- Một chiếc nhẫn ư? - Susan hoài nghi.
- Tankado bị mất một chiếc nhẫn?
Đúng thế. May mà David đã tìm thấy. Màn kịch đã kết thúc.
- Nhưng ông đang tìm chìa khoá giải mã chứ có tìm đồ trang sức đâu.
- Tôi biết, nhưng cũng thế cả thôi mà.
Susan lúng túng.
Đó là một câu chuyện dài.
Susan đưa tay chỉ màn hình vi tính và nói:
- Vẫn chưa đâu vào đâu cả!
Strathmore thở dài, đi tới đi lui.
- Như chúng ta biết một số người đã chứng kiến cái chết của Tankado. Theo lời viên trung uý phụ trách nhà xác, sáng nay một du khách người Canada đã hốt hoảng gọi cảnh sát và báo rằng một người Nhật Bản đang bị cơn đau tim hành hạ trong công viên. Khi viên trung uý ấy đến thì Tankado đã chết, vị du khách Canada vẫn còn ở đó, anh ta đã gọi các nhân viên y tế. Trong khi các nhân viên y tế đưa xác Tankado đi anh ta đã cố gắng yêu cầu vị du khách tường thuật lại toàn bộ sự việc. Điều duy nhất ông già Canada đó có thể làm là bập bẹ nói về một chiếc nhẫn mà Tankado đã đem cho trước khi chết.
Susan đưa mắt nhìn một cách đầy nghi ngờ.
- Tankado đã đem cho chiếc nhẫn?
- Đúng thế. Rõ ràng là khi anh ta dúi nó vào tay gã này, anh ta đã năn nỉ hắn cầm lấy. Có vẻ như người Canada này đã kịp quan sát chiếc nhẫn - Strathmore đột nhiên dừng lại, quay đầu về Susan - Ông ta nói rằng trên chiếc nhẫn có khắc một kiểu chữ nào đó.
- Chữ ư?
- Đúng thế, và còn cho biết đó không phải là tiếng Anh. - Strathmore nhướng mày chờ phản ứng của Susan.
- Hay là tiếng Nhật?
Strathmore lắc đầu:
- Lúc đầu tôi cũng nghĩ thế. Nhưng ông ta nói rằng không thể đánh vần được những chữ cái đó. Ông ta không thể nhầm chữ Nhật với các con chữ Latinh. Ông ta còn thấy những hình chạm khắc đó giống mèo cào cơ…
Susan cười phá lên.
- Thưa sếp, ngài không thực sự cho rằng…
Strathmore ngắt lời cô:
- Susan, mọi chuyện đã rõ như ban ngày.
Tankado đã khắc chìa khoá Pháo Đài Số lên chiếc nhẫn. Vàng là thứ kim loại tốt. Bất kể khi ngủ, tắm hay ăn, thì chiếc chìa khoá giải mã luôn ở bên anh ta, sẵn sàng cho giây phút đem ra công bố.
Susan dường như vẫn còn hoài nghi.
- Trên ngón tay? Lộ liễu như thế kia à?
- Tại sao không? Tây Ban Nha không phải là thế giới của các chuyên gia giải mã. Không một ai biết những chữ đó hàm ẩn điều gì. Hơn thế nữa, nếu chiếc chìa khoá đó là một bit 64 chữ cái thì thậm chí giữa ban ngày cũng chẳng ai nhớ được tất cả sáu mươi tư kí tự như thế.
- Và Tankado đã đưa chiếc nhẫn đó cho một người hoàn toàn xa lạ trước khi chết - Susan thắc mắc - Tại sao chứ?
Strathmore nheo mắt:
- Theo cô thì tại sao nào?
Chỉ một tích tắc Susan đã hiểu ra vấn đề. Mắt cô mở to.
Strathmore gật đầu.
- Tankado cố gắng vứt nó đi. Anh ta biết mình sắp chết và có thể cho rằng chúng ta có trách nhiệm trong việc này. Thời điểm của cái chết giống như trời định. Anh ta có thể cho rằng chúng ta đã truy tìm anh ta, một người đang bị rối loạn tim chỉ chờ ngày chết, để đầu độc hay làm gì đó tương tự. Điều duy nhất anh ta biết chắc chắn là nếu tìm được North Dakota, chúng ta sẽ thủ tiêu anh ta.
Susan cảm thấy ớn lạnh.
- Đương nhiên - cô thì thầm.
- Tankado nghĩ rằng biện pháp tự vệ của anh ta đã bị chúng ta vô hiệu hoá, thì đương nhiên là anh ta sẽ bị tiêu diệt.
Bây giờ Susan đã rõ tất cả. Thời điểm xảy ra bệnh đau tim có vẻ có lợi cho NSA đến nỗi Tankado cho rằng NSA dính líu trong vụ này. Mục đích cuối cùng của anh ta là trả thù. Ensei đã đem cho chiếc nhẫn để công bố chìa khoá giải mã. Và hiện giờ một du khách Canada lại đang nắm giữ trong tay thuật toán giải mã vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại.
Susan hít một hơi thở dài và hỏi tiếp.
- Vậy bây giờ du khách Canada đó ở đâu?
Strathmore nhăn mặt.
- Vấn đề chính là ở chỗ đó.
- Viên trung uý không biết ông ta ở chỗ nào à?
- Không. Lời khai của du khách đó khó tin đến mức anh ta cho rằng đó là đo ông ta bị sốc hoặc là do tuổi già. Vì vậy anh ta đã lấy xe máy chở ông ta về khách sạn. Nhưng ông già đó không biết ngồi sau xe máy, kết quả là chưa đi đầy 1 mét, ông ta đã bị ngã vỡ đầu và gẫy tay.
- Cái gì cơ! - Susan cảm thấy ngạt thở.
- Viên trung uý muốn đưa ông ta đến bệnh viện, nhưng ông ta đã rất tức giận - nói rằng phải quay về Canada và nhất định không leo lên xe máy lần nào nữa. Vì vậy tất cả những gì mà viên cảnh sát có thể làm là dìu ông ta đến một trạm xá gần đó và để cấp cứu ông ta ở đó.
Susan cau mày.
- Tôi cho rằng chúng ta không cần hỏi David đang đi đến đâu.
Chương 17
David Becker bước vào toà nhà Plaza de Espana nóng như thiêu như đốt. Đằng sau anh là toà thị chính thành phố cố kính El Ayuntamiento với những vòm mái màu xanh dương và trắng ẩn sau những rặng cây, toạ lạc trên vùng đất rộng ba héc ta. Những chóp mái kiểu Ảrập và mặt tiền được chạm trố tinh vi khiến cho toà nhà trông giống như một lâu đài hơn là một văn phòng làm việc.
Mặc dù ở đây đã xảy ra những vụ bạo động, hoả hoạn, treo cố tự vẫn, nhưng khách du lịch vẫn đến vùng đất này vì những cuốn hướng dẫn du lịch luôn so sánh nó với một trung tâm quân sự trong phim Lawrence xứ Ảrập. (Hãng phim Columbia Pictures làm phim tại Tây Ban Nha vì chi phí rẻ hơn nhiều lần so với ở Ai Cập. Và những ảnh hưởng của phong cách Bắc Phi trong lối kiến trúc ở Seville cũng đủ sức thuyết phục mọi khán giả xem phim là họ đang chiêm ngưỡng Cairo.)
Becker chỉnh đồng hồ theo thời gian địa phương: 9:10 tối, giờ này vẫn được dân địa phương coi là buổi chiều. Một người Tây Ban Nha chính gốc không bao giờ dùng bữa tối trước khi mặt trời lặn, mà ông mặt trời lười nhác ở vùng Andalusia thì chỉ khuất núi sau mười giờ tối.
Mặc cho không khí nóng bức của buổi chiều tà, Becker vẫn rảo bước nhanh qua công viên. Sáng ngày hôm đó, mệnh lệnh của ngài Strathmore trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Yêu cầu của ông ta rất rõ ràng: tìm tay người Canada, lấy chiếc nhẫn. Làm bất cứ điều gì, chỉ cần lấy được chiếc nhẫn.
Becker tự hỏi có gì quan trọng ở chiếc nhẫn có khắc chữ đó chứ. Nhưng Becker không hỏi. NSA, anh tự nghĩ, nghĩa là không được hỏi gì hết.
Ở phía bên kia của toà nhà Avenida Isabela Catolica, phòng khám chữa bệnh hiện rõ trong ánh hoàng hôn. Trên nóc nhà phấp phới lá cờ chữ thập đỏ trong hình tròn trắng. Nhân viên cảnh sát Guardia đã đưa tay người Canada đến đây vài tiếng trước, cổ tay bị gẫy, đầu bị vỡ. Không còn nghi ngờ gì nữa, nạn nhân đã được sơ cứu và đưa vào đây. Becker hy vọng bệnh viện sẽ cung cấp thông tin về một khách sạn địa phương hay một số điện thoại nào đó nơi tìm thấy người đàn ông này. Với chút xíu may mắn, Becker nghĩ mình có thể tìm thấy tay người Canada, lấy chiếc nhẫn và trở về nhà mà không chút rắc rối nào cả.
Ngài Strathmore nói với Becker: "Dùng mười nghìn đô tiền mặt để mua chiếc nhẫn đó, nếu cần thiết. Tôi sẽ hoàn trả lại anh sau".
"Điều đó không cần thiết" Becker nói. Anh định sẽ trả lại tiền. Anh đến Tây Ban Nha không phải vì tiền, mà là vì Susan. Ngài Trevor Strathmore là người thầy, người giám hộ của Susan. Susan nợ ông ta rất nhiều, những gì Becker có thể làm chỉ là một chuyến đi kéo dài một ngày.
