Sáng ngày hôm sau nữa, tức mùng mười tháng sáu, một cỗ xe song mã sang trọng ung dung rời cửa Nam thành Nhữ Châu. Rèm che cửa sổ hai bên không buông xuống nên thiên hạ có thể thấy trong thùng xe là một đôi uyên ương già, nam tuổi xấp xỉ bốn mươi, còn nữ độ tam tuần.
Độ lệch chín mười năm của niên kỷ chẳng quan trọng trong hôn nhân nhưng hơn kém về dung mạo mới là việc đáng bàn. Người chồng vừa già vừa xấu, tuy vóc dáng hiên ngang nhưng da đen như trôn chảo, trán và má phải có bướu thịt lớn cỡ quả nhãn. Ngược lại, người vợ trẻ kia khá xinh đẹp, phong vận có vẻ lẳng lơ, phấn son đậm nét, nên đôi môi dày mọng và cặp mắt phượng long lanh rất chi là gợi cảm. Thân hình nàng thon thả nhưng nở nang, so với Đông Nhạc Tiên Hồ có lẽ hấp dẫn hơn một bậc.
Đôi phu thê đũa lệch ấy nổi danh trong giới võ lâm Tứ Xuyên với mỹ hiệu Tử Bạch Song Kiếm, do nam chuộng màu tía, còn nữ thích màu nguyệt bạch.
Nam tên Liễu Từ Sơn, người phủ Nam Sang, vùng đất trù phú ở giữa tỉnh Tứ Xuyên. Gã rất giàu nên dù xấu trai vẫn lấy được vợ trẻ đẹp tên là Đảo Tích Xuân, tiểu sư muội của mình. Hai vợ chồng đều giỏi kiếm pháp bèn tự xưng là Tử Bạch Song Kiếm.
Từ ngày có vợ đẹp thì họ Liễu ít giao thiệp với người ngoài vì sợ mất Tích Xuân. Do đó thỉnh thoảng vài năm người ta mới thấy Tử Bạch Song Kiếm rời Nam Sang.
Liễu Từ Sơn ghen tuông như thế tại sao lại mướn một gã xà ích đẹp trai hơn mình ? Gã này tuổi độ bốn mươi mốt, bốn hai, mặt chữ điền, rắn rỏi, mũi cao, mắt sáng, miệng rộng, tuấn tú hơn Từ Sơn tám chín bậc. Thực ra, gã phu xe hèn mọn ấy còn nổi tiếng hơn Tử Bạch Song Kiếm. Mười mấy năm nay giang hồ vẫn thường nhắc đến một nhân vật thần bí có danh hiệu là Vô Tướng Quỷ Hồ Tạ Dương.
Họ Tạ có tài dịch dung đứng vào thượng thừa, biến hoá đến mức chẳng ai biết được mặt thực. Về cơ trí thì gã xảo quyệt mưu mô chẳng kém cáo chồn, dẫu hoàng cung cũng có thể mò vào. Hai điều ấy đã tạo nên danh hiệu song vẫn chưa đầy đủ vì Tạ Dương còn là một kiếm thủ dũng mãnh và lợi hại.
Người võ lâm sẽ té ngửa khi biết Vô Tướng Quỷ Hồ là bào huynh của Đông Nhạc Tiên Hồ, mỹ nhân số một của Trung Nguyên. Và hôm nay khi Dịch Quan San để lộ chân diện mục mà đóng vai xà ích thì cặp uyên ương trong xe phải là em gái và em rể của gã, tức Tái Vân và Tử Khuê.
Dịch Quan San quen thân với Tử Bạch Song Kiếm, biết rằng vợ chồng họ Liễu đang bận rộn bởi đứa con mới chào đời, chẳng thể rời nhà một bước. Vì vậy gã đã hoá trang cho hai em mình thành đôi cao thủ đất Tứ Xuyên. Khi xuôi nam, họ có thể gặp người của Thần Đao Bảo nên Tái Vân cần giấu mặt.
Phần Dịch Quan San thì không đáng ngại sao ? Gã đã chẳng phải bị bắt một lần rồi đấy ư? Họ Dịch ngượng ngùng nhớ lại việc mình rình mò vào tổng đàn võ lâm ở Trịnh Châu, trộm được một túi lớn châu báu, cùng tấm bản đồ da dê cũ kỹ, nhưng xui xẻo bị lộ bởi một con chó chết tiệt. Gã phải bỏ của chạy lấy người và tuột mất một chiếc giày vải.
Nào ngờ, Âu Dương Mẫn lại âm thầm liên minh với Xoa Lạp Cốc nên lúc ấy có mặt lão Thất hộ pháp của phe tơi nón. Lão ta được trời ban cho cái lỗ mũi thính hơn chó săn, đánh hơi chiếc giày mà truy đuổi đến tận huyện Y Dương, cách Nhữ Châu vài chục dặm về hướng tây.
Dịch Quan San bị bắt sống ngay trong một quán trọ, mất “Tàng bảo đồ” và còn xém bị giết. Với cơ trí tuyệt luân, họ Dịch khôn khéo nói rằng mình đã tìm ra bí mật của bản đồ ấy và sẽ tiết lộ khi gặp minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn. Kế hoãn binh nọ đã kéo dài mạng sống của Quan San cho đến lúc gặp Tử Khuê và Tái Vân. Giờ đây cái lão mũi chó săn đã bị Tử Khuê giết chết họ Dịch chẳng còn sợ ai tìm ra mình nữa.
Dịch Quan San nghe tiếng cười trong như ngọc vỡ của bào muội mà lòng ấm áp phi thường. Bao năm nay gã đau lòng vì số phận hẩm hiu của Tái Vân, nên khi thấy nàng ấm áp bên Tử Khuê, Quan San vô cùng hoan hỉ. Gã cao hứng quay người quất mạnh mấy roi vào mông của song mã, thúc giục chúng phóng thật nhanh.
Từ Nhữ Châu lữ khách có thể đến Nam Dương bằng một con đường tắt, không phải qua Nghiệp Thành và Dụ Châu. Đường nhỏ vắng người nên cước trình của cỗ xe song mã khá mau lẹ, chỉ bảy ngày sau đã đến Nam Dương.
Trời đã quá ngọ, ba người ăn vội một bữa cơm rồi lên đường đi Bảo Bình ngay. Tử Khuê muốn đưa Tái Vân về ra mắt mẫu thân trước khi Trình Thiên Kim hiện diện. Theo dự định, lúc còn ở nhà thì Thiên Kim sẽ về Hầu phủ trước, và ngày mười tám mới có mặt ở Kỹ gia trang.
Tử Khuê biết rằng mẹ mình vì thương con sẽ chấp thuận Tái Vân. Sau đó, Kỹ nương sẽ lựa lời khuyên giải Thiên Kim để nàng đứng ra nạp thiếp cho Tử Khuê.
Giữa giờ thân, cỗ xe song mã đến Bảo Bình, không dừng lại mà rẽ đi vào đường nhỏ ngược lên hướng bắc Kỹ gia trang nằm cách huyện thành độ sáu dặm trong rừng cây ăn trái mênh mông bát ngát.
Dặm cuối của con đường đất này sẽ đi qua khu rừng già râm mát, tài sản của Kỹ Tòng Thư. Nhưng đoạn phía ngoài đất đai khá cằn cỗi, hai bên gò đống lổm nhổm và mọc đầy cỏ dại, chỉ hợp với việc chăn dê, bò.
Đi được hơn hai dặm thì ba người nghe phía trước vọng lại tiếng sắt thép chạm nhau gay gắt, tiếng quát tháo. Tử Khuê chột dạ nói lớn:
- Có thể Kỹ gia trang đã xảy ra biến cố gì, xin đại ca phóng thật nhanh cho.
Chàng chẳng nói thì Dịch Quan San cũng quất túi bụi vào mông ngựa khiến chúng lồng lên phi nước đại. Và gã chỉ gò cương khi còn cách đấu trường độ chục trượng.
Tử Khuê nhanh nhẹn trèo lên nóc thùng xe, chú mục quan sát. Chàng sợ đến toát mồ hôi khi nhận ra cỗ xe song mã quen thuộc mà song thân chàng thường sử dụng. Và cạnh đó, Kỹ nương, Trình Thiên Kim, Trình Kiếm Các cùng tám ả nữ tỳ Hầu phủ, đang tử chiến trong vòng vây của gần trăm gã cao thủ Xoa Lạp Cốc.
Nghĩa là Kỹ nương đã thay đổi kế hoạch ban đầu thôi, đi thẳng đến huyện Trình trước, gặp Hầu tước lão phu nhân để xác định mối lương duyên của Tử Khuê và Thiên Kim. Sau đó, mẹ chồng nàng dâu quay lại Bảo Bình dự đám cưới. Đã là thông gia nên Hầu phủ cử Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các đại diện mình đến chung vui với nhà họ Kỹ. Có lẽ Xoa Lạp Cốc đang trên đường đến huyện Trình để tấn công Hầu phủ thì chạm mặt Thiên Kim. Họ đã bám theo đến tận đoạn đường vắng vẻ này mới ra tay.
May mà trận địa rất gần Kỹ gia trang nên một tá điền của Tòng Thư đã chạy về thông báo. Kỹ gia trang đang mong chờ bào muội, nên đoán ra ngay lai lịch những vị khách gặp nạn. Ông lập tức kéo đi hơn trăm đệ tử giải vây.
Nhưng phe đối phương bản lĩnh rất cao cường, lại có vật che thân hữu hiệu là những chiếc nón tre lợp thép mỏng khiến cung tên của Kỹ gia trang mất tác dụng. Đám gia đinh chỉ còn biết chiến đấu bằng trường kiếm. Tòng Thư cùng ái nữ là Lưu Tiên dẫn đám thuộc hạ mở đường máu vào cứu, mười hai nạn nhân đang sa bẫy. Tổng số là mười hai vì trong xe thấp thoáng bóng của một lão nhân râu ba chòm, đích thị Quách Thiên Tường, chổng của Kỹ Thanh Lam.
Lúc Tử Khuê nhận ra người thân thì tình hình của họ đã khá nguy ngập, vài tỳ nữ thọ thương, máu nhuộm đỏ y phục. Chàng nghẹn ngào nói nhanh với Dịch Quan San:
- Gia mẫu và gia phụ đang lâm nguy, xin đại ca giúp một tay.
Vô Tướng Quỷ Hồ lẳng lặng lao vút đi trước cả Tử Khuê. Tái Vân cũng bám theo tình lang và thỏ thẻ :
- Thiếp xin được chết như một nàng dâu nhà họ Quách.
Tử Khuê cảm động gật đầu song chẳng có gì để nói trong lúc này. Chàng lướt đi như tên bắn, cùng Quan San nhất tề tấn công hai tên tơi nón đang giao đấu với bốn đệ tử Kỹ gia trang.
Đối tượng của Tử Khuê là một gã trung niên. Gã cảnh giác nhảy lùi khỏi hai địch thủ cũ mà đón đánh cái tên áo gấm, mặt sần sùi và đen như trôn chảo bằng một chiêu kiếm mãnh liệt.
Tử Khuê đã sớm đeo “Ngư giáp miệt” nên thản nhiên, thò tả thủ chặn đứng thanh kiếm của kẻ thù và thọc một gươm vào mắt trái. Nhãn cầu và não bộ bị xuyên thủng, tạo ra cảm giác đau đớn tột độ khiến nạn nhân rú lên thảm khốc.
Tử Khuê chẳng dừng chân, tiếp tục sấn tới. Mục tiêu thứ hai của chàng chưa hiểu đồng bọn bị thảm tử mau lẹ bởi thủ đoạn gì nên hung hãn lao vào báo phục. Tử Khuê lạnh lùng khoa nhanh tả thủ, trong chớp mắt đã khoá cứng vũ khí của đối phương rồi vung kiếm tiện đứt cánh tay phải. Chàng đã thức ngộ ra rằng cách hạ thủ này nhanh gọn và hiệu quả hơn nhiều, vì nạn nhân không thể dùng nón thép mà chống đỡ.
Dịch Quan San và Tái Vân cũng đã giết được một tên song khá vất vả. Gã thấy Tử Khuê tiến quá nhanh và sẽ chậm chân vì phía sau không có người bảo vệ, phải phân tâm đối phó. Gã liền kéo Tái Vân lao theo, đấu lưng với Tử Khuê, vừa đánh vừa lui theo bước tiến của chàng. Họ thủ nhiều hơn công, chỉ cốt để Tử Khuê an tâm mở đường máu.
Bản lĩnh kiếm thuật của Đông Nhạc Tiên Hồ cũng rất cao siêu. Nếu không nàng đã chẳng có tên trong “Võ Lâm Ngũ Tú”. Nhưng do quý trọng nhan sắc, Tái Vân thương né tránh những cuộc chiến khốc liệt, trong trận tranh giành “Diêm Vương quỷ kỳ” ở Kỹ gia trang lần trước, Tái Vân đã nhảy tót lên ngọn cây mà quan chiến, mặc cho Âu Dương Mẫn vào sinh ra tử.
Nhưng hôm nay, Tái Vân chẳng còn màng đến dung nhan hay tính mạng, nguyện cùng Tử Khuê sống chết có nhau. Nàng hiểu rằng Tử Khuê phải cứu cho được song thân bằng bất cứ giá nào, và nàng có nhiệm vụ giúp chàng, dẫu có mất mạng cũng cam lòng.
“Thái Âm kiếm pháp” của núi Đông Nhạc là tuyệt học chỉ dành cho phái nữ, chiêu thức ảo diệu linh hoạt, chú trọng đến tốc độ và tính hiểm ác hơn là sức lực. Tái Vân rất thông minh và thừa xảo trá nên đã tiếp thụ trọn vẹn sở học của Thái Sơn Nương Nương. Và khi có dũng khí có của một kẻ dám hy sinh vì người yêu thì đường gươm của nàng càng ác độc bội phần. Thế gian vẫn truyền tụng câu “Tối độc phụ nhân tâm”, độc nhất là lòng dạ đàn bà, cho nên loại kiếm pháp dành đàn bà cũng đáng sợ chẳng kém gì bản chất của họ.
Tái Vân thi triển “Thái Âm kiếm pháp” để giết người mà cứ như một tiên nữ đang múa điệu Nghê Thường. Thân hình nàng uyển chuyển, uốn éo cực kỳ đẹp mắt, môi anh đào nở nụ cười mê hoặc khiến đối phương ngơ ngẩn. Song đường gươm hoa mỹ, khinh khoái kia hàm chứa sát cơ vì gồm hàng trăm thế thức hiểm hóc thâm độc.
Chính Dịch Quan San cũng phải khâm phục tài nghệ của em gái, khi thấy nàng vừa cười vừa đâm thủng hai người gã Xoa Lạp. Bản thân gã cũng chỉ thu hoạch được bấy nhiêu chiến tích.
Những áp lực xung quanh ngày càng nặng nề vì tiếng rên la xé lòng của những gã bị Tử Khuê chặt tay hay đâm chết đã đánh động đám cao thủ Xoa Lạp Cốc già nua. Bọn lão thành ấy kéo đến, cố chặn bước tiến của ba người. Một lão cầm chân Tử Khuê và hai lão khác tấn công anh em họ Dịch.
Ba lão nhân nọ mặc áo tơi sơn màu xanh, chứng tỏ vai vế khá cao vì những gã trẻ hơn chỉ khoác áo tơi đen. Trong làng võ, độ tuổi từ năm mươi tới bảy mươi là khoảng thời gian mà bản lãnh người võ sĩ phát triển tốt nhất. Lúc ấy, tu vi đã thâm hậu, kinh nghiệm dày dạn, võ nghệ tinh thông. Sau đó cái già xồng xộc đến, mang theo bệnh hoạn nên phần lớn các võ sĩ có tuổi sẽ yếu đi.
Tất nhiên cũng có ngoại lệ là những người chăm chỉ luyện khí công và không ăn chơi trác táng. Dẫu giỏi võ cách mấy mà cứ nốc rượu như hũ chìm, thức trắng đêm trong đổ trường, kỹ viện suốt nhiều năm thì về già làm sao tráng kiện nổi.
Tóm lại, ba lão sứ giả Xoa Lạp Cốc đang hồi sung sức vì tuổi độ chỉ dưới trên lục tuần, thừa sức gây khó khăn cho bọn Tử Khuê.
Sau vài chiêu, Tái Vân bị trúng một kiếm vào bắp tay tả. Tiếng rên của nàng càng khiến Tử Khuê càng thêm nóng ruột. Chàng đã xuất chiêu “Kiếm Quải Thu Phong” mà không sao chiếm được chút lợi thế nào. Tử Khuê nghiến răng đánh chiêu “Thiên Đoạn Nhân Trường” (Trời cắt ruột người) trong “Oán Thiên kiếm pháp”, tấn công như vũ bão. Mấy trăm thế thức huyền ảo đã khéo léo đưa đối phương vào bẫy. Lão tơi nón hân hoan thọc nhanh một kiếm vào chỗ sơ hở chết người mà gã mặt đen vô tình để lộ ra. Bậc kiếm thủ thượng thừa luôn biết khai thác kịp thời những cơ hội ngàn vàng như thế.
Nhưng khi thanh kiếm của lão ta vừa đâm rách da thịt Tử Khuê thì đã bị chàng thò tả thủ chụp lấy. Đồng thời mũi gươm của chàng chẳng rõ bằng cách nào đã xuyên thủng bụng đối thủ. Sau đó Tử Khuê khẽ xoay bản kiếm, gạt xéo sang phải, cắt đứt phủ tạng nạn nhân. Vết thương trầm trọng này đã buộc lão già xấu xổ phải rú lên và ngã quỵ. Tử Khuê không phí thời gian kết liễu đời kẻ đã thọ thương, lập tức quay ngắt lại tấn công đối thủ của Tái Vân, một lão râu ba chòm rất đẹp.
Lão ta đành phải dùng khiên đỡ đòn của Tái Vân, còn trường kiếm thì đương cự với Tử Khuê. Khi đã phân tâm như vậy thì lão chẳng thể nào phá giải nổi chiêu “Thanh Long Lộng Nguyệt” của chàng. Trong chớp mắt chín đạo kiếm quang tựa móng rồng đã phủ lấy mục tiêu và đâm thủng ba lỗ trên người của lão.
Tử Khuê giải vây cho người yêu xong, quay lại đối phó với hai gã Xoa Lạp đang cắn trộm. Bàn tay trái của chàng chập chờn vài lượt đã tóm được lưỡi kiếm của một gã. Cùng lúc ấy, chàng điểm liền mười sáu nhát, đâm thủng tim gã còn lại.
Cái gã bị Tử Khuê đoạt kiếm đã khôn ngoan bỏ vũ khí mà thoái bộ nên thoát chết. Và Tử Khuê sắp đến được với những người thân. Chàng đề khí tung mình qua đầu bốn năm gã Xoa Lạp Cốc, rơi xuống sau lưng đối thủ của mẹ mình. Chân vừa chạm đất thì mũi gươm của chàng đã đâm thủng hậu tâm lão già nọ.
Kỹ nương vui mừng khôn xiết khi nghe gã mặt đen xấu xí kia khẽ lên tiếng:
- Mẫu thân! Là hài nhi đây!
Giọng nói của con mình thì không một người mẹ nào lầm được. Nhưng Kỹ nương không dám hô hoán vì sợ bại lộ tung tích của Tử Khuê, liên luỵ đến Quách gia trang sau này.
Tử Khuê đã quay sang, nhảy xổ vào địch thủ của Thiên Kim. Đấy là một gã thuận tay trái nên cầm nón sắt bằng hữu thủ. Tử Khuê chẳng khó chăn gì cũng chụp trúng chóp nón, hất ngược lên và đâm thủng sườn phải của gã.
Nữ Hầu tước họ Trình đã thọ thương nơi bụng, máu đào loang ướt bộ võ phục bằng lụa xanh. Nàng nhìn ân nhân bằng ánh mắt biết ơn rồi lảo đảo, Tử Khuê kinh hãi đưa tay đỡ lấy điểm huyệt chỉ huyết và nói rằng :
- Kim muội! Vết thương có sâu đến phủ tạng hay không?
Thiên Kim giật mình hỏi:
- Tướng công đấy ư?
Thấy chàng gật đầu, nàng mừng đến ứa nước mắt dù miệng cười như hoa nở. Và nàng trấn an phu tướng:
- Tướng công chớ lo. Đây chỉ là vết thương ngoài da thôi.
Chỉ trao đổi được bấy nhiêu là họ đã phải vung gươm cự địch. Lúc này, Dịch Quan San và bào muội cũng đã đến nơi. Gã vỗ thử vào thùng xe và cao giọng :
- Tất cả những người bị thương nặng hãy lên xe.
Nói xong họ Dịch vung gươm chặt dây nhợ trên càng xe để tách rời thùng xe ra khỏi hai con ngựa đã chết bởi ám khí của Xoa Lạp Cốc. Thứ ám khí độc đáo ấy là những chiếc nón thép. Lúc cần thiết, lớp tre bên ngoài được gỡ ra rất dễ dàng và lớp thép mỏng bên trong thừa sức cắt phăng da thịt của người hay vật khi được phóng ra với tốc độ kinh hồn.
Có lẽ Xoa Lạp Cốc chỉ muốn bắt sống Trình Thiên Kim, nếu không thì ngay từ đầu họ đã thi thố “Phi Lạp trận”. Gần trăm chiếc nón sắt nhất tề bay đến thì chẳng còn mấy người sống sót.
Sau khi bốn tỳ nữ thọ thương đã vào trong thùng xe, Dịch Quan San và Trình Kiếm Các cùng nắm lấy càng xe kéo đi, cánh tay còn lại múa tít đao kiếm mở đường.
Trình lão nổi danh Phá Sơn Quyền là do lúc trẻ từng đến Giang Nam tranh chức “Giang Nam đệ nhất quyền thủ”. Lão đã lọt vào hàng ngũ mười người giỏi nhất đánh vòng chung khảo. Tuy bị thua ở vòng này song cái tên Phá Sơn Quyền cũng được tán tụng.
Nhưng quyền thuật chẳng thể cạnh tranh với khí giới, bằng chứng là không có cuộc chiến tranh nào sử dụng nắm đấm cả. Bởi thế cho nên Trình Kiếm Các cũng phải học đao pháp. Lão lại may mắn thừa kế của sư phụ mình một thanh đao rất tốt. Tuy nó không sắc bén đến mức chặt gẫy được đao kiếm của đối phương, song lại đủ sức chém rách những chiếc nón bằng thép mỏng của bọn Xoa Lạp Cốc. Nhờ vậy mà Trình Kiếm Các đã giết được khá nhiều kẻ địch và hỗ trợ hữu hiệu cho đám nữ nhân, nếu không họ đã chẳng cầm cự được đến giờ này.
Lưỡi đao, lưỡi kiếm đều được mài rất sắc thì tại sao động tác chém lại là sở trường của đao ? Xin thưa rằng, đấy là vì đao nặng gần gấp đôi kiếm, lực đao rất mạnh mẽ và yếu tố quan trọng nhất chính là độ cong của lưỡi đao, lưỡi kiếm thì thẳng băng nên diện tích tiếp xúc với vật sẽ lớn, áp lực trải đều và phân tán. Trong khi ấy, do độ cong mà đao tiếp xúc với vật ít hơn, áp lực tập trung vào một đoạn nhỏ tất nhiên sức công phá sẽ rất mãnh liệt.
Tóm lại đao chính là khắc tinh của các loại khiên thuẫn, nhất là thứ đao quý. Giờ đây, Trình lão hiên ngang bổ những nhát đao dũng mãnh khiến chiếc nón thép kêu lên loảng xoảng, ồn ào và rách toang. Ở tuổi sáu mươi hai, không vợ con, lấy võ học làm niềm vui nên bản lĩnh và nội lực của Trình Kiếm Các rất cao thâm.
Thấy Dịch Quan San phải đối phó vất vả với lũ tơi nón, Trình lão liền nói:
- Túc hạ hãy kéo xe một mình để lão phu mở đường.
Họ Dịch gật đầu, tra kiếm vào vỏ, dùng cả hai tay nắm lấy càng xe, ra sức kéo. Trình Kiếm Các rảnh tay hiển rộng thần oai, quét những đường đao rất rộng, đánh bạt bọn tơi nón trước mặt.
Phần Tử Khuê thì cùng bảy nữ nhân kia bảo vệ thùng xe. Chàng không đứng yên một chỗ mà cứ lướt nhanh khắp lượt phòng tuyến, hỗ trợ người thân.
Càng đánh lâu, Tử Khuê càng hiểu rõ lộ số thủ pháp đánh thuẫn tức nón thép của phe Xoa Lạp Cốc. Và khi chàng đã biết rõ nó biến hoá như thế nào thì đối phương khó sống. Mũi kiếm của chàng chỉ điểm hờ vài lượt là đã xuyên qua màn lạp ảnh, đâm thủng người kẻ địch. Dĩ nhiên cùng lúc ấy chàng phải thi triển “Thao Quang Thần Thức” bên tay trái để chống đỡ đối với lưỡi gươm của kẻ thù. “Ngư Giáp miệt” đã phát huy hết oai lực của “Thao Quang Thần Thức” về mặt quyền thuật, song giá như nó còn để cho những tia chân khí ở đầu ngón tay của Tử Khuê thoát ra được thì hay biết mấy. Nhưng thực ra trong trường hợp đối phó với vũ khí thì phép “Cương Ty Phất Huyệt” không có hiệu quả cho lắm. Công lực Tử Khuê còn non, độ dài của tia chân khí chẳng vươn tới được cơ thể của kẻ thù.
Với ưu thế hiện tại, Tử Khuê cũng đã là đại khắc tinh của Xoa Lạp Cốc. Tiếng rên la liên tiếp vang lên của mấy chục nạn nhân khiến bọn sát thủ tơi nón phải chột dạ. Nhân số Xoa Lạp Cốc giảm đi nhanh chóng theo bước tiến chậm chạp của cỗ xe không ngựa.
Mặt trận vòng ngoài cũng rất khả quan. Phe Kỹ gia trang nhờ nhân số đông gấp đôi, dùng hai chọi một nên chiếm thượng phong. Và cuối cùng cha con Kỹ Tòng Thư và đệ tử đã phá vỡ được phòng tuyến phía bắc, tiếp cận được với cỗ xe.
Bọn Xoa Lạp Cốc đã lùi hẳn về phía nam và còn bị vây kín mít.
Kỹ nương thấy mặt huynh trưởng lập tức cúi xuống dập đầu :
- Đại ca! Đứa em bất mục, bất nghĩa này xin khấu đầu tạ tội với đại ca.
Kỹ Tòng Thư vội đỡ em gái lên, sa lệ nói:
- Lục muội! Ngu ca chưa bao giờ giận ngươi cả.
Kỹ Thanh Lam chưa kịp nói thêm lời nào thì từ xa vọng lại tiếng vó ngựa, tiếng trống chiêng của quân binh Bảo Bình. Vòng vây xung quanh bốn mươi mấy gã Xoa Lạp Cốc càng vững chắc vì có thêm hai trăm quân của nha môn.
Tri huyện Bảo Bình đã cùng viên lãnh binh đã kéo quân đi ngay khi nghe báo rằng có cường đạo tấn công phe Kỹ gia trang. Kỹ Tòng Thư tính tình hào phóng, rộng rãi, nên rất được lòng các quan lại địa phương.
Biết rằng có chống cự nữa cũng không thể nào thoát được, bọn Xoa Lạp Cốc liền buông vũ khí đầu hàng. Người của nha môn lúc nào cũng mang theo xích sắt nên chỉ lát sau bọn tù bình đã bị trói chặt. Những tên thọ thương trong trận đánh lúc nãy đã bị các gia đinh bên Kỹ gia trang giết chết.
Dịch Quan San nghiêm nghị nói nhỏ với Tòng Thư:
- Kỹ trang chủ! Tốt nhất là nên giết sạch hàng binh, phi tang các xác chết, xem như bọn Xoa Lạp Cốc chưa hề đến đây. Nếu không thì cả huyện đường lẫn Kỹ gia trang sẽ chẳng còn một mảnh ngói lành trước sự trả thù của Xoa Lạp Cốc. Trang chủ không nhớ vụ huyết án Thanh Long trại hay sao?
Kỹ Tòng Thư rùng mình, suy nghĩ một lúc rồi bước đến bàn bạc với Hà Tri huyện và Hồ lãnh binh. Hai người này vợ con đùm đề nên cũng sợ khiếp vía, liền đồng ý với kế hoạch của Tòng Thư. Hà Tri huyện nhăn mặt nói:
- Kỹ lão huynh cứ tuỳ nghi xử trí. Bổn quan bảo đảm rằng bọn lính sẽ thủ khẩu như bình.
Nói xong, lão bảo Hồ lãnh binh thu quân, để bọn tù binh ở lại. Họ đi khuất rồi, Kỹ Tòng Thư lập tức ra lệnh:
- Giết hết bọn Xoa Lạp Cốc cho ta!
Đám gia đinh nhà họ Kỹ hung hãn ùa đến, định thi hành lệnh của chủ nhân.
Tử Khuê đang ở trong xe vấn an phụ thân, nghe câu nói đầy sát khí của Đại Cửu phụ thì rùng mình vội nhảy xuống đất và hét lên:
- Khoan đã! Xin chớ giết họ!
Tòng Thư đã biết gã mặt đen kia là cháu mình, liền cau mày bảo:
- Lão phu vì an nguy của chúng ta sau này nên không thể tha chúng được. Mong Khuê nhi hiểu cho.
Tử Khuê buồn bã khẩn cầu:
- Xin Cửu phụ để cho tiểu điệt thử một phen. Giết người vì tự vệ thì còn biện minh được chứ sát hại kẻ đã đầu hàng e rằng không nên.
Kỹ nương thở dài xen vào:
- Sát nhân nào phải chuyện tốt lành, nhưng xem ra chẳng còn cách nào khác. Khuê nhi chớ can thiệp vào.
Bốn mươi hai gã tù binh Xoa Lạp Cốc biết mình sắp bị giết thì lòng vô cùng kinh hãi. Họ đầu hàng vì biết chắc rằng sớm muộn gì Cốc chủ Xoa Lạp Cốc cũng sẽ kéo đại quân đến phá lao cưỡng tù. Nào ngờ đối phương lại đoán ra điều ấy, chặt đứt sinh cơ bằng cách giết người diệt khẩu.
Họ thuộc lớp đệ tử đời thứ tư, mới được tuyển mộ độ mười năm nay, tuổi trên dưới ba mươi, lứa tuổi cường tráng và khát khao sự sống. Đa số trong bọn họ là người thiểu số ở Sơn Tây, vì nghèo khổ mà phải gia nhập Xoa Lạp Cốc kiếm chén cơm manh áo. Cao nguyên Sơn Tây rất lạnh giá, đất đai cằn cỗi, chỉ toàn là than đá, đất canh tác được rất ít.
Nay đứng trước cái chết, những con người chất phác, thô lậu và khốn khổ ấy hoảng sợ đến mức tứ chi bủn rủn, mặt mày tái mét, ánh mắt đầy vẻ van xin, trông rất đáng thương.
Họ đã loáng thoáng nghe được cuộc tranh luận của phe địch nên đặt hết niềm hy vọng vào cái gã mặt đen kia. Gã ta đúng là một hung thần, đã giết chết và đả thương khá nhiều đồng đảng của họ, nhưng không ngờ lại là kẻ có lòng nhân hậu.
Lúc này Tử Khuê đang cố van nài cậu và mẹ. Chàng rầu rĩ nói:
- Bẩm Đại Cửu phụ và mẫu thân. Hài nhi là kẻ có số phận đen đủi, từ nhỏ đã luôn gặp phải những tai ương kỳ dị, nhờ vậy mà thức ngộ được rằng thế gian có luật nhân qua báo ứng. Nay chúng ta sát hại một lúc hơn bốn chục sinh linh thì sẽ tổn hại đến âm đức, tạo nghiệp chướng cho kiếp này và kiếp sau.
Quách Thiên Tường đã xuống, nghe ái tử nói vậy thì đồng ý ngay. Ông nghiêm nghị bảo Tòng Thư:
- Khuê nhi bảo rất phải. Tiểu đệ khẩn cầu đại ca tha cho họ. Tiểu đệ không sợ chết mà chỉ sợ quả báo.
Kỹ Tòng Thư ngượng ngùng phân bua:
- Đây vốn chẳng phải là ý của Kỹ mỗ. Nay muội phu đã nói thế thì ta sẽ giao lại cho Khuê nhi giải quyết.
Tử Khuê mừng rỡ vái tạ rồi bước đến nói với bọn tù binh:
- Ta vì đức hiếu sinh của trời đất mà tha mạng cho các người. Nhưng ta sẽ phế bỏ võ công để các ngươi không thể tiếp tục theo Xoa Lạp Cốc mà làm việc ác nữa. Các ngươi hãy về bẩm báo với Cốc chủ rằng Hàn Thiếu Lăng muốn so tài để kết liễu ân oán. Thời hạn và địa điểm sẽ tùy quý Cốc chủ định đoạt.
Được tha chết, đám tù binh mừng hết lớn nhưng không nói lời cảm tạ. Một gã dùng Thổ ngữ nói gì đó với đồng đảng và được cả bọn tán thành. Gã ta liền ấp úng thưa với ân nhân:
- Bẩm công tử. Nếu bọn ta mất võ công thì có về đến quê hương cũng chết đói. Hay là công tử nhận bọn ta làm thuộc hạ, cơm no áo ấm là đủ, không phát lương cũng chẳng sao.
Gã dứt lời, nuốt nước miếng nói tiếp:
- Tất nhiên là trong bữa cơm phải có vài ly rượu, không có thứ ấy thì bọn ta chết mất.
Cả sắc diện lẫn ngôn từ đều thật thà như đếm, khiến mọi người bật cười.
Quách Thiên Tường lão luyện thương trường, nhìn người rất giỏi. Ông hiểu ngay bọn dũng sĩ kia có thể tin tưởng được. Và nếu được hậu đãi, họ sẽ xả thân để phò tá Tử Khuê. Ông luôn lo lắng khi thấy ái tử một mình một ngựa gánh vác những chuyện bao đồng của võ lâm.
Quách lão liền cười khà khà, bước đến vui vẻ nói với bọn tù binh:
- Nếu các ngươi hết dạ phò tá con trai ta, thì ngoài cơm áo lão phu sẽ phát lương mỗi tháng mười lạng bạc trắng.
Thời ấy lương của một binh sĩ triều đình chỉ độ một lượng bạc. Và chính bọn thủ hạ cấp thấp của Xoa Lạp Cốc cũng lãnh bấy nhiêu nên chúng vui mừng khôn xiết, nhất tề gật đầu lia lịa. Gã đại diện thì cười toe toét phúc đáp:
- Bẩm lão gia! Nếu biết ông trả lương cao như thế thì bọn ta đã đến nhà ông xin làm đầy tớ từ lâu rồi. Chỉ sau một năm là bọn ta đã dành dụm đủ tiền để cưới vợ.
Tối hôm ấy Kỹ gia trang mở tiệc mừng anh em đoàn tụ và mừng chiến thắng. Niềm vui khá trọn vẹn vì phe nhà chỉ bị thương chứ không ai mất mạng. Với lợi thế hai đánh một, đám đệ tử nhà họ Kỹ đã bảo toàn được mạng sống trước những tay kiếm lợi hại của Xoa Lạp Cốc. Nhờ vậy mà họ không oán hận và dễ dàng hoà hợp với bốn mươi hai gã hàng binh. Song phương vui vẻ cùng nhau vùi lấp ba mươi tám tử thi thủ hạ Xoa Lạp Cốc trong khu rừng. Chắc là năm sau cây sẽ sai trái nhờ thứ phân bón đặc biệt là thịt người. Nhất là những cây được hân hạnh đón tiếp thi thể của ba vị Hộ pháp thân phận cao cả. Họ đều đã chết dưới tay Tử Khuê.
Trong số những người thọ thương có cả Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân. Nàng trúng tổng cộng ba nhát kiếm, nhát đầu vô hại nhưng hai nhát sau khá nặng. Tái Vân chiến đấu ở giữa Kỹ nương với Thiên Kim và nàng đã vì cứu mạng họ mà bị thương. Hai người ấy rất biết ơn Tái Vân và cả Dịch Quan San.
Tuy nhiên do đã từng nghe Tử Khuê kể về bệnh lãnh cảm của Đông Nhạc Tiên Hồ nên Kỹ nương và Thiên Kim không hề nghi ngờ rằng chàng cùng Tái Vân dan díu với nhau. Dịch Quan San cũng đã khuyên Tử Khuê khoan tiết lộ, chờ cơ hội tốt hơn.
Những vết thương nhẹ không cản trở Trình Thiên Kim và Tái Vân tham gia bữa tiệc tẩy trần. Họ ngồi cạnh nhau, nói cười thân thiết như tỷ muội.
Quách Thiên Tường được dịp ngắm kỹ Dịch Tái Vân, lòng vô cùng ái mộ. Ông thầm suy nghĩ:
- Họ Quách mà có thêm nàng dâu như con bé họ Dịch này thì cả thành Hứa Xương phải ganh tỵ. Chẳng lẽ Khuê nhi lại khờ dại đến mức bỏ qua một nữ nhân nhan sắc tuyệt trần như thế?
Quách lão không biết gì về quái tật của Tái Vân thì Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các cũng vậy. Và với cương vị là biểu thúc của Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim, ông lấy làm lo ngại cho cháu gái khi thấy Đông Nhạc Tiên Hồ quá đẹp và lại đồng hành cùng Tử Khuê một cách rất đáng ngờ. Trình lão liền dò hỏi Quan San:
- Này Dịch hiền điệt! Vì sao người và lệnh muội lại chung đường với Khuê nhi.
