Ngay lập tức, hai hàng người áo vàng, từ hai con đường tiến đến, nhập làm một, mi tẻ ra hai bên; tiếng hô vang trong nắng sớm:
- Thiếu gia Đàm chủ đã về !
Nguyên Huân đi giữa hai lớp gia nhân cung kính. Dương Qui Loan từ đại sảnh đi ra, đôi mắt bà chan chứa hai dòng lệ nhưng trên môi, nụ cười làm khuôn mặt bà tươi như hoa nở. Nguyên Huân quỳ xuống, Dương Cô Cô ôm lấy vai chàng nâng dậy.
- Mẹ !
- Con, con của mẹ đã về!
- Tằng Tổ có an khang không mẹ?
- Nội Tổ ta vẫn chờ mong con, mau cùng mẹ vào bái kiến!
Dương Long Điêu ngồi trên chiếc ghế chạm hình " Long ẩn vân trung". Nguyên Huân bước vào quỳ lạy:
- Con là Phượng Thánh tham kiến Tằng Tổ lão nhân gia!
Một luồng kình lực mạnh như thác cuộn nâng chàng dậy, Nguyên Huân hiểu ngay Lão nhân gia muốn thử khảo sát võ công mình, chàng nhanh chóng vận chân khí cưỡng lại. Từ ngày đả thông Sinh Tử Huyền Quan, tiếp nhận chân lực của Vô Kỵ Thần y, và uống Lệ Hoa Thạch Hỏa, công lực Nguyên Huân là công lực của một cao thủ có sáu, bảy mươi năm hỏa hầu, trong đó là công phu khổ luyện của chàng là một sự tích lũy đáng kể.
Luồng chân lực của Long Điêu lão nhân giờ như thác đổ, chạm phải luồng chân khí của chàng, tách làm đôi, như hai con Giao long, cuốn rạp hàng cây lớn trước cửa đại sảnh, tiếng cây gãy răng rắc...
Nguyên Huân vẫn quỳ gối, tà áo chàng bay phất phơ. Dương lão nhân thu hồi kình lực, Nguyên Huân cung kính quỳ sát xuống dưới chân lão nhân, xong chàng đứng lên, đến đứng hầu một bên. Dương Qui Loan mừng rỡ, bà ôm lấy chàng vào vòng tay. Riêng Long Điêu lão nhân thì cực kỳ hoan hỷ:
- Giỏi thật! Ngươi hóa giải được nội lực của ta, ta mừng lắm cháu ạ! Trên giang hồ này, còn ai nữa còn ai nữa... ha ha...!
Tiếng cười của Lão nhân làm rung rinh mái ngói, bọn gia nhân phải bịt tai, mặt mày thất sắc. Nguyên Huân mang hết những thành quả, cùng những hiểm nguy, và toàn bộ tình hình võ lâm thuật lại, không thiếu một chi tiết.
Lão nhân nói:
- Thế là việc lớn nhất đã xong, những việc sau tự nhiên sẽ thành. Võ lâm thiên hạ giao cho cháu bổn phận duy trì công đạo là đúng lắm. Ngày mai, con sẽ phải gấp rút bước chân vào luyện Sát Na Vô Lượng Thần công. Ta sẽ giúp con toàn thành. ông cầm lấy thanh trường kiếm đen nhánh từ tay Nguyên Huân:
- Ỷ Thiên kiếm được đúc ra từ khối Huyền thiết, cũng như Huyền Thiên kiếm của họ Dương ta đấy, nhưng e là quá nhẹ đối với đại lực của con. ỷ Thiên ngày xưa Hoàng phu nhân xử dụng, Đồ Long đao Quách đại gia xứ dụng thì nặng hơn, Ỷ Thiên chỉ xứng với âm hàn nhu công thà thôi. Từ ngày mai con sẽ luyện tập Huyền Thiên kiếm pháp, uy lực lớn hơn nhiều! Ta muốn rằng con phải phế hủy tên phản đồ họ Tiêu kia bằng chính thanh Huyền Thiên, mới thỏa lòng con ta nơi suối vàng. Thôi con về nghỉ!
Nguyên Huân vâng lời cung kính lui ra, Qui Loan bước theo, hai mẹ con trở về dãy nhà, nơi trú ngụ của chàng.
Các gia nhân đã dọn tiệc ở ngoài sân, dưới một tàn hoa lớn, cho chàng và Qui Loan. Từ ngày rời khỏi Tuyệt Tình Đàm, căn buồng, dãy nhà dành riêng cho chàng, thường xuyên được quét dọn, lau chùi tươm tất. Dương Qui Loan ra lệnh cho toàn thể gia nhân mở tiệc, mừng ngày Nguyên Huân trở về Qui Loan ra hiệu cho bốn thể nữ hầu rượu lui ra nghỉ ngơi. Còn lại hai mẹ con, bà nói:
- Con ạ ! Mẹ khoác khoái mong con từng ngày. Ngày mai, mẹ sẽ thưa với Lão nhân gia, con bái mẹ làm mẹ, mẹ con ta sẽ trình trước anh linh của Tổ tiên con nhé!