Thật không may, mọi thứ vào sáng nay đã không hoàn toàn như kế hoạch của Becker. Anh hy vọng sẽ gọi cho Susan từ máy bay và giải thích mọi thứ. Becker đã cố gọi cho Susan ba lần. Trước tiên từ bốt điện thoại nhỏ gần ngay trạm điện thoại của sân bay nhưng nó đã bị hỏng. Một lần từ nhà xác. Nhưng Susan không nhấc máy.
David băn khoăn không biết cô đã đi đâu. Anh chỉ nghe thấy tiếng máy trả lời tự động, nhưng anh không để lại lời nhắn gì cả. Những gì anh muốn nói không thể như tin nhắn cho chiếc máy trả lời tự động được.
Khi ra đến đường, anh đến trạm điện thoại gần lối vào công viên. Anh bước vào, vồ lấy ống nghe, cắm thẻ điện thoại vào gọi.
Một khoảng khá lâu đợi máy kết nối. David nghe thấy tiếng chuông đổ.
Thôi nào, nhấc máy đi..
Sau năm hồi chuông đổ
- Xin chào! Đây là số điện thoại của Susan Fletcher. Xin lỗi tôi không có nhà, nếu bạn để lại tên…
Becker nghe tin nhắn và tự hỏi, cô ấy đi đâu nhỉ? Lúc này nhất định Susan đang rất lo lắng. Liệu cô ấy đến Stone Manor mà không có anh không? Sau đó có một tiếng bíp.
- Chào em, David đây! - Anh dừng lại, không biết phải nói gì.
Điều anh ghét nhất ở máy trả lời tự động là nếu dừng lại để nghĩ thì nó sẽ cắt cuộc gọi ngay.
- Xin lỗi vì anh đã không gọi cho em.
Anh thốt ra vừa kịp lúc. Không biết có nên nói cho cô ấy biết chuyện gì đang xảy ra hay không? Nhưng anh nghĩ tốt hơn hết là gọi cho ngài Strathmore. Ông ấy sẽ giải thích cho Susan. Tự nhiên trái tim anh thót lên, "Thật là ngu xuẩn" "Anh yêu em" David nói nhanh và cúp máy.
Becker đợi xe đến Avenida Borbolla. Anh nghĩ chắc Susan sẽ nghĩ đến điều tồi tệ nhất. Cung cách này không giống anh chút nào. Không gọi điện như đã hứa.
Becker bước trên đại lộ bốn làn đường và tự nhủ "Tiếp tục hay thoái lui?". Anh chợt thấy lo lắng khi thấy một người đàn ông đeo kính gọng kim loại đang quan sát suốt dọc đường phố.
Đứng sau tấm cửa sổ kính rộng rãi của một căn phòng tại cao ốc của mình ở Tokyo, Numataka rít một hơi xì gà và mỉm cười. Ông ta không thể tin nối mình lại may mắn đến thế. Ông ta đã nói chuyện với tên người Mỹ, nếu mọi chuyện theo đúng kế hoạch Ensei Tankado đã bị trừ khử, và ông ta sẽ có bản sao mật khẩu.
Thật nực cười, Numataka tự nghĩ, là mình lại có được mật khẩu của Ensei Tankado. Tokugen Numataka gặp Tankado nhiều năm về trước. Một lập trình viên trẻ tuổi mới ra trường đã đến tìm việc tại công ty Numatech Corp. Numataka đã từ chối người đó. Không có gì nghi ngờ là Tankado rất thông minh, nhưng vào thởi gian đó, có nhiều sự lựa chọn khác nữa. Mặc dù nước Nhật đang phát triển, nhưng Numataka lại được đào tạo trong một ngôi trường kiểu cũ, ông ta sống theo luật menboko - trọng danh dự và thể diện. Ông ta không thể chấp nhận bất cứ điều gì không hoàn hảo. Nếu ông ta thuê một kẻ tàn tật, điều này là không thể chấp nhận được ở công ty của ông ta. Cho nên ông ta vứt ngay sơ yếu lý lịch của Tankado mà không thèm xem qua.
Numataka kiểm tra đồng hồ một lần nữa. Đáng ra tên người Mỹ, North Dakota, đã phải gọi cho ông ta rồi. Numataka cảm thấy hơi bồn chồn. Hy vọng không có điều gì xấu xảy ra.
Nếu mật khẩu hoạt động như lời đảm bảo thì họ có thể bẻ khoá một chương trình đang được săn lùng nhất hiện nay trong kỷ nguyên máy tính, một chương trình mã hoá không thể giải mã được. Numataka có thể giữ chương trình mã hoá này trong con chíp đóng dấu VSLI chống giả mạo và rao bán rộng rãi cho cho các nhà sản xuất máy tính, chính phủ các nước, các ngành công nghiệp, và có lẽ cả thị trường đen… thị trường của bọn khủng bố.
Numataka mỉm cười. Như thường lệ, ông ta lại được hưởng sự may mắn do thần Shichigosan ban tặng. Công ty Numatech Corp sẽ kiểm soát bản sao duy nhất của Pháo Đài Số. Hai mươi triệu đô la là một khoản tiền lớn, nhưng nếu đem so với chương trình mã hoá này thì đó quả là vụ trộm béo bở nhất trong thế kỷ.
Chương 19
- Nếu như cũng có ai đó đang tìm kiếm chiếc nhẫn thì sao? - Susan tự hỏi và bỗng nhiên cảm thấy lo lắng. - Có thể David đang gặp nguy hiểm.
Ngài Strathmore lắc đầu:
- Không ai biết rằng chiếc nhẫn đó tồn tại. Vì thế mà tôi đã cử David đi. Tôi muốn làm như vậy. Những kẻ quan tâm sẽ chẳng buồn theo đuôi một thầy giáo đâu.
- Anh ấy là một giáo sư - Susan chữa lại, nhưng lại cảm thấy hối tiếc Giáo sư David cũng chẳng là gì đối với ngài chỉ huy, và ông ta nghĩ dù sao thì cô cũng làm tốt hơn một thầy giáo - Thưa sếp! - Susan nói - nhỡ có ai biết được là sáng nay ngài chỉ dẫn cho David bằng điện thoại trên ô tô thì sao?
- Cơ hội ngàn năm có một. - Ngài Strathmore cắt ngang lởi cô, giọng ông làm cô yên lòng - Bất cứ kẻ nghe trộm nào trong những tình huống cụ thể sẽ phải biết mình sẽ phải lắng nghe cái gì - Ông đặt bàn tay của mình lên vai cô và nói - Tôi không bao giờ cử David đi nếu có nguy hiểm - Ông cười với cô. - Hãy tin tôi. Nếu có bất cứ dấu hiệu nguy hiểm nào, tôi sẽ cử một chuyên gia đi hỗ trợ.
Những lời nói của ông bị ngắt quãng do tiếng ai đó đập mạnh vào Node 3. Susan và Strathmore cùng quay lại.
Nhân viên Phil Chartrukian đang in mặt mình trên tấm kính đối diện và đang đụng rất mạnh vào tấm cửa, khuôn mặt căng thẳng và anh ta đang cố nói qua cửa kính. Nhưng họ không thể nghe thấy anh ta đang cố nói gì qua tấm cửa kính cách âm. Trông anh ta kinh hoàng như vừa nhìn thấy ma.
- Chartrukian đang làm cái quái gì ở đây vậy nhỉ? - Strathmore lẩm bẩm - Anh ta có phải trực hôm nay đâu cơ chứ?
- Hình như anh ta có van để rồi - Susan nói.
- Có thế anh ta đã nhìn thấy màn hình vi tính đang chạy bên kia.
- Quái quỷ thật! - Strathmore rít lên - Tôi đã nói những nhân viên an ninh hệ thống phải trực không được đến đây cơ mà.
Susan không hề thấy ngạc nhiên. Hoãn lịch làm việc của nhân viên là điều bất thường, nhưng ngài Strathmore muốn được ở một mình trong toà nhà này. Điều ông lo sợ là những nhân viên này sẽ hoảng sợ và tiết lộ thông tin về Pháo Đài Số.
- Tốt hơn hết là chúng ta nên dừng TRANSLTR - Susan nói.
- Chúng ta chỉnh lại màn hình chạy và nói cho Phil biết cái gì đang xảy ra.
Strathmore xem xét điều Susan nói, nhưng ông lắc đầu.
- Không được máy TRANSLTR đã chạy được 15 tiếng rồi. Tôi muốn nó chạy giải mã trong 24 tiếng, để đảm bảo thật chắc chắn.
Điều này tác động đến Susan. Pháo Đài Số lần đầu tiên sử dụng chức năng giải mã văn bản gốc tuần hoàn. Biết đâu Tankado bỏ qua điều gì đó, có thể máy TRANSLTR sẽ bẻ khoá được trong vòng 24 tiếng. Tuy nhiên Susan vẫn nghi ngờ khả năng đó.
- TRANSLTR vẫn đang chạy - Strathmore quyết định - Tôi cần biết chắc chắn rằng mật mã đó là không thể giải mã được.
Chartrukian vẫn tiếp tục dộng vào cánh cửa.
- Thật chả ra làm sao cả - Strathmore rên rỉ - Giúp tôi nhé.
Ngài chỉ huy hít một hơi thật sâu, sau đó vươn tay ấn nút. Đĩa áp suất trên cánh cửa hoạt động va đẩy cánh cửa mở ra.
Chartrukian lập tức bị ngã ngay xuống phòng.
- Thưa ngài,… Tôi xin lỗi vì làm phiền, nhưng màn hình chạy… Tôi đã cho chạy phần mềm chống virus và…
- Phil, Phil, Phil…- Strathmore đặt tay lên vai anh ta và nói từ tốn - Bình tĩnh, có chuyện gì vậy?
Nghe giọng nói bĩnh tĩnh ấy, không ai có thể nghĩ là thế giới như đang sụp đổ quanh ông. Ông đứng sang một bên và đưa Chartrukian đến bên cửa kính Node 3. Chàng nhân viên miễn cưỡng bước tới, giống như một con chó đã được rèn luyện kỹ và biết điều gì là tốt hơn cho mình.