Dịch Quan San khôn ngoan đáp:
- Bẩm Trình tiền bối. Vãn bối bị bọn Xoa Lạp Cốc bắt sống, giải về tổng đàn võ lâm, đến thành Nhữ Châu thì được Quách công tử cứu mạng, vì đại ân ấy mà huyng muội vãn bối nguyện đi theo hầu hạ Quách công tử để đáp đền ân nghĩa.
Trình lão than thầm, tìm cách nhắc nhở cháu gái. Ông tủm tỉm cười nói:
- Ngươi thọ ân thì phải trả nhưng sao lại bắt một nữ nhân nổi tiếng như Tái Vân theo hầu Khuê nhi? Như vậy chẳng phải là khuất tất cho lệnh muội lắm ư?
Trình Thiên Kim không hề lưu tâm đến lời cảnh báo của biểu thúc. Cau mày hỏi Dịch Quan San vấn đề khác:
- Dịch đại ca! Âu Dương Mẫn liên minh với Xoa Lạp Cốc phải chăng là để đối phó với Nam - Bắc Song Tôn?
Nàng là bậc anh thư, chí khí chẳng kém bậc mày râu nên mới thành lập Hoàng Phong Bang, dương danh thiên hạ. Do đó Thiên Kim rất chú ý đến cục diện võ lâm, thay vì đề phòng phu tướng đa mang. Đàn bà như nàng quả thật là hiếm có vậy.
Dịch Quan San từ tốn đáp:
- Tiểu thư quả là sáng suốt, đúng là Âu Dương Mẫn đã tính toán như thế. Tại hạ tin chắc rằng giang hồ sắp nổi phong ba, máu chảy thành sông khi Âu Dương Mẫn cùng Xoa Lạp Cốc tảo trừ Mai Hoa bang và Bích Huyết bang.
Trình Thiên Kim đầy bụng “Lục thao tam lược”, hào hứng bàn tiếp:
- Nếu đúng như thế thì tiểu muội phỏng đoán rằng trong Xoa Lạp Cốc phải có một đại cao thủ đủ sức đánh bại hai lão Thiên Tôn. Bằng không Âu Dương Mẫn sẽ chẳng dám sính cường.
Dịch Quan San mỉm cười:
- Tiểu thư luận việc như thần, tại hạ xin bái phục. Đương kim Thiếu Cốc chủ Xoa Lạp Cốc chính là đệ tử của Lôi Đình Đế Quân, bản lĩnh nghiêng trời lệch đất, thừa sức thắng Nam hoặc Bắc Thiên Tôn.
Kỹ Tòng Thư nghi hoặc hỏi:
- Vì sao ngươi lại biết tất cả những bí mật ấy?
Dịch Quan San nghiêm nghị đáp:
- Vãn bối đã nằm trên mái ngói tổng đàn võ lâm, nghe hết cuộc đàm đạo giữa minh chủ Âu Dương Mẫn và bọn hộ pháp Xoa Lạp Cốc.
Trừ Tử Khuê và Tái Vân, những người khác còn lại trong bàn đều giật mình, không ngờ Dịch Quan San lại tài ba đến mức ấy. Phá Sơn Quyền suy nghĩ một lúc, trầm giọng bảo:
- Với tài hoá trang và thuật “Phi thiềm tẩu bích” kia thì các hạ phải là Vô Tướng Quỷ Hồ. Lão phu nói có đúng không?
Dịch Quan San mỉm cười gật đầu:
- Chính là tại hạ.
Rồi gã kể lại cớ sự bi thảm của gia đình mình khiến ai cũng động lòng thương xót. Thiên Kim thở dài bảo Tái Vân:
- Tiểu muội không ngờ số phận của Dịch thư thư lại đáng thương như vậy.
Quách Thiên Tường đã ngà ngà say, chẳng còn sợ vợ nữa, kề tai phụ nhĩ con trai:
- Này Khuê nhi! Con đừng vì chút thành kiến hẹp hòi của mẫu thân ngươi mà để lỡ cơ hội ngàn vàng. Tái Vân xinh đẹp như tiên, ngươi bỏ qua thì đúng là ngốc tử. Đã có phụ thân hậu thuẫn, ngươi cứ việc tuỳ nghi hành động. Ta muốn con gom hết mỹ nhân trong thiên hạ về Quách gia trang, có thế mới đáng mặt trượng phu.
Tử Khuê vừa mừng, vừa thẹn, lí nhí đáp:
- Hài nhi rất muốn tuân mệnh phụ thân song lại sợ mẫu thân và Thiên Kim. Mong lão gia khéo léo an bài, kẻo hài nhi lãnh đủ hậu quả. Một kẻ vận may đen đủi như hài nhi thì chuyện tình duyên khó mà suôn sả được.
Quách Thiên Tường đắc ý đáp:
- Khuê nhi chớ lo. Lão phu đã có diệu kế.
Ông quay sang giả vờ chuyện trò với anh vợ là Kỹ Tòng Thư một lúc rồi mới cao giọng bảo Kỹ nương:
- Này phu nhân! Hôm nay chúng ta được toàn mạng cũng có phần công lao của anh em Dịch hiền điệt đây. Họ lại mồ côi, không nơi nương tựa nên lão phu định bàn với bà nhận họ làm con nuôi. Ý phu nhân thế nào?
Tất nhiên là Kỹ nương tán thành ngay, cho rằng mình chẳng thiệt thòi gì. Bà vui vẻ đáp:
- Tướng công dạy rất phải. Thiếp cũng mong được như vậy.
Dịch Quan San và Tái Vân lập tức rời ghế, quỳ xuống lạy chín lạy, gọi vợ chồng Quách Thiên Tường là Can gia, Can nương.
Quách lão cười ha hả, tuyên bố:
- Vân nhi ! Con đã vì Can nương và Thiên Kim mà lãnh hai vết thương nên lão phu sẽ tặng ngươi hai vạn lạng vàng làm của hồi môn.
Sự hào phóng khủng khiếp ấy đã làm Kỹ nương choáng váng và tiếc đứt ruột. Nhưng lời nói ra bốn ngựa khó theo, bà không thể làm gì được nữa, đành phải gượng cười. Kỹ nương là người căn cơ, cần kiệm, tuy tri ân Tái Vân nhưng không đến mức đền đáp bằng một số vàng lớn như thế. Vả lại chính anh em họ Dịch đã chịu ơn Tử Khuê trước.
Bà nhìn sang con dâu thì thấy Thiên Kim cũng lộ vẻ xót xa, tiếc của y như mình.
Chờ hai đứa con nuôi chết tiệt kia nói xong lời tạ ơn và ngồi vào ghế, Kỹ nương liền giả vờ rủ Thiên Kim vào sau thay áo, tức là đi tiểu.
Vừa khỏi phòng ăn, bà đã nghiến răng nói:
- Chết thực! Không ngờ lão gia say rượu nói càn, đem tài sản mồ hôi nước mắt của nhà ta ra cho người ngoài. Hai ngàn lượng thì còn được chứ hai vạn lượng thì ta không thể chấp nhận được.
Thiên Kim thực thà đáp:
- Hài nhi cũng tiếc lắm. nhưng nuốt lời thì còn gì là danh dự của Quách gia?
Kỹ nương trầm ngâm một lúc rồi dỗ dành con dâu:
- Này Kim nhi! Tái Vân là thạch nữ, không thể so bì với ngươi được. Hay là Kim nhi xúi Tử Khuê lấy quách ả làm nhị phòng, có thế thì chúng ta mới không mất hai vạn lượng.
Thiên Kim ngơ ngẩn đáp:
- Hài nhi xin tuân lệnh Gia nương song chỉ sợ tướng công không thuận. Chàng đã khẳng khái từ hôn với Tái Vân khi giả làm Hàn Thiếu Lăng. Lấy một nữ nhân không biết xúc cảm thì có ích gì?
Kỹ nương kiên quyết bảo:
- Chỉ cần con ưng thuận là được. Khuê nhi rất sợ ta, tất phải nghe lời dù muốn hay không muốn.
Nói xong, bà vẫy tay một ả tỳ nữ lại, sai đi mời Tử Khuê ra. Lát sau Tử Khuê xuất hiện, ngơ ngác khi nghe mẹ mình tuyên bố:
- Này Khuê nhi! Tái Vân tuy là thạch nữ nhưng nhan sắc tuyệt trần, khiến lão thân và Kim nhi rất thương mến. Do vậy bọn ta đã quyết thu nạp Vân nhi làm thiếp cho ngươi. Đây là tâm nguyện của già này, ngươi là đứa hiếu thảo chắc không nỡ cãi lời.
Câu nói hàm ý bắt buộc ấy đã khiến Tử Khuê cố nín cười. Té ra phụ thân chàng biết quá rõ tính nết vợ cũng như con dâu nên mới bày ra diệu kế này.
Thiên Kim cũng lên tiếng cầu khẩn:
- Tướng công hãy vì Gia nương và thiếp mà chịu thiệt thòi đôi chút. Vả lại Vân thư là kẻ thành danh chốn võ lâm, làm nô bộc cho chàng sao tiện.
Tử Khuê chợt thấy xấu hổ trước tấm lòng thuần hậu và độ lượng của Thiên Kim. Chàng ngượng ngùng đáp:
- Người bị thiệt thòi chính là nàng chứ chẳng phải ta. Dù lấy Tái Vân hay không thì ta vẫn yêu thương nàng nhất trên đời.
Thấy chàng đồng ý, Kỹ nương hân hoan bảo:
- Ngươi đúng là đại hiếu tử. Ngươi cứ quay lại bàn tiệc, ta và Kim nhi sẽ lên sau.
Tử Khuê vừa ngồi xuống ghế thì Quách lão đã giả vờ say quàng lấy vai con trai và hỏi:
- Khuê nhi, phải chăng mẫu thân ngươi đã trúng kế.
Tử Khuê ngượng ngịu gật đầu:
- Phụ thân quả là lợi hại. Mẫu thân đã ép hài nhi phải cưới Tái Vân.
Quách Thiên Tương rất đắc ý song chẳng dám cười lớn, cố nén lòng chờ đợi.
Lát sau, Kỹ nương cùng Thiên Kim vào đến. Bà đổi chỗ với nữ Hầu tước, ngồi xuống cạnh Tái Vân và nghiêm nghị hỏi:
- Vân nhi! Lúc đi thay áo, lão thân có nghe Kim nhi kể lại việc ngươi đã từng bị Thần Đao Bảo chủ uy hiếp mà phải nhận Khuê nhi làm vị hôn phu. Ngươi còn đem Lôi Thần ra thề thốt nhưng sau đó lại tráo trở từ hôn, việc ấy đúng hay sai?
Tái Vân hổ thẹn gật đầu:
- Bẩm Can nương. Quả đúng là có việc ấy.
Kỹ nương thở dài trách móc:
- Con đúng là kẻ hồ đồ nên mới xem thường thần thánh như vậy. Can nương e rằng con sẽ khó thoát khỏi cơn thịnh nộ của Lôi Thần đấy. Luật trời báo ứng nhãn tiền chứ chẳng đợi đến kiếp khác đâu.
Kỹ nương tung xong trái cầu thì Thiên Kim hứng ngay. Nàng trịnh trọng nói:
- Vân thư! Tiểu muội tha thiết đề nghị Vân thư chịu khuất tất nhận lời làm con dâu thứ hai của Quách gia thực hiện lời thề cũ, thì may ra Lôi Thần sẽ nguôi giận. Tiểu muội hứa rằng sẽ không ỷ mình là chính thất mà bạc đãi Vân thư.
Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các giật bắn mình không ngờ cháu gái lại dại dột như thế. Ông thầm nghĩ:
- Vợ chồng họ Quách đã biết Tử Khuê dan díu với Đông Nhạc Tiên Hồ, muốn hợp thức hoá việc ấy nên bày ra kế dụ dỗ Vân nhi chứ làm gì có việc Lôi Thần linh hiển đến thế? Nãy giờ trời đổ mưa, sấm sét ì ầm mà có thấy con nha đầu họ Dịch bị cái quái gì đâu?
Ông vừa định lên tiếng phản đối thì một tia sét cực mạnh đã giáng xuống khá gần Kỹ gia trang. Lạ thay, cả bàn đều vô sự, chỉ hơi kinh hãi và ù tai, riêng Dịch Tái Vân run như cầy sấy, tóc dựng ngược tựa lông nhím.
Trình lão vô cùng kinh ngạc, không dám mở miệng ngăn cản quyết định của Thiên Kim nữa.
Hồi 9 : Thanh lâu xuất Thi Bá
Giang hồ hiện Cuồng Loan
Mờ sáng ngày hai mươi tháng sáu, đàng trai có mặt ở Kỹ gia trang và đầu giờ Tỵ thì tân nương đã được rước về đến Lư gia trang, gần cửa đông thành Dụ Châu. Cơ ngơi của Lư Tài thần rất bề thế, tráng lệ và nằm trong một vườn cảnh cực kỳ xinh đẹp, rộng đến hàng chục mẫu. Do đó tiệc cưới được bày ngay trên thảm cỏ hoa viên, giữa sắc màu rực rỡ của hoa lựu. Vườn cảnh này có cả hoa lựu màu thuần trắng và vàng chanh, nhưng màu đỏ là chính. Mùa hè cây cối xum xuê cành lá, hoa bông ít ỏi, là lúc hoa lựu đỏ rực bừng nở, thi sắc đua hương, vô cùng hấp dẫn đáng yêu.
Nhà họ Lư giàu có nhất Dụ Châu nên khách khứa rất đông, lên đến hơn ngàn. Trong số ấy, ngoài những khách được mời còn có cả những kẻ bị mời, đấy là đám họ hàng nghèo khó của Lư Tài thần. Họ đã rầu thúi ruột khi nhận thiệp mời đám cưới.
Bản thân Lư Tài thân cũng chẳng muốn mời lũ bà con mạt rệp ấy, song lại ngại tiếng đời dị nghị, chê bai nên chẳng dám quên. Trong lễ giáo Trung Hoa, tình quyến thuộc rất được xem trọng, ít nhất là về mặt hình thức. Lư Tài thần không muốn sau này một lão chú họ khố rách áo ôm nào đó chửi bới, trách móc mình vì đã không đưa thiệp hồng khi cưới dâu. Dù rằng lão ta đã rất mừng khi được quên lãng, khỏi phải bán gà, bán thóc lấy tiền đi ăn cưới.
Số khách nghèo ấy độ hai ba trăm, được bố trí riêng một khu vực. Tuy nhiên thức ăn các bàn đều như nhau. Trăm bàn tiệc còn lại được dành cho những người khá giả hoặc quyền quý. Do chú rể Lư Công Đán là kẻ thành danh chốn võ lâm nên lượng khách giang hồ khá đông.
Tây Nhạc Kiếm Khách là đệ tử yêu của Trúc Lâm Tử, chưởng môn nhân phái Hoa Sơn. Vì vậy mà số đồng môn đến mừng hôn lễ Công Đán đã gần trăm. Ngoài ra Trúc Lâm Tử còn mời cả năm vị chưởng môn nhân kia trong Hội đồng Võ lâm đến chúc mừng cho học trò mình. Đấy sẽ là một vinh dự cực kỳ lớn lao đối với nhà họ Lư. Đằng nào họ cũng phải đưa quân đến Lạc Dương hỗ trợ Tử Khuê, giải cứu Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ Hoành, nên chẳng vị long đầu nào từ chối được. Chính vì thế mà Hội đồng Võ lâm đã gặp Tử Khuê khi chàng theo đám đưa dâu về đến Lư gia trang.
Đàng trai thì rước, đàng gái thì đưa. Ngoài Kỹ Tòng Thư và gia đình em gái, trong đoàn tống hôn còn có những nhân vật nổi tiếng như bang chủ cùng phó bang chù Hoàng Phong bang đất Trình và Võ lâm đệ nhất mỹ nhân Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân. Việc này đã khiến khách đàng trai rất ngạc nhiên. Nhất là khi Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim và Dịch Tái Vân sánh vai nhau với vẻ thân thiết. Trước giờ họ nào có quen biết, qua lại gì đâu? Mọi người ngắm hai đoá hoa ấy và thầm khen bang chủ Hoàng Phong Bang kiều diễm chẳng kém Đông Nhạc Tiên Hồ.
Dịch Tái Vân thì coi trọng nhan sắc của chính mình nên rất tinh thông thuật trang điểm. Dưới bàn tay tinh tế, tài hoa của nàng, dung nhan Trình Thiên Kim hay bất cứ nữ nhân nào cũng đều trở nên xinh đẹp hơn trước bội phần.
Nàng đã ra sức điểm phấn tô hồng cho tân nương Kỹ Lưu Tiên, Trình Thiên Kim và cả mẹ chồng nữa. Kỹ nương đã đẹp đến nỗi Quách lão và Tử Khuê phải trầm trồ khen ngợi mãi. Kỹ nương vô cùng đẹp dạ sinh lòng yêu thương đứa con dâu bất đắc dĩ.
Ngược lại, với tài nghệ bậc thầy. Tái Vân đã kín đáo che mờ bớt nhan sắc của mình. Nàng thực lòng yêu thương Tử Khuê và mong muốn chàng được hạnh phúc trong cảnh gia đình êm ấm, nên sẵn sàng quên đi chính bản thân. Hơn nữa Tái Vân cảm thấy mình quá nhỏ bé trước mối chân tình quá sâu nặng mà nữ Hầu tước họ Trình đã dành cho Tử Khuê.
Họ Kỹ quê tận Tứ Xuyên, không có bà con chốn này nên đã mang theo sáu chục gia đinh để tăng phần thanh thế. Trong số ấy có bốn mươi gã hàng binh Xoa Lạp Cốc. Sau hôn lễ, chúng sẽ hộ tống vợ chồng Quách Thiên Tường về Hứa Xương, không quay lại Bảo Bình nữa.
Nón tre mới, y phục bằng lụa thượng hạng và không có áo tơi, bọn dũng sĩ đất Sơn Tây đã lột xác, chẳng còn ai nhận ra lai lịch. Họ vui sướng đến mức nói cười luôn miệng, thỉnh thoảng lại thò tay sờ nắn túi bạc bên hông. Quách lão đã phát trước cho mỗi gã ba chục lượng tiền lương. Số bạc ấy là cả một gia tài đối với những kẻ nghèo khổ, quê mùa.
Lãnh thổ Trung Hoa rộng lớn nhưng chỉ có ba phần mười diện tích trồng trọt được. Thiên tai như hạn hán, lũ lụt năm nào cũng có nên việc đói kém là thường xuyên, còn nghèo túng là bệnh kinh niên của lê thứ.
Nhắc lại, thực khách bị hai nữ nhân cuốn hút nên không chú ý đến chàng công tử áo bào xanh, tuổi độ quá hai mươi, đi chung với đàng gái. Gương mặt chàng ta trắng xanh mịn màng, toát ra vẻ văn nhã và có phần nhu nhược. Chỉ mình bang chủ Cái bang Thạch Kính Tường nhận ra gã trai yếu đuối ấy là kẻ đã từng làm chấn động võ lâm với những chiến tích lẫy lừng. Và gã cũng là mục tiêu săn đuổi của khá nhiều người.
Không ai có thể ngờ rằng chàng công tử mặt trắng trơn kia lại là Cầu Nhiêm Đại Hiệp Hàn Thiếu Lăng. Râu của Tử Khuê mọc ra do xức thuốc nên khi cạo sạch và bôi thêm một loại thuốc khác thì chẳng còn dấu vết. Người rậm râu tự nhiên dù cạo sạch kỹ cách mấy thì chân râu vẫn xanh rì một khoảng da mặt.
Sau nghi lễ bái đường, hai họ ra hoa viên để nhận lời chúc mừng của khách và khai mạc tiệc cưới.
Bàn chủ vị đặt ở giữa các bàn của khách, dành cho phụ mẫu, trưởng bối hai họ, nam tả nữ hữu. Đã chia tả hữu thì phải ngồi đối diện nên ba chiếc bàn bát tiên mặt vuông đã được nối lại thành một bàn hình chữ nhật. Đàng gái bảy người thì đàng trai cũng bấy nhiêu.
Trong đám cưới, người Trung Hoa kỵ số lẻ vì “giai ngẫu” có nghĩa là đẹp đôi. Cho nên kể cả tân nương vào thì đàng gái chẵn tám.
Do thiếu người nên đàng gái phải đưa cả những kẻ có vai vế thấp như ba vợ chồng Tử Khuê vào đoàn đại biểu. Tương ứng với việc ấy, đàng trai cũng có mặt ba chị gái của chú rể. Đám hậu bối đương nhiên phải ngồi ở cuối bàn.
Hiện tượng này hơi trái lễ tục song Lư Tài thần và Kỹ Tòng Thư là bạn văn chương, tính tình phóng dật nên chẳng thèm để ý đến tiểu tiết.
Lư Tài thần tên gọi Cảnh Thuần, tuy giàu cự vạn, song lại chẳng phải loại trọc phú mà là hạng trưởng giả phong lưu tao nhã. Thân hình lão mảnh khảnh, mặt mũi thanh tú, râu ba chòm dài thượt, trông giống thầy đồ hơn là lái buôn.
Nhưng vợ lão lại không được đẹp, thân thể núc ních những ngấn mỡ, mặt tròn như mặt thớt, trông mà phát chán.
Chính vì thế mà Lư Cảnh Thuần vô cùng ái mộ nhan sắc não nùng của Kỹ Thanh Lam, em gái của sui gia mình. Ở tuổi quá ngũ thập mà Kỹ nương trẻ trung, xinh đẹp khác thường, khiến Tài thần càng tủi thân và sinh lòng ghen tỵ với Quách Thiên Tường.
Ngược lại Quách lão rất đắc ý, hãnh diện vì vợ mình xinh đẹp hơn hẳn vợ đối phương. Ông thầm thương hại Lư Cảnh Thuần khi phát hiện lão nhìn Kỹ Thanh Lam với ánh mắt say mê. Họ Lư có thể mua những tỳ thiếp nhan sắc hơn Thanh Lam nhưng chẳng thể trưng ra khoe được. Lư phu nhân mới là người có quyền cùng Cảnh Thuần xuất hiện giao tế. Rốt cuộc Lư Tài thần vẫn bẽ mặt vì có bà vợ quá xấu.
Ngoài vợ chồng Lư Cảnh Thuần cùng ba ái nữ, phe đàng trai còn có vợ chồng lão biểu đệ của Cảnh Thuần. Lão này tên gọi là Lư Cảnh Duy, quân sư quạt mo của Lư Tài thần.
Hầu hết những dòng họ của Trung Hoa đều dùng chữ lót để phân biệt bối phận. Như trường hợp này chẳng hạn, những người lót chữ Cảnh thì cùng một đời, là huynh đệ với nhau. Tên con của Cảnh Thuần lót chữ Công và con của Lư Công Đán lót chữ Tú…
Lư Cảnh Duy là người mưu mẹo, giỏi nghề nịnh hót và đoán ý chủ nhân. Lão hiểu thấu tim đen Cảnh Thuần nên tìm cách tâng bốc họ Lư và bỉ mặt Quách Thiên Tường.
Vì an nguy của Quách gia trang mà Kỹ Tòng Thư chỉ giới thiệu phe mình một cách đại khái sơ lược, khiến cho đàng trai tưởng Quách Thiên Tường chỉ là một tiểu phú đất Hứa Xương.
Thực ra gia sản nhà họ Quách còn lớn hơn nhà họ Lư, dù Thiên Tương không mang danh Tài thần. Hứa Xương là nơi đô hội phồn vinh nhất Hà Nam, còn Dụ Châu chỉ là một địa phương nhỏ bé thô lậu.
Cho nên người giàu nhất Dụ Châu cũng chỉ bằng một kẻ bậc trung ở Hứa Xương.
Đối với hai nữ nhân thì Tòng Thư cũng không nói rõ thân phận cháu dâu, chỉ xem Thiên Kim và Tái Vân là khách, được mượn đi hộ cho đông đủ.
Thứ tự chỗ ngồi của bảy người đàng gái như sau: Kỹ Tòng Thư, Quách Thiên Tường, Kỹ Thanh Lam, Trình Thiên Kim, Dịch Tái Vân, Trình Kiếm Các, Quách Tử Khuê. Chính vì vậy người ngoài khó đoán ra quan hệ giữa Quách công tử và hai ả hồng nhan tuyệt thế. Hơn nữa nữ Hầu tước cùng Đông Nhạc Tiên Hồ đều là bậc hào kiệt võ lâm, lẽ nào lại chịu ghé mắt xanh đến cái gã con nhà giàu bạc nhược nọ? Mắt Quách công tử có vết thâm quầng chứng tỏ tính cách ăn chơi, truỵ lạc, vô tích sự.
Sau vài tuần rượu, Lư Cảnh Duy đứng lên, nâng chén uống mừng Lư Tài thần và sang sảng nói với toàn trường:
- Lư Tài thần phú xưng địch quốc, lại là kẻ tao nhân mặc khách, văn tài xuất chúng khác hẳn lẽ thường, khiến người người khâm phục. Công Đán hiền điệt cũng là bậc anh hùng cái thế, danh vang tứ hải, làm rạng rỡ tông môn. Lão phu vô cùng hãnh diện nên nhân ngày đại vũ hôm nay, ra một vế đối như sau:
“Phú tỷ Đào Chu, phụ Văn tử Võ, Lư thị lưỡng thế vinh hiển!”
(Đào chu tức là Đào Chu Công, tên khác của Phạm Lãi thời Xuân Thu Chiến Quốc. Sau khi giúp Việt Vương Câu Tiễn phục quốc, Phạm Lãi đã mang Tây Thi trốn đi. Ông đổi tên thành Đào Chu Công, làm nghề buôn bán và trở nên rất giàu có).
Đọc xong vế đối, Cảnh Duy mỉm cười nói tiếp:
- Lão phu xin trao giải thưởng trăm lượng vàng cho bậc tài tử nào hoàn thành vế đối thứ hai.
Lư Tài thần được biểu đệ tâng bốc trước mặt Kỹ nương lòng vô cùng khoan khoái, lão liền cười rạng rỡ, đứng lên cao giọng:
- Một trăm lượng thì e rằng không xứng với giá trị của văn chương, lão phu xin góp thêm vào giải thưởng thêm bốn trăm lượng nữa!
Thực khách cực kỳ hoan hỉ. Nhất là đám người từng tập tành thi phú. Họ quên cả ăn uống, cau mày nhăn trán, cố nặn ra chữ nghĩa để chiếm lấy năm trăm lượng vàng.
Cảnh Duy an tọa xong, thân mật bảo đằng gái:
- Kỹ lão huynh có tài bảy bước làm thơ nên sẽ không được tham gia, kỳ dư đều có thể!
Và lão thâm hiểm mời mọc Quách Thiên Tường:
- Quách trang chủ văn chất bân bân, sao không phun châu nhả ngọc, tặng cho lão phu vế đối thứ hai.
Tướng mạo Quách Thiên Tường hơi thô lậu, cục mịch nên đối phương chắc mẩm rằng ông dốt nát chuyện văn chương. Quả là Cảnh Duy tinh đời, đã đánh trúng nhược điểm của Quách lão.
Nhưng Thiên Tường đã có chỗ sở cậy nên thản nhiên cười khà khà đáp:
- Lão phu đã sớm nghĩ ra vế đối song xin nhường cho quan khách trổ tài trước. Chúng ta là chủ nhà, lẽ nào lại tranh giành với khách?
Quách lão vừa nói xong thì đã có một người lên tiếng. Giọng gã ta oang oang và rè như chuông bể:
- Tại hạ họ Tang tên Đông Dã, tuy là người học võ song cũng sính văn chương, từng được chị em kỹ nữ thành Côn Minh tặng cho danh hiệu Vân Nam Tài Tử.
Thực khách phá lên cười và có vẻ mỉa mai:
- Con bà nó! Té ra ngươi là thi sĩ chốn lầu xanh, chuyên làm thơ vuốt mông bọn gái điếm. Thế mà cũng khoe!
Tang Đông Dã là một hán tử tuổi độ ba mươi lăm, ba mươi sáu, mặt ngựa, răng hô, trán thấp, mắt trâu, mũi hếch, gò má cao… xấu xí đến mức ban ngày cũng có thể doạ được lũ con nít. Thân hình gã lực lưỡng, thô kệch nhưng lại khoác áo học trò, đầu đội mũ thư sinh, trông thật ngứa mắt.
Họ Tang bị giễu cợt, xỏ xiên mà không hề nao núng, thản nhiên nói tiếp:
- Bẩm Lư trang chủ! Vãn sinh được lệnh lang cứu mạng cả tháng nay nên sẽ không nhận hết giải thưởng. Vãn sinh chỉ lấy bốn trăm chín chục lượng, còn mười lượng kia xem như đền ơn cơm áo nhà họ Lư!
Té ra Tang Đông Dã lưu lạc đến Dụ Châu, bụng không túi rỗng, sắp sửa đi ăn mày thì gặp được Tây Nhạc Kiếm Khách. Lư Công Đán động lòng trắc ẩn, kết bạn với hắn và đưa về nhà nuôi nấng.
Lư Tài thần cố nín cười, ôn tồn đáp:
- Tang hiền điệt cứ trổ tài trước rồi hãy nghĩ đến giải thưởng. Ngoài ngươi còn nhiều người khác nữa kia mà!
Tang Đông Dã ngượng nghịu gật đầu, hắng giọng ngâm nga cả hai vế đối:
“Phú tỷ Đào Chu, phụ Văn tử Võ, Lư thị lưỡng thế vinh hiển!”
Vế thứ hai do gã sáng tác thì được đọc lớn hơn và giàu âm điệu:
“Mỹ tự Tây Thi, nhũ Đại túc Trường, Cô nương chung dạ đắc hỉ hoan!”.
Tạm dịch như sau:
“Giàu sánh Đào Chu, cha văn con võ, họ Lư hai đời cùng vinh hiển”.
“Đẹp tựa Tây Thi, vú lớn chân dài, Cô nàng suốt đêm được sung sướng!”.
Toàn trường phá lên cười hô hố, cười sằng sặc, cười lăn cười lóc. Trong khi đó mặt mũi anh em Lư Tài thần xám ngoét lại. Lư Cảnh Duy giận dữ tím người, quát vang như sấm:
- Gã khốn kiếp họ Tang kia! Sao ngươi dám sỉ nhục họ Lư chúng ta! Mau cút ra khỏi chốn này!
Khác với Lư Tài thần, Lư Cảnh Duy còn giỏi cả võ nghệ, công lực khá cao nên giọng nói rất lớn.
Tang Đông Dã đang hớn hở đắc ý về tài thi phú của mình, miệng cười toe toét, chìa hàm răng hô vàng ố, bỗng bị chửi mắng thì vô cùng ngạc nhiên. Gã bối rối biện bạch:
- Bẩm Lư nhị thúc! Vãn bối đối như thế là rất chỉnh, ý tứ hàm súc mạch lạc, sao gọi là sỉ nhục họ Lư được?
Thất Bổng Cái, bang chủ Cái bang biết Tang Đông Dã ngốc nghếch bẩm sinh, bị bọn kỹ nữ lừa dối huyễn hoặc nên cứ tưởng là mình hay chữ. Ông sinh lòng tội nghiệp gã nên cố nín cười mà giải thích:
- Này Tang hiền điệt! Người đem gái điếm đối với Lư thị thì có khác gì chửi cha người ta. Lão phu khuyên người đừng bao giờ làm thơ nữa, có ngày mang hoạ đấy.
- Lư trang chủ! Vãn sinh vì ngu muội mà xúc phạm ân nhân, lòng vô cùng hối hận. Vãn sinh cáo từ, ân cứu mạng hẹn kiếp sau đền đáp.
Dứt lời, gã rời bàn thất thểu bỏ đi, trông vừa tức cười vừa đáng thương.
Lạ thay, lát sau chàng công tử họ Quách bất ngờ đứng lên, vái phe chủ nhà như xin phép rồi lén đi theo Tang Đông Dã. Đến gần cổng thì chàng ta bắt kịp họ Tang. Tử Khuê chặn gã ta lại và hỏi:
- Phải chăng Tang huynh là nam tử của Địa Thần Tang Thư Chí?
Tang Đông Dã giật mình bối rối, ngần ngừ một lúc rồi gật đầu:
- Đúng vậy! Nhưng tại sao công tử lại biết việc này?
Tử Khuê mỉm cười:
- Tiên sư là Du Mộc Chân Nhân, cùng lệnh tôn giao tình mật thiết. Tại hạ nghe ân sư thường nhắc đến Tang tiền bối, nay thấy Tang huynh có hàm răng rất giống Địa Thần nên tại hạ đoán càn vậy thôi.
Tang Đông Dã buồn rầu nói:
- Té ra lệnh sư cũng cưỡi hạc qui tiên như gia phụ. Năm mười hai tuổi tại hạ có được diện kiến lệnh sư một lần khi người đến Côn Minh thăm tiên phụ.
Tử Khuê trầm ngâm hỏi:
- Vì cớ gì mà Tang huynh lại rời quê, lưu lạc đến tận đây?
Tang Đông Dã đỏ mặt, thú thực:
- Tại hạ là kẻ bất hiếu, quen thói lăn lóc chốn yên hoa, nên chỉ hai năm đã khánh kiệt, chẳng còn nhà cửa lẫn ruộng nương. Ở lại Côn Minh thì xấu hổ đành phiêu bạt giang hồ, dầu cho đói khổ thì cũng chẳng ai biết mình họ Tang.
Tử Khuê lên tiếng:
- Tại hạ xin tặng Tang huynh năm trăm lượng vàng để chuộc lại nhà cửa, ruộng vườn. Mong Tang huynh vì giao tình của tiền nhân mà hạ cố nhận cho.
Tang Đông Dã vui mừng khôn xiết, lúng ta lúng túng, vò nát quần áo mà chẳng nói nên lời. Cuối cùng gã cười hì hì đáp:
- Tại hạ đang sắp chết đói, chẳng dại gì mà từ chối lòng tốt của công tử. Nhưng tiên phụ từng dạy ta rằng “Vô công bất thụ lộc”, nên Tang mỗ sẽ theo hầu hạ công tử một hai năm, sau đó về quê cũng chẳng muộn. Tài sản họ Tang được cầm cố cho bà con nên muốn chuộc lại lúc nào cũng được. Nếu công tử đồng ý điều kiện ấy thì ta mới dám nhận vàng.
Tử Khuê nghe gã nói cũng phải đạo, đành gật đầu chấp thuận.
Chàng vui vẻ bảo:
- Tại hạ họ Quách tên Tử Khuê, nhà ở Hứa Xương. Tệ trang cũng sắp sửa chữa, e rằng cần đến tài ba của Tang huynh đấy.
Tang Đông Dã phấn khởi đáp:
- Công tử cứ yên tâm! Tang mỗ tuy xấu xí, khờ khạo nhưng đã hấp thụ hết gia học, tinh thông các khoa địa chất, thổ mộc và thiết kế cơ quan ngầm. Tại hạ sẽ ra tửu điếm đối diện Lư gia trang mà chờ công tử.
Biết gã rỗng túi, Tử Khuê trao ngay một xấp tiền giấy trị giá đến bốn trăm lượng bạc. Đông Dã mừng húm, vái dài rồi quay bước.
Tử Khuê trở lại bàn, giả như người vừa đi tiểu xong. Bị toà khách sảnh đồ sộ che mắt nên những người trong khu bàn tiệc không thể thấy chàng trò chuyện với Tang Đông Dã.
Tử Khuê ngồi được một lúc thì quản sự Lư gia trang dẫn thêm khách vào. Vị khách đến trễ này chính là Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thuỵ, bằng hữu chí thân của tân lang.
Lư Công Đán vội bước ra đón tiếp, ngỡ ngàng nhận thấy Tống Thuỵ đi cùng với một nam nhân lạ mặt. Người ấy tuổi độ tam thập, dung mạo anh tuấn nhưng cực kỷ lãnh đạm cao ngạo. Ánh mắt của gã lạnh tanh và oai nghiêm đến bức người.
Lư Công Đán từng yêu thương Thiết Đảm Hồng Nhan trong nhiều năm, nên dù đã vui duyên mới mà lòng vẫn tiếc nuối không nguôi. Thà rằng Tống Thuỵ đi chung với sư huynh là Cầu Nhiêm Hàn Thiếu Lăng thì gã còn đỡ tức tối. Nay trong ngày đại hỉ của gã, Tống Thuỵ đã thế lại còn tha đến một gã “mục hạ vô nhân” khiến gã càng bội phần bất mãn.
Tây Nhạc Kiếm Khách hờ hững nói:
- Tống cô nương! Chẳng hay vị huynh đài này là cao nhân ở phương nào đến vậy?
Tống Thuỵ lạnh lùng đáp:
- Người này là vị hôn phu của ta. Họ Nhạc tên Cuồng Loan.
Lư Công Đán cười nhạt nói móc:
- Lạ thật! Thế mà trước giờ ta cứ ngỡ cô nương ái mộ Cầu Nhiêm Đại Hiệp Hàn Thiếu Lăng. Mời nhị vị nhập tiệc!
Nói xong gã quay bước đi trước, chẳng cần biết khách có cắn xé nhau vì câu nói chết người của mình hay không.
Nhưng sắc diện của Nhạc Cuồng Loan vẫn bình thản, không biểu lộ bất cứ một cảm xúc nào. Gã lặng lẽ sánh vai Tống Thuỵ đi theo Lư Công Đán.