- Thưa mẹ, con vâng theo ý mẹ!
- Con đi vào chốn gian lao, lòng mẹ lo âu từng giây khắc, ngày đêm cầu khẩn Phật, Trời độ trì cho con; nay con trở về, ta mừng vô hạn!
Nguyên Huân cầm tay bà:
- Mẹ, con sẽ ở lại đây cùng mẹ, từ một đến hai năm. Trách nhiệm con còn nặng, phải xa mẹ một thời gian, rồi con sẽ trở lại!
- Mẹ biết, mẹ biết điều ấy, con còn quê hương tổ quốc con, còn mối gia thù chưa trả, và bao nhiêu điều khác nữa. Mẹ chỉ mong khi cuối đời mẹ, mẹ có con bên cạnh...
Sáng ngày hôm sau, Long Điêu lão nhân cho người gọi Nguyên Huân đến, bảo:
- Phượng Thánh, phía tây của Tuyệt Tình Đàm có một khu thạch động. Bao nhiêu đời nay, nhà họ Dương đã dùng làm nơi bế quan luyện công, đã bố trí đầy đủ từ lương thực, nước uống và những dụng cụ cần thiết cho việc luyện tập công phu võ học. Nơi chốn ấy yên tĩnh, thoáng mát; bao bọc là một khu rừng trúc nhỏ. Con hãy lên đó, bế quan luyện tập cho thanh tịnh. Muốn lên thạch động, phải có thang dây để trèo lên một vách núi dựng đứng. Sẽ không một ai đến phiền nhiễu, gây gián đoạn việc luyện tập của con cả, ta sẽ điểm hóa cho con khi cần thiết!
Dương Qui Loan nói:
- Thời gian luyện công, con sẽ phải chịu đựng sự cô độc, một sự cô độc rất cần thiết. Sự tịch mịch khiến cho trí tuệ minh mẫn, cho tâm được định; để rọi thấu mọi lẽ huyền vi. Đức Thế Tôn vào rừng sâu ngồi thiền mà chứng ngộ, Đức Đạt Ma Sư tổ diện bích, xoay lưng với cõi bụi trần mà thấu được lẽ trời. Mọi điều trong tâm trí hãy gạt bỏ, hãy thảnh thơi. Con hiểu chứ!
- Vâng, con đã hiểu, mẹ hãy an tâm!
Trong không khí nghiêm cẩn, thành kính trước bàn thờ gia tiên, trước mặt Dương Long Điêu lão nhân; Nguyên Huân quỳ trước Dương Cô Cô lạy nhận bà làm mẹ. Dương Qui Loan nước mắt rưng rưng, bà ôm lấy chàng run giọng:
- Con trai của mẹ, mấy chục năm nay mẹ khao khát đến cháy lòng có được một người con. Cha con đã linh thiêng, cảm thông tấm lòng của mẹ, nên dẫn đường cho con đến đây cùng mẹ, để mẹ thay mẹ ruột của con, săn sóc và an ủi con; và con, con cũng là nguồn an ủi của mẹ. Hãy theo mẹ, Nguyên Huân...
Dương Qui Loan là người tài hoa rất mực, bà tự họa chân dung của Nguyên Lữ theo trí nhớ, và đặt bàn thờ ông trong phòng riêng của bà . Cùng Nguyên Huân quỳ xuống, bà thầm thì khan khứa:
- Nguyên Lữ, thiếp đội ơn chàng! Phía bên kia cuộc sống, trong cõi linh thiêng, xin chàng độ trì cho con luyện thành thần công, rửa mối gia thù!
Đúng giờ Ngọ, Nguyên Huân lên thạch động.
Trong ba ngày đầu, chàng tắm người trong dòng suối, nước trong vắt, chảy ngang hậu động. Sau thạch động là một khu đất cỏ xanh mượt, điểm đầy những loài hoa dại đủ màu. con suối từ trên cao chảy xuống, len lách qua khu rừng trúc, qua khu rừng mai già, lách ngang hậu động, đổ xuống một chiếc hồ nhỏ trong vắt và lạnh buốt. Nước trong hồ chẳng đầy chẳng vơi, chàng đoán có một mạch ngầm dẫn nước thoát đi.
Sau ba ngày tỉnh tâm, qua ngày thứ tư, Nguyên Huân thắp ba cây nhang, tế cáo trời đất; đến đầu giờ Thìn, chàng tọa thiền, lòng thanh thoát như mây trời, tay để lên Vạn Kiếp Bí Truyền, Nguyên Huân giở ra.