Cái nhìn kinh ngạc trên khuôn mặt của Chartrukian cho thấy rõ ràng anh ta chưa bao giờ thấy cái gì bên trong căn phòng đó cả.
Dường như nỗi sợ hãi của anh biến mất trong giấy lát. Anh quan sát bên trong căn phòng, đường dẫn riêng, những chiếc đi văng, giá sách, đèn chiếu sáng. Khi ánh mắt bắt gặp nữ hoàng của Crypto, Susan Fletcher, anh vội nhìn sang chỗ khác. Susan như đang đe doạ anh. Cô làm việc theo một cách khác. Trước vẻ đẹp của cô, những lời nói của anh trở nên vụng về lắp bắp. Bầu không khí quanh cô càng khiến anh cảm thấy choáng ngợp.
- Có vấn đề gì vậy, Phil? - Strathmore hỏi rồi mở tủ lạnh - Uống chút gì nhé!
- Không, à - không, thưa ngài - Anh cảm thấy lưỡi mình như cứng lại, không biết ngài chỉ huy có hoan ngênh sự xuất hiện của mình không - Thưa ngài,… Tôi nghĩ máy TRANSLTR có vấn đề.
Strathmore đóng tủ lạnh và nhìn Chartrukian không mảy may ngạc nhiên.
- Ý của anh là màn hình chạy…?
- Vâng, thưa ngài. Nó đã chạy được 16 tiếng rồi. Tôi chắc không nhìn lầm, thưa ngài - Chartrukian rất ngạc nhiên - Vâng, thưa ngài, 16 tiếng. Nhưng không chỉ có vậy. Tôi đã cho chạy phần mềm chống virus. Nhưng có một điều hết sức kỳ lạ đang diễn ra.
- Thế sao - Strathmore không có vẻ quan tâm - Điều kỳ lạ gì vậy?
Susan nhìn ông và thực sự ngưỡng mộ vẻ bình tĩnh của ngài chỉ huy.
Chartrukian bắt đầu run.
- TRANSLTR đang giải mã cái gì đó rất siêu việt mà bộ lọc chưa bao giờ gặp phải. Tôi e rằng máy TRANSLTR bị nhiễm một loại virus gì đó.
- Virus - Strathmore cười thầm và hơi cúi xuống - Phil, tôi đánh giá cao sự quan tâm của anh. Thật đấy. Nhưng cô Fletcher và tôi đang thử một phương pháp mới, một phần mềm hết sức ưu việt. Đáng ra tôi phải nói cho anh biết điều đó, nhưng hôm nay có phải phiên trực của anh đâu.
Chàng nhân viên đã chống đỡ hết sức tài tình.
- Tôi đổi ca làm với một đồng nghiệp mới. Tôi làm ca cuối tuần của anh ấy.
Strathmore nheo mắt lại.
- Thật vô ý, tôi đã nói với anh ta tối qua rồi mà. Anh ta không cần phải đến ngày hôm nay. Và anh ta cũng không nói gì về chuyện đổi ca làm cả.
Chartrukian cảm thấy cổ họng anh như tắc lại. Một bầu không khí căng thẳng bao trùm.
Cuối cùng Strathmore thở dài và nói.
- Có vẻ như có chuyện nhầm lẫn ở đây - Ông đặt tay lên vai chàng trai trẻ và đẩy anh về phía cửa - Nhưng một tin tốt là anh không phải ở đây nữa. Cô Fletcher và tôi sẽ ở đây cả ngày. Chúng tôi sẽ trực chiến ở đây. Và anh hãy tận hưởng ngày nghỉ cuối tuần của mình đi.
Chartrukian cảm thấy miễn cưỡng.
- Thưa sếp, tôi nghĩ là chúng ta nên kiểm tra….
- Phil! - Strathmore nhắc lại vẻ nghiêm nghị - TRANSLTR vẫn hoạt động tốt. Nếu phần mềm của anh thấy có gì lạ, là do chúng tôi đã cài vào trong đó. Bây giờ thì đừng bận tâm nữa…
Strathmore bước lại, và Chartrukian hiểu rằng đã hết thời gian dành cho anh.
- Một phương pháp mới, quái quỷ! - Chartrukian lẩm bẩm khi bước vào phòng An ninh hệ thống - Loại phương pháp nào mà làm cho bộ xử lý trị giá ba triệu đô la hoạt động suốt 16 tiếng đồng hồ.
Chartrukian băn khoăn không biết có nên báo cho lãnh đạo phòng An ninh hệ thống hay không.
- Những kẻ viết mật mã chết tiệt! - Anh nghĩ - Họ chẳng hiểu an ninh là cái quái gì cả.
Lời thề của Chartrukian khi anh gia nhập lực lượng An ninh hệ thống đã trỗi dậy trong anh. Anh đã thề dùng hết kiến thức chuyên môn, kỹ năng và bản năng tự nhiên của mình để bảo vệ khoản đầu tư trị giá nhiều tỷ đô la cho trung tâm NSA.
"Phải vận dụng giác quan!" - Chartrukian bướng bỉnh nghĩ. Ta không cần quan tâm xem chương trình quái nào đang được vận hành!
Chartrukian quay lại phòng chỉ huy và bật toàn bộ hệ thống phần mềm xử lý của TRANSLTR.
- Thưa sếp. hệ thống của chúng ta có vấn đề - Anh lầm bầm - Ngài không tin vào bản năng sao? Tôi sẽ chỉ cho ngài thấy!
La clinica de salud Publia giống như một trường tiểu học hơn là một bệnh viện. Đó là một ngôi nhà một tầng dài lợp ngói, với những ô cửa sổ to và một chiếc xích đu phủ đầy bụi ở đằng sau.
Becker bước lên bậc tam cấp.
Phía trong toà nhà rất tối và ồn ào. Phòng đợi có dãy ghễ gấp bằng kim loại chạy dọc theo hành lang. Một biển chỉ dẫn trên giá ghi OFICINA với một mũi tên chỉ xuống phía hội trường.
Becker đi bộ dọc theo hành lang tối mờ mờ trông như một cảnh rùng rợn trên bộ phim của Hollywood. Không khí bốc mùi khó chịu như mùi nhà vệ sinh. Ánh sang yếu ớt hắt lại từ phía đằng xa cho thấy trong khoảng cách 15 đến 20 mét nữa chẳng có gì ngoài những cái bóng câm lặng. Một phụ nữ đang bị chảy máu… một cặp đang khóc… một bé gái đang cầu nguyện… Becker bước đến cuối căn phòng. Cánh cửa phía tay trái anh hơi hé mở, anh đẩy cửa bước vào. Căn phòng trống trơn, duy chỉ có một bà già tiều tuỵ trần truồng trên chiếc bô vệ sinh dành cho bệnh nhân.
Thật tuyệt nhỉ! - Becker rít lên. Anh đóng cửa lại - Văn phòng ở nơi quỷ tha ma bắt nào đây?
Xung quanh góc tối nhỏ trong phòng, anh nghe thấy có tiếng nói. Anh đi theo âm thanh đó và đến bên một cánh cửa kính mờ, hình như có tiếng cãi nhau phía bên trong. Becker miễn cưỡng đẩy cánh cửa bước vào. Chính là văn phòng. Cực kỳ hỗn độn. Đúng những gì anh tưởng tượng.
Có khoảng mười người đang xô đẩy, quát tháo nhau. Người Tây Ban Nha không được nổi tiếng về hiệu quả làm việc cho lắm, nhưng Becker sẵn sàng đợi ở đây cả đêm để lấy thông tin về người Canada kia. Duy nhất chỉ có một nữ thư ký phía sau bàn đang làm việc. Cô ta đang cố sức đối phó với những bệnh nhân hết sức cáu kỉnh. Becker đứng ở phía cửa một lúc và nảy ra một ý. Có cách hay hơn.
- Tôi chịu hết nổi rồi! - một ông già hét lên. Đám đông dãn ra khi ông ta lao ra khỏi phòng.
Becker vội chạy theo ông ta và hỏi:
- Ở đây có điện thoại không ạ?
Ông già chỉ tay về phía vào cánh cửa đôi mà không thèm quay lại nhìn và biến mất sau một góc quanh. Becker bước đến và đẩy cửa bước vào.
Căn phòng trước mặt anh thật rộng lớn - một phòng tập thể dục cũ Sàn nhà màu xanh nhạt loang lổ dưới ánh sáng huỳnh quang yếu ớt. Một cái lưới tròn để chơi bóng rổ được gắn trên tường. La liệt khắp phòng là những chiếc giường bệnh cũ kỹ. Ở góc xa của căn phòng, ngay dưới bảng ghi tỷ số, có một máy điện thoại trả tiền xu đã cũ. Becker hy vọng nó còn hoạt động được.
Vừa đi ngang qua sàn nhà, anh vừa lần tìm tiền xu trong túi áo Chỉ còn thấy 75 pesetas loại đồng xu cinco-duros, tiền thừa khi đi taxi, thế cũng đủ cho hai cuộc điện thoại nội hạt. Anh mỉm cười lịch sự với cô y tá ở đó và bước đến chỗ máy điện thoại. Chụp lấy ống nghe, Becker quay số trợ giúp danh bạ. Ba mươi giây sau anh đã có số điện thoại văn phòng chính của bệnh viện.
Ở đâu cũng vậy, các nhân viên văn phòng luôn có một thói quen. Đó là cứ chuông reo thì phải trả lời điện thoại. Dù cho có bao nhiêu khách hàng đang chờ đợi đi chăng nữa thì người thư ký vẫn cứ dừng công việc lại và nhấc máy trả lời.