Bọn hào khách Nam Dương thấy mặt Thiết Đảm Hồng Nhan thì hớn hở đứng lên réo gọi mời mọc. Song Tống Thuỵ cứ tảng lờ như không hề hay biết vậy. Thái độ bất thường này của nàng đã làm đám bằng hữu cũ bất bình. Họ thầm đoán nguyên nhân xuất phát từ cái gã mặt trắng mặc trường bào gấm nâu đang đi cạnh Tống Thuỵ.
Họ nóng nảy vẫy Lư Công Đán lại hỏi han:
- Này Lư huynh! Gã chết tiệt ấy là ai mà khiến cho Thiết Đảm Hồng Nhan phớt lờ cả bằng hữu cố tri vậy?
Tây Nhạc Kiếm Khách hậm hực đáp:
- Gã ta tên Nhạc Cuồng Loan, là vị hôn phu của Tống cô nương đấy. Trông kiểu cách khinh người của gã mà tại hạ ngứa mắt.
Đám cưới nào cũng có vài bàn dự trữ, phòng khi khách đến đông hơn thiệp mời. Do đó, một bàn mới đã được mau chóng dọn ra dành riêng cho Thiết Đảm Hồng Nhan và Nhạc Cuồng Loan. Tình cờ vị trí ấy khá gần bàn chủ vị và nằm ở mé Đông nên bọn Tử Khuê dễ dàng nhìn thấy vì đang ngồi quay mặt về hướng ấy.
Từ đầu tiệc đến giờ, Tử Khuê luôn thắc mắc vì sao sư muội của mình không hiện diện? Giờ thấy Tống Thuỵ đi với vị hôn phu, Tử Khuê bỗng nghe lòng ngập tràn cảm giác xót xa, mất mát. Mùi hương tóc Tống Thuỵ như thoảng đâu đây, nhắc nhở lại kỷ niệm đêm nào trong Vĩnh Xương đại lữ điếm, tại chính thành Dụ Châu này, Thiết Đảm Hồng Nhan vì sợ ma mà đã ngủ chung với chàng.
Tử Khuê cũng không quên được lúc chàng và nàng sát cánh vào sinh ra tử trong trận đại chiến trước cửa Kỹ gia trang. Chàng bỗng rung mình vì thức ngộ rằng đã yêu Tống Thuỵ mà không biết. Và chắc chắn là Thiết Đảm Hồng Nhan cũng yêu chàng, nếu không đã chẳng dám đồng sàng.
Tử Khuê vô cùng hối tiếc và chỉ còn có cách tự an ủi rằng song phương đều đã yên phận. Chàng có vợ và nàng có chồng, tình cũ sẽ phai dần theo năm tháng.
Tử Khuê sẽ kiềm chế được nỗi lòng, nhìn chăm chú gương mặt thanh tú, thoảng buồn của người xưa. Bất chợt, Tống Thuỵ cũng nhìn về phía chàng, nháy mắt mấy lượt như ra hiệu gì đó.
Tử Khuê bàng hoàng hiểu ngay rằng nàng đang bị hán tử kia khống chế và cầu cứu mình. Chàng khẽ gật đầu tỏ vẻ đã hiểu ý để Tống Thuỵ yên lòng.
Tử Khuê đang vắt óc suy nghĩ kế sách thì Vô Tướng Quỷ Hồ Dịch Quan San bước vào, kề tai chàng nói nhỏ:
- Này muội phu! Một tên trong bọn hàng binh Xoa Lạp Cốc đã nhận ra lai lịch kẻ đi cùng vớ Thiết Đảm Hồng Nhan. Gã ta chính là Thiếu Cốc chủ Xoa Lạp Cốc đấy. Tên hàng binh không biết danh tính của gã, nhưng theo lời của Lư Công Đán thì gã ta họ Nhạc tên Cuồng Loan.
Tử Khuê thở dài:
- Tống sư muội vừa nháy mắt cầu cứu. Tiểu đệ đang tự hỏi họ Nhạc đã khống chế nàng ta bằng thủ đoạn đặc biệt gì? Nếu không thì nàng ta đã có thể vạch mặt gã ta giữa chốn đông người này và li khai.
Dịch Quan San tư lự bảo:
- Thiết Đảm Hồng Nhan nổi tiếng là người không sợ chết thì chắc là bị ràng buộc bởi an nguy của người thân hoặc lời thề nguyền gì đấy? Theo ý ta thì muội phu hãy hoá trang thành Cầu Nhiêm Đại Hiệp Hàn Thiếu Lăng, dùng thân phận sư huynh mà hỏi han nguyên cớ và tuỳ cơ giải cứu Tống Thuỵ.
Gã dặn dò Tử Khuê vài câu nữa rồi bỏ đi. Ở đây Tử Khuê kể rõ tình hình với Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các, nhờ ông báo lại cho những người khác. Sau đó chàng giả vờ đi thay áo, rời khỏi bàn tiệc.
Chàng lần đến phía sau hòn giả sơn lớn nhất trong hoa viên, cách tường Đông Lư gia trang chỉ mười mấy trượng. Nơi đây rất vắng vẻ vì mọi người đang mải ăn nhậu, chẳng hơi đâu mà đi ngoạn cảnh.
Lát sau, Dịch Quan San cũng xuất hiện, mang theo tay nải và đồ nghề hoá trang, lấy từ trong xe song mã ra. Gã chỉ mất có nửa khắc để biến Tử Khuê thành Cầu Nhiêm Đại Hiệp với làn da rám nắng và bộ râu rậm rì. Đấy là râu gải, được dán vào mặt bằng một loại keo đặc biệt.
Xong xuôi, Tử Khuê đeo kiếm, khoác tay nải vào vai, lén lút vượt tường vây ra ngoài. Chàng đi vòng về phía cổng gia trang, giả như vừa mới đến.
Bọn gia đinh gác cổng ngơ ngác nhìn vị khách mang võ phục lam đậm, râu ria phủ kín nửa mặt, tự hỏi chàng ta còn đến làm gì khi tiệc cưới đã khai mạc được nửa canh giờ.
Nhưng một gã vẫn phải tươi cười đưa vị khách bất lịch sự ấy vào trong. Người có danh như cây có bóng, bọn hào kiệt giang hồ ngồi ở hàng ngoài cùng đồng thanh hô to:
- Cầu Nhiêm Đại Hiệp!
Hàn Thiếu Lăng ôm quyền chào mọi người với phong thái nhã nhặn, thân thiện, khiến ai nấy đều hài lòng. Họ lục tục đứng lên đáp lễ, hỏi han ríu rít.
Tây Nhạc Kiếm Khách Lư Công Đán đã ra đến, hớn hở nói :
- Vạn hạnh! Vạn hạnh! Tiểu đệ không ngờ Hàn huynh hạ cố giá lâm, uống chén rượu mừng. Tiểu đệ đã gửi thiếp báo hỉ đi La Sơn, song không dám chắc Hàn huynh có mặt ở đây.
Hàn Thiếu Lăng mỉm cười:
- Lư công tử đã có lòng mời thì tất nhiên tại hạ phải đến.
Hai người vào đến bàn chủ vị. Hàn Thiếu Lăng chào hỏi trưởng bối hai họ.
Lư Tài thần thì gượng gạo nhưng Kỹ Tòng Thư tỏ ra rất hân hoan. Ông cười bảo:
- Đại ân của Hàn đại hiệp, lão phu luôn khắc cốt ghi tâm song chưa có dịp đáp đền. Sau tiệc cưới này, đại hiệp phải đến Kỹ gia trang để lão phu phụng hầu nửa năm cho thoả nguyện.
Hàn Thiếu Lăng điềm đạm đáp:
- Cảm tạ thành ý của trang chủ. Nhưng tiếc rằng gia nghĩa phụ đang lâm bệnh nên vãn bối chẳng thể chiều ý người được.
Gia thế của chàng trai trẻ tuổi kỳ tài này vẫn còn là một bí mật nên có kẻ tò mò hỏi ngay:
- Hàn đại hiệp! Chẳng hay lệnh tôn là bậc cao nhân nào vậy ?
Họ Hàn thành thật đáp:
- Gia nghĩa phụ là Trung Thiên Tôn họ Tần.
Cử toạ ồ lên kinh ngạc, hiểu ra vì sao võ công Thiếu Lăng lại cao siêu đến mức ấy.
Hàn Thiếu Lăng tức Tử Khuê nhìn thấy có một kẻ rất giống mình đang ngồi cạnh Phá Sơn Quyền thì lòng vô cùng khâm phục Dịch Quan San. Tài dịch dung của gã quả là thần sầu quỷ khốc, trong khoảnh khắc có thể biến một đệ tử Kỹ gia trang thành Quách công tử để tránh mọi nghi ngờ.
Tử Khuê yên lòng sang bái kiến lục vị chưởng môn ở bàn gần đấy. Họ đều biết chàng là Vu Diệp Chân Nhân song chỉ mình Thất Bổng Cái và Trương Thiên Sư biết Vu Diệp là ai. Lão hiểu ngay rằng đã có sự cố gì nên Tử Khuê mới phải dủng đến thân phận của Cầu Nhiêm Đại Hiệp.
Thạch Bang chủ vồn vã kéo Hàn Thiếu Lăng ngồi xuống ghế trống cạnh mình.
- Hàn thiếu hiệp là nghĩa tử của Trung Thiên Tôn thì không cần phải thủ lễ, cứ ngồi chung với bọn lão phu cho vui.
Bàn bát tiên vốn có tám ghế, trừ sáu vị chưởng môn nhân thì vẫn còn dư hai ghế.
Vân Thiên Tử Chưởng môn nhân phái Võ Đương, ngạc nhiên hỏi nhỏ:
- Sao Vu Diệp sư điệt lại cải trang thành Hàn Thiếu Lăng mà xuất hiện chốn này?
Tử Khuê hạ giọng đáp:
- Bẩm lục vị chưởng môn! Hán tử áo nâu đi chung với Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thuỵ chính là Thiếu Cốc chủ Xoa Lạp Cốc, tên gọi Nhạc Cuồng Loan. Dường như hắn ta đã âm thầm khống chế Tống sư muội. Do đó, đệ tử phải tìm cách giải cứu nàng. Mong lục vị hỗ trợ cho, vì đệ tử tự lượng không địch lại họ Nhạc. Có người đã vào tận Tổng đàn Võ lâm dọ thám tình cờ biết rằng Âu Dương Mẫn đã liên kết cùng Xoa Lạp Cốc để đối phó với Nam - Bắc Song Tôn và Nhạc Cuồng Loan chính là đại tướng của liên minh ấy. Gã đã thụ giáo Lôi Đình Đế Quân nên bản lĩnh rất cao siêu, có thể thắng được bất kỳ ai trong Song Tôn.
Sáu vị chưởng môn chấn động tam thần, không ngờ cả hai tổ chức bí mật đáng sợ kia lại đứng về phía Âu Dương Mẫn, tức Huyết Mai Hội chủ công địch của võ lâm.
Trương Thiên Sư thận trọng bàn:
- Trong ngày đại hỷ không nên để xảy ra đổ máu. Nếu bắt buộc phải xô xát, sư điệt hãy rủ họ Nhạc ra ngoại thành. Bọn bần đạo sẽ đi theo quan chiến và tuỳ cơ mà tương trợ hiền điệt.
Trương Thiên Sư tức Huyền Thiên Chân Quân Trương Sách, đã củng Thất Bổng Cái chia sẻ bí mật về lai lịch của Tử Khuê. Chẳng phải họ không tin tưởng bốn vị chưởng môn còn lại, song vì là bậc tôn sư nên chẳng nói lời thừa. Đã gọi là bí mật thì càng ít người biết càng tốt. Vả lại bốn vị long đầu kia có hỏi đâu mà họ phải khai ra?
Tử Khuê cảm tạ Hội đồng Võ lâm rồi đứng lên, đi về hướng bàn của Tống Thuỵ và Nhạc Cuồng Loan. Nhưng trước khi đi đến được đấy, chàng đã phải dừng chân vài lần để uống vài chung với những kẻ ngưỡng mộ mình và nghe những lời tán dương, ca tụng sáo rỗng. Tử Khuê thầm hổ thẹn và bất giác nổi giận. Chàng giận thói đời u mê, thấy đỏ ngỡ là son, mù quáng trước hư danh, say đắm vẻ rực rỡ của những mống cầu vồng bèo bọt, yểu mệnh và không nhận ra giá trị chân thực của cuộc sống. Đấy là sự sinh tồn, là niềm hạnh phúc được cùng mọi người hưởng sự thanh bình, yên ấm. Chính những kẻ tài ba kiêu ngạo và háo danh đã gây nên sóng gió khiến máu xương chồng chất. Tử Khuê bỗng sinh lòng khinh bỉ và chán ghét cái gã Thiếu Cốc chủ mặt vênh váo kia, quyết dạy cho Nhạc Cuồng Loan một bài học.
Nếu họ Nhạc có thể đánh thắng Nam - Bắc Thiên Tôn thì thừa khả năng giết được chàng. Nhưng Tử Khuê còn có một sức mạnh khác, đó là trí tuệ của một bậc chân nhân đạt đạo, xem danh lợi như phù vân. Chim sẻ không hiểu được chí khí của chim hồng hộc, thì Nhạc Cuồng Loan cũng chẳng thể đoán ra hành động của chàng.
Tử Khuê thản nhiên cạn chén với từng bàn, y như kẻ háo danh đắc ý với vinh quang. Cuối cùng chàng đến chiếc bàn ở ngay sau lưng Tống Thuỵ và Nhạc Cuồng Loan.
Một hán tử áo xanh, mặt chữ điền hớn hở đứng lên, rót đầy hai chung rượu mời mọc Tử Khuê:
- Hàn đại hiệp! Tại hạ là Khương Nguyên Lượng, được giới võ lâm Hà Nam yêu mến mà tặng cho cái danh hiệu Phi Long Thần Đao. Từ lâu rồi, thanh danh Cầu Nhiêm Đại Hiệp như mặt trời chính Ngọ, người người ca tụng, khiến Khương mỗ khát khao được diện kiến. Nay đã thoả nguyện bình sinh, Khương mỗ xin kính Hàn đại hiệp một chung này gọi là tỏ lòng ngưỡng mộ.
Tử Khuê cười:
- Tại hạ thiết nghĩ Khương huynh sẽ thất vọng đấy thôi. Lời đồn đãi chẳng bao giờ đúng cả.
Đây là một câu nói khiêm tốn, đầu môi chót lưỡi mà khách giang hồ thường dùng, cốt để được nghe thêm vài lời tán tụng nữa.
Lần này cũng thế, họ Khương lập tức khen dồi, cố chứng tỏ rằng Cầu Nhiêm Đại Hiệp xứng danh võ lâm đệ nhất kiếm với những chiến tích lẫy lừng như…
Nhưng Hàn Thiếu Lăng bất ngờ quay ngoắt người lại, bước đến vung quyền giáng thật mạnh vào huyệt Linh Đài giữa lưng Nhạc Cuồng Loan. Đòn này dẫu không đả thương được nạn nhân thì cũng khiến lớp cương khí hộ thận bị tản mát, chẳng còn bảo vệ được những huyệt đạo trên cơ thể nữa. Sau đó họ Hàn điểm ngay các huyệt Phong Môn, Thần Đường, Ý Xá, Khí Hải du thuộc kinh tác Thái dương Bàng quang, dọc lưng phải họ Nhạc.
Quả nhiên là Nhạc Cuồng Loan đã dồn chân khí bảo vệ hậu tâm dù cho rằng một kẻ thành danh lừng lẫy như Cầu Nhiêm Đại Hiệp thì chẳng bao giờ đánh lén cả. Đấy chỉ là hành vi tự vệ có tính bản năng mà thôi.
Do đó mà khi nắm tay của Tử Khuê chạm vào lưng gã phát ra âm thanh khá lớn, tựa như đánh vào da trâu vậy. Và nếu như Tử Khuê xuất thủ nhẹ tay hơn thì đã chẳng thể thành công vì Nhạc Cuồng Loan sở hữu đến tròn hoa giáp công lực dù tuổi mới ba mươi ba. Nguyên nhân của sự tăng tiến tu vi một cách phi thường này là con “Thiên niên tuyết xà”, kỳ vật hãn thế của đất Liêu Đông lạnh giá.
Sau cơn ngỡ ngàng, bọn hào kiệt võ lâm bắt đầu tỏ vẻ phẫn nộ, hết lời chê bai hành vi đê hèn của Hàn Thiếu Lăng. Họ Hàn vươn hữu thủ nắm chặt cần cổ của Nhạc Cuồng Loan rồi cười khanh khách:
- Giờ thì các vị có thể thôi gọi ta là đại hiệp được rồi đấy, nghe chướng tai lắm!
Và chàng dõng dạc bảo tù binh của mình:
- Nhạc Cuồng Loan! Ta biết ngươi là Thiếu Cốc chủ Xoa Lạp Cốc và tự lượng không địch lại nên đành phế thanh danh mà đánh lén. Nghĩa là ta sẵn sàng tra tấn ngươi bằng những thủ đoạn tàn độc nhất và biến ngươi thành một kẻ tàn phế, trói gà không chặt. Vì vậy ta mong rằng ngươi hãy thành thật trả lời những gì ta hỏi. Nếu ngươi không man trá, ta hứa sẽ phóng thích với đầy đủ công lực.
Quần hùng nghe nói họ Nhạc là Thiếu Cốc chủ Xoa Lạp Cốc thì giật mình, thôi không chửi bới Hàn Thiếu Lăng nữa. Chỉ nội việc gã dám đối đầu với tổ chức khủng bố đáng sợ ấy cũng đủ gọi là dũng cảm rồi. Họ im lặng chờ xem diễn biến của sự việc.
Lúc này Nhạc Cuồng Loan mới chịu mở miệng. Ánh mắt của gã căm hờn nhưng giọng nói lại dịu dàng:
- Thủ đoạn của ngươi thật phi thường khiến bổn nhân phải kính phục. Xem ra trong võ lâm, chỉ mình các hạ xứng làm địch thủ của ta mà thôi. Nay bổn nhân sa cơ thất thế tất phải hết lòng hợp tác. Nhưng sau này bổn nhân sẽ huy động toàn bộ lực lượng Xoa Lạp Cốc để tầm thù, song Tống Thuỵ cùng gia quyến thì không. Và nếu cần Xoa Lạp Cốc sẽ rưới máu khắp giang hồ, cho đến lúc các hạ chường mặt ra mới thôi. Vì vậy nếu các hạ muốn tránh phải nhìn thấy cảnh tang thương ấy thì hãy nhận lời cùng ta so tài. Giờ Tỵ ngày rằm tháng hai sang năm, ta chờ các hạ ở chân núi Thiếu Thất.
Quần hùng chấn động trước khẩu khí kiêu ngạo, tanh máu của Nhạc Cuồng Loan nhưng hiểu rằng Xoa Lạp Cốc thừa sức để làm như vậy.
Hàn Thiếu Lăng chưa kịp phúc đáp thì Thiết Đảm Hồng Nhan đã run giọng can ngăn:
- Sư huynh chớ nên nhận lời. Võ công hắn ta đã đến mức siêu phàm nhập thánh, chỉ một chiêu đã đả thương tiểu muội và bắt sống gia phụ.
Họ Hàn mỉm cười bảo nàng rằng:
- Sư muội yên tâm! Trong nghề đánh kiếm ngu huynh chưa hề biết sợ ai.
Và chàng nghiêm nghị bảo với Nhạc Cuồng Loan:
- Nhạc các hạ sở đắc tuyệt học của Xoa Lạp Cốc và Lôi Đình Thần Cung, lại có hoa giáp công lực nên ta tự luợng chẳng bằng. Nhưng nếu các hạ hứa rằng không thi triển “Lôi Đình thần chưởng” thì Hàn mỗ sẵn sàng nhận lời phó ước.
Người xung quanh nghe nói họ Nhạc là học trò Lôi Đình Thần Cung và có cả hoa giáp chân khí thì khiếp vía, hiểu rằng lúc nãy Hàn Thiếu Lăng bắt buộc phải đánh lén chứ không còn cách nào khác. Họ thông cảm cho chàng nên giờ đây đồng thanh ủng hộ, đốc thúc Nhạc Cuồng Loan nhận lời. Vì thanh danh của Xoa Lạp Cốc và tự tin vào bản lĩnh của mình. Cuồng Loan đã ưng thuận:
- Được! Bổn nhân sẽ chỉ dùng kiếm mà thôi.
Đã đến lúc Hội đồng Võ lâm có cơ hội can thiệp. Vân Thiên Tử cao giọng:
- Hội đồng Võ lâm sẽ làm trọng tài cho cuộc tử đấu giữa Nhạc thí chủ và Hàn thí chủ. Một lôi đài sẽ được dựng lên, mong mọi người đến chứng kiến cho.
Bọn hào khách phấn khởi reo to, tán thành ngay. Sau đó họ im bặt, lắng nghe Hàn Thiếu Lăng tra hỏi tù binh:
- Phải chăng các hạ đã dùng sinh mạng của Tống lão gia để bắt Thiết Đảm Hồng Nhan phải lấy mình.
Nhạc Cuồng Loan gật đầu xác nhận chẳng chút hổ thẹn. Họ Hàn lại hỏi tiếp:
- Ngoài việc lập trọng thệ ra, các hạ có còn dùng thủ đoạn nào khác để khống chế Tống Thuỵ và gia quyến nữa không?
Thấy họ Nhạc lắc đầu, Hàn Thiếu Lăng trầm giọng bảo:
- Hôn ước do uy hiếp mà có thì không có hiệu lực. Phiền các hạ tuyên bố từ hôn, giải toả lời thề cho.
Nhạc Cuồng Loan tỏ ra tiếc nuối, chậm rãi nói:
- Bổn nhân với Tống cô nương từ nay không bị ràng buộc bởi lời thề cũ nữa.
Thíêt Đảm Hồng Nhan chỉ chờ có thế, ung dung tát mạnh vào mặt gã rồi bật khóc và bất ngờ bỏ chạy khỏi hiện trường. Đám bằng hữu hốt hoảng gọi lại nhưng không được, chỉ trong khoảnh khắc Tống Thuỵ đã mất dạng.
Mọi người vô cùng xót thương nàng và oán hận Nhạc Cuồng Loan. Họ đoán già đoán non rằng Thiết Đảm Hồng Nhan đã thất thân với gã chồng hờ nên mới có thái độ ấy.
Sau khi bắt Nhạc Cuồng Loan hứa rằng sẽ không động chạm đến Tống Thuỵ và gia quyến, Hàn Thiếu Lăng giải huyệt cho gã rồi đuổi theo Tống Thuỵ.
Ở đây, Nhạc Cuồng Loan ngửa cồ cười dài. Tiếng cười của gã khiến mọi người đinh tai nhức óc và chấn động tâm can. Họ Nhạc ngạo nghễ bảo Hội đồng Võ lâm:
- Lục vị hãy về chuẩn bị đi! Sau ngày rằm tháng hai, bổn nhân sẽ đến thăm từng phái để so tài cao thấp, y như Lôi Đình Đế Quân ngày xưa vậy.
Nói xong Nhạc Cuồng Loan đưa song thủ vỗ hai chưởng vào không trung. Hai đạo chưởng kình chạm nhau nổ vang rền như sấm dậy và làm cho hàng trăm chiếc lá của cây bạch ngọc lan ở gần đấy phải lìa cảnh rơi lả tả.
Tuyệt kỹ “Lôi Đình thần chưởn” đã làm cho toàn trường khiếp vía, lo sợ. Nhưng Vân Thiên Tử là người cương trực, bất khuất, chẳng chịu để cho ai uy hiếp. Ông đứng lên cười nhạt:
- Chẳng dám nhọc công Nhạc thí chủ đi lại nhiều mỏi chân, mỗi phái sẽ cử một đại biểu đến so tài với thí chủ. Thời gian là sáng ngày Trùng Cửu sang năm và địa điểm là chân núi Võ Đang. Mỗi ngày thí chủ phải đấu một trận, không thể gọi là xa luân chiến.
Quần hùng khoái trá vỗ tray, hăm hở nghĩ đến những trận thư hùng quyết liệt trăm năm có một. Nhạc Cuồng Loan thản nhiên đồng ý và ngạo nghễ đáp:
- Bổn nhân tán thành và mong chư vị cho làm sẵn một lá đại kỳ thêu sáu chữ “Võ lâm Đệ nhất cao thủ” để tặng người giỏi nhất. Lục phái không thể đại diện cho cả nền võ học Trung Nguyên nên bổn nhân chính thức khiêu chiến với toàn thể hào kiệt tứ hải. Trong dịp ấy, vị nào tự lượng có thể đánh thắng được ta thì cứ việc thượng đài.
Ý tưởng này rất tuyệt diệu nên được đám hào khách Hà Nam nhiệt liệt hưởng ứng. Trước giờ chỉ có đại hội tranh chức Minh chủ Võ lâm, giới hạn tuổi tác là bảy mươi trở xuống, nên Minh chủ chưa hẳn có võ công cao nhất làng võ. Vì vậy tổ chức một thịnh hội tranh danh hiệu “Võ lâm Đệ nhất cao thủ” quả là rất cần thiết và lí thú.
Nhưng khổ thay cái danh hiệu cao quý bậc nhất ấy sẽ khiến giang hồ nổi sóng. Những kẻ thiếu tinh thần thượng võ sẽ dùng mọi thủ đoạn để loại bỏ kình địch của mình trước ngày đại hội. Háo danh là tật xấu muôn đời của nhân loại, ít người tránh khỏi. Vì hậu quả đáng sợ ấy mà mấy trăm năm nay, các đời Hội đồng Võ lâm chưa bao giờ để cái danh hiệu ấy được chính thức khai sinh. Nó luôn chỉ là lời phong tặng của hậu thế đối với bậc tiền nhân xuất chúng nào đó như Vương Trùng Dương hoặc Trương Tam Phong chẳng hạn.
Bởi thế cho nên Vân Thiên Tử chẳng thể đồng ý đề nghị của Thiếu Cốc chủ Xoa Lạp Cốc. Nhưng ông chưa kịp phản đối thì Tùng Xuân Tử Chưởng môn nhân phái Toàn Chân đã lên tiếng:
- Bần đạo tán thành ý kiến của Nhạc thí chủ.
Vân Thiên Tử giật mình, trố mắt nhìn Tùng Xuân Tử và càng ngạc nhiên hơn khi thấy Trúc Lâm Tử Chưỏng môn phái Hoa Sơn cũng nói :
- Bần đạo cho rằng đã đến lúc dùng danh hiệu “Võ lâm Đệ nhất cao thủ” để chấn hưng nên võ học Trung Hoa. Người người sẽ hăng hái chuyên cần rèn luyện vì đã có mục tiêu để vươn tới.
Vân Thiên Tử chợt thức ngộ rằng bấy lâu nay sáu phái đã “đồng sang dị mộng”, vì có kẻ không hài lòng trước thanh danh rạng rỡ của núi Võ Đang.
Vân Thiên Tử chua chát bảo hai người ấy:
- Nhị vị không nghĩ đến hậu quả hay sao?
Tùng Xuân Tử cười mát đáp:
- Đạo huynh cứ yên tâm! Bần đạo đã suy nghĩ rất chín chắn. Lần này người võ lâm chẳng hơi đâu mà chém giết lẫn nhau vì đối tượng chính của họ sẽ là Thiếu Cốc chủ Xoa Lạp Cốc, một kẻ có đến hoa giáp công lực và tuyệt học của Lôi Đình Đế Quân.
Lập luận ấy quả là chí lí khiến Vân Thiên Tử không sao bắt bẻ được. Ông hiểu rằng hai phái Toàn Chân, Hoa Sơn đều có những trưởng lão cao niên, võ nghệ thông thần thừa sức thắng Nhạc Cuồng Loan, nên họ muốn có cơ hội dương danh. Phần phái Võ Đương thì khá thiệt thòi vì cao thủ lớp trước đều đã quy tiên, và Vân Thiên Tử hiện là người cao niên nhất. Thấy ba vị chưởng môn còn lại không có ý kiến gì, ông đành buông xuôi.
Hồi 10 : Nhân Quỷ vì huyênh đệ
Xích thằng hựu phọc lang
Đêm ấy, trong lúc tân lang và tân nương vầy duyên cá nước, lạc bước Vu Sơn thì Tử Khuê gặp ma. Chàng đang mơ màng giấc điệp thì nghe có tiếng gọi nhỏ :
- Quách công tử! Quách công tử!
Tử Khuê giật mình thức dậy, điếng hồn nhận ra một bóng đen đang đứng lù lù cạnh giường. Chàng ngồi bật lên, kinh hãi đến mức cứng cả quai hàm, chẳng nói nên lời, chỉ trố mắt nhìn lão già áo đen, râu ria bờm xờm.
Lão ta mỉm cười trấn an :
- Lão phu là Lỗ Trục đây, công tử chớ sợ.
Dưới ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn dầu khâu nhỏ, hàm răng lão trắng nhỡn nhưng không đáng sợ vì chẳng có răng nanh. Tử Khuê thở phào ấp úng:
- Té ra là Lỗ phán quan! Chẳng hay túc hạ tìm Quách mỗ vì chuyện gì?
Lỗ Trực ngồi xuống cạnh giường vui vẻ nói:
- Lão phu chán nghề phán quan nên đã xin Diêm Vương đổi làm Chiêu Vong tuần sứ, lo công việc dẫn độ những oan hồn vất vưởng trong thiên hạ về “Quỷ môn quan”.
Gương mặt lão đoan chính, uy nghiêm nhưng khá thân thiện khiến Tử Khuê bớt ái ngại. Chàng cười bảo:
- Đáng lẽ Quách mỗ phải có chén rượu để mừng cho túc hạ mới phải đạo. Tiếc rằng đêm đã khuya, xin hẹn dịp khác.
Lỗ Trực lộ sắc mừng:
- Nếu công tử không tỵ hiềm âm dương cách biệt thì lão phu sẽ rất vui mừng được cùng nhau đối ẩm. Từ sau trận tỷ quyền ở Hầu phủ, Lỗ mỗ rất ngưỡng mộ công tử, muốn được kết làm bằng hữu.
Tử Khuê bối rối đáp:
- Niên kỷ của Lỗ túc hạ còn hơn cả gia phụ, làm sao tại hạ dám tự xưng bằng hữu?
Lỗ Trực mỉm cười lắc đầu:
- Trong vòng luân hồi, mỗi chúng sinh đều trải qua hàng trăm nghìn kiếp, sao có thể nói ai già hơn ai? Công tử cứ gọi lão phu là Lỗ đại ca là đủ rồi!
Tử Khuê nghe cũng có lý, ôm quyền vái:
- Tiểu đệ bái kiến đại ca!
Lỗ Trực vái trả rồi phấn khởi bảo:
- Lão phu phải kiếm mấy cân rượu để uống mừng mối giao tình hiếm có này mới được. Hiền đệ hãy chờ ta một chút.
Lão nói xong thì biến mất chẳng chút tăm hơi, lát sau quay lại với vò rượu lớn và một đùi dê nướng. Hai thứ này chắc là của nhà bếp Lư gia trang.
Trong phòng ngủ Tử Khuê có một chiếc bàn nhỏ, nơi đặt đĩa đèn dầu lạc cùng hai chiếc ghế đôn. Hai người ngồi ở đấy mà thù tạc, chuyền tay nhau vò rượu và đùi dê, ăn uống rất thâm tình.
Lỗ Trực cười nói sảng khoái thế mà chẳng đánh động đến bất cứ ai ở những phòng bên. Tử Khuê kinh ngạc hỏi han thì lão đắc ý giải thích:
- Hiền đệ cứ yên lòng. Khi lão phu không muốn thì ngoài ngươi ra chẳng ai có thể nhìn thấy hoặc nghe được giọng nói của lão mỗ cả.
Chợt lão chính sắc bảo:
- Quách hiền đệ! Hôm nay lão phu đến tìm ngươi là vì có chuyện quan trọng. Mong ngươi cố bình tâm mà nghe tin dữ. Thiên cơ bất khả lậu nên lão phu chỉ có thể tiết lộ sơ lược rằng cuộc đời hiền đệ vô cùng sóng gió, đầy dãy tai ương. Bởi vậy trong bất cứ hoàn cảnh nào ngươi cũng không được phép tuyệt vọng, chán nản mà phải kiên cường tồn sinh bằng cái tâm của một kẻ hiểu rõ đạo đời.
Tử Khuê chột dạ đáp:
- Tiểu đệ ngu muội, chẳng dám chắc hiểu được đại đạo, chỉ cố giữ tấm lòng nhân hậu. Nhưng giang hồ ân oán triền miên, tay tiểu đệ đã nhiều lần nhuốm máu, lòng vô cùng hổ thẹn và chắc rằng không tránh khỏi nghiệp quả xấu.
Lỗ Trực nở nụ cười độ lượng:
- Hiền đệ đã đi đúng hướng rồi đấy. Đức nhân chính là đạo trời. Hổ dữ cũng là chúng sinh nhưng kẻ giết hổ để tự vệ, để bách tính được yên vui thì không tạo sát nghiệp. Tuy nhiên không sát sinh thì vẫn tốt hơn, sau này hiền đệ hãy cố chừa cho đối thủ một cơ hội hồi đầu hướng thiện.
Tử Khuê gật đầu tỏ vẻ hiểu ý và tò mò hỏi:
- Lỗ đại ca! Thần thánh của Đạo giáo và Phật giáo chẳng giống nhau, kinh nghĩa cũng vậy. Thế thì thực ra ai đúng ai sai, ai có ai không?
Lỗ Phán Quan cười khanh khách đáp:
- Hiền đệ cứ nên tin rằng chư Phật hay Tam Thanh đều hiện hữu và giáo lý của họ đều cần thiết cho cuộc sống này.
Rồi lão nói lảng sang chuyện khác:
- Này Quách hiền đệ! Sáng mai ngươi không cần phải đi Hồ Nam nữa.
Tử Khuê ngơ ngác hỏi lại:
- Tại sao vậy?
Lỗ Trực bùi ngùi đáp:
- Lệnh sư thúc Kỳ Hoàng Chân Nhân Cổ Sĩ Hoành đã chết đêm hôm kia rồi. Đúng ra lão ta còn thọ được mười hai năm nữa, song do kẻ thù phép thuật quá cao cường, đã dùng phép “Ám tinh đoạn thần” giết chết Cổ Chân Nhân trong Quỷ trận.
Tử Khuê đau đớn hỏi:
- Lỗ đại ca! Chẳng hay hung thủ là kẻ nào vậy?
Lỗ Phán Quan tư lự đáp:
- Người ấy là Quân Sơn Chân Nhân Đường Mai Giản, trên núi Quân Sơn giữa hồ Động Đình. Lão ta tuổi độ bát thập, võ nghệ cao cường, tinh thông võ trận kỳ môn lẫn yêu thuật. Đường Mai Giản vốn là bằng hữu với Cổ Sĩ Hoành và ba năm trước có mượn của họ Cổ mảnh “Chiếu yêu Bát quái bảo kính”, vật trấn sơn của Huyền Hư phái ngày xưa. Do Cổ Chân Nhân tin rằng Quách hiền đệ sẽ khôi phục lại tông môn Huyền Hư phái nên ông ta đã đến Quân Sơn đòi lại bảo kính, vật tượng trưng cho quyền chưởng môn nhân. Nào ngờ lão chết toi Đường Mai Giản lại rắp tâm chiếm đoạt bảo vật, đã lừa Cổ Sĩ Hoành vào “Oan hồn quỷ trận” mà sát hại. Sau đó họ Đường đốt xác nạn nhân, rải xuống hồ để phi tang.
Tử Khuê nghe xong căm hận bảo:
- Tiểu đệ thề sẽ rửa thù cho sư thúc và đoạt lại bảo vật của sư môn.
Lỗ Trực cau đôi mày lưỡi mác, trầm ngâm suy nghĩ một lúc lâu mới nói:
- Ngươi không cần phải đi. Ít tháng nữa Đường lảo quỷ sẽ vào đất Hà Nam này. Lúc ấy ngươi báo thù cũng không muộn.
Tử Khuê sực nhớ đến chuyện hôm trước, đỏ mặt trách móc:
- Sao đại ca lại dòm ngó chuyện phòng the của tiểu đệ?
Lỗ Phán Quan cười khà khà:
- Lão phu nào có hứng thú với chuyện ấy. Chẳng qua lão phu muốn thành toàn mối lương duyên của ngươi với nha đầu họ Dịch mà thôi. Từ nay lão phu chả bao giờ bén mảng đến khi ngươi đang hưởng lạc.
Và lão đắc ý kể công:
- Đáng lẽ ngươi phải tạ ơn Lỗ mỗ mới phải. Ta phải năn nỉ mãi nên cái lão Hoa Đà mới chịu dạy cho phương pháp trị bệnh lãnh cảm của Tái Vân đấy. Sau này nếu có dịp đi ngang núi Thiếu Hoa Sơn thì vợ chồng ngươi nhớ thắp nén hương cảm tạ lão ta.
Hai người chuyện trò, bàn bạc thêm một lúc lâu thì gà gáy sáng. Lỗ Phán Quan bưng vò rượu nốc cạn rồi cáo từ. Tử Khuê ngồi lại một mình, tiếc thương vị sư thúc tài hoa. Chàng thầm khấn vái hương hồn Cổ Chân Nhân và hứa với ông rằng sẽ phục hưng Huyền Hư phái để ông mỉm cười nơi chín suối.
Vài khắc sau, đoán rằng phụ mẫu đã dậy, Tử Khuê thay áo bước ra ngoài, tìm đến phòng của họ để vấn an.
