõ vì sao vừa rồi - Tư Bửu đều đổi số lính đó đi. Tôi bực quá. Song tôi gắng sức theo dõi điều tra nơi đến mới của số lính ấy. Vất vả lắm mới biết được chớ không phải dễ đâu. Sau khi biết chính xác rồi, tôi báo cáo về huyện. Huyện báo cáo lên Tỉnh. Tỉnh ủy liền mật thị cho những địa phương ấy bắt liên lạc với số lính tốt đó. Như vậy tác dụng của cơ sở nội ứng vẫn không mất mát đi đâu. Trừ phi các địa phương chưa phát triển phong trào. Nhưng mà, anh nghĩ lúc đó thì ở trong mình, vùng nào lại không làm ngụy địch vận kia chớ... Còn nói về số lính mới tới, tuy bắt đầu được ta vận động tuyên truyền, nhưng chưa thấm, kế đó Tư Bửu tuyên bố với chúng nó: "Việt Minh chỉ có cái miệng tài. Tôi mà còn ở đây, các anh đừng có lo. Các anh cứ ngồi trong lô-cốt, tới tháng tôi phát lương cho xài".
Thực ra, sở dĩ có đội võ trang tổ chức nội ứng hôm nay không phải vì lời nói của Tư Bửu. Nếu anh đã từng qua công tác đó, chắc anh cũng hiểu. Đội công tác võ trang không thể chỉ có bắc loa thét vào bót mà còn phải có sức mạnh gây hiệu lực cho tiếng loa ấy...
Chị Tư Hậu nói cách linh lợi. Tôi thấy gương mặt chị hơi khác trước, và đôi mắt sáng ánh dữ dội. Tôi đang nghe chị giảng một lý luận. Cái lý luận rút trong thực tế, do lòng căm thù sinh ra. Chính trong trường hợp ấy, làm tôi mới hiểu sâu sắc, căm thù là ngọn lửa nóng bốc dậy mãnh liệt hơn mọi ngọn lửa thường. Và cũng chính lúc ấy tôi mới thật rõ vì sao chị Tư Hậu dám đem hai con mình gởi đi, dám tạm rời nguồn an ủi yêu thương nhất của mình... Tôi nói với chị:
Chị hãy kể tiếp cho tôi nghe câu chuyện xảy ra đêm đó đi!
Chị Tư Hậu gật đầu và nói:
- Chị Tám rời chúng tôi đi sang quán gọi chồng. Tám Tân thấy vợ tới thì biết rồi. Anh nói với sòng bài:
- Con nhỏ tôi nóng đầu, tôi xin nghỉ chơi.
Mụ Tư Bửu tiếc mất tay chơi, nài nỉ:
- Thì có gì đâu, con nó nóng sơ sơ mà về gì... ở chơi hồi nữa đi. Anh Tám Tân nói về một chút rồi sẽ lại liền, đoạn bỏ sòng bài bước ra. Anh nháy mắt ra hiệu cho hai người lính cùng bọn, rồi lấy cây súng khoác lên vai đi. Bọn lính còn lại bảy đứa cộng với chồng Tư Bửu là chín, tiếp tục sát phạt nhau. Bên ngoài anh Dũng ra lệnh anh em du kích xông vào bao kín ngôi quán. Tám Tân dắt ba du kích trở lại chĩa súng vào sòng bài. Tư Bửu vùng chạy. Nhưng hắn đã bị một anh lính túm lại. Cả bọn trở tay không kịp, đều bị bắt sống. Tốp du kích lùa chúng qua đầu cầu. Tôi nhập vào cùng đi. Con mụ Tư Bửu đi một chập thì dừng lại không chịu đi. Du kích dí súng vào lưng mụ, mụ cũng không nhúc nhích. Nó khôn lắm, biết là bọn chúng tôi còn ở trong vùng cốt, không dám nổ súng. Anh em du kích lôi cái thân béo mập của mụ lên. Kéo được mụ ta qua khỏi ngõ rẽ, mụ lại nằm rị xuống, cất tiếng rống như heo, ai nấy đều lo. Chợt tôi thấy anh Dũng đi lui lại bàn nhỏ với đồng chí Trương. Sau đó Dũng bước tới chỗ mụ ta nằm, rút súng lục kề vào đầu mụ. Và tôi chỉ kịp nghe một tiếng chát. Rồi thân hình của con mụ chỉ điểm không động đậy nữa.
Lần đó tên Tư Bửu biến sắc khi gặp mặt tôi. Lúc du kích đem hắn về tới ấp trong, tôi định bụng đến trước mặt hắn kể tội hắn và xem hắn có nhận ra tôi không như câu hắn đã hỏi tôi ba năm trước. Nhưng đến khi tôi sắp vào nhà giam hắn, bỗng nhiên tôi lại do dự không muốn vào. Gian nhà không đến nỗi tồi lắm. Hắn vẫn có thể nhìn ra tôi. Khi thoạt trông thấy tôi, cặp mắt hắn vụt nhìn xuống. Còn tôi, bao nhiêu lời định kể tội hắn cũng vụt biến đi cả. Tôi nhìn thẳng vào mặt hắn một chập, thế rồi đi ra ngoài. Hai tay tôi ôm lấy mặt bước đi từng bước. Dũng nhìn thấy hỏi:
- Chị Hậu khóc à? Sao vậy?
- Không, tôi có khóc hồi nào đâu.
Sự thực thì tôi đã khóc. Tuyện không phải là vì tôi sợ hắn. Hắn đã không còn đáng sợ nữa. Song le tôi sợ cái bộ mặt của hắn. Cái bộ mặt khả ố khiến tôi không chịu nổi và bỗng chốc gợi lại chuyện đau đớn cũ. Tôi bảo anh Dũng:
- Anh Dũng à, như vậy là xong, chiều tôi về đồng dâu.
Anh Dũng nhìn tôi bảo:
- Có thể đợi tôi cùng đi với!
- Anh cũng về à!
- Tôi lên huyện, định tối ngủ lại ở bãi.
Tôi ngẫm nghĩ rồi bảo:
- Đợi anh có lâu không?
- Bố trí công việc sâm sẩm tối thì đi!
Tôi có vẻ ngần ngại: - Tối quá... tôi muốn về sớm gấp coi mấy cháu thế nào. Dũng bấy giờ cũng không nài ép. Anh bảo rằng nếu thế thì tôi cứ về trước. Nói xong anh quay đi. Tôi thì tôi vẫn còn đứng ở đấy. Tôi tần ngần hối hận ngay sau những câu tôi vừa nói. Cái gìn giữ ý tứ của tôi nó bộc lộ ra rõ quá, đến đỗi Dũng nhận thấy được. Và ăn cơm xong rồi tôi cũng chưa đi. Lát sau Dũng trở về. Thấy tôi vẫn còn đó, anh lộ vẻ ngạc nhiên:
- Chị Hậu chưa đi sao?
- Lỡ cỡ rồi, đợi anh cùng đi luôn thể!
Chúng tôi từ giã anh Mười. Chúng tôi ra khỏi Hiệp Lộ. Vầng trăng đã lấp ló treo trên đầu các ngọn sao. ánh trăng chiếu vô vòm lá, khiến lá sao lấp loáng như có thoa mỡ. Rặng sao hứng lấy ánh trăng, chỉ buông rơi xuống mặt đường sỏi vắng vẻ những đốm sáng lỗ chỗ. Lúa tháng mười ở bên đường thoảng ngát mùi thơm ngọt của sữa gạo mới đọng lại trong vỏ hạt. Chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau. Vẫn chưa ai nói chuyện với ai một câu nào. Kể ra cái chuyến đi trên xe ngựa từ năm trước có lẽ giữa tôi với anh ấy còn được tự nhiên hơn nhiều. Chưa quen biết mà lại dễ nói. Chừng hơi quen hơi thân rồi sao lại khó nói. Người cán bộ trẻ đã làm tôi hơi khó chịu khi mới gặp, lâu nay anh ta thật là người đáng sợ đối với tôi. Cái bóng dáng của anh cứ xen vào cuộc đời tôi, muốn tháo gỡ mà tháo gỡ không xong, đành cứ để nó xen vào. Đôi lúc cảm thấy được an ủi, cảm thấy bớt trống trải. Song lẽ một chốc chi đó tôi lại đâm lo ngại rồi.
- Chị Hậu à, gởi hai cháu đi, chị có nhớ chúng nó nhiều không?
Đang im lặng, chợt Dũng hỏi tôi, tôi thẫn thờ đáp:
- Tôi cắn rứt quá. Không biết có thể quen dần được không, chớ như thế này... chắc là chịu không nổi.
Dũng yên lặng nhìn vào mắt tôi. Lâu sau, anh hất mớ tóc ngược ra sau nói:
- Nói là xa mấy cháu, nhưng chị có xa gì cho lắm, vẫn có thể gặp luôn. Ví dụ như chốc nữa thì gặp rồi. Chỉ có như tôi, không biết chừng nào tôi mới gặp con gái nhỏ tôi. Có lẽ là ngày kháng chiến thắng lợi.
Tôi hỏi, mặc dù đã biết chuyện riêng của Dũng do anh Trương kể lại:
- Dạo trước anh Dũng có nói là cháu nhỏ ở với bác, còn chị mất. Tại sao vậy.
Dũng nghe hỏi, anh lặng thinh lùi lũi đi tới. Dáng điệu Dũng trông hơi ảo não. Tiếng chân anh dẫm sỏi rào rạo, nghe khô và lạnh. Hồi sau Dũng nói với tôi:
- Vợ tôi mất thật là đau đớn...
- Sao vậy anh? Chị đã mất lâu chưa? Bệnh gì?
- Không...
Kế đó Dũng thở ra một cái. Anh nói, giọng như lắng xuống:
- Kể cũng hơi dài dòng. Năm 49 tôi bị địch bắt ở địch hậu Vĩnh Châu. Dạo đó tôi cũng hoạt động như thế này. Gián điệp nó chỉ điểm thế nào mà bọn giặc nó sục đúng ngay hầm tôi. Trong hầm gồm có ba người, tôi và hai anh nữa. Chúng nó chất rơm đốt. Khói luồn vào hầm làm chúng tôi ngột không thể tả. Hầm bí mật ở Vĩnh Châu đều có ngách trổ ra đồng cả. Nhưng tại ngách đó cũng bị chúng nó chặn. Liệu ở lâu dưới hầm chắc là phải chết ngạt. Tôi mới quyết định lên cái ngách giữa đồng. Có chết thì cũng chết sao cho đáng. Tôi dọn đường bằng một loạt lựu đạn, rồi cầm súng lục nhảy lên. Anh em cứ thế lên theo. Chúng nó sáu thằng toàn Tây trắng bu lại. Tôi bắt chết ngay hai thằng. Nhưng chúng nó bắn lại chết ngay một anh. Tôi vừa kịp nhìn thấy thế, thì sau gáy đau nhói một cái. Mắt tôi đổ lửa, chân quỵ xuống...
Kể đến đó, Dũng ngừng nói, chắp hai tay ra sau lưng:
- Ngã xuống tôi ngất đi. Lúc sực tỉnh, thấy mình đã nằm trên xe "gíp". Tôi mới biết là mình chưa chết, nhưng hai tay thì bị sợi dây dù trói chặt... Tôi nghĩ phải chi lúc đó đạn chui tọt vô óc, thế mà yên... Đi tù, tôi cũng quen dần với cảnh tù tội, tra tấn. Nhưng mới vào tù là tôi đã nuôi cái ý chỉ muốn thoát ra. Cuối cùng thì thoát ra được thật. Thành thử ở tù chỉ có một năm. Một năm thôi mà thấy dài ghê quá, bị đánh đập nhiều phen, ăn uống còn thua thú vật. Vậy nhưng vẫn chịu nổi để mà trốn ra được. Trốn ra được rồi, tôi định bụng trước khi trở lại công tác, thế nào cũng phải về thăm vợ con một chuyến. Trước khi bị bắt, vì bận bịu công tác nên chưa về nhà lần nào... Vợ tôi, anh Trương biết, không đẹp nhưng coi được. Có duyên nhứt là cái răng hơi khểnh một chút, với lại tính tình hiền hậu quá. Còn con gái nhỏ tôi, sanh nó hồi tôi còn làm thợ ở Ba Son, dễ thương biết chừng nào.. nhưng việc đời xảy ra lại ngược với mong muốn của mình, tôi về tới An Thới, quê vợ tôi, thì vợ tôi đã chết trước đó một tháng. Một viên đạn đại bác chín mươi của đồn An Thới đã giết vợ tôi trong lúc vợ tôi chạy đi bế con bé xuống hầm. May mà mảnh đạn nó không trúng con tôi... Bà con đùm bọc nuôi con tôi một tháng trời, ở từ nhà này sang nhà khác...
Dũng nói tới đấy lại nín lặng. Chúng tôi đã đi vượt khỏi đoạn đường sỏi ra tới bãi cát. Dũng bước chậm chậm, lắng nghe tiếng sóng cuộn dồn một chốc rồi kể tiếp:
- Tôi ở lại hai đêm với con tôi. Sau đó tôi nhắn má tôi ở ngoài thành vào. Tôi gởi con cho má tôi và ra đi ngay. Lòng tôi nặng nề như có dằn đá. Thời hạn đi phép của tôi chưa hết nhưng không thể nấn ná lại một ngày nào nữa. Tốt hơn hết là đi. Ra đi, tôi nghĩ tội nghiệp cho con tôi với má tôi. Con nhỏ còn bé quá... Mà sau chuyến ấy tai con bé nó nghe không rõ nữa chị à. Chưa điếc, nhưng nó chỉ nghe tiếng được tiếng không. Thế mới khổ chứ. Còn má tôi... bà già quá, trước đã phải oằn lưng xuống lo nuôi các anh em tôi, giờ vẫn phải đi may vá mướn nuôi con tôi...