Becker bấm sáu con số. Ngay lúc đó anh đã nối máy với văn phòng bệnh viện. Không nghi ngờ gì nữa, chỉ có duy nhất một người Canada bị gẫy cố tay và chấn thương não nhập viện ngày hôm nay, cho nên thông tin về người này rất dễ tìm thấy. Becker biết rằng văn phòng không muốn cung cấp tên và địa điểm của nạn nhân cho người lạ, nhưng anh đã có cách.
Chuông điện thoại bắt đầu đổ. Becker đoán chỉ reo khoảng năm chuông, nhưng chuông reo những 19 lần.
- Đây là trạm y tế công cộng - cô thư ký cáu giận nói.
Becker nói bằng giọng người Mỹ gốc Pháp nặng.
- Tôi là David Becker. Tôi ở đại sứ quán Canada. Một công dân của chúng tôi đã được cứu chữa trong bệnh viện ngày hôm nay. Tôi muốn biết thông tin về anh ta để đại sứ quán có thể trả chi phí.
- Được thôi! - Cô thư ký trả lời - Tôi sẽ gửi đến đại sứ quán vào thứ hai.
- Thựrc ra - Becker nhấn mạnh - Điều này rất quan trọng, tôi muốn có ngay lập tức.
- Không thể được! - cô thư ký ngắt lời. - Chúng tôi đang rất bận.
Becker càng tỏ vẻ trịnh trọng.
- Đây là một vấn đề rất cấp bách. Một người đàn ông bị gãy cổ tay và chấn thương đầu. Anh ta được cứu chữa sáng nay. Vậy thông tin của anh ta phải ở ngay phía trên cùng.
Becker nói giọng Tây Ban Nha, đủ rõ để đạt được yêu cầu của mình, nhưng cũng đủ gây bực tức. "Bị chọc tức, cô thư ký sẽ bỏ qua quy định để cung cấp thông tin cho xong chuyện", anh nghĩ.
Nhưng không, cô thư ký chửi thề tên Bắc Mỹ tự cao tự đại và ném phịch ống nghe xuống.
Becker nhăn mặt và bỏ ống nghe xuống bước ra ngoài. Viễn cảnh phải chờ đợi suốt nhiều giờ trong căn phòng ấy khiến anh thấy hơi nản. Kim đồng hồ vẫn đang quay. Và tay người Canada kia có thể đang ở bất cứ nơi đâu. Có thế hắn đã quyết định quay trở về Canada. Cũng có thể hắn đã bán chiếc nhẫn. Becker không có thời gian để chờ đợi hơn nữa. Anh quyết định nhấc máy và quay số một lần nữa. Anh áp chặt ống nghe vào tai và dựa lưng vào tường. Chuông bắt đầu đổ. Becker nhìn ra phía ngoài phòng. Một chuông…hai chuông…ba…
Bỗng nhiên một niềm phấn khích trào dâng trong anh.
Becker quay lại và đặt mạnh ống nghe xuống máy. Sau đó anh quay trở ra và nhìn chằm chằm vào căn phòng yên ắng đó. Trong phòng, trên chiếc giường ngay trước mặt anh là một ông già cổ tay băng trắng toát đang nẳm trên những chiếc gối cũ kỹ.
Chương 21
Giọng tên người Mỹ trên đường dây riêng của Tokungen Numataka nghe có vẻ rất tức giận.
- Ông Numataka, tôi chỉ có một phút thôi.
- Tồt, tôi tin anh có cả hai mật khẩu chứ.
- Có một chút chậm trễ - Tên người Mỹ trả lời.
- Không thể được! - Numataka rít lên. - Anh đã nói chậm nhất là hết ngày hôm nay sẽ có cơ mà!
- Nhưng có một điểm sơ hở vào phút cuối.
- Tankado đã chết chưa?
- Hắn chết rồi! - tên người Mỹ trả lời. - Người của tôi đã giết Tankado, nhưng hắn lại không lấy được mật khẩu. Trước khi chết Tankado đã cho một khách du lịch mật khẩu đó.
- Khốn nạn! - Numataka gầm lên. - Thế mày đã hứa thế nào về…
- Bình tĩnh đã nào! - Tên người Mỹ nói. - Ông sẽ có hàng ngay. Tôi đảm bảo như vậy. Ngay khi mật khẩu còn lại được tìm thấy thì Pháo Đài Số sẽ thuộc về ông.
- Nhưng mật khẩu đó có thế bị sao chép?
- Bất cứ ai ngửi thấy mật khẩu đó đều bị tiêu diệt.
Một lúc im lặng trôi qua. Cuối cùng Numataka nói:
- Mật khẩu đó đang ở đâu?
- Tất cả những gì ông cần biết là nó sẽ được tìm thấy.
- Làm sao anh có thể biết chắc chắn như vậy.
- Bởi vì tôi không phải là người duy nhất đang tìm nó. Tình báo Mỹ đã đánh hơi thấy mã khoá này. Vì nhiều lý do họ phải ngăn chặn việc phát tán Pháo Đài Số. Họ đã cử một tên đi tìm mã khoá. Tên hắn là David Becker.
- Làm thế nào mà anh biết được điều đó?
- Câu hỏi không thích hợp rồi thưa ông.
Numataka ngừng lại một chút.
- Nếu tên Becker tìm được mã khoá đó?
- Người của tôi sẽ lấy mã khoá từ hắn.
- Và sau đó?
- Ông không cần phải quan tâm - Tên người Mỹ lạnh lùng nói - Khi nào Becker tìm được, anh ta sẽ được mã khoá trọng thưởng.
David Becker bước đến và nhìn chăm chú nhìn ông già đang ngủ trên giường. Cổ tay phải của ông ta quấn đầy băng. Ông ta khoảng 60 hay 70 tuổi gì đó. Mái tóc bạc phơ của ông ta được chải gọn gàng sang một bên. Ở giữa trán có một vết khâu bầm tím kéo dài xuống gần mắt phải..
Một vụ va chạm nhẹ ư? Becker nghĩ thầm, nhớ lại lời kể của viên tnmg uý, và kiểm tra những ngón tay của ông ta. Không hề có chiếc nhẫn vàng nào cả. Anh chạm nhẹ vào cánh tay của ông già không cử động.
- Thưa ông! - Xin lỗi cho tôi hỏi…?
Becker thử lại một lần nữa, nói to hơn.
- Thưa ông!
Ông già cựa mình.
- Mấy giờ rồi?
Ông ta từ từ mở mắt và nhìn Becker. Rõ ràng ông ta tức giận vì bị làm phiền.
- Anh muốn gì?
Đúng rồi, Becker nghĩ, một người Canada nói tiếng Pháp! Anh mỉm cười với ông già.
- Tôi có thể phiền ông vài phút không ạ?
Mặc đù tiếng Pháp của anh rất hoàn hảo, nhưng anh nói bằng thứ tiếng mà anh cho là ông ta không giỏi lắm, tiếng Anh. Thuyết phục một người lạ cho mượn một chiếc nhẫn vàng thì phải khôn khéo một chút! Becker có thể làm bất cứ điều gì có thể.
Sự im lặng bao trùm khá lâu trước khi ông già lấy lại được tỉnh táo ông ta quan sát xung quanh và dùng những ngón tay dài vuốt bộ ria mép bạc phơ. Cuối cùng ông ta lên tiếng, đó là thứ tiếng Anh giọng mũi the thé.
- Anh muốn gì?
- Thưa ngài! - Becker nói thật to như đang nói chuyện với người điếc - Tôi muốn hỏi ngài vài câu.
Ông già ngạc nhiên trừng trừng nhìn David.
- Anh có bị làm sao không đấy?
Becker tức giận, tiếng Anh của ông già không chê vào đâu được. Ngay lập tức anh vứt bỏ vẻ mặt trịnh thượng.
- Tôi xin lỗi vì làm phiền ngài, nhưng hôm nay ngài có tình cờ có mặt tại Plaza de Espana không?
Ông già nheo mắt lại.
- Anh là người của Hội đồng thành phố hả?
- Không ạ, thực ra tôi….
- Hay từ văn phòng du lịch?
- Không, tôi….
- Này, tôi biết vì sao anh đến đây đấy! - Ông già gượng ngồi dậy. - Tôi không dễ bị hăm doạ đâu! Tôi đã nói rồi, tôi đã nói hàng nghìn lần - Pierre Cloucharde luôn viết về cuộc đời này theo đúng cái cách mà ông ta sống ở đời. Mấy quyển sách hướng dẫn du lịch tạp nham của các anh thì thế nào cũng được. Nhưng tờ Montreal Times không phải để cho thuê! Tôi từ chối!
- Tôi xin lỗi, thưa ngài. Tôi không dám coi thường…
- Đồ rác rưởi! Tôi hiểu lắm chứ! - Ông già hươ hươ bàn tay xương xẩu về phía Becker, miệng nói oang oang - Anh không phải là người đầu tiên! Moulin Rouge, bọn chúng cũng làm thế ở lâu đài Brown, cả Golfigno ở Lagos cũng thế! Nhưng cái gì đã được đăng trên báo chí? Sự thật! Đó là món Wellington kinh tởm tôi chưa bao giờ ăn. Đường hầm bẩn thỉu nhất mà tôi được nhìn thấy! Và bãi biển đầy đá lởm chởm nhất mà tôi đã từng bước chân tới! Bạn đọc của tôi không thể cần sự thật!
Các bệnh nhân ở các giường gần đó bắt đầu ngồi dậy để xem cái gì đang diễn ra. Becker nhìn xung quanh sợ một cô y tá nào đó có thế xuất hiện. Anh không hề muốn bị người ta tống cổ ra khỏi chỗ này chút nào.
Cloucharde tiếp tục la hét ầm ĩ.
- Điều tồi tệ nhất là nhân viên cảnh sát ở đây! Hắn bắt tôi trèo lên chiếc xe máy của hắn! Anh nhìn xem tôi có còn ra người nữa không? - Ông ta cố giơ bên cổ tay bị thương lên. - Bây giờ thì ai viết các bài cho tôi đây?