Sáu chữ " Sát Na Vô Lượng Thân Công" bằng kim nhủ lóng lánh, thần trí chàng như mở ra cùng trời đất. Có tiếng sấm nổ ì ầm trên đỉnh núi cao. Trận mưa xuân phơi phới sao có tiếng sấm? Mùa xuân không bao giờ có sấm sét! Kỳ lạ thay nỗi đất lòng trời, cơn mưa xuân thổi hương hoa đầy thạch động, cả vạn vật như được ướp hương.
Nguyên Huân nhắm mắt lại, tâm tỉnh như mặt hồ im gió, chàng thắp nén nhang để trước Di vật của Tổ tiên, và quỳ lạy Chàng bỗng như nghe có tiếng nói từ một cõi hư không nào vọng về, giọng nói uy nghiêm của tổ tiên, hay tiếng vọng đến từ Tổ quốc!
"Hỡi đứa con của Đại Việt! Hỡi đứa con của dòng họ kiêu hùng! Tổ quốc, giống nòi ngươi đang trăm nghìn thống khổ Hãy nhớ lấy, hãy nhớ lấy, đừng quên, đừng quên. . . đừng quên...!"
Tiếng vọng như từ bốn vách núi, lập lai, lập lại, lập lại, ồm ồm khắp thung lũng cỏ hoa, trong mưa xuân phơi phới... Nguyên Huân không suy nghĩ, chàng buông thả mọi ý niệm, bỏ lơi tâm thức, bước vào cõi như nhiên, hòa nhập từng lời trong Bí kiếp.
Sát Na là một đơn vị ngắn nhất của thời gian, gần như là không có. Do đó, Sát Na là ý niệm. Đất trời thì khôn cùng. Sinh hóa mà miên viễn. Không có cái tận cùng là vô cực. Thời gian qua đi không hề dừng lại, qua đi mà chẳng cùng. Hữu hạn cũng là không. Vô hạn cũng là không. Lấy cái Hữu hạn mà xét chính là không.
Một đời người dẫu có được tám trăm năm như Bành Tổ, đối với cái Vô hạn cũng là không. Vậy Sát Na cũng là không. Đối với cái Hữu hạn, tám trăm năm là có, và Sát Na cũng là có Trong cái tĩnh, có cái cực động. Vật chất dẫu như sắt, đá vẫn có luân lưu. Cực động vì đó hóa nên tĩnh, cực tĩnh hóa thành động. Thời gian thì qua mau, thân thủ thì chậm chạp mới nên bị hủy diệt. Cái động đến cực đại thì thời gian đứng im, tĩnh lặng.
Thời gian mà đứng im không chuyển vận, là đạt đến cực động. Nếu thời gian không còn vận hành, thì lâu, mau, nào có nghĩa gì ! Tám trăm năm cũng là một Sát Na, Sát Na trong cái tĩnh của thời gian biến thành vô cực, dẫu hẹp mà thành rộng... Tỷ như đường kiếm múa nhanh, hóa nên đứng một chỗ. Vật chất chuyển xoay đến chỗ nhanh cùng cực thì thành chậm. "Sát Na Vô Lượng Thần Công" căn nguyên là ở đó. Cực động thì kéo nở thời gian, nở thời gian không phải làm cho nó nhanh hơn, mà là đứng lại, thời gian đứng lại thì Sát Na thành mênh mông. Chiếm được cái mênh mông trong khoảng cực kỳ nhỏ hẹp là đã bước vào cõi huyền vi, không tĩnh không động, không sinh không hóa.
Thời gian mà dừng lại, thì thân ảnh tất cũng ngưng theo, chậm mà hóa nhanh, nhanh mà thành chậm. Người luyện "Sát Na Vô Lượng Thần công" lấy cái tâm mà ngộ, lắng chìm cái tuệ, cái vọng, rời bỏ cái vô thường. Không nghe đến bất biến, đó chính là Tâm kinh. Tâm mà ngộ, ngộ là gặp là thấy, bước vào được cái ngộ thì thân hóa thần, thần hóa khí, khí hóa không mà nhập..."
Nguyên Huân đắm mình trong cái cảm xúc mênh mông, lòng chàng mở ra cùng đất trời, vạn vật. Ngày tháng cứ thế trôi đi, đại tuệ một ngày bất chợt hé mở, cùng lúc với thần thức sáng ngời; thế đại định như nhiên đã thành, càn khôn chợt hẹp lại, khoảnh khắc bỗng lớn ra, lé hằng thường đã mất, lẽ hóa sinh đã tỏ. Âm dương không còn hai, tứ tượng không còn bốn, lòng yên như là Không. Tâm vọng tâm, thức hóa thức, thần khí tụ làm căn, cội rễ hóa thành ngọn. Thân khí như trời mây, đơn điền như biển lớn.