May thay Trương Thiên Sư và bang chủ Cái bang cũng có mặt ở đấy, đang nói về cái chết của Cửu Hoa Thánh Y. Lỗ Phán Quan đã ứng mộng thông tin cho Trương Sách biết việc ấy.
oOo
Gần giữa tháng bảy, đoàn người về đến Hứa Xương và khoảng đầu tháng tám thì Quách Thiên Tường tiến hành việc tu sửa Quách gia trang để sửa soạn đám cưới Tử Khuê. Hôn lễ sẽ cử hành vào tháng tư sang năm.
Đồng thời cũng ở gần đó, một toà Kỹ gia trang cũng được xây dựng gấp rút. Kỹ Tòng Thư quyết định ở lại Hứa Xương để an dưỡng tuổi già, bên cạnh vợ chồng em gái và các cháu.
Công trình sư của cả hai công trình ấy chính là chàng xấu trai Tang Đông Dã. Dưới sự chỉ huy của gã, bốn mươi hai tên hàng binh Xoa Lạp Cốc kiến tạo một mật thất cực kỳ kiên cố và đầy dẫy những cơ quan tinh xảo, phía dưới vườn hoa lối sau Quách gia trang. Khi nguy biến mọi người có thể ẩn nấp ở đấy mà không sợ chết đói. Lúc bình thường, mật thất sẽ là nơi luyện võ kín đáo của Tử Khuê.
Dù rất muốn gần gũi tình lang nhưng vì thân phận tôn quý mà nữ Hầu tước Trình Thiên Kim phải quay về Hầu phủ, để một mình Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân đến Quách gia trang hầu hạ cha mẹ chồng.
Nhưng Tái Vân chỉ hưởng lợi thế được đúng hai tháng thì Tử Khuê lại phải lên đường. Lão chết tiệt Lỗ Phán Quan đã xuất hiện đêm đầu tháng mười, báo rằng Quân Sơn Chân Nhân có mặt ở Lạc Dương. Lão ta còn không cho Tái Vân đi theo Tử Khuê, viện cớ rằng nàng đã thoát khỏi cơn giận của Lôi Thần, chẳng cần bám lấy Tử Khuê nữa.
Đêm ấy Lỗ Trực đã nhậu nhẹt với Quách Thiên Tường và Kỹ Tòng Thư khá lâu. Được đối ẩm với ma là cơ hội ngàn vàng nên hai lão nhân vật cao hứng, uống thả giàn và say bí tỷ.
Sáng mùng hai, Tử Khuê một mình một ngựa rời Hứa Xương. Từ Hứa Xương đi Lạc Dương, lữ khách phải ngang qua Đăng Phong, nên trưa ngày mùng sáu Tử Khuê có mặt ở đấy. Chàng rất ngạc nhiên khi thấy trong thành Đăng Phong đầy dẫy những khách giang hồ. Hiện tượng này chỉ xảy ra khi một địa phương sắp có biến cố hay thịnh hội gì đó. Nhưng Đăng Phong rất gần núi Tung Sơn, vậy phải chăng chính Thiếu Lâm Tự là nguyên nhân ?
Đến trước cửa Khai Tân đại phạn điếm, Tử Khuê nhận ra bên trong có hàng trăm hào kiệt đang cười nói oang oang. Chàng liền dừng cương hạ mã và được gã tiểu nhị chào mời. Vào trong quán thấy Giáo chủ Thiên Sư Giáo, Huyền Thiên Chân Quân Trương Sách đang nhìn ra ngoài, bất giác Tử Khuê định thi lễ. Nhưng Trương Thiên Sư lại chẳng hề lộ vẻ gì là quen biết, khiến chàng nhớ lại rằng mình đang hoá trang, liền đi tìm bàn trống mà ngồi.
Trong cuộc tồn sinh con người luôn tìm cách để khẳng định bản thân chính mình trước tha nhân. Thậm chí đại đa số nhân loại còn sa vào tật háo danh. Cho nên cảm giác của một kẻ luôn phải giấu mặt quả là chẳng hay ho gì. Tuy nhiên Tử Khuê lại mãn ý về điều này, khi mà chàng không háo danh và coi trọng an nguy của người thân hơn tất cả.
Tử Khuê gọi một mâm cơm và bình rượu nhỏ. Đầu Đông tuyết chưa rơi, nhưng trời đã lành lạnh nên chàng định dùng vài chung cho ấm.
Trong lúc chén thù chén tạc, Tử Khuê lắng nghe câu chuyện riêng của thực khách và hiểu ra nguyên cớ. Té ra hôm mùng một tháng chín vừa qua, hơn ngàn khách hành hương đã nhìn thấy Phi Điểu Thần Ma Lục Doãn Ngôn xuất hiện trên bầu trời Thiếu Thất sơn. Và xui xẻo cho họ Lục là lúc ấy có mặt Trung Nguyên Thần Tiễn Phan Nguyên Kết, cung thủ giỏi nhất võ lâm đương đại.
Phan lão có thân hình khôi vĩ, thần lực kinh nhân, sử dụng một cây “Chấn Thiên Cung” cánh thép, lớn gấp rưỡi trường cung bình thương. Mũi tên của lão bằng thép, bay xa hàng dặm mạnh mẽ đến mức có thể bắn xâu táo một lúc bảy tám người.
Hôm đó Phan Nguyên Kết lên chùa Thiếu Lâm để xin cho con trai mình vào học võ. Khi phát hiện ra cánh chim khổng lồ của Phi Điểu Thần Ma, Phan lão nhớ ngay đến món tiền thưởng ba ngàn lượng vàng mà Minh chủ Võ lâm đã rêu rao. Họ Phan mừng húm giương “Chấn Thiên Cung” trổ tài Dưỡng Do Cơ. Danh bất hư truyền, mũi tên của lão cắm vào bụng con đại bàng và còn xuyên thủng người Phi Điểu Thần Ma nữa. Nhưng con chim xấu số không chết ngay, theo bản năng mà xoè cánh cưỡi gió là đà rơi xuống vùng rừng rậm rạp bạt ngàn cách núi Thiếu Thất vài dặm về hướng Đông.
Rặng Tung Sơn có đến bảy mươi hai ngọn núi, sơn vực rất rộng và đầy cây cối, muốn tìm ra Phi Điểu Thần Ma chẳng phải dễ. Nhưng cây “Diêm Vương quỷ kỳ” oai lực vô song, ảnh hưởng rất lớn đến vận mệnh của võ lâm, nên Thiếu Lâm Tự đã huy động toàn bộ tăng lữ trong chùa truy tầm Phi Điểu Thần Ma.
Trung Nguyên Thần Tiễn Phan Nguyên Kết không dám tranh giành với phái Thiếu Lâm, hậm hực xuống núi. Lão ta mất giải thưởng ba ngàn lượng vàng nên đi thẳng đến Tổng đàn Võ lâm ở Trịnh Châu mà báo công. Dọc đường họ Phan còn loan báo rộng rãi tin này khiến cả giang hồ chấn động, lũ lượt kéo về núi Tung Sơn tìm vận may.
Ngoài Minh chủ Võ lâm và ba trăm thủ hạ, các lực lượng chính ta hùng hậu khác đều đến nơi. Nghe nói có cả Chiết Mai bang, Bích Huyết bang và Xoa Lạp Cốc. Điều này hứa hẹn một cuộc chiến long trời lở đất nếu chùa Thiếu Lâm tìm được Phi Điểu Thần Ma trước. Do đó Cái bang đã thả chim câu gửi thư hoả tốc, mời các phái trong Hội đồng Võ lâm đến hỗ trợ Thiếu Lâm Tự.
Nghe xong Tử Khuê bâng khuâng suy nghĩ:
- Tung Sơn cũng thuộc địa phận phủ Lạc Dương. Có lẽ gã chết toi Quân Sơn Chân Nhân đã đến đây vì việc “Diêm Vương quỷ kỳ”, nên Lỗ đại ca mới bảo ta như thế. Hơn nữa Đại Giác Thiền Sư là bậc cao tăng đáng kính, ta không thể đứng ngoài cuộc được.
Sau hôn lễ của Kỹ Lưu Tiên và Lư Công Đán, mối quan hệ giữa các phái trong Hội đồng Võ lâm đã bị rạn nứt. Vì cái danh hiệu Võ lâm Đệ nhất cao thủ mà vô tình họ trở thành địch thủ của nhau. Những kẻ cùng một mối lo thì là bạn và khi cùng một tham vọng sẽ biến thành thù, đạo lý ấy luôn luôn đúng.
Có thể bản thân một thiền sư đắc đạo như Đại Giác sẽ không tha thiết với thanh danh, nhưng mấy ngàn tăng lữ Thiếu Lâm thì lại chẳng muốn chùa Thiếu Lâm đứng thứ hai. Trường hợp của phái Võ Đương cũng thế. Riêng hai phái Cái bang và Thiên Sư thì đành ngậm ngùi cay đắng vì không có cao thủ nào kiệt xuất.
Do đó chàng chắc rằng trong cục diện hôm nay, năm phái kia sẽ hết lòng tương trợ Thiếu Lâm Tự. Tử Khuê ngày càng trưởng thành, tâm cơ sâu sắc hơn trước, luận việc rất thấu đáo. Nhưng sự việc chỉ khiến chàng thêm buồn, ngao ngán cho thói trọng lợi danh của người đời.
Chàng ngắm gương mặt đầy nếp nhăn và mái tóc bạc của Trương Thiên Sư mà lòng thầm ái ngại xót thương. Vì chút danh phận trong Hội đồng Võ lâm mà vị Giáo chủ mang dòng màu thần tiên phải bôn ba mãi, chẳng được yên thân. Rốt cuộc ông sẽ nhận được gì khi Thiếu Lâm, Võ Đương vẫn là “Thái Sơn Bắc Đẩu” của võ lâm, còn Thiên Sư Giáo chỉ được giới giang hồ xem như lũ thầy pháp múa kiếm không rành? Trương Sách cũng như nhiều đời thiên sư trước đều bị luỵ vì cái danh.
Tử Khuê nghĩ ngợi đến đây thì tửu quán có thêm khách là phái Võ Đương. Vân Thiên Tử đã thống lĩnh năm chục đệ tử đi vào quán. Theo sau ông chính là hai học trò cưng, Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ và đạo cô Linh Tuệ.
Trương Thiên Sư và mọi người hớn hở đứng lên chào đón. Cùng là đạo gia nên ông khá thân thiết với chưởng môn nhân phái Võ Đương. Tất nhiên Trương Sách mời Vân Thiên Tử ngồi chung bàn. Bọn đệ tử Võ Đương thì tự tìm lấy chỗ. Tình cờ, Mộ Duy Lộ và Linh Tuệ đạo cô ngồi ở bàn bên cạnh Tử Khuê.
Vài khắc sau, quần hùng rời quán để đến núi Thiếu Thất, Tử Khuê cũng lặng lẽ đi theo. Đầu giờ Mùi, mái ngói rêu phong của ngôi chùa danh tiếng nhất Trung Hoa hiện ra trước mắt chàng, thấp thoáng sau rừng tùng rậm rạp lưng chừng núi. Thiếu Lâm Tự có nghĩa là ngôi chùa giữa rừng cây trên núi Thiếu Thất. Thực ra ngọn núi mà Thiếu Lâm tọa lạc có tên là Ngũ Nhũ Sơn, một đỉnh của chân núi Thiếu Thất. Song nếu vì vậy mà đặt tên chùa là Ngũ Trung tự hoặc Nhũ Thượng tự thì nghe chẳng hay ho chút nào. Bởi thế người xưa đã uyển chuyển chọn chiêu bài Thiếu Lâm Tự.
Nhưng cho dù mang cái tên gì thì hôm nay đất Phật cũng chẳng còn thanh tịnh, trang nghiêm nữa. Trên vủng đất quanh chân núi Ngũ Ngũ hiện giờ ngổn ngang chen chúc mấy trăm lều vải, màu sắc kích thước không đều. Quần hùng đã ăn dầm nằm dể cả tháng nay để tham gia việc truy lùng Phi Điểu Thần Ma. Có người muốn chiếm hữu bảo vật song có người chỉ đi tìm vận may. Biết đâu tổ tông hiển linh xui khiến họ vớ được cây “Diêm Vương quỷ kỳ”, đem bán lại cho Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn, hoặc hai bang Bích Huyết - Chiết Mai. Lúc ấy thì số vàng sẽ không chỉ là ba ngàn lượng mà còn hơn nữa.
Bọn hào khách các lộ có thể dựng lều để đỡ tốn tiền trọ song không thể tự lo được việc ăn uống. Do đó, các lâu quán trong thành Đăng Phong đã mau mắn đến hiện trường mở điếm. Cung cấp những dịch vụ sinh tồn cho gần nửa vạn khách giang hồ. Mùi rượu ngon, mùi xào nấu nồng nàn ngan ngát cả vùng núi Thiếu Thất và chắc đã xộc vào tận mũi của những pho tượng Phật trong chùa Thiếu Lâm. May thay bọn chủ chứa cũng còn nể mặt chư Phật nên đã không huy động bọn kỹ nữ đến đây hành nghề.
Những tửu quán, phạn điếm tạm bợ ấy tuy đều làm bằng những vật liệu thô sơ như gỗ, tre, rơm, lá… nhưng đều khá xinh xắn, rộng rãi và sạch sẽ. Chúng nằm thẳng thớm hai hàng song song, đối diện nhau tạo thành cả một dãy phố, y như chốn thị thành vậy.
Các dịch vụ này nằm khá gần những túp lều, thuận tiện cho bọn hào khách lui tới ăn uống, nhậu nhẹt và bài tiết. Có vào phải có ra, hơn bốn mươi lầu quán dã chiến kia đều kín đáo đào hố phân để phục vụ các thượng khách của mình. Nhưng chẳng phải ai cũng chịu nổi cho tới khi chạy được đến nơi, nên bọn hào khách thường “tuỳ ngộ nhi an”, tìm một bụi rậm hay gốc tùng nào đấy. Hậu quả là giờ đây bầu không khí quanh núi Thiếu Thất luôn thoang thoảng một mùi thum thủm. May mà mấy ngàn con tuấn mã đã được gửi phân tán trong các nhà dân quanh vùng, nếu không môi trường Phật địa còn bị ô nhiễm nặng nề hơn nữa.
Tử Khuê đến đây tìm kẻ thù chứ không phải tìm bảo vật nên chẳng gởi ngựa, lững thững đi thẳng vào khu phạn điếm. Dù đang là thời gian thích hợp để truy lùng Phi Điểu Thần Ma song các quán xá vẫn có khách. Tiệm nào cũng được vài bàn, tiếng cười nói râm ran.
Đất rộng nên các quán không phải chen chúc giáp vách nhau, khiến khách có thể đi đến từ mọi hướng. Trời lạnh nhưng tuyết chưa rơi nên các liếp tre vẫn được chống lên, để hở ba cạnh, trừ cạnh đặt nhà bếp. Tường xây bằng ván mộc hoặc tre trúc, chỉ thấp cỡ mặt bàn. Nhờ vậy Tử Khuê có thể nhìn thấy những tửu khách bên trong quán. Chàng chỉ tìm cầu may vì đoán rằng Quân Sơn Chân Nhân Đường Mai Giản đã vào khu rừng rậm phía Đông núi Ngũ Nhũ để tìm “Diêm Vương quỷ kỳ”.
Những gã trong quán kia có lẽ chỉ là kẻ hiếu kỳ, hiếu sự ham vui mà đến, hoặc giả là người quá mệt mỏi, chán nản việc lặn lội mò kim đáy biển nên cóc thèm nhọc xác nữa.
Đến trước phạn điếm kiêm tửu quán ở đoạn giữa dãy quán hướng bắc, Tử Khuê chợt phát hiện có khá đông khách và thấp thoáng nơi bàn ngoài là dung mạo quen thuộc của Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thuỵ.
Tử Khuê khấp khởi mừng rỡ, rẽ ngay vào đấy. Được gã tiểu nhị chào mời, chàng hạ mã, trao dây cương cho gã rồi dần bước.
Nhưng Tử Khuê lại nhận ra Tống Thuỵ không độc ẩm mà đang trò chuyện thân mật với người cùng bàn. Đấy là một hán tử võ phục đen, ngoài khoác áo lông cừu trắng, thân thể tráng kiện, mặt chữ điền vuông vắn khôi ngô. Tuy ăn mặc theo lối thế tục song đầu gã lại cạo nhẵn thín, y như một nhà sư vừa hoàn tục vậy. Và cây đoản côn bằng thép đen bóng nằm trên bàn đã giúp Tử Khuê nhớ ra gã là Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương, một trong “Võ lâm Ngũ Tú”. Tử Khuê chợt nghe lòng se lại một niềm cay đắng không tên. Chàng bâng khuâng ngồi xuống bàn gần đấy, ngắm nhìn nửa gương mặt quay nghiêng của cố nhân. Tống Thuỵ không hề phát hiện ánh mắt nồng nàn song đầy xót xa của chàng.
Nhưng lát sau, Lã Hoa Dương tình cớ quay về phía Tử Khuê, khó chịu vì có kẻ dám chiêm ngưỡng mỹ nhân của mình, liền quắc mắc đe doạ. Tử Khuê chẳng sợ gì gã song cũng không tiện gây hấn, đành tảng lờ nâng chén rượu và quay sang hướng khác. Chàng quan sát khắp tửu quán, không thấy đệ tử năm phái Bạch đạo. Có lẽ họ đã lên cả Thiếu Lâm Tự. Lúc này Thiên Sư Giáo và phái Võ Đương cũng đã thượng sơn.
Chợt ngoài cửa vang lên tiếng cãi cọ ồn ào của gã tiểu nhị. Gã đang cố ngăn chặn xua đuổi một người.
- Mụ hãy đi chỗ khác mà xin ăn. Hôi hám, dơ dáy như mụ mà vào quán thì khách của bổn điếm bỏ chạy hết.
Người kia bật cười khanh khách trả lời bằng một giọng thanh tao, trẻ trung:
- Ngươi lầm rồi! Bổn cô nương đến đây để tìm trượng phu chứ chẳng phải để xin cơm.
Quan khách hiếu kỳ nhìn cả ra ngoài, thấy một nữ nhân đầu bù tóc rối, y phục phong phanh, rách rưới và cực kỳ bẩn thỉu. Gương mặt nàng dơ bẩn cáu ghét đen sì trong rất ghê tởm và có vẻ như thân thể sẽ bốc mùi khó chịu.
Riêng Tử Khuê cảm thấy xót thương cho kẻ bạc mệnh kia khi thấy ả không mặc áo bông trong tiết Đông lạnh giá này. Bệnh điên đứng đầu trong nan y tứ chứng khiến nền y học Trung Hoa phải bó tay. Ngay những kẻ có lòng cũng không thể giúp đỡ được họ. Có lần Tử Khuê đã tặng áo lông cừu cho một người điên song người ấy đã vứt đi ngay sau đó không lâu.
Bất ngờ, nữ nhân dở người kia bỏ cửa chính hướng nam lao vút về cạnh đông tửu quán, nhảy qua vách thấp mà vào. Thân pháp nhanh như chớp khiến toàn bộ thực khách phải bàng hoàng, hiểu rằng nàng ta sở hữu một bản lãnh rất cao cường. Họ nín thở quan sát trong khi nữ nhân điên khùng chậm rãi đi qua từng bàn nhìn mặt từng người. Có lẻ là ả ta đang đi tìm chồng thật.
Ai cũng ghê rợn và lo sợ nàng ta túm lấy mình. Đối với người điên thì không thể lý luận hay biện minh gì hết.
Trước tiên nàng tiến sâu vào trong, kiểm tra các bàn ở cuối quán rồi đi ngược ra cửa. Tử Khuê là người thấp thỏm, hồi hộp nhất vì biết số mình đen đủi, luôn vướng vào những tai hoạ ngớ ngẩn. Khi ả khùng bước đến gần, chàng cố tình nâng ly rượu lên môi, quay mặt về phía cửa sổ, giả như đang ngắm cảnh.
Nhưng đúng là chạy trời không khỏi nắng, nàng ta đã dừng chân cạnh bàn chàng, nhìn chăm chú rồi bất ngờ quỳ xuống khóc gọi :
- Tướng công ! Thiếp là Thanh Chân đây. Biết chàng vì tính mệnh không dám quay lại Thiểm Bắc nên thiếp đã bỏ xiềng trốn khỏi nhà, bôn ba vạn dặm suốt mấy tháng nay để tìm kiếm. Mối chân tình ấy chẳng lẽ không khiến tướng công động lòng hay sao ?
Bọn thực khách nửa tin nửa ngờ, nhìn Tử Khuê với ánh mắt chán ghét hoặc thương hại. Tử Khuê rầu rĩ nói với nữ lang :
- Cô nương hãy bình thân rồi nhìn kỹ dung mạo của tại hạ xem có giống lệnh phu hay không ?
Nàng ta đứng bật dậy, cười khúc khích:
- Tướng công tưởng rằng thiếp không nhận ra chàng mang mặt nạ hay sao, và giọng nói của chàng thì thiếp chẳng lầm được.
Tử Khuê chết điếng người, không ngờ sự tình lại tệ hại đến mức này. Làm sao nàng ta có thể khám phá ra thủ đoạn hoá trang kỳ tuyệt của Vô Tướng Quỷ Hồ Dịch Quan San cơ chứ? Và tất nhiên chàng không dám lột mặt nạ ra để chứng minh thân phận trước mặt quá nhiều người.
Sự im lặng hoang mang của chàng đã khiến quần hào ngộ nhận. Họ bắt đầu tin rằng hán tử mũi két không râu kia chính là kẻ bạc tình. Vài người đã lên tiếng chửi rủa, nói xỏ nói xiên. Ngay Thiết Đảm Hồng Nhan cũng nhìn chàng bằng ánh mắt phẫn nộ.
Tử Khuê rối như tơ vò, chưa biết phải đối phó thế nào thì ả điên Thanh Chân sụt sùi khóc bảo:
- Hối ca! Nếu chàng quyết không nhìn nhận lương duyên thì thiếp cũng đành cam quay lại cố hương, tiếp tục chịu cảnh giam cầm.
Nghe đối phương gọi mình bằng cái tên ấy, Tử Khuê rùng mình bởi một ý niệm mơ hồ, kỳ lạ. Tuy chưa hiểu rõ nguồn cơn, nhưng chàng biết rằng mình không thể để nữ lang khốn khổ này ra đi được. Tử Khuê buột miệng nói ngay:
- Chân muội đừng đi!
Thanh Chân vui mừng khôn xiết, sụp xuống ôm chân chàng mà khóc. Mùi hôi hám từ người nàng ta xộc vào mũi Tử Khuê khiến chàng buồn nôn song không dám chê, chỉ dịu dàng bảo:
- Chúng ta sẽ đi sang khách điếm bên kia đường để nàng tắm gội và thay y phục.
Có kẻ đa sự lên tiếng:
- Ở đây làm gì có chỗ nào bán y phục phụ nữ.
Quả đúng vậy, có ai nghĩ đến chuyện kinh doanh quần áo đàn bà ở chốn chiến trường sát máu này? Số nữ hào kiệt như Thiết Đảm Hồng Nam rất hiếm. Và chính Tống Thuỵ đã lặng lẽ mở tay nải lấy ra vài bộ võ phục, một đôi giày vải cùng đồ lót, bước đến trao cho Thanh Chân. Ả điên thản nhiên nhận lấy và toét miệng cười bảo:
- Cảm ta hiền muội. À này ! Người xinh đẹp thế kia sao lại lấy một gã trọc phá giới, mặt trơ trán bóng như vậy? Đến Phật tổ mà hắn còn dám lật lọng thì còn chung thuỷ với ai được nữa?
Quần hùng phá lên cười nắc nẻ khi thấy Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương bị mụ khùng kia chê bai quá cỡ. Họ Lã thì giận đến đỏ mặt, tức cành hông khi bị mạt sát trước mặt người đẹp. Nhưng chẳng lẽ phát tác trước mặt kẻ điên cuồng nên đành bấm bụng ngồi yên.
Nào ngờ Thanh Chân thấy thế lại đắc ý nói tiếp:
- Hiền muội biết không. Hồi xưa ta thường được nghe nhũ mẫu kể lại vùng Du Lâm có một gã sư hổ mang, đêm đêm đội tóc giả để đi mò mẫm các thôn nữ, cuối cùng bị người ta đánh gãy giò, giải lên quan. Hiền muội hãy nghe lời ta, bỏ quách tên trọc ấy cho rồi.
Do mặt mũi lem luốc nên người ta không rõ Thanh Chân bao nhiêu tuổi song giọng nói thì rất trẻ trung. Khổ thay nàng cứ điềm nhiên xưng chị với Tống Thuỵ.
Và một lần nữa, các tửu khách lại rống lên cười cợt. Họ chẳng ưa gì một kẻ kiêu ngạo như Lã Hoa Dương. Họ Lã không còn kiềm chế được nữa khi nghe Thiết Đảm Hồng Nhan trả lời ả điên chết tiệt kia:
- Đại tẩu cứ yên tâm. Vị huynh đài ấy chỉ là bằng hữu chứ không phải là ý trung nhân của tiểu muội.
Lã Hoa Dương đỏ mặt tía tai, đứng phắt dậy chửi vang:
- Mụ điên khốn kiếp kia sao dám nhục mạ ta?
Dù rất ngao ngán không muốn xía vào chuyện của mụ vợ bất đắc dĩ, điên khùng, song đến nước này Tử Khuê cũng phải lên tiếng. Chàng nghiêm nghị bảo Thanh Chân:
- Chân muội! Nàng hãy im miệng và đến tạ lỗi với Lã thiếu hiệp.
Thanh Chân ngoan ngoãn gật đầu vâng dạ nhưng lập tức ngơ ngác hỏi lại chàng:
- Tướng công bắt thiếp im miệng thì làm sao tạ lỗi được?
Câu nói ngây thơ, ngốc nghếch của nàng lại khiến cử toạ cười nôn ruột. Tống Thụy cũng không nín được, cười bảo:
- Không cần đâu! Nhị vị cứ đi đi!
Tử Khuê rầu rĩ gật đầu tỏ ý cảm tạ Thiết Đảm Hồng Nhan rồi dắt theo sau cô vợ trời của mình rời quán.
Chàng lấy đồ đi đến khách điếm đối diện. Tuy không rộng rãi song đây là cơ ngơi khang trang, kiên cố nhất có vách và sàn bằng ván được bào nhẵn nhụi. Người ta đã tháo dỡ kiến trúc gỗ này trong thành Đăng Phong và mang đến đây ghép lại, chỉ khác trước ở chỗ mái tranh thay mái ngói.
May thay Lương Phong khách điếm vẫn còn trống phòng. Có lẽ vì giá đắt cắt cổ nên chẳng mấy người dám mướn. Khách giang hồ chứ nào phải lái buôn?
Lão chưởng quỹ mặt choắt, râu dê cười hề hề bảo khách:
- Bẩm đại ca. Bổn điếm có quy củ là lấy tiền trước, giá mỗi ngày mười lạng bạc, mong đại ca thông cảm cho.
Đúng là đắt đến đau ruột, còn hơn cả giá phòng ở Đăng Phong. Nhưng Tử Khuê đang rối tơ vò nên chẳng để ý đến, móc ngay túi bạc đặt lên quầy và yêu cầu một bồn nước nóng.
Lão chưởng quỹ này đã biết chuyện “Vạn lý tầm phu” của đôi khách vì gã tiểu nhị đã sang đây hóng hớt. Lão vui vẻ gật đầu, đưa khách vào trong.
Tám phòng dùng chung một nhà tắm song may là giờ này khách trọ trước đã đi vắng cả. Thanh Chân tha hồ kỳ cọ, cạo ghét gần nửa canh giờ mới xong.
Khi nàng đẩy cửa vào phòng thì Tử Khuê đang ngồi tư lự trên cạnh giường, nghĩ cách giải tỏa tai hoạ. Chàng khẽ giật mình trước dung nhan thiên kiều bá mị của người thiếu nữ trước mặt mình. Chàng chẳng dám chắc đấy có phải là Thanh Chân hay không nữa?
Có lẽ nhờ lớp cáu ghét dày cộm che chở nên da mặt nàng không bị nám đi bởi nắng mưa, vẫn trắng hồng và mịn màng. Giờ đây mái tóc huyền óng ả buông dài, ôm lấy gương mặt trái xoan thanh tú. Cặp mắt nhung đen lay láy, sống mũi thon thon, bờ môi hồng cong cớn và hai núm đồng tiền duyên dáng kia toát ra một vẻ ngây thơ, trong trắng lạ thường. Đây là thần sắc của một cô bé mười hai mười ba tuổi chứ chẳng phải kẻ trưởng thành. Nghĩa là có thể Thanh Chân chỉ khờ dại, non nớt chứ không hề điên loạn.
Nàng nhoẻn miệng cười tươi:
- Hối ca! Chàng thấy thiếp có đẹp hơn vị cô nương tốt bụng lúc nãy hay không?
Tử Khuê bất giác gật đầu rồi lại lắc đầu, Mỗi người một vẻ quả là khó so sanh hơn thua được. Thấy Thanh Chân bước đến định sà vào lòng mình, Tử Khuê vội đứng lên và mời nàng đến cùng ngồi trên hai chiếc ghế đôn gỗ cạnh bàn bát tiên trong phòng. Rồi chàng nghiêm nghị hỏi:
- Chân muội! Phải chăng nàng cho rằng ta chính là Thiết Thủ Thần Tiêu Bàng Nguyên Hối?
Tử Khuê đã suy nghĩ rất lâu trong lúc Thanh Chân tắm gội, đi đến kết luận rằng nàng ta chính thị người tình bí mật của họ Bàng, khi gã lạc đến Lôi Đình Thần Cung ở Thiểm Bắc. Chàng không chắc lắm nhưng chẳng còn giả thiết nào đáng tin cậy hơn.
Qua nhiên Thanh Chân vui vẻ gật đầu:
- Đúng vậy! Ngày ấy chàng đã bảo với thiếp rằng tên mình là thế khi thiếp cứu chàng khỏi “Thạch trận” của Lôi Đình Thần Cung.
Tử Khuê mừng thầm, biết mình đã đi đúng hướng. Chàng từ tốn bảo :
- Giờ đây ta sẽ gỡ mặt nạ để Chân muội hiểu rõ nội tình.
Tử Khuê cẩn thận lột lớp hoá trang, để lộ chân diện mục. Chàng tưởng Thanh Chân sẽ sửng sốt, thất vọng, nào ngờ nàng lại hớn hở tán dương:
- Ôi chao! Không ngờ khi cạo râu, tỉa lông mày, Hối ca lại trẻ trung và anh tuấn đến dường này. Thiếp vô cùng sung sướng khi có được bậc trượng phu tài mạo như chàng.
Tử Khuê rầu thúi ruột, bắt đầu tin con nha đầu kia khùng điên thứ thiệt. Bàng Nguyên Hối hơn chàng gần hai chụ tuổi, thế mà ả cũng không phân biệt được.
Tử Khuê chán nản bảo:
- Nhưng ta là Quách Tử Khuê chứ nào phải Bàng Nguyên Hối.
Thanh Chân thản nhiên cười đáp:
- Té ra Bàng Nguyên Hối chỉ là tên giả! Thảo nào năm xưa Hà nhũ mẫu kể rằng các hiệp khách thường cải trang và đổi tên khi trừ gian diệt bạo, để tránh tai hoạ cho gia quyến. Từ nay thiếp sẽ gọi chàng là Khuê ca.
Tử Khuê tức như bị bò đá, khổ sở rên rỉ:
- Hoàng thiên ơi! Ta chưa hề đến Lôi Đình Thần Cung bao giờ, sao có thể là Bàng Nguyên Hối được chứ? Nàng làm ơn tỉnh táo lại dùm ta!
Thanh Chân tái mặt, nhìn chàng trân trối, nước mắt tuôn như ra suối. Nàng nghẹn ngào:
- Khuê ca! Thiếp biết chàng đã có hai vợ nên sợ hãi mà chối bỏ tình xưa. Nhưng thiếp là người rộng lượng, hiểu câu “Trai anh hùng năm thê bảy thiếp”, tất sẽ chẳng ghen hờn. Lòng thiếp như thế mà chàng còn không dung nạp thì Thanh Chân cũng chẳng còn sống làm gì nữa.
Dứt lời nàng lao vút về phía giường ngủ, chụp thanh bảo kiếm của Tử Khuê, rút ra khỏi vỏ và kề vào cổ mình. Tử Khuê hồn phi phách tán, đứng dậy thét lên:
- Chân muội chớ làm càn!
Thanh Chân dừng tay, nức nở hỏi:
- Vậy tướng công có chịu nhận Trác Thanh Chân này làm thê thiếp hay không?
Tử Khuê bí quá, thở dài đáp:
- Ta đồng ý!
Thanh Chân lập tức nhoẻn miệng cười, quăng kiếm lên giường rồi lướt đến ôm và áp má vào ngực chàng.
Tử Khuê bâng khuâng đứng im như tượng gỗ. Chợt chàng phát hiện ra điều quái dị bèn hỏi nhỏ:
- Chân muội! Vì sao nàng biết ta đã có hai vợ? Vì sao nàng nhận ra dù ta mang mặt nạ?
Thanh Chân cười khúc khích, ngửa mặt sôi nổi đáp:
- Có lẽ tấm chân tình của thiếp đã động đến lòng trời nên đêm qua Nguyệt lão giáng mộng chỉ giáo. Người nói rõ ràng chiều nay chàng sẽ có mặt ở chân núi Ngũ Nhũ và cải trang thành một hán tử mũi ưng, gò má trái có nốt ruồi đen. Nguyệt lão còn báo trước rằng chàng sẽ vì sợ hai mụ vợ ở nhà mà chối bỏ thân phận.
Tử Khuê sực nhớ ngay đến lão Phán Quan họ Lỗ, nên gặng hỏi:
- Này Chân muội! Thế chẳng hay dung mạo Nguyệt lão ra sao?
Thanh Chân hí hửng đáp:
- Ông ta cực kỳ đẹp lão, râu năm chòm không trắng như bong, mặt mũi hiền lành phúc hậu.
Nghe vậy Tử Khuê nửa tin nửa ngờ, không dám khẳng định là Lỗ Phán Quan đã nhúng tay vào vụ này.
Hồi 11 : Quỷ kì tái xuất Tung Sơn loạn
tuyết lạc Sơn Đông tán cát nhân
Đến nửa đêm thì Tử Khuê đã nghe hết cuộc hành trình giang khổ của Trác Thanh Chân từ Thiểm Tây đến đây. Nàng không một xu dính túi, chẳng chút hành trang, trên đường thiên lý sống bằng quả rừng hoặc thực phẩm cướp giật được.Và khổ thay, Thanh Chân lại là cung nữ của Lôi Đình Đế Trác Ngạn Chi. Ai dính dáng đến nàng là dính họa vào thân, chết thảm y như Bàng Nguyên Hối vậy. Nhưng Tử Khuê không làm sao thoát ra cảnh éo le này được. Đấy là chưa kể đến rắc rối trong gia sự khi chàng dắt ả ngốc của nợ này về Hứa Xương.
Còn một vấn đề khá tế nhị là Tử Khuê chẳng thể mạo danh mà lấy người tình của kẻ đã chết. Chàng không biết hai năm trước giữa Thanh Chân và Bàng Nguyên Hối đã xảy ra chuyện gì song không tiện hỏi han. Tử Khuê đánh liều, phó mặc dòng đời đưa đẩy, chờ hạ hồi phân giải. Trước mắt, chàng cố giữ khoảng cách với Thanh Chân để tránh hậu hỏa đáng tiếc về sau. May mà Thanh Chân rất mực ngây thơ, trong trắng, biết câu “nam nữ hữu biệt”, tuy đồng sàng cùng chàng nhưng nằm xa thản nhiên an giấc.
Sáng hôm sau, Tử Khuê thức giấc khá trễ, phát hiện Thanh Chân đã dậy trước mình, đang loay hoay xếp bộ võ phục để chàng thay, có cả đôi bao tay “Ngư giáp miệt”. Nàng cầm một chiếc lên xăm soi và vui vẻ khen:
- Tướng công quả là khéo tay ! Chàng sơn phết tinh vi thế này thì người ngoài làm sao nhận ra “Ngư giáp miệt”!
Quả thực là Vô Tướng Quỷ Hồ Dịch Quang San đã cặm cụi mấy ngày trời, dùng một loại sơn đặc biệt phủ lên bên ngoài đôi bao tay quý giá khiến chúng trông như da thật, có cả móng lẫn những nết nhăn ở đốt ngón tay.
Tử Khuê ậm ừ cho qua chuyện rồi rủ nàng rời khách điếm, sang tửu quán đối diện dùng điểm tâm. Thực khách khá đông và trong số ấy có không ít người đã từng hiện diện hôm qua, nhưng chẳng có ai nhận ra đôi trai gái phong tư mỹ mạo chính là cặp phu thê quái gỡ chiều qua.
Tử Khuê đã mang chiếc mặt nạ khác, trở thành một hán tử tam tuần để râu mép, mặt mũi vuông vức, cương nghị. Phần Trác Thanh Chân thì quá xinh đẹp, khác xa mụ điên bẩn thỉu mà người ta từng gặp. Nhưng nếu Thiết Đảm Hồng Nhan xuất hiện nơi đây tất sẽ nhận ra y phục mình.
Lát sau, Tống Thụy bước vào, có Thiếu Lâm Thần Côn đồng hành. Tử Khuê thoáng nghe lòng mình mừng rỡ và thức ngộ rằng mình đã ghen với Lã Hoa Dương.
Tống Thụy sửng người khi nhìn thấy Trác Thanh Chân. Nàng không thể lầm được vì bộ võ phục máu gan gà mà nữ lang lạ mặt kia đang mặc cực kỳ quen thuộc. Và ngược lại, Thanh Chân cũng nhận ra ân nhân, hớn hở đứng lên vẫy gọi:
- Tống hiền muội!