- Thưa ngài, tôi…
- Đi đây đi đó suốt 43 năm trời tôi chưa bao giờ cảm thấy khó chịu như bây giờ! Nhìn chỗ quái quỷ này xem! Anh có biết là chuyên đề tôi phụ trách rất…
- Thưa ông! - Becker giơ cả hai tay làm dấu tạm ngừng - Tôi không quan tâm đến chuyên đề báo của ông; tôi là nhân viên Lãnh sự Canada. Tôi đến đây để giúp ông.
Bỗng nhiên cả căn phòng trở nên im lặng. Ông già nhìn người thanh niên lạ mặt đầy ngờ vực.
Becker nói khẽ.
- Tôi đến đây để xem có giúp gì được không. Chẳng hạn như lấy cho ông một chút Valium.
Sau một lúc im lặng, người Canada nói.
- Lãnh sự quán? - Giọng của ông ta trở nên mềm mỏng hơn.
Becker gật đầu.
- Vậy ra anh không đến đây vì bài báo của tôi?
- Không, thưa ngài.
Dường như cơn giận dữ bỗng bùng lên trong con người Pierre Cloucharde. Nhưng ông từ từ nằm xuống đống gối. Trông cực kỳ đau khổ.
- Tôi tưởng anh là nhân viên Hội đồng thành phố… định thuyết phục tôi đến… - Đầy vẻ thất vọng, ông ta ngước nhìn lên - Nếu không phải vì bài báo của tôi thì tại sao anh lại đến đây?
Một câu hỏi hay, Becker nghĩ thầm và lại mơ tưởng về Smoky Mountains.
- Chỉ là một cuộc viếng thăm ngoại giao thân mật thôi. - Anh nói dối.
Ông già ngạc nhiên:
- Một cuộc viếng thăm ngoại giao?
- Đúng vậy thưa ngài, tôi chắc rằng ngài hiểu vấn đề ở đây. Chính phủ Canada làm hết sức mình để bảo vệ công dân của mình không phải chịu bất cứ phiền toái nào ở những quốc gia, à, nên dùng từ gì nhỉ, những quốc gia không được phát triển cho lắm.
Cặp môi mỏng dính của Cloucharde hé mở trông giống như một điệu cười mỉm.
- Nhưng mà… rất thú vị.
- Ông là một công dân Canada đúng không?
- Tất nhiên rồi. Tôi thật ngốc. Hãy tha lỗi cho tôi. Những người ở vị trí như tôi thường được đối xử một cách… tôi nghĩ là anh hiểu.
- Vâng, thưa ngài, tôi hiểu. Đó là cái giá phải trả cho sự nổi tiếng.
- Đúng vậy - Cloucharde thở dài. Ông là một kẻ tử vì đạo bất đắc dĩ nay buộc phải tha thứ cho số đông.
- Anh có tin nổi rằng một nơi ghê tởm như thế này lại có ở trên đời không - Ông đưa mắt nhìn xung quanh. - Thật là một sự báng bổ. Thế mà người ta định để tôi ở đây suốt đêm nay đấy.
Becker nhìn xung quanh.
- Tôi hiểu. Ở đây thật kinh khủng. Rất tiếc tôi đã không thể đến sớm hơn.
Cloucharde có vẻ bối rối.
- Tôi không nghĩ là anh sẽ tới.
Becker thay đổi chủ đề.
- Hình như ông bị một vết toạc rất lớn ở đầu. Có đau lắm không?
- Không, không đau lắm. Sáng nay tôi đã uống thuốc rồi - Đúng là làm phúc phải tội. Cổ tay tôi đau quá. Tên cảnh sát ngu xuẩn! Bắt một người ở tuổi tôi ngồi xe môtô. Không thể thông cảm được"
- Tôi có thể giúp gì cho ông không?
Cloucharde nghĩ một lúc, có vẻ hài lòng vì được quan tâm.
- Ô! thực ra… - ông nghẹo đầu sang phải rồi sang trái - Tôi có thể dùng chiếc gối khác được không?
- Không thành vấn đề - Becker lấy một chiếc gối ở giường gần đó và giúp ông già cảm thấy thoải mái hơn.
Ông già rất vừa ý.
- Tốt hơn rồi… Cảm ơn!
Becker nói:
- Pas du tout. (tiếng Pháp - Có gì đâu ạ)
- Ah! - Ông già mỉm cười thân thiện:
- Vậy ra anh biết nói ngôn ngữ của thế giới văn minh.
- Chỉ chút ít thôi ạ - Becker cười ngượng.
- Không vấn đề gì. - Cloucharde nói - Chuyên mục của tôi nói về nước Mỹ, tôi nói tiếng Anh tốt lắm đấy.
- Tôi biết - Becker cười nói. Anh ngồi xuống mép giường của ông già. - Bây giờ, nếu mấy câu hỏi của tôi không làm phiền ông, thưa ông Cloucharde, tại sao một người như ông lại đến một nơi như thế này? Ở Seville có những bệnh viện tốt hơn nhiều.
Cloucharde bực mình.
- Tên cảnh sát đó… Hắn kéo tôi lên xe máy rồi bỏ mặc tôi máu me như thế trên đường y như một con vật vậy. Tôi phải tự lết đến đây.
- Anh ta không đưa ngài đến một bệnh viện tốt hơn sao?
- Trên chiếc xe khủng khiếp đó à? Không, cảm ơn.
- Vậy sáng nay điều gì đã xảy ra vậy?
- Tôi kể hết cho viên trung uý rồi.
- Tôi vừa nói với anh ta và…
- Tôi hy vọng anh sẽ kỷ luật hắn! - Ông già cắt ngang.
Becker gật đầu.
- Theo những điều luật nghiêm khắc nhất. Cơ quan của tôi sẽ xem xét vấn đề này.
- Tôi cũng hy vọng là như vậy.
- Monsieur Cloucharde - Becker mỉm cười và lấy một chiếc bút trong túi áo của anh ra.
- Tôi sẽ gửi một kiến nghị lên thành phố. Ông giúp tôi chứ? Một người như ông sẽ là một nhân chứng tốt.
Cloucharde trông như chết đuối vớ được cọc khi thấy có người định ghi lại lời nói của mình. Ông ta ngồi dậy.
- Tại sao, ồ… tất nhiên rồi. Tôi rất lấy làm vinh dự.
Becker lấy ra một cuốn số ghi chép nhỏ và bắt đầu.
- Được rồi, bắt đầu từ sáng nay. Xin ông kể về vụ tai nạn.
Ông ta thở dài.
- Đó là một chuyện buồn. Có một người châu Á đáng thương bị ngã quỵ xuống. Tôi cố giúp anh ta, nhưng không kịp.
- Ông đã sơ cứu tim cho anh ta?
Cloucharde trông ngượng ngùng.
- Tôi e rằng tôi không biết cách. Tôi đã gọi xe cấp cứu.
Becker nhớ đến vết thương trên ngực của Tankado.
- Có phải các nhân viên y tế đã ép tim anh ta?
- Lạy chúa, không phải vậy - Cloucharae cười to - Không có lý do gì để cứu một con ngựa chết. Người đàn ông đó đã chết trước khi xe cấp cứu đến. Họ kiểm tra mạch đập và chở ông ta đi, bỏ lại tôi với tên cảnh sát kinh khủng đó.
Thật kỳ lạ. Becker nghĩ, và anh băn khoăn không hiểu vết bầm đó từ đâu ra. Anh gạt nó ra khỏi đầu và tập trung vào vào vấn đề chính.
- Thế còn chiếc nhẫn? - Anh nói với giọng lãnh đạm hết sức có thể.
Cloucharde ngạc nhiên.
- Viên trung uý nói với ông về chiếc nhẫn?
- Đúng anh ta có nói.
Cloucharde thực sự ngạc nhiên.
- Thật sao? Tôi nghĩ hắn ta không tin câu chuyện của tôi. Hắn quá lỗ mãng, có thể hắn cho rằng tôi nói dối. Nhưng chuyện đó có thật. Tôi xin cam đoan như vậy.
- Chiếc nhẫn bây giờ ở đâu? - Becker nhấn mạnh.
Cloucharde dường như không nghe thấy. Ông ta đờ đẫn nhìn vào khoảng không.
- Một vật trông rất lạ, những chữ viết trên đó không giống bất cứ ngôn ngữ nào mà tôi đã từng biết.
- Có thể là tiếng Nhật - Becker phỏng đoán.
- Hoàn toàn không phải.
- Vậy ông nhìn thấy dòng chữ đó?
- Lạy chúa, đúng thế! Khi tôi quỳ xuống định giúp anh ta, anh ta cứ dúi bàn tay vào người tôi. Anh ta muốn cho tôi chiếc nhẫn đó.
Thật khủng khiếp, đôi bàn tay của anh ta bị dị dạng.
- Và ông đã lấy chiếc nhẫn đó?
Cloucharde mở to mắt.
- Gì? Tên trung uý đó nói với anh như thế sao? Rằng tôi lấy chiếc nhẫn?
Becker hơi bối rối.
Cloucharde quát to:
- Tôi biết là hắn ta không hiểu tôi nói gì mà! Lại tai nọ xọ tai kia. Tôi nói với anh ta rằng người Nhật đó đã đưa chiếc nhẫn, nhưng tôi không nhận. Tôi không muốn lấy bất cứ thứ gì của một người đang hấp hối. Chúa ơi, chỉ ý nghĩ đó thôi…
Becker bắt đầu thấy căng thẳng.
- Vậy ông đã không lấy chiếc nhẫn đó?
- Lạy chúa, không!
Becker thấy bụng đau nhói.
- Vậy thì ai đã lấy chiếc nhẫn?
Cloucharde bực bội nhìn Becker.
- Tên người Đức! Tên người Đức đã lấy chiếc nhẫn. Tên người Đức ở trong công viên! Tôi đã nói với cảnh sát về hắn! Tôi từ chối chiếc nhẫn nhưng tên phát xít đó lại lấy.