Thức thứ nhất cực kỳ quan trọng đã qua đi, trời đã gần cuối hạ, sen đã nở đầy hồ, phượng trên cành rực rỡ, mây trắng tản đầy trời... Tâm chuyển thành ý, ý chuyển thành thân, thân hóa thành thức, cuồn cuộn trong kinh kỳ, bát mạch nhẹ như khói vương, mạnh như thác lũ, nhanh như đứng im một chỗ, chậm như chớp giật, mắt thấu suốt tâm thân, thần lực vừa phát sinh, bóng đêm tối tăm chợt sáng, giá lạnh như gió mát, nắng bỏng như bóng râm; nghịch đảo thay, chuyển xoay thay!
Trời vừa qua đông, tuyết bắt đầu rơi, trời đầy mây xám đục; lá cành trơ trụi. Thời gian lướt nhanh ngoài kia, dừng lại trong tâm trí, đọng lại quanh thạch động... Xuân lại về, hoa lại nở, chim ríu rít trên cành,- mưa xuân phơi phới, hương hoa sực nức cành, ngào ngạt trong nắng mai, chan hòa trong gió sớm, đầy một trời, ắp một động, ngào ngạt trong lòng chàng. Thời gian như dừng lại, mây trắng ngày hạ vàng trên đỉnh trời cao như ngừng bay, vạn vật dường như bất biến trong lẽ hằng thường tồn sinh hủy diệt; mọi cõi tối tăm của tâm thức như tỏ rõ, quán triệt vô lượng.
Vân Hà Tỏa Kiếm hóa thành tâm, khẩu quyết ảo diệu của Huyền Thiên kiếm trở nên giản dị, nhập thành ý, biến thành thần, hóa thành tâm...Và một buổi sáng của đất trời, chàng bước vào Sát Na. ôi, Sát Na mênh mông như biển. Con chim ngoài cửa động trong tư thế vươn cánh bay lên... Chàng nhớ đến thân mình, như con chim lìa tổ, xao xác một góc trời... Chàng nghĩ đến lẽ trường, đoản của hưng, thịnh, của suy, vong; bao nhiêu điều, trăm nghìn nỗi dạt dào và mênh mông trôi đi, cuốn lại, trong nổi hồi tướng không ngừng...
Thời gian có hay không... mà sao con chim kia chưa vươn nổi đôi cánh mỏng? Ngoại vật chậm là dường nào. . . ! ý niệm, tâm cơ của chàng sao nhanh dường ấy ! Sát Na Vô Lượng đã viên thành!
Chàng lui khỏi Sát Na, trở lại cõi hằng thường; cánh chim bay vút lên trời cao, nô đùa trong gió hạ. Chàng mỉm cười. Tình yêu và nguồn sinh lực phấn chấn đào dạt trong lòng chàng. Cánh bướm nhởn nhơ còn cố níu lấy thời gian, chập chờn trên đài sen vừa hé nở. Chàng hóa thân làm mây bay, làm gió mát, trái tim chàng nồng nàn êm dịu. Trái tim chàng, đôi mắt chàng nở thành nụ cười. Và cả vũ trụ như chuyển mình trong từng dòng huyết quản của Nguyên Huân...
Bụi hổng còn nhớ ngày Đông tuyệt
Thạch động buồn chăng buổi tiễn hành.
Nguyên Huân trở lại Yên Kinh vào một ngày cuối hạ. Hơn một năm xa cách Hoài Nam, lòng nôn nao mong nhớ, chàng khát khao được gặp lại nàng. Từ lúc rời khỏi Tuyệt Tình Đàm, chàng đã đổi đến bốn lần ngựa, ngày đêm không nghỉ, để sớm được nhìn thấy và được chìm đi vào đôi mắt thăm thẳm mong chờ. .. Hoàng thành, và nhất là Quang Minh Vương phủ được canh gác vô cùng cẩn mật. Trên gương mặt những người lính canh, chàng nhìn thấy những nét lo âu và mệt mỏi.Nguyên Huân trở lại Thiên Dung tửu lầu. Một tháng trời trên lưng ngựa, chẳng cần được nghỉ ngơi. A Thực, gả tửu bảo nhận ra chàng, y mừng rỡ:
- Trời đất! Tiểu nhân cứ nghĩ là công tử không bao giờ trở lại nữa, nhưng mà đồ đạc của công tử, tiểu nhân còn giũ nguyên vẹn!
Nguyên Huân hài lòng:
- Đồ đạc có gì đáng kể đâu, ta cho ngươi đấy !