Nghe Dũng nói, trong đầu tôi cứ nghĩ: Trời, như vậy thì có phải riêng gì tôi đâu. Trên khắp các ngõ đường, chiến tranh cứ đào thành những hào hố thê thảm. Bao giờ thì những hào hố ấy được lấp bằng như cũ. Tôi nghĩ tới đứa con bé của anh Dũng. Đứa bé sớm mang tật nguyền và mất mẹ, vắng cha. Từ lâu, qua những chuỗi ngày dài, em chỉ sống với bà... Tôi đưa mắt nhìn Dũng, thấy vẻ mặt hơi ảo não một chút thôi. Dũng bấy giờ không nói thêm tiếng nào nữa. Anh lần lần trong túi áo tìm cái ống vố nhồi thuốc vào, rồi anh ngồi thụp xuống bật lửa đốt. Nhưng gió quá đốt mấy lần không cháy. Tôi tháo khăn cầm chắn gió cho anh, chừng ấy cối thuốc mới cháy. Dũng hít mấy hơi, cối thuốc đỏ rực lên, khói bay tản ra sau. Đêm càng khuya, trăng càng chiếu sáng xuống bãi. Sóng biển nghe ồ ạt, gần kề. Dưới ánh trăng, những đợt sóng ngoài xa nhảy cỡn lên, tóe màu xanh lam biếc. Sau khi hút mấy hơi thuốc rồi, Dũng khoan thai bước. Tôi yên lặng nhìn anh. Lòng tôi chợt tràn ngập một thứ cảm giác nửa như tội nghiệp nửa như khâm phục. Bất chợt tôi nghĩ đến một sự bù đắp nào đó. Nhưng vừa nghĩ tới đấy, tôi vội xua đi. Không, không lý nào... Tôi gạt qua mọi ý nghĩ và hấp tấp đi vượt lên. Ngoài khơi xa hòn Con Nghê đêm trăng trong hiện lên rõ quá. Dũng thấy tôi bỗng đi nhanh thì hơi ngạc nhiên nhìn tôi. Anh vẫn chậm rãi bước. Tôi đi gấp mấy cũng không lướt qua được cái bóng của Dũng đang in dài trên cát. Cho tới khi về tới nhà thím Ba Tuất, tôi mới bình tĩnh trở lại. Thím Ba Tuất sau khi sửa soạn chỗ ngủ cho Dũng, đã đi ngủ. Chỉ còn có tôi là thức. Tôi ngồi xuống giường, nơi hai con tôi đang yên giấc. Con Ngọc Thủy với em nó, hai đứa nằm cuộn trong chăn, ló đầu ra ngoài. Đôi mắt chúng nó nhắm cách êm ái, nhịp thở đều đều, tôi hấp tấp cúi hôn chùn chụt vào má hai đứa, rồi lòn tay qua, kéo cả hai sát vào lòng. Hai chị em nằm gọn trong cánh tay tôi, vẫn không hay biết. Chốc sau thấy con Thủy liếm môi chút chút. Tôi muốn bật cười. Tật con gái tôi khi ngủ hay thế... Mới có đi mấy bữa, nay trở về, tôi thấy như xa các con tôi hàng tháng. Nhất là tâm trạng tôi vừa qua một diễn biến mới, có quan hệ tới số phận mẹ con tôi. Tôi lăn xả vào ôm ấp các con, tin là hai chị em nó có thể giữ gìn cho tôi bảo vệ sự trong sáng cho tâm hồn tôi. Ngọn đèn treo trên vách hết dầu, phụt sáng rồi tắt. Gian buồng tuy thế cũng không tối, nhờ ánh trăng chiết lọt vào. Ngoài tấm phản trước, Dũng trở mình, ván phản bật kêu rin rít. Tôi lắng nghe biết Dũng hãy còn thức. Sực nghĩ tới câu chuyện trên đường về, lâu lắm tôi mới chợp mắt được.
ở bệnh viện, một tháng qua rồi. Cũng như bao bệnh nhân khác, tôi nhờ ăn uống, nghỉ ngơi và điều trị, nên sức khỏe dần dần hồi phục lại. Riêng tôi, khi những buổi chiều đến, là tôi lại mải mê theo dõi chuyện đời người chị đồng hương của tôi. Cái câu chuyện vừa là của một người chị, vừa là của một người mẹ trẻ, đã đến với tôi trong suốt những ngày đông tháng giá. Lâu nay trong cuộc sống yên ổn, dường như những chuyện như thế cứ qua dần, mờ dần. Rất đỗi có lúc hầu như quên đi. Cho đến khi bị gợi lại cảnh tình cũ, làng quê cũ, những người bình thường anh dũng cũ, tôi bàng hoàng như sực tỉnh.
Buổi trưa mùa đông không phân biệt được với buổi chiều. Mưa bụi không lúc nào ngớt. Bệnh viện với những bức tường vôi trắng, với những bộ quần áo trắng, chốc chốc đó đây thoảng thấy mùi thuốc tựa như mùi nhãn chín. Các y sĩ, y tá, nữ hộ lý thu người trong áo bờ-lu qua lại thoăn thoắt trên ngõ rải sỏi. Tôi ngồi trên giường nhìn qua cửa kính. Cơn mưa phùn như rây bụi. Làn mưa dệt mỏng như sương, làm cảnh vật quạnh quẽ và làm tôi bơ phờ nhớ lại bao chuyện cũ. Chợt lúc ấy, thấy có một tốp người từ ngoài cổng đi vào. Hai đồng chí cán bộ và ba bốn cô gái mặc áo cánh trắng. Có một cô xách cái làn đựng những gì đầy ăm ắp. Chị thường trực dắt họ đi ngang trước cửa phòng tôi, rồi rẽ qua phòng chị Tư Hậu. Tôi nhỏm dậy, áp sát mặt vào cửa kính. Chốc sau, tôi thấy chị Tư Hậu từ trong phòng bệnh chạy ra. Tốp các cô reo lên, và lại vây quanh chị. Họ lao xao hỏi:
- Thế nào? Có khỏe chưa? Chúng em đến thăm chị nếu khỏe rồi, chúng em đón chị về đây.
Chị Hậu nắm lấy tay họ. Vẻ vui mừng chan với cảm động làm mắt chị sáng lên:
- Vẫn còn nghỉ đợi mổ. Đi hồi nào mà bây giờ tới đây?
- Mới đi đấy chị ạ. May quá, chúng em hỏi tên chị là người ta trỏ đúng vào đây. Chúng em có đem cho chị ít cam và trứng để chị bồi dưỡng.
- Cảm ơn các chị quá!
Thế là cả bọn họ ngồi quây quần lên băng. Chị Tư Hậu ngồi giữa nói chuyện với họ.
- ở nhà đã hoàn thành quý hai chưa?
- Xong rồi chị ạ. Bận quá, chứ không thì đã đi thăm chị từ lâu.
- Có lẽ tôi còn ở đây mấy tháng nữa.
Mọi người đều hỏi:
- Sao thế?
- Ông bác sĩ bảo thế!
... Tôi lắng nhìn và nghe họ nói. Lâu nay tôi mới thấy nỗi vui của chị Tư Hậu lộ ra như thế. Mấy cô gái vừa ngồi nghe chị nói vừa nhè nhẹ vuốt cổ tay chị. Tôi đoán chắc là bà con ở nhà máy lên thăm chị. ở chơi rất lâu, các anh chị ấy mới ra về. Chị Tư Hậu đi với họ ra tới cổng.
Chiều đến, chị dúi vào tay tôi hai quả cam chín:
- Anh ăn cam đi! Của anh chị em xưởng tôi hồi trưa lên thăm họ đem cho. Xa họ lâu, gặp lại mừng quá.
Nói rồi móc túi lấy dao gọt cam. Tôi hỏi:
- Chị Tư à, bà con đó ở nhà máy lên đấy phải không?
- Phải rồi. Đồng chí thay mặt chi bộ và anh chị em công nhân.
Gọt cam xong, chị Tư Hậu trao cả cho tôi. Tôi đưa chị một quả:
- Chị Tư ăn đi chứ?
- Tôi ăn ban nãy rồi, anh cứ ăn, cam ngọt lắm!
Rồi chị cũng cầm lấy một góc mà ăn. Nhưng con ho của chị lại nổi lên từng chập. Thân hình mảnh dẻ của chị, nhất là đôi vai cứ bật rung theo tiếng ho. Lúc đó tôi cảm thấy như chính cổ tôi cũng rát đau, khô khan. Tôi nói:
- Chị Tư quấn kín khăn nơi cổ lại. Hôm nay trời rét lắm, người ta cho hay là tối sẽ xuống tới chín độ. Chị mệt, thôi nghỉ đi thôi!
- Không sao, tôi sắp hết ho rồi đây.
Tôi không tin, ái ngại nhìn chị. Nhưng chị đã bớt ho thật, có lẽ nhờ miếng cam thấm giọng. Tôi cầm miếng cam còn lại đưa nốt cho chị. Lần này chị cầm lấy không từ chối. Nhai cam xong, chị Tư liếm nhẹ môi, lặng lẽ đan mấy ngón tay vào nhau. Gió sẽ sẽ thoảng tới. Cành lá run rẩy se mình. Những chiếc lá dường như không chịu nổi giá rét, tự bứt mình rời khỏi cành cao, bay lả tả xuống đất. Dưới các hàng cây, con đường sỏi qua trận mưa bụi ban trưa, giờ trông sạch sẽ, khô ráo.
- Chiều hôm qua tôi đã nói cho anh nghe đến đâu rồi?
Chị Tư Hậu chợt hỏi tôi. Tôi đáp:
- Chị đang kể lúc chị trở về thăm mấy cháu ở đồng dâu...
Chị Hậu gật đầu, quấn lại chiếc khăn nơi cổ, đoạn tiếp tục kể:
- Cơ sở vững lên, mặc dù địch bao vây dữ dội. Cũng trong thời gian đó, tôi được kết nạp vào Đảng. Người đầu tiên giới thiệu tôi là đồng chí Trương. Khó mà nói lại cái tâm trạng tôi lúc đó quá. Vừa sung sướng mà vừa lo. Sung sướng lo lắng lẫn lộn với nhau. Buổi kết nạp tôi thật khá đặc biệt. Nhằm ngay giữa lúc giặc mở càn quét lớn vào vùng bãi và những xã kế cận. Chúng nó tập trung lính các lô-cốt, các bốt đánh vào từ mờ sáng. Nhờ có tin báo từ các xã vùng ngoài, nên chúng tôi hay trước cả. Du kích bãi Sao bắt đầu chận chúng tại Voi Miễu. Tôi cùng với một số anh em ở trên ghe lưới làm nhiệm vụ đưa đón anh em du kích. Mỗi lần kết thúc một trận lực đạn gài ở đầu bãi thì ghe cặp vào bờ đưa anh em đi bọc trong các lèn đá về cuối bãi tổ chức trận địa mới. Có hàng chục chiếc ghe lưới làm việc ấy. Địch bắn rát nhưng khó lòng trúng được. Các lèn đá dựng là cái địa hình che chở tốt nhất cho chúng tôi. Chiều đến giặc vẫn chưa rút. Choạng vạng tối, ghe chúng tôi tạm náu trong lèn đá. Vì kế hoạch đã định trước nên lễ kết nạp tôi vẫn tiến hành. Đồng chí bí thư chi bộ Hiệp Mỹ treo cờ trong mui ghe. Sau khi giới thiệu lý lịch và thành tích của tôi, chị Ba Dương đốt cây đèn lưới lên để tôi tuyên thệ. Lúc ấy trong bãi vẫn chí chát rộ lên tiếng súng, tiếng lựu đạn. Thỉnh thoảng nổi dậy tiếng hồ reo của du kích, tiếng nhốn nháo của địch. ánh lửa nhà cháy bập bùng soi sáng các ngọn sao, ngọn dừa. Ghe chúng tôi bị sóng ngang nhồi lắc như trứng vịt. Tôi đứng lên đọc lời thề. Nhìn lá cờ Đảng trong mui ghe bay phần phật trước gió biển, tôi thấy nóng cả mặt. Rồi là tôi khóc. Giọt nước mắt bây giờ của tôi khác xa những giọt nước mắt ngày trước. Mỗi một giọt nước mắt lúc đó nhỏ ra có thể xóa sạch bao giọt nước mắt đau tủi trước. Bấy giờ tôi nhìn các đồng chí của tôi ngồi từ mũi chí lái thấy người nào cũng thật là chí thiết. Quanh tôi, cặp mắt của đồng chí nào cũng nhìn tôi một cách yêu thương. Tôi nghĩ, cái gì đã đưa đường tôi đi đến tình yêu thương cao đẹp như vậy. Chẳng có cái gì mơ hồ cả. Đó là chị Ba Dương đang ngồi trên sạp ghe kia, là anh Trương, là những người đã từng thề dưới cờ Đảng trước tôi kia. Nó còn vốn là hình ảnh những ghe lưới cháy, những người chết... Vốn là cái đau đớn của người thân, của chính tôi...
Sóng biển vẫn vỗ ộp oạp vào mạn ghe. ánh lửa từ trên bãi soi rọi tới, chốc chốc làm rạng sáng các lèn đá. Chợt tiếng súng nổ trên bãi rời rạc dần. Và có ghe ra báo là địch sắp sửa rút đi. Chúng tôi đều biết trước và mừng rơn lên vì sự rút lui ấy của địch. Đồng chí Trương nói:
- Dũng ngoài Hiệp Mỹ nó lên tiếng rồi!
Quả nhiên, ai nấy đều nghe tiếng súng từ phía Hiệp Mỹ rộ lên. Đồng chí bí thư tuyên bố kết thúc cuộc họp. Các ghe lưới được lệnh tức tốc cập Voi Miễu. Tôi thổi tắt cây đèn trong mui ghe. Buồm được giương lên. Quai chèo nghiến cột ken két. Ghe chúng tôi lướt sóng đi như những con thoi. Đêm hôm ấy nhờ ngoài Hiệp Mỹ phối hợp, du kích bãi Sao mở một trận địa cuối cùng dài hai cây số từ bãi dài ra khỏi Voi Miễu giết thêm hai mươi tên. Đến sáng ghe chúng tôi cập bờ. Lên bãi cát, thấy máu cứ rây dài. Máu giặc thấm cát thẫm lại dưới nắng sáng trông như màu sét sắt. Quạ biển, chim chằng bè cứ lượn đi lượn lại trên những xác giặc bị nước thủy triều kéo ra biển.
... Cái đêm ấy đáng gọi là một đêm kỷ niệm sâu xa nhất trong đời tôi. Bây giờ mỗi khi họp chi bộ, ở cơ quan hay xí nghiệp chẳng hạn, trông thấy cờ Đảng thì y như là cái đêm đó lại hiện rõ rệt trong đầu. Tới chết khó mà quên được. Đó là một đêm tháng bảy năm 1952, tôi tự nguyện đi theo làm người đảng viên của Đảng.
... Từ đó về sau bận công tác tôi cứ đi luôn, thỉnh thoảng mới về nhà thím Ba. Nhiều lúc thấy tình cảnh con cái xa xôi vất vả, tôi cũng lo lắm. Nhưng công tác ngày càng phát triển, tôi không thể vắng mặt, đành cứ phải gởi chúng nó như thế, cố sao vừa công tác vừa tranh thủ chăm sóc cho con được từng nào hay từng ấy. Con Thủy tôi lên sáu, đã đến tuổi phải đi học, nhưng không có ai dạy, không biết làm sao! Đến giữa năm năm hai, có anh thương binh về Hiệp Hưng mở trường, tôi liền cho nó đi học. Trưa nào thím Ba Tuất cũng đưa nó đi, chiều phải đến rước, vì đường xa mà nó còn bé quá. Mọi việc đều nhờ một tay thím Ba bao bọc. Tôi thì đi đi về về. Đêm đêm trước khi vào vùng địch tôi tạt ngang thăm con, hôn chúng nó rồi mới yên tâm đi. Nhiều đêm tôi hôn chúng nó trong khi chúng nó ngủ say. Có đêm mưa to, tôi cũng ghé thăm các con tôi. Không thì không chịu nổi...
Chị Tư Hậu đang kể bỗng dừng lại. Tôi ước chừng là chị hồi tưởng và sắp xếp câu chuyện lại cho mạch lạc hơn. Nhưng tôi ngồi im đợi rất lâu, vẫn không thấy chị nói tiếp. Chợt thấy đôi mắt chị lấp láy. Trong đôi mắt đó tuồng như đang đọng sâu một chuyện gì chất chứa đau xót lẫn thương yêu. Lát sau, chị xoắn hai bàn tay vào nhau, chép miệng thở dài:
- Tội và thương cho thím ấy quá!
Tôi hỏi: - Chị nói gì, chị nói thím nào?