Becker viết vào cuốn sổ. Trò chơi đã kết thúc. Có một vấn đề ở đây
- Vậy tên người Đức đã lấy chiếc nhẫn đó?
- Đúng vậy!
- Ông ta đã đi đâu?
- Tôi không biết. Tôi chạy đi báo cảnh sát. Khi tôi trở lại hắn đã đi mất.
- Ông có biết hắn là ai không?
- Một khách du lịch.
- Ông có chắc không?
- Cả đời tôi nghiên cứu về du lịch mà - Cloucharde ngắt lời.
- Nhìn thoáng qua là tôi biết ngay. Hắn và bạn gái hắn đang đi dạo trong công viên.
Becker càng thấy bối rối hơn.
- Bạn gái sao? Có một người đi cùng tên người Đức đó?
Cloucharde gật đầu.
- Một cô gái gọi, tóc đỏ tuyệt đẹp, lạy Chúa! Rất xinh đẹp.
- Gái gọi - Becker sửng sốt - Tức là gái điếm à?
Cloucharde nhăn mặt.
- Đúng, nếu anh thích cái từ thô tục đó.
- Nhưng… viên trung uý kia không nói gì về…
- Ồ tất nhiên là không rồi! Tôi không nhắc đến cô gái đó.
Cloucharde xua tay.
- Họ không phải là tội phạm… Thật vô lý nếu họ bị coi như những tên trộm"
Becker vẫn chưa hết bàng hoàng.
- Có ai ở đó nữa không?
- Không, chỉ có ba chúng tôi thôi. Trời rất nóng.
- Và ông cho rằng cô gái đó là gái điếm?
- Đúng vậy. Không một phụ nữ nào đẹp như vậy lại đồng ý cặp với tên đó, trừ khi cô ta được trả cao! Chúa ơi! Hắn trông quá béo! Một tên người Đức mồm rộng, béo phì và đáng ghét - Cloucharde nhăn mặt lại khi ông thay đổi tư thế. Nhưng ông nén cơn đau và tiếp tục nói - Tên người Đức đó trông giống như một con thú, nặng ít nhất 135 kg. Hắn ghì cô gái đáng thương như thế sợ cô ta chạy mất. Tôi không đổ lỗi cho cô gái. Ý của tôi là, hắn vòng tay ôm chặt cô ta, cứ như thể hắn bao cô ta cả tưần với giá 300 đô la. Chính hắn là kẻ đáng phải chết chứ không phải là người châu Á đáng thương kia - Cloucharde hít lấy hơi, và Becker liền hỏi:
- Ông có biết tên của hắn không?
Cloucharde nghĩ một lúc rồi lắc đầu.
- Tôi không biết - Ông ta lại nhăn mặt vì đau và nằm lại xuống gối.
Becker thở dài. Chiếc nhẫn vừa bốc hơi trước mắt anh. Ngài Strathmore hẳn sẽ không vui khi biết tin này.
Cloucharde vỗ nhẹ vào trán. Sự nhiệt tình của ông đã hết.
Trông ông rất mệt mỏi.
Becker cố gắng theo cách khác.
- Ông Cloucharde, tôi muốn biết về tên người Đức và cô gái đó. Theo ông thì họ ở đâu?
Cloucharde nhắm mắt lại, không còn chút sức lực nào, hơi thở yếu dần.
- Bất cứ điều gì - Becker nhấn mạnh - Tên của cô gái?
Nhưng chỉ có sự im lặng kéo dài.
Cloucharde day nhẹ thái dương bên phải. Trông ông thực sự kiệt sức.
- À,… không, tôi không chắc… - Giọng ông ta phều phào.
Becker cúi xuống phía ông.
- Ông ổn chứ?
Cloucharde hơi gật đầu.
- Ổn thôi…chỉ một chút… có lẽ do phấn khích quá… - ông nói.
- Hãy nghỉ đi ông Cloucharde - Becker hối thúc. - Điều này rất quan trọng.
Cloucharde nhăn mặt.
- Tôi không biết… cô gái đó… tên kia gọi cô ta là… - ông nhắm mắt lại và rên rỉ.
- Tên cô ta là gì?
- Tôi không nhớ nổi… - Cloucharde uể oải.
- Hãy nghĩ xem? - Becker thúc giục. - Quan trọng lắm đấy. Tài liệu của lãnh sự quán càng đầy đủ càng tốt. Tôi cần dẫn chứng câu chuyện của ông bằng những câu nói của các nhân chứng khác. Bất cứ thông tin nào của ông cũng giúp tôi tìm ra họ….
Nhưng Cloucharde không nghe thấy gì hết. Ông ta đang dùng khăn chấm nhẹ lên trán của mình.
- Tôi xin lỗi… có lẽ ngày mai….
Trông ông như đang buồn nôn.
- Ông Cloucharde, điều này rất quan trọng. Nếu ông nhớ được ngay bây giờ thì rất tốt - Becker đột nhiên nhận thấy minh đang nói quá to. Mọi người ở các giường gần đó vẫn đang quan sát cả hai người. Ở phía góc xa, cô y tá xuất hiện, bước qua cửa và sải bước đến chỗ họ.
- Bất cứ điều gì… - Becker nhấn mạnh.
- Tên người Đức gọi cô gái là…
Becker lắc nhẹ ông già, cố gắng làm cho ông ta tỉnh lại.
Đôi mắt của Cloucharde loé sáng một chút.
- Tên cô gái… Ở lại với anh, fella… Dew…
Cloucharde lại nhắm mắt. Cô y tá đã đến, trông rất giận dữ.
- Dew - Becker lắc cánh tay ông già.
Ông ta rên rỉ.
- Hắn gọi cô gái là… - Cloucharde lẩm bẩm, rất khó nghe rõ.
Cô y tá chỉ còn hơn 3 mét nữa là đến nơi, và đang giận dữ réo gọi Becker bằng tiếng Tây Ban Nha. Becker không nghe thấy gì cả.
Mắt của anh còn đang nhìn chằm chằm vào môi của ông già. Anh lắc ông ta một lần cuối khi cô y tá túm lấy anh.
Cô y tá nắm lấy vai Becker. Cô kéo anh ra ngay khi đôi môi của ông già hé mở.
Một từ thoát ra khỏi miệng của ông già, nhưng không hẳn được phát âm. Đó là một tiếng thở dài. Giống như hồi tưởng xa xăm…
- Dewdrop…
Tiếng la rầy kéo Becker đi ra.
Dewdrop? Becker nghĩ. Cái tên quái quỷ gì thế nhỉ? Anh tránh khỏi cô y tá và quay xuống hỏi Cloucharde một lần cuối.
- Dewdrop? Ông có chắc không?
Nhưng Pierre Cloucharde đã lịm đi.
Chương 23
Susan ngồi một mình trong Node 3 sang trọng. Vừa uống trà chanh vừa nhìn màn hình chờ đợi.
Là một chuyên gia cao cấp về mật mã, Susan được bố trí một căn phòng ở vị trí đẹp nhất. Nó ở phía sau dãy vi tính, đối diện với Crypto. Từ căn phòng này, cộ có thể quan sát toàn bộ Node 3.
Không những thế cô có thể nhìn thấy phía bên kia của tấm kính quan sát một chiều, TRANSLTR ngay giữa trung tâm của Crypto.
Susan nhìn đồng hồ. Cô đã đợi được một tiếng. Trung tâm kiểm tra thư tín nặc danh (American Remailers Anomymous) rõ ràng đã kiểm tra thư từ của Dakota. Cô thở dài nặng nhọc. Mặc dù đã cố quên cuộc nói chuyện với David sáng nay, nhưng những lời nói vẫn cứ hiện ra trong đầu cô. Cô biết mình đã quá khắt khe với anh. Mong rằng anh sẽ không sao khi ở Tây Ban Nha.
Những ý nghĩ của cô bị ngắt quãng bởi một tiếng động lớn phía cửa kính. Nhân viên mật mã Greg Hale đang đứng ở ngưỡng cửa.
Cao to lực lưỡng, tóc vàng dầy, Greg Hale có chiếc cằm chẻ sâu. Anh ta thích diện quá mức, luôn phô trương những bắp thịt. Đồng nghiệp đặt cho anh biệt danh là "Halite"- một chất muối khoáng.
Hale cứ nghĩ rằng biệt danh này là một chất quý hiếm, tương xứng với trí thông minh và cơ thể cường tráng của mình. Chỉ khi tra tên đó trong bách khoa toàn thư, anh mới phát hiện ra rằng nó chỉ là chất muối cặn còn lại khi nước biển rút đi.
Giống như các nhân viên mật mã khác. Hale cố mức lương cao. Tuy nhiên, anh ta không thể giữ kín thu nhập của mình. Anh ta lái chiếc xe Lotus mui trần, với một dàn âm thanh chói tai. Trông anh ta giống như một tay chơi ngông, và chiếc ô tô của anh ta đầy vẻ phô trương với hệ thống vi tính định vị toàn cầu, cửa xe khoá điều khiển bằng tiếng nói, máy làm nhiễu năm điểm sóng ra đa, và một máy fax, điện thoại di động để không bao giờ bị mất liên lạc. Một đĩa đọc MEGABYTE hảo hạng được đặt trong khung có ánh nê-ông tím.
Greg Hale được Tập đoàn hàng hải Mỹ cứu thoát khỏi một tuổi thơ đầy tội phạm. Năm ba tuổi anh ta học vi tính. Anh ta là một trong những lập trình viên giỏi nhất của Cục Hàng hải, trên con đường sự nghiệp quân sự đầy vinh quang của mình. Nhưng hai ngày trước khi hoàn thành chuyến công tác ba ngày của mình, tương lai của anh ta bỗng nhiên thay đổi. Hale chẳng may giết chết một đồng nghiệp ở Cục Hàng hải trong cơn say. Môn võ tự vệ của Hàn Quốc, Taekwondo, đã không thể giúp anh ta tự bào chữa. Và nhanh chóng, Hale bị đuổi khỏi ngành.