Vẻ rạng rỡ chân thành của Thanh Chân đã khiến Tống Thụy cảm động, song nàng không nhận lời đồng bàn mà nhã nhặn từ chối:
- Cảm tạ nhị vị ! Tiếc rằng hiền muội đã hẹn ăn sáng với Lã huyng đài.
Nói xong, nàng ngồi xuống một bàn trống gần cửa quán, Thanh Chân lộ vẻ bực bội, lầm bầm:
- Té ra cô ả chưa dứt bỏ được gã lừa trọc mắc toi kia!
Tử Khuê chău mày hỏi:
- Lã Hoa Dương nghi biểu đường chính nổi danh là bậc anh hùng hiệp nghĩa, sao Chân muội lại có ác cảm với gã như thế!
Thanh Chân tư lự đáp:
- Tiểu muội đến Lạc Dương cách nay ba hôm. Đêm ấy tiểu muội ngủ trên chạng ba một cây cổ thụ trong hoa viên của Lạc Hà đại khách điếm. Khoảng gần cuối canh ba, có một bóng đen vượt tường rào và nhảy lên lầu, đột nhập vào một phòng có ánh đèn. Tiểu muội tưởng là đạo tặc liền bám theo, rình ngoài lang cang khi nhìn qua khe cửa thì tiểu muội thấy gã họ Lã tay cố lột xiêm y của một mỹ nhân rất đẹp. Nàng ta chống cự yếu ớt và cười bảo: “Chưa lấy được “Dịch Cân Kinh” sao Lã đại ca lại đòi thưởng côn sớm như vậy?”. Nhưng gã trọc ấy đã cởi được áo ngủ của nàng ta và vung chưởng quạt tắt đèn dầu. Tiểu muội vì xấu hổ mà quay về chỗ ngủ trên cây, không dám nghe ngóng nữa.
Tử Khuê bàng hoàng, kinh hãi, không ngờ Lã Hoa Dương lại vì nữ sắc mà bán mình. Sẵn sàng trộm cả báu vật trấn sơn của phái Thiếu Lâm. Chàng bâng khuâng nhớ đến Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ, một nạn nhân tương tự.
Tử Khuê quyết định sẽ tìm cơ hội thuận lợi, dùng thân phận thật mà cảnh báo sư muội của mình và chùa Thiếu Lâm.
Hơn khắc sau, Lã Hoa Dương vẫn chưa đến và ngoài cửa quán vang lên tiếng ồn ào, náo nhiệt. Người ta kháo nhau rằng đã tìm thấy tung tích của Phi Điểu Thần Ma Lục Doãn Ngôn, tại ngọn Độc Nha Sơn cách núi Ngũ Nhũ chừng ít dặm về hướng bắc.
Thế là thực khách vội vã gọi tiểu nhị tính tiền, hoặc quăng đại bạc lên bàn rồi rời tửu quán. Tống Thụy cũng vậy.
Tử Khuê đến đây để tìm Quân Sơn Chân Nhân chứ chẳng phải vì “Diêm vương Quỷ kỳ” nên không vội, điềm nhiên ăn nốt bữa sáng.
Thanh Chân nhìn theo bóng Thiết Đảm Hồng Nhan và nhận xét:
- Tội nghiệp Tống Thụy hiền muội! Chắc nàng ta rất buồn khi gã trọc kia đã hẹn mà không đến!
Tử Khuê đã giới thiệu tên họ của Tống Thụy Thụy cho Thanh Chân biết nhưng không tiết lộ quan hệ sư huynh, sư muội. Nghe thấy Thanh Chân cứ đòi làm chị, chàng bật cười bảo:
- Thiết Điểm Hồng Nhan năm nay đã hăm sáu, hăm bảy tuổi. Chân muội niên kỷ bao nhiêu mà sao cứ gọi nàng ta là em!
Trác Thanh Chân bối rối đáp:
- Chết thật! Thế mà tiểu muội tưởng Tống Thụy mới tuổi đôi mươi!
Nói xong, nàng ta bưng chén trà lên uống, ánh mắt rất kỳ lạ, và rốt cuộc Tử Khuê cũng không biết tuổi của Thanh Chân.
Ăn xong, Tử Khuê nghiêm nghị bảo:
- Ta đến đây với mục đích tầm thù, cuộc chiến nguy hiểm khó lường, Chân muội hãy ở khách điếm mà chờ đợi!
Thanh Chân lắc đầu, phụng phịu nói:
- Phu thê sống thác có nhau. Vả lại Thanh Chân thừa sức tự bảo vệ, chẳng để chàng phải vướng bận.
Tử Khuê hổ thẹn với vong linh Bàng Nguyên Hối nên đã dạy Thanh Chân cách xưng hô đại ca, tiểu muội, không cho nàng gọi mình là tướng công và xưng thiếp nữa. Chàng cũng căn dặn Thanh Chân không tiết lộ cái danh tính Quách Tử Khuê của mình. May thay, Thanh Chân rất ngoan ngoãn, nhất nhất vâng lời.
Nhớ đến tài khinh công quỷ khốc thần sầu của nàng,Tử Khuê tạm yên lòng đồng ý cho nàng tháp tùng. Nhưng chàng cẩn thận dặn dò:
- Chân muội cứ đứng ngoài quan chiến, khi thấy ta đào tẩu thì lập tức chạy theo!
Thanh Chân tủm tỉm cười:
- Té ra đại ca thông đạt hơn người, không thí mạng vô ích như phần lớn bọn đại hiệp trong thiên hạ.
Tử Khuê nhếch mép cười buồn:
- Ta vì an nguy, hạnh phúc của người thân mà phải suốt đời giấu mặt và chạy trốn, thiếu lúc cũng tủi phận, nào dám xem mình là hiệp khách
Thanh Chân che miệng cười khúch khích:
- Vô danh thì đã sao! Bọn nữ nhân tiểu muội cần một trượng phu còn sống chớ không mong phải thờ phụng một vị đại hiệp chết non.
Câu nói mộc mạc giản dị ấy chứa đầy chân lý khiến Tử Khuê được an ủi, gật đầu khen phải. Thanh Chân cẩn thận mua vài chục cái bánh bao không nhân và một bầu nước nhỏ. Nàng vui vẻ phân bua:
- Lỡ chúng ta có phải đào tẩu vào rừng thì cũng có cái mà ăn.
Hai người rời quán, đuổi theo đám quần hào. Thật ra, họ không đơn độc vì hàng ngàn người khác cũng đang rời khu liều vải mà tiến về hướng Độc Nha sơn.
Qua câu chuyện của mọi người, Tử Khuê hiểu đại khái rằng sáng nay khá nhiều kẻ dậy sớm đã phát hiện một cánh chim ưng thật lớn bay vần vũ trên bầu trời. Họ lập tức cắt rừng vượt núi tiến đến vị trí ấy, bắt gặp con linh điểu tại Độc Nha sơn.
Chim không chết thì Phi Điểu Thần Ma cũng phải còn sống. Hoặc giả gã họ Lục có qua đời rồi thì trong xác vẫn còn “Diêm Vương quỷ kỳ”
Nhưng khổ thay, địa hình Độc Nha sơn cực kỳ cổ quái và hiểm ác, khiến những kẻ đến trước phải chùng chân.
Độc Nha sơn là một ngọn núi nhỏ chỉ cao độ năm sáu chục trượng tựa như chiếc răng sói nhọn hoắt dựng ngược, cây cối ít ỏi, trơ màu đá xám xịt. Hình dáng núi chẳng dọa được ai nhưng vùng đất xung quanh núi lại sụt xuống thành một chiếc hào thiên nhiên sâu hun hút, sương mù mờ mịt.
Con đường duy nhất để vào Độc Nha sơn là phần đất còn lại chưa sập xuống thành vực thẳm. Tuy nhiên, do nước mưa xói mòn nhiều năm mà đỉnh của dải đất dài mười mấy trượng ấy mỏng lét, chẳng khác đường sống lưng trâu. Tất nhiên là con đường rất ghập ghềnh, có đoạn chỉ đặt vừa lòng bàn chân. Và kẻ nào sơ xuất sẽ rơi xuống khe núi mà về với ông bà.
Đó là lý do Độc Nha sơn vắng dấu chân người, và giờ đây khiến lòng kẻ học võ mấy chục năm phải ngao ngán.
Cuối giờ Thình thì quần hùng đã tề tựu đông đủ, kẻ dưới đất người trên cây, ngắm cảnh Độc Nha sơn mà lắc đầu.
Đứng gần bờ vực vì con đường duy nhất chính là năm phái Bạch Đạo và những bang hội hùng mạnh như Chiết Mai bang, Bích Huyết bang, Xoa Lạp Cốc, Thần Đao Bảo.
Bảo chủ Tần Minh Viên đứng cạnh Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn, công khai mối liên minh giữa hai người. Lực lượng Xoa Lạp Cốc do Thiếu Cốc chủ Nhạc Cuồng Loạn thống lĩnh, ở vị trí sát với Thần Đao Bảo tựa như cùng một phe. Họ Nhạc còn bàn bạc với Tần Minh Viên và Âu Dương Mẫn.
Trong hàng Chiết Mai bang và Bích Huyết bang không thấy có Nam – Bắc Thiên Tôn nên xem ra họ khá kém thế. Nhưng chẳng phải vì hùng mạnh hơn mà phe Âu Dương Mẫn dám nhanh nhẩu tiến vào Độc Nha sơn.
Vào thì được nhưng lúc ra sẽ khó toàn thây khi kẻ địch trấn giữ đầu đường độc đạo mà tấn công. Dẫu võ nghệ siêu phàm cách mấy thì cũng toi mạng khi mãnh đất dưới chân quá hẹp và sẵn sàng sụp lỡ bất cứ lúc nào.
Nghĩa là trước khi tiến bước thì phải chiếm được khoảnh đất đầu đường sống trâu kia. Nhưng lúc ấy, phe mạo hiểm sẽ trở thành kẻ địch của mấy ngàn người còn lại, và ở thế quay lưng vào vực thẩm. Do đó, chưa lực lượng nào dám liều mạng cả.
Tử Khuê và Thanh Chân đã nhảy tót lên một ngọn cây du núi cao vút. Nhận ra Nhạc Cuồng Loạn, Tử Khuê lo ngại chỉ cho nàng thấy:
- Chân muội! Gã công tử áo xanh, búi tóc cài ngân quang kia là Thiếu Cốc chủ Xoa Lạp Cốc, tên Nhạc Cuồng Loạn. Gã ta đã từng học võ ở Lôi Đình Thần Cung nhiều năm, tất sẽ nhớ mặt nàng. Chân muội hãy tránh đừng cho gã gặp mặt!
Thanh Chân mỉm cười đắc ý:
- Đại ca yên tâm! Trước đây gã mắc toi ấy chưa nhìn thấy tiểu muội lần nào.
Tử Khuê yên tâm và thầm ngạc nhiên song không muốn hỏi cho rõ. Chàng chú mục quan sát Độc Nha sơn, phát hiện trên vách đá đoạn gần chân núi có rất nhiều hang động. Cái sát mặt đất, cái ở cao năm sáu trượng. Có lẽ không phải chỉ ở mạn nam này mà chung quanh núi đều lỗ chổ hang hốc như thế. Hiện nay, con chim ưng đã sà xuống và biệt tăm, chẳng rõ chui vào xó nào. Nghĩa là, khi sang được bên ấy, người ta cũng khó mà biết đích xác Phi Điểu Thần Ma ở đâu trong hàng trăm hang động tối tăm kia.
Bổng quần hùng ồn ào hẳn lên, xôn xao bảo nhau rằng Nam Thiên Tôn và Bắc Thiên Tôn đã giá lâm.
Tử Khuê hiếu kỳ nhìn xuống, thấy thấp thoáng một toán bảy, tám người đang tiến vào rất nhanh. Cuối cùng họ đã đến mảnh đất quang đãng không cây cối, gần mép vực, Tử Khuê mới nhìn rõ hơn.
Không khó để nhận biết lai lịch của hai vị đại kỳ nhân vì phong thái bất phàm cũng như vũ khí thành danh của họ. Bắc Thiên Tôn Phùng Thịnh Đoan mặc áo bào trắng, áo cừu cũng trắng và trong hình thái cực tiên chiếc mũ đạo sĩ có đính hai viên bảo ngọc, một đỏ một xanh. Bộ râu năm chòm của lão cũng trắng muốt, tô điểm cho gương mặt phương phi, đỏ hồng thêm phần tiên khí.
Theo sau Bắc Thiên Tôn là một đạo sĩ bạch y tuổi quá bốn mươi, mặt không râu, gân guốc, cương nghị, thân thể lực lưỡng. Hắn ta tên gọi là Lã Bất Thành, chính thị đại đệ tử của Bắc Thiên Tôn.
Thực ra, Phùng lão vốn sở trường nghề đánh trường kích, vũ khí thành danh của Lữ Bố thời Tam Quốc. Trường kích dài và nặng nề, chẳng phải thứ mà ai cũng múa nổi, nhất là đàn bà. Cho nên, Lã Bất Thành sức lực hơn người, chân truyền pho “Bạch Vân kích pháp”. Còn Dương Tố Vy bang chủ Chiết Mai bang thì chỉ được học nghề đánh kiếm, sở đoản của Bắc Thiên Tôn.
Tuy Lã Bất Thành không xuất đạo, chỉ quanh quẩn nơi đất Sơn Tây, song võ lâm đều biết bản lĩnh của gã chỉ kém Bắc Thiên Tôn vài bậc. Ba mươi mấy năm ròng, Bất Thành tận tụy hầu hạ sư phụ, khổ công rèn luyện, chả biết mùi tửu sắc, còn đáng mặt tiên ông hơn cả Phùng Thịnh Đoan. Cho nên, thành tựu của họ Lã rất cao. Nếu ngày nào đó gã đánh bại sư phụ của mình thì cũng là điều dễ hiểu.
Nhưng giờ đây, con người hiếu võ thành tật ấy đang lặng lẽ vác cây “Bạch Vân kích” dài sáu xích, nặng ba mươi cân, theo hầu Bắc Thiên Tôn. Lã Bất Thành cũng có một cây dài kích nặng y như thế, do sư đệ của gã vác hầu. May mà gã ấy gầy gò, học kiếm pháp, không thì lại có thêm một gã khác ôm kích theo sau.
Phần Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến thì ngược lại. Gã này chuộng màu đen cả da dẻ cũng đen đen. Chỗ trắng trẻo trên người lão là mớ tóc bạc và bộ râu ngắn ngủn, lưa thưa. Hàm răng thì không tính vì đã vàng ố và rơ mất vài chiếc.
Tuyệt học khí công Trung Hoa có thể giúp người ta khỏe mạnh, sống lâu song bất lực trước sự tồn vong của những chiếc răng. Chúng thản nhiên tàn tạ mục nát, hoặc lung lay rồi rơi rụng bất kể vị chủ nhân già có đến hàng trăm năm công lực. Ngay Trương Tam Phong cũng còn móm xọm chứ đừng nói ai.
Răng bền chắc hay không là tùy thuộc vào những yếu tố khác. Ví dụ như dân Giao Chỉ chẳng hạn. Họ có tập quán nhuộm răng đen và ăn trầu nên hàm răng cực kỳ tốt, dẫu đến tuổi tám mươi mà vẫn chưa hề lay chuyển chiếc nào.
Tóm lại, đại đa số các cao thủ lão thành của võ lâm Trung Hoa đều thiếu vài chiếc răng khi đến tuổi bảy mươi, thậm chí năm sáu mươi, không chỉ riêng mình Nam Thiên Tôn. Chẳng qua lão xui xẻo rụng nhầm răng cửa trông không được đẹp mắt đấy thôi !
Vác vũ khí theo hầu Từ lão là một đạo sĩ trung niên, thân hình phốp pháp, to béo, mặt tròn nung núc thịt, thần sắc thật thà, kém oai phong hơn Lã Bất Thành.
Gã ta tuổi mới bốn hai, tên gọi Khổng Đam, biệt hiệu Hồ Đồ Thần Thương. Một người mang họ của Khổng Từ và tên của Lão Tử thì tại sao lại có thể không sáng suốt nhỉ. Thế mà Khổng Đam lại ngốc không thể tưởng được. Học võ từ năm mười bốn tuổi, đến tam thập thì Khổng Đam hạ sơn, tự xưng là Giang Nam Thần Thương. Gã tự cho mình là hiệp sĩ nên can thiệp vào đủ mọi chuyện trên đường giong ruổi, gây những chuyện cười ra nước mắt.
Có lần, Khổng Đam gặp cảnh năm đánh một liền hớn hở xông vào giúp kẻ thế cô. Nào ngờ, đấy là năm vị bộ đầu mặc thường phục truy bắt hung thủ cướp của giết người. Rốt cuộc tên đạo tặc trốn thoát, còn Khổng Đam bị bắt giải về phủ Trường Sa. May mà Nam Thiên Tôn rất được quan lại Hồ Nam nể trọng nên cứu được đứa học trò đại ngốc khỏi cảnh tù tội.
Từ đó giới gian hồ gọi Khổng Đam là Hồ Đồ Thần Thương. Và gã cũng bị sư phụ bắt về núi, không cho đi rong nữa.
Tuy tư chất kém cỏi nhưng Khổng Đam có thần lực kinh nhân, đường thương nặng như núi Thái. Cho nên dẫu Trịnh Bá Nghiêm được Từ lão ưu ái, hết dạ tài bồi mà vẫn không hơn được họ Khổng.
Nghĩa là, sau này Lã Bất Thành cùng Khổng Đam sẽ đại diện cho Bắc Thiên Tôn, Nam Thiên Tôn để đấu với Quách Tử Khuê, trong cuộc phó ước Tam Tôn.
Văn tự thì dài dòng song Tử Khuê nhận biết bốn nhân vật kể trên đã từ lâu, qua lời tường thuật của nghĩa phụ Trung Thiên Tôn. Chàng đặc biệt chú ý đến lão đạo sĩ áo xanh, lưng đeo trường kiếm đang đi giữa Nam – Bắc Thiên Tôn. Tử Khuê bồi hồi, linh cảm rằng đây có thể là Quân Sơn Chân Nhân Đường Mai Giãn, kẻ đã hại chết Tam sư thúc của mình. Lão ta hơi bị gù lưng, trán hói cao, rất giống lời mô tả của Lỗ Phán Quan.
Và lời phỏng đoán ấy đã được xác nhận khi Song Tôn đến vị trí của phe Bạch Đạo. Sáu vị chưởng môn nhân đều bước ra thi lễ vì Song Tôn là bằng hữu của sư phụ họ.
Bắc Thiên Tôn vui vẻ giới thiệu bạn đồng hành :
- Này lục vị! Đây là Quân Sơn Chân Nhân Đường Mai Giãn ở Trường Sa, sư đệ của bần đạo.
Tử Khuê thoáng giật mình, không ngờ lão quỷ này là đồng môn với Bắc Thiên Tôn. Việc này sẽ khiến việc trả thù của chàng thêm phần khó khăn.
Lục vị chưởng môn cũng cùng tâm trạng như Tử Khuê. Họ căm giận Đường Mai Giãn đã ám hại vị ân nhân là Cửu Hoa Thánh Y, song không có bằng cớ nên đành cố nhịn. Tuy cả thiên hạ đều tin rằng có âm ty, có ma quỷ, nhưng họ chẳng thể đưa Lỗ Phán Quan ra làm chứng được. Nay Quân Sơn Chân Nhân lại dựa hơi Bắc Thiên Tôn thì càng khó bắt tội lão ta.
Sáu vị long đầu cắn răng gật đầu thủ lễ, nhìn Đường Mai Giãn với ánh mắt lạnh tanh. Bắc Thiên Tôn không hiểu ẩn tình, phật ý bởi cho rằng đáng lẽ đối phương phải “vị thần nể cả cây đa”, vì lão mà tôn trọng sư đệ của lão.
Quân Sơn Chân Nhân thì chột dạ tự nhủ:
- Chẳng lẽ họ biết ta giết Cỗ Sĩ Hoành? Không thể được, chẳng ai chứng kiến việc ấy cả!
Lúc này Bắc Thiên Tôn đã đổi sắc, nghiêm nghị nói sang sảng:
- Kính cáo hội đồng võ lâm cùng toàn thể chư vị anh hùng. Bần đạo nay đã tám mươi sáu tuổi, gần đất xa trời, nhưng quyết đem sức tàn phù trì xã tắc, giữ vững cơ đồ Đại Minh. Bởi vậy, bần đạo mới cần đến cây “Diêm vương Quỷ kỳ” làm phương tiện để phá tan những đạo quân Mông Cổ đang uy hiếp biên thùy phía bắc.
Lão chắp tay, cúi đầu rồi nói tiếp:
- Thánh thượng anh minh tất hiểu tấm lòng trung nghĩa của bần đạo nên đã hạ Thánh chỉ truyền bần đạo thu dụng linh kỳ. Phiền chư vị cùng quỳ xuống để nghe khâm sai đại nhân Đổng Phúc của Đông Xưởng tuyên đọc Thánh chỉ!
Nói xong, lão lùi lại vài bước, kính cẩn mời một hán tử áo gấm, mang đao, thần thái kiêu ngạo. Gã này nãy giờ đứng cạnh Lã Bất Thành phía sau Song Tôn.
Nghe nhắc đến Thánh Thượng và Đông Xưởng thì ai cũng chột dạ, hiểu rằng linh kỳ khó thoát khỏi tay lão mắc dịch họ Phùng. Và tất nhiên sẽ chẳng có đánh đấm gì cả!
Tiếc công lặn lội đường xa và dầm sương gội gió bấy lâu nay, một gã cứng đầu bực bội buột miệng chửi thề:
- Mẹ kiếp! Cả lũ đang bám trên cây như khỉ thế này thì quỳ thế quái nào được!
Quả thật vậy, trừ những lực lượng mưu đồ tranh đường đi tiên phong vào Độc Nha sơn, kỳ dư đều tìm vị trí tốt để quan sát, và không ít người đã chọn ngọn cây.
Khách gian hồ quen thói phóng túng, ngang ngược và chẳng ưa gì triều đình. Bởi họ đã chứng kiến qua nhiều cảnh lầm than khổ ải của lê dân. sưu cao, thuế nặng và sự nhũng nhiễu tham tàn của bọn quan lại địa phương đã khiến dòng máu hiệp sĩ sục sôi. Từ đó, trong lý tưởng “Trừ bạo an dân” bao hàm cả việc giết quách vài gã quan tham cho dân dễ thở.
Với tâm lý ấy, quần hào chán ghét khi nghe nhắc đến Thánh chỉ. Họ ồ lên tán thành ý kiến của cái gã đang đánh đu trên cây. Và khổ thay, một gã dốt kinh khủng nào đó đã oang oang hỏi lớn với giọng thơ ngây:
- Lạ thật! Thánh thượng là cái lão quái nào thế nhỉ? Lão ta đã chết chưa mà cứ bắt chúng ta quỳ lạy mãi thế?
Gần nửa vạn người phá lên cười muốn lộn ruột, làm chấn động cả vùng núi Tung Sơn. Thậm chí có kẻ còn cười đến nổi rơi từ trên cây xuống.
Họ không thể không cười vì kẻ phát ngôn chính là Hồ Đồ Thần Thương Khổng Đam, đại đệ tử của Nam Thiên Tôn.
Từ lão tái mặt nạt học trò:
- Câm ngay! Ngươi muốn bị tru di tam tộc hay sao mà dám phạm tội khi quân. Mau quỳ xuống nhận tội!
Rồi lão quay sang van nài phân bua với vị khâm sai đại nhân họ Đổng ở Đông Xưởng, Nam Thiên Tôn còn nháy nhó lia lịa, ra hiệu rằng sẽ chuộc lỗi cho đồ đệ bằng vàng ròng chứ chẳng phải nói suông.
Đổng Phúc hiểu ý, xuề xòa phán rằng:
- Khổng Đam ngu muội, hồ đồ khét tiếng võ lâm, ai ai cũng biết, nên bổn nhân chẳng chấp nhất làm gì. Nếu là kẻ khác thì không khỏi tội chém ba họ.
Khổng Đam đang quỳ dưới đất, rung như cầy sấy, nghe vậy thì mừng rỡ, dập đầu lạy Đổng Phúc như tế sao.
Họ Đổng xua tay bảo gã đứng dậy rồi nghiêm nghị nói với toàn trường. Người của Đông Xưởng đều là tay võ nghệ khá nên giọng của Đổng Phúc vang rền, hùng mạnh:
- Đúng là địa thế này không thích hợp để giữ đúng triều nghi nên chư vị hảo háo có thể đứng yên mà nghe Thánh chỉ cũng được!
Nói xong, Đổng Phúc cầm luôn lịnh kỳ bằng hai tay hướng về phương bắc mà vái ba vái. Nào ngờ từ trên ngọn cây của một cây tùng cao ngất nào đó, phía sau quần hào có một bóng xám lao vút xuống như tên bắn. Thành ngữ “Nhanh như cắt” thường được dùng để miêu tả, tung xưng tốc độ bay của loài chim ưng nhỏ của vùng thảo nguyên, sa mạc. Chim cắt khá giống diều hâu nhưng nhanh nhẹn hơn nhiều.
Và khổ thay, mục tiêu của con chim hung hãn ấy là cuộn lục Thánh chỉ trong tay Đổng Phúc. Họ Đổng vừa đưa lên vái cái thứ ba thì bị giật mất.
Sự cố này xảy ra trong chớp mắt khiến chẳng ai kịp phản ứng. Ngay cả hai vị đại kỳ nhân Nam – Bắc Thiên Tôn cũng ngơ ngác. Khi họ định thần thì con chim mạt cắt đã bay lên cao mười mấy trượng. Toàn trường xôn xao, ớ lên vì kinh ngạc, trố mắt nhìn cánh chim đang lã lướt trên không trung. Nó không bay thẳng về hướng nào mà lại lượn lờ theo hình xoắn ốc trên đầu quần hùng và bốc dần lên cao.
Con chim quái ác đã sai lầm vì đã quên rằng nơi đây có sự hiện diện của Trung Nguyên Thần Tiễn Phan Nguyên Kết.
Phan lão đã đủ thì giờ tra tên, giương cung trổ tài thiện xạ. Mũi trường tiễn xá không gian, đón lấy chim cắt ngay trên quỹ đạo bay của nó.
Do quá vội vã, không kịp tính toán đến sức gió thổi, nên Phan Nguyên Kết, chỉ thành công một nữa. Mũi tên của ông ta không cắm trúng mục tiêu và chỉ làm rụng vài chiếc lông cánh của con chim.
Nhưng như thế cũng đủ khiến cho chú chim phạm thượng kia sợ hãi, buông rơi Thánh chỉ, bay về hướng Độc Nha sơn.
Cuộn lụa vàng bung ra, như chiếc diều đứt dây, lão đảo rơi xuống khu rừng cạnh bờ vực, nơi quần hào đang nhốn nháo.
Tuy Thánh chỉ chẳng phải là *** chim nhưng nó vẫn thản nhiên đáp xuống cái đầu xui xẻo của Quách Tử Khuê. Chàng đưa tay chụp lấy, bâng khuâng chẳng biết phải xử trí thế nào.
Cây cổ thụ mà Tử Khuê và Trác Thanh Chân đang đứng nằm ngay sau lực lượng Chiết Mai bang, Bích Huyết bang. Bởi vậy, bang chúng của hai bang ấy lập tức vây chặt lấy gốc cây và Trịnh Bá Nghiêm đã lên tiếng bảo Tử Khuê:
- Phiền các hạ mang Thánh chỉ xuống giao lại cho Trịnh mỗ!
Nhớ đến lời dạy của nghĩa phụ Trung Thiên Tôn, Tử Khuê chẳng muốn “Diêm vương Quỷ kỳ” lọt vào tay kẻ xấu. Nhưng việc cướp đoạt Thánh chỉ là một việc mà chàng không hề nghĩ đến.
Chợt cô ả Trác Thanh Chân thỏ thẻ:
- Quách đại ca! Năm trước, tiểu muội từng được nghe Lôi Đình Đế Quân tiết lộ rằng Bắc Thiên Tôn đã bí mật gã con gái út cho một vị vương tử Mông Cổ. Do đó tiểu muội không tin rằng Phùng lão quỷ lại muốn đánh nhau với con rể của mình. Ngược lại, có thể lão ta sẽ dùng “Diêm vương Quỷ kỳ” để giúp quân Mông vượt Vạn Lý Trường Thành, xâm chiếm Trung Hoa lần nữa kìa!
Nghe xong, Tử Khuê toát mồ hôi hột, hiểu rằng không thể Phùng Thịnh Đoan chiếm được cờ báu. Và muốn ngăn cản lão ta thì trước tiên chàng phải đoạt lấy đạo Thánh chỉ này. Khi Song Tôn không còn hậu thuẫn của triều đình, các lực lượng khác sẽ chẳng để hai lão tự tung tự tác.
Tử Khuê nhìn vòng vây đen kịt dưới gốc cây mà ngao ngán, biết mình khó toàn mạng khi đem Thánh chỉ đào tẩu. Nhưng nghĩ đến cảnh Bắc Thiên Tôn vũ lộng Quỷ kỳ, dẫn quân Mông Cổ vào giày xéo giang sơn, gieo rắc tang tóc cho lê thứ, thì Tử Khuê vô cùng phẫn hận. Chàng nghiêm nghị bảo Thanh Chân:
- Chân muội! Có thể Song Tôn là tay sai của rợ Mông. Bởi vậy, ta quyết liều thân, không để họ đoạt được “Diêm vương Quỷ kỳ”. Nàng hãy ở yên trên này, chờ ta xuống gây rối hàng ngũ đối phương rồi hãy thoát đi.
Chàng vừa nói đến đây thì Nam Thiên Tôn nóng nảy thúc giục:
- Này tiểu tử kia! Ngươi không sợ chết hay sao mà cứ kiên trì mãi vậy? Mau mang Thánh chỉ xuống đây nạp!
Tử Khuê hoãn binh bằng một câu:
- Tại hạ muốn xin ít tiền thưởng. Từ lão tiền bối nghĩ sao?
Trong lúc Nam Thiên Tôn hội ý với đồng đảng thì Thanh Chân mỉm cười bảo Tử Khuê:
- “Uyên ương đồng mệnh”, thiếp quyết chẳng rời chàng một bước. Nhưng thật ra, sự tình nào đến nổi bi đát như thế. Đại ca cứ giả vờ đem Thánh chỉ xuống giao cho gã khâm sai, rồi bất ngờ chúng ta chạy thẳng vào Độc Nha sơn. Nếu tìm được “Diêm vương Quỷ kỳ” thì lo gì không giết được Song Tôn? Bằng không, với địa hình đầy hang động kia thì lo gì họ tìm ra đôi ta!
Dẫu đây không phải là thượng sách còn hơn đâm đầu vào chỗ chết, Tử Khuê cao hứng khen ngợi và vui vẻ sửa sai:
- Chân muội giỏi lắm! Nhưng muội quên một điều là chúng ta không hề biết câu thần chú điều khiển linh kỳ. Nếu tìm được cờ thì cũng chẳng làm gì nổi đối phương.
Ánh mắt Thanh Chân rực sáng, mặt rạng rỡ vẻ hí hửng trẻ thơ. Nàng đắc ý đáp:
- Sao đại cao lại nghĩ rằng tiểu muội không biết câu thần chú ấy?
Cùng lúc, tiếng Nam Thiên Tôn vọng đến:
- Lão phu đồng ý thưởng cho ngươi hai chục lượng vàng. Xem ra số ngươi cũng may mắn lắm đấy!
Tử Khuê nhếch mép cười đau khổ khi có kẻ khen mình số đỏ. Chàng cao giọng phúc đáp:
- Cảm tạ Từ tiền bối! Tại hạ sẽ tận tay dâng nạp Thánh chỉ để nhận phần thưởng.
Nói xong, chàng cùng Trác Thanh Chân chậm rãi chuyền xuống gốc cây, cố tỏ ra rằng võ công mình thấp kém.
Trịnh Bá Nghiêm, Dương Tố Vy cùng bọn bang chúng trố mắt nhìn gương mặt kiều diễm và thánh thiện của Trác Thanh Chân. Nàng ta không rực rỡ như Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Thái Vân, không quyến rũ một cách kính đáo như Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy, mà mang vẻ đẹp ngây thơ, trong trắng của một cô bé mười bốn, mười lăm tuổi.
Tử Khuê và Thanh Chân đủng đỉnh đi xuyên qua vòng vây, tiến về hướng bờ vực. Lúc này các lực lượng Hắc – Bạch đang đứng thành hình cánh cung trước đầu con đường hiểm đạo dẫn vào Độc Nha sơn.
Khi lọt đến khoảng đất trống trước mặt họ, thay vì rẽ phải vài trượng để gặp Song Tôn, hai người bất ngờ lướt nhanh như gió thoảng.
Khoảng cách bảy tám trượng chẳng là gì đối với kẻ có tài nghệ khing công cao cường như Tử Khuê. Thi triển “Thao Quang thân pháp”, chàng hóa thành chiếc bóng mờ lao vút đi, đặt chân lên con đường rồi thì kẻ địch mới kịp có phản ứng. Thanh Chân bám sát chàng như bóng với hình, môi nở nụ cười tươi chẳng chút sợ hãi. Tử Khuê không hề lo lắng cho ả vợ hờ vì biết khinh công của Thanh Chân còn cao hơn mình.
Nam – Bắc Thiên Tôn cùng những người chứng kiến diễn biến này hốt hoảng ồ lên và nhất tề tung mình đuổi theo hai kẻ liều mạng kia.
Tùy theo bản lĩnh và khoảng cách xa gần mà thứ tự những người truy đuổi được phân biệt. Đi đầu là Bắc Thiên Tôn, kế đến là Nam Thiên Tôn, rồi Quân Sơn Chân Nhân, Thiếu chủ Cáp Lộc Xoa Nhạc Cuồng Loạn, Minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn…
Như đã nói ở trên, con đường xuyên vực này cực kỳ hiểm trở, nhỏ hẹp và không vững chắc. Đất đá trên mặt đường có thể vỡ ra bất cứ lúc nào. Do vậy, Tử Khuê phải sử dụng đến phép “Đăng bình độ thủy” (Đạp bèo qua sông). Yếu quyết của phép khinh công này chính là sức phóng đi cực mạnh lúc ban đầu. Lực quán tính sẽ được bổ sung bằng hàng ngàn phản lực nhỏ bé do mũi giày của Tử Khuê chạm vào mặt đất. Nghĩa là, bước chân của chàng rất ngắn, chỉ độ hai gang và liên tục điểm trên đất đá. Dẫu chúng có sập lỡ thì thân hình chàng cũng lướt qua rồi.
Bèo thì quá nhẹ nhưng với công phu này người ta có thể hoàn toàn chạy một đoạn trên mặt nước, khi dưới chân có những khúc gỗ hoặc phên tre nổi lềnh bềnh.
Giờ đây theo từng bước chân của Tử Khuê, những viên đá, những mảnh đất lỏng chỏng, hờ hững bám trên mặt đường bị long lỡ, rơi xuống vực thẳm như mưa rào. Điều này sẽ gây khó khăn cho người đuổi theo chàng, nhất là Trác Thanh Chân. Nhưng Tử Khuê và nàng đã liên kết thành một khối. Thanh Chân nắm chặt lấy chốt bao của thanh kiếm mà tay phải Tử Khuê đưa về sau, thản nhiên tiếp bước. Thân hình nàng nhẹ nhàng như đám mây không trọng lượng bồng bềnh bám lấy Tử Khuê. Dù đôi lúc chân nàng chẳng chạm vào điểm tựa nào, vì chúng đã bị Tử Khuê đạp rơi mất, thì sức nâng của trường kiếm cũng giúp nàng không lỡ bộ.
Nhưng ngược lại, Bắc Thiên Tôn và những người đang ở phái sau lão phải luôn giữ một khoảng cách an toàn để tránh cảnh tan xương nát thị dưới vực sâu. Do vậy mà họ đã chậm chân, để đôi trai gái cổ quái nọ thoát được sang bờ bên kia.
Khi vừa đặt chân lên mặt đất vững chắc, hai người thở mạnh đổi hơi rồi dùng toàn lực vào song cước lao đi. Họ không nhắm đến động khẩu gần nhất ở trước mặt cách gần chục trượng, mà lướt về hướng trái, chạy vòng ra sau núi, nơi con đại ưng của Phi Điểu Thần Ma đã đáp xuống. Vả lại, họ muốn đối phương bị khuất tầm mắt, không nhân ra họ đã chui vào cửa nào trong gần trăm cái hang quanh sườn núi.
Thực ra, Tử Khuê cũng chẳng thể biết Thần Ưng và Thần Ma đang ở chỗ nào. May thay, khi đến gần mạn sau của Độc Nha sơn, chàng tình cờ thấy vài cọng lông chim rơi trên mặt cỏ vàng úa. Tử Khuê mừng rỡ kéo Thanh Chân đình bộ. Hai người cúi xuống nhặt nhanh mấy cọng lông ấy rồi đề khí tung mình lên cao hai trượng, chui vào một động khẩu nhỏ hẹp trên vách đá.
Có thể đây chưa chắc là nơi Phi Điểu Thần Ma ẩn mình song ít nhất cũng đánh lạc hướng được bọn cường địch. Quả thế, chỉ lát sau truy binh đã lướt qua bên dưới, không biết con mồi đã trụ lại.