Giọng chị Tư Hậu bây giờ trở nên đau đớn hẳn:
- Thím Ba Tuất nuôi mấy con tôi đấy. Thím ấy chết. Thím cứu hai con tôi rồi chết. Bọn phản động biệt kích vào. Thím đang hái dâu, thấy dạng chúng, thím liền vào dắt hai con tôi chạy. Chúng rượt theo. Liệu chạy không kịp, thím giấu hai con tôi vào lùm cây rồi chạy thẳng ra ruộng trốn. Bọn nó rượt theo bắt được, tra tấn nhưng thím không khai. Đến chiều chúng giết thím trên đồng rạ. Tôi hay tin mò về. Đến nơi thì thấy thím đã bắt đầu đờ cứng. Trời nhá nhem tối, chúng tôi đưa thím đi chôn. Mãi tới nay tôi vẫn nhớ rõ đêm ấy, và có lẽ suốt đời, tôi không thể nào quên đi được. Trong đêm ấy, tại cánh đồng dâu Hiệp Hưng tôi đã đưa đám một người đàn bà nông dân bình thường, nhưng rất có lòng dạ. Một người lúc sống đã đùm bọc các con tôi, coi việc làm đó là phần đóng góp của mình vào cách mạng. Cho đến lúc chết vì các con tôi, cũng coi cái chết đó là hữu ích. Đấy, anh cứ nghĩ xem, theo anh có thể nào quên họ được không, hoặc giả nếu chưa quên nhưng nếu làm điều gì không xứng đáng với ý nghĩa cái chết của họ, có được không? Nhiều lúc tôi cứ nghĩ ngợi, tự hỏi tôi như thế đấy anh ạ. Nhất là về đêm, qua một ngày có chuyện gì mếch lòng, tiêu cực... Không phải tự dưng mình đặt điều để suy nghĩ... mà đó là những dĩ vãng anh dũng trong mười năm, có thực, ràng buộc lương tâm mình, bắt mình phải suy nghĩ...
Chị Tư Hậu nói dồn dập. Trong lúc nói có câu như bảo tôi phải trả lời. Tôi không đáp được. Là vì, khi đó một luồng máu nóng đang chạy khắp người tôi. Trong buổi chiều đông tại cái bệnh viện ở đất Bắc yên ổn này, nghe lại một chuyện hy sinh cũ của quê hương tôi rùng mình. Sau đó muốn bật kêu: "Chị Hậu ơi, có lẽ nào chị phỏng đoán nội cuộc tinh thần của tôi hiện nay rồi chị gợi lại cảnh ấy để răn tôi đó sao?" Chị nhắc lại, thật khiến tôi bàng hoàng. Bàng hoàng đến nỗi không muốn ngồi nghe chị nói nữa, để được nằm, được nghĩ ngợi.
... Thế là tôi phải tìm cách gởi các con tôi nơi khác, chị Tư Hậu lại kể. Việc ấy đồng chí bí thư phụ nữ huyện đã giúp tôi. Chị Ba Dương đó, anh vẫn nhớ chứ. Nhờ chị cắt đặt cho. Người đứng ra lãnh nuôi con tôi lần này là chị Lụa, một chị nông dân trẻ có chồng đi bộ đội. Đời tôi gặp nhiều sự gian khó, nhưng như tôi đã nói với anh, khi mình giúp ích cho mọi người, thì mọi người ăn ở có tình nghĩa với mình. Đúng như vậy. Lần trước thím Ba Tuất, lần này có chị Lụa chăm sóc hai con tôi.
Bây giờ nhớ lại những chuyến đem con đi gởi cho tôi vẫn thấy nao nao. Lần nào cũng mang hai đứa đi ban đêm cả. Lần trước đi sớm hơn. Lần này nhà chị Lụa mãi Hiệp Lộ, đường xa hơn, nên đi tới khuya mà chưa đến. Hồi chiều anh Dũng nhân đi Hiệp Lộ đã mang hộ những bị quần áo của bọn trẻ đi trước. Chuyến ấy, dọc đường con tôi cũng cảm biết rằng tôi đem nó đi gởi. Con Ngọc Thủy từ dạo xa tôi nó sớm lớn khôn quá. Tôi không còn phải bận bịu vì nó nữa, trái lại luôn đỡ đần tôi nhiều việc.
Đoạn đường tắt, trời tối rất khó đi, thỉnh thoảng phải dừng lại ngồi nghỉ. Thằng Nhã cứ bám chắc tay tôi như sợ tôi đi. Tôi ôm sát nó vào lòng. Một phút gần chúng nó là một phút đỡ nhớ. Thực tình để chúng nó ở nhà tôi cũng lo lắm. Chỉ sợ con nó còn dại men ra bãi bị sụp hồ. Anh biết sụp hồ là thế nào không. Bãi biển trong mình nó có nhiều nơi không được bằng phẳng. Gò cát hay lồi lên lõm xuống. Đất cát thường có chỗ trống chân. Nước lớn lên bò lòn vô mép trong bất ngờ cuốn ụp mấy cái cát chống chân đó. Trẻ con mò ra bãi chơi, đánh bẫy chim nhạn hoặc lượm vỏ sò, lúc về bị sụp hồ chết là thường lắm.
- Má... má đừng đi nữa nghe má... - Thằng Nhã bập bẹ bảo tôi thế. Tôi mới hỏi: - Má đi con có nhớ má không? ở nhà con có đi chơi xa, ra bãi không?
Nó đáp:
- Không, con không có đi xa. Chị Thủy nhớ khóc, con còn dỗ chị nữa. Má má đừng đi nữa!
Nghe nó nói tôi không nhịn được cười. Thằng con trai tôi, tôi biết tính nó, lém hơn chị nhiều. Nó có nhớ tôi, thế nhưng nói thẳng ra là không khi nào nó nói, lại đổ cho chị. ở một số trường hợp khác cũng thế, con Thủy có gì cũng thổ lộ thẳng với tôi, còn nó, hình như nó không muốn cho ai thấy là nó yếu ớt một chút nào cả. Con Thủy hỏi nó:
- Nhã không nhớ má thiệt chơi?
Con Thủy vừa hỏi vừa bấm nhẹ tay tôi, ra hiệu cứ để yên.
- Không nhớ, sao hôm đó thím Ba đi rẫy, Nhã ở nhà tháo chuồng gà ra hết. Thím Ba về rầy, Nhã khóc đòi chị tìm má cho Nhã liền. Chị bảo má chưa về thì Nhã khóc.
Con Thủy hỏi rồi bẹo nhẹ gò má em. Thằng Nhã thẹn quá rúc đầu vào sau vạt áo tôi. Một lúc chợt ngẩng ra nói:
- Hồi nào... Nhã khóc hồi nào đâu.
- Thôi, đừng chối. Nhã chối thì chị không chơi với Nhã nữa!
Thường thường câu chuyện giữa hai chị em nó tới đó là tôi phải lo tháo gỡ. Làm thế nào bảo cho đứa em biết nói dối là không tốt. Với lại, trong lời nói, làm sao cho con chị càng tăng thêm trách nhiệm của nó đối với em. Tôi liền hỏi:
- Nhã, con có như vậy không?
- Không, chị Thủy... chị ấy...
Tiếng "không" của thằng Nhã đáp rất yếu, tỏ ra là nó đã nhận, nhưng nó không thể mở miệng bảo "có" được. Tôi nhẹ nhàng bảo:
- Nhã nói dối, má không thương. Từ nay Nhã phải nghe lời chị nghe không?
Tôi day hỏi con Thủy:
- Bữa đó chồn có ăn thịt con gà nào của thím Ba không?
- May mà không có, má à. Thím Ba nói rủi thím không về lùa gà kịp thì chồn ở rừng lên ăn thịt hết. Thím đâu có nói gì, chỉ dặn lần sau đừng mở chuồng nữa, vậy mà Nhã khóc thôi là khóc.
Thằng Nhã bấy giờ rúc đầu vào ngực tôi, không đáp. Biết là nó đã chịu lỗi, tôi bảo:
- Thím Ba nuôi mấy con đáng lẽ phải giúp đỡ thím ấy chớ sao lại quấy rầy thím.
- Có, chị Thủy đi hái dâu, còn con chiều nào cũng cho gà ăn.
Thằng Nhã lanh lảu đáp. Tôi nhấc đầu nó lên hỏi:
- Giờ con có biết thím Ba ở đâu không?
Cả hai cùng yên lặng. Tôi nói:
- Mấy con không còn gặp thím ấy nữa đâu!
Con Thủy ôm lấy vai tôi, sụt sịt khóc. Tôi lặng lẽ vuốt tóc nó, bùi ngùi nói:
- Con thương thím Ba lắm phải không?
Con Thủy vẫn im lặng, áp cặp mắt ướt vào tai tôi. Xung quanh nơi mẹ con tôi ngồi nghỉ, cảnh vật im lìm chìm trong đêm tối. Đoạn đường này trước kia có đến hai lô-cốt địch, mới vừa bị du kích bức phải rút. Chỉ còn lại hai đống gạch đổ sụp, mờ mờ hiện ra ở bên kia đường. Tôi nghĩ rằng cái chết của những lô-cốt đó thật như một việc quả báo. Nó mọc lên ở đây như những ung nhọt làm bao người bị thiệt mạng, trong đó có cha tôi, có thím Ba, giờ đến lúc nó lần lượt chết đi trong đêm tăm tối là phải lắm.
- Con thương thím Ba lắm phải không, Thủy?
Tôi buột miệng lặp lại một lần nữa, rồi nói tiếp:
- Con có nhớ nội không? Nhớ ba không? Nội với ba con cũng chết như thím Ba vậy.
Thằng Nhã rục rịch muốn khóc. Con Thủy thấy thế thì cất đầu ra khỏi vai tôi, vội đưa tay quệt nước mắt, cố gượng không cho em biết, nó nói với giọng của một người chị:
- Nhã, nín đi... nín đi không? Chốc nữa gặp chú Dũng chị mách chú ấy.
Tôi liền đứng dậy. Một là vì thấy đã khuya, hai là muốn phá tan sự buồn bã cho các con. Nhất là chúng nó lại sắp xa tôi. Tôi giục:
- Thủy, đi thôi con!
Tôi cõng thằng Nhã. Bé Thủy ngoan ngoãn đi sau lưng tôi. Mẹ con tôi đi tiếp đoạn đường. Mùa tháng tư, vườn tược trong xóm gần đó thoảng tới mùi hương bông bưởi thơm ngát. Bưởi lại ra hoa rồi. Lòng tôi dìu dịu mối hy vọng, thầm ước sau ngày kháng chiến, tôi sẽ sống yên ổn nuôi con. Lúc đó, thú thực với anh tôi có nghĩ tới Dũng, khi còn bé tôi nó vừa nhắc tới anh ấy. Tôi không hiểu sao, chỉ có thấy Dũng thì tôi đỡ trơ trọi hơn. Tôi nghĩ như thế, nhưng vẫn thấy buồn buồn. Như vậy không biết phải hay quấy, anh cắt nghĩa hộ tôi, cho tới bây giờ tôi vẫn không rõ... Tôi nói thật lòng, anh đừng cười...
Tôi bảo:
- Lẽ nào tôi lại cười chị... Theo tôi...
Chị Tư Hậu hơi cúi người xuống. Tôi định nói thẳng là theo tôi nghĩ như thế là không có lỗi gì cả. Song nghĩ lại mình chỉ mới biết qua câu chuyện, nên nói không dứt khoát là hơn.
- Cái đó tùy nơi chị, không ai chê trách gì chị điều ấy. Nhưng rồi sao? Giữa chị với anh ấy về sau thế nào?
- Chẳng ra thế nào cả? Chỉ trở ngại anh ấy thôi.
- Anh ấy làm sao thế?
Chị Hậu ngắt lời: - Không, anh rất tốt, không có sao cả. Con người thật có nhiều cái giống như ba con Thủy vậy. Trên công tác gần gũi, chúng tôi lấy tình đồng chí đối xử với nhau. Anh ấy là đồng chí thân nhất, gần gũi nhất của tôi...
Nói chưa dứt câu, chị Hậu ngập ngừng, im lặng dí mũi chân dép xuống đá sỏi. Trăng lên sớm, vằng vặc chiếu sáng xuống khu vực bệnh viện. Thứ trăng mùa đông này, dường như cái ánh sáng của nó cũng tái lạnh. Dưới ánh trăng, khuôn mặt người chị đồng hương tôi hơi ửng đỏ. Gió thổi qua ve vuốt những sợi tóc còn đen nhánh, mềm mại xõa trên trán chị. Và đôi mắt, trong ánh trăng chiếu rọi, nó xanh biếc, coi đẹp mà buồn. Tôi nhìn chị, nghĩ đến những ngày qua của chị mà không khỏi kinh ngạc. Ngày mới đến, tôi thấy chị đại khái là một thiếu phụ dễ coi, không xấu mà cũng không đẹp. Bây giờ tôi thấy chị có phần đẹp thêm ra. Cái gian khổ của ngày tháng chưa làm tàn tạ nổi vẻ đẹp hiền hậu của chị. Từ chỗ ngạc nhiên, tâm trạng tôi trở nên ái ngại. Sau hàng chấn song sắt bệnh viện kia, là con đường phố, chiều nào cũng không ngớt những tà áo lả lướt nép vào vai tình nhân, mới có, cũ có, sánh vai nhau mà đi trong hạnh phúc không kể gì giá lạnh. Đến như rét giá mà họ không đếm tới, thì e chừng trong phút ấy họ rất dễ quên mọi lẽ.
- Anh đang nghĩ gì thế? - Chị Hậu ngẩng lên, lấy vẻ mặt tươi tỉnh mà hỏi tôi. Tôi vội đáp:
- Không có gì, có gì đâu!
Tôi đáp xong thấy hình như là chị đoán biết tôi đang thương xót cho thân chị. Điều đó làm tôi lo lắng. Trước nỗi thống khổ của một người nào, bụng dạ mình thật xót đau, nhưng tôi muốn cố ẩn đi không để lộ vẻ thương hại người ta. Là vì khi mà chính mình chưa có cách gì giúp được, chỉ tỏ vẻ đau xót hộ, sợ lắm khi làm người ta thêm tủi mà thôi.
Chị Tư Hậu cũng có vẻ rất không muốn tôi phải ngỏ lời an ủi chị. Chị nói:
- Tôi kể tiếp nhé!
Tôi vừa mới gật đầu, chợt nghe có tiếng chân giẫm sỏi sau lưng. Quay lại thấy cô hộ lý lên tiếng, giọng trong trẻo như cười:
- Vào nghỉ thôi các đồng chí ạ, khuya rồi!
Tôi hỏi: - Mấy giờ mà chị bảo là khuya!
- Tám giờ, nhưng tôi nói khuya đây...
- Nghĩa là đối với bệnh nhân, phải không?
Cô hộ lý gật đầu dứt khoát rồi tiến đến trước mặt tôi vờ nghiêm trang nói:
- Tôi yêu cầu anh... Ai lại bắt chị tôi kể cho nghe mãi thế, rồi suốt ngày cứ hí hoáy ghi chép. Anh là người phạm vào thời khắc biểu nhất đấy nhé.
- Vâng, tôi xin nhận.
- Khi nào anh ra về, tôi đề nghị anh phải tự ghi vào bản kiểm thảo thời gian nằm bệnh viên của anh.
- Vâng, thì ghi.
Cô hộ lý bụm miệng day qua cười với chị Hậu và nắm tay kéo chị đi. Đi mấy nước, còn quay lại nói với:
- Nào, anh chép được bao nhiêu rồi, cho tôi mượn xem có được không nào?