Sau một thời gian ngồi bóc lịch trong nhà tù, Hale bắt đầu tìm kiếm công việc ở các công ty tư nhân với tư cách là một lập trình viên. Bị tai tiếng do vụ tai nạn ở Cục Hàng hải, Hale luôn phải thuyết phục các ông chủ bằng một tháng làm việc không lương để chứng tỏ tài năng. Không thiếu người thuê anh ta và ngay khi họ thấy anh ta có thể làm việc với cái máy tính, họ đã không bao giờ để anh ta đi mất.
Khi trình độ vi tính của mình đã nâng cao, Hale bắt đầu kết nối toàn cầu qua mạng Internet. Anh ta lập ra trào lưu mới của những người say mê mạng máy tính cùng với những người bạn qua thư điện tử trên khắp thế giới, đăng tải những tuần thư điện tử vớ vẩn hoặc các nhóm chát chít ở châu âu. Anh ta đã bị hai ông chủ đuổi việc do lợi dụng công việc để đăng tải những hình ảnh khiêu dâm cho bạn bè mình.
- Cô đang làm gì ở đây vậy? - Hale hỏi, dừng ở ngưỡng cửa và nhìn chằm chằm Susan. Rõ ràng anh ta không muốn gặp ai ở Node 3 ngày hôm nay.
Susan cố gắng tỏ vẻ bình thường.
- Hôm nay là thứ 7, Greg. Tôi cũng muốn hỏi anh câu đó!
Nhưng Susan thừa biết Hale làm gì ở đây vào ngày này. Anh ta là kẻ nghiện vi tính nặng. Mặc dù là thứ bảy nhưng anh ta vẫn đến Crypto để sử dụng mạng vi tính siêu việt ở đây đế chạy thử những chương trình mới của mình.
- Để ngắt một số đường dây và kiểm tra hòm thư mà thôi - Hale nói - Đó không phải là những gì cô đang làm đấy chứ?
- À tôi thì không - Susan trả lời.
Hale nhướn lông mày ngạc nhiên.
- Không có gì phải xấu hổ cả. Trong Node 3 không ai giữ bí mật chuyện gì đúng không nào? Một người vì mọi người, mọi người vì một người.
Susan nhấp một ngụm trà và không chú ý đến Hale nữa. Hale nhún vai và đi về phía tử đồ uống. Tủ đồ uống bao giờ cũng là điểm dừng chân đầu tiên của anh ta. Khi Hale đi ngang qua phòng, anh ta nuốt nước bọt và nhìn chằm chằm vào cặp chân của Susan đang duỗi dài dưới gầm bàn. Susan không thèm nhìn lên, co chân lại và tiếp tục làm việc. Hale cười khẩy.
Susan đã quen với việc bị Hale cố tình đụng chạm. Cô quá kiêu hãnh nên không phàn nàn với Strathmore về Hale. Tốt nhất là không nên để ý đến anh ta.
Hale đến tử đồ uống, mở mạnh tấm cửa mắt cáo. Anh ta với hộp đậu phụ, ngoạm một miếng rồi đứng dựa vào cái lò sưởi, kéo thẳng chiếc quần Bellvience màu xám bị chùng và chiếc áo sơ mi được hồ cứng.
- Cô ở đây lâu không?
- Cả đêm. - Susan nói.
- Hmm… - Halite vừa nhai vừa nói - Một ngày thứ Bảy tuyệt đẹp ở đây chỉ có hai chúng ta.
- Ba chúng ta - Susan chữa lại - Ngài Strathmore đang ở trên gác. Anh nên biến đi trước khi ông ta nhìn thấy.
Hale nhún vai.
- Ông ấy không bận tâm khi cô ở đây sao? Chắc hẳn ông ấy cũng thích cô đến đây thế này rồi.
Susan cố gắng im lặng.
Hale cười khục khục và bỏ bịch đậu phụ xuống. Sau đó anh ta lấy một hộp dầu ô-liu, và tợp vài hụm. Anh ta là một người rất chăm lo cho sức khoẻ, và cho rằng dầu ô-liu sẽ rửa sạch ruột. Khi nào không thuyết phục các nhân viên khác uống nước cà rốt thì anh ta lại thao thao về tác dụng của vitamin.
Hale đặt hộp dầu ô-liu xuống và ngồi xuống bên chiếc vi tính của mình đối diện với Susan. Mặc dù cách xa, nhưng Susan vẫn có thể ngửi thấy mùi nước hoa Cologne của anh ta. Cô nhăn mũi.
- Mùi nước hoa Cologne cũng thơm đấy nhỉ, Greg. Anh dùng hết cả lọ đấy à?
Hale nhổm lên khỏi chỗ và nói:
- Chỉ dành cho riêng em thôi, em yêu.
Khi anh ta ngồi xuống chỗ của mình đợi máy tính khởi động.
Susan chợt có một ý nghĩ. Nếu như Hale truy cập vào màn hình chạy của TRANSLTR thì sao? Không có lý do hợp lý nào khiến anh ta làm như vậy, tuy nhiên Susan biết rằng anh ta sẽ không bao giờ tin một câu chuyện ngớ ngẩn về một mật mã làm cho TRANSLTR xử lý trong 16 tiếng. Hale có thể muốn biết sự thật, và Susan không có ý định cho anh ta biết. Cô không tin Greg Hale. Anh ta không phải là nhân viên của NSA. Cô đã phản đối việc thuê anh ta ngay từ đầu, nhưng NSA không có lựa chọn nào khác. Anh ta là một món nợ mà NSA phải gánh sau một phi vụ.
Dự án Skipjack đã thất bại.
Bốn năm trước đây, trong một nỗ lực nhằm tạo ra một tiêu chuẩn mã hoá chung, đơn giản, Quốc hội đã thuê những nhà toán học giỏi nhất trong nước, những người làm tại NSA, viết một siêu thuật toán. Kể hoạch này sẽ được sử dụng cho Quốc hội trong việc thông qua một điều luật về một thuật toán chuẩn trong nước, do vậy các tập đoàn sẽ không phải chịu những rắc rối do sử dụng cac thuật toán khác nhau.
Tất nhiên khi yêu cầu NSA giúp một tay trong kế hoạch phát triển tiêu chuẩn mã hoá chung là một yêu cầu như thể yêu cầu một người tự xây chiếc quan tài cho mình vậy. TRANSLTR lúc đó chưa ra đời, và một tiêu chuẩn mã hoá chỉ giúp đẩy mạnh việc sử dụng mã hoá, điều này sẽ làm cho công việc khó khăn của NSA lại càng khó khăn hơn.
EFF hiểu rõ sự mâu thuẫn quyền lợi này và loan tin NSA sẽ tạo ra một thuật toán kém chất lượng, có thể bị giải mã một cách dễ dàng. Để đối phó với tình huống này, Quốc hội tuyên bố rằng khi nào NSA tạo ra thuật toán, thì công thức đó sẽ được những nhà toán học trên thế giới kiểm tra chất lượng.
Một cách miễn cưỡng, nhóm giải mã của NSA, do ngài Strathmore lãnh đạo, đã tạo ra một thuật toán và họ đặt tên là Skipjack. Skipjack được đưa cho Quốc hội thông qua. Các nhà toán học trên khắp thế giới kiểm tra Skipjack và đã hoàn toàn bị chinh phục. Họ kết luận đó là một thuật toán không thể bẻ khoá, và nó có thể tạo ra một tiêu chuẩn mã hoá siêu việt. Nhưng chỉ ba ngày trước khi Quốc hội bỏ phiếu thông qua, thì một lập trình viên trẻ tại phòng thí nghiệm Bell, Greg Hale đã gây sốc cho toàn thế giới khi thông báo rằng anh ta đã tìm ra lỗ hổng cổng hậu của thuật toán đó. Lỗ hổng này bao gồm một vài dòng mã lệnh hết sức tinh xảo mà Strathmore đã cài vào trong thuật toán đó. Và phải nói thêm rằng, không một ai ngoại trừ Greg Hale phát hiện ra nó. Và trong lời thú nhận của mình, Strathmore đã nói rằng bất cứ mật mã nào viết bằng chương trình Skipjack đều bị bẻ khoá thông qua một mật khẩu bí mật chỉ có NSA biết. Strathmore sắp biến tiêu chuẩn mã hoá quốc gia trở thành một phương tiện tình báo lớn nhất trong lịch sử NSA; NSA cũng nắm giữ mật khẩu của các mã hoá khác trên nước Mỹ.
Những người hiểu biết về máy tính đều cảm thấy bị xúc phạm.
EFF coi NSA là kẻ trục lợi, chế nhạo sự khờ khạo của Quốc hội và tuyên bố NSA là mối đe doạ lớn nhất cho một thế glới tự do sau kỷ nguyên Hit-le. Dự án tiêu chuẩn mã hoá bị phá sản.
Một điều ngạc nhiên là chỉ hai ngày sau đó. NSA đã thuê Greg Hale. Strathmore thấy để anh ta làm việc cho NSA thì tốt hơn để anh ta ở ngoài và tìm cách phá hoại nó.
Strathmore phải đối mặt với vụ xì căng đan. Ông đã bảo vệ cho hành động của mình. Một cách đầy thuyết phục trước Quốc hội.
Ông tranh luận rằng chính yêu cầu đòi quyền riêng tư của người dân sẽ chống lại chính họ. Ông khăng khăng rằng dân chúng cần một ai đó đứng ra bảo vệ họ; và dân chúng cần NSA bẻ khoá mật mã nhằm duy trì hoà bình. Những nhóm chống đối như EFF lại nghĩ khác, và họ tiếp tục phản đối từ đó đến nay.
