Khi Eddie Deakin bước xuống thuyền máy để vào bờ anh cảm thấy thái độ của bạn bè trong phi hành đoàn có vẻ lạnh nhạt với anh. Họ quay mắt không nhìn anh. Tất cả đều biết suýt nữa thì máy bay hụt nhiên liệu và họ sắp rơi xuống biển đang bị bão táp hoành hành. Chưa ai biết nguyên nhân tại sao, nhưng vấn đề nhiên liệu là trách nhiệm của cơ khí trưởng.
Họ đã nhận thấy thái độ kỳ lạ của anh trong chuyến bay, họ thấy anh đã cãi cọ với Tom Luther trong bữa ăn tối, họ biết chuyện kính bị vỡ. Cho nên họ cảm thấy Deakin có cái gì đấy khiến họ hoàn toàn không tin cậy. Mọi người trong phi hành đoàn đều cảm thấy như thế vì trong một tập đoàn nhỏ bé đồng nhất này, cuộc sống của mỗi người đều phụ thuộc đến người khác.
Nghĩ đến chuyện bạn bè không tin anh nữa, khiến Eddie cảm thấy như nuốt bồ hòn vào họng. Anh vẫn tự hào là người được mọi người xem là vững vàng nhất. Anh lại còn nổi tiếng là người không tha thứ cho mọi lỗi lầm của người khác, và luôn luôn khinh bỉ những người vì chuyện cá nhân mà gây thiệt hại cho tập thể._ Thỉnh thoảng anh nói: “Ân hận thì sự đã rồi”, - và chính lời nói đùa này bây giờ làm cho anh đau đớn.
Anh đã tự nhủ, cứ làm ngơ trước tình trạng này để cứu cho được vợ. Anh đã đánh liều mạng sống của bạn bè, nhưng hành động liều lĩnh đã thành công.
Chính đây là điều quan trọng. Cơ khí trưởng đã lâm vào thế quá kẹt, anh vốn vững vàng như tảng đá, nhưng tình hình đã biến anh thành người bất ổn, người cần phải được canh chừng để khỏi rơi vào trường hợp hoàn toàn sai trái. Anh ghét những người như thế và anh ghét mình.
Một số lớn hành khách ở lại trên máy bay, như thường thấy khi máy bay đáp xuống Botwood: Máy bay là nơi yên ổn để khách có thể chợp mắt được một chút. Nhân viên mật vụ FB, Ollis Field, và tù nhân Frankie Gordino, dĩ nhiên ở lại trên máy bay như khi đến Foynes. Ngược lại, Tom Luther xuống thuyền máy vào bờ, hắn mặc chiếc măng tô có cổ lót lông thú và đội cái mũ màu xám bạc.
Khi họ lên đến tàu, Eddie đến gần bên hắn, nói nhỏ:
– Đến đợi tôi ở toà nhà chính của hãng. Tôi sẽ chỉ chỗ có máy điện thoại cho anh.
Botwood gồm một dãy nhà gỗ chen chúc nhau quanh một vũng tàu có nước sâu trong cửa sông khuất gió rất đẹp. Khách giàu sang trên máy bay Cipper chắc không thấy ở đây có gì đáng mua. Trong làng mới có điện thoại hồi tháng , và thinh thoảng mới có vài chiếc xe hơi chạy bên tay trái, vì Terre Neuve là nơi nằm dưới quyền cai trị của người Anh.
Khách đi vào trong lán của hãng Pan American, còn phi hành đoàn vào phòng làm việc. Eddie liền đến xem bản thông tin khí tượng đo trung tâm truyền tin thông báo, trung tâm này do hãng hàng không mới xây cất cách hồ Gander khoảng gần 50 cây số. Anh tính toán lượng nhiên liệu cần thiết để bay trong đoạn tiếp theo. Đoạn bay này ngắn hơn những đoạn bay trước nhiều, nhưng anh phải tính toán cho thật kỹ, vì tính theo cước phí vận chuyển để đưa ra, máy bay không được chở quá nhiều nhiên liệu. Vừa tính toán, Eddie vừa tự hỏi không biết rồi đây anh có được bay trên máy bay với lòng thanh thản không lo sợ như thế này nữa không. Câu trả lời hiện ra trong óc anh rất rõ ràng: sau chuyện xảy ra này, chắc sẽ không bao giờ anh được làm cơ khí trưởng trên một chiếc thủy phi cơ nữa.
Trước mắt, anh phải cố lấy lại lòng tin của Cơ trưởng. Anh quyết định làm ra vẻ mình nghi ngại việc tính toán của mình. Anh tính toán hai lần rồi đưa kết quả cho Cơ trưởng Baker xem, và bằng giọng rất tự nhiên, anh nói:
– Tôi muốn có người kiểm tra lại kết quả này.
– Chắc là không sai đâu, - thượng cấp của anh đáp giọng dửng dưng; nhưng anh có vẻ hài lòng, như thể ông ta muốn đề nghị người nào đấy kiểm tra, nhưng rồi không làm nữa.
– Tôi đi nghĩ giải lao một lát, - Eddie nói rồi đi ra ngoài. Anh thấy Tom Luther đứng trước văn phòng hãng Pan American, hai tay thọc vào túi, buồn bã nhìn mấy con bò đang gặm cỏ trong cánh đồng. Eddie nói:
– Tôi dẫn anh đến phòng điện báo. - Nới xong, anh đi lên ngọn đồi và nói tìếp:
– Theo tôi nhanh lên, tôi còn về có việc gấp. - Luther vội vã di theo, hắn có vẻ lo sợ, không muốn chọc giận Eddie.
Trên đường đi, họ gặp hai người hình như từ phòng điện báo trở về, họ chào nhau. Đây là ông Lovesey và bà Lenehan, hai người lên máy bay ở Foynes.
Người đàn ông mặc áo bludông của phi công. Eddie đang trong trạng thái chán nản, anh thấy hai người có vẻ vui sướng. Nhiều người nói Carol-Ann và anh được sống trong hạnh phúc, bây giờ nhớ lại lời họ nói, anh cảm thấy đau đớn não nề.
Họ đến văn phòng, Luther viết lên giấy số điện thoại hắn muốn gọi Eddie tảng lờ như không trông thấy. Họ đi vào trong căn phòng nhỏ có máy điện thoại với hai cái ghế ngồi, họ kiên nhẫn đợi điện thoại trả lời. Vào giờ còn sớm như thế này, đường dây điện thoại chắc không bận lắm, nhưng việc nối đường dây từ đây cho đến Maine không phải dễ dàng.
Eddie tin Luther sẽ nói với đồng bọn của hắn dẫn Carol-Ann đến chỗ hẹn.
Như thế, Eddie sẽ dễ dàng hành động khi Gordino được bọn chúng giải thoát.
Nhưng anh sẽ hành động như thế nào? Dĩ nhiên giải pháp hay nhất là báo cho cảnh sát biết bằng máy truyền tin, nhưng chắc thế nào Luther cũng đã nghĩ đến chuyện này, và anh tin chắc thế nào hắn cũng tìm cách để vô hiệu hóa máy truyền tin trên chiếc thủy phi cơ. Và cuối cùng khi cảnh sát đến được, thì Gordino và Luther đã lên bờ rồi, chúng sẽ có xe đón để đưa đi Canada hay Hoa Kỳ. Eddie moi óc để tìm cách báo cho cảnh sát biết, nhưng anh không tìm ra được gì hết. Nếu anh báo cho cảnh sát sớm hơn, thế nào cảnh sát cũng nhảy vào can thiệp liền, thì khi ấy tính mạng của Carol-Ann sẽ lâm nguy. Anh tự hỏi không biết cuối cùng anh có tìm ra biện pháp gì không.
Đợi một lát, chuông điện thoại reo, Luther nhấc máy.
– Tôi đây, - hắn nói - kế hoạch phải thay đổi một chút. Các anh phải dẫn vợ anh ta đến tàu thủy. Im lặng một lát, rồi hắn nói thêm:
– Người cơ khí trưởng nói kế hoạch phải như thế và anh ta nói nếu không làm thế, kế hoạch sẽ không được thực hiện, và tôi nghĩ là anh ta sẽ làm thế, cho nên các anh phải dẫn vợ anh ta theo, bằng lòng chứ? - Sau một hồi im lặng nữa, hắn nhìn Eddie:
– Họ muốn nói chuyện với anh.
Eddie cảm thấy lòng thắt lại. Từ trước đến giờ, Luther đã tỏ ra hắn là người chỉ huy. Thế mà bây giờ hắn có vẻ không có khả năng ra lệnh.
– “Họ” là ai thế? Các ông chủ của anh à?
– Chính tôi mới là chủ, - Luther đáp, vẻ khó chịu.- Nhưng tôi có những người hợp tác.
Rõ ràng những kẻ hợp tác không muốn dẫn Carol-Ann đến chỗ hẹn. Anh nói với chúng có lợi gì - Anh nói với chúng chỉ tạo cho chúng cơ hội để từ chối kế hoạch anh đưa ra thôi. Anh nói lớn:
– Anh nói với họ phải thực hiện kế hoạch này. - Máy điện thoại để trên bàn, anh nói thật lớn với hy vọng chúng có thể nghe anh nói ở bên kia đầu dây.
Luther có vẻ hoảng hốt. Hắn phản đối:
– Không thể nói với những người này như thế được!
Bỗng Eddie tự hỏi phải chăng anh đã làm sáng tỏ tình hình rồi không?
Nhưng anh không có thì giờ để ngẫm nghĩ dông dài. Anh phải cương quyết buộc chúng tuân theo kế hoạch của anh.
– Tôi chỉ muốn nghe một tiếng ừ hay không mà thôi. Tôi không cần phải nói chuyện với bọn nhãi ranh ấy.
– Ôi lạy chúa! - Luther cầm máy lên và nói:
– Anh ta không muốn nói trên điện thoại ... Tôi đã báo cho các anh biết là anh ta không phải dễ. - Im lặng một lát. - Phải, ý kiến hay. Tôi sẽ nói cho anh ta nghe. - Hắn lại quay về phía Eddie, đưa máy điện thoại cho anh. - Vợ anh ở bên kia đầu dây.
Eddie đưa tay về phía máy điện thoại, rồi bỗng anh rụt tay lui. Nếu anh nói chuyện với Carol-Ann, anh sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào chúng, mặc dù anh rất muốn nghe giọng nói của nàng. Anh bèn thu hết can đảm, thọc hai tay vào túi, lắc đầu, không nói gì hết.
Luther nhìn anh một lát rồi nói vào máy:
– Anh ta không muốn nói! Anh ta ... Bỏ máy xuống, con mẹ ngốc. Tôi muốn nói với ...
– Bỗng Eddie thộp lấy cổ họng hắn. Máy điện thoại rơi xuống bàn.
Eddie bóp mạnh hai ngón cái vào cổ họng to bè của Luther. Hắn vừa thở hổn hển vừa nói:
– Thôi, thả tôi ra ...
Cơn tức giận dịu xuống, Eddie bình tĩnh trở lại. Anh nhận ra anh sắp giết chết Luther. Anh nới tay ra, nhưng không thả. Anh cúi sát vào mặt Luther, rất gần đến nỗi hắn phải nháy mắt Eddie nói:
– Nghe tao nói này. Mày phải gọi vợ tao là bà Deakin.
– Được rồi, được rồi! - Hắn nói, giọng khàn khàn. -Thả tôi ra!
Eddie thả hắn ra.
Luther thoa cổ, lấy lại hơi thở. Rồi hắn lấy điện thoại lên, nói vào máy:
– Vincini đấy phải không? Anh ta vừa mới bóp cổ tôi vì tôi gọi vợ ảnh là ... tôi dùng từ không đẹp. Anh ta biểu, tôi phải gọi vợ ảnh là bà Deakin: Bây giờ anh đã hiểu rõ vấn đề chưa hay là tôi phải nói rõ thêm nữa? Phải làm theo kế hoạch của anh ta thôi, - Lại im lặng một hồi nữa:
– Tôi nghĩ là tôi có thể chế ngự được anh ta, nhưng nếu ở đây người ta thấy chúng tôi đánh lộn nhau, họ sẽ nghĩ gì? Có thể tất cả kế hoạch sẽ hỏng bét! - Hắn im lặng một hồi nữa. - Tốt. Tôi sẽ nói cho anh ta biết. Anh hãy tin tôi đi, chúng ta sẽ thắng lợi thôi, tôi tin như thế. Anh nên chấp nhận đi.
– Hắn quay qua nói với Eddie. - Họ bằng lòng. Bà ấy sẽ có mặt trên tàu thủy.
Eddie cố sức để không lộ ra ngoài sự mừng rỡ của mình.
Luther nói tiếp bằng một giọng gay gắt:
– Nhưng tôi báo cho anh biết, nếu có chuyện gì lộn xộn, họ sẽ giết bà ấy đấy.
Eddie chụp máy điện thoại trên tay hắn, anh nói:
– Nghe. cho rõ, Vincini. Một: tôi phải thấy có vợ tôi trên tàu thủy tôi mới mở cửa thủy phi cơ. Hai: bà ấy phải lên máy bay một lượt với các anh. Ba: nếu có chuyện gì lộn xộn phản trắc xảy ra, tôi sẽ đích thân giết chết các anh. Đừng quên những điều như thế, Vincini - Rồi không để cho hắn ta có thì giờ trả lời, anh treo máy.
Luther hoảng sợ, hắn nói:
– Tại sao anh làm như thế? - Hắn lấy điện thoại, lắc máy và gọi lớn:
– A lô? Alô? - Hắn lắc đầu, móc máy. Trễ rồi. - Hắn nhìn Eddie với ánh mắt vừa tức giận vừa kính nể. - Anh làm thế nguy hiểm đấy, anh có biết không?
– Đi trả tiền điện thoại đi, - Eddie đáp.
– Này anh, - hắn nói. - Tức giận cũng chẳng lợi ích gì. Tôi đã làm theo yêu cầu của anh rồi. Bây giờ chúng ta phải cùng nhau hợp tác để làm công việc này cho thành công, cả hai bên đều có lợi. Tại sao chúng ta không thỏa thuận với nhau? Bây giờ chúng ta đã hợp tác với nhau rồi.
– Anh cút đi, - Eddie đáp rồi bước ra ngoài.
Trên đường trở về cảng, chưa bao giờ anh giận dữ như thế này. Câu nói của Luther đã làm cho anh đau đớn. Hắn nói: chúng ta đã hợp tác với nhau. Eddie đã làm những việc để anh có thể cứu Carol-Ann, nhưng anh đã tham gia vào việc giải thoát cho Frankie Gordino, một tên sát nhân, hiếp dâm. Vẫn biết anh bị bó buộc phải làm thế, nhưng tình thế vẫn không thay đổi. Anh nghĩ, nếu anh thực hiện được kế hoạch này thì không bao giờ anh dám ngẩng cao đầu mà đi.
Từ trên đồi đi xuống bãi, anh nhìn ra vũng tàu. Chiếc thủy phi cơ oai phong nằm trên mặt nước yên tĩnh. Có hai chiếc tàu chở hàng lớn thả neo trong vũng, ngoài ra còn có vài chiếc tàu đánh cá nhỏ; và điều làm anh ngạc nhiên hơn hết là có một chiếc tàu hải quân Mỹ tuần tra đang đậu trong bến tàu. Anh phân vân không biết chiếc tàu ấy đến làm gì ở Terre Neuve này. Có phải vì tình hình chiến tranh nên tàu tuần tra đến đây không? Anh lại nhớ đến thời anh còn ở trong Hải quân.Thời ấy quả là thời vàng son của anh, vì cuộc sống giản dị vô tư. Có lẽ khi cuộc sống còn nhiều buồn phiền, người ta mới thấy quá khứ hạnh phúc.
Anh đi vào văn phòng của hãng Pan American. Trong tiền sảnh của toà nhà sơn màu xanh và trắng, anh thấy một quân nhân mang cấp bậc trung úy đang đứng ở đấy, có lẽ anh ta ở trên chiếc tàu tuần tra. Khi Eddie đến gần, người trung úy quay về phía anh. Anh ta to cao nhưng không đẹp, cặp mắt nhỏ nằm sít vào nhau và trên lỗ mũi có một mụt cóc. Eddie nhìn anh ta, bỗng anh sung sướng vô cùng. Anh không ngờ được gặp anh ta như thế này, anh reo lên:
– Steve phải không?
– Chào Eddie.
– Làm sao ...? - Đúng là Steve Appleby, người mà Eddie cố gọi từ bên Anh.
Người bạn cũ tốt nhất của anh, người duy nhất trên đời này có thể giúp anh khi anh gặp khó khăn. Thật anh không ngờ như thế này. Steve bước đến, hai người ôm chầm lấy nhau, vỗ vào lưng nhau thùm thụp.
– Không phải anh ở New Hampshire à? – Eddie hỏi. - Anh đến đây làm gì?
– Nella cho tôi biết anh có vẻ hốt hoảng khi gọi đến tìm tôi, - Steve đáp, vẻ lo lắng. - Chưa bao giờ tôi thấy anh bị dao động. Anh luôn luôn vững như đá. Tôi đoán chắc anh đang gặp chuyện rắc rối gì ghê lắm đây.
– Đúng thế. Tôi ... - Eddie nghẹn ngào vì xúc động. Anh đã đè nén xúc cảm từ hai mươi giờ rồi, bây giờ nó chực bùng ra. Việc người bạn thân băng đồng chỉ sá đến tìm anh làm cho anh quá xúc động. - Tôi đang gặp chuyện rắc rối khủng khiếp, - anh thú nhận, rồi nước mắt trào ra, cổ họng nghẹn ngào không nói thêm được lời nào nữa. Anh quay gót đi ra ngoài.
Steve đi theo anh. Eddie dẫn bạn ra sau toà nhà văn phòng, đi vào trong nhà kho trống vắng nơi thường dùng làm chỗ đưa tàu thủy nhỏ vào cất. Vào đây, không ai thấy họ.
Steve lên tiếng để che đậy sự bối rối của mình:
– Chắc anh không biết số người mà tôi đã vận động để đưa đến đây. Tám năm trong hải quân, tôi đã giúp cho nhiều người, nhưng hôm nay họ đã giúp lại tôi gấp hai lần, cho nên hôm nay tôi trở thành người mang ơn họ. Tôi còn phục vụ 8 năm nữa, còn nhiều dịp để đền ơn đáp nghĩa.
Eddie gật đầu. Steve rất có tài khám phá ra các mưu mô thủ đoạn của giới bất lương, anh nổi tiếng có tài xoay xở không ai chối cãi được. Eddie muốn nói lời cảm ơn, nhưng anh không làm sao ngăn được nước mắt trào ra.
– Eddie, chuyện gì xảy ra thế? - Steve hỏi, giọng anh ta đã thay đổi.
– Chúng đã bắt cóc Carol-Ann, - Eddie cố gắng mới đáp được.
– Lạy Chúa, ai bắt?
– Nhóm của Patriarca.
Steve nhìn anh, vẻ kinh ngạc. .
– Ray Patriarca à? Thằng làm nghề tống tiền à?
– Chúng đã bắt cóc cô ấy.
– Lạy Chúa, tại sao chúng bắt cóc cô ấy?
– Chúng muốn tôi cho chiếc thủy phi cơ hạ cánh xuống biển.
– Để làm gì?
Eddie lầy tay áo để lau mặt và cố lấy lại bình tĩnh.
– Trên máy bay có một nhân viên FBI và một tù nhân, thằng bất lương này tên là Frankie Gordino. Tôi nghĩ là thằng Patriana muốn giải thoát cho thằng này. Tom Luther, một hành khách trên máy bay ra lệnh cho tôi phải cho máy bay đáp xuống ngoài khơi bờ bể của bang Maine. Chúng sẽ ở đấy trên chiếc tàu thủy nhỏ chạy nhanh, và có cả Carol-Ann ở trên ấy. Chúng sẽ trao đổi với tôi, Carol-Ann với Gordino, và chúng sẽ đem Gordino đi. Steve gật đầu.
– Luther rất láu cá, hắn biết cách duy nhất để buộc anh phải hợp tác, là bắt cóc vợ anh.
– Đúng thế!
– Bọn khốn nạn!
– Steve, tôi muốn tóm cổ hết bọn chúng. Xin thề với anh là tôi muốn tự tay mình giết chết bọn chúng.
– Nhưng anh làm gì được?
– Tôi không biết. Bởi thế nên tôi mới gọi anh.