Tửu bảo rối tít cảm ơn chàng, y săn đón:
- Công tử nghỉ lại đây chứ! Căn phòng cũ vẫn trống đấy!
- Ta đang đói, ngươi dọn cho ta vài món. Lần này ta chỉ ớ lại chừng đôi ngày thôi, phòng nào cũng được. À này, A Thực, kinh thành có chuyện gì không mà ta thấy không khí có vẻ căng thẳng thế?
A Thực lấm lét nói:
- Quang Minh Vương phủ lúc này bị quấy nhiễu luôn, nên tăng cường canh phòng và xét hỏi kỷ lắm. Đánh nhau hoài, chết chóc vô số!
- Ai đánh nhau với ai?
- Tiểu nhân làm sao biết được. Canh phòng cẩn mật như thế mà bọn gian tế, thích khách vào ra như chỗ không người, toàn là bọn võ lâm cao thủ cả; dân chúng lại càng khổ sở hơn, vì bọn áo màu trong Vương phủ nghênh ngang quấy nhiễu, chẳng coi Vương pháp ra gì!
- Bọn áo màu là bọn nào?
- Ối chà, bọn Hắc y, Xích y, Hoàng y, Thanh y, Bạch y, Tử y, đủ thứ y có mặt trong Vương phủ . . .
- Chúng có bịt mặt không?
- Không! Mặt mũi đứa nào cũng hung dữ như quỷ. Bản quán bị chúng nó ăn quịt hoài, có mặt chúng khách khứa chẳng ai dám đến ăn uống, kẹt lắm công tử ơi!
- Thôi được ta sẽ chu tất cho ngươi chút ít, rồi mọi chuyện cũng sẽ qua đi!
Nguyên Huân đưa mắt nhìn quanh, ánh mắt chàng dừng vào một lão nhân ngồi cách chàng hai dãy bàn, đôi mắt đang nhìn chàng đăm đăm. Chàng nhận ra Trưởng lão Cái Bang Quan Thiên Sách. Chàng tiến sang, cúi đầu chào:
- Quan lão tiền bối có nhận ra vãn bối không?
Quan Thiên Sách vui mừng đáp:
- Trần thiếu hiệp, lão phu nhận ra Thiếu hiệp ngay từ lúc mới bước vào!
- Lão tiền bối đến Yên Kinh lâu chưa?
- Lão phu mới đến đây độ vài ngày, hiện ngụ tại nhà một người quen. Hôm nay vì có hẹn nên mới đến đây, tình cờ gặp lại Thiếu hiệp!
- Không biết sự có mặt của vãn bối có làm trở ngại cho cuộc gặp gỡ của Lão tiền bối chăng?
- Không sao, chỗ quen biết cả. Nhưng đã quá giờ hẹn mà không thấy y đến, chắc có gì trắc trở! Từ hơn năm nay, Thiếu hiệp ở đâu, làm gì?
Nguyên Huân kể cho Quan Thiên Sách nghe, từ ngày chàng đến ưng Thiên phủ, rồi trên đường về Yên Kinh, và bị trọng thương khi giao đấu với Dương Tiêu, được Trường Cung Thần y cứu chữa như thế nào, nhất nhất kể lại. Quan Thiên Sách nói:
- Lão phu mừng cho Thiếu hiệp đã tìm lại được Bảo kiếp của Tổ tiên, nhưng trong thời gian hơn năm bế quan luyện công, chắc Thiếu hiệp không hay biết gì về tình hình Trung Nguyên, có phải vậy không?
Nguyên Huân đáp:
- Vãn bối quả thật không hay biết gì hết, xin Lão tiền bối cho nghe được chăng!
Quan Thiên Sách trầm ngâm như sắp xếp lại toàn bộ rồi chậm rãi kể lại:
- Đường Trại Nhi và Đặng Mậu Thất đã khởi nghĩa ở Sơn Đông và Phúc Kiến, gây rất nhiều khó khăn cho binh triều, quan quân dẹp mãi không được; hiện nay ảnh hưởng lan sang cả Triết Giang. Họ Đường có nói với lão phu cách đây hai năm: Nhờ có Thiếu hiệp chặn lại được những tin tức của Ứng Thiên phân đoàn báo cáo lên, nhờ thế mới giữ được bí mật tận đến giờ khởi nghĩa!
Nguyên Huân hỏi:
- Vì đâu Đường Trại gia lại biết được?
- Thành Sử Nghiệp là người của Kiến Nghiệp đại sư nên y đến báo cho Đường trang chủ. Hơn một năm nay Kiến Nghiệp đại sư hoạt động tích cực lắm, đã gây lại được thanh thế, tổ chức lại được nội tình Minh giáo!