Chương 24
David Becker đứng trong buồng điện thoại ven đường La Clinica de Salud Publica; anh vừa bị tống ra khỏi bệnh viện vì đã làm phiền bệnh nhân số 104, ông Cloucharde.
Mọi chuyện dường như phức tạp hơn rất nhiều so với suy đoán của anh. Yêu cầu nhỏ của ngài Strathmore, tìm vài vật dụng cá nhân, nay đã biến thành cuộc truy lùng một chiếc nhẫn kỳ quái.
Anh vừa gọi cho ngài Strathmore và thông báo cho ông biết về vị khách du lịch người Đức. Tin tức của anh khiến ông ta có vẻ không vui. Sau khi yêu cầu anh kể chi tiết sự việc, Strathmore im lặng một lúc lâu.
- David! - Strathmore cuối cùng cũng nói, rất nghiêm trọng Tìm chiếc nhẫn là vấn đề an ninh quốc gia. Tôi giao nhiệm vụ này cho anh. Đừng làm tôi thất vọng.
Và David nghe tiếng cúp máy.
David đứng trong buồng điện thoại và thở dài. Anh bắt đầu lật tìm những trang vàng trong cuốn danh bạ điện thoại Guia Telefonica tả tơi.
- Chẳng đi đến đâu cả - Anh lẩm bẩm một mình - Ở đó chỉ có ba số điện thoại của "dịch vụ bạn đồng hành", và anh cũng không có nhiều thông tin lắm. Tất cả những gì anh biết là bạn gái của tên người Đức đó có mái tóc đỏ, màu tóc thuộc loại hiếm ở Tây Ban Nha. Ông Cloucharde mê sảng đã gọi tên cô gái là Dewdrop. Becker rùng mình - Dewdrop? Nghe giống như tên một con bò hơn là một cô gái đẹp. Đây không phải là tên của người theo đạo thiên chúa. Cloucharde chắc đã nghe nhầm.
Becker quay số đầu tiên.
- Cơ quan dịch vụ xã hội Sevilla… - một giọng phụ nữ nhẹ nhàng cất lên.
Becker nói tiếng Tây Ban Nha với giọng Đức nặng.
- Chào, có nói được tiếng Đức không?
- Không. Nhưng tôi nói được tiếng Anh - Có tiếng đáp lại.
Becker giả vờ nói tiếng Anh một cách khó khăn:
- Cảm ơn, không biết cô có thể giúp tôi được không?
- Chúng tôi rất sẵn lòng - Người phụ nữ nói chậm nhằm giúp đỡ khách hàng của mình.
- Có lẽ anh cần một người bạn đồng hành?
- Vâng, đúng vậy. Hôm nay anh trai tôi Klaus có một cô gái rất đẹp Tóc đỏ. Tôi cũng muốn một cô như vậy vào ngày mai, làm ơn!
- Anh trai anh đã đến đây - Giọng cô gái đột nhiên trở nên sôi nổi, như thể họ đã là bạn từ lâu.
- Vâng, anh ta rất béo, cô có nhớ anh ta không? Không à? Anh nói là anh ta đến đây hôm nay?
Becker nghe thấy tiếng cô gái đang kiểm tra sổ sách. Có thể không có tên Klaus, nhưng Becker biết rằng khách hàng ít để lại tên thật của mình.
- Hmm, xin lỗi! - Cô gái nói. - Tôi không thấy anh ta đến đây. Thế tên cô gái mà anh trai anh đi cùng là gì?
- Tóc đỏ. - Becker có né tránh câu hỏi.
- Tóc đỏ - Cô gái nhắc lại. Ngừng một chút - Đây là Cơ quan dịch vụ xã hội Sevilla. Ông có chắc là anh trai ông đã đến đây?
- Chắc chắn.
- Senor, chúng tôi không có ai tóc đỏ cả, Chúng tôi chỉ có vẻ đẹp Andalusian thuần khiết thôi.
- Tóc đỏ - Becker nhắc lại, cảm thấy thật ngu xuẩn.
- Tôi xin lỗi, chúng tôi không có ai tóc đỏ cả. Nhưng nếu ông…
- Tên cô ta là Dewdrop - Becker thốt ra, cảm thấy ngu xuẩn hơn.
Cái tên buồn cười này chẳng có nghĩa gì với cô gái cả. Cô ta xin lỗi và nói rằng Becker đang nhầm lẫn cô ấy với một dịch vụ khác.
Cô gái lịch sự cúp máy.
Cuộc gọi một.
Becker nhăn mặt và quay số tiếp theo. Đường được nối ngay lập tức:
- Xin chào Hội những cô gái Tây Ban Nha, tôi có thể giúp gì cho ngài?
Becker diễn lại vở kịch. Một người Đức sẵn sàng trả nhiều đô la cho một cô gái tóc đỏ, người đã đi cùng với anh trai mình ngày hôm nay.
Lần này, giọng trả lời là một giọng Đức lịch sự, nhưng cũng không tìm thấy ai tóc đỏ cả.
- Keine Rotkopfe, tôi xin lỗi - Người phụ nữ cúp máy.
Cuộc gọi hai.
Becker nhìn xuống danh bạ điện thoại. Chỉ còn một số điện thoại cuối cùng. Cái phao cứu tinh cuối cùng đây.
Anh bấm số.
- Escortes Belen - giọng đàn ông trơn tru trả lời.
Một lần nữa Becker kể lại câu chuyện bịa của mình.
- Si, si senor. Tôi tên là Senor Roldan. Tôi rất vui được giúp ngài. Chúng tôi có hai cô gái tóc đỏ. Những cô gái xinh đẹp.
Tim Becker đập rộn lên.
- Rất đẹp - Anh hỏi lại bằng giọng Đức.
- Tóc đỏ?
- Vâng, thế tên anh trai ông là gì - Tôi sẽ nói cho anh biết ai là người bạn đồng hành của anh ấy trong ngày hôm nay. Và ngày mai tôi có thể sẽ cử cô ấy đến chỗ anh.
- Klaus Schmidt - Becker thốt ra cái tên mà anh nhớ có trong một quyển sách cũ. Sau một lúc.
- Thưa ngài, chúng tôi không thấy có tên Klaus Schmidt trong danh sách đăng ký, nhưng có lẽ anh trai ngài muốn giữ bí mật, vì có một bà vợ ở nhà chăng? - Anh ta cười một cách vô duyên.
- Đúng vậy, Klaus đã lập gia đình. Nhưng anh ấy béo quá. Vợ anh ta không ngủ với anh ta nữa - Becker nháy mắt với bóng của mình trong tấm kính trước mặt. Nhỡ bây giờ Susan nghe thấy câu này thì sao? Anh nghĩ, "Dù có béo và cô đơn, mình vẫn muốn ngủ với cô ấy. Dù phải trả thật nhiều tiền.
Becker đã tạo một ấn tượng quá mạnh, nhưng anh đã đi quá xa. Gái điếm là bất hợp pháp ở Tây Ban Nha. Và Senor Roldan là một người cẩn thận. Anh ta đã bị một nhân viên điều tra thẩm tra về những khách du lịch quá nhiều ham muốn. Tôi muốn ngủ với cô ta. Roldan biết đây là một vụ sắp đặt. Nếu anh nói có, anh có thể bị phạt rất nặng, và phải cung cấp những cô gái thông minh nhất cho những tên cảnh sát miễn phí cho những ngày cuối tuần.
Khi Roldan trả lời. Giọng của anh không còn thân thiện nữa.
- Thưa ngài, đây là Escortes Belen. Tôi có thể hỏi là ai đang gọi vậy?
- Aah… Sigmund Schimidt - Becker nói yều ớt.
- Làm thế nào ngài có số điện thoại của chúng tôi?
- La Guia Telefonica, những trang vàng.
- Vâng thưa ngài, bởi vì chúng tôi là dịch vụ bạn đồng hành.
- Đúng tôi cần một người bạn đồng hành - Becker cảm thấy có điều gì không ổn.
- Thưa ngài, Escortes Belen là một dịch vụ cung cấp bạn đồng hành cho các thương gia, cùng đi ăn trưa, ăn tối. Đó là lý do vì sao chúng tôi có trong danh bạ điện thoại. Công việc của chúng tôi là hợp pháp. Cái ngài muốn tìm đó là một gái điếm - Từ đó được anh ta nói với vẻ kinh tởm.
- Nhưng anh trai tôi…
- Thưa ngài, nếu anh trai ngài hôn một cô gái trong công viên, thì cô gái đó không phải là người của chúng tôi. Chúng tôi có những quy định nghiêm ngặt về quan hệ giữa khách và người đồng hành.
- Nhưng….
- Ngài đã nhầm chúng tôi với công ty nào khác rồi. Chúng tôi chỉ có hai cô gái tóc đỏ, Inmaculada và Rocio, không ai trong số họ cho phép đàn ông ngủ với họ dù vì tiền. Đó là làm điếm, và việc này là bất hợp pháp ở Tây Ban Nha. Chúc ngài một buổi tối tốt lành.
- Nhưng….
Cúp máy.
Becker chửi thề và ném cuốn danh bạ về chỗ cũ. Cuộc gọi thứ ba. Anh chắc chắn rằng Cloucharde đã nói tên người Đức thuê cô gái đó trong suốt những ngày nghỉ cuối tuần.
Becker bước ra khỏi bốt điện thoại ở khu nối giữa đường Calle Salado và Averủda Asuncion. Mặc dù xe cộ nườm nượp, nhưng mùi hương cam ngọt ngào của Serville vẫn bao quanh anh. Giờ là hoàng hôn, thời điểm lãng mạn nhất. Anh lại nghĩ đến Susan.
Những lời trở lại trong tâm trí anh. Hãy tìm chiếc nhẫn. Becker đau khổ ngồi xuống chiếc ghế băng và cân nhắc hành động tiếp theo.
Làm gì tiếp theo đây?