Steve cau mày.
– Giai đoạn nguy hiểm cho chúng là giai đoạn từ lúc chúng lên thủy phi cơ cho đến lúc chúng trở về xe hơi của chúng. Có thể cảnh sát nhận diện ra được xe hơi của chúng và phục kích chúng.
Eddie không tin thế.
– Làm sao cảnh sát nhận ra được xe hơi? Có thể đấy chỉ là một chiếc xe đậu gần bãi biển thôi.
– Thì chắc họ phải cố tìm cho ra chứ.
– Làm thế phiền lắm, Steve à. Rất có thể bị lầm lẫn lắm. Mà tôi cũng không muốn gọi cảnh sát ... vì có thể sơ ý họ làm cho tính mạng của vợ tôi lâm nguy.
Steve gật đầu.
– Và có thể xe hơi của chúng đầu bên này hay bên kia biên giới, chúng ta phải báo cho cảnh sát Canada biết nữa. Chỉ trong vòng 5 phút thôi là chúng tẩu thoát rồi không, biện pháp nhờ cảnh sát không được. Để cho Hải quân hay lính tuần duyên đảm trách việc này.
– Anh nói đúng, chúng ta hãy nhờ Hải quân thôi.
– Rất tốt. Giá mà tôi có thể thu xếp để có được một chiếc tàu tuần tra như chiếc này, chúng tôi sẽ chặn chiếc tàu nhỏ của chúng lại sau khi đã trao đổi tù nhân xong và trước khi Gordino cùng Luther vào được bờ.
– Làm được như thế là tốt, - Eddie nói, anh đã bắt đầu có hy vọng. – Nhưng làm sao có được tàu tuần tra? - Anh hoàn toàn không tin vào chuyện có được tàu tuần tra nếu không có lệnh cấp trên cho phép.
– Tôi tin tôi có thể thu xếp được. Dù sao thì lực lượng hải quân cũng phải đi tuần tra thường xuyên, họ phải sẵn sàng ứng chiến để phòng ngừa bọn Đức quốc xã tấn công vào Terre Neuve sau khi chúng chiếm Ba Lan. Người ta đã điều động một chiếc rồi . Người làm công việc này là bố của Simon Green-boume ... Anh nhớ Simon chứ?
– Đương nhiên là nhớ, - Eddie nhớ anh chàng hơi điên điên khùng khùng cứ nhậu bia vào là tính tình bất thường. Anh ta luôn luôn gây chuyện phiền phức, nhưng cũng luôn luôn vô hại, vì bố anh ta là Đô đốc Hải quân.
– Một hôm, - Steve nói tiếp, - Simon đã hành động quá đáng. Anh ta đã gây hỏa hoạn trong một quán rượu ,ở Pearl City, làm hư hỏng hết phân nửa đồ đạc trong quán. Chuyện này dông dài lắm, nhưng tôi đã giúp anh ta khỏi ở tù, và bố anh hứa sẽ biết ơn tôi mãi mãi. Tôi tin thế nào ông ta cũng giúp cho tôi việc này.
Eddie nhìn chiếc tàu mà Steve vừa đi đến. Đấy là chiếc săn tìm tiềm thủy đỉnh lâu đã 20 năm, lườn tàu bằng gỗ, nhưng trang bị đại bác 81 ly, đại liên nòng 23 ly và lựu đạn chống tiềm thủy đỉnh. Chiếc tàu sẽ làm cho bọn vô lại đi ca nô máy khiếp sợ. Nhưng chiếc tàu có vẻ hùng hậu quá. Anh lo sợ nói:
– Nếu chúng thấy chiếc tàu, thế nào chúng cũng nghi ngại, đoán có chuyện nguy hiểm đang chờ chúng.
Steve lắc đầu.
– Tàu sẽ ẩn tránh đâu đó trong vũng. Các thiết bị chỉ cao hơn mực nước chưa đầy hai mét, sẵn sàng tấn công.
– Nguy hiểm đấy, Steve à.
– Này nhé, nếu chúng thấy có tàu tuần tra Hải quân chúng sẽ làm gì ... hủy bỏ kế hoạch đi à?
– Chúng có thể làm hại Carol-Ann.
Steve định cãi lại, nhưng anh ta đổi ý. Anh nói:
– Quả vậy. Có thể có chuyện không hay xảy đến . Anh là người duy nhất có quyền quyết định có nên làm liều như thế hay không?
Eddie biết Steve nói thế là nói nung với anh. Anh gắt gỏng hỏi:
– Anh cho là tôi mất nhuệ khí, phải không?
– Phải. Nhưng đấy là quyền của anh.
Eddie nhìn đồng hồ.
– Trời đất, tôi phải quay về phòng làm việc. -Anh phải quyết định. Steve đã đề nghị kế hoạch rất hay, có thể thực hiện được, và bây giờ là lúc Eddie phải chấp nhận hay từ chối.
Steve nói tiếp:
– Còn một chuyện nữa mà có lẽ anh không nghĩ đến. Có thể chúng sẽ lừa anh đấy.
– Tại sao chúng làm thế?
Anh ta nhún vai.
– Tôi không biết tại sao, nhưng khi chúng đã lên thủy phi cơ, thì anh sẽ khó mà thương thảo với chúng được. Chúng có thể không những dẫn Gordino đi mà chúng còn mang theo cả Carol-Ann nữa.
– Tại sao chúng làm thế?
– Để bảo đảm anh không dám thông báo cho cảnh sát biết trong một thời gian.
– Chó thật! - Eddie thốt lên, rồi anh tự nhủ, ý kiến của anh ta rất xác đáng.
Anh đã chửi bới thậm tệ thế nào chúng cũng không tin anh.
Anh đuối lý rồi. Anh phải chấp nhận kế hoạch của Steve thôi.
Anh nghĩ nếu mình sai lầm, xin Chúa tha thứ cho.
– Được rồi, - anh nói - chúng ta thực hiện kế hoạch ấy.
Margaret thức dậy, cô nghĩ: hôm nay mình phải nói cho bố biết.
Phải mất một lát cô mới nghĩ ra những điều cô sẽ nói với bố cô. Cô sẽ không sống với gia đình ở Connecticut, mà cô sẽ rời bỏ gia đình, tìm chỗ ở riêng để kiếm việc làm.
Dĩ nhiên sẽ có lắm chuyện phiền phức.
Cô cảm thấy bàng hoàng lo sợ và xấu hổ. Cô thường có cảm giác này mỗi khi cô khinh bỉ bố. Cô tự nhủ mình mười chín tuổi rồi, mình là phụ nữ rồi. Đêm qua mình đã say sưa làm tình với một thanh niên tuyệt vời. Tại sao mình còn sợ bố?
Cô không hiểu tại sao bố cô giữ hai chị em cô, Elizabeth và cô, trong nhà như cảnh cá chậu chim lồng thế này. Có thể nói ông biến hai cô con gái thành những thứ trang hoàng vô dụng. Mỗi lần ông nghe hai chị em muốn hoạt động giống mọi người, như đi học bơi hay đi xe đạp, là ông có thái độ ngăn cấm một cách rất thô bỉ. Đối với ông, việc chi tiêu vào áo quần trang điểm không thành vấn đề, nhưng không bao giờ ông ta để cho hai cô tự do vào một tiệm sách để mua các thứ mình thích.
Không phải cô chỉ đau đớn trước cảnh tương lai mờ mịt mà thôi. Cô còn đau đớn vì cách bố cô la mắng cô, đau đớn trước thái độ giận dữ và khinh bỉ của ông, đau đớn khi thấy mặt ông đỏ gay vì tức giận, hung hăng.
Thường cô cố dùng mưu mẹo để thắng được bố, nhưng những trường hợp như thế này thật hiếm hoi, vì cô rất sợ thình lình ông bắt gặp, như thấy cô đang chơi với những đứa bé “con nhà dân dã” trong làng hay tìm thấy trong phòng cô cuốn Nỗi Ba đào của Evangeline, của Elinor Glyn, cuốn sách cô rất thích đọc nhưng bị bố cấm đoán.
Cô nếm được mùi đời, thường là tình cờ do sự giúp đỡ của người khác. Monica đã giúp cô hưởng khoái lạc xác thịt ban đầu. Percy dạy cho cô cách bắn súng. Digby, tài xế, dạy cho cô lái xe. Có lẽ bây giờ Harry Marks và Nancy Lenehan sẽ giúp cô được sống tự do.
Cô đã cảm thấy mình khác rồi. Cô cảm thấy tứ chi ê ẩm dễ chịu như đã lao động vất vả suốt ngày. Nằm dài trên giường, cô đưa tay xoa bóp khắp cơ thể mình. Từ khi trưởng thành đến giờ, cô tự xem mình như người không được may mắn, nên cô thương mến thân thể cô. Hình như Harry cho rằng thân hình cô tuyệt vời.
Nằm sau bức màn che giường, cô nghe những tiếng động nho nhỏ bên ngoài.
Có lẽ mọi người đã dậy rồi. Cô nhìn qua khe hở của bức màn. Nicky, người tiếp viên mập mạp, đang tháo giường ở phía trước mặt cô, giường của bố mẹ cô, anh biến những chiếc giường thành ghế nệm dài. Chắc anh ta đã làm xong giường của Harry và ông Membury. Harry ăn mặc chỉnh tề đang nhìn qua cửa sổ, vẻ trầm tư.
Bỗng cô thấy xấu hổ, liền vội vàng kéo kín màn lại sợ anh thấy. Cũng kỳ thật, mới cách đây mấy giờ, hai người rất thân mật, thế mà bây giờ cô thấy bối rối. Cô tự hỏi không biết những người khác đầu rồi. Chắc Percy đã lên bờ với bố, bố cô là người có thói quen dậy rất sớm. Mẹ thường không năng nổ vào buổi sáng, chắc bây giờ bà đang ở trong phòng vệ sinh. Cô không thấy ông Membury ở đâu hết.
Margaret nhìn qua cửa sổ. Trời sáng trợt rồi. Chiếc thủy phi cơ đậu trong vũng bên cạnh một thị trấn nhỏ, có cánh rừng thông bao quanh. Cảnh vật thật yên tĩnh. Cô nằm duỗi thẳng tay chân, nhớ lại từng chi tiết cảnh tượng xảy ra đêm qua, cô sắp xếp các chi tiết cho có thứ tự như sắp xếp các bức ảnh trong cuốn album. Cô nghĩ cô đã thật sự mất trinh vào tối qua. Trước đây, khi làm tình với Ian, hai người chỉ làm chớp nhoáng vội vàng vì khó khăn, và cô cảm thấy như một đứa bé phạm tội muốn bắt chước trò chơi của người lớn. Đêm qua, Harry và cô đã hành xử như người lớn, người này hưởng lạc trên cơ thể người kia. Anh tỏ ra kín đáo nhưng tích cực tham gia làm tình; rụt rè nhưng không bối rối; dè dặt nhưng không vụng về. Cô nhủ thầm, mình muốn làm nữa; làm nhiều nữa. Harry chỉ ngồi cách cô có hai bước, mặc chiếc áo màu xanh da trời, khuôn mặt xinh đẹp đang trầm tư. Bỗng cô muốn hôn anh. Cô ngồi dậy, khoác chiếc áo dài ngủ lên người, mở màn ra và lên tiếng:
– Chào Harry.
Anh giật mình như thể bị bắt gặp đang làm việc gì sai trái. Anh nhìn vào mắt cô, nhoẻn miệng cười. Cô cười với anh, cô có cảm giác như nụ cười sẽ không bao giờ tắt trên môi cô. Họ ngồi yên nhìn nhau, cười ngây ngô suốt một hồi lâu.
Cuối cùng Margaret nhìn xuống và đứng dậy.
– Xin chào tiểu thư Margaret,- anh tiếp viên lên tiếng chào cô và hỏi: – Cô uống cà phê chứ?
– Không xin cám ơn anh, Nicky. - Cô phải trang điểm cho lộng lẫy cái đã, cô đến phòng trang điểm bây giờ mà.
Cô mong Nicky rời khỏi buồng để cô hôn Harry, thế mà anh ta cứ nán lại, hỏi cô:
– Tôi sửa giường cô thành ghế dài nhé? .
– Cứ tự nhiên, - cô đáp, lòng thất vọng. Cô lấy cái xách du lịch, nhìn Harry, ánh mắt luyến tiếc rồi ra ngoài.
Người tiếp viên kia, anh Davy, đang dọn bàn ăn sáng trong phòng khách. Cô chôm một trái dâu khi đi qua, lòng lo sợ. Cô đi dọc theo chiều dài chiếc máy bay. Phần lớn giường ngủ đã biến thành ghế nệm dài, hành khách đang uống cà phê, vẻ ngái ngủ. Cô thấy ông Membury đang nói chuyện rất hăng với ông nam tước Gabon, cô tự hỏi không biết cặp có bề ngoài tương phản nhau này có chuyện gì mà nói say sưa như vậy. Cô chú ý một lát mới nhận ra họ bàn về tin tức trên báo chí buổi sáng.
Cô vào phòng vệ sinh. Mẹ cô đang ngồi trước bàn trang điểm. Làm sao mình làm được những chuyện ấy nhỉ? Cô tự hỏi, lòng hốt hoảng khi đứng ở chỗ chỉ cách mẹ cô vài bước. Cô cảm thấy hai má nóng bừng. Cô buộc lòng phải lên tiếng:
– Chào mẹ, - cô ngạc nhiên khi nghe giọng mình thốt ra một cách bình thường.
– Chào con. Con có vẻ tươi tắn. Con ngủ ngon chứ?
– Rất ngon, - Margaret đáp và cô đỏ mặt thêm. Rồi bỗng cô nghĩ ra một ý mới lạ, cô nói:
– Con cảm thấy có tội vì ăn cắp trái dâu khi đi qua bàn ăn - Cô đi vào trong phòng riêng. Khi đi ra lại, cô mở đầy nước vào bồn rửa, tung nước vào mặt thật mạnh.
Cô buồn lòng vì phải mặc lại cái áo dài cô đã mặc hôm qua. Cô thích mặc áo mới thích bôi nhiều nước hoa. Harry thích thứ nước hoa cô dùng, anh biết cả tên nước hoa, Tosca. Anh là người đàn ông cô gặp đầu tiên có thể nhận ra tên nước hoa.
Cô chải tóc thật lâu. Cô phải trang điểm mái tóc cho thật đẹp mới được.
Mình phải chăm sóc bề ngoài cho thật đẹp, cô tự nhủ. Từ trước đến nay cô rất ít quan tâm đến vấn đề trang điểm, thế mà bây giờ bỗng nhiên cô thấy việc này rất quan trọng. Thế nào mình cũng phải sắm áo dài làm tăng nét đẹp để lôi cuốn sự chú ý của mọi người đến cặp chân dài của mình và mặc áo có màu sắc hài hòa với mái tóc màu hung và màu xanh của mắt. Áo cô mặc hôm nay có màu gạch, hợp với nước da của cô, nhưng không có eo. Bây giờ cô nhận ra cô phải mặc áo có độn vai và phải có thắt lưng, vóc dáng cô mới đẹp hơn lên được.
Riêng trang điểm, chắc mẹ cô phản đối ghê lắm.
– Con xong rồi, - cô vui vẻ nói.
Mẹ cô vẫn không thay đổi chỗ ngồi.
– Mẹ nghĩ chắc con nôn nóng trở về buồng để nói chuyện với ông Vandenpost.
– Đúng thế mẹ à, vì chẳng có ai nữa để nói chuyện, còn mẹ thì mẹ cứ mải mê vẽ phấn tô son.
– Con đừng có hỗn. Anh ta hơi có vẻ Do thái đấy.
Margaret nghĩ, dù sao anh ta cũng không theo hũ tục, cắt da qui đầu, và suýt nữa cô đã nói lên ý nghĩ ấy để giễu mẹ, nhưng cô chỉ phì cười thôi.
Mẹ cô bị chạm tự ái, bà nói:
– Không có gì đáng cười. Mẹ báo cho con biết là khi chúng ta đã xuống máy bay rồi, mẹ sẽ không cho phép con gặp anh ta nữa đâu.
– Mẹ sẽ sung sướng khi được biết con chẳng quan tâm đến việc này. - Quả đúng vậy, cô sẽ rời bỏ cha mẹ, cho nên việc cha mẹ cho phép hay không chẳng còn quan trọng nữa.
Mẹ cô nhìn cô, ánh mắt nghi hoặc.
– Tại sao mẹ cứ có cảm giác là con giấu mẹ điều gì đấy?
– Vì các bạo chúa không bao giờ tin tưởng ai hết.
Cô nghĩ, đáp như thế mới phải. Đáp xong, cô đi ra ngoài.
– Đừng đi, con à, - mẹ cô nói, mắt đầy lệ.
Phải chăng mẹ cô muốn nói đừng ra khỏi phòng hay đừng đi khỏi gia đình?
Bà có đoán ý đồ của Margaret không? Bà thường có linh cảm. Margaret không đáp .
Mẹ đã mất Elizabeth,mẹ không thể nào chịu đựng được cảnh mất thêm con nữa .
– Đấy là lỗi của bố! - Margaret nói lớn. Bỗng cô muốn khóc. - Mẹ không cản được bố đừng hành động quá khủng khiếp ư?
– Con không biết mẹ đã cố gắng cản bố con à?
Margaret bối rối, mẹ cô chưa biết bố cô có những hành động sai trái. Bà đáp.
Giọng rầu rĩ:
– Nếu bố con như thế cũng không phải lỗi của mẹ. Con đừng có khiêu khích bố con làm gì.
– Mẹ muốn nói, lúc nào cũng phải chiều theo bố chứ gì.
– Tại sao không làm thế? Con chỉ gắng cho đến khi lấy chồng thôi.
– Nếu mẹ cương quyết chống lại bố, bố sẽ không cư xử như thế đâu. - Mẹ cô lắc đầu buồn bã.
– Mẹ không thể đứng vào phe với con để chống lại bố con, con à. Ông là chồng của mẹ mà.
– Nhưng bố con sai lầm.
– Không nghĩa lý gì hết. Khi con có chồng, con sẽ hiểu.
Margaret thấy nghẹn họng.
– Thế là không công bằng.
– Không lâu đâu con à. Mẹ chỉ yêu cầu con nhượng bộ ông thêm một thời gian nữa. Khi con đến 21 tuổi, tình hình sẽ khác, ngay cả khi con chưa lấy chồng, mẹ hứa với con như thế. Mẹ biết làm thế khó khăn đấy, nhưng mẹ không muốn ổng cũng từ bỏ con như Elizabeth tội nghiệp.
Margaret nhận ra rằng nếu hai mẹ con làm mặt lạnh với nhau, thế nào cô cũng đau khổ như mẹ cô. Cô nói:
– Mẹ à, con cũng không muốn như thế. - Cô bước đến chỗ mẹ cô ngồi. Mẹ cô dang hai tay ra. Hai mẹ con lúng túng ôm lấy nhau. Margaret thì đứng còn mẹ cô ngồi.
– Con hãy hứa với mẹ, đừng gây gổ gì với bố con, - bà năn nỉ.
Bà có vẻ rất buồn đến nỗi Margaret muốn hứa với bà, nhưng có cái gì đã giữ cô lại và cô chỉ nói:
– Con sẽ cố, mẹ à. Con sẽ cố gắng làm thế.
Mẹ cô buông cô ra, nhìn cô. Margaret đọc được trên mặt bà nét buồn chịu đựng.
– Dù sao mẹ cũng cảm ơn con. Không có gì để nói nữa.
Margaret đi ra.
Khi cô vào buồng, Harry đứng lên. Cô quá bị dao động đến nỗi quên hết giữ gìn ý tứ, cô ôm choàng lấy cổ anh. Sau một lát ngần ngại, anh ôm siết cô vào lòng, hôn lên tóc cô. Cô liền cảm thấy dễ chịu hơn.
Mở mắt ra, cô bắt gặp ánh mắt ngạc nhiên của ông Membury, ông ta đã về ngồi lại vào chỗ của mình. Mặc dù không ngán, nhưng cô cũng gỡ tay Harry ra rồi hai người sang ngồi xuống ở phía bên kia buồng.
– Chúng ta phải vạch ra kế hoạch, - Harry nói. - Có lẽ bây giờ là cơ hội cuối cùng nói chuyện với nhau.