Tôi cười nói: - Thôi, thôi, tôi xin cô...
Hai người cùng cười và đi vào. Tôi vẫn ngồi nán lại trên ghế đá. Trên một tháng qua, sống tại đây, tôi quen gần hết những nhân viên trong bệnh viện, dần dà đến lúc nói đùa với họ mà không sợ mếch lòng. Như cô hộ lý kia chẳng hạn. Cô ta tên là Hiền, bất ngờ gắn liền với tên người chị đồng hương tôi thành ra một tiếng kép "Hiền Hậu". Có lần Hiền nói là sẽ nhận chị Hậu làm chị nuôi mình để kỷ niệm cái thời kỳ mà cùng trên một mảnh đất có nhiều người Nam Bắc sống chung với nhau nhất. Lần đó, tôi trêu vào, bảo cô rằng tôi cũng có ý định xin chị Hậu nhận tôi làm em nuôi đấy. Tức thì cô ta nguýt tôi, và mặt cô ta đỏ ửng lên. Tôi với chị Tư Hậu phá lên cười. Cô ả bỏ chạy, cái đuôi tóc tết như đuôi chồn của cô ta liền quất qua quất lại sau lưng vun vút coi rõ vui. Song đùa là đùa thế thôi, chứ tình thực tôi chả có ý nghĩ gì đáng gọi là sâu xa cả.
Còn mấy ngày gần đây, đối với tôi chị Tư Hậu không thoái thác chẳng chịu nói như ban đầu nữa. Nhiều lần tôi muốn chị nghỉ để giữ gìn sức khỏe cho chị, và tôi cũng được rảnh rang sắp xếp, nghĩ ngợi về những điều chị đã nói. Nhưng ngược lại chị càng muốn kể hết cho tôi nghe. Đã đến lúc chị tha thiết và ray rứt muốn đem chuyện đời chị, cả hạnh phúc và nỗi khổ não của chị phân bày với tôi, dường như không thể nào không phân bày được. Thì tôi, tôi cũng không thể dừng lại mà không chép tiếp.
... Đêm hôm đó mẹ con tôi tới nhà chị Lụa. Đã khuya lắm rồi, nhưng Dũng vẫn còn thức đợi chúng tôi. Cháu Nhã đã ngủ từ lâu ở dọc đường, ngoẹo đầu vào vai tôi. Con Thủy đến nơi cũng buồn ngủ híp cả mắt. Tôi thu xếp chỗ ngủ cho hai đứa xong, chị Lụa bảo tôi cố ngủ một chút, độ ba giờ chị sẽ gọi dậy đi. Còn chị thì đem cái xa ngồi quay sợi, canh cho chúng tôi ngủ. Đi đường mệt, nằm xuống là tôi thiếp đi. Đêm trời hơi lạnh. Đang ngủ bỗng tôi có cảm giác là có ai vừa đắp chăn lên người tôi. Đến lúc gà gáy hiệp nhất, chị Lụa gọi tôi dậy. Quả nhiên tôi thấy trên mình có một chiếc chăn phủ qua thực. Tôi hỏi chị Lụa:
- Hồi đêm chị Lụa đắp cho tôi phải không?
Chị Lụa nghe tôi hỏi thì lắc đầu không đáp, chỉ tủm tỉm cười. Tôi chợt hiểu ra. Bất chợt thấy đôi mắt Dũng nhìn mình, lại có chị Lụa ở đấy, tôi nóng bừng cả mặt.
- Tôi đắp đấy, ngủ thế có ngày ốm đấy đồng chí ơi!
Dũng thốt nói, giọng tự nhiên. Tôi biết Dũng không nỡ để tôi lúng túng. Rồi tôi đi rửa mặt, gặp Dũng đã ở tại lu nước. Anh cầm gáo nước nhường cho tôi rửa trước:
- Nhanh lên. Trời gần sáng rồi, chuẩn bị đi là vừa.
Tôi rửa mặt xong, múc lại đầy một gáo nước đưa cho Dũng rồi chạy vào nhà. Lại sắp tới giờ tạm biệt các con. Tôi hấp tấp, hối hả mà giành lấy những phút quý báu đó. Tội nghiệp cho hai đứa. Vừa trải qua đoạn đường xa, giờ đang ngủ mê man. Con Thủy tôi, ngay trong lúc ngủ, bao giờ cũng ra tư thế của một đứa chị. Nó nằm yên để thằng Nhã quàng lấy người nó, và bàn tay nó đặt trên mái tóc em. Hình như con bé hiểu nỗi trơ trọi của tôi, ngần tuổi ấy nó đã biết gánh vác em thay tôi rồi. Thú thật, đứng ngắm chúng nó ngủ tôi không biết chán là gì. Lần trước tôi đã qua phút bịn rịn ấy, lần này có quen hơn một chút, nhưng vẫn buồn quá. Anh ạ, tôi nói về các con tôi chắc là hơi dài dòng phải không? Nếu có dài dòng anh cũng thứ bỏ cho. Anh chưa có vợ con, chừng nào có rồi thì chừng ấy tôi tin có lẽ anh sẽ cho rằng những lời của tôi bây giờ vẫn là ngắn ngủi. Thật, tôi thì có thể nói suốt ngày về các con tôi. Lạ quá, trong chiến tranh không biết có người nào như tôi không anh nhỉ? Chắc cũng có chớ. Nếu có những người nào na ná như tôi, tôi tin rằng bây giờ nhắc lại, ai cũng chửi sa sả vào cái thời buổi đó cho mà coi. Thời khắc của dạo đó nhiều khi gió giựt phắt đôi môi mình ra khỏi cái gò má của con mình. Thật nó không nhân nhượng mình một chút nào hết.
- Còn bây giờ thì sao? - Tôi buột miệng hỏi.
- Bây giờ thì đỡ hơn, nhưng nó cũng chưa thật ủng hộ tôi.
Chị Hậu nói xong bật cười. Tiếng cười như xí xóa thông qua, nhưng làm tôi bứt rứt thế nào. Gương mặt chị Hậu lúc đó coi như có vẻ giận dỗi ai vậy. Còn cặp mắt thì vẫn le lói sáng. Tôi cố ý dò xét, nhưng không hiểu sao hết, đành ngồi im mà không nói gì. Chị lại kể:
- Tôi lại hôn con. Hôn một chiếc, bắt đầu muốn hôn chiếc nữa... Gần sáng tôi với Dũng ra đi. Tai họa lại đến. Tai họa trong kháng chiến khó lường trước đặng. Khoảng trời tờ mờ sáng, chúng tôi vừa ra khỏi xóm, thì nghe súng nổ bốn phía. Chúng tôi chạy một quãng, lên đến gò cao, trông lại thấy khói tỏa mù mịt. Có tiếng trẻ con khóc văng vẳng. Hình như là tiếng con tôi. Tôi nói với Dũng:
- Anh Dũng, đâu như là mấy đứa nhỏ con tôi khóc.
- Bình tĩnh, để tôi coi coi!
Rồi Dũng leo lên một cây cao. Tôi đứng dưới, thấy Dũng nhìn xuống chầm chập. Tôi hỏi:
- Có thấy gì không?
- Có thấy...
- Thấy cái gì?
Không đợi Dũng đáp tôi tìm một thân cây dễ leo, trèo lên. Lên đến cành cao, tôi nhìn xuống. Trời ơi, tôi thấy rõ cả. Trời sáng bạc. Trên cây cao, nhìn xuống xóm nhà ở dưới chân, tôi đâu có lầm. Bọn giặc đang dẫn chị Lụa và lùa mấy đứa nhỏ tôi đi. Chị Lụa dùng dằng không chịu đi, thì một tên giặc thúc báng súng vào lưng chị. Tôi bưng mặt. Ngồi trên cây, mặt tôi xây xẩm, lòng đau như xé. Tôi nghĩ tới nỗi khổ nhục sẽ đến với chị Lụa, cũng như đã đến với tôi trước đây. Tôi vẫn chưa rõ nó bắt các con tôi đi làm gì. Lúc ấy tôi nghĩ bụng: "Phải chi mình không đảm nhiệm cơ sở, để lo gìn giữ các con thì đâu đến nỗi thế này". Nói thật với anh, khi đó tôi muốn buông tay té xuống. Nhưng buông không được. Bởi có hằng hà cặp mắt hiện đến trách móc tôi. Huống chi lúc bấy giờ tôi đã là một đảng viên. Lúc ấy tôi không có nghĩ ngợi gì nhiều đâu. Chỉ nghĩ rằng là đảng viên của Đảng thì không được phép chọn lấy cái chết vô bổ như thế. Với lại dù sao cái hy vọng cuối cùng đã ghì chặt tôi lại. Bên cây nọ, Dũng vừa tuột xuống vừa lo lắng kêu:
- Hậu, xuống đi.
Mắt tôi lóa lên. Từ trên cây tụt xuống, mặt tôi cứ tái đi. Dũng đứng dưới gốc đỡ tôi xuống. Tôi vừa khóc vừa nói:
- Tụi nó bắt chị Lụa với hai đứa nhỏ tôi rồi. Anh đi đi, tôi không đi nữa đâu.
- Hậu, bình tĩnh lại. Để xem thế nào?
Tôi lắc đầu, khuỵu xuống trên bãi cỏ, chẳng khác nào như một con nai mẹ bị tên xuyên trúng tim. Lát sau tôi vùng đứng dậy nói:
- Tôi phải trở lại xóm mới được!
Dũng năn nỉ tôi:
- Trở lại làm gì, đã trông thấy rồi. Trở lại bây giờ để bị bắt luôn sao?
Tôi nhất quyết không nghe. Sự thực thì đã rõ lắm rồi. Tuy tôi không biết là trở lại cũng không còn gặp các con tôi nữa. Nhưng lúc ấy tôi như mất hết trí khôn, hy vọng mù quáng rằng là may có khi còn sót lại đứa nào chăng. Đợi một lúc cho bọn giặc rút đã xa. Tôi quầy quả chạy xuống gò. Dũng ngăn tôi không được, anh vội vàng chạy theo tôi.
........................
Chị Tư Hậu ngừng kể. Mắt chị lấp láy. Một giọt nước mắt đó vừa làm nhòe ướt những lông mi. Buổi chiều cuối đông nhuốm lòng tôi tê tái. Tôi nhìn chị Hậu không dám giục chị kể tới. Chỉ sợ động thêm nỗi đau xót của chị. Mãi sau tôi mới khẽ bảo:
- Chị Tư, ta dạo quanh một tý đi!
Nhưng chị Hậu không để ý tới lời tôi. Chị nói mải mê:
- Thế là tôi trở lại xóm. Không có đứa con nào của tôi còn sót lại cả. Dĩ nhiên là không có.
... Ban đầu tôi không hiểu thế nào cả. Về sau mới biết mưu mô ác hiểm của chúng nó. Chúng định bao vây bắt tôi và anh Dũng. Không gặp chúng tôi, bọn chúng mới nghĩ ra việc bắt con tôi... Không, nó không giết con tôi đâu anh ạ. Anh có biết tụi nó bắt hai con tôi về đồn để làm gì không. Để đánh một miếng đòn ghê gớm vào tâm não tôi, để bức bách tôi vì các con tôi mà phải ra hàng, khai báo cho chúng tất cả những cơ sở ở địch hậu. Nguyên là Tư Bửu bị ta bắt rồi trốn thoát về, nó biết tôi và công việc làm của tôi. Chúng đem chị Lụa với con tôi về đồn Long Hưng. Chị Lụa bị chúng hiếp rồi thả về. Chính thằng Tư Bửu bảo với con tôi: "Tao bắt tụi bây cho con gái mẹ tụi bây và đồng đảng lòi ra!". Chúng nó đánh đập, không cho hai con tôi ăn uống. Bọn nó cố ý hành hạ hai con tôi trước mặt những bà con ở Hiệp Lộ, Hiệp Mỹ bị chúng bắt đi xây bót. Những việc ấy, bà con về kể lại, thành ra tôi đều rõ hết. Đó là ý định của chúng, mong sao cho tôi nghe rõ từng chi tiết chúng nó hành hạ con tôi... Con Thủy tôi đói quá đi xin cơm của mấy chị vợ lính về cùng ăn với thằng Nhã. Về sau, tên Tô-ma ra lệnh cấm ngặt mọi người không được cho cơm con tôi. Đến nước con Thủy phải đi bắt chuột về nướng ăn. Mặc dù thế, nhưng đêm đến, các chị vợ lính và mấy người lính tốt vẫn lén lút mang cơm cho hai đứa.
Nghe đâu có một lần Tư Bửu tát vào má con Ngọc Thủy, hỏi về tôi. Anh biết con tôi nói sao không? Nó bảo: "Má tôi chết rồi!". Tự con tôi tôi biết nó chưa đủ trí khôn để nói thế. Về sau mới biết là anh em lính tốt của mình căn dặn nó nói thế.
Chiều nào có bà con đi cu-ly về kể chuyện, ruột tôi như bị trăm ngàn mũi kim châm chích. Về sau tôi không dám gặp họ nữa. Tôi sợ gặp họ, nghe họ nói riết rồi không chịu nổi. Song le vắng tin con một ít lâu thấy khó chịu lạ lùng. Lại phải tìm đón bà con mà hỏi thăm. Hỏi thăm biết được sự khổ sở của chúng nó, lại vật vã đau đớn. Cứ thế, tôi bị
giày vò từ ngày này qua ngày khác. Có khi trong giấc ngủ, tôi nằm mê thấy con Thủy dắt em về chạy ào lại ôm tới. Tôi mừng quá chưa kịp ôm lấy con, bỗng giật mình tỉnh dậy. Rõ ràng là hai đứa vừa ở trong tay mình, mà đã biến đi đằng nào... Hóa ra là chiêm bao. Mồ hôi liền tháo ra khắp người. Tôi cứ nằm khắc khoải cho tới sáng. Nhiều đêm ở trong làng tề, nghe tiếng con người ta khóc, tưởng là tiếng con mình, tức thời bị đánh thức dậy ngay.
Nghe nói có một hôm, bọn giặc đi càn về, chúng vờ nói với con Thủy tôi:
- Tụi tao vừa bắn chết má chúng bây rồi. Tụi tao đã chặt đầu má bay treo lên một cành cao, mai có muốn đi coi tụi tao dắt đi!
Con Thủy vẫn nói:
- Má tôi chết lâu rồi, chắc người nào đó chớ không phải má tôi đâu!
Nghe chuyện đó tôi cười ứa nước mắt. Tôi biết con tôi có nói tôi chết là buộc lòng lắm nó mới nói thế. Người kể chuyện bảo rằng mặc dù con Thủy nghe lời anh em lính nói thế, nhưng nó vẫn lo là tôi chết thực. Sau đó nó dắt thằng Nhã trốn vào xó tối khóc mùi và khẽ kêu "... Má ơi, má ơi! Má đừng chết nghe má...!".