Hiện nay tình hình võ lâm rối loạn. Một số môn phái nhỏ bị Dương Tiêu hủy diệt dễ dàng bởi không thần phục y, một số môn phái khác thì chia rẽ, chém giết lẫn nhau như phái Bạch Hạc, phái Long Môn, cả Điểm Thương lẫn Thanh Thành. Tháng vừa qua, Đại hội võ lâm Bạch đạo đã họp tại chùa Thiếu Lâm để tìm cách đối phó. Đại hội thống nhất bầu Viên Nhẫn đại sư, Phương trượng chùa Thiếu Lâm làm Minh chủ. Phía bên Minh giáo cũng đã gửi thiếp mời quần hào đến dự Đại hội Kình Dương vào trung tuần tháng chín tới đây Để đối phó lại, Dương Tiêu dùng tiền bạc, lợi danh lôi kéo về với y hầu như toàn bộ bọn cao thủ của phe Hắc đạo và một số cao thủ của Bạch đạo, vì sợ hãi hoặc vì danh lợi cũng đi theo y!
Trong số bọn cao thủ Hắc đạo, có mấy tên đại ma đầu, võ công cực kỳ cao siêu, đã lâu ẩn tích, bỗng dưng xuất hiện: Âm Dương Song Hung, cặp vợ chồng này một thời nổi tiếng ác nhân, với em Dương Nghịch Đảo kiếm pháp, hết sức quái dị, tàn độc. Tên sư huynh của Thiên Ái Nương nương là Tâm Xà lang quân Mã Cốt Ngạc, Tây Vực Thần tăng Mộ Khuyết, Miêu tộc Tiêu Dao Giáo chủ là Bành Dục Nương nương. Trong số này, đáng sợ nhất là Bành Dục, vì mụ ta chuyên sử dụng độc, không biết thế nào mà lường. Tất cả những tên ma đầu ấy, võ công đều ngang bằng hoặc cao hơn các vị Chưởng Môn nhân của các đại phái.
Hiện Dương Tiêu đã qui tụ về Quang Minh Vương phủ trên dưới năm trăm tên cao thủ, phần lớn là bọn Thất Sát đoàn được đưa về đây. Có ai ngờ được, trong số hai mươi tên cao thủ của Ứng Thiên phủ, mà lại có đến sáu, bảy tên là người của Thất Sát đoàn!
- Sao Lão tiền bối biết được?
- Chúng được triệu tập về Vương phủ không cần che giấu hình tích nữa, như bọn Thôi Sơn Thái, Bảo An Hóa Long, Nhất Kiếm trấn Tứ Di Lý Ngọc Hưng, Thiết Đạn tử Hạ Hầu Thành, Thiết chưởng Lôi Chấn Hoa, đệ tử của Thiết chưởng Bang chủ Phùng Tất Hoạt mới chết.
Ngay thực trạng của Cái Bang cũng bị phân rẽ: Hoài trưởng lão, Trần trưởng lão, ngay cả Chấp Pháp trưởng lão là Vương Hạc Thu cũng kéo một số đệ tử của Cái Bang theo về với Dương Tiêu. Riêng Võ Đang Sơn thì Dư nhị hiệp đã già, không còn đi lại giang hồ nữa, Hân lục hiệp với Dương Tiêu có cái tình Nhạc phụ và Tế tử, cũng vì thế mà đứng giữa; chỉ cử Võ Đang Thất Kiếm do Thanh Phong cầm đầu đến tham dự Thiếu Lâm Đại hội mà thôi.
Thực lực bên Danh môn, Chính phái, cao thủ Bạch đạo, có chiều yếu kém hơn. Nếu Kình Dương Đại hội của Minh giáo kết hợp với võ lâm chính phái thì may ra có thể lập được thế cân bằng; chưa kể hiện nay, các cao thủ của danh môn chính phái cứ bị tỉa dần. Kiến Nghiệp đại sư lo âu lắm, có dặn lão phu là nếu gặp được Trần thiếu hiệp, thì nhớ nhắc Thiếu hiệp lời cam kết giữa Thiếu hiệp với Đại sư và một người khác nữa. Trần thiếu hiệp còn nhớ không?!
Lần này, Kình Dương Đại hội được tổ chức tại lăng Hoa Cương, thuộc địa phận tỉnh Hà Nam, vào ngày rằm tháng chín, Thiếu hiệp nhớ đến dự.
Nguyên Huân đáp:
- Lời dặn của Lão tiền bối, vãn bối xin nhớ kỹ!
