Các cậu cùng nhau đi tới xưởng làm việc. Cụ Cudia đã đứng đợi sẵn ở phân xưởng nguội, nơi mọi người nhận phần việc phải làm trong ngày. Xung quanh còn yên tĩnh. Công nhân khe khẽ chào nhau. Mọi câu chuyện đều xung quanh tình hình chiến sự. Người này nói rõ thêm cho người kia biết bây giờ bọn Đức đã tiến đến đâu, chiếm được thành phố nào, và vui mừng vì chúng đã nếm đòn ở Matxcova. Cứ đà này chẳng bao lâu nữa chúng sẽ bị đánh bật trở lại. Người ta nói với nhau về một loại “cachiusa" nào đó - đại bác không ra đại bác, súng máy không ra súng máy, mà một khi đã nã thì cái gì cũng cháy tất: tuyết cháy, bê tông cháy, còn xe tăng thì chảy ra như nhựa... Gặp cachiusa, bọn Đức chỉ có chết.
Ai nghe nói đến cachiusa cũng lấy làm mừng, tuy thế có người vẫn còn không tin:
- Không thể thế được: sắt và tuyết chứ có phải rơm đâu mà cháy được? Muốn thế thì phải cần một nhiệt độ lớn đến mức nào? Như cái bễ lò rèn đấy, muốn nung đỏ tí sắt mà phải cần bao nhiêu than, lại còn phải thổi phì, thổi phò nữa là. Không, không thể thế được. Nói láo hết.
- Láo hết! Chờ đấy! Thế các người có biết chai xăng là gì không? Nếu mà ném chai xăng vào xe tăng thì có thể cũng bốc cháy ra trò đấy, chẳng kém củi khô. Biết đâu đấy, có thể cachiusa phóng ra cái bình cháy như thế cũng nên...
Mọi người sống cuộc sống chiến tranh, làm việc phục vụ chiến tranh, luôn nhớ những người ở mặt trận…
Ở phân xưởng dụng cụ, bác đốc công giao cho các cậu búa, dao chặt thép và bắt ký tên ghi nhận vào một quyển sổ bằng những tờ mẫu thống kê có kẻ hàng ngả vàng, dính đầy dầu mỡ.
- Đây, vũ khí của các cháu đây. Các cháu phải xem như thế mới được. Thời chiến mà, các cháu biết đấy. Còn cách cầm búa, cầm dao và chặt thế nào thì cụ Cudia sẽ hướng dẫn... Bác không còn thì giờ dạy các cháu. Tàu có chạy tốt hay không là phụ thuộc vào công việc của các cháu đấy.
Nunhikiakop đi lại. Thì ra anh ta cũng chẳng cao hơn cụ Cudia. Chỉ có đôi vai là rộng lớn và đôi tay dài quá gối. Anh ta đứng nhìn phần việc mỗi cậu đã làm, đưa ngón tay màu nâu thẫm sờ dọc theo mép chặt còn nham nhở, sờ lưỡi đục rồi đặt búa lên lòng bàn tay thử xem nặng nhẹ ra sao.
- Thợ lành nghề đấy, các cháu ạ. Anh ta là thợ lành nghề đấy! - ông cụ không nén nổi, thốt lên.
- Khi nào bàn tay cầm mòn hơn hai mươi chiếc cán búa thì lúc đó sẽ trở thành thợ lành nghề, - anh ta mỉm cười rút từ túi áo ra một chiếc cán búa nhẵn bóng - còn hôm nay thì hãy làm mòn chiếc này đã. Dùng nó hơn một năm rồi đấy, tốt lắm.
Các cậu nhìn anh ta vẻ không tin.
- Thế mới gọi là khỏe chứ! - Côlia thán phục nói.
- Quan trọng ở đây không phải là khỏe hay không, các cậu ạ. Ở đây cậy sức không được đâu. Cần phải làm việc một cách khéo léo, có suy nghĩ. Đấy, các cậu cầm đục thẳng như thế là không được, phải để hơi xiên một chút. Như cầm rìu chặt cây ấy mà. Chặt thẳng góc thế nào rìu cũng văng ra, nhưng khẽ nghiêng một chút là sẽ cắn ngay vào gỗ như vào đất mềm vậy... Để lưỡi đục mỗi lần búa đập ăn sâu vào sắt - Nunhikianop nói tiếp - thì phải cầm ở đầu cán búa, tay buông lỏng, chỉ khi búa chạm đục mới lên gân cổ tay, và cũng chỉ trong giây lát mà thôi. Như thể đánh quyền anh ấy mà.
Chính nhờ Nunhikianop mà những người thợ tương lai này biết được là khi quai búa phải nhìn vào lưỡi đục chứ không phải vào đầu đục, nơi quả búa rơi xuống.
- Chừng nào chưa làm được như thế, các cậu chưa thể cắt các thanh ốp thành thạo được. Bây giờ đầu óc các cậu đang phân tán. Nhớ đừng đánh vào tay..
Tan tầm, các cậu trở về nhà khi trời nhá nhem tối. Cậu nào cũng nóng lòng về nhà kể lại ngày làm việc đầu tiên của mình. Và lại càng muốn các bạn cùng học thấy mình lúc ấy.
Đến nhà, Gôga được đón tiếp bằng một sự im lặng. Không ai hỏi ngày ấy cậu đã làm việc như thế nào và thấy những gì. Mẹ cậu vẫn như mọi khi, đang lẳng lặng làm một việc gì đấy trong phòng mình. Bà cậu cũng lặng thinh để lên bàn đĩa khoai tây nấu nhừ với một ít mỡ lợn, một bát sữa, và đẩy về phía đứa cháu một lát bánh mì to. Gôga nhìn bữa ăn tối thịnh soạn như thế bỗng nhớ tới nét mặt Giamin, Côlia và Vichia sáng lên khi nhận được phiếu lương thực: “Bây giờ về chắc cả nhà mừng lắm!” “Còn mình thì chẳng ai hỏi cả” - Cậu nghĩ thế và bỏ tấm phiếu lương thực công nhân trông giống như một bản cửu chương lên bàn rồi bắt đầu ăn một cách miễn cưỡng.
Bố Gôga từ phòng ngoài đi ra, mình mặc độc chiếc áo lót, đi ủng không tất. Nhìn khuôn mặt tròn trĩnh và đỏ ửng vì rượu mật ong, Gôga không hiểu là bố đang mỉm cười hay tức giận.
- Thế là chúng ta đã bắt đầu đi làm rồi đấy, con nhỉ - Prônca ngồi đối diện Gôga. Thấy tấm phiếu hắn cầm lên và bắt đầu ngắm nghía như mới thấy lần đầu - Bánh mì 800gam, mỡ 5 gam, tấm 30 gam. Kể ra cũng không lấy gì làm nhiều lắm. Này, con biết chưa, người ta muốn gọi bố ra mặt trận đấy - Prônca hơi nhíu mày, những ngón tay béo vó nhàu tấm phiếu.
Không thấy mặt bố biến sắc, Gôga chưa đưa thìa lên miệng, đã vội hỏi:
- Thật thế hả bố? Chắc ngoài ấy bố sẽ gặp bác Xtêphan và anh em nhà Samilep nhỉ?
Prônca đứng dậy, nhìn một lần nữa tấm phiếu bị vò nhàu rồi quay sang nhìn Gôga:
- Hừ, công nhân! Người ta định dùng những thằng vắt mũi chưa sạch như mày để thắng bọn Đức đấy. Cũng là một việc đáng làm đấy hả? Thật là một lũ ngốc! Nhưng Prônca thì không ngốc đâu..
Gôga sợ hãi ngồi im, không hiểu sao bố cậu lại bực mình khi phải vào bộ đội. “Say rượu rồi tha hồ nói bậy bạ” Gôga nghĩ và không muốn ăn nữa. Cậu đứng dậy thay quần áo.
Khi Prônca dụ con nai vào cổng và giết nó một cách hèn mạt. Gôga nghĩ là không bao giờ còn gọi hắn là "bố" nữa. Nhưng chiến tranh đã đảo lộn tất cả...Và bây giờ cũng như lần nọ, bố cậu đã chà đạp và hạ thấp những gì tốt đẹp, chân chính trong người cậu. Bố cậu đã khinh bỉ vò nhàu tấm phiếu khẩu phần công nhân, gọi tất cả những người đang chiến đấu là lũ ngốc và quẳng thẳng vào mặt cậu một cách mỉa mai hai chữ “công nhân”.
Gôga leo lên nằm trên phản cạnh chiếc lò sưởi Nga rộng. Mùi hành, mùi tỏi, mùi mồ hôi xông lên nồng nặc, và cạnh đấy là một đôi ủng lông đang được hơ khô. Cậu cho con mèo ấm áp nằm cạnh mình, và cái mệt như chiếc gối nặng đè chặt lên đôi mắt cậu. Thiêm thiếp ngủ, cậu nghe như có tiếng những con gián tung tăng bò sột soạt ở các khe hở...