Anh coi, như thế có khổ tôi không. Nếu như anh ở vào hoàn cảnh đó thì anh sẽ rõ. Chắc chắn anh cũng sẽ đau đớn. Có thể cái đau đớn của đàn ông con trai các anh khác hơn bọn phụ nữ chúng tôi, tuy cũng là đau đớn, nhưng không bằng chúng tôi đâu. Bởi vì tôi đẻ con tôi ra, ôm ấp chúng nó hằng ngày. Chúng nó là máu thịt của tôi, vì chúng nó mà dòng sữa trong người tôi sau ngày thai sản chảy không bao giờ cạn... tôi nói vậy để anh hiểu cho tôi. Bị giầy vò quá chịu không nổi, về sau tôi có viết một bức thư gửi ra bót Long Hưng. Anh đoán thử xem tôi viết như thế nào. Chắc anh tưởng là lòng dạ tôi đổi thay. Không, tôi không đến nỗi như thế đâu. Trong thư tôi nói: "... Hai đứa đó chính là con tôi, mấy người có tha thì tha, giết nó thì giết đi, chớ đừng đánh đập nó tội nghiệp. Còn tôi, tôi không ra hàng đâu...".
Đấy, đại ý bức thư như vậy. Giờ nghĩ lại thấy buồn cười quá. Kêu nó đừng đánh đập con mình tội nghiệp. Chúng nó mà biết thương đến trẻ con sao nó lại hành hạ con tôi, phải không anh? Tôi viết câu đó thật là ngây thơ lắm. Giá bây giờ ai có chê, tôi cũng xin chịu. Chẳng qua là vì lúc đó tinh thần tôi bị giày vò quá, mới thốt câu van lơn chúng nó. Tôi viết thơ gởi cho địch như thế là sai, sau đó tôi đã kiểm thảo. Hay tin tôi viết thư, chị Ba Dương có tìm gặp tôi. Lần đầu tiên chị tỏ vẻ không bằng lòng về hành động tự ý của tôi. Chị Ba Dương không nạt nộ lớn tiếng gì đâu. Gặp tôi, cặp mắt chị nhìn tôi vẫn đằm thắm như mọi khi, nhưng toát đầy vẻ trách móc. Chị im lặng không nói gì cả. Cho đến nửa tiếng đồng hồ như thế. Chính cái im lặng trách móc đó làm tôi hoảng sợ. Hồi lâu tôi khẽ đến sau lưng chị, ấp úng:
- Chị Ba... chị Ba, em... như vậy là không phải. Lẽ nào chị lại hất hủi em.
Chị Ba Dương quay lại nhìn tôi giây lâu, cũng chưa nói gì cả. Tôi chạy lại giường ôm mặt khóc. Chập sau, chị bước đến đứng sau tôi nói:
- Sao em lại khóc. Nín đi, đừng có khóc nữa!
Rồi chị ngồi xuống nhẹ đặt bàn tay lên vai tôi:
- Tư à, chị buồn là tại sao em làm việc đó mà không hỏi qua chị một lời nào?
Tôi chùi nước mắt đáp:
- Em không biết lúc đó tại sao em như thế nữa. Nhưng em không có nói cái gì trong thư hết mà. Em chỉ nói: "Có giết con tôi thì giết, tha thì tha, chứng đừng đánh đập chúng nó, còn tôi, tôi không ra hàng đâu...".
Em chỉ viết như vậy thôi...
Chị Ba Dương kéo mặt tôi đối diện mặt chị:
- Như chị thì chị có thể tin em. Những người khác nghe em nói liệu người ta có thể tin em như chị tin em không?
Tôi cúi đầu bối rối. Thực không ngờ chuyện một bức thư lại đưa tôi đến chỗ bối rối thế ấy. Tôi nói:
- Nếu không tin lời em thì em phải chịu. Từ đây trở đi nếu cơ sở mà bị lộ ngay ở các xã, ở trên có cho là em khai báo với địch, em sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm.
- Em có gan thiệt. Chị khen em giỏi. - Chị Ba Dương nói và nhìn tôi lắc đầu, nhếch miệng cười.
- Sao chị lại khen?
Chị Ba không trả lời, kéo tôi ngồi sát bên chị rồi nói:
- Thôi, không có gì đâu, đừng buồn. Chị nói thế cốt để em biết, sau này cẩn thận hơn. Chứ bức thư em viết, chị cũng đã rõ. Nên nhớ làm công tác cách mạng, nhất là công tác địch ngụy vận này phải biết thấy trước, đề phòng bất trắc. Trong thư em nói: "Tôi không ra hàng đâu" thì khác nào như em đã tự nhận là mình có hoạt động rồi?
- Không nói tụi nó cũng đã biết - Tôi đáp.
Chị Ba Dương ngắt lời:
- Đã đành vậy. Nhưng khi địch nó chỉ mới biết một cách mơ hồ, em nói thế tức là xác nhận thêm cho chúng nó một mức cao hơn. Em thấy có đúng như vậy không?
Nghe những lời chị Ba phân tích, tôi không nói vào đâu được nữa. Kế đó chị móc túi lấy một mảnh giấy, vừa đưa cho tôi vừa hỏi:
- Này em thử coi coi. Có phải bức thư của em viết hôm nọ đây không?
Tôi vội đón lấy mảnh giấy. Mới nhìn qua, tôi sửng sốt. Vì đúng là bức thư chính tay tôi viết hôm trước. Tôi kêu lên:
- ủa, phải rồi. Kỳ quá, chị lượm ở đâu ra?
- Không phải lượm, người ta chuyển về cho chị. Hôm trước em nhờ một anh ở Hiệp Lộ bị bắt xây bót chuyển thư chứ gì. Anh ta lại nhờ một chị vợ lính trao cho Tư Bửu. Chị vợ lính ấy lại là vợ một anh lính nòng cốt của mình. Chị ta nghi là thư báo cáo chỉ điểm liền bí mật chuyển về huyện. Huyện ủy coi không thấy có gì, lại là chuyện mấy đứa con, nên trao cho chị.
Đoạn chị Ba gạt bức thư qua một bên, bảo tôi:
- Thôi, giờ hẵng dẹp chuyển cái thư đó đi.
Bụng dạ tôi lúc đó mới yên trở lại:
- Hậu à, chị biết em đau đớn về việc mấy cháu. Chị đâu có thờ ơ, chị lo lắm chớ. Chị tính mãi... Không còn cách nào khác hơn là bố trí đánh tháo cho mấy cháu ra.
Nghe nói, tôi trố mắt nhìn chị Ba, hồi hộp. Chị gật đầu:
- Chỉ có cách đó thôi. Chị đề nghị và Huyện ủy đã chấp thuận rồi. Giờ em nghĩ thế nào?
Trước những lời nói đó, tôi còn nghĩ thế nào nữa. Tôi sung sướng vì thấy các con tôi hy vọng được giải thoát, đồng thời rất xúc động. Tôi cứ nghĩ ngợi và ngạc nhiên, không ngờ chuyện mẹ con tôi mà trên lại chú ý tìm cách tháo gỡ như thế. Tôi ngập ngừng hỏi:
- Chị Ba nói thật à?
- Chứ sao?
- Đó là một việc khó. Bộ đội, du kích ngày đêm lo đánh giặc lẽ nào phải đi lo chuyện đó cho mẹ con em sao?
Chị Ba nói:
- Lo cho mẹ con em là phải, vì em đã lo nhiều cho người khác.
Tôi không biết nói sao, cứ đặt tin tưởng vào kế hoạch của trên. Nhưng tôi lo lắng hết sức. Chỉ sợ nguy hiểm xảy ra.
... Nghe chị Tư Hậu kể đến đây, tôi nóng lòng chộp hỏi:
- Rồi có thực hiện được không? Có cứu được hai cháu ra không?
Chị Tư Hậu gật đầu, khoát tay ra dấu bảo tôi để yên chị nói:
- Có, có cứu được hai con tôi... Trên huyện các đồng chí đó thấy không thể để tôi đau đớn tinh thần mãi được. Huyện đội bố trí một tiểu đội đánh tháo cho con tôi. Đem được hai cháu ra cũng không đến nỗi khó khăn lắm. Một phần nhờ anh em lính tay trong giúp. Họ giả cách sai con Thủy tôi đi ra khỏi bốt mua tôm. Bấy lâu lính bốt vẫn hay sai con tôi đi như thế. Mà con Thủy đi thì dắt em theo. Thực ra, lúc đó nó cũng chưa biết người ta đang chuẩn bị cứu nó. Mấy người bán tôm lại chính là du kích mình. Thế là các anh cứ việc cõng xốc hai đứa lên vai chạy. Chúng nó sợ quá khóc thét. Anh em du kích chạy qua Cầu sắt, băng qua tới vườn Hiệp lộ bọn địch mới hay, nhưng đuổi theo không kịp.
Chiều đó tôi ra đón tại Gò Cát. Hai anh du kích cõng con tôi về tới. Gặp con, tôi nghẹn ngào không khóc được, cứ ôm siết hai đứa vào lòng. Lúc đó chỉ nơm nớp sợ con mình lại bị bắt đi nữa.
Chị Tư Hậu vừa nói nét mặt rạng lên. Chị nhếch môi cười. Cái nụ cười của một người đã từng quen chịu đựng chỉ hé ra một nửa. Lâu nay qua những buổi chiều tê tái, tôi mới gặp được một nụ cười nở ra trên đôi môi người chị đồng hương của tôi. Tôi bắt hớn hở lên và cảm thấy như chính nụ cười ấy đang nở ra, nô rỡn giữa tâm hồn tôi.
- Khổ cho thân bé bỏng của hai con tôi - Chị Tư Hậu nói tiếp - Chỉ có bốn tháng giam lỏng ở bốt mà con Thủy ốm tong. Thằng Nhã cũng thế. Quần áo chúng nó đều rách mướp ra cả. Đem hai đứa về tới Hiệp Mỹ, tôi đưa chúng vào nhà anh Mười, và gọi lớn:
- Anh Mười chị Mười ơi, hai đứa nhỏ tôi về rồi đây nè!
Vợ chồng anh Mười mừng rối rít. Chị Mười vội lo làm cơm. Tôi không sao rời được con Thủy với thằng Nhã ra. Tôi đi tắm cho chúng nó. Chị Mười chạy vay mượn quần áo trong xóm thay cho cháu. Trong buổi cơm tôi không ăn được, suốt buổi chỉ nhìn chúng nó ăn. Bữa cơm có nhiều thức ăn. Hai đứa ăn có vẻ ngon lành lắm. Con Thủy thì ăn trầm tĩnh hơn, nhưng thằng Nhã thì ăn hau háu. Đứng nhìn cảnh tượng đó, tự nhiên nước mắt tôi chảy ròng... Không phải riêng gì con tôi, trẻ con đứa nào cũng vậy anh à, thấy chúng nó đói khát, mình thật khổ tâm. Người lớn còn chịu đựng được, chớ trẻ con nó hễ đói là khóc đòi ăn. Ba tháng qua, có lẽ con tôi nó cũng đã nhiều lần khóc vì đói. Giờ đây, nhìn cử chỉ ăn vội vàng của chúng nó, mình xót tủi quá.
Hai đứa ăn xong đến bên tôi, mỗi đứa bíu lấy một cánh tay tôi. Thấy tôi khóc, chúng nó gục đầu vào ngực tôi thút thít. Tôi nghẹn ngào hồi lâu mới bảo:
- Thôi, mẹ con mình đừng khóc nữa. Từ nay má không để mấy con phải khổ cực nữa đâu...
Tôi nói lời ấy với các con tôi rất đúng. Dạo đó tình hình có nhiều thay đổi. ở ngoài này ta đang tấn công Điện Biên Phủ. Còn trong mình, hẳn anh còn nhớ, đồn bốt cứ bị bức rút liên miên. Địa phương tôi du kích nổi rất mạnh, bốt lớn bốt nhỏ cứ phải rạt dần ra. Có nhiều xã từ địch hậu trở thành xã du kích nhẹ. Như Hiệp Mỹ, Hiệp Hưng và phân nữa Hiệp Lộ.
Mặt trận Điện Biên Phủ kết thúc.
Hiệp định đình chiến ký kết. ở chỗ chúng tôi, đồn Long Hưng bị bao vây năm ngày đêm liền. Bốn tiếng đồng hồ trước khi ngừng súng thì bị hạ. Các lô-cốt khác ở Hiệp Lộ mình buông tha cho nó vì đã đúng giờ hiệp định thi hành. Du kích tháo lựu đạn gài, tháo mìn với tâm trạng tiếc rẻ... đại khái những việc đó chắc anh đã biết.
Thắng lợi rồi. Nói là vui thì có vui đó, song tôi càng dễ nhận ra ở tôi nỗi cô đơn trơ trọi. Bao người thân của tôi trong trận giông bão lớn vừa qua, từ nay đã vĩnh biệt tôi. Khi cái vui lớn dồn dập đến, sau đó lòng tôi bâng khuâng vô hạn. Khi nhớ lại những tháng ngày qua. Không biết anh thì có bao giờ anh mang tâm trạng như thế không. Chớ tôi, tôi thường có tâm trạng đó lắm. Nghĩa là vừa vui đấy, tức thời cái quạnh quẽ cái lo lắng cũng tới liền theo đấy. Thắng lợi làm thay đổi tình hình cả nước đã thay đổi hẳn đời sống của tôi và các con tôi. Hòa bình lại một tháng, tôi được trên báo cho biết là hai đứa nhỏ tôi, con Thủy và thằng Nhã có tiêu chuẩn được cho đi học. Tôi không biết con tôi ở vào tiêu chuẩn nào, chỉ đoán chừng là cái chết của chồng tôi đã giành cho nó tiêu chuẩn đó. Nghĩ tới tương lai của con, lòng tôi sáng bừng lên. Nhưng ánh sáng chỉ vụt chớp một cái, là bóng tối của nỗi lo xa cách tối sầm lại. Lòng tôi bàng hoàng. Những ngày sắp tới, nếu xa con, trơ trọi một mình, tôi sẽ sống thế nào được. Trước đây xa con Thủy, thằng Nhã mươi bữa nửa tháng, lâu nhất là ba tháng, tôi đã phải nhớ thương dằn vặt khổ sở là dường nào. Bây giờ để chúng nó rời tôi, lại rời xa tới hàng ngàn cây số, biệt những hai năm thật tôi không tưởng tượng mình có đủ sức chịu nổi sự xa cách lâu đến thế. Tôi quyết định không cho các con tôi đi. Liền viết một bức thư trả lời cho huyện, nói rõ: "... Vì hoàn cảnh đơn độc nên tôi không thể xa các cháu được, xin cứ thay vào đó vào những em khác..." Anh tưởng tôi viết được bức thư ấy dễ dàng lắm sao, không, cả một sự khó. Viết mấy lần, suy nghĩ lại bèn xé bỏ, xé rồi lại viết. Con Thủy và thằng Nhã cứ đến bên hỏi:
- Má, má viết gì vậy?
Tôi dừng bút nhìn chúng nó, thầm hỏi: "Má viết về mấy con đây". Quả là tôi đang viết về tương lai chúng nó. Một đằng sợ xa con, một đằng lại nghĩ tới ngày mai của con. Xé thư lần này xong, tôi vất bút chạy lại ôm chầm hai đứa, hai bàn tay cứ run bây bẩy. Con Thủy hỏi tôi:
- Má làm sao vậy má?
Tôi gượng nói:
- Không, má có sao đâu!
Rồi tôi bảo chúng:
- Hai đứa đi chơi để má nghỉ một chút.