Quan Thiên Sách thở dài:
- Thành Tổ đã dẹp yên phương Bắc, nghe đâu trên đường ban sư từ Tuy Viễn về, bốn mươi vạn quân và hai nghìn mãnh tướng, là một lực lượng đáng sợ cho cuộc khởi nghĩa của Đường, Đặng! Thành Tổ là người dũng liệt, lại hết sức khắc nghiệt, nếu y mà chết đi, Thái tử là Duệ lên ngôi thì mới có nhiều cơ hội tết được, vì Duệ là người không ham chinh chiến, ghét động binh đao. Nhưng nếu Thái tử út là Khánh lên ngôi, thì thật là tai hại!
- Vãn bối nghe nói ít lâu nay, Hoàng thành và Quang Minh Vương phủ canh phòng cẩn mật lắm, có biến động gì vậy?
- À, chuyện này, lão phu nghe nói có một nhóm cao thủ không biết thuộc môn phái nào, đột nhập vào Vương phủ toan hành thích Dương Tiêu và toàn gia y!
Nguyên Huân giật mình, biến sắc, hỏi:
- Họ có làm nên công chuyện gì không?
- Hai lần, một lần tám người, một lần bảy người, đều bị giết chết cả, chưa kịp làm nên công tích gì!
Nguyên Huân thở ra:
- Vãn bối nghe nói, Vương phi và Quận chúa là hai người hết sức hiền đức, họ cũng định hành thích sao?
- Đã liều mạng vào Vương phủ, tất có mối huyết thù với Dương Tiêu, nào họ có phân biệt tết xấu. Hiện nay nghe nói Hân phu nhân và công tử, tiểu thư còn ở lại trong Vương phủ, chưa về Võ Đang Sơn!
Nguyên Huân ngồi im lắng nghe, không hỏi gì nữa, trong lòng chàng xáo trộn bao ý nghĩ, và mối lo âu đầy ắp. Đêm nay, bằng mọi giá, chàng phải gặp Thúc mẫu, phải gặp Hoài Nam; dẫu có nguy hiểm thế nào mặc lòng.
Hoài Nam thức giấc hơi trễ so với thường lệ, nàng vẫn nằm im trên giường. Trong phòng sực nức hương dạ lan còn vương lại trong đêm. Bao nhiêu ngày, bao nhiêu đêm đã trôi qua, kể từ khi Nguyên Huân rời xa nàng, rời xa căn thạch động bây giờ đã lạnh lẽo. Nàng ôm trong lòng nổi phiền muộn, nhớ nhung...
Kể từ ngày biết tường tận những uẩn khúc của đời nàng, những u uẩn đớn đau của Mẫu thân bao năm trời đăng đẳng, niềm vui hồn nhiên trong cuộc sống, trong con người nàng đã biến mất. Chỉ còn lại những buồn phiền. Nàng trở nên âm thầm như chiếc bóng, biếng nói, biếng cười. Vương phi hiểu được những tình cảm của Hoài Nam, bà chỉ biết nhìn con thương xót. Nỗi niềm cô đơn và đau đớn đang dằng xé lòng nàng, phụ tử tình thâm bỗng chốc trở thành là hai kẻ tử thù, trời chung không thể đội. Thế mà nàng vẫn phải thản nhiên đối mặt, phải cố giấu đi ánh mắt căm hờn, phải nói, phải cười, với tiếng gọi "Vương phụ đắng chát trên môi. Hai mẹ con nàng phải kéo dài tình thế u uất này cho đến bao giờ? Và Nguyên Huân, liệu chàng có cơ may giữ được tính mạng và phục hồi công lực? Chàng ra đi biệt vô âm tín, và nàng âm thầm thương nhớ ngày đêm...
Riêng Bảo Thư, với linh cảm của một người phụ nữ, nàng biết Hoài Nam cũng yêu Nguyên Huân, nhưng mối tình ấy sẽ đưa Hoài Nam đến đâu? Nàng biết rằng giữa Nguyên Huân và Ngoại.tổ nàng, thân phụ của Hoài Nam, đã nặng một mối thù bất cộng đái thiên, và như thế, mối tình của Hoài Nam cũng chỉ là tuyệt vọng? Chính nàng, Bảo Thư cũng không biết sẽ phải thế nào, khi ngày mai đây, một người trong hai kẻ tử thù kia sẽ chết dưới tay nhau, bất cứ ai trong hai người nàng đều không muốn!
Nguyên Huân có cái danh chính của chàng, chẳng thể ngăn cản không cho chàng trả mối gia thù, nhưng nàng cũng không muốn Ngoại tổ nàng vì thế mà phải chết, mặc dù tội lỗi ông gây ra cho thiên hạ quả thật quá lớn...
Bảo Thư cảm thông với Hoài Nam, nên càng thương xót A-di của mình; nhưng cớ sao nàng chỉ gặp được ở Hoài Nam sự im lặng mỗi khi nàng lựa lời gần xa để an ủi? Bảo Thư nghĩ rằng, Hoài Nam buồn chỉ bởi tuyệt vọng cho một tình yêu trớ trêu không lối thoát, nàng lại càng thấy thương Hoài Nam hơn. "Ta thương xót ta, hay thương xót Hoài Nam?"