Margaret biết mẹ cô sắp về buồng, cũng như bố cô và Percy,và sau đó Harry và cô khó mà ngồi riêng được với nhau. Cô lo sợ khi nghĩ đến lúc hai người phải chia tay nhau ở cảng Washington và không bao giờ gặp nhau được nữa. Cô thì thào nói:
– Nói mau cho em biết em sẽ tìm gặp anh ở đâu?
– Anh không biết ... anh chưa định ở đâu hết. Nhưng em đừng lo, anh sẽ tìm gặp em. Em sẽ đến trọ ở khách sạn nào?
– Ở khách sạn Waldorf. Tối nay anh điện thoại đến cho em chứ? Phải gọi nhé!
– Đừng lo, dĩ nhiên là anh sẽ gọi. Anh sẽ xưng là ông Marks. - Giọng nói bình tĩnh của Harry làm cho Margaret thấy mình ngốc nghếch ... và còn ích kỷ nữa. Cô chỉ nghĩ đến mình.
– Anh sẽ ngủ đêm ở đâu?
– Anh sẽ tìm một khách sạn nhỏ.
Bỗng một ý nghĩ nảy ra trong óc cô:
– Như thế sẽ tiện cho anh lẻn vào phòng em ở Waldorf phải không?
Anh cười.
– Em nói thật chứ? Em thừa biết thế nào anh cũng làm thế.
– Thường khi, em phải ngủ chung phòng với chị em, nhưng bây giờ thì chắc em ngủ một mình.
– Ồ, vậy anh phải nhanh chân đến phòng em mới được. - Cô biết anh rất thích cuộc sống sang trọng và cô muốn làm cho anh sung sướng. Anh còn mơ ước gì nữa?
– Chúng ta sẽ gọi trứng chưng và rượu sâm banh.
– Anh sẽ muốn ở lại đấy luôn mất.
Bỗng cô sực nhớ đến thực tế.
– Bố mẹ em chỉ ở lại đấy ít hôm rồi về sống ở nhà ông ngoại em tại Counecticut. Cho nên em phải tìm một chỗ trú ngụ.
– Chúng ta sẽ cùng tìm, - anh nói. - Có thể chúng ta tìm phòng trong cùng một nhà trọ.
– Thật không? - Cô rất phấn khởi. Họ sẽ có phòng ở trong cùng một nhà trọ!
Đấy là điều cô mong muốn. Tiếp tục gặp nhau mà không đính hôn vội.
Như thế sẽ có cơ hội tìm hiểu anh nhiều hơn và tiếp tục ngủ với anh. Nhưng có điều trở ngại.
– Nếu em làm việc cho bà Nancy Lenehan, thì chắc em sẽ đến ở tại Boston.
– Có lẽ anh cũng sẽ đi Boston với em.
– Thật không?
– Ở đâu cũng như nhau thôi. Chỗ ấy ở đâu?
– Ở Nouve Angleterre.
– Ở đấy chắc giống bên nước Anh chứ gì?
– Em nghe dân ở đấy chuộng thời trang lắm.. – Thế sẽ làm cho anh nhớ quê hương.
– Chúng ta sẽ thuê loại phòng như thế nào? – Cô hớn hở hỏi, em muốn nói giá phòng là bao nhiêu và phòng ra sao?
Anh cười đáp:
– Em sẽ chỉ có một phòng duy nhất, và nội việc trả tiền chừng ấy thôi em cũng phải hết sức vất vả. Nếu phòng trọ ở đấy mà giống bên Anh, thì đồ đạc trong phòng rất ít và chỉ có một cửa sổ thôi. Nếu gặp may, có thể phòng có cái bếp ga hay bếp điện để nấu nước pha cà phê. Em sẽ dùng buồng tắm chung với mọi người trong nhà.
– Còn nhà bếp?
Anh lắc đầu.
– Em sẽ không có cách gì để có nhà bếp được. Bữa ăn trưa sẽ là bữa ăn nóng duy nhất trong ngày. Khi em về nhà, em sẽ uống tách trà, ăn miếng bánh ngọt, hay là nếu em có lò nướng bánh, em sẽ nướng bánh mì mà ăn.
Cô biết anh nói thế để cô chuẩn bị tinh thần trước một tương lai đầy khó khăn gian khổ, nhưng cô lại cảm thấy những chuyện anh vừa nói hoàn toàn rất lãng mạn. Cứ nghĩ đến việc tự mình pha trà và nướng bánh mì khi nào thấy thích, trong một căn phòng nhỏ riêng rẽ của mình, mà không cần đến cha mẹ, không cần đến tôi tớ là cô thấy tuyệt vời .Cô hỏi:
– Chủ nhà có ở với mình tại đấy không?
– Thỉnh thoảng. Nếu họ ở chung với mình thì càng tốt, vì họ sẽ giữ gìn nhà cửa tươm tất, tốt đẹp; nhưng họ lại chỏ mũi vào chuyện riêng tư của mình.
Nhưng nếu chủ nhà ở chỗ khác, nhà cửa thường dễ bị xuống cấp, hệ thống nước trong nhà hư hỏng, từng tróc sơn, mái nhà dột, đại loại là như thế.
Margaret tuy biết rất ít về cuộc đời, nhưng những điều mà Harry vừa nói không làm cho cô nản chí, trái lại cô thấy say sưa thích thú. Trước khi hỏi thêm những câu hỏi khác, hành khách và phi hành đoàn đã lên máy bay lại. Mẹ trở về chỗ chậm hơn một chút, trông bà xanh xao nhưng đẹp. Margaret cảm thấy thương mẹ. Nhớ lại câu chuyện vừa rồi với bà, cô nhận thấy việc đi tìm cuộc sống độc lập của mình cô đã gây ra nhiều buồn phiền cho mẹ.
Thường khi cô không ăn sáng nhiều, nhưng hôm nay cô thấy đói. Cô nói với Harry:
– Em thích ăn trứng rán với thịt heo. Phải ăn nhiều mới đã.- Cô bắt gặp ánh mắt của Harry, cô nghĩ mình đói là vì cô đã làm tình suốt đêm. Cô cố mỉm cười.
Như đọc được ý nghĩ của cô, anh vội quay mắt nhìn đi chỗ khác.
Mấy phút sau, thủy phi cơ cất cánh. Đấy là lần thứ ba, Margaret có cảm giác nao nao kỳ lạ, nhưng cô không sợ.
Cô lại nghĩ đến câu chuyện cô vừa nói với Harry. Anh muốn đi Boston. với cô! Mặc dù anh đẹp, dễ thương và chắc đã trải qua nhiều cuộc tình, nhưng anh có vẻ đã mê mẫn cô. Anh tỏ ra sẵn sàng ở lại với cô. Dĩ nhiên chuyện giữa cô với anh xảy ra quá tình cờ, quá đột ngột, nhưng cô nghĩ Harry trung thành với cô. Cô hy vọng tương lai của cô sẽ rất tươi sáng, cô sẽ có tự do, độc lập và tình yêu.
Vừa khi máy bay đạt tốc độ đường trường, người ta mời hành khách đến phòng khách để ăn điểm tâm, và Margaret là người hăm hở đầu tiên. Tất cả đều ăn dâu tây với kem, chỉ trừ Percy, cậu ta ăn bánh xốp bột lúa mạch. Bố uống sâm banh, ăn dâu tây. Margaret còn ăn bánh mì nóng phết bơ nữa. Bỗng cô bắt gặp ánh mắt của bà Nancy Lenehan nhìn cô. Một Nancy đẹp đẽ, chải chuốt như hôm qua, với chiếc áo trong bằng xoa màu xanh nước biển thay cho chiếc màu xám; bà ta đang đợi cho cháo yến mạch nguội. Bà ta gật nhẹ đầu ra dấu gọi Margaret đến rồi nói nhỏ:
– Tôi vừa nhận được cuộc điện thoại rất quan trọng ở Botwood. Hôm nay tôi sẽ thắng người em trai của tôi. Cô cứ xem như cô đã có việc làm rồi.
Margaret hớn hở đáp:
– Ồ, cám ơn bà!
Nancy đưa cho cô tấm danh thiếp.
– Khi nào cô đã sẵn sàng đi làm, cô cứ điện thoại cho tôi.
– Tôi sẽ gọi! Chỉ vài ngày nữa thôi! Cảm ơn bà!
Nancy để ngón tay lên môi, nháy mắt với cô.
Margaret trở về chỗ ngồi, lòng hân hoan vô cùng. Cô hy vọng bố cô không để ý gì hết, cô không muốn ông hỏi han lôi thôi. Nhưng ông đang cúi đầu chăm chú ăn chứ không quan tâm đến gì hết.
Vừa ăn, cô vừa nghĩ rằng sớm muộn gì cô cũng phải nói cho ông biết. Mẹ đã van cô đừng đụng độ với bố, nhưng việc này không thể tránh khỏi. Cô đã nghĩ đến chuyện chạy trốn, nhưng bây giờ cô không cần phải làm thế. Cô tuyên bố trắng ra cho bố cô nghe cô sẽ ra đi, cô đã có chỗ ở, cô có bạn bè giúp đỡ.
Thủy phi cơ là nơi lý tưởng nhất để cô chạm trán với bố, cũng như Elizabeth đã chọn tàu hỏa vậy. Trước mắt mọi người, bố buộc lòng phải kiềm chế mình.
Nếu cô đợi về khách sạn rồi, khi đã vào phòng, sẽ có nhiều chuyện làm cho cô khó nói.
Khi nào thì cô sẽ nói với ông? Tốt hơn hết là nên nói nhanh cho rồi, sau bữa điểm tâm có sâm banh, thế nào ông cũng vui vẻ nhất đời. Sau đó, khi trời đã trưa, ông uống rượu mạnh vào, thế nào ông cũng dễ nổi cáu.
Percy đúng dậy, nói:
– Con đi lấy thêm bánh xốp.
– Ngồi xuống, - Bố nói. - Người ta sẽ mang thịt heo đến cho con. Con đã ăn nhiều đồ tào lao này rồi. Không biết sao ông ta không ưa bánh xốp như thế.
– Con còn đói, - Percy đáp, rồi bỏ ra ngoài khiến cho Margaret quá đỗi ngạc nhiên.
Hành động cứng đầu của cậu đã làm cho bố cô sủng sốt. Mẹ đành nhìn vào quãng trống trước mắt. Mọi người đợi Percy quay về. Một lát sau, cậu ta quay về với một dĩa đầy bánh bột, cậu ngồi xuống ăn. Bố nói:
– Bố cấm con ăn những thứ đó.
– Bao tử của con khác bao tử của bố, - Percy đáp và cứ ăn tiếp.
Bố định đứng dậy, nhưng bỗng Nicky đến đưa cho ông đĩa xúc xích với thịt heo và trứng luộc. Margaret cứ tưởng ông sẽ ném cái đa vào mặt Percy, nhưng không, ông đói rồi, nên ông lấy dao nĩa lên và nói với Nicky:
– Mang đến cho tôi mù tạt của Anh.
– Thưa ông, chúng tôi không có thức ăn ấy.
– Không có mù tạt à? - Bố giận dữ hỏi. - Bộ anh nghĩ tôi phải ăn xúc xích không có mù tạt sao?
Nicky có vẻ hốt hoảng. .
– Thưa ông, tôi xin lỗi ... Chưa hề có ai yêu cầu tôi thứ ấy hết. Nhưng tôi tin chắc trong chuyến bay sau, chúng tôi sẽ có.
– Hiện nay thì chưa có, phải không?
– Dạ phải. Xin lỗi ông.
Bố càu nhàu rồi ăn thịt heo. Ông đã trút cơn giận lên đầu người tiếp viên và Percy thoát nạn. Margaret đành chờ đợi dịp thuận tiện khác.
Nicky đã đem món trứng chiên với thịt heo hun khói cho cô, cô ngấu nghiến ăn. Cuối cùng chắc bố cũng bớt giận? Sau khi thất vọng về các tham vọng chính trị, tiếp đến là chiến tranh, cảnh lưu đày, sự chống đối của cô con gái đầu lòng, có lẽ ông đã thấm đòn mà tỉnh ngộ, bớt hung hăng.
Cô thấy chưa bao giờ thuận lợi như bây giờ.
Cô ăn điểm tâm xong và đợi cho những người khác ăn xong. Cô đợi người tiếp viên dọn bàn và đợi cho bố uống xong cà phê. Rồi cô không có gì để đợi nữa.
Cô đến ngồi ở ghế dài, bên cạnh mẹ và hầu như ngay trước mặt bố. Cô hít vào một hơi dài và nói:
– Bố, con có chuyện nói với bố. Con hy vọng bố sẽ không tức giận.
Mẹ nói nhỏ:
– Ồ đừng ...
– Có chuyện gì đấy? - Bố hỏi.
– Con đã 19 tuổi mà chưa làm được gì để nuôi thân. Bây giờ đã đến lúc con phải bắt đầu mới được.
– Trời đất ơi, tại sao phải làm?
– Con thích được sống tự lập.
Mẹ cô trả lời:
– Có hàng triệu cô gái làm việc trong xí nghiệp, nhà máy, và văn phòng rất muốn được sống vào chỗ của con.
– Con biết thế, mẹ à. - Margaret cũng biết là mẹ cô nhảy vào nói với cô để cho bố khỏi can thiệp vào. Nhưng chuyện này không giữ được lâu.
Mẹ nhận thấy thế, nên bà vội vàng. Nhân nhượng, bà nói tiếp liền:
– Nhưng mẹ thấy con quyết định sống tự lập, nên mẹ hy vọng ông ngoại con có thể kiếm chỗ làm cho con ở nơi nào đấy mà ông con quen biết ...
– Con đã có việc làm rồi.
Nghe cô nói thế, bà sửng sốt kinh ngạc. Bà hỏi:
– Việc ở Mỹ à? Làm sao con kiếm được?.
Margaret không muốn nói cho bố mẹ biết về chuyện của bà Nancy Lenehan: Có thể họ sẽ đến gặp bà ta, sinh chuyện với bà, và công việc có cơ hỏng bét.
– Công việc đã được thu xếp, - cô bình tĩnh đáp.
– Việc gì thế?
– Trợ lý giám đốc phòng thương vụ của một xưởng giày.
– Ổ, mẹ van con, đừng kỳ cục như thế.
Margaret cắn môi. Tại sao mẹ cô có thái độ khinh bỉ công việc này như thế?
– Con thấy chẳng có gì kỳ cục hết. Mẹ phải hãnh diện về con thì hơn. Con đã tự mình tìm việc làm, không cần sự giúp đỡ của mẹ, của bố và của ông ngoại, mà nhờ vào tài riêng của con. - Có lẽ nói như thế mọi việc cũng chưa yên, nhưng Margaret sẽ không nói thêm nhiều chi tiết nữa.
– Nhà máy ấy ở đâu? - Mẹ hỏi.
Lần đầu tiên bố xen vào:
– Nó không thể làm việc trong nhà máy, thế đấy.
– Con sẽ làm việc ở phòng thương vụ, chứ không làm trong nhà máy. Và nhà máy ở tại Boston.
– Vậy thì con chịu rồi, - mẹ nói. - Con sẽ ở tại Stanlford. Chứ không ở Boston.
– Không, mẹ à. Con sẽ ở tại Boston.
Mẹ mở miệng định nói gì đấy nhưng rồi bà đổi ý bà biết bà đang đứng trước một thực tế mà bà không dễ gì lẫn tránh được. Bà ngồi im lặng một hồi, rồi hỏi:
– Con nói thế nghĩa là sao?
– Nghĩa là con sẽ rời bỏ gia đình, đến sống ở Boston trong một căn phòng người ta cho thuê để đi làm việc.
– Ồ, thế thì quá ngốc!
Margaret nổi nóng, cô nói:
– Mẹ đừng có nói như thế! - Giọng nói của cô tức giận khiến cho mẹ rùng mình và Margaret thấy ân hận. Cô bèn dịu giọng nói tiếp :
– Con chỉ làm những việc mà đa số các thiếu nữ cùng lứa tuổi với con làm thôi.
– Có lẽ cùng tuổi, nhưng không cùng giai cấp với con.
– Tại sao phải có sự khác biệt đó?
– Tại vì thật vô ích khi lăn xả vào một công việc ngu ngốc để lĩnh một đô la một tuần và sống trong căn nhà mà bố con phải trả 100 đô la mỗi tháng.
– Con không muốn bố trả tiền nhà cho con.
– Vậy con sẽ ở đâu?
– Con đã nói cho mẹ biết rồi, con ở trong nhà cho thuê.
– Thế thì tởm quá! Tại sao phải thế?
– Con để dành tiền cho đến khi con mua được vé tàu về Anh, và con sẽ đầu quân vào lực lượng Nữ quân nhân. Bố cất tiếng nói:
– Mày ăn nói tầm bậy rồi.
Margaret bị chạm tự ái.
– Con nói tầm bậy ở chỗ nào, bố?
Mẹ nói xen vào:
– Đừng, đừng đi ...
Margaret không để cho bà nói tiếp:
– Con nói con sẽ làm nhân viên đi giao dịch, sẽ pha cà phê, trả lời điện thoại.
Con nói con sẽ ở trong một căn phòng chỉ có bếp ga và tắm chung phòng với những người ở thuê khác. Con nói con không thích cảnh nghèo khổ ... nhưng con rất sung sướng vì được tự do.
– Mày chẳng biết gì ráo, - bố cô nói với giọng khinh bỉ. - Tự do à? Mày sẽ như con thỏ được thuần hóa thả trong cũi chó. Để tao nói những điều mày không biết cho mà nghe: Mày không biết mày được sống nuông chiếu suốt cuộc đời. Thậm chí mày cũng không đi học nữa ...
Câu nói bất công phi lý của ông làm cho cô trào nước mắt, khiến cô đáp lại:
– Nhưng con muốn đi học, chỉ tại bố ngăn cản không cho con đi?
Ông tảng lờ không để ý đến câu phản đối của cô, và nói tiếp:
– Mày luôn có người giặt giũ áo quần, nấu nướng cho mày ăn, có tài xế lái xe cho mày đi đâu mày muốn, người ta gọi trẻ con đến nhà chơi với mày, và mày không hề nghĩ đến chuyện tất cả đều được thu xếp ...
– Con biết chứ!
– Rồi bây giờ mày muốn sống một mình! Tao cá với mày là mày không biết đến giá một ổ bánh mì là bao nhiêu.
– Rồi con sẽ biết thôi.
– Mày chưa bao giờ đi xe đò, chưa bao giờ ngủ một mình trong nhà. Mày không biết lên giây đồng hồ, không biết gài bẫy chuột, rửa chén, luộc cái trứng ... Rồi mày biết luộc trứng không?
– Nếu con không biết thì lỗi tại ai? – Margaret hỏi, mắt đầm đìa lệ.
Ông nói tiếp không thương tiếc, mặt lộ vẻ khinh bỉ và giận dữ:
– Mày sẽ làm việc được trong văn phòng phải không? Mày pha trà được không? Mày không biết người ta pha trà như thế nào phải không? Mày chưa bao giờ thấy cái tủ để hồ sơ, chưa bao giờ mày ở một chỗ từ 9 giờ sáng cho đến 6 giờ chiều. Mày sẽ buồn chán và bỏ đi mà thôi. Mày sẽ làm không đến một tuần.
Ông đã nói toạc ra những điều mà Margaret lo sợ trong lòng, càng nghe cô càng bối rối thêm. Lòng lo sợ, cô tự nhủ có lẽ ông nói đúng. Có lẽ cô không sống một mình được, có lẽ cô sẽ bị đuổi việc thôi. Lời lẽ quá tàn nhẫn của bố đã làm tiêu tan giấc mộng của cô như sóng biển phá tan cái lâu đài bằng cát, khiến cho cô nghĩ rằng những điều cô lo sợ e rồi sẽ trở thành sự thật mất.
Cô nghe giọng nói của Harry thốt lên:
– Thế là quá rồi ...
– Cứ để cho ông nói tiếp, - cô nói với anh. Đây là cuộc chiến đấu mà Harry không thể nhảy vào tham dự được.
Mặt đỏ nhừ, bố vung tay múa chân nói tiếp, giọng giận dữ càng lúc càng lớn:
– Boston à, mày phải biết đấy không phải như cái làng Oxenford đâu. Dân chúng ở đấy không giúp đỡ nhau. Mày sẽ lâm bệnh và mày sẽ bị bọn thầy thuốc lai giống đầu độc. Mày sẽ bị bọn Do thái bóc lột và sẽ bị bọn da đen hãm hiếp ngoài đường. Còn việc mày có ý định đầu quân vào quân đội ...