Hai con tôi ngoan ngoãi dắt nhau ra ngoài. Tôi nằm một mình lăn qua trở lại. Sóng biển ban trưa từ xa vọng tới rì rào. Giữa trưa im vắng, tiếng sóng đưa vào bờ bãi khiến tôi tưởng chừng như thấy được nỗi hiu quạnh sắp tới bao bọc lấy tôi. Tôi rùng mình lo sợ. Những lúc như thế tôi thường sực nhớ tới chị Ba Dương. Nhiều lúc tôi cảm thấy người bí thư phụ nữ huyện đó giống như một bà tiên trong các chuyện đời xưa. Có sự gì khó khăn là chị cũng giúp tôi vượt qua được. Lần ấy tôi, giữa cơn bối rối, tôi lại tìm đến chị. Chị Ba Dương dạo đó bận nhiều việc lắm. Hòa bình rồi, nhưng chị cũng không được rảnh rang. Có điều là lúc ấy trông chị cứ tươi luôn, lúc nào cũng như là cười. Gặp tôi chị nói:
- Chị định đi tìm em đây, may quá:
- Chị kiếm em có chuyện gì?
Chị Ba nhìn vào tôi hỏi:
- Hậu có muốn đi không?
- Đi đâu, tập kết à?
- Phải, đi tập kết.
Tôi nói:
- Em đi mà làm gì?
Chị Ba nắm tay tôi, vẫn cái bàn tay trụi ngón của chị, bảo tôi:
- Thôi, nhân thể chị nói luôn cho em rõ. Trước thì dự định để em ở lại, nhưng các đồng chí thấy em lại không có lợi. Thời gian em hoạt động bọn địch nó đã biết em rồi, sau này khó mà chúng nó để cho em yên. Vả lại các cháu đều đi mà em ở lại, tội cho mấy cháu mà cũng khổ cho em. Lẽ nữa là em có chuyên môn. ở ngoài đó cũng rất cần cái chuyên môn của em. Sau khi nhận xét lợi hại. Huyện ủy thấy nên để em đi. Riêng chị, chị thấy các đồng chí đó nói cũng phải. Em đi chị đây rất tiếc, tình cảm chị buồn lắm... chị nói vậy, chắc em rõ rồi. Em thấy sao?
Tôi không đáp được. Chị Ba Dương đặt lại vấn đề tôi đi cách bất ngờ. Tôi chưa hề nghĩ tới chuyện đi. Dẫu sao, giữa lúc này tôi đang sợ hãi là sẽ phải rời xa hai con tôi, hay cái tin đi, tôi thấy sự gần gũi giữa mẹ con tôi được hoàn trả lại. Nhưng hết sợ xa con rồi, lại nảy ra bâng khuâng khác. Dạo đó tâm trạng tôi cứ thay đổi luôn. Mà thay đổi là phải. Vì chuyện đời đến với tôi thường hay đột ngột. Định là ở lại, tôi đã chuẩn bị tình cảm ở lại, trong đầu đã phác vạch ra hướng sống mới, nay đều đảo lộn, anh nghĩ, tâm trạng không bâng khuâng làm sao được.
Nhưng lần đó thì không thay đổi nữa. Chuyện tôi đi tập kết kể như là dứt khoát.
Con Thủy, thằng Nhã phải đi gấp trong chuyến Cao Lãnh thứ hai. Còn tôi thì chưa đi ngay. Thế là tôi phải lo thu xếp cho hai cháu lên đường, nghe nói mùa đông miền Bắc là tôi lo lắm. Còn có được bao nhiêu tiền tôi đều sắm sửa đồ rét cho chúng nó. Tiền bạc tôi còn có bao nhiêu đâu. Kháng chiến rồi thì gia tài tôi chỉ còn lại có gian nhà cũ, mấy công ruộng dâu, mấy cái khung cửi. Bán các thứ vỏn vẹn được ba ngàn đồng bạc. May sắm các vật cần thiết cho con rồi thì chỉ còn thừa lại không tới một ngàn. Cứ lo cho con mình có ấm đã, còn mình thời thế nào cũng xong.
... Trời, cái đêm rạng ngày đưa chúng nó đi thật là khổ. Hai đứa cứ ôm lấy tôi không thể nào rứt ra được. Làm tôi thức suốt đêm. Thằng Nhã không khóc, hôn tôi chùn chụt rồi ngủ. Duy có con Thủy tôi thì khóc ghê quá. Con bé nó không khóc bù lu bù loa lên đâu. Nó áp đầu vào ngực tôi, nước mắt cứ tràn ra thấm ướt cả áo tôi. Nó đã từng cực khổ vì phải xa tôi rồi, trách sao được nó. Chỉ nghe tiếng khóc của nó mà tôi phát sợ. Cái thứ khóc không ra tiếng tôi ít thấy ở một đứa trẻ, chỉ có ở đứa trẻ sớm khôn biết. Con gái tôi mới có chín tuổi đầu. Nhưng tôi nhận thấy nó có phần lớn trước tuổi. Đêm đó, mãi đến khuya nó vẫn thức. Tôi bảo nó ngủ đi. Nó vẫn không ngủ, sau đó nó nói:
- Má nói má đi... chớ má có đi đâu. Má bỏ con với em Nhã đi một mình.
Tôi phát sợ vì câu nói của con tôi. Sự thực thì từ khi nhà tôi mất, hai đứa nó là nguồn hy vọng, nguồn an ủi lớn nhất của tôi. Có chăng là vì công việc vừa qua phải cáng đáng, chúng nó phải vất vả bơ vơ mất một dạo. Gần đây, tôi lo sợ sẽ xa chúng nó. Nhưng giờ đã yên tâm, vì tôi cũng đi. Nhưng con tôi nó vẫn không tin là tôi đi thực. Tôi nâng mặt con Thủy lên, lấy khăn, lau nước mắt cho nó rồi nghiêm giọng nói:
- Thủy, má nói là không đi được một chuyến với con và em, nhưng rồi má sẽ đi chuyến sau. Vậy mà con cứ khóc. Trước, nay má có nói dối con lần nào chưa?
Thường thường cơn giận của tôi đối với con Ngọc Thủy, dù dữ dội mấy tôi cũng chỉ nói đến thế là cùng. Con Thủy nghe tôi nói bằng giọng nghiêm nghị như thế là nó biết tôi đang không bằng lòng. Mà nó thì không khi nào muốn tôi phải phật ý về nó. Cho nên từ đó, tuy không ngủ nhưng nằm im thin thít.
Hai con tôi đi rồi. Tôi sửa soạn đi chuyến gần cuối. Ngày tạm biệt xóm làng thật là bịn rịn làm sao. Buổi chiều tôi lên đường ra bến tàu, bà con kéo đến rất đông. Có nhiều người ở mãi Hiệp Mỹ, Hiệp Lộ. Cả mấy chị vợ lính cũng lẻn vào. Người bồng bế, kẻ dắt díu con cái. Họ nói: "Bọn tôi tới đưa chân thím đây, đi rồi đừng có quên bọn tôi nghe, hai năm rồi trở về đây nghen"... Nghe họ nói, tự dưng nước mắt tôi ứa ra. Chín mười năm qua tôi sống với họ, lúc thì ở tại một cánh đồng dâu, khi thì ở bên một giường đẻ, khổ cực và sung sướng của họ tôi đều rõ.
Những đứa trẻ đang còn ẵm ngửa, những đứa trẻ đang líu ríu đi bên các người mẹ kia, tôi đều biết rõ chúng nó, khi chúng nó vừa mới ra đời. Có thể còn nhớ cái tiếng khóc riêng, cái cử dạng co đạp riêng của mỗi đứa khi chúng nó chỉ mới biết khóc và co đạp. Bây giờ nhiều đứa đã đi vững, nói sõi. Chúng nó nô đùa với nhau trên bãi cát, chạy nhảy như một bầy chim sẻ. Thỉnh thoảng chúng lại cười vang lên. Giữa lúc bùi ngùi lưu luyến, tôi thấy sung sướng lạ. Liền nghĩ bụng rằng suốt đời mình chắc có lẽ mãi mãi mình sẽ không bỏ cái nghề đỡ đẻ này mà làm nghề gì khác nữa.
Dưới bãi, ghe bầu đã cập vào. Lũ trẻ ùa nhau lại. Mẹ của chúng nó nói:
- Thím Tư thím đi kia. Thím ấy đẻ tụi bây đó, đưa thím ra ghe đi!
Lũ trẻ bu quanh tôi, ríu rít lên:
- Thím Tư đưa cháu đeo cái túi cho!
- Đưa cháu cầm cái mền cho.
- Thím Tư đi đâu vậy, cho bé đi theo với.
Đứa nào cũng giành mang một thứ, đem xuống ghe hộ tôi. Những cháu nhỏ còn trên tay mẹ, giơ bàn tay nhỏ xíu đập đập y như là vẫy tôi vậy. Và mẹ chúng bồng chúng đến:
- Hôn thím đi!
- Hôn thím để thím đi thím nhớ, con.
Rồi nhiều cháu hôn tôi. Tôi lần lượt hôn lại từng đứa. Hôn xong thấy mắt nhòe ướt. Ngước lên thấy mắt mấy chị mấy thím người nào cũng nhòe ướt như tôi cả.
Nghẹn ngào hồi lâu, tôi mới nói được một câu từ biệt:
- Thôi, mấy chị mấy thím ở lại mạnh khỏe, tôi đi hai năm tôi về.
- Chị Tư... Thím Tư đi mạnh giỏi nghe. Hai năm nữa bọn tôi đợi đón thím ở đây.
- Dạ...
Khi tôi xuống ghe thì chợt thấy từ trên bãi cát, chị Ba Dương chạy riết xuống.
- Hậu đi đó à?
Dứt lời chị Ba vén quần lội xuống mực nước, tới bên ghe nắm lấy tay tôi:
- Đi mạnh giỏi nghe Hậu. Thôi, đừng buồn, thế nào rồi cũng có ngày chị em mình gặp nhau.
Chị Ba Dương nói xong ngoảnh mặt đi, giấu mấy giọt nước mắt vừa lăn xuống trên khuôn mặt khắc khổ của chị. Tôi bíu tay chị không muốn buông. Cái bàn tay trụi ngón nhiều lần đã cầm tay tôi, bấy giờ nóng hổi. Sức nóng ấy rần rất truyền qua người tôi. Nó thổi bừng dậy, qua trí nhớ của tôi, mọi hình ảnh gian khó, đau thương, dũng cảm.
Lúc sau, chị Ba Dương buông tay tôi ra, lấy lại vẻ tươi tỉnh:
- Cố gắng lên Hậu nghe!
- Dạ!
Ghe bầu rời bãi. Bà con đứng trông theo lâu lắm. Lũ trẻ giơ những bàn tay nhỏ xíu lên ngoắc lia lịa. Ghe ra xa dần. Trong số những bàn tay vẫy tiễn tôi đó, tôi nhận thấy bàn tay trụi ngón của chị Ba giơ lên ngoắc ngoắc. Ghe đi một đỗi xa, tôi ngoái xa khuất dần. Những mái nhà xóm lưới màu xam xám, rặng sao cao vút vẫn nhô lên khỏi cánh đồng dâu xanh mướt. Tất cả đều đắm mình dưới bóng chiều đang xuống, trong tiếng sóng đều đều vỗ vào bãi. Lòng tôi buồn vô hạn. Lúc ghe đã đi xa, tôi vẫn còn nhìn thấy ánh lửa nướng cá thấp thoáng ở mạn bãi Sao.
...............................................
Chị Hậu kể tới đây thì dừng lại. Chị cúi xuống, tay chống cằm, đôi mắt ngó mông về phía hàng cây xa. Tầm mắt đó không nhìn hẳn một cái gì hết. Nhớ lại lúc mới tới bệnh viện, tôi đã gặp nhiều lần chị nhìn như thế. Song le, lần đó tôi chỉ hơi ngạc nhiên. Bây giờ mới hiểu rõ hơn. Tôi liền mơ hồ nghĩ rằng, thoạt tiên mới gặp một người nào đó, coi đôi mắt có thể mường tượng được phần nào tính cách, cuộc đời người đó được lắm. Trông qua đôi mắt chị Tư Hậu, lòng tôi lấy làm bồi hồi. Nhận thấy chị không nhắc gì đến Dũng, tôi mới hỏi:
- Chị Tư, câu chuyện giữa chị và đồng chí Dũng ấy thì sao?
Chị Hậu lặng thinh. Chốc sau, tôi thấy chị mỉm cười. Rồi dập tắt ngay nụ cười, chị nhìn một nơi khác nói:
- Anh Dũng à? Tôi quên... anh ấy tập kết ngay sau đình chiến, đi trước cả mấy đứa nhỏ tôi. Từ đó tới nay, tôi biệt có gặp ảnh, nhưng được cái thư từ thì đều lắm. Dũng đi học về luyện kim ở Liên Xô anh ạ. Tập kết ra, đi luôn tới nay. Thư nào gởi về cũng nói...
Chị Tư Hậu ngưng lại, cười nho nhỏ.
Tôi hỏi:
- Thư gửi về nói thế nào?
Chị Hậu nhìn tôi chăm chắm, cười bảo:
- Sợ anh lại cười.
- Cười gì, tôi mà cười chị à. Nói cho tôi nghe đi!
- Trong thư, ảnh nói là kiên quyết không quên tôi. Bạn bè Liên Xô người ta hỏi anh ấy có gia đình chưa, anh ấy bảo là có rồi đưa người ta xem ảnh tôi. Cái ảnh tôi gởi ảnh hồi năm xưa. Đó là trong thư anh ấy nói thế, còn thì không biết thế nào... không biết sao nữa...
Tôi nói:
- Có vậy mà chị không nói. Tôi tin là anh ấy thương chị lắm.
- Anh chỉ nói... Anh biết gì mà tin.
- Như chị kể, thì có thể tin chớ.
- Thôi bữa nào tôi đưa thưa cho anh xem. Đừng có đi nói với ai nghe!
Chị Hậu lại im, hồi sau bắt sang chuyện khác.
- Vừa qua tôi kể chuyện cho anh nghe có lợi gì cho anh không? Chắc anh nghe mãi cũng chán.
Tôi lật đật đính chính:
- Không đâu, tôi không chán đâu. Có lẽ rồi sau tôi phải hỏi lại chị cho cặn kẽ là khác.
- Tôi không tin là anh cần đến thế!
Nói rồi chị Tư Hậu nhìn soi sói vào tôi, có vẻ như nghi hoặc tôi lắm vậy. ý chừng như coi chuyện ghi chép của tôi bấy nay chỉ là bày vẽ ra thế thôi chứ chắng có sự quyết tâm chi hết. Chị nói:
- Đấy, tôi đã kể cho anh nghe hết về đời tôi rồi đấy... Anh thấy sao? Trước kia có may mắn sung sướng lắm không? Mà quên, tôi quên nói ra đây hai năm rồi tôi cũng chưa hề gặp mặt hai con tôi.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Sao lại không gặp?
- Tôi tập kết ra sau, hai cháu nó đều đã sang Trung Quốc học cả, thành thử không gặp được. Chúng nó học ở Quế Lâm. Con Ngọc Thủy năm nay lên lớp bốn rồi, còn thằng Nhã học lớp ba. Tôi gởi thư, chúng nó nhận được và viết thư cho tôi luôn. Lại có gởi cả ảnh nữa. Thằng Nhã có phần béo ra. Còn con Thủy trông xinh lắm. Tôi biết, con bé lớn lên thế nào cũng xinh. Chà, tóc tết bím buộc nơ, miệng tủm tỉm cười. Chụp ảnh ra dáng cô học sinh lắm... Để mai, mai tôi đưa ảnh nó cho anh xem.