Giữa đêm cậu chợt tỉnh giấc vì một người nào đấy đã đánh thức cậu. Vẫn nhắm mắt, cậu nằm nghe bà và bố nói chuyện với nhau.
- Cẩn thận chứ, kẻo thằng bé nó dậy! - bà cậu thì thầm.
- Cái thằng đấy thì có lấy thắt lưng mà đánh nó cũng chả dậy, - Prônca dằn giọng, lôi đôi ủng từ phía lưng Gôga ra - Có trời mà biết được đâu là ủng của tôi!..
- Kìa, khẽ chứ! Trong góc ấy, trên các bị đựng hành
- Sao không bảo ngay từ đầu, mà..
"Chẳng lẽ trời sáng rồi ư?" Gôga nghĩ thầm. Và như để trả lời câu hỏi của cậu, bà cậu nói:
- Nhanh lên, Prônca, gần hai giờ sáng rồi đấy
- Cứ làm như người ta không biết! - Prônca vừa lúng búng đáp lại, vừa tụt từ phản xuống.
Nửa tỉnh nửa mê, Gôga lõm bõm nghe từng lời đứt quãng của bà và bố cậu. Cậu còn đang nghe hình như mẹ cậu thút thít khóc và tiếng bà nói mẹ cậu:
- Bụng trống như mày bọn chúng không động đến đâu mà sợ..
Sáng dậy, Gôga hỏi:- Bố đâu bà?
- Nhập ngũ rồi, bố mày đã đi ra trận..- suy nghĩ một lát bà cậu nói
- Sao lại đi ban đêm?
- Mày đi mà hỏi lấy! Người ta bảo: cần đi là đi, có thế thôi… đêm hôm không muốn đánh thức mày dậy.
Tới xưởng, Gôga kể cho các bạn nghe là cuối cùng bố cậu cũng đã được người ta gọi vào bộ đội. Cậu nói giọng đầy tự hào, và các bạn rất hiểu cậu.
Hôm đó, mỗi cậu chặt được hai thanh ốp. Búa vẫn hay đập vào tay như hôm trước, và các cậu vẫn phải luôn luôn nhảy một chân, miệng ngậm ngón tay rớm máu. Nhưng hôm đó các cậu làm việc không còn thấy quá khó khăn như lần trước nữa.
Nunhikiakop lại chỗ các cậu mấy lần. Anh ta kiên nhẫn hướng dẫn lại cách làm việc cho từng cậu một. Cầm chiếc đục của Giamin, anh ta xoay xoay nó trước chiếc mũi khoằm của mình, đưa ngón tay cái sờ mép lưỡi rồi nói, vẻ không hài lòng:
- Này, cậu xem, thép tôi còn mềm lắm. Cái này chỉ chặt được sắt nung nóng mà thôi.
Nói đoạn, anh ta dẫn cả bọn sang phân xưởng rèn, nhóm lại chiếc lò đã tắt ngấm, rồi bắt đầu dạy các cậu cách tôi lưỡi đục sắt thế nào để đủ cứng chặt được sắt nguội. Vừa chỉ những màu sắc thay nhau nổi lên trên mặt lưỡi đục nung đỏ bị nhúng xuống nước, người thợ nguội vừa giải thích:
- Nếu đục có màu như màu rơm thì dễ bị cùn. Tốt nhất là màu xanh sẫm. Đấy, các bạn xem, màu xanh ngả sang màu vàng đấy. Nó sẽ cứng mà không giòn.
Hai lần đốc công xưởng đi lại chỗ các cậu, lẳng lặng nhìn rồi bỏ đi. Sự có mặt của bác ta làm các cậu bối rối. Sắp hết giờ làm việc thì cụ Cudia đến. Cụ mang theo một chiếc giá đứng, ghép bằng hai thanh gỗ dày 5 phân, đưa cho Vichia, bé người nhất trong cả bọn.
- Bác đốc công bảo làm cái này đấy. Bác ấy nói ở chỗ các cậu có một cậu bé người làm việc rất vất vả. Cụ nghĩ xem, bác ấy nói, có cách gì giúp cậu ta được không? Đây, cầm lấy.
Chiều đến, làm việc ở xưởng cơ khí xong, các cậu ai về nhà lấy và tự cảm thấy mình là những người công nhân thực sự. Các cậu cùng đi với người lớn, và cũng bàn về công việc sản xuất.
- Thế nào, chưa quen có vất vả lắm không? - mọi người hỏi các cậu vẻ thông cảm.
- Không, hoàn toàn không! - các cậu đồng thanh trả lời như đã hẹn trước.
Các cậu vào làm việc ở xưởng cơ khí đã được ba tháng. Bây giờ giữa đám thợ nguội gồm 17 người tất cả, các cậu đã được xem là "lính cũ". Cụ Cudia không thể không lấy làm vui mừng về thành tích của "các chàng trai" của mình. Thành phẩm được xếp chồng ngay ngắn ở phân xưởng hàn điện. Cánh thợ hàn than phiền là các thanh ốp được chuyển đến quá nhiều, và họ cần thêm một người làm việc và một máy biến thế điện nữa. Piôt Pêtrovich lấy làm hài lòng lắm. Bây giờ bác không còn bị cán bộ phụ trách tuyến đường “đột kích” và tên không còn bị xếp vào bảng “cần lưu ý” nữa. Ngược lại, bác còn viết đơn lên tận thủ trưởng tuyến phàn nàn là công nhân đường ray không cung cấp đúng thời hạn những thanh ốp bị gãy, vì vậy mà công nhân của bác phải ngồi không.
- Cụ Cudia, các chàng trai của cụ thật quả đã không phụ lòng tin của chúng ta - một lần ở xưởng dụng cụ trước khi tan tầm, bác đốc công đã nói như vậy - Như thế là chúng ta đã khởi xướng một việc khá tốt. Tới Ngày Hồng quân phải khen thưởng các cậu ấy mới được. Tàu vẫn chạy đều đấy, cụ Cudia ạ. Mà chạy ra chạy!… Cụ biết không, nhiều khi nghe tiếng búa đập mà tôi cứ ngỡ là tiếng bánh tàu lăn. Thế đấy.
- Hôm nay có chuyện gì mà trông bác có vẻ xúc động thế, bác Piôt Pêtrovich?
- Đây, xem đi, bác sẽ thấy - bác đốc công đưa cho cụ một tờ giấy.
“Quyết định tuyên dương đốc công xưởng cơ khí ga Taiset, Xamarucop Piôt Pêtrovich, đã có thành tích bảo đảm thông tàu liên tục…” - cụ Cudia đánh vần từng chữ và ngước nhìn bác đốc công qua gọng kính mà cụ bắt đầu mang từ tháng trước. - Chính thủ trưởng tuyến đường ký tên ở đây nữa. Quả thật. Được thế có phải dễ đâu. Còn chúng, các cậu thợ trẻ ấy mà, bác Piôt Pêtrovich ạ, dạo này cũng phấn khởi lắm. Trẻ người, vui tính..
Và rồi không kìm nổi, cụ Cudia chạy bổ đi tìm các cậu. Cụ gọi Giamin ra một nơi, báo cho cậu biết lời đốc công, và yêu cầu tạm thời phải giữ kín.
- Thật thế ư, cụ?
- Chẳng lẽ lão còn nói dối nữa à! - ông cụ phật ý.
Và đội trưởng Giamin cũng tiết lộ cho ông cụ biết bí mật của mình:
- Cháu, Gôga, Vichia và Côlia đã quyết định gia nhập đoàn thành niên cộng sản. Thứ bảy này người ta sẽ cho gọi lên ban thường vụ đoàn. Có điều cụ không được nói với ai đấy nhé! Nhỡ ra có điều gì thay đổi.
- Cừ lắm, các cháu ạ, cừ lắm! - cụ Cudia khen.
Ngày thứ bảy đến một cách chậm chạp. Thời gian lười biếng không chịu trôi qua. Các cậu kiểm tra nhau về điều lệ đoàn, đọc lịch sử đảng, nghiên cứu tiểu sử các ủy viên Bộ chính trị, cố nhớ họ tên các tư lệnh trưởng các phương diện quân...
Ngày thứ bảy, trước giờ làm việc Gôga bảo Giamin:
- Mình không lên ban thường vụ đoàn đâu. Họ sẽ không kết nạp mình..
- Sao thế? Cậu không đùa đấy chứ?- Giamin hỏi, không để ý lắm tới lời của bạn rồi bỏ đi tìm đốc công nhận phần việc.
Cuối ca, sực nhớ tới lời Gôga, Giamin lại gần, hỏi:
- Sáng nay cậu nói gì thế?
- Mình nói thật. Họ sẽ không kết nạp mình... Gôga ấp úng nói, trông cậu bối rối, hoảng sợ - Hôm nay công an đã tới nhà mình. Họ tìm bố mình… Người ta bảo là bố mình bỏ trốn..