– Hàng ngàn cô gái đã gia nhập Nữ quân nhân, - Margaret nói, nhưng giọng cô nho nhỏ yếu đuối.
– Không phải những cô gái như mày, - ông đáp.- Mà những cô lực lượng thức dậy thật sớm để đánh bong sàn nhà, nhưng không phải những đứa được nuông chiều . Bây giờ mày lăn xả vào vòng nguy hiểm, ai chăm sóc cho mày... Mày sẽ suy sụp ngay!
Cô nhớ những chuyện xảy ra trong đêm trời tối - nhớ sự hốt hoảng, nhớ cảnh thất vọng tái tê trước hoàn cảnh bất ngờ - và cô thấy xấu hổ vô cùng. Nhưng tình hình chắc sẽ không như thế nữa. Ông đã cố tình biến cô thành một người bất lực, sống phụ thuộc vào gia đình, bây giờ cô quyết tháo gông ra, sống tự lập, cho dù phải gặp bao cảnh gian truân khổ ải.
Hai mắt bố cô trợn tròn như muốn văng ra khỏi hốc mắt, rơi xuống đĩa, miệng nói lớn:
– Mày không làm trong văn phòng nỗi một tuần đâu mày cũng không ở trong lực lượng Nữ quân nhân nỗi một ngày. Mày quá mềm yếu. - Ông kết luận, vẻ hài lòng ra mặt.
Harry đến ngồi bên cạnh Margaret. Anh lôi khăn tay trong túi ra, nhẹ lau hai má ướt, của cô.
– Còn anh, - bố nói tiếp, - chàng công tử bột ...
Harry liền vùng đứng lên như thể muốn nhảy vào ngài Oxenford.
– Tôi cấm ông nói với tôi cái giọng đó. Tôi không phải con gái, tôi là thanh niên vững vàng, nếu ông sỉ nhục tôi lẩn nữa, tôi sẽ đấm vào mặt ông đấy.
Bố im lặng.
Harry quay lại, đến ngồi bên cạnh Margaret.
Cô bối rối nhưng đồng thời cũng hân hoan. Bố cô hầm hè, mỉa mai nhiếc mắng cô, làm cho cô khóc, nhưng ông đã thất bại, thế nào cô cũng ra đi.
Còn nỗi ngờ vực mà ông đã cô gieo vào lòng cô, nỗi lo sợ sẽ bị thất bại và suy sụp do ông khuấy lên vào giây phút cuối cùng này, thế nào cô cũng sẽ vượt qua. Cô thề với lòng mình: mình sẽ vượt qua mọi thử thách. Mình không mềm yếu, mình sẽ chứng minh cho mọi người thấy.
Cô ngước mắt nhìn lên. Bố đang nhìn qua cửa sổ máy bay, vẻ nham hiểm.
Không có dấu hiệu gì cho thấy ông đã thất bại. Ông đã xua đuổi Elizabeth. Bây giờ ông muốn trả thù Margaret như thế nào đây?
Diana Lovesey buồn bã sợ rằng mối tình của họ sẽ không lâu bền. Khi Mervyn mê mẩn cô, ông chỉ yêu cầu được thỏa mãn nhục dục thôi, họ càng giới hạn vào nhục dục bao nhiêu, ông càng hài lòng bấy nhiêu. Ông bỏ hết công việc để lái xe đi Blackpool để mua bánh kẹo cho cô hay nghỉ một buổi chiều để đi xem xi nê với cô, hay thậm chí đáp máy bay sang Paris chơi. Ông sung sướng đi lùng khắp các cửa hàng ở Manchester để tìm mua cho cô chiếc khăn len quàng cổ màu xanh lục thích hợp với cô, hay đưa cô đi xem buổi hòa nhạc đã diễn hết nửa buổi rồi, chỉ vì cô đang buồn. Nhưng những chuyện như thế này không kéo dài lâu. Hiếm khi ông từ chối cô cái gì, nhưng hành động này chấm dứt khi ông đã hưởng xong lạc thú nhục dục, sự vui mừng nhường chỗ cho sự khoan dung, rồi cho sự nôn nóng và thỉnh thoảng cuối cùng cho sự khinh bỉ.
Bây giờ Diana phân vân không biết mối tình của cô với Mark có sẽ đi theo con đường như thế không.
Suất cả mùa hè, anh xử sự như kẻ nô lệ của cô, nhưng chỉ mới ra đi có mấy ngày, họ đã cãi nhau. Vào đêm thứ hai, họ giận nhau dữ dội đến nỗi hai người đã ngủ riêng. Đến nửa khuya, cơn bão nổi lên ác liệt, máy bay chòng chành lắc lư như con ngựa hoang, Diana quá đỗi lo sợ, đến nỗi cô suýt nữa đã quên niềm tự hào để đến rúc người vào lòng Mark; nhưng cô cho làm như thế thì nhục quá, nên cô đành nằm yên ở giường mình, tin rằng mình sắp chết đến nơi. Cô hy vọng anh sẽ đến nằm với cô, nhưng anh cũng kiêu hãnh như cô, anh không đến, nên càng giận hơn nữa.
Sáng nay, hai người không nói chuyện với nhau. Diana thức giấc khi thủy phi cơ hạ xuống Botwood, cô trở dậy, Mark đã lên bờ. Bây giờ họ ngồi đối diện nhau ở những chỗ gần đường đi tại buồng số 4, làm ra vẻ như họ đang ăn điểm tâm. Diana nhấm nháp vài trái dâu, còn Mark thì bẻ ổ bánh mì nhở nhưng không ăn.
Diana không hiểu tại sao cô tức giận khi thấy Mervyn ngủ trong phòng vợ chồng với Nancy Lenehan. Còn Mark, thay vì che chở cho cô, anh lại trách phản ứng này của cô và cho là cô còn yêu Mervyn. Tại sao Mark nói được như thế, trong khi cô đã bỏ tất cả để trốn theo anh!
Diana nhìn quanh. Bên phải cô, công chúa Lavinia và Lulu Bell nói chuyện không ngớt. Cả hai không ai ngủ được vì cơn bão hoành hành, bây giờ trông họ đều có vẻ mệt mỏi. Phía trái, ở bên kia lối đi, nhân viên mật vụ Ollis Field và tù nhân Frankie Gordino đang lặng lẽ ăn điểm tâm. Chiếc còng khóa chân của Gordino vào chân ghế ngồi, mọi người đều có vẻ mệt mỏi, dễ gắt gỏng. Họ đã trải qua một đêm dài lo sợ, mất ngủ.
Davy đi vào để thu dọn bát đĩa. Công chúa Lavinia phàn nàn món trứng luộc mềm quá và thịt heo nấu quá chín. Davy mời họ uống cà phê, nhưng Diana từ chối.
Diana bắt gặp ánh mắt của Mark, cô cố cười với anh. Anh nhìn cô với vẻ tức giận. Cô nói:
– Sáng nay anh không thèm nói chuyện với em.
– Vì em quan tâm đến Mervyn hơn anh, - anh đáp.
Cô hối hận, có lẽ anh có quyền ghen?
– Em xin lỗi, Mark, - cô ấp úng nói. - Em cam đoan với anh rằng anh là người duy nhất em quan tâm đến thôi.
Anh nắm bàn tay cô.
– Em nói thật chứ?
– Thật. Em cảm thấy em bậy quá. Em sai rồi!
Anh vuốt ve lưng bàn tay của cô.
– Em biết không ... Anh nhìn thẳng vào mắt cô và cô sửng sốt khi thấy anh như sắp khóc. - Em biết không, anh hơi sợ em bỏ rơi anh.
Diana không ngờ anh nói với cô như thế. Cô quá đỗi kinh ngạc. Không bao giờ cô nghĩ rằng anh sợ mất cô.
– Em rất xinh dẹp, - anh nói tiếp - rất hấp dẫn, bất cứ người đàn ông nào cũng muốn lấy em hết, và anh thật không ngờ em đã chọn anh. Anh sợ em thấy mình sai lầm mà thay đổi ý kiến.
Diana cảm động.
– Anh là người đàn ông đáng yêu nhất trên đời, vì thế mà em đã yêu anh.
– Em thật không yêu Mervyn chứ?
Cô ngần ngừ, chỉ một lát thôi, nhưng cũng đủ rồi.
Mặt của Mark tối sầm lại, anh chua chát nói:
– Chắc em còn yêu.
Làm sao cô giải thích cho anh hiểu rõ nhỉ? Cô không yêu Mervyn, nhưng ông ta còn ảnh hưởng đến cô còn uy quyền đối với cô. Cô cất giọng chán nản đáp:
– Không phải như anh nghĩ đâu.
Mark rút tay lui.
– Vậy em hãy nói rõ cho anh nghe. Hãy nói cho anh biết chuyện ấy như thế nào.
Ngay lúc ấy, Mervyn đi vào buồng. Ông ta đảo mắt nhìn quanh, thấy Diana, ông nói:
– A, cô đây rồi.
Cô liền nổi nóng. Ông ta muốn gì? Ông ta tức giận ư. Cô mong sao ông ta đừng sinh chuyện.
Cô nhìn Mark. Mặt anh tái ra, căng thẳng. Anh hít vào một hơi dài rồi nói:
– Này ông Lovesey ... Chúng tôi không muốn gây gổ lôi thôi nữa, cho nên tốt hơn hết là ông nên ra khỏi đây.
Mervyn tảng lờ không để ý, ông ta nói với Diana:
– Chúng ta phải nói chuyện với nhau một chút.
Diana chăm chú nhìn ông. Cô nghĩ loại nói chuyện của ông chắc không hay ho gì. “Nói chuyện phiếm” của ông đôi lúc trở thành cả một bài thuyết giảng cà kê dê ngỗng. Thế nhưng, ông không có vẻ gì hung hăng. Ông ta cố giữ vẻ mặt lãnh đạm, nhưng cô cảm thấy ông có vẻ ngượng ngùng. Điều này kích thích tính hiếu kỳ của cô. Cô bình tĩnh đáp:
– Tôi không muốn sinh sự.
– Không sinh sự, tôi xin hứa.
– Vậy thì tốt, nói đi.
Mervyn ngồi xuống bên cạnh cô. Quay qua phía Mark, ông hỏi:
– Phiền anh để cho chúng tôi nói chuyện riêng một lát được không?
– Ải chà, được chứ, - Mark đáp.
Cả hai người nhìn Diana, cô hiểu họ muốn dành cho cô quyền quyết định.
Suy cho cùng, cô muốn nói riêng với Mervyn, nhưng nếu cô nói ý ấy ra thế nào Mark cũng bị chạm tự ái. Cô ngần ngừ, tự nhủ: “mình bỏ Mervyn ,để đi với Mark, cho nên mình phải giữ anh ta ở lại với mình”. Lòng hồi hộp, cô cất cao giọng:
– Mervyn, anh cứ nói gì thì nói. Nếu anh không nói trước mặt Mark, tôi không muốn nghe đâu.
Ông có vẻ kinh ngạc.
– Được thôi, được thôi, - ông tức tối nói, rồi ông cố lấy lại bình tỉnh. - Tôi đã nghĩ đến những điều cô trách tôi. Quả tôi đã cư xử có phần lạnh nhạt với cô.
Quả cô đã phải chịu khổ sở.
Ông nhắc lại thời gian qua. Diana im lặng nghe. Thật không giống Mervyn trước đây. Ông ta có ý đồ gì nhỉ?
– Tôi xin thú thật với cô tôi rất ân hận.
Diana quá đỗi kinh ngạc. Cô cảm thấy ông ta thành thực. Chuyện gì làm cho ông thay đổi như thế này?
– Tôi muốn làm cho cô được hạnh phúc, - ông nói tiếp. - Khi mới cưới nhau, tôi đã muốn cô hạnh phúc rồi. Nhất là tôi mong sao cô không bị khổ sở. Cô bị khổ sở là điều rất bất công. Cô đáng được hưởng hạnh phúc vì cô biết cách ban hạnh phúc cho người khác. Nơi nào có cô đến là mọi người đều vui cười sung sướng.
Diana cảm thấy muốn khóc.
– Để cho cô buồn là phạm tội lỗi, - Mervyn nói tiếp - Tôi sẽ không làm như thế nữa.
Diana lo sợ tự hỏi, phải chăng ông ta hứa sẽ cư xử tốt với cô? Phải chăng ông ta cầu xin cô trở về với ông, cô đâu muốn yêu cầu ông ta điều ấy. Cô cất giọng lo âu trả lời ông:
– Tôi không trở về đâu.
Ông không để ý cầu trả lời của cô, ông hỏi:
– Có phải Mark làm cho cô hạnh phúc không?
Cô gật đầu.
– Anh ấy có dễ thương với cô không?
– Có chứ, tôi tin anh ấy dễ thương.
Mark lên tiếng, giọng chán nản:
– Đừng nói đến tôi như thể tôi không có mặt ở đây!
Diana nắm tay Mark rồi nói với Mervyn:
– Chúng tôi yêu nhau.
– Phải. - ông đáp. Lần đầu tiên trên mặt ông ta thoáng một nụ cười khẩy, nhưng chỉ một tích tắc rồi biến mất. - Phải. Tôi tin như thế.
Phải chăng bà góa phụ kia là nguyên nhân cho sự đổi thay thái độ của ông Diana hỏi, vẻ khinh bỉ:
– Có phải bà Lenehan khuyên anh đến nói với tôi như thế này không?
– Không, nhưng bà ấy biết tôi sẽ nói với cô chuyện gì.
Mark nói chen vào:
– Tôi muốn ông nói nhanh cho rồi.
Mervyn nhìn anh, ánh mắt coi thường.
– Đừng giục tôi, cậu cả ... Diana vẫn còn là vợ tôi kia mà.
Mark bác ngay ý kiến ấy:
– Trật lất rồi, ông không có quyền gì với cô ấy hết, cho nên ông đừng nói năng theo kiểu mình có quyền như thế. Và cũng đừng gọi tôi bằng từ cậu cả, nghe chưa ông nội.
– Anh đừng nói nữa, - Diana nói. Còn Mervyn, anh muốn nói gì thì nói nhanh đi, đừng cà kê dê ngỗng.
– Tốt, tốt. Tôi nói liền đầy. - Ông hít vào một hơi thật dài. - Tôi sẽ không cản đường cô nữa đâu. Tôi đã yêu cầu cô trở về mà cô từ chối. Nếu cô tin cậu này có thể làm được những việc mà tôi không làm được để cô được sống hạnh phúc, thì tôi xin chúc hai người may mắn. Tôi xin chúc hai người được hạnh phúc trên cõi đời này. - Ông ta im lặng rồi nhìn người này qua người khác - Thế đấy. Tất cả im lặng một lát. Mark định lên tiếng thì Diana đã nói:
– Đồ đạo đức giả dơ bẩn! - Cô hiểu rõ tận tim đen của Mervyn và cô ngạc nhiên khi thấy mình có phản ứng mãnh liệt như thế. Cô rít lên qua kẽ răng:
– Tại sao anh dám nói thế?
– Cái gì? - ông hỏi vẻ sửng sốt. - Tại sao ...? :
– Anh lớn lối tuyên bố anh sẽ không cản đường tôi nữa. Cái thái độ anh chúc tôi may mắn, làm như thể anh đã có hành động hy sinh. Mervyn Lovesey này, tôi biết anh quá rõ: Chỉ khi nào anh không muốn cái gì anh mới cho thôi! - Cô nhận ra mọi người ngồi trong khoang đều lắng nghe họ, nhưng cô quá giận nên cô không cần quan tâm đến họ nữa. - Tôi biết anh muốn đi đến đâu rồi. Đêm qua anh đã ngủ với cái bà góa ấy rồi, phải không?
– Không!
– Không à? - Cô nhìn ông đăm đăm. Có lẽ ông đã nói thật với cô. - Nhưng việc ấy chắc sẽ phải đến, phải không? - Cô nhìn nét mặt của ông, cô nghĩ lần này cô đã đoán đúng. - Anh đã mê bà ta, anh làm cho bà ta hài lòng, và bây giờ anh không muốn tôi nữa ... Có phải sự thật đã xảy ra như thế không hả? Nào, cứ thú thực đi!
– Không có gì tôi phải thú thực ...
– Bởi vì anh không có can đảm để nói ra sự thật. Nhưng tôi biết sự thật và mọi người trên máy bay này đều nghĩ như thế. Anh làm cho tôi thất vọng, Mervyn à. Tôi cứ tưởng anh là người có lương tri chứ.
– Lương tri! - Ông đã bị chạm tự ái.
– Đúng thế, có phải anh cần nói dông dài như thế để chứng tỏ không muốn cản đường cửa tôi, phải không? Quả đúng anh đã trở nên kẻ u mê ... đầu óc anh u mê. Không phải tôi mời sinh ra hôm qua, anh không thể phỉnh gạt tôi một cách dễ dàng như thế này được đâu.
– Tốt, tốt, - ông nói, đua hai tay lên với vẻ như để tự vệ. - Tôi đã đưa ra đề nghị hòa bình và cô đã bác bỏ. Tùy cô vậy. - ông đứng lên. - Nghe cô nói, chắc mọi người tưởng rằng chính tôi là người phản bội người tôi yêu - Ông đi ra phía cửa, - Báo cho tôi biết ngày cưới tôi sẽ gởi biếu cô một khúc cá. - Ông ta đi ra.
– Đồ cù lần! - Diana thốt lên, cô vẫn còn giận dữ. - Cha này táo tợn thật! - Cô nhìn quanh các hành khách trong khoang. Công chúa Lavinia ngẩng cao đầu quay mặt nhìn chỗ khác, Lulu Bell mỉm cười, Ollis Field cau mày vẻ bất bình, còn Frankie Gordino buông ra lời:
– Chơi được đấy, cô em.
Cuối cùng, cô nhìn Mark. Anh nhoẻn miệng cười tươi. Sự vui vẻ của anh lây sang cô. Cô phì cười, hỏi:
– Có gì vui mà cười sướng thế ?
– Em quá tuyệt. Anh rất tự hào về em. Anh sung sướng.
– Tại sao sung sướng?
– Lần đầu tiên trong đời em đã chống lại Mervyn.
– Theo em thì chuyện này thường thôi.
– Em không sợ anh ta nữa, phải không?
Cô suy nghĩ một lát rồi đáp:
– Anh nói đúng.
– Chắc em biết chuyện này có ý nghĩa ra sao chứ?
– Có ý nghĩa em không sợ anh ta nữa.
– Còn nhiều ý nghĩa hơn thế. Có nghĩa là em không yêu anh ta nữa.
– Thật ư, Diana thì thào hỏi, giọng trầm ngâm. Cô tự nhủ thực ra cô đã không yêu Mervyn từ nhiều năm rồi, nhưng bây giờ tự vấn lòng, cô thấy cô đã lầm lỗi.
Suốt cả mùa hè, mặc dù cô lừa ông ta, nhưng cô vẫn chịu đựng gông cùm của ông, cô vẫn chịu đựng sự kiềm chế của ông, thậm chí khi đã chạy trốn rồi và khi đã ở trên máy bay rồi, cô vẫn còn chịu đựng, đến nỗi cô đã tính đến chuyện quay trở về với ông ta. Nhưng bây giờ thì hết rồi.
Mark hỏi cô:
– Nếu ông ta kết hợp với bà góa kia, có gì ảnh hưởng đến em không?
Không cần suy nghĩ, Diana đáp liền:
– Anh muốn chuyện ấy ảnh hưởng gì đến em à?
– Em thấy sao?
Cô cười xòa và nói:
– Anh nói đúng. Cuối cùng, chuyện giữa em và anh ta hết rồi.
Trong khi chiếc thủy phi cơ bắt đầu hạ cánh xuống Shediac, trong vịnh Saint Laurent, Harry cảm thấy quyết định ăn trộm đồ nữ trang của phu nhân Oxenford yếu đi.
Có nhiều lý do khiến anh cảm thấy thế. Thứ nhất là hình ảnh khách sạn Walford, phòng ngủ của Margaret, buổi ăn điểm tâm, anh cùng ăn với Margaret ở đấy. Sau đó là anh cùng cô sẽ đi Boston, hai người cùng sống ở đấy anh sẽ giúp cô tập sống tự lập. Sự hăm hở của Margaret đã truyền sang cho anh: Nếu anh ăn trộm đồ nữ trang của mẹ cô, thì anh sẽ không có những thứ đó.