Chị Hậu nói và theo lời nói nét mặt chị rạng lên. Lâu nay tôi để ý, thấy mỗi lần nhắc đến con, chị đều thay đổi tương tự như thế. Tôi ngắm nhìn gương mặt chị, thấy vẻ u sầu biến đi đâu cả. Ước chừng là chị đang sung sướng. Trong lúc đó, hình như chị quên tất cả, coi như không có tôi ngồi cạnh chị nữa. Tôi cũng hớn hở theo mà nói:
- Nghe đâu mùa hè tới, học sinh ta ở Trung Quốc có về nước nghỉ đấy!
- Phải tôi có nghe. Hè này, chúng nó sẽ về nước. Tôi định xin phép bệnh viện đi đón cháu. Đợi hoài cái ngày đó, thấy nó lâu đến làm sao.
Giọng chị Hậu trở nên tha thiết, như còn muốn nói nhiều về các con chị nữa. Nhưng trên hành lang, cô hộ lý đã dịu dàng mời chúng tôi vào rồi. Tôi và chị Hậu đứng dậy. Tiết trời hôm nay bỗng chuyển ấm. Những y tá, hộ lý khoác "bơ-lui" trắng đi đi lại lại có vẻ mạnh bạo, chứ không thu người co ro như trước. Và bóng đêm xuống trong bệnh viện cũng có vẻ sắp trút bỏ cái giá rét của những đêm đông mà đi theo tiếng gọi của một mùa mới.
Buổi chiều, những chiếc ghế đá không còn buốt lạnh nữa. Quanh bệnh viện cây lá đã hóng được ánh nắng mặt trời. Chiều nay là buổi chiều cuối cùng của tôi ở bệnh viện. Đáng lẽ ra khỏi nhà thương thì dễ chịu. Tôi thì vừa dễ chịu lại vừa ái ngại. Là vì tôi vừa khỏe lại thì cơn bệnh của người chị đồng hương tôi lại có phần tăng lên.
Chiều nay, cũng bên chiếc ghế đá cũ, chị Hậu ngồi xuống. Chị tựa lưng vào thành ghế một cách mệt nhọc. Tay trái chị luôn luôn áp vào cổ. Cổ chị mấy ngày rày bị sưng lên. Hạch lao gì đó, đã tới lúc hành hạ chị nhiều hơn trước. Nó làm đầu chị luôn nhức nhối. Và mỗi lần ho là một lần chị đau đớn vất vả. Tôi mới ngồi xuống chưa kịp nói gì, thì chị đã ho rung lên một chập dài. Tôi thu hai tay vào lòng, miết mấy ngón tay lại như cố chận bớt tiếng ho kia. Cơn ho dịu rồi, mặt chị bừng đỏ, nước mắt trải giàn giụa. Chị lấy khăn chùi vội và đưa tay vuốt cổ. Qua một cơn ho vật vã như thế, sắc diện chị cũng không thay đổi mấy. Nhìn chung dáng vẻ chị vẫn gọn gàng. Từ nếp áo lụa trắng đến chiếc khăn quàng cổ, mọi cái vẫn tinh tươm thẳng thớm. Với lại, đôi con mắt vẫn ánh lên tia sáng dìu dịu. Hình như cảnh sắc và không khí mùa xuân đương về tới, làm chị yêu mến cuộc sống hơn. Lúc cơn bệnh trên đà đi tới, đối với cuộc sống và tạo vật chung quanh, chị càng lộ rõ vẻ tha thiết hơn.
Qua hàng chấn song bệnh viện, đường phố rộn rịp, xôn xao dưới nắng chiều. Người đi làm về tấp nập. Một tốp em gái học sinh nhỏ từ một trường nào đó ra, nói cười ríu rít như một bầy chim. Tôi nhìn những cảnh ấy, theo hướng mắt của chị Hậu. Từ nãy tới giờ tôi định nói mấy lời từ biệt, thế mà vẫn chưa nói được. Cứ lo nói ra tức thì chị sẽ nhận thấy nỗi khoan khoái của một người được rời bệnh viện, rồi đối chiếu với bản thân và càng sốt ruột hơn.
- Sáng sớm anh về cơ quan à?
Thình lình chị hỏi tôi trước. Tôi gật đầu. Chị lại nói:
- Về rồi khi nào rảnh vào thăm tôi nhé!
Tôi nói:
- Thế nào tôi cũng đến thăm chị.
- Anh có sách gì hay nhớ có vào, đem cho tôi mượn vài quyển.
- Được rồi.
Tôi ngồi im một lúc rồi nói:
- Chị Tư à, tôi thấy có lẽ là chị nên mổ thôi.
- Cái đó thì bác sĩ đã hỏi ý kiến tôi. Tôi hoàn toàn bàn giao bệnh trạng tôi cho bác sĩ. Mổ cũng tốt thôi, đau đớn mấy tôi cũng ráng chịu được. Chỉ cần là để cho tôi sống. Nói vậy không phải là tôi chỉ sợ thiệt cái thân tôi đâu. Sợ là sợ... Anh biết đấy, nếu tôi còn sống thì tôi vẫn không đến nỗi vô dụng. Với lại tôi chỉ còn hai con, tôi mà chết...
- Chị cứ nói chết chết. Ai lại để cho chị chết.
- Phải rồi, nhưng tôi nghe đâu là cái bệnh tôi mổ nguy hiểm lắm.
- Có thể nguy hiểm, nhưng cũng có thể không có gì nguy hiểm. Tôi nghe ông bác sĩ nói rồi.
- Nói sao?
Chị Hậu chụp hỏi làm tôi lúng túng:
- Nói... đại khái như thế!
Chị nghe tôi đáp, vùng cười. Tôi bèn lảng sang chuyện khác:
- Chị Tư à, tôi định sắp xếp những lời chị kể viết thành truyện, chị có bằng lòng không?
Chị Hậu thản nhiên đáp:
- Cái đó thì tùy anh, tôi không có ý kiến.
Ngưng một chốc, chị lại bảo:
- Anh viết thì viết nhưng chớ để tên thật của tôi.
- Sao vậy?
- Các anh thường hay thêm thắt. Nói quá đi, mà lại để nguyên tên thật, có khi làm cho người ta mang tiếng là nói khoác.
Tôi nghe nói mà sửng sốt. Cái chuyện như thế tưởng chỉ có một số người biết, té ra chị Tư Hậu cũng biết. Nhưng tôi cảm thấy hào hứng, bèn hỏi:
- Chị nghe ai nói thế?
- Người quen nói.
Rồi chị lại vụt cười:
- Nếu anh viết ra, anh định đặt cho cuốn truyện anh tên gì?
- Tôi chưa đặt. Khi nào viết xong tôi mới đặt tên.
Chị Tư Hậu gật gật đầu:
- ờ... phải, cái tên cũng không quan hệ lắm...
Tôi hỏi:
- Nhưng theo chị, nên đề là gì?
Chị Tư Hậu cười:
- Tôi biết đâu được.
Chợt nhiên, chị kéo tay tôi chỉ về khu nội thương. ở cuối tường, thấp thoáng có một vạt áo trắng, trên vai áo hai cái bím tóc đuôi chồn quất qua quất lại.
- Thế nào mai anh đi, cũng phải có lời từ giã cô em chớ?
Tôi lặng thinh cười, không đáp. Chị Hậu nói tiếp:
- Có gì thì nói với tôi, tôi lo cho. Còn không có gì cũng tỏ ra là không có gì. Chớ đừng nửa giỡn nửa thật, không nên đâu. Dẫu sao nó cũng là em tôi rồi đa...
Tôi cứ im lặng mà cười. Tôi biết chị Tư Hậu nói đùa. Thực tình tôi cũng không có ý nghĩ gì về cô em ấy. Song lẽ tự nhiên thấy buồn rười rượi. Trên hai tháng sống ở bệnh viện, tôi gặp nhiều người tận tâm, từ ông bác sĩ già đến cô hộ lý trẻ. ở đấy, tình yêu thương con người, lòng vị tha xuất hiện rất rõ, rất sâu sắc. ở đấy, tôi gặp chị Tư Hậu, một người đàn bà của quê hương tôi, đã thuật lại cho tôi nghe truyện đời bình thường mà cao đẹp. Đó là cái sự kiện khiến tôi suy nghĩ, ghi nhớ nhất. Về người đàn bà ấy, hiện tại ở miền Bắc, hiện tại ở cái xưởng dệt của chị thế nào thì tôi chưa thật rõ. Nhưng cái điều tôi biết rõ, thì chị là một người thợ dệt đứng bốn máy vào loại giỏi. Tôi không lấy làm ngạc nhiên gì cho lắm. Cái quá khứ cũ của chị đã là các đảm bảo rất chắc chắn cho hiện tại và ngày mai của chị rồi. Một con người đã trải qua bao thử thách như thế, khiến cho tôi tin được rằng trong công cuộc xây dựng mới của đất nước, chị sẽ không bao giờ là một người rụt rè, do dự.
Mùa xuân năm nay hơi ngắn. Chừng như nó chỉ vừa xuất hiện thì mùa hè lại đến. Ve sầu ở các cây đường phố đã họp bầy kêu ra rả. Từ sau khi tôi ra khỏi bệnh viện thì bệnh trạng chị Tư Hậu tăng lên cách đột ngột. Không có dịp gặp chị, nói chuyện như trước nữa. Nhưng tôi vẫn thường tới lui thăm chị. Y hẹn, tôi đem đến cho chị mấy quyển sách. Cũng không rõ là chị có đọc được hết chưa. Cổ chị càng sưng lên nhiều và óc chị nhức nhối. Chị đã không thể đi dạo quanh như trước, ngày ngày nằm liệt trên giường. Ngày mát trời thì chị tỉnh, những đêm oi bức chị bắt đầu mê sảng. Nhiều khi tôi đến thăm ngồi bên đầu giường mà chị không hề hay biết.
Một chiều mát tôi đến. Cô Hiền hộ lý đưa tôi vào. Vừa đi cô ta vừa nói giọng rầu rầu:
- Anh biết không, hồi trưa chị ấy lại nói mê nữa đấy.
Tôi hỏi:
- Chị ấy nói những gì?
- Toàn gọi tên con thôi anh ạ. Gọi con xong, ú ớ một lúc, khi tỉnh dậy chị ấy quờ quạng tay trên giường như tìm thứ gì, mà nước mắt cứ giàn giụa cả ra. Em ở liền bên chị cả ngày lẫn đêm, nhiều lúc khổ tâm quá.
Tôi chau mày. Chân bước vội vã theo Hiền, lòng tôi bồn chồn lo lắng. Vào đến nơi, Hiền dắt tôi đến bên chị Tư Hậu:
- Chị Tư, có người đến thăm chị.
Tôi nhấc chiếc ghế đến ngồi bên. Chị Hậu nằm ruỗi thẳng chân. Người chị có gầy hơn trước, da mặt thì trắng nhợt. Nhìn chung thấy chị yếu đi nhiều, nhưng đôi mắt vẫn y nguyên, vẫn sáng dịu. Chị nằm nhìn tôi, gượng nhếch miệng cười. Tôi hỏi:
- Chị Tư hôm nay có đỡ không/
Chị gật đầu, có vẻ như đỡ, cũng có vẻ như không đỡ. Hiền đặt lên trán chị một chiếc khăn trắng dúng nước. Chị đặt nhẹ tay lên khăn. Lâu lắm chị mới nói với tôi:
- Anh ạ... Tôi sắp mổ. Cùng lắm là năm hôm nữa.
- Thế à?
- Bác sĩ đã quyết định và tôi cũng đã đồng ý rồi!
- Mổ được thì khỏi hẳn đấy chị ạ.
- Tôi cũng tin thế, nhưng...
- Sao?
Chị chép miệng nói:
- Rủi quá. Không biết chừng nào sắp nhỏ tôi nó về nước.
Tôi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Chị cứ yên tâm lo mổ. Đừng nghĩ ngợi nhiều. Nếu các cháu có về tôi đi đón hộ cho.
Chị Tư Hậu nói:
- Nếu anh giúp được... thì cám ơn anh lắm.
- Sao tôi lại không giúp được. Chị đừng lo.
Chị Tư Hậu nằm yên không nói. Hình như chị đang suy nghĩ điều gì lung lắm. Một lúc sau chị nói chậm rãi:
- Anh ạ, tôi nói là nói thế. Chứ rủi ro mà tôi có sao đi nữa, tôi cũng không còn phải lo ngại lắm về các con tôi, phải không anh. Ngày nay, tương lai của con cái mình đã nắm chặt trong tay, cuộc đời mới này sẽ dạy chúng thành người. Tôi tiếc là tiếc chưa tận mắt nhìn thấy sự lớn khôn của chúng nó thôi...
- Chị Tư nói phải lắm. Tôi cũng nghĩ như chị. Nói ví dụ, có hề gì thì các cháu nó vẫn bước đi trên một đoạn đường rất đẹp, rất sáng sủa. Nhưng mà... sao chị lại cứ nghĩ đến cái chết thế nhỉ? Đừng nghĩ lẩn quẩn thế chị Tư à. Tôi không bao giờ nghĩ rằng chị lại mất đi được...
Chị Tư Hậu nghe mấy lời tôi nói thì lừ lừ nhìn tôi có ý hơi giận. Nhưng nét mặt chị dịu ngay xuống. Chị đặt hai tay lên ngực, nhìn lên trần nhà thong thả nói:
- Không bao giờ tôi nghĩ đến cái chết nữa. Kể từ những ngày đầu, khi tâm hồn tôi còn yếu đuối nhất đã có lần tôi nghĩ tới cái phương sách đáng chê đó... Thế mà tôi vẫn sống đến bây giờ. Anh ạ bây giờ thì tôi không thể bỏ cuộc sống này mà đi đâu cả. Ngoài các con tôi ra, tôi còn có nhiều điều khác phải nghĩ đến. Tôi còn có những đồng chí của tôi... Vả lại đời sống hiện nay cũng còn phải khổ nhọc nhiều mới sướng được. Tôi có thể góp phần. ở xưởng, tôi dệt được... Với lại, anh biết đấy, chúng ta còn có quê hương hiện đang oằn oại...
Nói tới đó, chị Tư Hậu dừng lại mím chặt nhẹ môi. Cái đôi môi bấy giờ trông hơi nhàn nhạt chứ không được thắm như trước. Sợ nói chuyện lâu làm chị mệt, tôi ngồi im một chốc rồi đứng dậy:
- Thôi chị Tư nghỉ nhé, tôi về đây!
- Anh về, có gì mong anh giúp tôi.
- Chị cứ yên tâm.
Tôi quay ra. Hiền hộ lý nãy giờ đứng im sau lưng tôi, giờ rón rén bước tới giường kéo chăn đắp kín ngực chị Tư Hậu. Tôi chưa kịp đi thì Hiền gọi tôi lại. Cô nhấc chồng sách trên kệ trao cho tôi.
- Chị Tư nhờ trả anh.
- Chị ấy đã đọc hết rồi à?
Hiền lắc đầu:
- Chị ấy mới đọc cuốn "Người mẹ". Còn cuốn "Dôi-a", đọc đâu mới được tập một thì bác sĩ không cho đọc nữa. Nói đọc nhiều, suy nghĩ có hại cho óc. Chị ấy đọc sách mê quá. Chị nói trả lại anh, sau sẽ mượn đọc tiếp, sợ anh cần mà không có... Mà anh có cần không, nếu không thì cho tôi mượn.
- Cô cứ giữ lấy mà đọc.