- Không thể thế được...Cậu chẳng bảo là bố cậu đã ra mặt trận rồi sao?
- Mình nghĩ thế… bà mình nói…thế mà công an đến tìm… Họ bảo: đào ngũ..
Giamin đứng im suy nghĩ.
- Này Gôga - cậu nói - ở ban thường vụ đoàn cậu hãy nói thẳng tất cả với mọi người.
Gôga khẽ nấc và suýt khóc. Thậm chí cậu còn nghĩ giá bố cậu hy sinh ở một nơi nào đấy gần Matxcova còn hơn. Và sau chiến tranh, cậu sẽ tới Matxcova và nói với mọi người: “Tôi chưa bao giờ sống ở Matxcova, nhưng bố tôi Procopsi Ladarevich đã hy sinh ở đây. Ở Taiset người ta không thích ông, thế mà ông lại là người như thế đấy…” Gôga cảm thấy tủi thân, muốn khóc to và bỏ chạy.
....Các cậu chen chúc nhau đứng trong chiếc hành lang hẹp được chiếu sáng mờ mờ. Giamin có biết một số người, đó là những công nhân làm việc trên tuyến đường, những thợ tiện, những thợ nguội từ đầu đoàn tàu tới… Trên thành cửa sổ rộng là những chiếc áo bành tô, áo ấm ngắn, mũ lông.
- Từ xưởng cơ khí có ai không? - một cô gái hé cửa hỏi.
- Có. Bốn người - Giamin trả lời, vội bỏ chiếc áo ấm xuống.
- Từng người một. Người thứ nhất - Xôcôlốp!
Côlia buồn bã đưa mắt nhìn các bạn rồi biến mất sau cánh cửa.
Một lúc sau, cậu đã bước ra, mặt đỏ bừng như vừa ở trong nhà tắm hơi ra.
- Có vẻ như họ đã kết nạp mình rồi..
- Igo Xuđacôp! - vẫn cái tiếng lanh lảnh của cô gái nọ.
- Cậu cùng đi với mình nhé! - Gôga bảo Giamin.
- Từng người một! Lớn rồi mà cứ như trẻ con ấy. Ai là Xuđacôp?
Gôga giẫm chân tại chỗ nhưng cuối cùng đã bước vào.
Cậu ở trong phòng khá lâu. Những người chờ bên ngoài bắt đầu sốt ruột.
- Làm gì mà lâu thế nhỉ?
Cửa lại mở:
- Ai là Samilep? Mời vào.
Giamin bước vào phòng.
- Nghĩa là cậu, Xuđacôp, không biết là bố cậu đã đào ngũ? - một thanh niên gầy gò mặc áo varơ hỏi.
- Tôi tưởng ông đã nhập ngũ... - Gôga đáp.
- Cần biết chính xác chứ không phải để tưởng. Tinh thần cảnh giác của cậu để đâu?
Ngay từ đầu Giamin đã thấy không thích anh chàng mặc áo varơ này.
- Iadơvixôp, cậu lại hỏi cung ư? - một thanh niên khác cổ đeo chiếc cà - vạt cũ có nút thắt to ngắt lời anh ta. - Đáng lẽ cậu phải giúp đoàn viên nhận rõ..
- Nhưng cậu ấy chưa phải là đoàn viên! -...hơn nữa chính cậu ấy đã tự mình kể cho ta nghe tất cả. Thôi để ta xem đội trưởng của cậu ấy nói gì nào...Samilep cậu có nhận xét gì về Xuđacôp? Cậu biết chuyện bố cậu ấy rồi chứ?
- Gôga đã nói cho tôi nghe về bố mình sáng nay. Trước đây cậu ấy rất lấy làm sung sướng là bố cậu đã ra mặt trận. Bản thân cậu ấy cũng không đến nỗi tồi. Làm việc tốt. Không hay kêu ca... Và đốc công của chúng tôi, bác Piôt Pêtrôvich cũng nhận xét tốt về cậu ấy - Giamin đặt lên bàn một tờ giấy gấp tư.
Người thanh niên gầy đưa mắt liếc nhanh tờ giấy.
- Thế nào, cậu định đánh lừa bọn mình đấy à? - anh ta bỗng kêu to - Ở đây ghi là: cả đội làm việc tốt, đúng tinh thần thời chiến! Có chữ nào về Xuđacôp đâu!
- Thì cả đội chỉ có cậu ấy, tôi, Vichia, Côlia… Bác đốc công đã nhận xét như vậy về tất cả chúng tôi - Giamin bình tĩnh nói.
Người thanh niên mang cà - vạt có lẽ là bí thư huyện đoàn, xem xong, đưa tờ giấy cho người bên cạnh.
- Theo tôi, thế là rõ, các đồng chí ạ. Một đồng chí đảng viên lão thành đã nhận xét rất tốt về công tác của cậu này. Tôi nghĩ Xuđacôp xứng đáng được đứng trong hàng ngũ Đoàn thanh niên Lênin. Ai “tán thành” đề nghị giơ tay! Còn về bố cậu ấy thì người ta sẽ bàn sau.
Giamin đưa mắt nhìn những người có mặt: mười hai người giơ tay tán thành.
Chỉ có người thanh niên gầy gò là còn lẩm bẩm:
- Tôi bỏ phiếu trắng
- Xin chúc mừng cậu, Xuđacôp nhé! Từ nay cậu đã là đoàn viên thanh niên cộng sản - vừa cười, đồng chí bí thư vừa chìa tay cho Gôga.
- Tôi sẽ cố gắng...Gôga nghẹn ngào, từ nãy tới giờ mới ngẩng lên. Mọi người nhận thấy hai mắt cậu đầy nước mắt.
- Dậy đi con, dậy! - thím Samsura lay gọi con – Dậy đi làm kẻo muộn...
Giamin mệt nhọc tỉnh dậy. Mắt cậu đau nhức. Suốt đêm, hai mi dính chặt vào nhau như có keo dán. Ngọn lửa lay lắt của chiếc đèn dầu như chọc vào mắt cậu. Rồi Giamin bất giác lại từ từ nhắm mắt.
Thế là đã một tuần trôi qua kể từ ngày đội thanh niên cộng sản đảm nhiệm toàn bộ công việc sửa chữa các thanh ốp đường ray. Trước đây đã có một số trường hợp chỉ sau vài ba ngày các thanh ốp chữa xong đã bay ra từng mảnh, suýt nữa gây tai nạn. Các thành viên của đoàn điều tra cục đường sắt không thống nhất ý kiến với nhau. Người cho là do hàn xấu, người thì bảo lỗi tại thợ nguội khoan quá nhỏ, có người lại chỉ cho là do que hàn điện ít cácbon.
Dù sao thì người có lỗi trong tất cả mọi chuyện vẫn là đốc công Piôt Pêrovich Xamôrucop. Trước khi ra về, đoàn điều tra đã chỉ thị là: “Phải nâng cao hơn nữa chất lượng sửa chữa các thanh ốp đường ray”. Chính vì thế mà đốc công đã cho gọi cậu lại.
- Tôi cứ tưởng các cậu ấy đã cố gắng nhiều lắm - cụ Cudia đi lại chỗ học trò của mình. Đôi mi đã ngả màu trắng luôn nhấp nháy.
- Các cậu ạ, tôi nghĩ là chúng ta có thể cải tiến được phần nào công việc của mình - bác đốc công bắt đầu nói như không nghe thấy lời nhận xét của người thợ già ở xưởng dụng cụ. - Giả sử chỉ một mình đội các cậu chịu trách nhiệm về các thanh ốp đường ray thì sao?
- Một người nào đấy làm ẩu, mà chịu trách nhiệm lại là các cậu ấy - ông cụ lên tiếng.
- Phải làm sao để toàn bộ quá trình sửa chữa các thanh ốp được tập trung vào tay các cậu. Cả khâu hàn cũng vậy. Lúc ấy thì không ai còn đổ lỗi cho ai được nữa.
- Nhưng những người thợ hàn có chịu để cho Giamin lãnh đạo không? - cụ Cudia hỏi - chắc gì họ đồng ý?
- Không. Vấn đề là ở đó. Chúng ta không đủ thợ hàn.
- Thì bác hãy dậy các cháu của lão đây, Piôt Pêtrovich ạ.
- Tôi cũng đang nghĩ về chuyện đó..
Và thế là đã một tuần nay Gôga và Vichia - những cậu lớn hơn trong đội - đã bắt đầu học nghề hàn.
Mấy lần Giamin lại chỗ hai cậu ở phân xưởng hàn, nơi bao giờ cũng bốc mùi như sau một cơn dông, và các cậu có cảm giác như ở đây bao giờ cũng có tiếng vải bạt bị xé – “Cậu bắt được thỏ rồi đấy” - hai cậu kia giải thích cho đội trưởng của mình khi cậu này bảo là đau mắt.