Trong lúc Tử Khuê và Thanh Chân ngồi thở dốc, nhìn nhau cười cợt, thì số người tiến vào Độc Nha sơn mỗi lúc một đông. Tất nhiên, họ là những cao thủ thượng thừa, đủ dũng khí và tài khinh công để vượt qua độc đạo ghê hồn kia. Nhưng rồi những kẻ kém cũng sẽ qua được bằng cách căng dây sang bên tìm chỗ mà bám víu.
Họ không muốn đứng nhìn nữa bởi vì Minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn đã vận công tuyên bố vang rền khắp Độc Nha:
- Minh chủ võ lâm sẽ tặng năm ngàn lượng vàng cho bất kỳ ai may mắn tìm được “Diêm vương Quỷ kỳ” và mang đến đây nạp!
Bắc Thiên Tôn giận dữ ứng tiếng:
- Âu Dương Mẫn chớ loạn ngôn! Lão phu đã được Thánh Thượng ban cho cờ báu, sao ngươi lại dám tranh giành?
Âu Dương Mẫn cười khanh khách:
- Thánh chỉ chưa được tuyên đọc thì sao ta biết Thánh ý thế nào?
Dẫu tức đến thở ra khói mà Phùng Thịnh Đoan vẫn phải cố nén giận vì lực lượng đối phương rất hùng hậu. Hơn nữa, đánh nhau trong lúc chưa tìm thấy linh kỳ thì quả là bất trí. Bắc Thiên Tôn hờ hững bảo:
- Dẫu ngươi có mang được Quỷ kỳ về tổng đàn võ lâm thì sau này cũng phải ngoan ngoãn dâng nạp khi lão phu có đạo Thánh chỉ trong tay. Chỉ sợ lúc ấy ngươi lại tiếc rẻ năm ngàn lượng vàng đấy thôi.
Câu hăm dọa rất có uy lực vì Bắc Thiên Tôn hoàn toàn có thể tìm thấy cái gã đã đoạt Thánh chỉ trong tuyệt địa này. Nhược bằng thất bại, lão vẫn có khả năng xin một đạo Thánh chỉ khác. Khi đó, Âu Dương Mẫn mà cố giữ bảo vật thì sẽ mang tội khi quân, chết ba họ chứ chẳn chơi.
Nhưng dường như Âu Dương Mẫn đã có chủ ý nên chẳng hề sợ hãi chỉ cười khẩy.
Hào kiệt tứ hải cùng bang chúng các tà bang đã vào đầy những hang động ở mạn sườn núi phía Bắc Độc Nha sơn. Nhưng bọn thủ lĩnh, long đầu thì cứ đứng cả ở bên ngoài chờ đợi tin tức chứ không dại gì “Mò kim đáy biển”. Từng phe bàn bạc kế sách hành động khi có người tìm ra cờ báu. Sắc diện ai nấy đều trầm trọng nghiêm trang vì cuộc chiến trước mắt sẽ cực kỳ tàn khốc.
Khổ tâm nhất chính là hội đồng võ lâm, đại diện cho chính khí giang hồ. Là những kẻ tu hành, trừ Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường, các chưởng môn nhân đều không hề muốn đưa đệ tử vào cảnh máu chảy đầu rơi. Nhưng họ lại không thể đứng nhìn bảo vật rơi vào tay kẻ dữ, di hại đến võ lâm và xã tắc. Trong lúc do dự bất quyết này, họ tiếc nuối biếc bao bậc tài trí là Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sỹ Hoành.
Giờ đây, sáu phái chỉ còn cách dùng kế “Án binh bất động”, chờ xem sự thể diễn biến thế nào. Đệ tử của họ đều ở cả bên ngoài chân núi, không vào hang tìm linh kỳ.
Thiết Đảm Hồng Nhan chẳng tìm Thiếu Lâm Thần Côn trò chuyện. Nàng thơ thẩn dạo quanh, lơ đãng quang sát những người tìm cách vượt sườn núi, trèo lên những hang động trên cao. Ánh mắt nàng tràn ngập lo âu và pha chút đắng cay, hờn giận. Tống Thụy cho rằng đối phương sẽ tìm thấy hán tử đoạt thánh chỉ, vì đã nhận ra đấy chính là Tử Khuê, người mà nàng thương nhớ bấy lâu nay, cũng buồn phiền vì mỗi lần gặp nhau là bên cạnh Tử Khuê lại có thêm một nữ nhân khác.
Trong đám người của Kỹ Lưu Tiên, Thiết Đảm Hồng Nhan cũng đã phát hiện Trình Thiên Kim, Dịch Tái Vân đồng bàn cùng với Tử Khuê. Với linh cảm của nữ nhân, nàng hiểu rằng hai ả nọ chẳng phải chỉ là khách của nhà họ Kỹ.
Tống Thụy vô cùng ân hận khi đã đồng hành cùng Lã Hoa Dương khiến Tử Khuê không dám đến hỏi han lúc gặp nhau trong tửu quán. Chàng vào quán ấy vì đã nhìn thấy nàng.
Đang miên man suy nghĩ, Thiết Đảm Hồng Nhan bỗng giật mình bởi phía sau có tiếng người gọi:
- Tống nữ thí chủ! Lục vị chưởng môn nhân mời thí chủ đến đàm đạo!
Tống Thụy quay lại bắt gặp nụ cười tinh quái và gương mặt dễ mến của Linh Tuệ, đệ tử Võ Đương. Nàng gật đầu, đi theo Linh Tuệ đến vị trí mà hội đồng võ lâm đang ngồi. Sáu tảng đá đã được sắp xếp dưới bóng một cây bách để các thủ lĩnh già nua đỡ mỏi chân.
Tiết trời mùa Đông lạnh giá, chẳng cần người quạt và trà cũng thiếu nên không ai khác lãng vãng gần nơi ấy. Quy củ của võ lâm là thế, bọn vãn bối không được phép ngồi nghe câu chuyện của các bậc trưởng thượng!
Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương đả mau mắn vác đến cho Tống Thụy một tảng đá để ngồi rồi rút lui.
Thiết Đảm Hồng Nhan ôm quyền thi lễ với hội đồng võ lâm:
- Chẳng hay lục vị có điều chi dạy bảo?
Thất Bổng Cái nóng nảy xua tay:
- Dạy bảo cái cốc khô gì! Ngươi cứ ngồi xuống cho bọn lão phu hỏi vài câu!
Đại Giác Thiền Sư, phương trượng của chùa Thiếu Lâm cũng hiền hòa bảo:
- Nữ thí chủ cứ việc an tọa! Đây không phải là chốn để thủ lễ!
Tống Thụy vái tạ rồi khép nép ngồi xuống. Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường nhăn mặt hỏi ngay:
- Này Tống Thụy nha đầu! Phải chăng cái gã áo xanh đã đoạt Thánh chỉ là sư huynh của ngươi?
Tống Thụy ngượng ngùng gật đầu:
- Bẩm phải! Nhưng tiểu nữ chỉ nhận ra khi Hàn sư huynh thi triển khinh công.
Thất Bổng Cái đắc ý vỗ đùi bảo năm người kia:
- Ngũ vị thấy chưa, lão phu đoán việc nào có sai! Chỉ mình y mới dám vì võ lâm mà chuyện động trời như thế.
Các chưởng môn nhân gật gù khen ngợi, tán dương dũng khí và công lao của chàng trai trẻ. Nếu chàng không liều lĩnh cướp Thánh chỉ chẳng ai dám tiến vào Độc Nha sơn, để mặc cho Nam – Bắc Thiên Tôn thu nhặt linh kỳ.
Vân Thiên Tử luôn áy náy vì để mất “Diêm vương Quỷ kỳ” nên càng tri ân Tử Khuê. Ông nghiêm nghị nói:
- Không biết Vu Diệp hiền diệt con cái nhà ai mà hành vi lại chính nghĩa thế nhỉ? Sau này hội đồng võ lâm phải tuyên dương công trạng của y trước giang hồ để song thân của y được vui lòng.
Thiên Sư Giáo Chủ vừa mấp môi định khai ra thì bị Thất Bổng Cái cướp lời. Lão ăn mày già hỏi Tống Thụy:
- Tống diệt nữ! Con chim mạt cắt đã cướp Thánh chỉ lúc nãy có phải là của Trung Thiên Tôn hay không?
Suy đoán này của Thạch Kính Tường chẳng phải là vô căn cứ. Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh vốn có thói quen nuôi chim ưng.
Đã lâu không quay lại Tung Sơn nên Tống Thụy chẳng thể khẳng định được. Nàng bâng khuâng đáp:
- Bẩm Thạch bang chủ! Lúc tiểu nữ rời núi thì gia sư vẫn chưa tìm ra con chim ưng nào khác để thay cho con đã chết.
Thất Lâm Tử, chưởng môn phái Hoa Sơn, thất vọng thở dài:
- Phải chi Trần lão thí chủ di giá đến đây thì mới mong vãn hồi được cục diện này.
Thất Bổng Cái gật gù tán thành rồi hỏi tiếp Tống Thụy về việc Thiếu Cốc chủ Xa Lạp Cốc Nhạc Cuồng Loạn uy hiếp Tống gia ra sao. Câu chuyện của họ khá dài dòng nên chúng ta sẽ quay lại với Quách Tử Khuê xem thế nào.
Nhắc lại, Tử Khuê cùng Thanh Chân nhảy lên cửa động nhỏ ở mạn Tây Bắc Độc Nha sơn để tránh sự truy đuổi của Song Tôn.
Chẳng riêng Nam – Bắc Thiên Tôn mà tất cả mọi người đều không nghĩ đến việc do thám cái hang ấy. Lý do là vì nó quá nhỏ hẹp, bề ngang chưa đầy một sái tay, trong khi sải cánh của đại ưng rộng gần đến hai trượng. Hơn nữa, cửa hang lại có vài dây leo buông mành và một bụi cỏ rám héo úa nên trông càng nhỏ hẹp.
Sau nữa khắc nghỉ ngơi, Tử Khuê và Thanh Chân thận trọng tiến vào trong hang. Nhưng chỉ được bốn năm trượng thì trước mặt họ hiện ra một cái giếng sâu hun hút, đường kính độ gần trượng. Và đấy cũng là chỗ tận cùng của thạch động.
Tử Khuê mỉm cười ngao ngán vì cái vận mệnh đen đủi dai dẳng theo bám mình. Chàng nghĩ đến chuyện nào thì y như rằng nó sẽ xảy ra.
Tử Khuê quăng một cục đá to bằng nắm tay xuống giếng và lắng tai nghe ngóng. Thật lâu sau, những tiếng va chạm lọc cọc của viên đá mới im bặt. Điều ấy có nghĩa là cái lỗ đen ngòm này có độ dốc song lại sâu khủng khiếp.
Dưới ánh lửa chập chờn của hỏa tập, Thanh Chân nhận ra vẻ thất vọng của Tử Khuê liền vui vẻ bảo:
- Đây đâu phải lỗi của đại ca. Tại con chim mắc dịch làm rơi mấy sợi lông nên chúng ta mới bị mắc lừa.
Tử Khuê nghe lòng được an ủi, thôi không ngượng ngùng chua chát nữa. Sực nhớ đến đạo Thánh chỉ trong ngực áo, chàng liền lấy ra ném ngay xuống giếng sâu.
Hai người lần ra ngoài, ngồi cạnh xuống cửa hang mà ăn uống, thỉnh thoảng vạch bụi cỏ xác xơ, ngó xuống dưới đất. Họ chờ cơ hội vắng người là nhảy xuống đào tẩu ngay.
Khổ thay, quần hào cứ lần lượt kéo vào, nói cười vui vẻ như là đi xem hội vậy. Qua câu chuyện của họ, Tử Khuê biết rằng đường độc đạo đã được gia cố bằng cách cắm hàng loạt những cành cây theo dọc hai bên, đồng thời còn có một sợi dây chão lớn căng song song nữa. Do đó, ngay cả những kẻ kém khinh công nhất cũng có thể qua được.
Nhưng đầu đường bên trong đã bị hai bang Bích Huyết bang, Chiết Mai bang trấn giữ. Họ không cấm vào nhưng lại tra xét gắt gao những kẻ đi ra để tìm "Diêm vương Quỷ kỳ". Nhân số ở chốt ấy đông đến hàng trăm.
Nghe vậy, Tử Khuê biết rằng không thể nào đào tẩu ngay lúc này. Chàng suy nghĩ một hồi lâu rồi bảo Thanh Chân:
- Chắc Chân muội cũng đã hiểu được hoàn cảnh hiện nay của chúng ta! Mối thù với Quân Sơn Chân Nhân ta có thể tạm gác lại, chờ lúc lão ra khỏi Độc Nha sơn. Nhưng ta phải có trách nhiệm phải báo cho Đại Giác Thiền Sư biết dã tâm của gã phản đồ Lã Hoa Dương. Vì vậy, Chân muội cứ ngồi yên trên này, để một mình ta xuống dưới. Khi cục diện náo loạn, xảy ra hỗn chiến, ta sẽ quay lại rồi cùng nàng thoát đi.
Sắc diện của Trác Thanh Chân u ám hẳn đi. Nàng trầm ngâm đáp:
- Đại ca tính thế cũng phải, tiểu muội xin tuân mệnh. Tiểu muội cũng hiểu rằng chúng ta cùng đồng hành sẽ rất nguy hiểm, dễ bị phe đối phương nhận ra, ngay cả trong lúc hỗn loạn hoặc đã ra đến chân núi Ngũ Nhũ. Cho nên, nếu có biến cố gì thì tiểu muội sẽ về thẳng Quách gia trang ở Hứa Xương mà đợi chàng.
Tử Khuê ngạc nhiên hỏi:
- Sao nàng biết nhà ta ở Hứa Xương?
Thanh Chân mỉm cười tinh quái:
- Nguyệt lão đã chỉ giáo thiếp việc ấy. Con dâu lẽ nào lại không biết nhà mẹ chồng ở đâu.
Tử Khuê vô cùng hoang mang, bực bội. Chàng nghiêm nghị hỏi:
- Thanh Chân! Phải chăng nàng biết trước ta không phải là Bàng Nguyên Hối?
Thanh Chân đỏ mặt gật đầu khiến Tử Khuê càng thêm tức tối vì bị lừa dối. Chàng chua chát bảo:
- Nàng đã là tình nhân của Bàng Nguyên Hối thì đâu thể làm vợ ta được.
Thanh Chân lườm chàng và cười khúch khích đáp:
- Làm gì có việc ấy! Gã họ Bàng mò vào Lôi Đình Thần Cung để ăn cắp “Hắc Ngọc tiên đào”, kỳ trân của võ lâm, bị lạc vào “Mê Hồn Trận” nằm chờ chết. May mà thiếp tình cờ đến đấy, cứu y ra khỏi trận đồ. Sau này, Thần Cung phát hiện mất bảo vật, liền cho điều tra quanh vùng, biết được sự hiện diện của Thiết Thủ Thần Tiêu. Họ truy sát và đánh trọng thương Nguyên Hối nhưng không bắt được. Một năm sau, thiếp quay lại hái quả thứ hai thì bị lộ. Lúc ấy họ mới biết Bàng Nguyên Hối vô tội. Tóm lại, thiếp và gã ta chẳng có ân tình gì cả.
Tử Khuê tỉnh ngộ song vẫn còn thắc mắc, chàng cau mày hỏi:
- Vậy sao nàng lại đi tìm ta?
Thanh Chân thẹn thùng kể:
- Do tội ăn trộm tiên đào mà thiếp bị giam cầm trong thạch lao của Lôi Đình Thần Cung suốt hơn một năm. Đêm rằng tháng bảy vừa rồi, Nguyệt lão giáng mộng, bảo rằng thiếp có duyên tiền định với tướng công. Ông ta kể rõ lai lịch chàng, chỉ vẽ đường đi nước bước để tìm kiếm. Thiếp giật mình tỉnh dậy thì thấy cửa ngục đã mở toang nên tinh rằng thật và làm theo lời Nguyệt lão.
Đôi mắt huyền trong vắt của Thanh Chân không hề có chút gì giả dối khiến Tử Khuê phải nghi ngờ. Chàng rầu rĩ tự nhủ:
- Phải chăng do số ta xui xẻo tận mạng nên trong tình duyên cũng gặp cảnh éo le? Kẻ đa thê nào có sung sướng gì cho cam. Nhưng số phận đã thế thì ta còn phiền muộn làm chi nữa.
Tử Khuê ăn nốt cái bánh bao, uống ngụm nước rồi chia cho nàng một sấp ngân phiếu để phòng thân. Thanh Chân cầm lấy song ánh mắt lộ vẻ ngượng ngùng.
Hai người đều mang theo tay nải nên giờ đây Tử Khuê có thể thay một bộ võ phục khác. Chàng chọn màu đen để thân hình trông có vẻ gầy hơn cái gã đã đoạt Thánh chỉ. Chàng còn cẩn thận xoa ít bụi bẩn lên mặt, cố che bớt chân diện mục. Lộ mặt thật là điều rất nguy hiểm, song lúc này chàng chẳng còn cách nào khác. Cả hai chiếc mặt nạ đã được sử dụng, phải phá hủy để xóa mọi dấu vết liên quan đến việc cướp Thánh chỉ.
Chờ Tử Khuê thay y phục xong, Thanh Chân bùi ngùi nói:
- Tướng công! Thiếp về làm vợ chàng mà không có đến nữa phân bạc làm của hồi môn, lòng vô cùng hổ thẹn …
Tử Khuê nghe lòng bất nhẫn khi thấy gương mặt thiên thần kia u ám, héo úa tựa chiều Đông, liền đưa tay bịt miệng nàng rồi kéo vào lòng an ủi:
- Chân muội đừng nghĩ quẩn! Nhan sắc tiên nga và tấm lòng chân tình của nàng chính là của hồi môn quý nhất thế gian.
Thanh Chân sung sướng áp mặt vào lồng ngực rộng của chàng một lúc lâu. Sau đó, nàng lùi khỏi vòng tay chàng và vui vẻ bảo:
- Tuy lòng dạ tướng công rộng rãi khoáng đạt thế nhưng thiếp vẫn muốn tặng chàng một vật.
Thanh Chân mở túi hành lý nhỏ, lấy ra một quyển sách mỏng, bìa da dê đưa cho Tử Khuê. Bốn chữ “Lôi Đình Bí Lục” bên ngoài đã khiến Tử Khuê choáng váng, bồi hồi.
Từ ngày nhận lời khiêu chiến của Nhạc Cuồng Loạn, lòng Tử Khuê canh cánh không yên. Chàng đã khổ công rèn luyện kiếm pháp để dành phần thắng. Nhưng Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh nghe được tin ấy, đã gởi thư khuyên chàng không nên đi phó ước. Ông đã từng giao đấu với cung chủ Lôi Đình Thần Cung, biết rằng “Lôi Đình kiếm pháp” quỷ dị và oai mãnh tuyệt luân, đáng gọi là tuyệt học đứng đầu tà phái. Nay, Nhạc Cuồng Loạn lại sở hữu đến sáu mươi năm công lực, cao hơn cả Trác Ngạn Chi thưở trước, thì Tử Khuê sẽ khó mà địch lại. Dẫu chàng có muốn dùng “Tảo Thiên kiếm pháp” mà đổi mạng thì cũng thiệt thòi vì lớp cương khí hộ thân của đối phương rất dày.
Tử Khuê đã hứa với nghĩa phụ và những người thân rằng sẽ bội ước, khai tử Hàn Thiếu Lăng, nhưng trong thâm tâm, chàng vô cùng đau đớn, hổ thẹn. Hơn nữa, chắc gì gã họ Nhạc chịu để yên. Một là gã tưới máu giang hồ, buộc chàng phải xuất hiện. Hai là tìm đến La Sơn quấy nhiễu Trung Thiên Tôn.
Giờ đây, khi có quyển bí kíp này, hiểu được sở học của đối phương thì chàng chẳng còn phải sợ hãi nữa. Tử Khuê không háo danh song cũng không chịu được cảnh rùa rụt cổ, để mặc người khác vì mình mà mang họa.
Gánh nặng ngàn cân trong lòng được trút bỏ, Tử Khuê hoan hỉ phi thường, bất giác tri ân người vợ bất đắc dĩ kia. Chàng xúc động, ôm lấy Thanh Chân mà thủ thỉ:
- Cảm tạ Châm muội! Tặng vật này của nàng quý giá hơn tất cả châu báu trên thế gian.
Thanh Chân mỉm cười sung sướng, ánh mắt long lanh, dào dạt ân tình, trông cực kỳ đáng yêu và xinh đẹp. Tử Khuê bồi hồi cúi xuống hôn lên gò má mịn màng với cả tấm lòng thương mến.
Hai chữ ân tình thường đi đôi với nhau. Do bản năng mà con người luôn yêu mến người đã giúp đỡ mình. Nay, nhờ Thanh Chân nên Tử Khuê có thể ngẩng cao đầu sống trọn kiếp đại trượng phu thì bảo sao chàng không thương nàng cho được. Hơn nữa, nàng lại rất kiều diễm và chân thật.
Lát sau, chờ khi phía dưới không người, Tử Khuê nhanh nhẹn nhảy xuống đất, ung dung đi về hướng mạn Bắc Độc Nha sơn.
Chàng đã để mũ và áo lông cừu lại động khẩu nên chàng không giống cái gã đã đoạt Thánh chỉ. Thật ra, Tử Khuê đã gầy hơn trước vì mẫu thân chàng muốn thế. Sau khi nhận được thư của Trung Thiên Tôn, Kỹ nương vô cùng lo sợ, liền bắt con trai ăn uống kiêng khẹm, chẳng chút dầu mỡ, ngày ngày uống thuốc đắng nghét. Bà mong Tử Khuê gầy đi thật nhanh, để chẳng có gì giống gã Hàn Thiếu Lăng to béo kia nữa.
Sức mạnh của tình mẫu tử quả là mãnh liệt, rốt cuộc, chàng đã sụt đi hơn chục cân. Tất nhiên, phải kể đến công lao của Dịch Tái Vân, những đêm ái ân say đắm cuồng nhiệt đã khiến Tử Khuê chẳng thể nào không giảm trọng.
Đi được vài bước thì Tử Khuê chợt nhìn thấy chiếc nón rộng vành cũ kỹ nằm lây lất. Chàng mừng rỡ nhặt lên, đội lên đầu sau khi nối lại dây quai bĩ đứt. Có lẽ, trong lúc vội vã tiến vào hậu sơn, kẻ nào đó đã quẳng chiếc nón chết tiệt, đứt quai không đúng lúc.
Tuy bị bắt buộc phải lộ mặt thật, song Tử Khuê vẫn nom nớp lo sợ. Chiếc nón này sẽ giúp chàng che khuất nửa trên dung mạo. Bang chúng hai bang Chiết Mai và Bích Huyết vẫn ráo riết truy lùng hai kẻ cướp Thánh chỉ, song song vớii việc truy tìm linh kỳ.
Trên đường đi, Tử Khuê đã gặp vài tên đệ tử của phe đối phương. Nhưng chúng đã không hề nhận ra cái gã áo đen mép không râu kia là kẻ mình đang săn đuổi.
Tử Khuê vào đến nơi hội tụ của hai phe chính tà, chưa kịp gặp hồi đồng võ lâm thì xảy ra quái sự.
Phía Bắc Độc Nha sơn, bên kia bờ vực thẳm là ngọn núi Kính Sơn cao vút, đầy tùng bách rậm rạp. Nhưng lúc này, mọi người đều quay lưng về hướng ấy, chỉ chú ý đến những hang động trên núi Độc Nha sơn. Do đó chẳng ai phát hiện ra một cánh chim to lớn đang từ trên núi Kính Sơn lao thẳng xuống.
Người ta chỉ nhận ra khi Trung Nguyên Thần Tiễn Phan Nguyên Kết ré lên đau đớn vì phải cắm ngập mũi tiễn đao. Sau đó, con thần ưng bốc lên cao, lượn lờ trên đầu quần hùng. Toàn trường nhốn nháo, ngẩng cao đầu, cố nhìn cho rõ con người nhỏ bé đang chiễm chệ trên lưng chim ưng.
Té ra Phi Điểu Thần Ma Lục Doãn Ngôn chưa chết. Lão khỉ già ấy còn cười khanh khách, nói vọng xuống:
- Lão phu đã tận số đâu mà chư vị đồng đạo võ lâm đến điếu sớm thế?
Rồi lão đổi giọng, chửi rủa Trung Nguyên Thần Tiễn um sùm:
- Này lão họ Phan khốn khiếp kia. Lão phu nào phải kẻ thù cướp vợ, giết cha mà ngươi nỡ giương cung bắn ta suýt chết? Đã thế thì lão phu sẽ bay đến Hàm Dương bắt vợ con ngươi, lột quần áo mang ra giữa chợ mà phơi. Ai đến ngắm con gái ngươi thì lão phu thu hai lượng bạc, còn ai dám ngắm nhìn mụ vợ già của ngươi thì được thưởng một lượng. Vị chi lão phu cũng còn lời một nửa.
Cách báo thù ngộ nghĩnh của Phi Điểu Thần Ma đã khiến quần hùng phì cười. Nhất là khi Hồ Đồ Thần Thương hý hửng lên tiếng:
- Lão đại thúc sai rồi! Tiểu diệt sẵn sàng nhìn Phan phu nhân năm lần, sau đó ngắm tiểu thư hai lần, là vẫn còn dư một lượng để uống rượu.
Hàng ngàn gã ma men nghe nhắc đến uống rượu thì hai mắt sáng lên, ngoác miệng cười hô hố, khen ngợi tài làm toán của Khổng Đam.
Trung Nguyên Thần Tiễn vô cùng nhục nhã, quên cả nỗi đau đớn của vết thương, thét lên thóa mạ:
- Tổ cha lão họ Lục. Lão có giỏi thì xuống đây.
Lục Doãn Ngôn cười khanh khách:
- Cảm tạ lời mời mọc của ngươi. Tiếc rằng lão phu phải nhanh chân đến Hàm Dương kẻo trời tối mất.
Phan Nguyên Kết vừa lo vừa sợ, định nói gì đấy thì bị võ lâm Minh chủ Âu Dương Mẫn cướp lời:
- Lục lão huynh! Tiểu đệ xin mua "Diêm vương Quỷ kỳ" với giá ngàn lượng vàng.
Nam – Bắc Thiên Tôn không hề xem vào, định bụng sẽ cướp lấy linh kỳ từ tay Âu Dương Mẫn nếu Lục Doãn Ngôn chịu bán cho hắn ta.
Nào ngờ, Phi Điểu Thần Ma chẳng tham vàng bạc, cười đáp :
- Lão phu sắp xuống lỗ, cần quái gì nhiều vàng đến thế. Lão phu cướp linh kỳ vì muốn đùa giỡn với lão mũi trâu Vân Thiên Tử. Nay, cây cờ chết tiệc chỉ mang lại phiền phức, lão phu sẽ hoàn lại cho hội đồng võ lâm.
Dứt lời, Lục Doãn Ngôn phóng thẳng "Diêm vương Quỷ kỳ" vào vị trí của sáu vị chưởng môn phái Bạch Đạo. Vân Thiên Tử vui mừng khôn xiết, tung mình chụp lấy.
Phần Phi Điểu Thần Ma thì cười dài và thúc đại ưng bay đi mất dạng. Lão ta vừa khuất bóng sau ngọn Kính Sơn thì ở đây lục phái đã bị bọn tà ma vây chặt.
Quân số phe Bạch đạo hiện diện ở Độc Nha sơn chỉ độ hai trăm, chưa bằng một nửa đối phương. Tuy nhiên, Thiếu Lâm không xa chốn này và trong chốc lát Đại Giác Thiền Sư có thể gọi hàng trăm tăng lữ đến tiếp viện. Vấn đề ở chỗ ai là người đủ sức phá vây, vượt qua được lực lượng đang trấn giữ đầu trong đường độc đạo.
Nhưng hiện tại, sáu phái chưa cần đến viện binh vì đang có trong tay một vũ khí rất lợi hai là sự toàn vẹn của "Diêm vương Quỷ kỳ".
Chính vì thế mà Vân Thiên Tử khẳng khái nói với Bắc Thiên Tôn:
- Hội đồng võ lâm sẽ tạm thời bảo quản linh kỳ. Phùng tiền bối cứ việc thượng kinh xin một đạo Thánh chỉ khác. Lúc ấy, bần đạo sẽ cung kính dâng cờ.
Phùng Thịnh Đoan cười nhạt gằn giọng:
- Vân Thiên Tử! Năm xưa ngươi vẫn thường gọi bần đạo là sư thúc, sao giờ lại làm khó nhau như vậy? Ngươi cũng biết rõ bần đạo đã được ban Thánh chỉ rồi cơ mà? Chẳng qua tại con chim cắt và cái gã điên chết toi kia mà thôi.
Bang chủ Cái bang Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường cười khanh khách đỡ lời Vân Thiên Tử:
- Nếu Phùng tiên trưởng ngại đường xa mỏi gối thì cứ tập trung bắt cho được cái gã điên ấy mà thu hồi Thánh chỉ. Gã ta đâu có cánh để bay khỏi chốn này.
Nào phải Bắc Thiên Tôn không muốn thế, nãy giờ lão đã lệnh cho mấy trăm đệ tử ráo riết truy lùng mà chẳng thấy đôi trai gái quái dị ấy ở đâu cả. Họ Phùng bực bội nói:
- Bần đạo chẳng hiểu vì sao bọn tiểu bối các người chẳng nể mặt tiền nhân, một mực cản đường bần đạo. Đã thế thì bần đạo cũng chẳng nể nang gì nữa, quyết dùng võ lực để đoạt linh kỳ. Nếu ngươi hủy cờ, bần đạo sẽ thượng kinh tâu với thiên tử rằng sáu phái khi quân kháng chỉ. Lúc ấy thì hậu quả thế nào chắc các ngươi đã rõ.
Lời hăm dọa kia rất có uy lực vì đương kim thánh thượng là người nhu nhược, u mê, dễ dàng bị tác động bởi những lời xàm tấu. Đấy là chưa kể đến việc sáu phái sẽ chết như rạ trong cuộc chiến này. Chẳng lẽ họ phải hy sinh quá sớm bởi một chút nghi vấn của Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh?
Vân Thiên Tử do dự bất quyết, quay sang bàn bạc với năm vị chưởng môn nhân kia. Những người ấy cũng cùng tâm trạng như Vân Thiên Tử nên hội đồng võ lâm sắp sửa đi đến quyết định nhượng bộ. Bất ngờ Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy bước đến nghiêm trang bảo:
- Nay hội đồng võ lâm đã không có ý bảo vệ "Diêm vương Quỷ kỳ" thì xin hãy trả lại cho tiểu nữ.
Nàng có quyền nói như thế vì là người đã trao cờ báu lại cho họ.
Lục vị chưởng môn nhân hổ thẹn đến mức chẳng nói nên lời. Vân Thiên Tử thở dài nhẫn nhục, run rẫy trả linh kỳ lại cho Tống Thụy. Ông chưa kịp nói vài câu tạ lỗi thì Thiết Đảm Hồng Nhan đã rút gươm chém rách bươm lá cờ lụa.
Toàn trường kinh hãi ồ lên tiếc rẻ. Nhưng Nam Thiên Tôn lại ngửa cổ cười dài:
- Tống nha đầu quả chẳng hổ danh Thiết Đảm. Song ngươi hành động vô ích khi phá hủy Quỷ kỳ. Uy lực của cờ báu nằm trong cán cờ chứ không phải là vuông lụa kia. Và cán cờ lại được làm huyền thiết pha đồng không có vũ khí nào chém gãy nổi.
Tống Thụy không tin vung kiếm chặt thử cái khúc ống thép đen trùi trũi. Quả nhiên, lưỡi kiếm của nàng dội ra và cán cờ chẳng hề suy xuyển.
Nàng chột dạ nhủ thầm:
- Vực thẩm quá xa và dẫu ta có ném cán cờ xuống đấy thì trước sau Song Tôn cũng lấy được. Ta phải tìm cách khác mới xong.
Tống Thụy cười khẩy, cao giọng:
- Ít nhất thì ta cũng tạm thời ngăn cản được việc ai đó sẽ dùng linh kỳ khống chế những người đang hiện diện chốn này.
Quả đúng là Song Tôn và Âu Dương Mẫn cùng có âm mưu ấy. Cả hai đều biết câu thần chú điều khiển "Diêm vương Quỷ kỳ" và sẽ không bỏ qua cơ hội sử dụng ngay, để toàn thành bá nghiệp trong phút chốc.
Nay lá cờ lụa tan nát, chưa thay lá mới thì Quỷ kỳ bị vô hiệu hóa, không đem lại ưu thế tất thời cho người đoạt được. Tống Thụy có thể an ủi rằng mình đã làm hết sức, vì dẫu cho cờ báu có lọt vào tay tà ma thì đó cũng là kiếp vận của võ lâm. Nàng là Thiết Đảm Hồng Nhan chứ không phải “Thiết Đảm Hoàng Ngưu”, nên hiểu rằng không đủ sức mang Quỷ kỳ đào thoát khỏi nơi “thiên la địa võng” này.
Tống Thụy quyết dùng bảo vật để gầy cuộc tương sát giữa hai phe địch. Song nàng còn phân vân, không hiểu nên trao Quỷ kỳ cho phe nào để có hậu hỏa nhỏ nhất? Cuối cùng, Thiết Đảm Hồng Nhan nghiên về phía Nam – Bắc Thiên Tôn. Nguyên nhân vì họ đã quá già, có tác quai tác quái cũng chẳng được bao năm. Hơn nữa, Âu Dương Mẫn là hóa thân của tên ác ma Huyết Ma hội chủ, nàng khó mà lường hết hậu quả.
Trong lúc nàng suy nghĩ, Song Tôn và Âu Dương Mẫn đều lên tiếng phủ dụ, mong nàng trao cán cờ Quỷ kỳ cho mình. Kẻ thì nhắc đến mối quan hệ giữa võ lâm Tam Tôn, kẻ dùng vàng bạc. Tống Thụy đang đứng gần sáu vị chưởng môn nhân Bạch đạo nên chẳng ai dám đường đột tấn công nàng mà cướp báu vật.
Không người nào để ý đến việc Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương đang chậm rãi tiến đến gần Thiết Đảm Hồng Nhan. Gã là bạn đồng hành với nàng mấy hôm nay nên đến để tương trợ, cố vấn là phải đạo.
Nhưng khi họ Lã sắp tiếp cận Tống Thụy thì từ trên ngọn cây du núi cổ thụ cách hiện trường mười trượng, phía sau lực lượng Bạch đạo, có tiếng người cấp bách vọng xuống:
- Tống sư muội hãy tĩnh tâm, gã Lã Hoa Dương là nội gián của phe địch. Gã đã vì nữ sắc mà nhận lời trộm Dịch Cân Kinh.
Toàn trường chấn động trước lời tố cáo ấy, nhất là Lã Hoa Dương, và các tăng lữ Thiếu Lâm Tự. Họ Lã chết điếng người, chưa kịp chửi rủa hay biện bạch kẻ đã lật tẩy mình thì Đại Giác Thiền Sư đã nghiêm trang ra lệnh:
- Thập Bát La Hán! Mau bắt gã phản đồ!
Ông đã nhận ra giọng nói của Vu Diệp Chân Nhân, hay Hằng Thiếu Lăng, kẻ vừa là sư diệt của Cửu Hoa Thánh Y, vừa là nghĩa tử của Trung Thiên Tôn. Hơn nữa, chàng trai ấy đã từng liều mình vì chính nghĩa thì không có lý do gì để vu khống Lã Hoa Dương.
Việc Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ bị Âu Dương Mẫn dùng nữ sắc mê hoặc đã là cái gương trước mắt. Mua chuộc đám nhân tài Bạch đạo trẻ tuổi là thủ đoạn mà phe Hắc đạo vẫn thường sử dụng trong suốt ngàn năm của võ lâm Trung Nguyên.
Lã Hoa Dương không ngờ sư bá mình lại tin vào lời tố cáo của kẻ lạ mặt và có thái độ rất quyết liệt. Muốn chạy cũng không được, gã liền quỳ xuống khóc lóc kêu oan.
Đại Nghiêm Thiền Sư, thủ tọa của La Hán Đường chính là sư phụ của Lã Hoa Dương. Ông đau lòng và tủi nhục khôn xiết, lạnh lùng điểm huyệt đồ đệ, phong tỏa chân khí rồi cho trói lại. Trong hai mươi năm dạy dỗ Lã Hoa Dương, thiền sư phát hiện rằng gã là kẻ rất háo sắc nên đã nhiều lần nhắc nhở, giáo huấn. Ông không cấm gã vào kỹ viện và chỉ yêu cầu gã đừng đụng đến bọn con gái nhà lành, gây tai tiếng cho chùa Thiếu Lâm. Nào ngờ, giờ đây gã lại vì nữ sắc mà cam tâm phản lại sư môn, làm ô nhục tông môn.
Kể lể thỉ lâu nhưng thật ra việc bắt trói tên phản đồ xảy ra rất chóng vánh. Và ngay sau đó, sự cố ấy bị lãng quên vì câu nói thứ hai của gã hắc y bịt mặt trên ngọn cây. Người ta đã đoán ra gã là Cầu Nhiêm Đại Hiệp Hàn Thiếu Lăng, kẻ duy nhất gọi Thiết Đảm Hồng Nhan là sư muội.
- Tống sư muội hãy bán "Diêm vương Quỷ kỳ" cho Âu Dương minh chủ lấy vạn lượng vàng. Bắc Thiên Tôn đã gả con gái cho một vương tử Mông Cổ nên không thể để báu vật lọt vào tay lão ta được.
Phùng Thịnh Đoan tái xanh mặt mũi khi bí mật chết người của lão bị vạch trần trước mặt thiên hạ. Bắc Thiên Tôn cố định thần quát mắng:
- Phế ngôn! Bần đạo quyết không tha cho kẻ ngậm máu phun người!