Tôi nói rồi đi thẳng ra ngoài. Vừa đi tôi vừa ngẫm nghĩ, buồn rầu và căm tức sự bệnh hoạn. Chiến tranh đã dày vò chị Tư Hậu chưa đủ, hòa bình rồi, con bệnh lại tiếp tục dày vò chị. Sắp mổ một sống một chết mà chưa gặp được con. Bất đỗi đã nằm liệt giường, đến sách còn không được đọc.
Dọc đường ra cổng, tình cờ tôi gặp bác sĩ. Tôi hỏi thăm về bệnh trạng chị Tư Hậu. Người thầy thuốc già thọc sâu tay vào túi áo "bờ-lui", đoạn rút tay ra nhấc cặp kính xuống, nhìn tôi suốt lượt. Tôi biết rằng ông không còn lạ gì tôi nữa, nhưng đó là cái tật của ông. Nhìn tôi xong, ông rút khăn vừa lau kính, vừa nói:
- Chúng tôi đã xét kỹ. Nhất thiết là phải mổ rồi. Nhưng trường hợp này, nói riêng với anh, rất gay go đấy. Hạch lao đã phát triển từ lâu. Do cơ thể gian khổ nhiều, mất sức nhiều, bị nhiễm trùng sớm. Trong y học, khoa giải phẫu cũng thường gặp nó. Nhưng có trường hợp nặng, trường hợp nhẹ. Đây là một trường hợp nặng. Mổ được hạch lao, lưỡi dao phải tránh nhiều tĩnh mạch và động mạch. Vô ý trệch giao một tí thôi, là nguy ngay.
Nói tới đây ông ngừng lại, nhìn tôi và hỏi:
- Anh là thế nào, ở cùng quê với chị ấy à?
Tôi gật đầu. Ông ta cũng gật đầu tự trỏ vào người:
- Anh lo lắm phỏng. Lo là phải. Nhưng tôi còn lo hơn anh nhiều. Tuần lễ nay, tôi để tâm nghiên cứu vị trí chính xác của hạch lao. Ngoài ra còn phải nghiên cứu tài liệu, tham khảo ý kiến các bác sĩ bạn Liên Xô, Hung...
Rồi ông lẩm bẩm một mình:
- Đối với chị ấy, tôi biết... Chị ta là một phụ nữ đặc biệt. Một nữ cán bộ, một người mẹ. Cán bộ ra cán bộ, người mẹ ra người mẹ... ở Nam Bộ các anh, còn nhiều chị cán bộ như thế lắm phải không?
Tôi nói:
- Rất nhiều người tương tự như vậy.
- Tôi là người ngoài mà, nhưng tôi có vào Nam Bộ ít lâu. Thành thật mà nói, tôi thú nơi các anh lắm. Đất đai phì nhiêu, cái đó đã đành. Nhưng con người... con người thì dễ chịu lắm.
- Dễ chịu à?
- Phải, rất dễ chịu, phóng khoáng, rộng rãi và thật lòng. Bụng dạ nghĩ sao là cứ nói thế. Tôi không có nịnh các anh đâu, nhưng thật thế. ở trong bệnh viện này, tôi biết lắm... Có lần một anh Nam Bộ nói thẳng là ghét tôi, bảo là tôi cứ gặp anh ta nhìn chằm chặp, coi anh ta như là gián điệp ở đâu lọt vào bệnh viện. ấy, thế đấy... nhờ đó mình thấy ra ngay, về sau anh ta lại rất thân với tôi...
Nghe bác sĩ thổ lộ, tôi hơi bối rối. Cuối cùng ông vỗ vỗ vào vai tôi:
- Anh cứ yên trí, không sao đâu.
- Tôi tin ở các đồng chí.
- Anh vẫn vào thăm chị ấy thường chứ?
- Vâng.
- Thế hôm mổ anh có đến được không?
Tôi nói:
- Thế nào tôi cũng đến.
- Được rồi. Giờ tôi bận đi thăm bệnh, thôi chào anh.
- Chào đồng chí.
Bác sĩ già hấp tấp đi. Tôi nhìn theo khổ người gầy gầy của ông. Không phải riêng gì tôi, đúng là ông ta cũng đã thấu hiểu đời chị Tư Hậu. Điều đó khiến cho tôi càng vững tâm hơn. Rõ ràng là ông ta đang chuẩn bị, tận tâm để cứu lấy một người đàn bà dũng cảm của quê hương tôi. Tôi thầm chúc cho ông ta thành công, hết lòng mong mỏi ông ta cứu được chị, để mang đến hạnh phúc chứ không đem lại đau thương cho các con chị.
Tôi về đến nhà trời đã sẩm tối. Tôi ngồi lại bàn đem sấp bản thảo ghi chép chuyện chị Hậu ra đọc từng đoạn một. Đọc lại xong rồi, tôi cứ ngồi suy nghĩ miên man. Xem đồng hồ đã thấy mười một giờ. Tôi đứng dậy đến bên cửa sổ. Tôi nghĩ đến một cái tên cho truyện. Nhưng nghĩ mãi mà vẫn chưa chọn được một cái tên nào cho dứt khoát. Tôi thấy mình như đang đứng trước một màn kịch sắp kết thúc. Chừng kết thúc, mới rõ được tính chất mà đặt tên được. Nhan đề của truyện có thể mang ý nghĩa đau thương, cũng có thể nói lên những niềm vui lớn. Ngoài kia, đêm khuya dần. Phố phường đã bắt đầu trở về yên tĩnh. Tôi nhìn xuyên qua đêm, trong đầu vụt mường tượng ra một cảnh bão biển. Bên dưới sóng cả gào thét. ở trên quả biển bay lượn từng bầy chực cắp lấy mấy con gà con trên bãi mà ăn thịt. Biển lặng rồi, gà con lớn lên và gà mẹ bị trọng thương...
Trong đêm khuya tôi hình dung ra thế. Nghĩ rằng cảnh sống côi cút của mẹ con chị Tư Hậu trước kia cũng không khác gì thế. Bây giờ, bóng đêm bao bọc quanh tôi càng lắng sâu xuống. Trong bóng tối ấy, nồng lên cái oi ả của thời tiết trời sang hạ.
Buổi sáng ngày Chị Hậu mổ, tôi đến bệnh viện. Một chị hộ lý cản tôi trước phòng mổ không cho tôi vào. Kinh nghiệm tôi biết là năn nỉ cũng vô ích. Tôi bèn hỏi dò chị ta:
- Chị Hậu đã mổ chưa, và ra thế nào rồi, cho tôi biết với!
Chị hộ lý chớp mắt, nói khẽ vào tai tôi:
- Chưa mổ, nhưng sắp sửa. Tôi cũng chưa biết ra sao cả. Có lẽ là vừa chụp thuốc mê xong. Anh tới sớm thế. Không được vào đâu!
Tim tôi đập mạnh. Nỗi lo lắng kéo tới quấy động trong đầu tôi. Qua khung cửa chớp của phòng mổ, tôi chợt nhìn thấy dạng những chiếc áo "bờ-lui" trắng thấp thoáng qua lại. Và cái sống áo của một nào giống như bác sĩ, cúi xuống rất lâu không động đậy.
Chị hộ lý tựa lưng vào tay thang gác, nhìn tôi hỏi:
- Anh lo lắm phải không? Tôi không đáp. Chị ta tiếp lời:
- Không phải chỉ có một mình anh lo. Tôi cũng lo lắng cho chị ấy còn hơn anh lo. Nhưng nỗi lo lắng của tôi và anh vẫn còn thua bác sĩ. Mấy đêm trước, anh biết không, ông ta đều thức đến một hai giờ để theo dõi bệnh tình của chị Hậu. Hồi hôm thì ông ta đi ngủ sớm để bữa nay làm việc... Tôi thì tôi tin. Còn anh, anh cũng phải tin là...
- Tin sao?
- Tin là chị ấy sẽ sống. Ba giờ nữa anh đến đây, mọi việc rồi sẽ rõ hết!
Tôi im lặng và chào chị ta.
Ra khỏi cổng, tôi rảo bước trên đường phố, đầu óc cứ bị nỗi lo lắng quấy nhiễu. Một cuộc đấu tranh giữa sinh mệnh và cái chết, giữa hy vọng với đau thương giờ đây đang diễn ra trong gian buồng mổ bệnh viện. Nếu người chị đồng hương của tôi có mệnh hệ nào thì các con chị sắp về chuyến nghỉ hè tới thật là không may mắn. Hai đứa trẻ xinh xắn kia sẽ trở nên đáng tội nghiệp nhất trong đời. Còn như Dũng, người đồng chí thân thiết đã nhóm lại hạnh phúc tuổi xuân cho chị, hiện ở nước bạn xa xôi, lúc nào cũng nghĩ đến chị, nếu mà nhận được tin ấy, anh sẽ đau đớn là dường nào. Bản thân tôi, người đồng hương đã hiểu rõ cảnh tình và đời sống của chị, chắc cũng không tránh sao được nỗi đau đớn sẽ giày xéo tâm can.
Phố xá trước mặt, người và xe cộ đi trên đường không ngớt rộn rịp. Tôi không chú ý gì đến. Cảnh vật ấy hôm nay đối với tôi, dường như đang ở giữa lằn ranh giới của hai ý nghĩa. Một là nó sẽ càng rộn rịp tươi vui hơn, hoặc rồi tôi sẽ thấy nó ảm đạm. Song sau đó hình ảnh lúi húi tận tình của bác sĩ và những nhân viên phục vụ ở cửa kính phòng mổ lại hiện ra. Tôi gìn giữ lấy hình ảnh đó mà tin, mà hy vọng... Tôi bước đi từ hè phố này sang hè phố khác. Cứ thế mà đi mãi, lẩn quẩn loanh quanh. Khi còi hụ lên, bụng đã thấy đói, nhưng nghĩ đến về tới nhà thì ngại. Liền tạt vào vườn hoa nhà hát, đến ngồi bên một ghế đá. Những chiếc ghế đá ban trưa rất vắng người. ở gần cuối vườn hoa, sau đám cúc tím, độc nhất chỉ có một cặp tình nhân đang trò chuyện thủ thỉ. Giữa ban trưa giờ nghỉ thế này, thật chỉ có thể còn những đôi lứa yêu đương và người có tâm trạng lo lắng chờ đợi như tôi là lưu lại. Bầu trời âm âm u u... Hè rồi, mà khí tượng bấy giờ xem chẳng có gì là hè cả. Tôi ngồi một lúc lại nhìn đồng hồ. Còn tới hai mươi phút nữa, nhưng tôi đứng dậy đi trở lại bệnh viện.
Một chị khác đã thay chị hộ lý ban nãy, đứng trước phòng mổ. Tôi tiến đến trước chị ta nói:
- Xin cho tôi vào thăm người bệnh đang mổ, tôi là thân nhân...
Chị hộ lý nhìn tôi suốt lượt và lắc đầu. Trời, trông chị ta khó tính làm sao. Đã không cho vào mà cũng không nói với tôi một lời. Không kể thế nào, tôi dẫm chân lên bậc thang, tỏ vẻ như bất cần cái lắc đầu của chị ta. Chị liền chụp lấy tôi. Hai bàn tay béo nung núc của chị ta bơi bơi trước mắt tôi:
- Cái đồng chí này, ai cho phép đồng chí vào.
Ngừng một chút, vả lại, thấy tôi có vẻ thành khẩn nhận lỗi, chị dịu giọng:
- Mổ rồi. Chị ấy đang mê man. Chưa biết ra sao. Hai tiếng đồng hồ qua bác sĩ cũng chưa cho tôi vào đâu. Đồng chí đừng nóng, đợi một tí nữa thôi!
Tôi bóp chặt hai bàn tay, tim đập gấp. Rồi liền quày quả trở ra, quên cả chào chị hộ lý. Tôi không đủ cam đảm đứng ở đấy lâu nữa, chỉ sợ cái tin cuộc mổ kết thúc thất bại từ trong phòng mổ bất thần xổ ra đâm thẳng vào tim mình. Ra khỏi cổng tôi đi một mạch về nhà. Khi về đến nhà tôi chưa kịp lên thang gác thì gặp bà cụ già nấu cơm giữ tôi lại:
- Anh đi đâu mà không về ăn cơm. Tôi dọn cho anh ăn nhé.
Tôi nói:
- Thôi cụ ạ, cháu không ăn đâu.
Nói xong tôi lại trở ra, đi như chạy đến bệnh viện.
Lần này khi tới đến nơi, trước phòng mổ không còn chị hộ lý nữa. Cánh cửa phòng mổ mở hoác. Trong phòng vắng ngắt chẳng có ai. Chiếc bàn mổ bằng đá trắng trơi trọi, lấp loáng nước. Tôi lặng người giây lâu. Cố lấy lại bình tĩnh tôi chạy đi tìm chị hộ lý thường trực. Tìm mãi mà không gặp chị ta. Không luận thế nào, tôi thẳng tới phòng bác sĩ. Nghe tiếng gõ cửa, bên trong một tiếng vọng ra:
- Cứ vào!
Tôi đẩy cửa. Trong phòng, bác sĩ già thoáng thấy tôi liền nở một nụ cười. Ông ngồi im lặng, tay không rời chiếc thìa quấy cốc cà phê nóng khói. Tôi nhìn bấy nhiêu cử chỉ đó của ông, mắt lóe lên vì sung sướng. Bác sĩ chưa nói nhưng tôi đoán ra được rồi. Bác sĩ đứng dậy nắm lấy tay tôi. Tôi miết chặt mấy ngón tay đó, cố sao cho nước mắt khỏi ứa ra. Bác sĩ nói một câu rất gọn: "Giờ thì chúng ta có thể yên tâm lắm rồi!". Giọng nói của ông lộ rõ xúc động và sung sướng. Tôi muốn vụt ôm lấy khổ người cao gầy của ông mà nói mấy lời cảm tạ. Bàn tay của bác sĩ vẫn nắm chặt lấy tay tôi. Cái nắm tay của chúng tôi như biểu hiện sự khánh chúc thắng lợi. Phải rồi, hai bàn tay chúng tôi đang siết chặt nhau đó chính đang nói lên cái thắng lợi của sự hàn gắn những mất mát và đau thương. Trong hòa bình ngày nay, cuộc giao tranh với cái chết do chiến tranh để lại đã chiến thắng.
Bấy giờ giữa cơn cảm xúc của tôi, thình lình truyện đời cũ của chị Tư Hậu vụt hiện ra. Tai tôi hình như nghe thấy có tiếng sóng vỗ dìu dịu, xa xôi... Tự nhiên tôi nghĩ tới những cái gì rất đẹp đẽ đang chờ đợi người chị đồng hương của tôi. Mối tình giữa Dũng và chị rồi sẽ ra sao. Hai đứa cháu sắp về nghỉ hè sẽ gặp gỡ chị rồi mẹ con sẽ sung sướng như thế nào... Cuộc sống chân chính và có ý nghĩa của chị rồi đây sẽ cứ tiếp tục.
Nắng trưa trong bệnh viện vẫn chói chang. Cởi mở và nồng nhiệt, nắng trang trải tắm đều mọi vật. Từ con đường nhỏ rải sỏi cho đến các ghế đá. Vàng như mật, nắng tráng chảy trên cửa kính. ánh nắng đem theo niềm vui rộn rã của một ngày sang hạ tỏa rực cả lòng tôi.
Hà Nội, mùa đông 1957