- Con còn định nằm đến bao giờ đây? - bà mẹ thở dài sau một hồi lâu im lặng. Giamin biết mẹ đang bận coi mấy chiếc chảo gang dưới bếp - Côlia và Gôga sẽ đến đây bây giờ. Lúc ấy thì, dễ coi đấy - đội trưởng còn nằm trên giường - thím Samsura trách nhẹ con.
- Con dậy rồi đây - Giamin ngái ngủ đáp, vừa mặc bộ quần áo bốc mùi than, mỡ và gỉ sắt.
Thật khó mà dậy sớm được khi cậu mới trên 15 tuổi, và qua đêm, người cậu chưa kịp vứt bỏ hết cái mệt góp lại trong suốt 12 giờ liền luôn quai chiếc búa hai cân và khuân hàng tạ sắt từ chỗ này tới chỗ khác. Giamin có cảm giác cậu chưa bao giờ được ngủ đẫy giấc trước khi đi làm, và từ nay có lẽ chẳng bao giờ được ngủ đẫy giấc nữa. Thậm chí trong khi ngủ cậu cũng chỉ thấy toàn những thanh ốp, tàu xe và ông đốc công hay khiển trách. Ngay cả mẹ mỗi sáng đánh thức cậu dậy, cậu cũng tưởng là Piôt Pêtrovich.
Sau khi rửa mặt bằng nước lạnh giá, Giamin ngồi xuống bàn, trên bàn là một chảo khoai tây khói bốc nghi ngút làm không khí trở nên ấm áp và dễ chịu hơn. Bắp cải muối ánh màu hồng trong chiếc bát tráng men. Những chiếc nấm trong giống như những con sứa biển nhỏ bốc mùi tỏi ngon lành. Cạnh chiếc thìa gỗ với các cạnh bị véo nham nhở là mẩu bánh mì đen to bằng lòng bàn tay trẻ con.
- Bánh mì hôm nay ẩm quá - mẹ cậu từ bếp nói vọng lên quay lưng về phía cậu mà như vẫn thấy được cậu con trai đang buồn rầu nhìn mẩu bánh.
- Sao mẹ lại nói thế? - Giamin vội an ủi mẹ - Chừng này hai người ăn còn thừa đấy…
- Không hiểu sao các anh con vẫn không thấy thư từ gì cả. Mong sao đừng có chuyện gì xảy ra - giọng mẹ cậu đầy lo lắng - Ở xưởng, con không nghe nói bây giờ bọn Đức đến đâu rồi à?
- Gần Lêningrat rồi. Bọn khốn kiếp! Ở đấy, mẹ ạ, người ta cho chúng nếm đòn còn đau hơn ở Matxcova nữa. Trong một lần phổ biến thời sự, bác đốc công có bảo là bây giờ bọn Đức định đánh phía Nam trước đã, rồi chiếm Matxcova sau. Hitle đang lao vào Xtalingrat. Ở đấy quân ta đánh mạnh lắm..
Ngoài phòng ngoài có tiếng động. Một người nào đó đang lấy chổi quét tuyết khỏi giày. Con Gaxtôn cất tiếng sủa muộn màng, nhưng nhận ra người quen, nó ngáp một cái rồi kéo theo dây xích bỏ đi. Giamin tưởng tượng thấy nó vươn mình một cách khoan khoái, lim dim đôi mắt đen, cà đôi vành tai nhọn vào cổ.
Côlia bước vào, chào mọi người.
- Lại đây, khoai tây đang nóng, ăn một ít. Bở lắm - thím Samsuara mời - Mẹ cháu thế nào?
- Lúc nào cũng thấy ủ dột - Côlia lúng búng nói - Một bầy con thế này thì làm thế nào bây giờ, mẹ cháu nói thế. Còn cháu thì bảo là không có thư chưa hẳn đã có chuyện không hay xảy ra...
Như một nhà ảo thuật, Côlia chuyển từ lòng bàn tay này sang lòng bàn tay kia củ khoai tây nóng luộc cả vỏ, rồi nhanh nhẹn bóc lớp vỏ mỏng như lớp giấy thuốc lá bẩn. Giamin đưa cho bạn một mẩu bánh mì bằng bao diêm. Côlia làm bộ không thấy bánh mì.
- Cầm lấy cháu, ở nhà chắc cũng chẳng lấy bánh mì nhiều - thím Samsura nói
Khi cậu ra khỏi nhà, mặt trăng đã nhợt nhạt vì ngày sắp rạng. Tuyết không còn ánh màu bạc như trong đêm, mà ngả sang màu lam nhạt. Suốt đêm, tuyết rơi nhiều đến nỗi bây giờ ngập đến tận đầu gối, như đi trong cát xốp lạnh và buốt. Tiếng còi tàu cạnh đấy vang lên trong không gian lạnh lẽo. Trên các mái nhà, từng cột khói như đứng yên một chỗ. Suốt đêm chúng như đỡ vòm trời sẫm đen trĩu nặng đầy sao lấp lánh.
Trong xưởng cơ khí còn yên lặng và lạnh. Công nhân đã tụ nhau đứng trước tấm bản đồ lớn có những ngọn cờ nhỏ đỏ và xanh. Gần Matxcova cờ đỏ đã dịch về phía Tây một chút, còn ở miền Nam thì cờ xanh đang tiến về phía Capcadơ, về phía Hắc hải, và đã đến gần sông Vonga. Trong sân nhà ga cũng có một bản đồ như vậy, nhưng to hơn nhiều. Ở đấy bao giờ cũng đông người. Cạnh bản đồ là một bức tranh cổ động vẽ một người phụ nữ tóc bạc, chĩa tay vào người xem mà hỏi:" Anh đã giúp được gì cho mặt trận?". Không ai có thể trốn khỏi cái nhìn nghiêm khắc và ngón tay trỏ giống như nòng súng trường của bà. Nhiều lần các cậu nghĩ là ngón tay ấy có thể bắn vào người được nếu người ấy quả thực không giúp gì cho mặt trận.
Công nhân nhận phần việc của mình xong, ai về chỗ người ấy
Các nhà máy hầu như không cung cấp được gì cho tuyến đường, thành ra công nhân tuyến đường phải tự làm lấy tất cả, từ chiếc đinh nhỏ đến những chiếc ghi nặng hàng tấn. Ở nhà máy có cần cẩu, có thể chuyển nó dễ dàng từ chỗ này đến chỗ khác. Còn ở đây thì phụ nữ và trẻ em xúm nhau lại hàng giờ để tháo ghi khỏi ổ, rồi đặt nó lên xe ngựa và chuyển đến xưởng cơ khí. Ở xưởng, người ta cũng vừa văng tục, vừa vất vả hạ nó xuống cho những người thợ hàn làm việc trước. Những người này hàn lại những bộ phận bị gỉ ăn, sau nó được chuyển đến phân xưởng rèn và cuối cùng được đặt trên một bệ cao có mái che rồi các động cơ điện và máy mài được huy động đến. Tất cả quá trình trên được tiến hành dưới sự chỉ huy của bác thợ nguội Ivan Phachiêvich Macximenco. Bác ta đã về hưu năm năm trước khi chiến tranh bùng nổ, và trở lại xưởng ít ngày trước khi các cậu vào làm việc. Người bác cao, gầy và bác mang cặp kính tự làm lấy gọng. Nét mặt bác bao giờ cũng cau có không thích tiếp xúc với những người khác. Chỉ có Nunhikianop và cụ Cudia là có thể nói chuyện thoải mái với bác được.
Giamin và Côlia thích xem bác làm việc đến nỗi Piôt Pêtrovich phải nhắc:
- Xem thế có lâu quá chưa,các cậu?
- Các cậu ấy vừa mới đến. Cứ để các cậu nhìn mà học theo - Ivan Phachiêvich lên tiếng bênh vực - Tôi có chết các cậu còn thay thế chứ!
Bác đốc công rung rung ria mép, nói một câu gì đấy rồi bỏ đi. Các cậu vẫn tiếp tục say sưa nhìn chiếc ghi đồ sộ bị gỉ ăn loang lổ giống một mũi tên khổng lồ, miễn cưỡng chịu sự gia công của con người. Chiếc ghi gắn chặt trên xe được đẩy về phía trước lúc nào không biết, đá mài rung lên vì sung sướng, kêu xè xè, bắn những tia bụi màu đỏ như những tia lửa. Ivan Phachiêvich ngồi bên cạnh, đều đặn vặn tay quay chuyển động của chiếc xe, và qua lớp bụi kia, như có phép lạ bác vẫn nhìn rõ và cho đá mài bằng cái lưỡi rám của mình liếm sâu vào thép một độ dày cần thiết. Bất kỳ máy kiểm tra kỹ thuật nào cũng phải công nhận mặt thép của chiếc ghi bác mài phẳng và nhẵn đến mức tuyệt vời.