Bảo Thư tự hỏi, và những giọt nước mắt đêm đêm chan hòa trên gối, thay cho câu trả lời kia.
Nhưng dẫu sao, Hoài Nam được chàng yêu lại, nàng tin thế, còn ta, ta ôm mối ẩn tình này; đến ngày nào chàng mới biết cho! "Chàng có biết, dường bằng chẳng biết, lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi". Dẫu sao, xin chàng hãy biết được lòng ta, nhưng đừng thương xót ta, "Nguyên Huân ơi, chị chỉ xin em cho chị một giọt lệ, giọt lệ duy nhất, cũng đủ để chị sống hết một kiếp lẻ loi này".
Hoài Nam càng héo muộn, nàng sống trong nỗi nhớ nhung thơ dại, cùng trăm ngàn nỗi đau vò xé lòng nàng. Nguyên Huân phải trả mối thù cho gia đình chàng, cho quê hương và đồng bào Đại Việt, cho chính sự tan tác của gia đình nàng nữa. Nhưng Dương Tiêu, kể từ khi nàng có đủ trí khôn để nhớ, ông ta đã đối đãi với mẹ con nàng cực kỳ thương yêu và trân trọng; có công dưỡng dục nàng từ thuở chào đời, và nàng đã thương yêu ông không kém. Người mà bấy lâu nàng tướng là cha mình, bây giờ là kẻ thù bỗng chốc. Nỗi đau ấy hành hạ nàng gấp bao nhiêu nỗi buồn câm của Bảo Thư! Nàng không muốn lòng mình vấy đục bởi bất cứ mối oán thù, bất cứ sự căm giận nào, "Yêu thương làm cho ta lớn lên, làm cho ta thanh khiết, và cho ta nguồn vui. Hận thù chỉ là vực sâu của đày đọa", nàng không muốn nuôi lòng thù hận. Ngay từ khi còn nhỏ, trái tim nàng đã nồng nàn yêu thương. Bây giờ, mẹ con nàng sống giữa bạo lực, giữa hận oán, và chém giết, Hoài Nam đau buồn vô kể, nàng biết làm sao đây! Ngổn ngang trăm mối dày vò...
Nàng chỉ ước mẹ con nàng tìm đến một nơi thanh khiết, u tĩnh, dẫu có đói nghèo, dẫu vất vả và lam lũ, miễn là được sống một đời trong chan hòa của yêu thương, của bình yên; đó chính là hạnh phúc. Còn Nguyên Huân, chàng có trách nhiệm của chàng với gia đình và Tổ quốc... Giờ này chàng nơi nào? Sự sống, chết, sức khỏe và buồn vui, nàng khao khát được chia sẻ cùng chàng biết mấy! Nhưng Hoài Nam biết mình chỉ là một cô gái yếu đuối, nhỏ bé và hiu quạnh, nàng chẳng thể giúp gì được cho chàng.
Trời đã sáng từ lâu, nàng không thể nằm thêm được nữa, Hoài Nam sang Bích Thảo cung thăm mẹ. Mẫu thân nàng không được khỏe kể từ ngày Nguyên Huân xuất hiện, kể từ ngày chàng rời nơi này ra đi biền biệt. Hoài Nam giật thót người khi thấy trên mặt bàn ngủ của nàng, một mũi phi tiêu nhỏ, có tua ngũ sắc, cột theo một mãnh giấy. Nàng run rẩy tháo tờ giấy nhỏ, bốn câu thơ được viết bằng nét chữ như kiếm sắc, mãnh liệt như Giao long, dịu dàng như Phượng múa:
"Mây nhớ trời Nam, lá nhớ cành
Hạ nồng còn nhớ buổi xuân xanh
Bụi hồng có nhớ ngày đông tuyết
Thạch động buồn chăng buổi tiễn hành?"
Bài thơ này đúng là gửi cho nàng, đúng là của chàng gửi cho nàng! Hoài Nam run rẩy toàn thân, chàng đã trở lại vào lúc nàng không ngờ nhất... "Thạch động buồn chăng buổi tiễn hành?", Hoài Nam không ngờ Nguyên Huân cả văn lẫn võ đều tuyệt vời đến vậy. Bài thơ bao hàm cả ý lẫn từ làm cho nàng xúc động "Trời ơi! Chàng đã trở về, chàng đã đến đây trong đêm và để thơ lại... Chàng đã vượt qua hàng rào quân canh, đã qua mặt bọn cao thủ đông như kiến trong Vương phủ".