Nhưng lão ta chẳng có thời gian làm việc ấy vì Tống Thụy đã bất ngờ phóng mạnh đoạn cán cờ về phía Âu Dương Mẫn ở hướng Tây và miệng nói lớn:
- Giao hàng trước, lấy tiền sau!
Âu Dương Mẫn vui mừng khôn xiết, thò tay chụp lấy bảo vật. Sắc diện lão cực kỳ nghiêm trọng vì lão hiểu rằng Nam – Bắc Thiên Tôn sẽ không để yên.
Quả nhiên, Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến ngửa cổ hú vang, báo hiệu cho Trịnh Bá Nghiêm và Dương Tố Vy chặn đường rút lui của Âu Dương Mẫn. Sau đó, Song Tôn cùng Quân Sơn Chân Nhân lao đến tấn công.
Ở sa trường thì quân đi trước, tướng theo sau, nhưng chốn giang hồ thì ngược lại, Bắc Thiên Tôn Phùng Thịnh Đoan chọn Âu Dương Mẫn, Nam Thiên Tôn đối đầu với Thiếu chủ Xoa Lạp Cốc Nhạc Cuồng Loạn, còn Quân Sơn Chân Nhân so tài với một lão nhân tóc bạc, mặt vàng, có lẽ là hộ pháp của Xoa Lạp Cốc.
Phần Thần Đao Bảo chủ Tần Minh Viên lãnh nhiệm vụ phá vây, mở đường cho toàn quân thoát ra. Lão và đám đệ tử tinh nhuệ dưới trướng phóng tay chém giết, nhanh chóng đẩy lùi phe đối phương. Những thanh đao Nhật Bản dài nặng và sắc bén đã chiếm ưu thế hoàn toàn trước đám đao kiếm tầm thường. Hơn nữa, để tử hai bang Chiết Mai, Bích Huyết rất ô hợp, được tuyển mộ vội vả nên không thể sánh với những gia đinh Thần Đao Bảo, kẻ đã nhiều năm khổ luyện đao pháp thượng thừa.
Thực ra, Bích Huyết bang cũng có một số nhân thủ xuất xứ từ Thần Đao đường, tất bọn đệ tử của Thất Hoàn Đao Hướng Vụ Quan. Tuy nhiên, đám ấy đang cùng Hướng lão trấn giữ đầu đường độc đạo, tạm thời không tham chiến.
Tần Minh Viên lại thần dũng tuyệt luân, một mình đương cự với hai bang chủ Chiết Mai, Bích Huyết mà vẫn chiếm thượng phong. Cây kim thương của Trịnh Bá Nghiêm thì còn kha khá chứ trường kiếm của Dương Tố Vy thì không chịu nổi đường đao vũ bão của họ Tần. Hộ khẩu tay hữu của nàng đã rướm máu sau những lần vũ khí chạm nhau.
Tiếng thép rền rĩ, tiếng kêu rên đau đớn vang vọng khắp nơi khiến lòng kẻ tu hành phải xót xa. Nhưng cũng như lần trước ở Kỹ gia trang, sáu phái Bạch đạo lại khoanh tay đứng nhìn cảnh máu chảy đầu rơi. Người tự xưng là chính phái thường thụ động trước việc tiêu diệt cái ác. Đấy là nguyên nhân sâu sa khiến giang hồ luôn nổi sóng, thanh bình chẳng được mấy năm.
Thấy phe địch tiến nhanh như sóng dữ, Lã Bất Thành và Hồ Đồ Thần Thương vội đi vòng ra hướng tây, hỗ trợ phe nhà. Kích pháp và thương pháp của hai gã này đều rất lợi hại nên đã cầm chân được Thần Đao Bảo chủ.
Tần Minh Viên giận dữ múa tít bảo đao, tả xung hữu đột giữa vòng vây của bốn kẻ hậu sinh, song không sao tiến thêm được bước nào nữa.
Tiền phương là vậy, giờ chúng ta quay lại hậu phương để xem cục diện ra sao. Tất nhiên tình thế ở đây gây cấn và khốc liệt hơn tiền trận bội phần vì tập trung toàn cao thủ lẫy lừng.
Bắc Thiên Tôn Phùng Thịnh Đoan căm hận Âu Dương Mẫn phỗng tay trên bảo vật, nên quyết giết chết cho được đối phương mà đoạt lại Quỷ kỳ. Lão tự tin có thể đắc thủ trong vòng trăm chiêu bằng lối đánh vũ bảo, cả vú lấp miệng em. Sau hơn chục chiêu thăm dò, Phùng lão đã dồn tám phần công lực vào cây “Bạch Vân ngân kích” xuất chiêu “Vân vụ cuồng phi”. Lão khổ luyện kích pháp hơn bảy mươi năm, đạt mức đại thành, nên cây sắt mạ bạc năng ba mươi cân trở thành nhẹ như làm bằng gỗ tùng vậy. Đường kích vun vút xé gió, kích ảnh mịt mờ tựa mây mù, ào ạt thổi về phía kẻ địch.
Nhưng Âu Dương Mẫn là truyền nhân tình cờ của Tam Tuyệt Thần Quân Đồng Nhật Tú, kiếm pháp và công phu “Thiết Sa chưởng” đều lão luyện, nên chẳng thể dễ bị khuất phục. Lão vung gương đánh chiêu “Vạn Hại Vô Xâm”, kiếm ảnh loang loang dưới ánh dương quang mùa Đông nhàn nhạt.
Đường kiếm của Âu Dương Mẫn vẫn nhanh hơn đường kích của Bắc Thiên Tôn một chút. Lý do là kiếm vốn nhẹ hơn, ngắn hơn kích, và Âu Dương Mẫn lại có đến gần hoa giáp chân khí, nhờ thụ dụng kỳ trân dưới vực sâu. Những nhát gươm của lão nhanh lẹ phi thường, đón đỡ được hầu hết đòn thế của Bắc Thiên Tôn. Đồng thời, bàn tay tả rắn như thép cũng góp phần không nhỏ trong việc phòng thủ. Nó ung dung đánh bạt mũi kích sắc bén mà chẳng hề hấn gì. Hai mươi năm rèn luyện “Thiết Sa chưởng” đã tạo nên kỳ tích ấy. Đương nhiên là Âu Dương Mẫn phải thoái lùi vài bước trước đòn tấn công mãnh liệt của kẻ có công lực thâm hậu hơn. Nhưng lão đang muốn rút ra ngoài nên việc này hoàn toàn có lợi.
Bắc Thiên Tôn hậm hực dồn thêm chân khí xuất chiêu “Thiên Xà Khát Huyết”, ngân kích hóa thành ngàn bóng ảnh độc xà lay động mềm dịu khác thường của nửa trên ngân kích. Nếu cán kích bằng gỗ như của đám Sơn Đông mãi võ thì chẳng có gì đáng nói. Song ngân kích của Bắc Thiên Tôn bằng thép ròng mà mềm mại đến mức ấy thì mới đáng gọi là chuyện kinh hãi thế tục.
Âu Dương Mẫn thầm chột dạ trước chiêu kích kỳ tuyệt của đối phương, hiểu rằng nếu trực diện đối phó sẽ thiệt thân. Lão nghiến răng đề khí bốc lên cao hai trượng để tránh né rồi gian xảo sa xuống để tấn công.
Kết quả của đòn thế ấy thế nào chúng ta cứ tạm gác lại và quay sang trận đấu giữa Nam Thiên Tôn với Nhạc Cuồng Loạn.
Từ Tôn Chiến cũng là tổ sư trong nghề đánh thương, một loại trường binh. Võ lâm thường dùng câu “Nam thương Bắc kích” để xưng tụng Song Tôn. Do đó dù Nhạc Cuồng Loạn có tròn hoa giáp công lực cũng chưa phải là đối thủ của lão bất tử họ Từ tu vi thâm hậu hơn một bậc.
Tuy nhiên, vị Thiếu chủ của Xoa Lạp Cốc hơn Âu Dương Mẫn ở công phu “Lôi Đình chưởng pháp”, tuyệt kỹ khắc tinh của mọi loại vũ khí dài. Tầm đả thương của “Phách Không chưởng” là trên dưới một trượng, xa hơn chiều dài của trường thương cộng với cánh tay. Cho nên, Nhạc Cuồng Loạn không bị hạ phong như Âu Dương Mẫn và có thể ngang nhiên cầm cự với Nam Thiên Tôn.
Riêng bản thân pho “Lôi Đình kiếm pháp” cũng là một tuyệt học hãn thế, hùng mạnh tuyệt luân, song không kém phần hiểm ác. Kiếm kình vù vù như sấm vọng, kiếm ảnh mịt mờ, trùng điệp, thấp thoáng những sợi tơ ngoằn ngoèo, mảnh mai nhưng bội phần đáng sợ. Trong thiên hạ, chỉ mình Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh là phá giải được loại kiếm pháp kỳ lạ ấy.
Tuy nhiên, khi so tài với bậc cao thủ lão thành như Nam Thiên Tôn thì “Lôi Đình kiếm pháp” chưa đủ để hóa thành con rồng vàng nhe nanh múa vuốt, chực chờ vồ lấy chú dê non.
Nhạc Cuồng Loạn cắn răng đối phó, đường gươm nhanh tự sao sa, thép chạm thép vang rền chát chúa. Nghe hộ khẩu đau rát, Nhạc Cuồng Loạn tự hiểu sức mình còn kém kẻ địch, và nếu cứ ở ngoài thì sẽ bị thiệt thòi.
Gã mím môi, vỗ liền ba chưởng “Lôi Đình”, đồng thời múa kiếm che thân, xông vào nhập nội. Đánh xa là sở trường của vũ khì dài nên Nam Thiên Tôn chẳng dại gì để đối thủ tiếp cận mình. Lão giảo hoạt đảo bộ lùi chếch sang mé tả để tránh chưởng và giữ khoảng cách cần thiết. Sau đó, Nam Thiên Tôn tràn đến như thác lũ, thương ảnh cuồn cuộn, thương kình xé gió, khí thế cực kỳ hung hãn.
Nhạc Cuồng Loạn chưa giác ngộ kiếm đạo nên khó có thể đối phó với những đòn ngàn cân của cây kim thương nặng trịch. Yếu quyết “tứ lượng bát thiên côn” chẳng phải ai cũng nắm được. Vả lại, yếu quyết ấy sử dụng trong quyền thuật thì dễ nhưng khó khăn trong khi sử dụng vũ khí.
Dù là kẻ kiêu ngạo song Nhạc Cuồng Loạn chẳng dám liều mạng đương đầu với con bão khủng khiếp ấy. Gã lập tức thi triển một loại bộ pháp ảo diệu, trong chớp mắt đã hoán vị sang tả, thoát khỏi hiểm nguy. Và từ vị trí mới, Nhạc Cuồng Loạn ập vào phản kích, kiếm kình chấn động không gian, sát khí lạnh hơn gió bấc. Gã tinh thông tuyệt học hai nhà Lôi Đình, Xoa Lạp nên chiêu thức bác tạp, biến hóa vô song, khiến Nam Thiên Tôn phải chột dạ, không dám hấp tấp nữa.
Trận chiến giữa Quân Sơn Chân Nhân và lão mặt vàng của Xoa Lạp Cốc cũng ở thế quân bình. Có thể võ công Đường Mai Giản hơn đối phương một bậc, song phép đánh kiếm thuẫn của vị đại hộ pháp Xoa Lạp Cốc rất điêu luyện, công thủ vẹn toàn nên họ Đường khó mà thủ thắng ngay được.
Tuy nhiên, số thương vong của đám đệ tử Song Tôn ngày một tăng, chúng chết như rạ trước hai lực lượng kiêu dũng của Thần Đao Bảo và Xoa Lạp Cốc.
Trận địa đã chuyển dần ra ngoài, vì nhờ sự hỗ trợ của Thập Đại Hộ Vệ tổng đàn võ lâm mà Thần Đao Bảo chủ đã đẩy lùi được Trịnh Bá Nghiêm.
Mười gã hộ vệ thân tính của Âu Dương Mẫn được đào tạo chu đáo, bản lĩnh rất cao cường. Chúng lại có được sự phối hợp nhịp nhàng, ăn ý nên càng bội phần lợi hại. Do đó, chỉ bốn tên cũng đủ để vây khốn Lã Bất Thành hoặc Hồ Đồ Thần Thương. Hai gã còn lại liên thủ với Tần Minh Viên đánh cho Trịnh Bá Nghiêm và Dương Tố Vy phải lùi dài.
Đau lòng trước sự tổn thất nhân mạng của phe nhà, Nam Thiên Tôn liền nói vang, ra lệnh cho Thất Hoàn Đao đưa quân vào tiếp viện. Hướng Vụ Quan chỉ để lại hai chục tay đao trấn giữ lối ra, còn bao nhiêu đưa vào tham chiến. Nhờ vậy mà thế trận tạm cân bằng.
Phần phía Nam – Bắc Thiên Tôn thì ra sức quyết thắng, cố đắc thủ càng sớm càng tốt. Phần vì cục diện, phần vì tự ái của kẻ già nua.
Âu Dương Mẫn và Nhạc Cuồng Loạn đều có hoa giáp công lực, võ nghệ siêu phàm, chẳng dễ gì bị khuất phục. Dù thủ nhiều hơn công, song họ vẫn bảo toàn được tính mạng lui dần ra ngoài theo đúng kế hoạch.
Hội đồng võ lâm cùng hai trăm đệ tử đứng nhìn cuộc chiến khốc liệt mà ngao ngán. Họ bị chấn động bởi bản lĩnh của bọn ma đầu cũng như đám thủ hạ của Thần Đao và Xoa Lạp. Người tu hành luyện võ công chính phái thượng thừa nhưng thiếu thủ đoạn và kinh nghiệm, chẳng thể địch lại những kẻ quen chém giết.
Lục vị chưởng môn nhân hổ thẹn vì thái độ nhu nhược của mình nên chẳng dám thắc mắc khi Hàn Thiếu Lăng không đến vấn an. Chàng trai thần dũng ấy đã cùng Thiết Đảm Hồng Nhan ẩn vào chỗ nào chẳng rõ.
Cuộc hỗn chiến kéo dài đến giữa giờ Tỵ thì trận địa di chuyển đến Tiêu Sơn. Số tử vong của hai bên đã gần hơn trăm. Xác người rải rác khắp nơi, mùi máu tanh bốc lên nồng nặc. Minh chủ Âu Dương Mẫn và Nhạc Cuồng Loạn chỉ bị thương nhẹ, song họ vẫn kiên cường chống cự. Do bị thiệt hại ít hơn nên số cao thủ Xoa Lạp Cốc cùng Thần Đao Bảo đã xông vào hỗ trợ chủ tướng, khiến Nam – Bắc Thiên Tôn và Quân Sơn Chân Nhân phải phân tâm không ít.
Câu “gừng càng già càng cay” chỉ đúng trong giới hạn nào đó. Người ở trên tuổi tám mươi thì gân cốt lão hóa, không còn cường kiện như kẻ trẻ trung hơn. Nam – Bắc Thiên Tôn trong thời gian gần đây lại miệt mài với những thân xác nóng bỏng, mỹ miều, tặng vật của Mông Cổ, sức lực có phần giảm sút. Ngược lại, Nhạc Cuồng Loạn đang tuổi thanh xuân, còn Âu Dương Mẫn mới trên sáu chục mà đã kiêng tửu sắc. Nếu vị Huyết Mai hội chủ mà hiếu sắc thì ả con nuôi Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân khó mà yên thân. Lão chỉ đam mê có hai thứ là danh vọng và tiền bạc.
Âu Dương Mẫn khấp khởi mừng thầm vì chỉ còn cách đường thoát thân mười mấy trượng. Lão và Nhạc Cuồng Loạn sẽ sử dụng đến vũ khí bí mật tối lợi hại của mình để phá vây đào tẩu. Nam – Bắc Thiên Tôn sẽ đuổi theo nên số phận của hai lực lượng Thần Đao và Xoa Lạp Cốc sẽ an toàn. Họ mạnh hơn phe đối phương rất nhiều. Với dự hỗ trợ của vài đệ tử kiên dũng, Âu Dương Mẫn ngang nhiên cầm cự với Bắc Thiên Tôn và lùi dần theo bước tiến của tiền quân. Thất Hoàn Đao và tám mươi học trò đã không cầm chân được Thần Đao Bảo và Thập Đại Hộ Vệ.
Lát sau, Âu Dương Mẫn bất ngờ thốt lên:
- Đi thôi!
Rồi lão tung mình nhảy ngược về phía sau, quay mình đào tẩu. Nhạc Cuồng Loạn cũng giáng mạnh một chưởng “Lôi Đình” thần tốc, đẩy lùi Nam Thiên Tôn rồi chạy theo đồng đảng.
Nam – Bắc Thiên Tôn không ngờ đối phương lại bỏ mặc thuộc hạ mà thoát thân, trái với lẽ thường tình. Họ đuổi theo sát rạt, hy vọng hai con mồi bị ngăn lại tại con đường độc đạo. Vị trí này cực kỳ hiểm yếu, lại đang dày đặc cao thủ của Hướng Vụ Quan. Lực lượng phía bên ngoài của Song Tôn đã bị ép đến tận mép vực, chủ yếu là phong tỏa đường ra.
Nào ngờ khi sắp chạm phòng tuyến cuối cùng, Âu Dương Mẫn tung một quả cầu đen kịt, cỡ lớn bằng nắm tay trẻ nhỏ vào giữa hàng ngũ địch. Cái vật tròn tròn ấy phát ra một tiếng nổ kinh thiên động địa và tỏa khói mịt mù.
“Bạt Sơn cầu” của Liệt Hỏa Thần Quân lừng danh thiên hạ đã lâu, là thứ hung khí mà ai nghe nhắc tới cũng phải rùng mình. Nó có thể làm lỡ núi hoặc giết hàng trăm người một lúc.
Sau khi Liệt Hỏa Thần Quân tạ thế thì “Bạt Sơn cầu” cũng biệt tăm. Không hiểu sao Âu Dương Mẫn lại tìm ra được. Nếu lão có chừng chục trái thì việc làm bá chủ võ lâm dễ như trở bàn tay.
Lần tái xuất này của “Bạt Sơn cầu” đã khiến mọi người phải kinh tâm táng đởm. Thi thể của những kẻ gần nhất bị xé rách, thịt xương văng tứ tán, kẻ ở xa hơn một chút thì bị gục ngã bởi sức ép hoặc những mãnh vụn thép chứa trong quả cầu. Trong bán kính hai trượng, không một ai toàn vẹn cả.
Tiếng nổ kinh hoàng ấy đã khiến toàn trường bắn mình ngơ ngác, hoặc sợ hãi chẳng thiết đánh nhau nữa, nhất tề đình thủ trong một lát. Ngay Nam – Bắc Thiên Tôn cũng phải chậm chân, không hăng hái truy đuổi như trước.
Đường thoát ra rộng mở, Âu Dương Mẫn lao vút đi, xông qua đám khói mây, hướng về phía đầu đường xuyên vực. Năm sáu trượng chẳng là bao đối với kẻ có khinh công như lão.
Âu Dương Mẫn chợt nghe phía sau có tiếng y phục lất phất đinh ninh rằng Nhạc Cuồng Loạn đang bám sát. Nào ngờ họ Nhạc lại lên tiếng:
- Minh chủ hãy coi chừng!
Âu Dương Mẫn chưa kịp phản ứng hai huyệt Tâm Du và Thần Đường trên mé lưng trái bị điểm trúng. Hai huyệt ấy thuộc Kinh túc Thái Dương Bàng quang, nằm ngay sau tim. May mà Âu Dương Mẫn khổ luyện “Thiết Sa thần công” đã hai chục năm nay nên da dày thịt chắc, không chết bởi đòn ám toán hiểm độc kia. Tuy nhiên, toàn thân lão bị tê tái, chân khí gián đoạn và tứ chi bủn rủn.
Âu Dương Mẫn lảo đảo song vẫn tỉnh táo nhận ra đối phương đã đoạt mất khúc cán cờ "Diêm vương Quỷ kỳ" mà lão đang giắt ở thắt lưng. Và cái gã mặc áo lông cừu trắng ấy là kẻ đã đoạt mất Thánh chỉ của Bắc Thiên Tôn.
Âu Dương Mẫn bàng hoàng tuyệt vọng khi thấy đối phương nhảy môt bước xa đến gần ba trượng, một thành tựu khó mà tin nổi. Nghĩa là Nhạc Cuồng Loạn chẳng có hy vọng đuổi kịp gã ta. Sự tình đúng như dự đoán của Âu Dương Mẫn, Nhạc Cuồng Loạn đã dừng lại bên bờ vực, không thèm làm chuyện vô ích, toi công.
Chân khí đã thông suốt sau một khoảnh khắc ngắn ngủi, Âu Dương Mẫn lướt đến cạnh đồng đảng trẻ tuổi mà quan sát. Lúc này, gã có áo lông cừu đã mang Quỷ kỳ chạy xa mất tăm.
Là người sáng suốt và quyết đoán, Âu Dương Mẫn quay phắt lại, tay trái giơ cao “Bạt Sơn cầu” thứ hai, lạnh lùng bảo Nam – Bắc Thiên Tôn:
- Nhị vị có muốn nếm thử mùi vị của “Bạt Sơn cầu” hay không?
Song Tôn đã chứng kiến cảnh Âu Dương Mẫn bị đoạt mất bảo vật, lòng vô cùng chán nản và tức giận. Bắc Thiên Tôn hậm hực trách móc:
- Nếu ngươi không cố tâm tranh đoạt với bọn ta thì đâu đến nổi cờ báu bị kẻ khác phỗng tay trên. Nay chẳng ai rõ lai lịch gã cẩu tặc ấy thì vô phương tìm lại được.
Âu Dương Mẫn đưa tay vuốt chòm râu dài và đẹp, nhếch mồm cười nhạt đáp:
- Lão phu có cách. Quý hồ chư vị đồng lòng hợp tác, lão phu hứa rằng trong vòng ba tháng sẽ giao nộp linh kỳ.
Bắc Thiên Tôn không hiểu ý đối phương, nghi hoặc hỏi lại:
- Mong Âu Dương thí chủ nói rõ ra xem nào?
Âu Dương Mẫn gật gù, bước đến hạ giọng bảo:
- Gã ấy chính là Cầu Nhiệm Đại Hiệp Hàn Thiếu Lăng, nghĩa tử của Trung Thiên Tôn, lúc này mặc hắc y và bịt mặt đứng trên ngọn cây du. Chỉ mình gã mới đủ bản lĩnh và đởm lược để cướp Thánh chỉ cũng như cờ báu. Tuy gã đã chạy thoát nhưng sẽ sớm dâng nạp linh kỳ khi nghe hội đồng võ lâm và sư muội bị bắt. Phùng tiền bối cứ mượn cớ lục phái kháng chỉ, cùng lão phu bắt sống họ mang về tổng đàn võ lâm quản thúc.
Nam Thiên Tôn đã hiểu ra, ngắt lời Âu Dương Mẫn:
- Đấy đúng là diệu kế. Nhưng bần đạo chưa hiểu ra thí chủ sẽ được lợi gì trong việc này?
Âu Dương Mẫn ung dung đáp:
- Lão phu muốn đem "Diêm vương Quỷ kỳ" đổi lấy một đạo Thánh chỉ khác, chẳng những khôi phục mà còn tăng thêm quyền lực của Minh chủ võ lâm.
Bắc Thiên Tôn lên tiếng:
- Bần đạo đồng ý. Nhưng chúng ta sẽ loan báo cho gã họ Hàn biết rằng phài mang cờ đến phủ đường Trịnh Châu mà giao nạp. Hai phe chúng ta sẽ cho người túc trực ở đấy. Bần đạo sẽ thượng kinh ngay để xin Thánh chỉ, còn Từ lão huynh sẽ đi Trịnh Châu với thí chủ.
Cách thức này rất chu toàn, chẳng ai có thể lừa ai, nên song phương bắt tay nhau thắm thiết. Sau đó, bọn ma đầu điều động thủ hạ ào ào đến vây kín lục vị chưởng môn nhân cùng đệ tử.
Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường kinh ngạc quát hỏi:
- Này, này…bọn ngươi âm mưu quỷ quái gì thế? Bọn ta nào ai giữ Quỷ kỳ?
Bắc Thiên Tôn cười nhạt:
- Do lục phái kháng chỉ, không chịu dâng nạp bảo vật nên cuối cùng Hàn Thiếu Lăng đã cướp mất. Và có thể chính hội đồng võ lâm đã chủ sự cho gã hành động như vậy. Do đó, thừa lệnh khâm sai đại nhân, bọn bần đạo đành phải mời lục vị về tổng đàn võ lâm, chờ gã họ Hàn mang Quỷ kỳ đến chuộc mạng.
Nghe giọng cười bá đạo của đối phương, Vân Thiên Tử ấm ức gầm lên:
- Bọn ta vì đức hiếu sinh mà tránh cảnh máu xương, nhiều phen nhẫn nhịn, không ngờ bọn tà ma các ngươi vì thế mà lộng hành. Hôm nay lục phái sẽ vì chính khí võ lâm mà rưới máu chốn này.
Lời nói của ông đã khiến dòng máu hiệp sĩ của hai trăm đệ tử chính phái sôi sục. Họ nhất tề giơ cao vũ khí thét vang:
- Sát ma vệ đạo!
Không phải ai khác mà chính là Đại Giác Thiền Sư xuất thủ trước, khai mào cuộc chiến. Ông xách thiền trượng nhảy vào tấn công Bắc Thiên Tôn. Tuy đạo hạnh thâm sâu nhưng Đại Giác còn là người nhiệt tình với sự tồn vong của giang sơn xã tắc. Nãy giờ ông thầm chán ghét lão phản tặc Phùng Thịnh Đoan mà chẳng nói ra.
Thiếu Lâm tự đứng đầu võ lâm nhờ những công phu võ học thượng thừa, ảo diệu cả về tâm pháp nội công lẫn pháp sử dụng khí giới. Và do thiền trượng là vật thiết thân của các nhà sư nên pho “Thiếu Lâm giáng ma trượng pháp” được xem trọng nhất. Sau khi Đạt Ma Tổ Sư nhập diệp, các đời đệ tử Thiếu Lâm đều khổ công rèn luyện và bổ khuyết thêm ngày càng uyên ảo, diệu kỳ. Tuyệt học này không truyền ra ngoài thế tục và chỉ truyền riêng cho phương trượng và những cao tăng cùng bối phận. Tuy Đại Giác Thiền Sư được thừa kế y bát nhờ làu thông kinh luật, và thiền hạnh cao siêu, nhưng ông cũng là cao thủ số một trong chùa. Đại Giác có thân hình cao lớn, tráng kiện, và rất thích hợp với lọai binh khí dài và nặng như thiền trượng. Yếu tố bẩm sinh cũng rất quan trọng đối với người học võ.
Đại Giác Thiền Sư khẽ niệm danh hiệu Phật Tổ Như Lai rồi múa trượng xuất chiêu “Thiên Long tảo vân”. Thanh thiền trượng nặng hai mươi bảy cân lao vun vút, hóa thành những chiếc móng rồng chụp lấy đối phương.
Sau trận đấu với Âu Dương Mẫn, Bắc Thiên Tôn Phùng Thịnh Đoan chẳng còn dám khinh thường đám hậu bối nữa. Lâu nay, lão sống trong hào quang quá khứ, quên mất câu “Trường Giang sóng hậu lãng thôi tiền lãng”. Lão đã hao tổn khá nhiều sức lực mà chỉ rạch được một đường trên bắp tay họ Âu Dương, một kết quả rất nghèo nàn.
Giờ đây, Bắc Thiên Tôn thận trọng dồn sức đón chiêu trượng hùng mạnh của phương trượng Thiếu Lâm. Ngân kích và thiền trượng đều là loại trường binh dài nặng khi chạm nhau phát ra những âm thanh chát chúa, rền rĩ, cùng những tia lửa nhỏ. Qua sự chấn động ở đôi bàn tay, Bắc Thiên Tôn biết rằng đối thủ có công lực rất thâm hậu. Và Đại Giác thừa dẻo dai để cầm cự đến cùng, chẳng khác gì Âu Dương Mẫn.
Bắc Thiên Tôn bỗng sinh lòng chán ghét sự già nua của mình, bực bội vũ lộng cây ngân kích tấn công đối thủ tới tấp. Nhưng vị phương trượng chùa Thiếu Lâm chẳng hề lúng túng, vẫn giữ sắc mặt trang nghiêm, hòa ái, ung dung phá giải những thế kích của Phùng Thịnh Đoan. Là tuyệt học Phật môn nên pho “Giáng ma trượng pháp” chủ yếu về phòng thủ. Nhưng khi công khí thế của thanh thiền trượng cực kỳ hùng mạnh, thấm nhuần tinh thần đại dũng, vô úy của nhà Phật. Chiêu thức thì có vẻ giản dị song bao hàm cả đạo biến hóa, uyên ảo tuyệt luân, khiến địch thủ phải vất vả lắm mới phá giải được, Bắc Thiên Tôn rầu rĩ nhủ thầm:
- Không ngờ tên trọc Đại Giác này lại giỏi võ hơn sư phụ gã năm xưa
Quả đúng như vậy, tiền nhiệm phương trượng Thiếu Lâm Tự, Nhất Kính Thiền Sư là người thấp lùn, nhỏ bé nên khó mà phát huy hết tinh hoa của phép đánh trượng.
Trong lúc Bắc Thiên Tôn bị Đại Giác cầm chân thì Nam Thiên Tôn cũng chới với bởi Vân Thiên Tử. Lý do là vì chưởng môn nhân phái Võ Đương sử sụng thanh “Trạm Lư bảo kiếm”, thần vật thời Xuân Thu. Té ra, Vân Thiên Tử một lòng hỗ trợ Thiếu Lâm Tự nên đã mang theo bảo vật trấn sơn mà giáng ma.
Ngay chiêu đầu tiên, Vân Thiên Tử đã chặt phăng mũi nhọn của cây kim thương khiến Nam Thiên Tôn rầu thúi ruột. Và sau mỗi lần va chạm, cây thương của lão lại hằn sâu một vết chém. Từ Tôn Chiến nổi giận, vũ lộng trường thương tấn công như vũ bão, hy vọng đè bẹp đối phương trước khi binh khí mình bị chặt gãy.
Nhưng Vân Thiên Tử là cao thủ số một của phái Võ Đương hiện tại. Hơn nữa, từ sau hôn lễ của Tây Nhạc Kiếm Khách Lư Công Đán, ông vì thanh danh của môn phái mà bế quan luyện kiếm, chuẩn bị cho việc tranh giành danh hiệu Võ Lâm Đệ Nhất cao thủ.
Bản thân Vân Thiên Tử không háo danh song truyền thống trăm năm của phái Võ Đương bắt ông phải chấp nhận hy sinh. Danh hiệu cao quý ấy vốn thuộc về Trương Tam Phong, tổ sư phái Võ Đương. Vân Thiên Tử không chắc đạt được mục tiêu nhưng sẽ tận lực để không tủi hổ với anh linh của Trương tổ sư.
Mấy tháng nay, Vân Thiên Tử giao hết sự vụ của phái Võ Đương cho sư đệ Vân Hư Tử, tập trung nghiên cứu pho “Thuần Dương kiếm pháp”, tuyệt học cuối cùng của Dương Chân Nhân. Sau khi đệ tử thứ tám của Trương tổ sư, Á Hiệp Thuần Vu kỳ tạ thế thì không một ai luyện thành pho kiếm kỳ diệu ấy. Nhưng việc thâm cứu kiếm phổ cũng giúp cho Vân Thiên Tử ngày càng gần với Kiếm Đạo hơn. Kiếm Đạo cũng như Thiền Đạo, kẻ có căn cơ sáng láng tuyệt trần thì đốn ngộ, kẻ bẩm sinh bình thường mà siêng năng, cần mẫn thì chầm chậm đi đến đích sau vài chục năm, gọi là tiệm ngộ.
Vân Thiên Tử thuộc trường hợp thứ hai. Ông luyện kiếm đã sáu mươi năm vì xuất gia từ lúc còn để chỏm. Ít khi xuất thủ với người ngoài nên chính ông cũng không ước lượng được bản lĩnh của mình. Huynh đệ trong môn phái luyện kiếm với nhau thì không có giá trị so sánh.
Nay phải đương đầu với một cao thủ lão thành như Nam Thiên Tôn, Vân Thiên Tử lại rất thận trọng. Nhưng càng đánh lâu, ông thức ngộ rằng thần tượng già nua kia chẳng đáng sợ lắm. Ông không thắng được họ song dẫu có thua thì cũng vài trăm chiêu. Nhất là khi ông có “Trạm Lư thần kiếm” trong tay thì chưa chắc “mèo nào cắn miu nào”.
Vân Thiên Tử cao hứng phi thường, mang hết sở học Võ Đương ra đối phó với đường thương dũng mạnh, độc địa của Nam Thiên Tôn. Tuy pho “Thái Cực Tuệ kiếm” không cao siêu thâm thúy bằng “Thuần Dương kiếm pháp” song cũng là tuyệt học do Trương tổ sư để lại.
Huyền môn chủ trương “tử nhiên nhi nhiên” , “nan không cương, nhược thắng cường”, nên kiếm pháp Võ Đương mềm mại, nhẹ nhàng, phóng khoáng. Nhờ vậy mà đường kiếm nhanh như gió thoảng.
Trường kiếm trở thành vua của mọi loại vũ khí vì có rất nhiều ưu điểm. Một trong những ưu điểm ấy là trọng lượng. Kiếm chỉ nặng độ sáu bảy cân nên người kiếm thủ không bị trở ngại khi thi triển khinh công. Do đó, Vân Thiên Tử nhẹ nhàng, khinh khoái như mây nổi, tiến thoái nhanh tựa ngọn phong thu phong. Ông lùi để tránh những đòn quét ngàn cân và xông vào ngay phản kích. Mục tiêu của ông không chỉ là xác thân còm cõi của Nam Thiên Tôn mà còn là cây kim thương nữa. Ông rình rập chờ cơ hội chặt gãy khí giới của kẻ địch.
Từ Tôn Chiến biết điều ấy nên hết sức cảnh giác, ra đòn như chớp giật không để đối phương tiếp cận. Đánh nhau mà phải úy kỵ đủ điều như thế thì quả thật khổ sở, vất vả. Lão bực bội rủa thầm cái gã câm chết tiệt đã tặng “Trạm Lư thần kiếm” cho Võ Đương. Khi tình cờ tìm thấy thanh Trạm Lư, Thuần Vu Kỳ đã không sử dụng mà mang lên núi, đặt trên đùi pho tượng ân sư. Chàng cho rằng Trương Tam Phong là Vạn Thế Kiếm Vương phải có một thanh thần kiếm như Trạm Lư theo hầu. Nhưng chàng cũng không cấm những đệ tử đời sau dùng thần kiếm giáng ma vệ đạo. Bởi vậy, Vân Thiên Tử có quyền sử dụng Trạm Lư. Còn một yếu tố quan trọng khác khiến Song Tôn bối rối, họ không dám giết sáu vị chưởng môn nhân.
Tóm lại, Nam – Bắc Thiên Tôn đều đã có địch thủ xứng tay. Còn những tay cao thủ như Âu Dương Mẫn, Nhạc Cuồng Loạn, Quân Sơn Chân Nhân, Thất Hoàn Đao, Thần Đao Bảo chủ, đại hộ pháp Xoa Lạp Cốc …cũng bị bốn vị chưởng môn nhân cùng các sư đệ đón đánh.
Kẻ phản đồ Lã Hoa Dương biết đây là cơ hội chuộc lỗi nên đã van xin Đại Nghiêm cởi trói, giải huyệt để y tham chiến. Vì nghĩa sư đồ mà thiền sư đã chấp thuận. Vả lại, trong hoàn cảnh khó khăn này, sự đóng góp của một cao thủ như Thiếu Lâm Thần Côn là rất quý giá.
Thủ tọa La Hán Đường quyết định rất sáng suốt, Lã Hoa Dương dũng mãnh như hổ dữ sút chuồng, cây côn thép lồng lộn chống trả rất hữu hiệu trước những thanh đao Nhật Bản dài và nặng. Tuy phẩm cách thấp kém nhưng họ Lã vẫn xứng danh nhân tài trẻ tuổi của Thiếu Lâm Tự.
Lã Hoa Dương tinh thông cả trường côn lẫn đoản côn, nhưng khi bôn tẩu giang hồ thì thường mang côn ngắn cho đỡ bất tiện. Côn của gã được rèn bằng loại thép tốt nhất, nước thép xanh rờn và nặng gần hai chục cân. Tuy phép đánh đoản côn chú trọng những đòn giáng xuống, quét ngang nhưng thế điểm cũng có thức làm gãy xương kẻ địch nhờ sức nặng.
Cánh tay khỏe mạnh, thân hình đầy những bắp thịt rắn chắc, Lã Hoa Dương vũ lộng đoản côn liên tiếp đâm những đòn trời giáng khiến đao kiếm của kẻ địch phải ngân lời oán than rền rĩ. Và trong chớp mắt, mũi côn thọc vào đâu đó trên cơ thể đối phương.