Hôm nay, nhận tờ giấy ghi phần việc xong, như mọi người, Ivan Phachiêvich gấp tư cho vào chiếc bao kính làm bằng sắt tây. Bác định nói một điều gì nhưng lại khoát tay, bỏ đi tới chỗ chiếc ghi.
- Còn các cậu thì tôi định giao một việc khác - Piôt Pêtrovich nói khi chỉ còn lại mình các cậu trong đội thanh niên cộng sản - Hôm qua chúng tôi nghĩ đi nghĩ lại mãi về việc nên cử ai vào rừng lấy củi. Và rồi thấy không ai hơn ngoài đội thanh niên các cậu... - Bộ ria mép ám khói của ông rung rung - Tại sao lại chọn các cậu à? Tôi sẽ giải thích rõ. Các cậu đã chữa được nhiều thanh ốp đường ray, đủ dùng cho cả tháng. Đâu cũng thấy chúng. Tốt lắm, nghĩa là có thể sử dụng các cậu vào việc khác trong một vài tuần mà không sợ ảnh hưởng tới công việc chung… Các cậu hiểu chứ?
- Có gì đâu mà chẳng hiểu! - Giamin lên tiếng
- Các cậu hiểu được như thế là tốt. Không thể cử người khác được, công việc chung sẽ bị ảnh hưởng ngay. Mà tàu bây giờ thì các cậu biết đấy - chạy như điên cả hai chiều. Thời bình mà chạy thế thì có thể nghĩ là điên rồ được...Các cậu ạ, chúng ta cần củi cho nồi hơi, cho nhà ăn, cho văn phòng..
- Thế than đá để làm gì? - Vichia hỏi
- Than chỉ để cho phân xưởng rèn thôi, và khi xuất cũng phải theo cân. Chiến tranh, các cậu ạ, cái gì cũng phải định mức hết. Cụ Cudia sẽ đi cùng với các cậu và phụ trách chung. Bây giờ thì ai về nhà nấy đã. Nhớ mặc ấm vào. Đúng mười một giờ có đoàn tầu đỗ đối diện đây, sẽ có một toa được sưởi ấm, nhớ đừng chậm.
Mỗi cậu tiếp nhận một cách khác nhau tin báo của bác đốc công. Không lấy gì làm mừng lắm nhưng cũng không ai kêu ca, tuy có đột ngột thật.
Mười một giờ, cụ Cudia và đốc công đã chờ các cậu trong toa ấm. Các tấm ván kê làm chỗ nằm được trải một lớp rơm đã ngả màu đen. Trong góc toa có rìu, cưa, dây thừng, các cuộn dây thép gai cũ, một đống đinh bu-long, khoảng mười thanh ốp đường ray, búa và cờ lê vặn ốc. Mọi người trong đội đã đến đông đủ.
- Có lẽ chẳng cần phải dặn thêm gì nữa - Piôt Pêtrovich nói - Tự các cậu cũng biết là phải nhanh chóng chất củi lên xe và trở về. Không được đùa nghịch trong khi làm việc. Làm thế nào đừng để cụ Cudia phải xấu hổ là được. Cụ ấy chịu trách nhiệm về các cậu đấy.
- Bác cứ yên tâm. Tất cả sẽ tốt đẹp như trong chuyện Sừng vàng - cụ Cudia nói
Ông đốc công đi khỏi. Chiếc đầu máy điều phối đẩy bảy toa phía trước, kéo thêm chiếc toa được sưởi ấm của các cậu phía sau, từ từ chuyển bánh. Phía ngoài Taiset, nhánh đường sắt mới, đi Bratxco được khởi công xây dựng từ trước chiến tranh, có chỗ đã bắt đầu lún, vì vậy tàu phải đi chậm, như thể vừa đi vừa dò đường.
Hôm sau mọi người đến chỗ làm việc. Từng đống gỗ được xếp theo đường sắt, tuyết phủ dày trông như những nóc nhà cao hàng chục mét.
Từ đêm trước, cụ Cudia đã thấy trong người khó chịu. Cụ gọi đội trưởng lại, nói:
- Không hiểu sao lão thấy trong người khó chịu quá. Ê ẩm toàn thân. Bị cảm chắc. Bây giờ mà được tắm hơi nước và lấy chổi bạch dương mà đập vào người là khỏe ngay - Ông cụ thều thào nói - Tức ngực. Giamin ạ, cháu hãy hướng dẫn mọi người xếp củi lên xe. Cháu biết phải bắt đầu thế nào rồi chứ?
- Tất nhiên là cháu biết. Lúc đầu phải chọn những đống ở xa…
- Đúng, thôi đi đi. Để lão nằm nghỉ một chốc.
Các cậu ầm ĩ chui ra khỏi toa. Có một cậu bước ra rìa đường, lập tức bị ngập tuyết đến vai. Các cậu khác xúm lại vui vẻ lôi người ta lên.
- Ở đây thì chỉ có bơi thôi chứ làm việc gì được - Lênca Crittốp, có biệt hiệu là cậu Rỗ, nhân thế pha trò. Không ai biết tại sao lại gọi là Rỗ, vì mặt cậu ta nhẵn nhụi, dễ coi. Trong đội, Lênca là người lớn tuổi nhất. Cậu ta từ Ôđetxa tới Taiset, được nhận vào đội cách đây hai tháng. Lúc mới làm quen, cậu ta tự giới thiệu: “Mình là Rỗ, biệt hiệu đấy”. Những ngày đầu cậu ta tỏ vẻ rụt rè, ngoan ngoãn. Công nhân thấy thế thường bảo nhau:
- Chiến tranh thế đấy, khổ thân thằng bé..
- Ở đây không bơi mà chúng ta phải xếp gỗ lên xe - Giamin chữa lại câu nói của Lênca, rồi quay sang phía các bạn: - Phải bắt tay ngay vào dọn chỗ làm việc, một lúc cho cả ba toa. Tuyết thì có thể san bằng hay lấy xẻng mà dọn sạch đường đi. Hôm nay chúng mình chuẩn bị mọi việc, ngày mai sẽ bắt đầu xếp… Thế nào, được không?
- Bắt đầu đi, cậu là đội trưởng cơ mà! - Lênca nói và quay ngang nhổ nước bọt đánh choẹt một cái.
Mọi người bắt đầu làm việc. Tuyết khô tuột khỏi xẻng như thủy ngân. Có cậu đã cởi áo khoác.
- Này, ai là đội trưởng ở đây? - người lái tàu nhô đầu ra khỏi toa ấm, hỏi to.
- Kia, cái anh đội mũ lông chó ấy. Một người đội trưởng có tư tưởng cao - Lênca nói rồi phá lên cười.
- Bảo cậu ta lại đây! - người lái tàu lại gọi.
Giamin leo lên toa và sửng sốt thấy cụ Cudia đang mê sảng.
- Vừa rồi trước khi về, tôi nghĩ bụng hay tôi lại chỗ ông già một chút, xem có cần nhắn gì về thủ trưởng xưởng không. Dù sao thì chỉ mình ông cụ ở đây với các cậu, giữa rừng sâu… Đến nơi thì thấy ông cụ thế này đây, - anh lái tàu vò nhàu trong tay chiếc mũ màu nâu dính đầy dầu mỡ và dầu madut - Cũng may là tôi ghé vào. Nếu không, tôi đi rồi thì các cậu sẽ có khối chuyện phải lo thêm. Làm thế nào bây giờ nhỉ? - người lái tàu nói như tự hỏi mình - Không thể để ông cụ ở đây thế này được. Hay thế này cậu nhé, bây giờ tôi sẽ chở ông cụ đi. Đến tối thì tôi về tới nơi.
Giamin đứng im bối rối
- Còn chúng tôi thì sao? - cậu thốt lên.
- Chất củi lên toa. Cậu là đội trưởng sao còn hỏi. Ba ngày nữa tôi sẽ lại đây đón các cậu.
Khi cụ Cudia được bọc kín trong chiếc áo ấm, người lái tàu và anh phụ lái khiêng cụ lên đầu máy. Ông cụ trông chẳng khác gì một đứa trẻ.
- Các cậu phải làm thế nào cho đâu vào đấy nhé! - người lái tàu nhô đầu ra khỏi ô cửa sổ được bọc đệm cũ xung quanh, nói như ra lệnh.
Chiếc đầu máy chở cụ Cudia đi khỏi. Trong rừng như trở nên cô đơn và im lặng hơn.
Ăn tối xong Giamin đi nằm ngay và bảo các bạn cũng làm thế, vì ngày mai sẽ phải làm việc nhiều.
Giamin thiếp đi như bị rơi tõm xuống nước, và cũng bỗng tỉnh dậy nhanh như khi ngủ. Cậu có cảm giác như chưa ngủ tí nào. Chiếc lò sưởi vẫn đỏ lửa như cũ. Một số cậu đang ngồi với nhau, Côlia nằm co bên cạnh.
- Sao các cậu chưa nằm ngủ? - Giamin hỏi.