Shediac là trạm dừng cuối cùng trước khi đến New York. Anh phải quyết định nhanh mới được. Anh sẽ không có cơ hội nào khác nữa để vào khoang chứa hành lý.
Một lần nữa anh phân vân không biết anh có tìm được cách để vừa có Margaret lại vừa có đồ nữ trang không .Trước hết, làm sao cô biết được chính anh là người ăn trộm nữ trang? Thế nào bà Oxenford cũng phát hiện ra đồ nữ trang bị mất khi bà mở rương, có lẽ khi đến khách sạn Waldorf. Nhưng khó mà xác định nữ trang mất khi nào. Trước hay là sau khi xuống phi cơ Margaret đã biết quá khứ của Harry, cho nên chắc chắn cô sẽ nghi anh. Nhưng nếu anh chối, cô có tin không? Có lẽ cô tin.
Rồi sau đó sẽ ra sao? Họ sẽ sống nghèo khổ ở Boston trong khi anh có 100 ngàn đô la trong ngân hàng. Nhưng chuyện này sẽ không lâu. Cô sẽ có cách để trở về Anh để đầu quân vào lực lượng Nữ quân nhân, còn anh, anh sẽ sang Canada để làm phi công truy kích. Khi chiến tranh chấm dứt, anh sẽ rút tiền ở ngân hàng ra, mua một ngôi nhà ở nông thôn; có lẻ Margaret sẽ đến đấy ở cùng anh ... và khi ấy thế nào cô cũng muốn biết tiền từ đâu ra.
Sớm muộn gì, thế nào rồi Harry cũng phải nói cho cô biết thôi.
Nhưng để lâu hãy nói, có lẽ tốt hơn là nói sớm.
Anh phải kiếm cớ gì để ở lại trên máy bay khi tạm dừng ở Shediac. Nhưng đừng viện cớ người không được khỏe, vì cớ ấy sẽ khiến cho Margaret ở lại trên máy bay với anh. Phải làm sao cho cô lên bờ.. Anh nhìn cô từ bên này khoang, qua lối đi ở giữa. Cô đang thắt dây an toàn ngay giữa bụng. Bỗng anh mường tượng thấy lại cảnh cô ngồi trên giường, cũng cái tư thế như vậy cặp vú trần lồ lộ, trong ánh sáng lờ mờ chiếu qua từ các cửa sổ. Anh nghĩ, có phải mình là đồ ngốc khi để mất cô để lấy một nắm hồng ngọc?
Nhưng không phải một nắm hồng ngọc, mà là bộ trang sức Delhi, đáng giá một trăm ngàn đô la, đủ để làm cho anh trở thành người anh thường mơ ước, đó là một người giàu nhàn nhã.
Tuy nhiên, trong óc anh vẫn lởn vởn cái ý mà anh muốn nói với cô: Anh sẽ ăn trộm đồ nữ trang của mẹ em, anh hy vọng em không xem chuyện này là điều trở ngại cho tình yêu của ta chứ? Và thế nào cô cũng trả lời: Ý kiến hay, bà già vô tích sự không đáng được hưởng những thứ ấy. Mà không. Chắc Margaret không đời nào chịu như thế. Cô tự xem mình là người cấp tiến thật đấy, cô hoan hô việc lấy của cải người giàu chia cho người nghèo thật đấy, nhưng tất cả chỉ là lý thuyết, nếu anh tước mất một số tài sản quí giá của gia đình cô, thế nào cô cũng rất xót xa đau đớn. Và thế nào cô cũng căm hờn anh.
Cô bắt gặp ánh mắt của anh, cô nhoẻn miệng cười.
Anh cười lại với cô, vẻ tội lỗi, rồi nhìn ra ngoài cửa sổ.
Chiếc thủy phi cơ hạ xuống trên cái vịnh có hình móng ngựa, bên vịnh, nằm rải rác vài ngôi làng. Xa hơn, đồng ruộng trải dài. Khi máy bay đến gần vịnh, Harry thấy một con đường sắt chạy ngoằn ngoèo giữa các nông trại đến tận con đê dài. Bên cạnh con đê, có nhiều tàu thuyền đủ cỡ và một chiếc thủy phi cơ nhỏ đang thả neo. Về phía đông con đê, bãi cát chạy dài mấy cây số, rải rác giữa các đụn cát, nhô lên vài ngôi nhà đồ sộ có lẽ đầy là những ngôi nhà nghỉ mát.
Harry nghĩ, có được một ngôi nhà như thế này thì tuyệt biết bao. Anh nhủ thầm: được rồi, nếu đây là điều mình mơ ước mình sẽ có thôi; mình sẽ giàu!
Thủy phi cơ hạ xuống êm ái. Harry cảm thấy thư giãn, anh đã bắt đầu quen cảnh như thế này rồi.
– Mấy giờ rồi, Percy? - Anh hỏi.
– Mười một giờ địa phương. Chúng ta trễ một giờ.
– Chúng ta ở lại đây bao lâu?
– Một giờ.
Ở Shediac, người ta dùng phương pháp lên bờ mới mẻ hơn. Một chiếc tàu giống như tàu đánh cá chạy đến để lời chiếc thủy phi cơ đi. Rồi người ta buộc hai đầu máy bay bằng những sợi dây neo lớn để áp máy bay vào một bến tàu nổi, từ đây có cầu thang để lên đê.
Nhờ cách lên bờ này mà Harry giải quyết được vấn đề khó khăn của mình. Ở các chỗ tạm dừng trước đây tất cả hành khách đều xuống tàu thủy nhỏ, nên khách chỉ có một cơ hội độc nhất để lên bờ thôi. Còn bây giờ, anh có cớ để nói với Margaret, cô cứ lên trước rồi anh lên sau, vài phút nữa sẽ gặp cô.
Người tiếp viên mở cửa máy bay, hành khách bắt đầu mặc măng tô vào và đội mũ lên. Gia đình Oxenford áo quần tươm tất chuẩn bị đi xuống, kể cả ông Clive Membury, người không hề hé môi nói một tiếng suốt cả chuyến bay, ngoại trừ, Harry chợt nhớ, lần nói chuyện rất hăng với ông nam tước Gabon.
Một lần nữa, anh tự hỏi không biết hai người nói chuyện gì với nhau. Nhưng rồi anh bỏ cái ý nghĩ ấy đi để tập trung tư tưởng vào kế hoạch của mình. Anh nói nhỏ bên tai Margaret:
– Anh sẽ lên với em sau, - nói xong, anh đi đến phòng vệ sinh.
Anh chải tóc và rửa tay, chỉ làm cho có việc thôi, mắt nhìn vào khung gỗ gắn trên cửa sổ. Tấm kính đã bị vỡ vào đêm qua, có lẽ do bão gây ra. Anh nghe có tiếng chân người trên buồng máy bước xuống cầu thang và đi qua trước cửa phòng vệ sinh. Anh nhìn đồng hồ, định nán thêm vài phút nữa.
Chắc chắn sẽ không có ai, hay sẽ có rất ít người ở lại trên máy bay. Ở Botwood, một số hành khách vì mất ngủ nên họ không lên bờ, nhưng bây giờ chắc mọi người đều muốn đi một vòng cho giãn gân cốt và hít khí trời trong sạch. Đương nhiên là trừ trường hợp của ông Ollis Field và tù nhân của ông ta.
Điều kỳ lạ là chính ông Membury cũng lên bờ, ông ta là người được xem như đi theo để canh giữ Frankie. Người đàn ông mặc áo ghi lê đỏ này lên bờ đã làm cho Harry ngạc nhiên.
Chắc toàn nhân viên lau chùi máy bay sắp đến rồi: Anh cố lắng tai nghe, nhưng không nghe có tiếng động nào ở ngoài cánh cửa nữa. Anh mở cửa he hé, nhìn ra ngoài. Không có ai hết. Anh thận trọng bước ra.
Buồng bếp ở trước mặt anh trống trơn. Anh nhìn qua buồng số hai, cũng trống trơn, rồi nhìn vào phòng khách, một phụ nữ cầm cái chổi trên tay, lưng quay về phía anh. Anh vội vàng leo lên cầu thang.
Đến đầu cầu thang, anh dừng lại, nhìn khắp buồng máy để xem có ai không.
Không có ai hết. Anh bước tiếp lên buồng máy, bỗng anh thấy hai chân mặc quần đồng phục hiện ra trong tầm mắt của anh. Anh liền nhảy vào đứng núp sau chỗ ngoặt, ló một mắt ra nhìn. Chính là người phụ tá cơ khí trưởng, Mickey Fiun, người đã bắt gặp anh vào lần trước. Ông ta dừng lại trước tấm bảng có dụng cụ kiểm soát máy móc rồi bỏ di. Harry lại thụt mặt vào, lòng phân vân không biết người nhân viên cơ khí đi đâu. Ông ta đi xuống cầu thang phải không? Harry cố lắng tai nghe. Tiếng bước chân đi qua buồng máy, rồi anh không nghe gì nữa. Vào chuyến tạm dừng trước, Harry nhớ Mickey đứng trong buồng máy trước khi vào trong mũi máy bay, lo việc thả neo. Lần này chắc ông ta cũng làm thế chứ gì? Anh phải liều thôi.
Đi vào phòng máy, Harry nhận ra anh đã đoán đúng không thấy bóng dáng của Mickey đâu hết, mà cánh cửa trập trước mũi máy bay đã mở ra: Harry không chần chừ gì nữa, anh đi qua cánh cửa thông vào hầm chứa hành lý.
Không còn phân vân như lần trước, anh vào ngay khoang hầm bên trái.
Anh mừng vì vận may đã mỉm cười với anh. Nằm ngay giữa buồng là chiếc rương to tướng như một căn phòng bằng da có màu xanh và vàng, những chiếc đinh đồng kếch xù lóng lánh. Anh tin chắc đây là rương của bà Oxenford. Anh xem cái nhãn, không có tên, nhưng có ghi địa chỉ là Trang viên Oxenford, Berkshire.
– Đúng phóc rồi, - anh lẩm bẩm trong miệng.
Anh nhìn ổ khóa, không khó khăn gì, anh chỉ dùng lưỡi dao nhỏ là mở khóa ra được. Ngoài ra còn sáu cái nắp cài bằng đồng. Anh chỉ cần bật lên là được.
Cái rương được tạo ra để dùng làm tủ treo áo quần. Harry dựng đứng rương lên và mở ra. Rương gồm cả hai khoang rộng rãi. Một khoang, có thanh ngang để móc áo dài và áo măng tô, dưới đáy khoang có cái ngăn nhỏ dùng để giày dép. Khoang kia có sáu ngăn kéo.
Harry mở các ngăn kéo. Các vách ngăn đều làm bằng gỗ mỏng bọc da và lót nhung. Bà Oxenford cất vào đây nào là áo lót bằng xoa, áo săng đai bằng vải ca sơ mia, đồ lót có viền đăng ten và thắt lưng da cá sấu.
Bên khoang treo áo quần, ở trên đầu rương có cái thanh ngang dùng treo áo, rất dễ lấy quần áo ra. Harry đưa tay sờ vào các vách khoan từ trên xuống dưới để xem bên vách có ngăn đựng gì không. Rồi anh đưa tay sờ vào ngăn đựng giày dép. Không có gì ngoài giày dép.
Bực mình, nhưng anh không chịu bỏ cuộc.
Anh định lục xem tất cả hành lý của gia đình Oxenford, nhưng anh nghĩ nếu mình chuyển đi số nữ trang quí giá như thế này cùng với số hành lý ký gởi, thế nào mình cũng xếp chứng vào chỗ thật kín đáo, thu giấu kín đáo trong cái rương kếch xù như thế này, dễ dàng hơn thu giấu trong các va li bình thường.
Anh quyết định lục soát lại.
Một tay anh sờ vào mép trong của khoang tủ treo áo, một tay anh sờ vào bên ngoài, để xem độ dày của mỗi bên của rương, nếu độ dày có vẻ bất thường tức đấy là chỗ giấu của quí. Nhưng anh không thấy có dấu hiệu gì bất thường. Anh bèn lôi các ngăn kéo ra, hết ngăn này đến ngăn khác ...
Và anh tìm ra thứ anh muốn tìm.
Tim anh đập thình thịch.
Một phong bì lớn màu nâu và một bao da được buộc chặt bằng những dung vải nằm cứng dưới đáy rương.
Anh lắc đầu lẩm bẩm:
– Làm sao qua mặt mình được!
Lòng hồi hộp, anh bắt đầu tháo dây vải, lấy chiếc phong bì lớn ra xem trước.
Chiếc phong bì có vẻ như đựng một số giấy tờ gì đấy, nhưng Harry cũng mở ra xem. Anh thấy một cọc khoảng 50 tờ giấy dày có in chữ một mặt. Phải mất một lát anh mới nhận ra đây là phiếu trả tiền cho người nào sở hữu chúng, mỗi phiếu như vậy có trị giá một trăm ngàn đô la. Như vậy tính cả thảy là năm triệu đô la, hay là một triệu bảng Anh.
Harry đã biết chuyện xảy ra bên Anh như thế nào rồi. Chính quyền Anh ra lệnh khẩn cấp kiểm soát việc đổi bạc để ngăn cấm tiền bạc thất thoát ra khỏi nước. Oxenford đã buôn lậu một cách ngay thẳng.
Thì ra ông ta là tên đại bợm còn hơn cả anh nữa, Harry hả hê nghĩ.
Chưa bao giờ anh lấy của ai loại công trái như thế này. Liệu anh có xài những thứ này được không? Công trái trả cho trái chủ: tờ báo cũng có ghi rõ ràng hàng chữ này. Nhưng chúng đều được đánh số, để người ta có thể nhận diện. Thế nào Oxenford cũng thông báo việc mất mát này. Mà chắc là lão chuyển lậu các thứ này ra khỏi nước Anh? Nhưng có lẽ lão có cách nói để che đậy cho hành vi này của lão.
Dùng thứ này quá nguy hiểm. Harry không có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Đang tìm cách để đổi tiền, có thể anh sẽ bị thộp cổ mất. Anh đành để lại chỗ cũ.
Anh lấy cái bao da màu hạt dẻ, da mềm mại như da ví tiền của đàn ông, nhưng bao lớn hơn nhiều. Bao có dây kéo kín lại. Anh kéo dây kéo ra.
Trên lớp nhung đen lót trong bao là bộ trang sức Delhi. Đồ nữ trang lóng lánh trong ánh sáng lờ mờ của khoang hầm chứa hành lý như kính ghép màu trong giáo đường. Màu đỏ hồng ngọc xen kẽ với màu ngũ sắc lóng lánh của kim cương. Những viên đá quí to tướng, đồng đều nhau và gọt đẽo rết tinh vi, mỗi viên đính trên đài hoa và cánh hoa bằng vàng. Harry bàng hoàng ngây ngất.
Anh trân trọng nâng chiếc vòng đeo cổ lên, để cho các viên đá quí chảy giữa mấy ngón tay như nước màu. Lạ thật, anh nghĩ, những vật nhìn vào trông có vẻ nóng mà khi chạm vào lại quá lạnh. Đây là chuỗi trang sức đẹp nhất có lẽ là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời nhất từ xưa đến nay.
Mà là vật sẽ thay đổi cuộc đời anh.
Nhìn một lát, anh để chiếc vòng cổ xuống và lấy các thứ khác lên xem.
Chiếc vòng đeo tay, cũng như vòng cổ được cấu tạo xen kẽ hồng ngọc và kim cương, nhưng nhỏ hơn. Cặp hoa tai rất mảnh mai: từ một nụ hồng ngọc chảy xuống một chuỗi kim cương và hồng ngọc nhỏ, mỗi viên đá quí như thế đính trên một cánh hoa nhỏ bằng vàng.
Harry tưởng tượng Margaret đeo những thứ này lên người. Màu đỏ và màu vàng, sẽ làm nổi bật màu da trắng tái của cô, trông sẽ tuyệt vời biết bao. Mình thích thấy cô ta đeo các thứ nữ trang này lên người với bất cứ áo quần gì cũng được, - anh tự nhủ, người lâng lâng sung sướng trước viễn cảnh mơ mộng này.
Anh không biết anh đã ngồi bệt trên sàn ngắm nghía các tác phẩm tuyệt diệu này bao lâu trước khi anh nghe có tiếng chân người bước đến gần.
Ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong óc anh là có lẽ người đang đi đến chính là người trợ lý cơ khí trưởng; nhưng liền nhận ra bước chân người di không phải bước chân của ông ta, mà bước chân nghe thình thịch, vội vàng hống hách.
Bỗng anh co người lại vì lo sợ, ruột cồn cào, răng lập cập, tay tê cóng.
Bước chân đi nhanh đến, Harry vội vã để các ngăn kéo vào chỗ cũ, ném chiếc phong bì đựng công trái vào giữa áo quần, rồi đóng rương lại. Anh vừa nhét bộ trang sức Delhi vào túi thì cánh cửa khoang hành lý bật mở.
Anh vội nép người ra phía sau cái rương.
Im lặng một hồi lâu. Anh quá lo sợ anh không nhanh chân khi nép người sau cái rương và người đi đến ấy đã trông thấy anh. Anh nghe hơi thở có vẻ hổn hển như hơi thở của người to mập vội vã đi lên cầu thang. Rồi cửa buồng đóng lại.
Người ấy đi ra chưa? Harry lắng tai nghe. Anh không nghe tiếng thở nữa.
Anh từ từ đứng dậy, nhìn quanh.
Không có người nào hết.
Anh thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng chuyện gì đã xảy ra thế? Anh nghĩ bước chân thình thịch ấy và hơi thở hổn hển ấy chắc là của một cảnh sát. Hay có thể của một nhân viên quan thuế. Hay có thể đây chỉ là một nhân viên đi kiểm soát như thường lệ thôi.
Anh đến. gần cửa, mở ra he hé. Từ buồng máy phát ra tiếng nói chuyện nho nhỏ.
Anh ra khỏi buồng hành lý. Cửa ở buồng lái mở rộng, anh nghe hai người.
đàn ông nói chuyện.
– Thằng ấy không có trên máy bay.
– Chắc hắn ở trên này. Hắn không lên bờ.
Họ nói lơ lớ giọng Mỹ: Nhưng Harry nhận ra giọng họ là giọng Canađa.
Nhưng họ nói đến ai?
– Có thể hắn đi lên sau mọi người.
– Đi đâu mới được chứ? Hắn không có ở chỗ nào quanh đây hết.
Harry tự hỏi, Frankie Gordino thoát được rồi à?
– Vả lại hắn là ai?
Người ta cho biết hắn là đồng lõa của tên cướp có mặt trên máy bay này.
Thế là Gordino không trốn được; nhưng có tên nào trong nhóm hắn có mặt trên máy bay, bị phát hiện và đã trốn thoát. Kẻ hành khách nào đáng nể thế nhỉ?
– Tên đồng lõa này không phải là tội phạm chứ?
– Không, nhưng hắn đi với một hộ chiếu giả.
Harry ớn lạnh cả người. Chính anh cũng đi bằng hộ chiếu giả. Nhưng không phải người ta tìm anh chứ?
– Thôi, bây giờ ta làm gì? - Anh nghe họ nói tiếp.
– Ta đi báo cáo cho trung sĩ Morris biết.
Một lát sau. Harry bỗng nghĩ ra rằng có thể chính anh là người họ truy lùng.
Nếu cảnh sát đã biết, hay đã đoán, có kẻ lên máy bay để tìm cách thoát Gordino, đương nhiên họ sẽ xem xét rất kỹ danh sách hành khách, và họ sẽ phát hiện ra Harry Vandenpost đã báo cho cảnh sát ớ Luân Đôn biết ông ta mất hộ chiếu cách đây hai năm. Người ta chỉ việc gọi điện thoại đến nhà ông ta để hỏi, và họ sẽ biết ông ta không có mặt trên thủy phi cơ, mà đang ngồi ở nhà bếp ăn bánh xốp, đọc báo buổi sáng hay đang làm việc gì đấy. Khi biết Harry là một kẻ lừa bịp, thế nào cảnh sát cũng cho rằng chính anh là kẻ có mưu đồ cứu thoát Gordino.
Mà khoan, anh tự nhủ, khoan suy đoán dễ dàng như thế. Chắc phải có một lối giải thích khác.
Bỗng một giọng nói thứ ba cất lên, nói chen vào:
– Các bạn tìm ai thế - Giọng nói có vẻ như giọng của trợ lý cơ khí trưởng, Mickey Fiun.