- Thì việc gì đến cậu? Cậu tưởng là đội trưởng thì ghê lắm đấy à? - cậu Rỗ càu nhàu - Cậu muốn ngủ thì cứ ngủ đi.
- Lênca, trả lại mình đi, về nhà mình sẽ đưa cho cậu... Nếu không, còn ba ngày nữa, lấy gì mà ăn... Gôga mếu máo.
- Im đi! Biết thế sao còn chơi!
“Ra các cậu ấy chơi bài. Đồ khốn! Liệu hồn!”
Giamin tụt khỏi giường. Quả đúng các cậu ấy chơi bài thật.
- Nào ai muốn thắng thì đặt ra nữa đi! - Lênca đề nghị - Nếu thua, về nhà trả cũng được. Còn cái này - hắn vỗ vào đống bánh mì - thì đã xong xuôi rồi. Trước là của các cậu, bây giờ là của mình. Chịu khó nhịn đói ba ngày. Các cậu có phải trí thức đâu mà sợ. Thế nào, đồng ý không?
Đến giờ Giamin mới nhận thấy là tay của Lênca rất dẻo, như không xương vậy. Những ngón tay mảnh khảnh, trắng trẻo của hắn dính chặt vào các quân bài.
- Trả bánh mì lại cho các cậu ấy! - Giamin cúi gần Lênca, cố lấy giọng bình tĩnh nói.
- À, ra thế! - thằng Rỗ nghiến răng - Thằng đểu, mày dám cậy quyền à! Ở đường phố Đeribaxop những thằng như mày tao cũng đã cho…
Giamin hầu như không hiểu tí gì những lời nói dọa dẫm của hắn.
- Cậu không được rống lên như một thằng điên thế! Còn bánh mì thì phải trả lại. Phải làm việc các cậu ấy mới nhận được từng ấy bánh mì...
- Này! - thằng Rỗ dùng đầu húc từ dưới lên vào ngực Giamin.
Giamin tay ôm mũi bị chấn thương, lùi lại. Cậu chưa kịp hiểu bằng cách nào mà nó có thể làm cậu đau như vậy. Các cậu khác hoảng sợ chạy ra hai bên.
- Sao mày lại đánh tao thế, đồ khốn? - Giamin che mũi, hỏi và xông vào Lênca.
- Được, bây giờ tao sẽ dạy cho mày, nhóc ạ - Lênca lôi ra một chiếc dao găm từ phía sau chiếc ủng, rồi nheo đôi mắt nâu, đẹp của hắn, nói.
“Giết thì nó không dám, nhưng nó có thể đâm mình bị thương” - Giamin bình tĩnh nghĩ. Thằng Rỗ nhẹ nhàng bước lại gần, tin chắc là không ai làm gì được nó:
- Thế nào, trả bánh lại cho các cậu ấy hả?
Cặp mắt của Giamin dừng lại ở chiếc xẻng dựng cạnh tường.
Cậu vội vớ lấy nó, nện vào vai thằng Rỗ. Hắn rú lên, vung dao. Giamin còn muốn nện cho hắn một gậy nữa, nhưng một đầu xẻng đã bị vướng vào phản…
Lênca đã thấy trước là kẻ thù sẽ bị quật ngã dưới chân mình. Hắn đứng cúi đầu, mỉm cười một cách ngu độn, môi dưới trễ ra.
Nhưng lúc đó, từ phía sau, như hai gọng kìm, đôi tay Côlia túm chặt lấy tay hắn, kéo giật về phía mình rồi xô ngã vào chiếc lò sưởi nóng bỏng.
Lúc đầu là mùi vải cháy, sau là tiếng Lênca kêu thé lên:
- Ôi, chết cháy mất!
Côlia lại vật ngã hắn lần nữa, lần này thì xuống sàn toa.
- Vì Giamin, tao giết mày!
Các cậu khác xúm lại lôi Côlia ra. Thằng Rỗ rên rỉ vẻ thảm hại:
- Mình chỉ định dọa chơi... Thế mà cậu ấy xô mình ngã vào lò sưởi nóng bỏng… Cái dao bé tí thế kia, đâm chuột cũng chẳng chết… Ôi ôi ôi... Phần bánh các cậu, các cậu cứ lấy đi…
- Câm mồm, đồ khốn! Không tao nện nữa bây giờ - Côlia dọa.
Lênca cố im nhưng không chịu nổi, vẫn tiếp tục kêu đau, hai tay đỡ chiếc quần bị cháy sém.
- Cháy ở đâu?
Hắn quay đít lại.
- Đây!
- Lấy xà phòng xát là khỏi, nhưng phải mất xà phòng cho những thằng khốn như mày thì tiếc lắm.
Lênca vẫn rên hừ hừ như chó. Đôi mắt mở rộng và đẹp của hắn đầy vẻ hoảng sợ, Giamin cầm gậy đi lại. Hắn co người lấy tay che chỗ bị bỏng.
- Thôi, câm đi, đừng rên nữa. Nước mũi cũng dùng được đấy. Cởi quần ra - Giamin ra lệnh.
Lênca chần chừ, nó đưa mắt sợ sệt, lúc thì nhìn chiếc dao trong tay Côlia, lúc thì nhìn chiếc gậy trong tay đội trưởng.
- Phải chờ mời nữa à? - Côlia quát.
Thằng Rỗ luống cuống, nhăn nhó vì đau, bắt đầu cởi chiếc quần bị cháy.
- Cúi xuống, đứng yên nào! Đồ khốn! Còn phải chữa cho mày nữa! Xì mũi đi, các cậu, không, hắn sẽ không làm việc… Một ít nhũ tương sẽ đỡ… Bây giờ thì nằm sấp mà ngủ…
Khi trong toa đã yên tĩnh trở lại, Giamin nói:
- Chúng mình là lính coi ngục hay sao mà chơi bài để ăn bánh của người khác làm họ phải nhịn đói?! Hả?
Các cậu khác lặng thinh.
- Thế nào, sao lại lặng thinh cả thế? - Giamin lại hỏi.
- Thế thì nói gì? - Lênca vừa rên vừa đáp - Bọn chúng ngủ cả rồi. Vì tí bánh mà ném người ta vào lò sưởi đang cháy… Thế mà cũng là đoàn viên thanh niên cộng sản…
Cả đội vừa mới từ rừng taiga về, đốc công đã cho gọi đội trưởng Giamin đến gặp ngay.
“Không lẽ đã có người kể lại chuyện ẩu đả rồi hay sao” - Giamin nghĩ bụng.
- Sao mũi lại sưng vù lên thế, đội trưởng? Có phải bị đánh không? - Piôt Pêtrovich hỏi rồi xem qua các giấy tờ trên bàn.
- Mũi à?... Tại cháu ngã vào đống củi đấy!
- Ừ, cũng có khi xảy ra như thế - bác đốc công nói, vẫn không ngẩng đầu - Vì chở củi mùa đông, tuyết ngập đến đầu gối có phải chuyện dễ đâu. Bác biết rõ điều ấy. Người biết lo bao giờ cũng chuẩn bị sẵn từ mùa xuân. Xung quanh mùi hương thơm ngát, chim hót líu lo, mà người thì cứ đánh trần đến lưng, kéo cưa không ngớt... Tốt như thế nào? Không có cái loài ruồi muỗi kinh khủng ấy! Thế mà các cậu đã làm xong củi một cách tốt đẹp. Phải nói thẳng là giỏi lắm. Khi người ta mang cụ Cudia về, bác những tưởng thế là hỏng, giỏi lắm. Còn hôm nay bác cho gọi cháu lên đây là để nói cái này. Học, phải học, cháu ạ. Hiệu trưởng trường cháu có tới đây. Ông ấy bảo xem chừng kẻo chiến tranh kết thúc lại chẳng có ai để vào đại học, và nhờ bác nói lại với các cháu.
Mãi tới giờ Piôt Pêtrovich mới ngửng đầu, thấy Giamin còn đứng:
- Cháu ngồi xuống đi, chuyện quan trọng đấy. Và bác nghĩ đúng thế. Biết làm thế nào được, phải không cháu? Bác đồng ý với ông hiệu trưởng. Nhưng rồi ai sẽ làm việc ở đây? Bây giờ các cháu tất cả là 17 người. Phần sửa chữa thanh ốp là hoàn toàn do các cháu đảm nhận. Tàu chạy được là nhờ có vai các cháu đỡ đấy. Bác đang định đưa vài người trong số các cháu sang phân xưởng rèn. Ở đấy công việc khá nặng. Người thì ngày một ít hơn, mà công việc, chỉ tiêu thì lại tăng. Tình hình là thế đấy cháu ạ, hiểu chứ?
Giamin gật đầu.
- Thế là tốt. Như vậy ai muốn học cứ viết đơn. Dần dần thì ta sẽ sắp xếp được, hiểu chứ?
Chưa bao giờ Giamin thấy đốc công mệt như bây giờ. Thậm chí ông nói rất khó khăn.
Và chẳng thể nào khác được vì ông thường về nhà rất muộn, chỉ để chợp mắt một chút. Tan tầm, công nhân về hết, còn ông ở lại thêm bốn năm giờ nữa, để giao định mức cho ca hai, gọi điện thoại lên cấp trên yêu cầu tiếp nhận lúc thì lưỡi khoan, lúc thì đá nhám, lúc thì than và các thiết bị… Và còn bao nhiêu việc khác nữa! Cứ thế ngày này sang ngày khác. Chẳng trách công nhân vẫn thường nói về ông một cách kính phục: “Người bác ta làm bằng thép hay sao mà thế mãi được nhỉ? Không hiểu bác ấy ngủ vào lúc nào?”
- Cần phải học, các cháu ạ, cần phải học… Thời này mà không có học vấn thì không làm được gì đâu. Chẳng hạn bây giờ xưởng ta mà có mấy kỹ sư xem có đỡ vất vả hơn không? Có họ ta sẽ làm được khối việc nữa. Đằng nay ta đây, cháu xem, chỉ được độc cái nhiệt tình thôi… Giá mà thằng Vanhiusa của bác bây giờ mà… - Ông khoát tay vẻ mệt mỏi.
Giamin bước ra. Côlia đứng đợi sẵn ngoài cửa.
- Gọi lên vì chuyện thằng Rỗ phải không? - Côlia hỏi
- Khô…ông
- Thế mà bọn tớ cứ nghĩ chắc thằng Rỗ lại giở trò nữa. Một thằng như hắn thì việc gì mà chẳng dám làm.
- Đốc công đề nghị chúng ta đi học. Bác ấy bảo nếu không sau chiến tranh sẽ không có người làm kỹ sư và chủ nghĩa cộng sản mà không có học vấn thì cũng chẳng khác gì đầu máy hơi nước mà không có hơi nước - to đấy, khỏe đấy nhưng chết ỳ một chỗ.
- Nhưng học vào lúc nào? Mà chẳng có lớp buổi tối.
- Bác ấy bảo rồi cũng sẽ nghĩ cách bố trí được. Chỉ cần chúng ta muốn học mà thôi. Ý cậu thế nào?
- Mình chẳng biết…
- Mình cũng thế… Cần phải bàn thêm với mẹ mình đã.
- Mình cũng vậy
Các cậu trong đội ai về nhà nấy đã lâu rồi. Đốc công cho nghỉ bù đến ngày mai để có thời gian vào nhà tắm, giúp đỡ gia đình.
Sắp tới nhà, Côlia gặp bà nội của Gôga. Mụ bước nhanh nhẹn, mặc dù trên người, ngoài chiếc áo bành tô bằng dạ, mụ còn mặc cả một chiếc áo khoác bằng nhung nữa. Đôi môi mỏng dính của mụ làm thành một vòng nhăn nheo, mở ra đóng vào như miệng một con trai nước ngọt. Côlia đứng ngập vào đống tuyết, nhường lối đi hẹp cho mụ. Mụ dừng lại trước mặt cậu, hấp háy đôi mắt độc ác rồi rít lên:
- Quỷ tha ma bắt mày đi, thằng đáng nguyền rủa kia!
“Sao mụ lại lồng lên như con chó tuột xích vậy nhỉ?” - Côlia tự hỏi.
Ở nhà, một nỗi buồn lớn đang chờ cậu. Láng giềng tụ tập rất đông. Thím Samsura đứng trông mấy đứa em cậu. Thấy mẹ đang được mấy người đàn bà khác dìu đi, Côlia khẽ rùng mình: “Giấy báo tử”. Như một cái máy, cậu treo quần áo lên giá, khe khẽ chào các bà láng giềng.
- Đừng quá buồn rầu như thế, cô Grunhia ạ. Có thể anh ấy còn sống - các bà an ủi mẹ cậu.
Các bà còn nhắc đến một người nào đấy tên là Đasa ở đường Beredopxcaia những ngày đầu chiến tranh cũng nhận được một giấy báo như vậy, thế mà cô ấy mãi đến bây giờ vẫn tin là Arochom của cô sẽ trở về. Lúc này Grunhia mới nhìn thấy Côlia.
- Côlia con! Mẹ con ta biết làm thế nào bây giờ? - Chị lao tới ôm con trai.
Mẹ cậu không kêu than, chỉ nức nở khóc, toàn thân rung lên, nghe thật não ruột.
- Rồi đâu sẽ vào đấy, mẹ ạ - Côlia vuốt lưng mẹ đang run lên vì khóc - đâu sẽ vào đấy…
Cậu không biết nói gì thêm nữa để an ủi, để làm yên lòng mẹ. Chính cậu cũng muốn òa lên khóc: cậu thấy thương hại cho mình, cho mẹ và mấy đứa em đang ngơ ngác đưa mắt nhìn người lớn, tay bám chặt thím Samsura. Và thương nhất là bố! Cậu không thể tưởng tượng được là cậu sẽ chẳng bao giờ được thấy mặt bố nữa…
Qua những lời nói gián đoạn của các bà láng giềng, Côlia biết được là mụ Xuđacốp, bà của Gôga cũng có tới nhà cậu, nhưng người ta đã đuổi mụ đi, vì mụ đến dỗ dành mẹ cậu như thế này: đấy, giá Xtêphan, chồng cô, theo ý Chúa mà ở nhà mà không hăng máu vịt lên tình nguyện ra mặt trận, thì anh ta, một người khỏe như thế, đâu đến nỗi bây giờ phải để lại cho cô một mình nửa tá con thế này, và anh ta đâu đến nỗi phải chết, tội nghiệp…
Từ trước tới giờ vẫn im lặng, lúc ấy thím Samsura mới bắt đầu trút lên đầu mụ tất cả những gì thím nén trong lòng từ ngày Prônca, con mụ, đào ngũ tới nay.
- Quân trời tru đất diệt! Vì thế Chúa sẽ trừng phạt chúng mày! - từ ngưỡng cửa, mụ còn nói với lại. Tới cửa sổ, mụ lại còn chõ thêm:- Đồ phản Chúa, đồ vô đạo!
Dần dần láng giềng ai về nhà nấy. Trước khi về, ai cũng nói:
- Một người như thế không thể mất được, Grunhia ạ.
Thím Samsura là người ra về cuối cùng. Trước khi ra về, thím ngồi xuống giường cạnh Grunhia, đưa vòng tay ôm vai chị rồi lấy giọng bình tĩnh, nghiêm khắc nhưng với vẻ dịu dàng của một người mẹ, nói:
- Phải biết vì con mà sống, Grunhia ạ… Côlia đã lớn… Bỗng nhiên thím Samsura cũng òa lên khóc - Tôi về đây. Con tôi có lẽ cũng đã về..
Hôm ấy Côlia không đem việc đi học ra bàn với mẹ. Việc này bây giờ đối với cậu trở nên vụn vặt và không cần thiết.
...Mấy ngày sau tất cả láng giềng nhà thím Samsura đều biết là một lúc, cùng với Grunhia, cả thím Samsura cũng nhận được một giấy báo tương tự. Nghe tin này, Grunhia bế đứa con nhỏ chạy vội tới nhà thím Samsura. Chị dặn với hai đứa lớn:
- Không được nghịch. Không đi chân đất ra đường!
Thím Samsura không có ở nhà. Gõ cửa hồi lâu không thấy ai trả lời, Grunhia đành bỏ về.
Dọc đường chị tự trách mình: “Mình, mình chỉ biết có cái thân mình thôi… Không thấy nỗi khổ của người khác. Cặp mắt mình thật là không biết hổ thẹn.”
Lúc này thím Samsura đang ở phòng quân vụ. Ở nhà Grunhia về, thím thấy Giamin đang ngồi bên bàn, trước mặt là tờ giấy báo.
- Cả Grunhia cũng nhận được một giấy báo như thế, con ạ - thím nói - Tội nghiệp chị ấy, thiếu Xtêphan sẽ gay đấy - Rồi thím ngồi xuống cạnh con trai, buồn rầu nói: - Hay có thể họ nhầm, con nhỉ? Làm thế nào mà mất tích được khi xung quanh có nhiều người như thê? Có phải rừng taiga đâu mà lạc được, phải không?
Giamin không biết nói gì với người mẹ đang bị nỗi buồn dầy vò. Mà biết nói gì được khi cậu mới 15 tuổi, khi nhìn vào mảnh giấy đáng sợ kia cậu chỉ thấy người anh thân yêu mình trước mặt.
Giamin nhớ có lần, một năm trước chiến tranh, anh cậu, Gida, đã mang từ Ircutxco về một bộ đồ trượt tuyết chính cống, do nhà máy sản xuất có dây quàng chân hẳn hoi, và những chiếc gậy chống bằng tre. Mẹ cậu trách Gida đã bỏ tiền mua những thứ không cần thiết. Anh cậu mỉm cười, đôi lông mày đen lánh kéo thẳng về phía mũi, nói đùa:
- Thì con vào bộ đội, để còn có cái mà nhớ tới con nữa chứ!