– Tìm một kẻ đội tên Harry Vandenpost, nhưng thì ra hắn không phải tên ấy.
Thế là đúng rồi. Harry cảm thấy choáng váng mặt mày. Anh đã bị lột mặt nạ.
Hình ảnh ngôi nhà có sân quần vợt biến mất như người ta lấy đi tấm hình cũ để thay vào đấy tấm hình chụp ảnh Luân Đôn chìm trong cảnh tắt đèn tối tăm, cảnh tòa án, phòng giam và cuối cùng là trại lính. Vận may đã từ giã anh.
Mickey nói:
– Báo cho các anh biết, tôi đã gặp hắn lởn vởn quanh đây trong lúc máy bay tạm dừng ở Botwood!
– Nhưng bây giờ thì không có nữa.
– Các anh có chắc không?
Im đi, Mickey, - Harry nhủ thầm.
– Chúng tôi đã tìm khắp nơi.
– Các anh có tìm những nơi làm việc của thợ máy chưa?
– Những chỗ ấy ở đâu?
– Trong hai cánh.
– Rồi, chúng tôi tìm trong hai cánh rồi.
– Nhưng các anh có bò ra tận đầu cánh không? Trong ấy có những chỗ để trốn, đứng ở đây không thấy đâu.
– Tốt hơn là ta nên vào đấy xem lại cho kỹ.
Harry nghĩ: hai người cảnh sát này có vẻ hơi đần.
Nếu ông trung sĩ của họ có một chút lương tri, thế nào ông ta cũng ra lệnh lục tìm khắp máy bay một lần nữa. Và lần lục tìm này, thế nào họ cũng không quên nhìn ra phía sau cái rương kếch xù. Anh tìm đâu ra chỗ núp khác nữa.
Họ sẽ thực hiện một cuộc lục xét tỉ mỉ từ trước mũi tàu, các phòng vệ sinh, các cánh và phần hông ở sau đuôi. Làm sao anh có thể tìm được một chỗ núp khác chưa biết của phi hành đoàn? Anh kẹt rồi.
Thử trốn đi được không? Lén ra khỏi máy bay rồi theo bãi biển mà chạy trốn được không? Làm thế nguy hiểm, nhưng còn hơn chịu đầu hàng. Nhưng cho dù trốn khỏi cái làng nhỏ bé này mà không để cho ai thấy, rồi anh sẽ đi đâu? Anh có thể xoay xở được trong thành phố, nhưng anh có cảm giác chỉ quanh quẩn trong một vùng giới hạn vài cây số thôi. Ra vùng quê, anh sẽ lạc lõng. Anh cần phải sống với nhiều người, đường sá đông đúc có nhiều nhà và nhiều cửa hàng buôn bán. Anh nghĩ nước Canada rộng mênh mông bát ngát cả rừng với rừng. Nếu đến được New York, thế nào anh cũng thoát được. Nhưng trong lúc chờ đợi, anh trốn ở đâu?
Anh nghe tiếng chân các người cảnh sát ra khỏi hai cánh máy bay. Để bảo đảm hơn, anh núp vào lại trong khoang hành lý ... .
Và phải suy tính giải pháp để thoát cơn nguy hiểm này. Cái rương của bà Oxenford.
Anh chui vào trong rương được không? Anh suy tính xem sao. Cái rương cao khoảng một mét rưỡi, rộng sáu mươi phân: trống không, có thể chứa được hai người. Nhưng cái rương đựng nhiều thứ quá, nên anh phải lấy đồ ra cho rộng chỗ. Nhưng lấy ra để ở đâu? Anh không thể vứt bừa bãi ra đây được. Hay là tộng vào trong va li của anh, va li của anh còn trống một nửa?
Phải làm cho nhanh thôi.
Anh lôi hành lý trong rương ra, rồi lấy va li của anh, mở ra, tộng áo măng tô và áo dài của bà Oxenford vào. Anh phải ngồi trên nắp vali mới đóng va li được.
Bây giờ thì anh có thể vào trong rương được rồi. Anh nhận thấy ngồi bên trong có thể đóng nắp rương lại được. Khi ngồi trong rương thì làm sao thở cho được? Sẽ không ngồi lâu, có lẽ anh phải bị ngộp thở một chút, nhưng không chết đâu.
Cảnh sát có để ý mấy cái ngăn kéo ở khoang rương bên kia có nắp cài đã bật lên không? Có thể họ để ý thấy. Anh có thể ngồi trong rương để đẩy bật xuống các nắp đậy ở khoang bên kia được không? Việc này có vẻ khó đấy. Anh nghiên cứu việc khó khăn này một hồi. Nếu anh khoét những lỗ ở trong rương, anh có thể chuồi lưỡi dao qua cái lỗ hổng đó để đóng hoặc bật cái nắp cài các ngăn kéo lại. Đồng thời những lỗ hổng này làm cho anh được thông hơi một chút.
Anh lấy con dao ra. Cái rương làm bằng gỗ mỏng bọc da màu xanh đậm và màu hạt dẻ, có trang hoàng bằng những đóa hoa màu vàng. Như tất cả mọi con dao con khác, con dao của anh có mũi rất nhọn dùng để mở được các ổ khóa.
Anh đặt mũi dao vào một đóa hoa, thúc mạnh mũi dao. Mũi dao đâm vào lớp da không gặp khó khăn nhưng gặp lớp gỗ thì chùn lại. Harry cố đẩy mũi lao tới; lớp gỗ dày khoảng nửa phân, cho nên anh phải mất độ một hay hai phút mới đâm thủng được.
Anh lôi con dao ra. Nhờ hình cái hoa anh mới thấy được chỗ anh vừa đâm vào.
Anh trườn người vào trong rương, nhẹ nhõm người khi nhận thấy anh có thể đẩy bật lên hoặc đóng xuống được các nắp cài của rương.
Có hai cái nắp cài ở trên và ba cái ở bên hông. Anh bắt đầu với hai cái ở phía trên vì hai cái này anh thấy, rõ nhất. Anh vừa làm xong hai cái nắp cài này thì nghe có tiếng chân bước đến.
Anh liền nhảy vào trong rương và đóng nắp rương lại. Lần này anh không dễ dầu gì đóng các nắp cài bên kia. Với hai chân co lại, anh rất khó xoay xở.
Nhưng rồi anh cũng làm được.
Mấy phút sau, anh thấy thế ngồi làm cho anh đau đớn không chịu nỗi. Không làm sao nhúc nhích, trở người cho đỡ đau được. Anh phải im lặng chịu đựng.
Hơi thở anh trở nên hổn hển. Anh nghe bên ngoài có tiếng chân nhè nhẹ bước trước cửa khoang hành lý, có lẽ vì nơi này không có lót thảm và tiếng động được lớp sàn bằng tôn truyền đến chỗ anh dễ dàng. Anh nghe tiếng chân, anh đoán ít ra cũng có ba người. Không nghe tiếng cửa mở, nhưng anh nghe có tiếng chân gần bên anh, anh đoán chắc đã có người vào khoang hành lý rồi.
Bỗng có tiếng nói cất lên gần bên anh:
– Tôi nghĩ thằng khốn này không sao thoát khỏi đây được.
Lạy Chúa, Harry lo lắng nhủ thầm, xin Chúa đừng để cho anh ta nhìn thấy các nắp cài bên kia cái rương đã bật lên.
Có tiếng va chạm, ở trên đầu rương. Harry cảm thấy đứng tim. Có lẽ người cảnh sát chỉ dựa người vào cái rương thôi.
Có tiếng người nói từ xa vọng lại. Anh ta nói tiếp:
– Không có. Hắn không có trên thủy phi cơ. Chúng tôi đã lục tìm khắp nơi rồi.
Có tiếng người khác trả lời cái gì đấy. Hai đầu gối của Harry đau nhừ.
Lạy trời, anh cầu nguyện, xin các ông đi chỗ khác mà bàn?
– Ồ thế nào rồi nó cũng bị bắt thôi. Nó không thể đi bộ hai trăm cây số đến tận biên giới mà không ai thấy nó!
Hai trăm cây số. Anh phải chạy bộ một tuần mới hết đoạn đường dài như thế này, thế nào người ta cũng nhận ra được anh.
Anh không nghe ai nói gì một lát, rồi anh nghe tiếng chân họ bước đi. Tiếng chân nhỏ dần rồi tắt hắn.
Anh lấy dao, đưa đầu nhọn qua lỗ khoét trong rương để đẩy bật các nắp cài lên.
Lần này còn khó hơn nữa. Hai đầu gối đau kinh khủng đau không chịu được đến nỗi anh không có chỗ dựa thì chắc anh đã nhào đầu rồi. Anh thấy lo sợ, bèn đưa dao lục tìm chỗ khoét như điên. Anh sợ bị nhất trong rương này. Mình sẽ chết ngộp mất, anh nghĩ. Anh cố giữ bình tĩnh. Một lát, anh thọc được mũi dao vào lỗ khoét.
Anh đẩy mạnh lưỡi dao. Cái nắp cài nâng lên, rồi rơi xuống lại. Anh nghiến răng, làm lại lần nữa.
Lần này thì cái nắp cài bật lên được. Từ từ, khó nhọc, anh bật mở cái nắp cài khác. Cuối cùng anh mở hai cánh, cửa rương ra và đứng dậy. Hai đầu gối đau nhức đến nổi anh suýt nữa phải rên lên, nhưng anh giữ được yên lặng.
Anh sẽ làm gì?
Anh không thể rời khỏi máy bay ở đây được.Trước khi đến New York, có lẽ anh không nên làm điều gì hết, nhưng biết có chuyện gì sẽ xảy ra không?
Chắc anh phải ẩn trốn trên máy bay, rồi đợi đêm tối sẽ lẻn ra ngoài. Làm thế có thể trốn thoát được.
Vả lại, anh không còn sự lựa chọn nào khác. Rồi mọi người sẽ biết chuyện anh ăn trộm nữ trang của bà Oxenford. Điều quan trọng nhất là Margaret sẽ biết chuyện này. Anh sẽ không có mặt ở đây để phân trần cùng cô.
Càng nghĩ ra đến chuyện này bao nhiêu, anh càng biết cô sẽ ghê tởm anh bấy nhiêu. Anh biết việc ăn trộm bộ trang sức Delhi sẽ có nguy cơ làm hại đến tình yêu giữa Margaret với anh; nhưng anh nghĩ nếu khi cô biết mà có mặt anh bên cô, anh có thể phân trần, biện minh cho hành động của anh được. Bây giờ có thể còn lâu anh mới gặp được cô; và nếu không may mà anh bị bắt, có thể còn nhiều năm nữa mới gặp lại nhau.
Anh mường tượng những điều cô nghĩ về anh. Thế nào cô cũng cho rằng những điều anh hứa với cô chỉ là giả dối, chắc cô nghĩ rằng anh chỉ nghĩ đến đồ nữ trang mà thôi, chứ không nghĩ gì đến cô. Thế nào cô cũng rất đau khổ, rồi cô sẽ ghét anh, khinh bỉ anh.
Nghĩ thế, anh thấy đau đớn vô cùng.
Mãi cho đến giây phút này, anh vẫn chưa thấy hết tình cảm của Margaret dành cho anh. Mối tình cô dành cho anh là mối tình chân thật. Mãi cho đến bây giờ tất cả cái gì trong cuộc sống của anh cũng đều là những thứ giả dối:
giọng anh nói, thái độ biểu hiện ra ngoài, áo quần, lối sống, tất cả đều là sự trá hình.
Nhưng Margaret đã yêu một tên ăn trộm, yêu một thằng mồ côi vô sản, yêu chính anh chàng Harry đích thực. Đây là điều tuyệt vời chưa bao giờ xảy đến cho anh. Nếu anh từ bỏ điều này, đời anh sẽ mãi mãi như bây giờ thôi, mãi mãi anh sẽ sống trong sự bất chính, mưu mô. Hay là Margaret đã dẫn anh đến chỗ ước muốn những điều tốt đẹp hơn. Anh luôn luôn ước mơ có một ngôi nhà ở nông thôn có sân quần vợt, nhưng anh chỉ thích sống trong ngôi nhà này nếu có Margaret cùng sống với anh. Anh thở dài. Hết rồi, chú bé Harry. Có lẽ anh đang trưởng thành, thành người lớn rồi.
Anh mở cái rương của bà Oxenford, lấy cái túi da đựng bộ trang sức Delhi trong túi áo ra, mở túi da lấy bộ đồ nữ trang ra xem một lần nữa. Những viên hồng ngọc lóng lánh như ánh lửa hồng. Anh nghĩ: Có lẽ không bao giờ mình thấy lại những vật như thế này nữa.
Anh bỏ những viên đá quí vào bao da. Rồi, anh miễn cưỡng để bao nữ trang lại vào rương của bà Oxenford.
Nancy Lenehan ngồi ở cuối con đê dài bằng gỗ ở Shediac, gần bên nhà ga phi cảng. Tòa nhà giống cái biệt thự ở bờ biển với hoa trồng trong thùng gỗ và có mành mành che cửa sổ; trụ ăng-ten ra-đi-ô bên cạnh nhà và đài kiểm soát vượt quá mái nhà đã cho người ta biết đây là nơi điều hành các chuyến bay.
Mervyn Lovesey ngồi bên cạnh bà trong chiếc ghế xích đu bằng vải sọc.
Nước vỗ nhẹ vào các trụ đê nghe lào xào. Nancy nhắm mắt lại. Bà thiếu ngủ.
Nhớ lại cảnh diễn ra trên máy bay trong đêm qua giữa bà với Mervyn, bà nhếch mép mỉm cười.
Bà mừng thầm vì đã không đi đến chỗ tận cùng của cảnh yêu đương. Chuyện xảy ra quá bất ngờ, và bây giờ chắc đang có nhiều chuyện khác sắp xảy đến với bà.
Shediac là một làng đánh cá và là một điểm nghỉ hè. Về phía tây của con đê, con vịnh trải dài trước ánh nắng, trong vịnh đậu nhiều thuyền đánh cá, và một chiếc du thuyền nhỏ, chiếc Clipper và một chiếc thủy phi cơ nhỏ. Về phía đông, bãi cát rộng chạy dài nhiều cây số phần lớn hành khách ngồi trên các đụn cát hay đi bách bô đọc theo bãi biển.
Bỗng có hai chiếc xe hơi phá tan bầu không khí yên lặng thanh bình, xe chạy đến tận mút con đê thì thắng gấp, khiến cho bánh xe lết trên mặt đường rít lên kin kít, rồi từ trên xe nhảy xuống chừng bảy tám người cảnh sát. Họ bước nhanh vào văn phòng công ty, Nancy nói nhỏ với Mervyn:
– Tuồng như họ đến bắt ai thì phải.
– Có lẽ bắt Frankie Gordino?
– Chắc không phải đâu ... hắn đã bị bắt rồi.
Một lát sau, họ từ trong văn phòng bước ra. Ba người đi lên chiếc Clipper, hai người đi dọc theo bãi cát và hai người đi dọc theo con đường trong làng. Họ có vẻ đi tìm người nào đấy. Khi một người trong phi hành đoàn của chiếc Clipper đến gần, Nancy hỏi:
– Cảnh sát tìm bắt ai phải không?
Ông ta ngần ngừ, như thể không biết có nên nói cho hành khách biết chuyện này không, nhưng rồi ông ta nhún vai đáp:
– Anh chàng họ tìm có tên Harry Vandenpost, nhưng anh ta không phải tên này.
Nancy nhướng mày:
– Chính cái anh ngồi cùng phòng với gia đình Oxenford rồi. - Bà nghĩ Margaret đã mê anh ta.
– Được rồi, - Mervyn nói - Hắn có lên bờ không? Anh không thấy hắn ta đâu hết.
– Em không biết nữa.
– Anh thấy hắn có vẻ láu cá.
– Thế à? - Nancy nghĩ anh là con của một gia đình khá giả. - Anh ta rất có tư cách.
– Thì đúng thế.
Nancy cố nín cười: đúng là Mervyn không ưa những người có tư cách hẳn hoi.
– Em thấy Margaret để ý đến anh ta ghê lắm. Mong sao cô ấy đừng đau khổ về chuyện này.
– Anh nghĩ, thế nào bố mẹ cô ta cũng vui sướng khi thấy cô thoát khỏi được anh ta.
Nancy không mừng cho cha mẹ cô ta. Mervyn và bà đã chứng kiến thái độ đáng ghê tởm của ngài Oxenford trong phòng ăn trên chiếc Clipper. Loại người như vợ chồng này đáng phải hứng lấy cảnh trớ trêu như thế, ngoại trừ Margaret.
Nếu quả thật cô ta yêu anh chàng lưu manh này, thì Nancy không ân hận cho cô.
– Nancy này, - Mervyn lên tiếng, - anh không phải là loại người bốc đồng đâu.
Bà ngồi thẳng người lên, kinh ngạc nhìn ông ta.
Ông nói tiếp:
– Anh mới gặp em cách đây mấy giờ thôi, nhưng anh thấy anh muốn ở bên em suốt đời.
Nancy nghĩ, anh đừng có quả quyết như thế, chàng khờ! Nhưng nghe ông nói, bà thấy vui. Bà không nói.
– Cứ nghĩ đến chuyện anh sẽ từ giã em ở New York để trở về Manchester, là anh thấy không muốn chút nào hết.
Nancy cười. Đấy là điều bà muốn nghe ông ta nói. Bà đưa tay nắm bàn tay ông, thì thào đáp:
– Em rất sung sướng.
– Thật không? - Ông nghiêng người sát vào bà. - Khổ thay là rồi đây việc qua lại trên Đại Tây dương này không thể dễ dàng gì cho mọi người, ngoại trừ lính tráng.
Bà gật đầu. Bà đã thấy được vấn đề khó khăn này. Nhưng bà không lo nghĩ nhiều, vì bà thấy nếu họ muốn có giải pháp êm đẹp thì thế nào họ cũng tìm ra được.
Mervyn nói tiếp:
– Nếu bây giờ chúng ta chia tay nhau, có lẽ phải mất nhiều năm nữa chúng ta mới có thể gặp lại nhau được. Anh không muốn chấp nhận ý kiến này.
– Em cũng không.
– Vậy thì em có muốn sang Anh với anh không?
– Nụ cười trên môi Nancy biến mất. Bà hỏi:
– Sao?
– Sang bên Anh với anh. Em hãy ở trong một khách sạn nếu em muốn, hay là mua một ngôi nhà, một căn hộ .... bất cứ cái gì cũng được.
Nancy cảm thấy sự tức giận bùng lên trong lòng.
Bà nghiến răng cố giữ bình tĩnh.
– Anh mất trí rồi, - bà gay gắt nói rồi quay mắt đi bà hoàn toàn thất vọng.
Phản ứng của bà có vẻ đã làm cho ông bị chạm tự ái và bối rối. Ông hỏi:
– Có chuyện gì à?
– Tôi đã có nhà, có hai con trai và cơ sở khinh doanh trị giá nhiều triệu đô la,- bà đáp.- Anh yêu cầu tôi bỏ hết để sang ở trong khách sạn tại Manchester.
– Nếu em không thích thì thôi, - ông nhẫn nhục nói. - Nếu em thấy thích thì sang ở với anh.
– Tôi là góa phụ đáng kính, có địa vị trong xã hội ... Tôi không muốn sống như một cô gái được đàn ông bao.
– Em hãy nghe anh nói đây, anh nghĩ là chúng ta sẽ cưới nhau, anh tin chắc như thế, nhưng anh nghĩ hẳn là em chưa tính đến chuyện ấy, vì chúng ta mới quen nhau có mấy giờ, phải không.
– Vấn đề không phải là chỗ ấy, Mervyn à, mặc dù xét ra cũng có phần đúng.
Điều quan trọng là vấn đề anh đưa ra. Tôi không thích điều anh đề nghị, bỏ hết tất cả để theo anh sang ở bên Anh.
– Nhưng nếu không làm thế thì làm sao chúng ta có thể sống với nhau?
– Tại sao anh không nêu câu hỏi mà lại đưa ra giải pháp?
– Bởi vì chỉ có một giải pháp thôi.
– Có ba giải pháp. Tôi có thể sống bên Anh; anh có thể sống ở Mỹ; hay là cả hai chúng ta có thể đến sống ở một nơi nào như ở quần đảo Berlnudes chẳng hạn.
Ông bối rối trả lời.