Các bà láng giềng vẫn nói là Gida đẹp trai nhất nhà “Con giống bố mà” - mẹ cậu phụ thêm.
Gida thích ngủ với em trai trên lò sưởi và lần nào cũng kể cho cậu nghe chuyện cổ tích rùng rợn. Nếu Giamin nói là không sợ thì anh cậu bảo:
- Thì em cứ nhắm mắt, nhắm mắt thật chặt vào rồi tưởng tượng..
Bây giờ Giamin mới nhận thấy là cậu yêu Gida ơn cả. Thế mà nay Gida không còn nữa, anh cậu đã mất tích.
Thím Samsura quyết định đi tới phòng quân vụ “Họ đã lấy con mình ra mặt trận, thì họ phải biết nó ở đâu” Thím nghĩ thế.
- Cái gì cũng có thể xẩy ra được, mẹ ạ - ủy viên quân vụ nói với thím như vậy - Có thể anh ấy bị bao vây…
- Bị bao vây thế nào được? Chẳng phải quân ta đang bao vây bọn Đức ở Xtalingrat đấy ư?
- Và cũng có thể người ta không nhìn thấy anh ấy bị… Không ai ở cạnh đấy… Không ai nhìn thấy mà…
- Tại sao lại không nhìn thấy? Cùng ở với nó còn có bạn bè, đồng chí. Nó to khỏe, lại đẹp trai! Anh cũng biết nó đấy! Một người như thế không thể không nhìn thấy được… - Thím Samsura bướng bỉnh đáp lại.
Và thím đã đi đến kết luận là các thủ trưởng quân sự đã gửi nhầm cho thím tờ giấy kia. Người không phải đồ vật, không thể mất được, thím hoàn toàn tin như thế.
Ở rừng taiga về, sau một tuần, Côlia và Giamin mới vào nhà tắm hơi được. Thím Samsura và Grunhia bàn trước với nhau cùng đốt chung nhà tắm của Grunhia. Lúc đầu Grunhia không chịu:
- Nhưng củi là củi của bác..
- Không sao. Thằng Giamin và Côlia sẽ đi lấy củi về nữa..
Ở Xibêri, ngày tắm hơi là ngày hội. Có khách đến, việc đầu tiên là mời khách vào nhà tắm hơi.
Chỉ ở phòng tắm, ngào ngạt mùi lá bạch dương, người ta mới hỏi khách đi đường thế nào, gia đình và công việc ra sao… Họ nói chuyện một cách chậm rãi, uể oải, người đỏ bừng vì nóng, cái nóng tưởng như sưởi ấm cả xương cốt.
Ở phía dưới phòng tắm, một cậu bé đang ngồi trên một chiếc ghế dài, cố đoán trước ý muốn của những người đang tắm. Những người này thỉnh thoảng lại kêu lên:
- Nào, đổ cho đầy chậu vào!
- Cho tí nữa, góc phải đằng kia kìa!
Cậu ta làm việc hăng hái như chữa cháy, và chờ khi nào từ bên trên người ta nói vọng xuống:
- Giỏi lắm, cậu giỏi lắm! Hơi nước cứ như là có tay con gái kỳ cho ấy!
Ai tắm xong cũng trở nên tốt bụng, hiền lành, vì thế mà chẳng tiếc lời khen ngợi. Còn cậu bé thì không hiểu điều này, cứ nghĩ là quả thực mình làm việc rất giỏi.
Một lúc sau tất cả im lặng. Chỉ còn nghe tiếng nước rỏ từ trần xuống và tiếng thở nặng nề của những người đàn ông trong phòng tắm. Trên ô cửa sổ nhỏ, một cây nến đang cháy. Không ai thấy cây nến, chỉ thấy ngọn lửa nhỏ lơ lửng trong không khí.
- Nào, leo lên đây! - cuối cùng có tiếng gọi từ phía trên.
Cậu bé sung sướng theo các bậc thang leo lên gác, rồi cầm bó lá đập lấy đập để vào người mình.
- Đi đâu mà vội? Đập thế ích gì? - người lớn bảo cậu - Chậm thôi, và đập phải đúng cách. Sưởi nóng gót chân, vặn các khớp xương đã..
Nóng quá, cậu bé nhúng chùm lá vào nước lạnh rồi đổ lên đầu.
- Ấy, ấy, không được! Ai làm thế bao giờ? - người lớn tức giận - Gắng chịu một tý, sau quen đi…
Cậu bé xấu hổ leo xuống. Phía trên đã có tiếng người gọi giật:
- Nào, cho thêm nước nữa!
- Phía trái ấy! Đã bảo phía trái mà!
Ở Xibêri, tắm hơi là thứ thuốc chữa bách bệnh. Mà đốt lò tắm hơi cũng cần biết cách, và phải yêu thích nữa mới được. Tốt nhất là đốt bằng củi bạch dương khô, nhiều nhiệt, không mùi, hơn nữa lại có tro để các bà nội trợ giặt quần áo, tiết kiệm xà phòng. Thậm chí có người còn đem gội đầu nữa.
Có những người thích ủ hơi trong nhà tắm bằng những cành thông. Họ nói là nếu ủ bằng những cành thông thì tinh thần thấy sảng khoái hơn và chữa được nhiều bệnh.
Đi làm về, Giamin và Côlia vào nhà tắm. Để ra mồ hôi nhiều hơn, các cậu quyết định tắm xong mới ăn tối. Sắp tắm, Giamin bỗng nhớ tới Gôga.
- Để mình chạy đi gọi cậu ấy nhé? - Cậu hỏi
Côlia biết cậu ấy là ai.
- Đi đi! Có điều đừng để mẹ mình trông thấy: bà còn đang giận cả nhà cậu ấy đấy.
Một chốc sau, Giamin trở lại, mồ hôi nhễ nhại, vội vàng cởi quần áo ở phòng trước, nói rất nhanh.
- Bà cậu ấy không cho đi. Nhưng cậu ấy bảo thế nào cũng đến.
Hai cậu co ro đi vào nhà tắm. Yên lặng như một ngày hè oi ả. Chỉ có thiếu mặt trời. Mùi lá cây xông lên nồng nặc. Sàn nền được lau sạch đến ngả màu vàng, ấm, cọ vào chân dễ chịu.
Giamin dọn ba bó lá rũ tung khỏi đống đá được nung nóng rồi đổ ba chậu nước lên đó. Đống đá sủi bọt bốc hơi trắng xóa đặc sệt như kem sữa. Tất cả đều chìm trong đám mù trắng.
- Chà, có thêm ít nước cờ vạt nữa mà đổ thì tuyệt! - Côlia nói.
- Ừ, miệng của cậu kể cũng sành chén thật..
Hơi nóng chạy khắp người. Lúc đầu kể cũng ngốt. Tuy nóng đến nghẹt thở, da cậu nào cũng đầy những gai ốc… Dần dần dễ thở hơn và mồ hôi bắt đầu ra.
Các cậu sưởi ấm cho đến khi hơi nước tan, buồng tắm sáng dần, rồi lại đổ lên đá ba chậu nước nữa. Hơi nước đổ lên cuộn xèo xèo, như bám chặt vai các cậu. Các chổi lá lại thi nhau đập lia lịa. Thậm chí ngoài phố cũng nghe rõ tiếng các cậu đang làm ầm ĩ. Ngoài cây nến đang cháy, người ta có thể nghĩ là ma quỷ đang bày trò chơi trong đó.
Khi Gôga đến thì hai cậu đã nằm trên phản, mệt không buồn nói chuyện với nhau nữa, đầu gối lên những bó lá bốc mùi thơm phức.
- Lại đây! - hai cậu đồng thanh gọi.
- Ừ, dội nước à?
- Dội đi!
Gôga dội từng tí một. Nước sôi réo và nhảy nhót trên những mặt đá phẳng. Người ta chỉ dội thế khi muốn hơi lâu tan, không khí được giữ nóng đều và không có mù trắng.
Bỗng Côlia kêu lên:
- Cậu dội gì thế này?
- Thế nào, không thích à? - Gôga hỏi lại và leo lên gác.
- Mùi bánh mì! Cậu có thấy thế không, Giamin?
- Có…
- Mình lấy trộm của bà mình một cốc nước bánh mì. Chống cảm lạnh tốt lắm.
Các cậu thi nhau lấy chổi lá đập vào người nhau, hai lần ra lăn ngoài tuyết rồi lại chạy vào tắm hơi nóng. Các chổi lá chỉ còn trơ cành không. Có tiếng thím Samsura gọi từ dưới lên:
- Thế nào, chúng mày định tắm đến sáng mai đấy à? Còn để phần cô Grunhia và lũ trẻ nữa chứ?