– Nhưng đất nước anh đang lâm chiến. Anh phải tham gia chiến đấu. Có lẽ anh lớn tuổi, không ra trận được nhưng ngành không quân sẽ cần hàng ngàn chong chóng máy bay, mà anh là chuyên viên thành thạo về bộ phận này hơn nhiều người Anh: Họ rất cần anh.
Những điều ông nói càng làm cho vấn đề thêm trầm trọng.
– Tại sao anh nghĩ đất nước tôi không cần đến tôi? Bà đáp. - Tôi sẽ đóng giày cho lính và khi Hoa Kỳ tham chiến, sẽ có rất nhiều binh sĩ cần giày tốt.
– Nhưng anh có cơ sở làm ăn ở Manchester.
– Tôi cũng có cơ sở làm ăn ở Boston, mà trên thực tế cơ sở của tôi quan trọng hơn của anh.
– Với đàn bà, vấn đề không giống như nhau.
– Giống như nhau chứ, đồ ngốc! - Bà nói lớn.
Nói. xong, bà ân hận ngay. Bà thấy vẻ giận dữ hiện ra trên mặt Mervyn, bà đã làm cho ông ta tức giận. Ông đứng lên khỏi ghế xích đu. Bà muốn nói điều gì đấy với ông, để ông khỏi cảm thấy bị chạm tự ái, nhưng bà không tìm ra được lời nào để nói, và một lát sau, ông biến mất.
– Ối dà?!- Bà lẩm bẩm một mình. Bà giận ông mà cũng giận mình. Bà không muốn xua đuổi ông đi: ông đã làm cho bà hài lòng! Từ nhiều năm nay, bà đã biết rằng khi làm ăn với đàn ông, không nên gây go trực tiếp với họ, vì làm thế sẽ thất lợi, đàn ông họ chấp nhận ganh đua kèn cựa nhau, nhưng họ không muốn kèn cựa với phụ nữ. Cho nên trong công việc, bà luôn luôn kiềm chế tính đấu tranh, thường ăn nói nhỏ nhẹ với đàn ông và lợi dụng họ để đạt được những điều mình muốn, chứ không gây gổ với họ. Thế mà bây giờ bỗng nhiên ,bà ngu ngốc quên hết những điều này, đã cải vã với người đàn ông dễ thương nhất từ 10 năm nay bà mới gặp được.
Mình là đồ ngốc, bà tự nhủ. Chính lòng kiêu hãnh nơi ông ta là nét đặc biệt khiến cho bà thích. Chính đây là một phần sức mạnh của ông. Ông cứng rắn đấy, nhưng ông không che đậy được cảm xúc của mình như phần đông đàn ông ve vãn bà trước đây thường làm. Cứ nhìn cách ông đuổi theo người vợ qua nửa vòng trái đất thì rõ. Cứ nhìn cách ông bảo vệ người Do thái khi ngài Oxenford chửi rủa họ ở phòng ăn trên máy bay thì rõ. Mình nhớ cách ông hôn mình ...
Chuyện thật mỉa mai là bà cảm thấy bà muốn tính đến chuyện thay đổi cuộc sống. Câu chuyện Danny Riley nói về bố bà, đã khiến bà nghĩ đến việc một ngày nào đấy bà sẽ thay đổi cuộc sống của mình. Bà thường cho rằng Peter và bà gây gổ nhau, vì anh ta có ác cảm với bà bởi bà thông minh hơn. Nhưng sự kèn cựa giữa anh chị em thường thì chấm dứt khi đến tuổi trưởng thành: hai con trai của bà đã từng gây gổ kèn cựa nhau như chó với mèo gần 5 năm, nhưng bây giờ khôn lớn rồi, họ trở thành bạn bè thân thiết nhất và trung thành với nhau kinh khủng. Trái lại, sự thù hằn giữa bà với Peter vẫn kéo dài mãi cho đến khi đã đứng tuổi, và bây giờ bà biết nguyên do tình trạng này là do bố bà.
Ông khẳng định với Nancy rằng bà sẽ tiếp tục sự nghiệp của ông, còn Peter phải làm việc theo lệnh của bà; nhưng ông lại nói với Peter ngược lại. Cho nên cả hai chị em cứ nghĩ là mình có quyền điều khiển công ty. Nhưng ngoài chuyện này, còn nhiều chuyện rối rắm nữa. Bây giờ bà mới thấy được chuyện này: bố họ không hoạch định những qui luật rõ ràng hay phân định trách nhiệm cho mỗi người. Ông mua đồ chơi về cho con, hai chị em tự chia nhau lấy mà chơi, rồi ông không chịu đứng ra phân xử việc, cãi cọ giữa hai chị em, việc cãi cọ nhau không tránh khỏi. Khi hai chị em đến tuổi lái xe, ông mua cho họ chiếc xe để hai người cùng dùng. Suốt nhiều năm trời chiếc xe là nguyên nhân cho hai chị em gây gổ nhau.
Nancy đã theo đúng chiến lược của bố: hăng hái, năng nổ. Nhưng Peter đã trở thành một con người yếu đuối đạo đức giả cao đạo. Bây giờ, đúng theo kế hoạch của bố họ, kẻ nào mạnh là kẻ đó nắm quyền điều khiển công ty .
Và chính điều này đã làm cho Nancy bối rối: tất cả đúng theo kế hoạch của bố. Cứ nghĩ rằng tất cả những việc bà làm lâu nay là do một người khác định đặt, khiến bà mất hết niềm vui chiến thắng. Bây giờ bà thấy suốt cả đời bà, bà chẳng khác nào một cô học trò làm theo yêu cầu của bố đưa ra: bà phải đạt cho được 18 trên 20, nhưng bây giờ đã 40 tuổi rồi, bà quá lớn rồi, không thể làm học trò được nữa. Tự nhiên bà cảm thấy muốn tự mình hoạch định tương lai của mình, muốn sống cuộc sống theo ý muốn của mình.
Thật vậy, bà có ý định sẽ thảo luận thẳng thắn với Mervyn để cùng nhau chung sống trong tương lai. Nhung ông đã xúc phạm đến bà khi đề nghị bà bỏ hết để theo ông về sống bên Anh; thay vì thuyết phục ông nghe theo ý mình, bà lại chửi mắng ông.
Bà không đợi ông quì xuống để xin cầu hôn với bà, nhưng ...
Tự thâm tâm bà nghĩ rằng ông ta phải làm như thế mới được. Nói tóm lại, bà đâu phải là gái lang thang bà là người Thiên Chúa giáo Mỹ, nếu người đàn ông nào muốn kết hôn với bà, đương nhiên anh ta phải xin cầu hơn chứ. Nếu anh ta không làm thế, anh ta sẽ không thành hôn với bà được.
Bà thở dài. Đáng ra bà đừng làm cho ông ta bị chạm tự ái để ông bỏ đi.
Nhưng có lẽ chuyện xích mích này chỉ tạm thời thời. Bà tha thiết mong sao được như thế. Bây giờ đứng trước nguy cơ mất Mervyn bà mới thấy bà cần đến ông dường nào.
Bỗng có tiếng chân người bước đến gần bà, bước chân cắt đứt dòng tư tưởng của bà, bước chân của người đàn ông mà trước đây bà đã xua đuổi: Nat Ridgeway.
Ông ta đứng trước mặt bà, lễ phép cất mũ, nói:
– Có thể nói cô lại thắng tôi ... thêm một lần nữa. Bà nhìn ông ta một lát.
Không bao giờ ông ta có thể xây dựng một công ty và làm cho công ty phát triển như bố cô đã xây dựng Công ty Giày Black, ông ta không có óc tưởng tượng cũng không có nghị lực để làm được như thế. Nhưng ông ta rất giỏi công việc điếu hành ông ta khôn lanh, tháo vát và cương quyết. Bà đáp:
– Nat này, cách đây 5 năm, tôi đã mắc phải sai lầm, chắc chuyện này làm cho anh hài lòng.
– Sai lầm trong công việc kinh doanh hay trong đời tư, - Ông ta hỏi, giọng nghe hậm hực.
– Trong công việc, - bà đáp, giọng nhẹ nhàng. Việc Nat bỏ công ty ra đi đã chấm dứt mối tình vừa chớm nở, bà không muốn nói chuyện đó. - Xin chúc mừng cuộc hôn nhân của anh. Tôi đã xem ảnh của vợ anh, chị ấy đẹp lắm. - Không đúng như thế, chị ta chỉ hấp dẫn thôi.
– Cám ơn, - Ông ta đáp. - Nhưng ta hãy nói chuyện làm ăn tiếp, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy cô dung đến biện pháp bêu xấu người ta để đạt điều mình mong muốn.
– Làm thế để nắm quyền kiểm soát, chứ không phải tham lam. Chính anh đã nói với tôi hôm qua như thế.
– Giỏi thật. - Ông ta ngần ngừ. - Tôi ngồi được không?
Bỗng cái giọng hình thức này làm bà, bực mình. Bà đáp:
– Dĩ nhiên là được. Chúng ta đã làm việc với nhau nhiều năm và đã cùng đi chơi với nhau suốt mấy tuần, chưa bao giờ anh xin phép tôi để ngồi.
Ông ta cười.
– Xin cám ơn. - Ông kéo cái ghế xích đu của Mervyn vừa ngồi, quay ghế để đối diện với bà. – Tôi đã thử nắm quyền kiểm soát công ty Black mà không có sự giúp đỡ của cô. Thật ngốc, tôi đã thất bại. Đáng ra tôi phải lượng sức mình mới phải.
– Không phải là lúc ta bàn cãi chuyện đó. – Bà nhận ra câu trả lời của bà có vẻ hằn học. - Bỏ qua chuyện cũ là hơn.
– Tôi sung sướng khi nghe cô nói như thế ... vì tôi vẫn luôn luôn muốn mua công ty của cô.
Nancy bỗng giật mình tỉnh ngộ. Suýt nữa thì bà đã đánh giá thấp ông ta.
Đừng bớt cảnh giác đấy nhé! bà nhủ thầm. Bà hỏi:
– Anh nghĩ đến chuyện gì thế?
– Tôi muốn thử một lần nữa, - ông ta đáp. – Dĩ nhiên lần này tôi phải đưa ra đề nghị tốt hơn nhiều. Nhưng điều quan trọng nhất là tôi muốn cô đứng về phe tôi ... trước và sau khi hợp nhất các công ty. Tôi muốn thỏa thuận với cô, rồi tôi muốn cô nhận một chức Giám đốc của Tổng công ty Dệt May với hợp đồng 5 năm.
Bà không hề trông đợi điều này, bà không biết phải tính sao. Để có thời gian suy nghĩ, bà đặt câu hỏi:
– Hợp đồng à? Để làm gì thế?
– Để điều khiển Công ty Giày Black trở thành một phân xưởng trong Tổng công ty Dệt May.
– Tôi sẽ mất quyền độc lập ... tôi sẽ trở thành người làm công.
– Theo cách tôi tổ chức; thì cô sẽ trở thành người điều hành. Làm ra tiền là cô có độc lập theo ý muốn của cô. Tôi không xen vào các phân xưởng làm lợi cho Tổng công ty. Nhưng nếu làm ăn thua lỗ, thì dĩ nhiên cô mất quyền độc lập. Tôi cho nghỉ việc những ai thất bại. - ông ta lắc đầu. - Nhưng cô sẽ không thất bại đâu.
Phản ứng đầu tiên của Nancy là từ chối. Ông ta nói hay ho để dụ dỗ bà, ông ta luôn luôn muốn chiếm công ty của bà. Nhưng bà nhận ra từ chối liền là làm đúng điều bố bà mong đợi, mà bà quyết định sẽ không sống theo chương trình do bố bà đã định đặt ra nữa. Bà cố kéo dài thêm thì giờ, bà nói:
– Ý kiến hay đấy chứ.
– Tôi muốn biết cô có bằng lòng ý kiến này không, ông ta nói rồi đứng dậy.
Cô hãy suy nghĩ đi, rồi cho tôi biết cô có bằng lòng hay không. Tôi không đề nghị ký cho cô một ngân phiếu trắng đâu, nhưng tôi xin hứa với cô tôi sẽ làm đủ cách để cô vừa lòng.
Nancy sững sờ. Độ này ông ta đã biết cách thương lượng rồi đấy.
– Tôi nghi em trai cô muốn nói chuyện với cô. Bà quay lại, thấy Peter đang bước đến gần. Nat đội mũ lên và bỏ đi. Chuyện này có vẻ như đã được sắp sếp trước rồi. Nancy nhìn Peter, ánh mắt căm hờn. Bà muốn suy nghĩ lời đề nghị hấp dẫn của Nat Ridgeway, để xem đề nghị này éo hợp với nếp sống mới mà bà định sống không, nhưng Peter không để cho bà có thì giờ. Anh ta đứng yên trước mặt bà, đầu cúi xuống như thời còn nhỏ, rồi hỏi:
– Chúng ta nói chuyện một lát có được không?
– Tôi không muốn, - bà đáp.
– Tôi muốn xin lỗi chị.
– Cậu chỉ ân hận về việc phản bội của cậu, khi cậu biết chương trình phản bội đã bị thất bại.
– Tôi muốn hòa giải cho yên ổn.
Bà cay đắng nghĩ, hôm nay ai cũng muốn hòa giải với mình hết. Bà hỏi anh ta:
– Làm sao cậu sửa chữa được những lỗi lầm cậu đã gây ra cho tôi?
– Tôi không sửa chữa được, - anh ta đáp liền. - Chắc không bao giờ tôi sửa được.
Anh ta ngồi xướng trên chiếc ghế Nat vừa bỏ đi.
– Khi tôi đọc tờ tường trình của chị, tôi cảm thấy mình là đồ khốn nạn. Tờ tường trình nói rằng tôi không thể điều hành được công việc, rằng tôi không thể so được với bố tôi, rằng chị tôi giỏi hơn tôi nhiều. Tôi thấy xấu hổ vì tự thâm tâm tôi biết sự thật là thế.
Bà tự nhủ: Đúng là nó có tiến bộ rồi.
– Việc này làm tôi tức giận. Nan à, thật đấy. - Hai chị em lúc nhỏ thường gọi nhau là Nan và Petey, bây giờ nghe anh ta gọi lại tên ấy, bà bỗng thấy xúc động đến nghẹn ngào - Tôi nghĩ tôi không biết đã làm cái gì nữa.
Bà lắc đầu. Đây là luận điệu Peter thường dùng để xin lỗi. Bà đáp:
– Cậu biết rất rõ cậu đã làm gì.- Nhưng bây giờ bà thấy buồn hơn là tức giận.
Một nhóm người dừng lại gần bên cửa văn phòng hãng Hàng không để nói chuyện. Peter trừng mắt giận dữ nhìn họ rồi nói với Nancy:
– Ta đi trên bãi một vòng nhé? .
Bà thở dài. Nói cho cùng, anh ta vẫn là em trai của bà. Bà đứng dậy. Anh ta cười hớn hở.
Hai người đi tới cuối mút kia ,của con đê, con đê vượt quá con đường sắt, chạy xuống tận bãi cát. Nancy tháo giày cao gót để đi trên cát. Gió nhẹ làm lung lay mái tóc vàng của Peter, bỗng Nancy ngạc nhiên thấy tóc hai bên mang tai của anh ta đã rụng hết. Bà tự hỏi tại sao trước đây bà không nhận thấy hiện tượng này và bà hiểu ra việc anh ta chải tóc rất cẩn thận là cốt để che giấu tình trạng hói tóc sớm như thế. Tự nhiên bà cảm thấy mình già.
Bây giờ quanh họ không còn ai hết, nhưng Peter vẫn im lặng không nói năng gì, và chính Nancy là người cuối cùng đã lên tiếng:
– Danny Riley có kể cho tôi nghe một câu chuyện buồn cười. Ông ta nói rằng bố cố tình sắp xếp tình hình sao để cho chúng ta phải kèn cựa nhau.
Peter cau mày hỏi:
– Tại sao bố làm thế?
– Để rèn luyện khả năng chiến đấu của chúng ta.
Peter cười, giọng cười khàn khàn. Anh ta hỏi:
– Chị có tin không?
– Tin – Tôi cũng thế.
– Tôi quyết định từ nay sẽ không sống theo sự áp đặt của bố nữa.
Anh ta gật đầu, rồi hỏi bà:
– Nhưng chị sẽ sống như thế nào?
– Tôi chưa biết. Có lẽ tôi chấp nhận lời đề nghị của Nat, hợp nhất hai công ty của chúng ta với nhau.
– Nan không phải công ty của chúng ta nữa. Mà là công ty của chị.
Bà nhìn anh ta. Hắn có thành thật không? Nếu cứ ngờ vực hắn thì đâm ra mình quá ti tiện. Bà cảm thấy không nên ngờ vực người em trai quá đáng làm gì.
Khi anh ta lên tiếng nói tiếp, giọng điệu có vẻ thành thật:
– Tôi nhận thấy tôi không có tài trong nghề kinh doanh, nên tôi quyết định sẽ nhường lại công việc này cho những người có tài như chị.
– Nhưng rồi cậu sẽ làm gì?
– Có lẽ tôi sẽ mua ngôi nhà này. - Họ đang đi qua trước một ngôi biệt thự đẹp đẽ, sơn màu trắng và cửa xanh, - Tôi sẽ có nhiều thì giờ để đến nghỉ ngơi ở đây. Bà cảm thấy hơi xúc động, lo ngại cho anh ta. Bà hỏi:
– Ngôi nhà đẹp đấy. Nhưng người ta có bán không?
– Có biển rao bán nằm ở phía bên kia. Hồi nãy tôi có qua đấy rồi. Chị vào xem cho biết.
Họ đi quanh nhà. Cửa lớn cửa nhỏ đều đóng kín mít, đứng ngoài không làm sao thấy bên trong được, nhưng bên ngoài trông rất dễ thương. Nhà có hành lang rộng, trong hành lang có nhiều võng, trong vườn có sân quần vợt, và cuối vườn có ngôi nhà nhỏ không có cửa sổ. Nancy nghĩ đấy là nhà kho dùng cất thuyền bè. Bà nói:
– Thế nào cậu cũng phải sắm một chiếc thuyền.– Bà biết Peter rất mê thích lái thuyền.
Bên hông nhà kho, có cánh cửa mở rộng. Peter đi vào. Bà nghe anh ta reo lên:
– Lạy Chúa lòng lành!
Bà bước qua ngưỡng cửa, căng mắt nhìn trong bóng tối lờ mờ. Bà lo sợ cất tiếng hỏi:
– Cái gì thế? Peter? Có sao không?
Peter hiện ra bên cạnh bà, hắn nắm cánh tay bà. Bỗng bà thấy trên mặt hắn hiện ra nụ cười đểu cáng, chiến thắng, và bà nhận ra ngay mình đã phạm một sai lầm trầm trọng. Hắn kéo mạnh tay bà để lối bà vào trong. Bà vấp chân, lảo đảo chúi người tới trước, miệng la lên, thả giày và cái ví xuống, rồi ngã nhào ra mặt đất.
– Peter!- bà giận dữ gọi lớn. Bà nghe tiếng chân bước ra rồi có tiếng cánh cửa đóng sầm lại, và bà ở trong cảnh tối thui tối mò. – Peter? Bà bắt đầu lo sợ. Bà đứng dậy. Có tiếng lách cách bên ngoài như tiếng khóa . – Peter! .Cứ nói điều gì mày muốn đi!
Không có tiếng trả lời. Đứng trong ngôi nhà tối như bưng, bà hiểu bà đã mắc bẫy, hắn đã tìm thấy ngôi nhà vô chủ, có nhà kho cất thuyền rất thuận lợi cho hắn, hắn dẫn bà đến, nhốt bà vào đây để bà lỡ chuyến máy bay, không về kịp để biểu quyết ở Hội đồng quản trị. Những lời ân hận, xin lỗi những lời hứa sẽ từ bỏ công việc kinh doanh của hắn và thái độ chân thành của hắn, chỉ là những lời giả dối, là thái độ xảo quyệt. Hắn đã gợi lại kỷ niệm thời thơ ấu để cho bà mềm lòng. Một lần nữa bà tin vào hắn, một lần nữa hắn phản bội bà. Thật đáng cho bà khóc.
Bà cắn môi, xem xét tình thế. Khi mắt đã quen với bóng tối trong phòng, bà thấy một đường ánh sáng nằm dưới cánh cửa. Bà đi đến phía cửa, hai tay dang thẳng ra phía trước. Khi đến cửa, bà sờ vào hai bên cửa và tìm ra cái cần gạt ngắt điện. Bà kéo cái gạt xuống, cả nhà kho sáng trưng. Bà đưa tay vặn nắm cửa, nhưng lòng không hy vọng. Quả vậy, cánh cửa không nhúc nhích: hắn đã cài then chặt ở bên ngoài rồi. Bà tựa vai vào thành cửa, cố đẩy mạnh ra, nhưng cửa vẫn không nhúc nhích.
Khi té xuống đất, bà bị trầy hai cùi tay và hai đẩu gối, bít tất bị rách. “Đồ rác rưởi”, - bà rửa thầm Peter.
Bà mang giày vào, lượm cái ví lên và nhìn quanh.
Hầu như cả căn nhà kho đều bị một chiếc thuyền buồm lớn choán hết, chiếc thuyền để trên chiếc xe chở hàng. Cái cột buồm gác trên giàn treo trên trần nhà, còn buồm được xếp gọn để trên boong thuyền. Ở cuối nhà kho có một cánh cửa lớn.
Nancy nhìn kỹ cánh cửa, bà thấy cửa khóa thật cẩn thận, chắc chắn.
Căn nhà nằm hơi xa bãi biển, nhưng có thể có người khách nào trên tàu Clipper hay người nào đấy tình cờ đi ngang qua đây. Nancy bèn hít vào một hơi thật dài rồi cất tiếng la thật lớn:
– Cứu, cứu tôi với! Bà định gọi mỗi lần cách khoảng một phút để khỏi khàn giọng.
Mặc dù cửa trước và cửa bên của nhà kho rất vững chắc và khóa chặt, nhưng nếu bà có cái đòn bẫy hay dụng cụ gì đại loại như thế, bà có thể phá cửa ra được. Bà nhìn quanh. Chủ nhà quả là con người quá cẩn thận: ông ta không để trong cái nhà kho cất thuyền này vật dụng dùng làm vườn nào hết. Không có xẻng mà cũng không có cào.
Bà kêu cứu lần nữa, rồi leo lên boong thuyền, cố tìm cho được dụng cụ gì.
Trên boong có nhiều tủ, nhưng tất cả đều được chủ nhân quá cẩn thận khóa kỹ.
Bà nhìn kỹ lần nữa khắp nơi trên boong, nhưng chẳng cỏ gì mới lạ. Bà lẩm bẩm:
– “Trời ơi là trời!”.
Bà ngồi xuống chiếc bánh lái nhô cao lên, lòng lo sợ .Trong nhà kho lạnh ngắt, nhưng may thay bà có mang theo áo măng tô ca sơ mia. Bà cứ kêu cách nhau từng phút nhưng càng lúc bà càng hết hy vọng. Chắc bây giờ hành khách đều đã lên thủy phi cơ hết. Máy bay chắc sắp cất cánh, để lại bà một mình ở đây rồi.
Bỗng bà nghĩ, mất công ty bây giờ đối với bà nghĩa lý gì. Nhưng nếu không có ai đến gần nhà kho này một tuần thì sao? Quá khiếp sợ, bà cất tiếng kêu cứu không ngớt.
Gọi một lát bà thấy mệt, phải ngồi nghỉ. Peter xấu xa thật đấy, nhưng hắn không phải sát nhân. Hắn sẽ không để cho bà chết. Có lẽ hắn sẽ gởi một lời nhắn nặc danh đến cho cảnh sát ở Shediac, báo cho họ biết để cứu bà ra. Nhưng dĩ nhiên là không cứu bà ra trước khi họp hội đồng quản trị. Bà tin chắc thế nào bà cũng không gặp nguy hiểm, nhưng trong lòng bà vẫn thấy đau khổ vô cùng.
Nhưng nếu Peter quá tồi tệ thì sao? Và nếu hắn quên báo cho cảnh sát? Nếu hắn lâm bệnh hay gặp tai nạn gì thì sao? Khi ấy ai sẽ cứu bà ra?
Bà nghe tiếng động cơ của chiếc Clipper rồ lên ở dưới vịnh. Thế là bà hoàn toàn hết hy vọng. Bà đã bị phản bội và đã thua cuộc, bà lại còn mất Mervyn nữa. Chắc bây giờ ông ta ở trên máy bay đợi giờ cất cánh. Có lẽ ông ta sẽ tự hỏi không biết chuyện gì đã xảy đến cho bà, nhưng vì hồi nãy bà đã nhiếc ông là “đồ ngốc”, nên có lẽ ông đã ngán bà rối.
Tiếng máy nổ ở dưới vịnh rồ mạnh. Chiếc Clipper cất cánh rồi .Tiếng máy nổ lớn thêm vài phút nữa rồi yếu dần, Nancy nghĩ chắc máy bay đã lên cao trên trời rồi. Thế là hết, bà tự nhủ, mình đã mất cơ sở làm ăn, mất Mervyn, và có lẽ sẽ chết đói ở đây nữa. Không, mình sẽ không chết đói mà chết khát, chết khát vì la hét và mê sảng trong cơn hấp hối ...
Bà cảm thấy bên má có vết xước, bà lấy tay áo lau máu tươm ra ướt má. Bà phải tìm ra khỏi đây mới được. Bà phải tìm cách để ra khỏi đây. Bà nhìn quanh một lần nữa. Bà tự hỏi không biết bà dùng cái cột buồm để làm đòn bẩy có được không, bà bèn đưa tay lên cái giàn có cột buồm, nhưng không được, cột buồm quá nặng, một người không thể nhấc nỗi.
Bà có thể dùng cách nào để khoét một lỗ trong cánh cửa không nhỉ? Bà nhớ đến chuyện của những tù nhân trong các nhà tù thời trung cổ, họ dùng móng tay cào lên đá nhà tù, năm này qua năm nọ để cố đào con đường trốn ra. Nhưng bà đâu có nhiều năm trước mắt, cho nên bà phải có cái gì cứng hơn móng tay mới được.
Bà lục tìm trong ví. Một cái lược bằng ngà nhỏ, một thỏi son dùng đã gần hết, một hộp phấn rẻ tiền mà các con bà tặng quà cho bà vào dịp sinh nhật thứ, một cái khán mù soa thêu, cuốn ngân phiếu, tờ giấy bạc 5 bảng, nhiều tờ 50 đô la và cây bút nhỏ bằng vàng: không có cái gì dùng được. Bà nghĩ đến quần áo. Bà đeo sợi dây thắt lưng bằng da cá sấu có khóa sắt mạ vàng. Nếu dùng cái kim nhọn nơi khóa thắt lưng này xoi lớp gỗ quanh bộ khóa thử xem sao? Công việc này lâu đấy, nhưng bà con cả một thời gian dài bất tận. Bà bước xuống khỏi chiếc thuyền, xem xét bộ khóa nơi cánh cửa lớn gỗ cứng, nhưng có thể bộ khóa sẽ bung ra mà không cần bà xoi cho đến tận mép bên kia.
Bà tháo sợi dây thắt lưng ra. Cái váy tụt xuống, bà cởi luôn váy ra, xếp lại để trên mặt thuyền. Không có ai đâu mà sợ người ta thấy, vả lại bà mặc cái quần đùi có viền đăng ten đẹp đẽ và cái thắt lưng để treo vớ cũng đẹp cho nên: bà thấy yên tâm.
Bà bắt tay vào việc. Loại sắt ở chiếc kim của khóa thắt lưng không phải loại sắt tốt, nên chỉ xoi một lát là nó cong lại. Nhưng bà vẫn xoi tiếp, chỉ chốc chốc dừng lại để gọi cấp cứu thôi. Từ từ, chỗ xoi có hình một cái khe, mạt cưa rơi xuống đất.
Gỗ ở cửa có vẻ mềm chứ không như bà lo sợ, có lẽ vì không khí ẩm ướt.
Công việc tiến hành nhanh chóng và bà hy vọng không bao lâu nữa, bà sẽ ra ngoài được.
Ngay lúc bà tràn trề hy vọng thì chiếc kim của khóa thắt lưng bị gãy.
Bà lượm cái kim gãy lên, cố xài tiếp, nhưng không có cái khóa làm điểm tựa, nên bà rất khó dùng cái kim gãy để xoi. Nếu đè mạnh cái kim gãy, cái kim trật ra khỏi mấy ngón tay, còn nếu đè nhẹ thì đường khe không sâu thêm. Sau khi để rơi cái kim gãy năm hay sáu lần, nước mắt phẫn uất chạy ra làm hai mắt bà mờ đi, không thấy gì hết, bà đua hai nắm tay đấm thùm thụp vào cửa.
Bỗng có tiếng người cất lên:
– Ai đấy?
Bà im lặng, ngưng đấm vào cửa. Có phải bà vừa nghe có tiếng ai không?
Bà hét lớn:
– Cứu tôi với! Cứu tôi với!
– Nancy, cô đấy phải không? .
Tim bà đập thình thịch. Giọng nói là giọng Anh, và bà nhận ra rồi:
– Mervyn! Lạy Chúa lòng lành.
– Tôi đi tìm cô. Có chuyện gì xảy ra cho cô thế?
– Giúp tôi ra khỏi đây, được không?
Ông xô mạnh cửa.
– Cửa khóa rồi.
– Anh qua bên cửa hông.
Nancy đi vòng qua chiếc thuyền đến cánh cửa kia. Bà nghe ông nói:
– Cửa bị cài cứng rồi ... đợi tôi một lát ... - Cô nghĩ ông sắp phá được cửa và sẽ thấy bà chỉ mang vớ và quần lót, nên bà vội khoác măng tô vào. Một lát sau, cánh cửa mở rộng. Nancy nhào vào vòng tay của Mervyn.
– Em tưởng em sẽ chết ở trong ấy mất! - Bà nói và khóc nức nở.
Ông ôm chặt bà vào lòng, vuốt tóc bà, miệng thì thầm nói:
– Ổn rồi, ổn rồi.
– Chính Peter đã nhốt em vào đây, - bà nói, mắt đầy lệ – Anh đã nghi hắn làm chuyện dơ dáy. Nếu em hỏi ý kiến anh, anh sẽ nói hắn là đổ rác rưởi.
Nancy khinh bỉ Peter, bà quá sung sướng được gặp lại Mervyn. Bà ôm cứng lấy ông, đăm đăm nhìn ông rồi thình lình bà hôn tới tấp lên mắt, lên má,lên mũi và cuối cùng lên môi ông. Bà mở miệng, hôn ông say sưa. Ông ôm quanh người bà, siết mạnh bà vào người ông. Bà áp sát vào ông, muốn cọ sát vào cơ thể ông.
Hai tay Mervyn ôm lưng bà trong áo măng tô, ông lần hai tay xuống dưới và dừng lại trên chiếc quần đùi. Ông nhích người ra, nhìn bà. Áo máng tô hở hai vạt ở phía trước. Ông hỏi:
– Váy của em đâu rồi?
Bà cười:
– Em dùng mũi nhọn của cái khóa thắt lưng để phá ổ khóa cửa, cho nên váy của em tụt xuống, em phải cởi váy ra.
– Chuyện lạ lý thú làm sao! - Ông nói, giọng khàn khàn, đưa tay mân mê mông và đùi trần của bà. Cả hai đều ham muốn mãnh liệt, không làm sao chịu được. Bà muốn làm tình ngay tại chỗ, và bà biết ông cũng muốn như thế. Bà cứ nhắc mãi câu: “Em có thể chết trong đó em có thể chết trong đó”, và cứ nghĩ đến chuyện vừa qua là bà càng ham muốn làm tình. Hơi thở hổn hển, hai người như hai con thú quyện lấy nhau.
Ông quì xuống, từ từ kéo chiếc quần đùi của bà xuống. Vừa e thẹn lại vừa hùng hục lửa dục, bà cởi tuột chiếc quần đùi xuống tận mắt cá. Ông đứng lên, ôm bà vào lòng. Hai người lại hôn nhau tới tấp, môi và lưỡi giao hòa nhau, cùng thở hồng hộc như nhau.
Một lát, Nancy nhích người lui, đưa mắt nhìn quanh và hỏi:
– Làm ở đâu?
– Em quàng hai tay quanh cổ anh, - ông nói.
Bà làm theo lời ông. Mervyn để hai tay dưới đùi chân bà rồi nhẹ nhàng nâng bà lên. Hai tà áo măng tô xòe ra. Bà hướng dẫn ông đưa vào trong bà, rồi hai chân quắp lấy quanh hông ông.
Họ giữ yên một lát, bà thưởng thức cảm giác ngây ngất, cảm giác mà đã từ rất lâu bà không biết đến, cái cảm giác êm ái khi có đàn ông vào trong bà, khi hai cơ thể giao hòa nhau. Không có gì trên đời này thú vị cho bằng, bà nghĩ bà đã điên khùng từ 10 năm nay vì đã bỏ qua cảm giác này.
Rồi bà nhúc nhích, nghe ông rên ư ử, bà càng nhúc nhích mạnh thêm và bà nghĩ làm thế ông sẽ sướng hơn. Bà không cảm thấy xấu hổ chút nào hết khi làm tình với tư thế rất kỳ lạ cùng người đàn ông mà bà mới quen biết.
Một lát sau, bà mở mắt, nhìn ông. Bà muốn nói với ông bà yêu ông. Nhưng bà vẫn còn chút tỉnh táo để lòng nhủ lòng rằng nói thế còn quá sớm; tuy nhiên cảm xúc trong lòng cứ dâng trào quá mạnh khiến bà thủ thỉ bên tai ông:
– Anh yêu!
Nhìn ánh mắt của ông, Nancy biết ông hiểu tận tâm can bà, ông thì thào gọi tên bà và tăng cường hoạt động.
Bà nhắm mắt, thưởng thức những đợt khoái lạc truyền khắp người bà. Cứ mỗi lần ông thúc sâu vào trong bà là bà như nghe những tiếng rên nho nhỏ từ xa trong sâu thẳm của lòng bà phát ra. Rồi bà cảm thấy ông nín lại một lát. Toàn thân bà rùng mình và khoái cảm, bà rên lớn, đồng thời cơn cực khoái làm cho cả hai cơ thể dao động. Cuối cùng cơn khoái lạc dịu xuống, Mervyn đứng yên, còn bà nép mình vào ngực ông.
Ông siết mạnh người bà, nói:
– Sao, em muốn mãi như thế này sao?
Bà phá ra cười. Không có gì làm cho bà sung sướng bằng có người đàn ông có khả năng làm cho bà cười. Ông để bà xuống đất. Bà run run đứng tựa người vào ông một lát. Rồi miễn cưỡng, bà mặc áo quần vào.
Khi hai người đi ra ngoài trời có ánh nắng nhàn nhạt để ra bãi trở về con đê, họ cười với nhau, nhưng không nói.
Nancy tự hỏi không biết có phải số phận của bà là sẽ sang sống bên Anh và lấy Mervyn không. Bà đã thua cuộc, không kiểm soát công ty được nữa:
Bà không có phương tiện để đến Boston đúng giờ họp hội đồng quản trị, cho nên Peter sẽ thắng bà, vì cổ phần của hắn nhiều hơn Danny Riley và cô Tilly. Bà nghĩ đến hai đứa con của bà: bây giờ chúng đã tự lập rồi, bà không cần chu cấp cho chúng nữa. Bà vừa nhận thấy Mervyn là một người tình lý tưởng.
Trận cãi cọ của hai người hồi nãy chỉ còn sót lại một chút âm vang mà thôi.
Nhưng bà sẽ làm gì ở bên Anh? Bà nghĩ, mình không thể làm người nội trợ ở trong gia đình được.
Họ đi đến bờ đê, đưa mắt nhìn con vịnh. Nancy phân vân không biết khi nào thì có chuyến tàu khởi hành ở đây. Bà định bảo Mervyn cùng đi hỏi cho biết, thì bỗng bà thấy ông ta nhìn đăm đăm cái gì ngoài xa.
Bà hỏi:
– Anh nhìn cái gì thế?
– Chiếc Grumman, - ông đáp, giọng trầm ngâm.
– Là gì?
Ông đưa tay chỉ ra ngoài vịnh.
– Chiếc thủy phi cơ nhỏ kia có tên là Grumman. Đây là kiểu thủy phi cơ mới sản xuất cách đây chưa đầy hai năm. Là loại thủy phi cơ bay rất nhanh, nhanh hơn cả chiếc Clipper nữa.
Bà nhìn chiếc thủy phi cơ loại máy bay một lớ: cánh hai động cơ với buồng kín đáo. Bà hiểu Mervyn đang nghĩ gì. Đi được trên thủy phi cơ này, thế nào cũng đến được Boston đúng giờ để dự buổi họp hội đồng quản trị. Bà ngần ngừ một lát, lòng lo ngại rồi hỏi:
– Chúng ta thuê máy bay này được không?
– Chính anh đang nghĩ đến chuyện ấy đây.
– Ta đi hỏi thử! - Nói xong, bà vội đi vào văn phòng hãng Hàng không, Mervyn cũng vội vã theo bà.
Tim của Nancy đập liên hồi. Có lẽ bà còn cách cứu vãn được công ty. Nhưng bà cố giữ bình tĩnh, vì vẫn còn trở ngại nằm trước mắt.
Hai người vào trong văn phòng, một thanh niên mặc đồng phục của hãng Pan American ngạc nhiên thốt lên:
– Kìa, quí vị lỡ máy bay à?
Nancy không đáp lại mà hỏi ngay anh ta:
– Anh biết chiếc thủy phi cơ nhỏ ngoài kia là của ai không?
– Chiếc Grumaun phải không? Biết chứ. Của chủ một nhà máy sợi tên là Alfred Southborne.
– Có khi nào ông ta cho thuê không?
– Có chứ, khi nào có thể thì ông cho thuê. Bà muốn thuê?
Nancy cảm thấy tim đập thình thịch.
– Phải.
– Người phi công đang có mặt ở đây. Anh ta đến để xem chiếc Clipper.
Người thanh niên đi lui, nhìn vào trong văn phòng gần đấy và gọi:
– Ê, Ned! Có người muốn thuê chiếc Grumann đây.
Ned bước ra. Một thanh niên khoảng 30 tuổi mặc sơ mi có ngù vai. Anh ta lễ phép gật đầu chào và nói:
– Tôi rất muốn giúp bà, nhưng người phụ lái cho tôi không có ở đây mà muốn lái chiếc Grumann thì phải có hai phi công.
Tim Nancy thắt lại.
– Tôi là phi công đây, - bỗng Mervyn vọt miệng nói.
Ned có vẻ không tin, anh ta hỏi:
– Ông có lái thủy phi cơ à?
Nancy nín thở.
– Có - Mervyn đáp, - chiếc Super Marine.
Nancy chưa bao giờ nghe tên chiếc thủy phi cơ này, nhưng hẳn đây là chiếc máy bay đua, vì Ned nghe xong liền tỏ ra quá kinh ngạc, anh ta hỏi:
– Ông là phi công nhà nghề à?
– Khi còn trẻ tôi là phi công nhà nghề. Bây giờ tôi bay giải trí thôi. Tôi có chiếc Tiger Moth.
– Được rồi, nếu ông đã từng lái chiếc Super Marine, thì ông phụ lái chiếc Grumman không khó khăn gì. Và ông Southbome đi vắng ngày mai mới có mặt. Ông bà muốn đi đâu?
– Đi Boston.
– Như thế ông bà phải trả một ngàn đô la.
– Không thành vấn đề! - Nancy hăng hái thốt lên - Nhưng chúng tôi phải đi ngay bây giờ mới được. - Người phi công nhìn bà với vẻ ngạc nhiên, anh ta cứ nghĩ chính Mervyn mới là người quyết định.
– Thưa bà, chúng ta sẽ cất cánh trong vài phút nữa thôi. Bà thanh toán như thế nào?
– Tôi có thể ký ngân phiếu cho ông, hay là ông viết hóa đơn để công ty của tôi ở Boston trả tiền mặt cho ông . Công ty tôi là công ty Giày Black.
– Bà làm việc cho công ty Giày Black à?
– Tôi là chủ công ty.
– Tuyệt, tôi mang giày của bà đấy.
Bà nhìn xuống. Anh ta đang mang trên chân loại giày kiểu Oxford màu đen có mũi nhọn giá 6,80 đô la, cỡ 44. Bà hỏi như máy:
– Ông đi có êm không?
– Tuyệt vời. Giày rất êm. Nhưng tôi nghĩ chắc bà quá biết rồi.
Bà cười, đáp:
– Phải, giày của tôi rất tốt.