Cửa Phật từ bi nên vũ khí của Thiếu Lâm không hề có mũi nhọn hay cãnh sắc. Thiền trượng, trường côn, đoản côn đều có đầu bằng. Nghĩa là, tuyệt học chính thống của Đạt Ma Tổ Sư sáng tạo ra chỉ gồm có phép luyện nội công, phép đánh trượng, phép đánh côn và quyền thuật. Còn tất cả các phép sử dụng lợi khí như đao, kiếm, thương, giáo … đều do những đệ tử người Trung Hoa thêm thắt vào. Người đời cho rằng Thiếu Lâm Tự có đến bảy mươi hai tuyệt kỹ là do mượn ý trong Tây Du Ký, bởi Tôn Ngộ Không học được “Thất thập nhị huyền công”. Ngài Đạt Ma từ Thiên Trúc sang Tàu để hoằng dương Phật pháp và tu hành, thời gian đâu mà nghĩ đến lắm thứ võ công đến thế?
Nhắc lại, Lã Hoa Dương thần dũng như thiên tướng, trong nữa khắc đã đả thương được bốn, năm kẻ địch. Nhưng cuối cùng, gã cũng gặp được đối thủ xứng tay là Lã Bất Thành, đại đệ tử của Bắc Thiên Tôn. Hai gã ấy cùng họ Lã nhưng kẻ Bắc người Nam nên chắc chẳng có quan hệ bà con.
Lã Bất Thành phát hiện Thiếu Lâm Thần Côn quá ư lợi hại liền lướt đến ngăn chận. Lã Bất Thành cũng có ý muốn so tài với một trong “Võ Lâm Ngũ Tú”.
Lã Bất Thành chẳng nói chẳng rằng, dồn đủ mười thành công lực, đánh chiêu “Phụng Tiên khai lộ”, khí thế mãnh liệt như chẻ núi. Phụng Tiên chính thị Lã Bố có võ nghệ siêu quần bạt tụy, từng một mình đại chiến với Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi mà chẳng hề trầy da tróc vẩy.
Lã Phụng Tiên được xem là một trong những ông Tổ nghề đánh trường kích, cho nên đời sau thường dùng chữ “Bố” đặt tên cho chiêu thức.
Có lẽ, Lã Bất Thành đúng là dòng dõi mấy mươi đời của Lã Bố nên kích pháp cực kỳ tinh xảo. Đường kích của gã vừa hùng mạnh vừa ảo diệu, khiến Lã Hoa Dương nhất thời phải lép vế.
Thiếu Lâm Thần Côn tận lực chống đỡ, tuy không thọ thương nhưng phải thoái hậu nhiều bước. Gã chột dạ than thầm vì hiểu rằng tu vi của Lã Bất Thành hơn mình đến hai bậc. Gã cắn răng xông lên phản kích bởi chẳng còn cách nào khác.
Lã Hoa Dương chạm phải cường địch thì Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ cũng chẳng may mắn hơn. Đối thủ của chàng đẹp trai chính thị Hồ Đồ Thần Thương Khổng Đam. Tuy mang tiếng hồ đồ song sức lực và bản lãnh múa thương của Khổng Đam rất khá. Đôi cánh tay béo mập, to như cột đình múa cây kim thương ba chục cân, đánh cho trường kiếm của Mộ Duy Lộ run bần bật. Nếu không nhờ sự cần mẫn luyện công và giới sắc suốt một thời gian dài, Mộ Duy Lộ không chịu nổi mười chiêu thương sấm sét của họ Đổng.
Võ Đương Thần Kiếm chịu khó khép mình khổ hạnh, siêng năng luyện võ công cũng là vì muốn thoát khỏi cái bệnh liệt dương quái ác. Ngày ngày, gã được sư phụ cho uống thuốc và châm cứu nên thấy khá hơn. Có đêm, gã phát hiện đoản thương của mình lại hiên ngang, ngạo nghễ như xưa, lòng vô cùng hoan hỉ. Nhưng chẳng hiểu sao kỳ tích ấy không lập lại? Gã than thở với ân sư thì được Vân Thiên Tử an ủi rằng chưa đủ ba năm.
Mộ Duy Lộ không biết rằng Vân Thiên Tử cố tình kéo dài việc chữa trị, ngõ hầu đưa học trò mình về với chính đạo. Lã Hoa Dương và Mộ Duy Lộ mà còn bị hạ phong thì đám đệ tử Bạch đạo lại càng khốn đốn trước quân số đông đảo của tà ma. Hai đánh một không chột cũng què nên bọn tăng nhân, đạo sĩ thọ thương khá nhiều. Nếu không nhờ những thanh trường côn mạnh mẽ của một trăm linh tám nhà sư La Hán Đường thì thế trận đã vỡ từ lâu.
Nhưng dần dà, chính những tay côn thần dũng cũng phải la oai oải, hoặc niệm Phật hiệu, bởi trúng đòn rách da, xé thịt. Lý do thứ nhất vì chênh lệch quân số, lý do thứ hai bởi ăn chay mau đói hơn ăn mặn. Vài chén cơm với xì dầu, rau cải, đậu hủ chỉ cung cấp số năng lượng bằng một nữa thịt thà, cá mú. Đã cuối giờ Tỵ, ai nấy đều đói meo, sức đâu mà đòi chiến đấu!
Tình thế phe Bạch đạo rất nguy ngập, chỉ còn cách đầu hàng hoặc chờ chết.
Bắc Thiên Tôn ra sức đẩy lùi Đại Giác rồi phủ dụ:
- Chẳng lẽ hòa thượng ngươi không tiếc xương máu của đệ tử Thiếu Lâm hay sao? Hãy thức thời mà buông vũ khí quy hàng.
Đại Giác bình thản đáp:
- Cửa thiền không phân biệt sinh tử, bọn bần tăng thà chết chứ không chịu để thí chủ rước quân Mông vào tàn phá xã tắc, bức hại chúng sinh.
Vừa dứt lời, ông thi triển công phu “Sư Tử Hống” gầm vang:
- Tuẫn … Pháp!
Đấy là hiệu lệnh cho toàn thể đệ tử Thiếu Lâm đang hiện diện phải xã thân. Nếu Trung Hoa bị Mông rợ cai trị một lần nữa thì Phật giáo sẽ suy tàn, chẳng khác gì bị pháp nạn. Người Mông theo đạo Lạc Ma một phái Phật giáo ở Tây Tạng, họ chẳng ưa gì Phật giáo Trung Hoa.
Hai tiếng linh thiêng ấy dù thêm sức mạnh cho những đệ tử hiền lành suốt đời trai giới. Tuy nhiên, lực bất đồng tâm nên lát sau cục diện lại càng bi đát. Các vị chưởng mô và các sư đệ đều bi thương nhẹ, trừ Vân Thiên Tử. Ông vẫn an tàn và còn chặt đứt một đoạn dài cỡ gang tay ở đầu cây kim thương của Nam Thiên Tôn.
Khi viễn ảnh sắp đại bại của lục phái sắp đến gần thì phát sinh kỳ tích.
Một toán cao thủ Thiếu Lâm đông độ bốn trăm đã đến cứu viện, tiến vào tấn côn những kẻ đang trấn giữ đầu đường độc đạo.
Cửa ải quan yếu này do Trịnh Bá Nghiêm, Dương Tố Vy cùng sáu mươi kiếm thủ đảm đương. Nhiệm vụ của họ là ngăn không cho bất cứ ai thoát ra, chạy về Thiếu Lâm cầu viện. Và nếu như có ai đó ở ngoài đã làm việc đó thì viện binh cũng khó mà qua quan, trước khi cuộc chiến trong Độc Nha sơn kết thúc. Kẻ đứng chênh vênh trên đường hẹp thất thế rất nhiều, dễ bị kim thương của Bá Nghiêm đẩy rơi xuống vực. Đấy là chưa kể đến tác dụng của ám khí. Sáu mươi gã thủ hạ Chiết Mai Bang vốn là người của Phi Kiếm Hội đất Thăng Trì nằm trên đường trục Đông Tây nối liền Trường An và Lạc Dương. Muốn tồn tại, Phi Kiếm Hội phải liên minh với Chiết Mai bang bằng cách cử sáu mươi thủ hạ sang phò tá Dương Tố Vy. Kiếm thuật của bọn này không cao song thuật phóng tiêu bội phần linh diệu.
Tiễn kiếm hoặc tiểu đao là loại ám khí nặng, tầm sát thương trên dưới ba trượng, dùng để ám toán từ xa rất hữu hiệu. Trong việc mai phục hoặc đánh phủ đầu thì chúng vô cùng lợi hại.
Nhắc lại, chẳng hiểu kẻ lắm mồm nào đã chạy đến chùa Thiếu Lâm báo hung tin nên Thủ tòa Đạt Ma Viện là Đại Tuệ Thiền Sư mau chóng đưa bọn đệ tử đến tiếp viện lục phái.
Người đông thì cũng tốt nhưng vấn đề là ở chỗ làm sao tiến vào được trận địa khi đối phương đã phòng thủ chặt chẽ?
Tất nhiên, kẻ có bản lĩnh cao cường nhất là Đại Tuệ Thiền Sư phải đi tiên phong. Ông xách thiền trượng lướt như bay trên con đường xuyên vực chi chít những cành cây cắm chênh vênh để gia cố.
Đáng lẽ, song song mặt đường, ngang tầm tay vẫn có sợi dây chảo lớn, nhưng chúng đã bị Trịnh Bá Nghiêm chặt đứt. Gã còn sai nhổ sạch cây gỗ ở hai bên đường một đoạn gần cuối dài bốn trượng. Nghĩa là, lúc kẻ địch lọt vào đến khúc ấy thì hoàn toàn bất lợi, bởi dưới chân không vững. Trong khi chỗ gã đứng rất an toàn, vững chắc.
Trịnh Bá Nghiêm tính toán đúng, Đại Tuệ Thiền Sư đã lộ nhiều sơ hở vì thiền trượng nặng mà tấn chẳng vững. Ông lúng túng đỡ nhiều chiêu thương của Trịnh Bá Nghiêm và những ám khí hiểm ác không sao tiến lên được dù võ công rất cao siêu.
Trong cảnh ngộ khó khăn ấy, Đại Tuệ trúng liền hai mũi tiễn vào đùi, đành phải thối lui băng bó và đổi vũ khí. Trường côn của đám đệ tử nặng chỉ bằng nửa thiền trượng sẽ giúp ông chống đỡ ám khí hữu hiệu hơn.
May mà những mũi tiễn kiếm ấy không tẩm độc, Đại Tuệ nhanh chóng trở lại với Bá Nghiêm. Ông dùng toàn lực múa tít cây trường côn bằng gỗ, ngoài bọc thép mỏng, đánh văng ám khí và cố sức đẩy lùi bang chủ Bích Huyết bang.
Nhưng Trịnh Bá Nghiêm cũng là tay kiệt xuất, kiên cường chống cự bằng pho “Hoàng Long thương pháp” mà gã đã khổ luyện hai mươi năm. Gã được ưu thế là có thể đảo bộ, chuyển tấn rất ung dung, trong lúc Đại Tuệ thì chết dí trong một chỗ và lòng thấp thỏm đất lở bất ngờ. Chẳng phải bậc cao tăng này sợ chết, ông chỉ lo không cứu được phương trượng sư huynh và mấy trăm người khác nữa. Do đó, Đại Tuệ hoàn toàn bị cầm chân và số phận những kẻ bị vây hãm trong kia khó mà thay đổi.
Đại Tuệ đau lòng khôn xiết, phẫn uất đánh mấy đòn lôi giáng, đẩy lùi Bá Nghiêm vài bước. Nhưng phe địch nhất tề phóng liền mấy chục ngọn tiễn kiếm, khiến ông phải bỏ ý định tràn lên, múa trường côn chống đỡ. Và Bá Nghiêm đã kịp quay về vị trí cũ. Đại Giác Thiền Sư lại trúng thêm một mũi tiễn kiếm vào bắp chân tả, khó mà địch lại Trịnh Bá Nghiêm. Trong lúc ông sắp tuyệt vọng thì cứu tinh xuất hiện, đánh vào sau lưng kẻ địch.
Lực lượng ấy đông độ bốn mươi, võ phục đủ màu song đều bằng gấm lục tốt, áo cừu ngắn cũng thuộc loại đắt tiền. Trong võ lâm làm gì có bang hội nào chơi sang đến thế!
Họ nhất tề rút kiếm, lột nón tre ở tay tả xông vào tấn công. Dương Tố Vy ngờ ngợ đoán ra đối phương là người của Xoa Lạp Cốc. Nàng ta lại còn điên đầu hơn bọn tơi nón kia lại được chỉ huy bởi Thiết Đảm Hồng Nhan và gã hắc y bịt mặt. Làm sao Dương Tố Vy có thể ngờ đến việc những đệ tử Xoa Lạp Cốc trở thành gia đinh của Quách gia trang và đến đây để bảo vệ Tử Khuê.
Kiếm là sở đoản của Bắc Thiên Tôn song lại là sở trường của lão đạo sĩ núi La Sơn. Do đó, kiếm thuật của Tống Thụy hơn Tố Vy một bậc. Thép chạm thép gay gắt và ả họ Dương khẽ rú lên, chân lùi mau bốn bước. Chiêu “Vương Mẫu Khai Liêm” của Tống Thụy đã rọc một đường từ ngực đến thắt lưng của kẻ địch. Tuy vết cắt không sâu nhưng lại khiến tấm võ y diêm dúa màu hồng phấn và yếm đào của Tố Vy bị rách tang hoang, ngọc nhũ phơi bày lồ lộ.
Tuy chẳng phải gái tơ, đông đào phong kính, nhưng Dương Tố Vy cũng không quen với việc thoát y trước mặt đám đông. Ả vừa giận vừa thẹn, theo bản năng của nữ nhân mà bối rối đưa tay trái lên cố khép hai mảnh vãi rách để che ngực. Khổ thay, Thiết Đảm Hồng Nhan cứ xông tới ra đòn như vũ bão, nên Tố Vy đành phải để mặt cặp tuyết lê đong đưa, nhún nhẩy, chú tâm đối phó.
Cảnh tượng hấp dẫn ấy đã như thỏi nam châm thu hút những cặp mắt yếu đuối của bọn đàn ông. Và ngay lập tực có hai gã kiếm thuẫn nhanh nhẫu đến hỗ trợ cho Thiết Đảm Hồng Nhan, dẫu nàng ta đang thắng thế. Ánh mắt họ dán chặt vào cặp đào to mơn mỡn, mặt đần ra bởi nụ cười ngớ ngẩn đầy thèm khát.
Tất nhiên, họ chẳng muốn sát hạt Dương Tố Vy, chỉ mong cuộc chiến kéo dài để nhìn no mắt. Là dân tộc Thổ, tính tình mộc mạc, kém đường xảo trá nên không đạo đức giả như người Hán. Khi thích thú, họ nhìn ngay chứ không thèm liếc trộm hoặc nhìn lén.
Chỉ lát sau, đã có hai gã hám gái nữa nhập cuộc, chúng nuốt nước bọt ừng ực đua nhau vang lên cốt để Thiết Đảm Hồng Nhan chán nản, phì cười, nhường trận địa cho bọn đàn ông cô đơn, thiếu thốn kia. Nàng biết rằng, Quách gia trang chẳng đủ tỳ nữ mà gả cho bốn mươi gã hàng binh Xoa Lạp Cốc này, để chúng ở lại Hứa Xương phò tá Tử Khuê.
Chính Tử Khuê cũng không biết đám thủ hạ hiện diện ở Độc Nha sơn. Quách trang chủ lo cho ái tử nên đã sai Dịch Quan San dẫn bọn kiếm thủ đuổi theo.
Sau khi dùng "Diêm vương Quỷ kỳ" để gây cuộc tàn sát giữa hai phe tà ma. Tử Khuê đã đưa Thiết Đảm Hồng Nhan về động đá, nơi Trác Thanh Chân đang chờ đợi. Họ cùng nhau bàn bạc kế hoạch đoạt lại cờ báu, Tử Khuê định sẽ đích thân ra tay, song Trác Thanh Chân đã giành lấy nhiệm vụ ấy. Nàng ta vui vẻ bảo:
- Tiểu muội đánh nhau không giỏi bằng, nhưng nghề khinh công móc túi thì dám xưng sư tỷ của đại ca. Hơn nữa, việc tiểu muội đoạt cờ rồi đào tẩu dưới bộ dạng của kẻ cướp thánh chỉ, sẽ khiến đối phương bị rối trí. Dẫu sau này họ khám phá ra Hàn Thiếu Lăng là ai thì Quách gia trang cũng không hề bị liên lụy.
Thiết Đảm Hồng Nhan rấ khâm phục đầu óc nhìn xa trông rộng, tính toán chu toàn của Trác Thanh Chân. Nàng buột miệng khen:
- Trác đại thư quả là sáng suốt, tiểu muội vô cùng khâm phục.
Thanh Chân nhanh nhẩu tự giới thiệu mình là đệ tam phu nhân của Tử Khuê nên Tống Thụy bắt buộc phải gọi nàng ta là chị. Nàng hơi buồn khi biết Tử Khuê đã có ba vợ, song không chán ghét Thanh Chân. Nhờ cô ả họ Trác quái dị này mà Thiết Đảm Hồng Nhan ngộ thức ra rằng mình phải chủ động dành lấy duyên nợ.
Tử Khuê là một nam nhân đôn hậu, ngốc nghếch và nhút nhát. Chờ gã mở miệng cầu hôn thì e rằng đầu cả hai đã bạc.
Khi Thanh Chân thành công rời khỏi Độc Nha sơn, Tử Khuê và Tống Thụy dự định sẽ ám sát Quân Sơn Chân Nhân rồi đào tẩu. Nào ngờ, lòng dạ Âu Dương Mẫn lại thâm độc phi thường, nghĩ ra kế liên thủ với Nam – Bắc Thiên Tôn để bắt sống hội đồng võ lâm mà đổi lấy cờ. Dẫu Tử Khuê có xuất đầu lộ diện, tự nhận mình là Hàn Thiếu Lăng thì bọn tà ma cũng không bỏ cuộc vì đã leo lên lưng cọp, gây hấn cùng sáu phái. Chàng đang định liều chết một phen thì gã anh vợ Dịch Quan San xuất hiện. Đồng thời viện binh của Thiếu Lâm Tự cũng đến nơi. Thế là Vô Tướng Quỷ Hồ có ngay một kế sách lưỡng toàn.
Giờ đây, trong lúc Thiết Đảm Hồng Nhan hý lộng Dương Tố Vy ở vòng ngoài thì Tử Khuê đánh thốc vào phòng tuyến địch, cố tìm đến chỗ của Trịnh Bá Nghiêm. Chàng cố loại trừ được gã chiếm lấy vị trí hiểm yếu này thì quân tiếp viện mới vào được Độc Nha sơn mà cứu người.
Lòng nóng như lửa đốt, Tử Khuê xuất thủ vô cùng quyết liệt, tàn nhẫn. Kiếm quang chớp lên loang loáng và bọn đệ tử Phi Kiếm Hội thi nhau từ trần một cách mau lẹ, không kèn không trống. Bản lĩnh kém cõi nên chúng không thể chống đỡ đường gươm thần tốc vả ảo diệu vô song của một kẻ đã bước qua ngưỡng cửa kiếm đạo.
Bản năng sinh tồn đã giúp những tên khác ngửi thấy mùi chết chóc tỏa ra từ cái gã hắc y bịt mặt kia. Chúng khôn ngoan dạt ra, lịch sự nhường bước. Thậm chí có gã sợ hãi đến nổi đã cố mỉm cười thân thiện với vị hung thần. Đứng trước cái chết, đôi khi người ta có những hành vi khó hiểu.
Nhưng chính những nụ cười ngớ ngẩn trên khuôn mặt đầy vẻ khiếp sợ ấy lại khiến lòng Tử Khuê chùng xuống. Té ra, đằng sau cái vỏ võ sĩ, kiếm thủ là một con người chân thực, luôn thiết tha được sống còn. Họ chỉ là những người tầm thường nghèo khổ, không tham vọng lớn, chỉ vì cơm áo của thê nhi mà dấn thân vào chốn giang hồ sát máu và chết bởi dã tâm của kẻ phát lương.
Niềm bất nhẫn trong lòng hóa thành phẫn hận, Tử Khuê lướt mau qua trận địa và không giết ai nữa. Có mấy tên ngốc dại dộ cử kiếm ngăn chận thì chỉ chống đỡ qua loa.
Cuối cùng, mục tiêu cũng đã xuất hiện trước mắt. Tử Khuê gằn giọng báo tử:
- Bá Nghiêm! Hàn mỗ đến lấy mạng ngươi đây!
Dứt lời chàng nhảy xổ đến xuất chiêu “Phù Sinh Nhược Mộng”, kiếm ảnh mêng mang mở rộng, chụp lấy thân hình gã họ Trịnh. Trịnh Bá Nghiêm cảm nhận được ngay luồng sát khí lạnh lẽo, kinh hoàng múa kim thương, thân hình xoay tít cố bảo vệ mạng sống trong cảnh lưỡng đầu thọ địch. Gã đang phải đối phó với Đại Tuệ Thiền Sư, nay có thêm gã chết tiệt Hàn Thiếu Lăng thì khó mà thoát chết.
Bá Nghiêm đặt hết hy vọng vào chiêu “Luân Thương Kháng Vũ” này. Nam Thiên Tôn đã từng khẳng định đây là chiêu thức kỳ tuyệt nhất thiên hạ, dẫu mưa to cũng không làm ướt áo thì đao kiếm chẳng thể xâm nhập. Cây thương thép nặng ba chục cân quây vù vù, thương ảnh trùng điệp, dệt lưới kính như bưng. Và kình lực của nó cực kỳ mãnh liệt, khả dĩ đẩy lùi mọi đòn công kích.
Nhưng Trịnh Bá Nghiêm chẳng phải là Nam Thiên Tôn, có công lực hoa giáp. Trong khi Đại Tuệ Thiền Sư lại muốn trút hết sân si lên đầu kẻ đã cầm chân mình từ nãy giờ. Vị Thủ tòa Đạt Ma Viện dồn hết mười thành hỏa hầu ra đôi cánh tay rắn chắc, múa côn vào đánh chiêu “Di Sơn Khai Lộ”. Nghe tên cũng biết chiêu này cương mãnh phi thường, khí thế dời non lấp biển.
Cây trường côn của thiền sư liên tiếp chạm phải màn thương dày đặc quanh thân Trịnh Bá Nghiêm. Tuy không phá thủng được song cũng khiến họ Trịnh đổ máu vì đường thương này.
Tử Khuê thừa thế thi thố xuất kiếm chập chờn vài lượt là khóa được mũi kim thương. Và trông chớp mắt chàng ập vào, hướng kiếm đâm thủng ngực họ Trịnh.
Bá Nghiêm rên lên thảm khốc vì trúng thêm một côn như trời giáng của Đại Tuệ Thiền Sư. Thân thể của gã văng xa hơn trượng, rơi thẳng xuống vực sâu. Dường như lòng trời thương tiếc cho bậc anh tài đoản mệnh, làm tự tuyệt nhà họ Trịnh, nên bỗng nhiên tuyết đầu Đông rơi lất phất và mỗi lúc một dày, mù mịt không gian.
Lúc này, toán quân Phi Kiếm Hội cũng đã tan tác, nhường vai trò trấn ải cho bọn thủ hạ của Tử Khuê. Nghe nói bang chủ Chiết Mai bang thoát chết, bỏ chạy bởi chẳng người đàn ông chân chính nào lại nỡ giết một nữ nhân đang phơi bày mộ ngực mỹ miều, gợi cảm.
Chỉ trong khoảnh khắc, bốn trăm tăng lữ Thiếu Lâm đã vào hết Độc Nha sơn, theo Đại Tuệ Thiền Sư đi cứu viện phương trượng chưởng môn. Bọn Tử Khuê cũng tham gia vì ở lại giữ cửa ra là một hành động dại dột vô ích, khi Âu Dương Mẫn vẫn còn một trái “Bạt Sơn cầu”. Vì thứ hung khí đáng sợ ấy mà Tử Khuê phải dặn dò Đại Tuệ phân táng mỏng quần tăng chứ không đi thành đội ngũ đông người.
Sự xuất hiện của đám viện binh đông đảo võ nghệ cao cường đã sớm thay đổi cục diện. Song Tôn cùng Âu Dương Mẫn càng hoang mang hơn khi nghe Dương Tố Vy chạy đến báo cáo rằng gả hán tử Hàn Thiếu Lăng chưa hề rời khỏi Độc Nha sơn và có mặt hạ sát Trịnh Bá Nghiêm.
Âu Dương Mẫn thấy rõ diện mục kẻ cướp cờ, đúng là cái gã đoạt Thánh chỉ. Vậy phải chăng Hàn Thiếu Lăng vô can ? Lão không biết rằng Trác Thanh Chân đã cẩn thận mang chiếc mặt nạ mà Tử Khuê dùng lúc tiến vào Độc Nha sơn. Nàng đã chẳng hủy đi hai vật tinh xảo ấy theo lời dặn của Tử Khuê. Tuy nhiên, bọn tà ma chỉ tạm thời bị lừa vì kế hoạch của Tử Khuê có một sơ hở rất lớn. Đó là vì sao Hàn Thiếu Lăng lại phải bịt mặt ? Chàng là người trung hậu, kém phần lão luyện nên không thể chu đáo hơn được nữa. May thay, Dịch Quan San đã kịp thời sữa chữa sai sót chết người ấy. Gã đã mau chóng biến Tử Khuê thành Cầu Nhiêm Đại Hiệp, với bộ râu rậm lừng danh.
Giờ đây, Tử Khuê lột khăn chường bộ mặt ấy ra xông vào tấn công Quân Sơn Chân Nhân Đường Mai Giãn. Lão họ Đường đang là đối thủ của bang chủ Cái Bang Thất Bổng Cái, Thạch Kính Tường rất căm hận kẻ đã hại bạn mình là Cửu Hoa Thánh Y, nên chiến đấu như hổ dữ, bản lĩnh của ông kém họ Đường một bậc nên bị hạ phong, trúng vài mũi kiếm máu loang đỏ áo. Nhưng thương tích không nặng vì lão ăn mày vẫn kiên cường cầm cự, chờ cơ hội báo thù cho bạn. Cái Bang vốn là một bang hội chứ không phải môn phái. Cho nên pho võ học truyền tông “đả cẩu bổng pháp” chỉ có ý nghĩa tượng trưng chứ không xuất sắc lắm. Bổng là gậy dài trên dưới ba xích, vật thiết thân của bọn khất cái. Ăn mày mà không chống gậy thì ra thể thống gì nữa.
Tục ngữ có câu “chó cắn rách áo” nghĩa là lũ cẩu chẳng ưa gì những người nghèo khổ. Nhưng tại sao lại có được tính chó má của loài người cơ chứ? Cho nên, công dụng đầu tiên của gậy ăn mày là để đối phó với loài chó, thành danh “đả cẩu bổng”.
Trong Cái bang, bang chủ và các trưởng lão, chức sắc không phải đi xin ăn. Gậy của họ chẳng đánh chó mà đánh người, bảo vệ quyền lợi của đệ tử, nên làm bằng thép. Riêng cây “đả cẩu bổng” của Thạch bang chủ thì được trạm trổ rất công phu và có đầu nhọn hoắt.
Trước khi gia nhập Cái bang, ở tuổi ba mươi, Thạch Kính Tường là một kiếm thủ. Và ông đem những đặc tính ưu việt của kiếm pháp bổ sung cho pho “đả cẩu bổng pháp”. Nhờ vậy, tổ học thêm phần lợi hại, củng cố địa vị Cái bang trên chốn giang hồ.
Trừ “Địa Đường đao pháp”, hầu hết võ công Trung Nguyên đều nhắm vào thượng hàng là chủ yếu. Nhưng vì chó thấp hơn người nên “đả cẩu bổng pháp” có rất nhiều đòn tấn công hạ bàn, từ rốn trở xuống, lối đánh này rất khó chịu.
Do đó, dù bản lĩnh cao cường hơn mà Quân Sơn Chân Nhân không thể kết liễu được Thạch bang chủ. Nếu lão giết được họ Thạch thì hạ thể cũng khó vẹn toàn trước những thức đâm hiểm ác, quái dị. Hơn nữa, kế hoạch của phe lão là bắt sống hội đồng võ lâm chứ không sát hại. Quân Sơn Chân Nhân kiên nhẫn chờ đợi Thất Bổng Cái sơ suất vì kiệt sức, vì mất máu, lão vẫn vẹn toàn trong khi Thạch bang chủ đã trúng ba vết thương nhẹ.
Tuy là sư đệ của Bắc Thiên Tôn song Đường Mai Giãn lại sở trường kiếm thuật chứ không phải kích pháp. Lão hơi nhỏ con nên không thích hợp với loại vũ khí dài và nặng ấy.
Niên kỷ gần tám mươi, Chân Nhân có nhiều chục năm tu vị. Đường gươm của lão trầm ổn, nhanh nhẹn và kín đáo phi thường, cho nên y phục vẫn khô ráo dù tuyết rơi như mưa.
Nhưng tình trạng ung dung thư thái không còn nữa khi gã rậm rậu Hàn Thiếu Lăng xuất hiện. Họ Hàn chẳng nói chẳng rằng vung kiếm hợp lực cùng Thất Bổng Cái. Đã nghe danh Cầu Nhiệm Đại Hiệp, kẻ từng đả thương Minh chủ Âu Dương Mẫn, Đường Mai Giãn đành thoái hậu, tránh cảnh bị giáp công.
Thất Bổng Cái không đuổi theo nhưng Hàn Thiếu Lăng tiếp tục bước tới, quyết không tha cho kẻ địch. Họ Hà, tức Tử Khuê nóng lòng báo phục cho sư thúc nên đã xuất chiêu “Hồng Thủy Thao Thiên” trong “Oán Thiên kiếm pháp”
Hàng ngàn thức kiếm thần tốc tạo thành những đợt sóng dữ, cuồn cuộn xô về phía đối phương, kiếm kình quyện lấy ngàn vạn hoa tuyết nên kiếm ảnh có màu trắng lạnh lùng, tang tóc. Khí thế của chiêu kiếm oai mãnh chẳng khác gì trận Đại Hồng Thủy đang tràn dậy, tràn ngập cả đất trời.
Tuy nhiên, Quân Sơn Chân Nhân công lực thông trầm, hơn gã tuổi trẻ vài bậc nên không hề sợ hãi, dùng chiêu thức “Động Đình thu vũ” mà đối phó. Tuyệt chiêu này ảo diệu vô song, công thủ vẹn toàn, kết tinh của mấy chục năm nghiên cứu, rèn luyện.
Quả nhiên, Đường Mai Giãn chống đỡ, hóa giải được gần hết đòn công của đối thủ. Và sau hơn trăm tiếng thép tinh tang, lão còn phát hiện sơ hở chết người, mừng rỡ thọc một kiếm nhanh như chớp vào ngực trái Thiếu Lăng.
Đòn này tuyệt đối không né tránh được, trừ phi nạn nhân đã biết trước. Khổ thay, bản chất của “Oán Thiên kiếm pháp” là như thế. Nó xảo trá và hiểm độc chẳng khác gì lão trời già. Lão ban cho con người hạnh phúc rồi đột nhiên lấy đi hết tất cả.
Năm xưa, Trương Mỹ Thành võ công xuất chúng, tài sản cự vạn, suốt đời làm việc thiện, được giới giang hồ tưng xung là Tứ Xuyên Kiếm Phật, thanh danh lẫy lừng thiên hạ. Nhưng hỡi ôi, đến tuổi lục tuần thì vị đại thiện nhân mất sạch phụ mẫu, huynh đệ, thê nhi, cháu chắt, tổng cộng mười tám người vì bệnh đậu mùa.
Trương lão sống sót mà như đã chết. Ông đau lòng phát điên lên được và vô cùng căm hận trời xanh. Ông bỏ nhà lên ngọn núi cao nhất của Vũ Lăng Sơn mà ẩn cư. Ngày ngày ngửa mặt chửi rủa Hoàng Thiên và sáng tạo pho “Oán Thiên kiếm pháp”
Giờ đây, Đường Mai Giãn trở thành nạn nhân kế tiếp của lòng thù hận ấy. Lão tưởng mình đã có được cơ hội ngàn vàng, nào ngờ chỉ là bẫy rập. Hàn Thiếu Lăng khẽ lách ra mé phải để tránh đòn và lặng lẽ đâm vào huyệt Cự Khuyết trên bụng kẻ địch. Cự Khuyết thuộc Mạch Nhâm, thẳng trên rốn bảy thốn, là huyệt mộ của tâm, nên khi bị tổn thương nạn nhân khó tránh tử vong.
Nhưng sự đời biến ảo vô thường, tựa phong vân bất trắc, mũi kiếm của Tử Khuê đã chạm phải một vật gì đó rất cứng rắn, lệch sang bên trái, đâm thủng người đối phương, nên vết thương không sâu đến nội tạng vì chạm phải xương sườn.
Cảm giác đau đớn bởi gãy xương vô cùng khó chịu nên Quân Sơn Chân Nhân chẳng còn chút dũng khí nào nữa, tung mình chuồn thẳng. Lão vừa chạy vừa thầm cảm ơn cái mãnh kính chiếu yêu bằng đồng xanh đang nằm trước ngực. Không thì mạng lão đã ra ma.
Chưa năm nào lại có nhiều tuyết đầu mùa như năm nay. Mọi năm tuyết đầu Đông rơi nhè nhẹ, điểm lác đác trên cây cỏ, là cảnh đẹp mà tao nhân mặc khách ưa thích. Nhưng hôm nay cứ như một trận bão tuyết tháng chạp đi ngang rặng Tung Sơn này vậy. Quân Sơn Chân Nhân lao đi giữa làn mưa tuyết mịt mùng, hy vọng gã chết tiệt họ Lăng sẽ lạc dấu. Nhưng Tử Khuê sở hữu tuyệt học “Thao Quang thân pháp”, lại đang tuổi thanh xuân, cơ bắp cuồn cuộn, chạy nhanh như vó ngựa. Chàng đã bắt kịp Đường Mai Giãn khi lão vượt được nữa con đường xuyên vực.
Gió bấc ào ào thổi, che giấu tiếng chân người, tiếng y phục lất phất nên Đường Mai Giãn không phát hiện kẻ thù cách mình chỉ hai trượng. Và Tử Khuê chẳng bỏ lỡ cơ hội tốt, thi triển tuyệt kỹ “long tu xạ nguyệt”.
Thanh trường kiếm rời tay chàng, bay đi với tốc độ của mũi tên rời dây cung. Thủ pháp này tương tự pháp phóng ám khí nhưng cao siêu, phức tạp hơn nhiều. Lý do là vì trường kiếm nặng nề, và phải bay theo đường thẳng băng tựa đường tên chứ kô lộn nhiều vòng như tiễn kiếm, tiểu đao. Nếu không tiếng động nó tạo ra sẽ rất lớn, mất yếu tố bất ngờ, ám muội.
Thực ra, tuyệt kỹ này ít hiệu quả khi song phương đối diện. Trường kiếm quá cồng kềnh, chẳng phải thứ dùng làm ám khí. Và nếu đánh lén sau lưng thì cũng không bằng tiểu đao. Như Vu Mộc Chân Nhân vẫn bắt Tử Khuê phải luyện thủ pháp “long tu xạ nguyệt”. Vì nó chính là bậc thượng thừa của mọi phép phóng ám khí trên đời.
Tử Khuê đã quyết định đúng đắn khi phóng kiếm, gió rít vù vù đã làm mờ thính lực của đối phương và mũi kiếm xuyên thủng lưng Đường lão quỷ.
Tuy chân khí bế tắc, tứ chi bủn rủn vì đòn trí mạng, song do đà phóng tới mà Quân Sơn Chân Nhân vẫn lảo đảo thêm một ít bước mới gục xuống. Đường rất hẹp nên suýt nữa xác lão rơi xuống vực, nếu không vướng vào những đoạn cành cây cắm dính trên đường. Lão nằm ngửa, vắt vẻo, chênh vênh, mắt trợn trừng bất động.
Tử Khuê sợ mất bảo vật của sư môn, vội bước đến giữ chân và thò tay vào ngực áo lão mò tìm mảnh kính chiếu yêu “Bát Quái Đồng Kính”
Chàng vẫn chỉ là gã trai non nớt, thiếu kinh nghiệm giang hồ, nên đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Đối với một cao thủ có mấy chục năm tu vị thì chỉ chết ngay khi vỡ tim hay đầu lìa khỏi cổ. Nay Quân Sơn Chân Nhân bị trường kiếm đâm xuyên qua phổi nhưng tim vẫn nguyên vẹn. Tuy sắp chết nhưng trong phút hồi dương lão vẫn huy động chút sức lực tàn vỗ vào ngực Tử Khuê, đẩy chàng văng ngược về sau, rơi xuống phần vực thẳm bên kia đường. Lực phản chấn cũng làm trốc gốc mấy đoạn cành cây mà xác Quân Sơn Chân Nhân đang nương tựa, nên lão cũng cùng số phận với Tử Khuê. Bão tuyết đã che mờ cảnh vật, chẳng ai chứng kiến cảnh “đồng ư quy tận” này.
Đường lão quỷ chết là cái chắc vì vết kiếm thương nghiêm trọng, dù có rơi xuống vực hay không. Nhưng Tử Khuê thì còn đầy đủ chân khí và hoàn toàn tỉnh táo. Do bản năng sinh tồn, Tử Khuê cào cấu lớp đất đá để làm giảm đà rơi. May thay, hai bàn tay chàng mang “Ngư giáp miệt” bền chắc phi thường, nên các ngón tay có thể cắm sâu vào đất và không bị tróc thịt., gãy xương. Hai là, con đường xuyên vực Độc Nha sơn chẳng phải là một bức tường dựng đứng mà là một phay đất dạng lưỡi dao, trên mỏng dưới dày, có độ dốc. Nếu chân đế không rộng thì con đường đã sụp đổ từ lâu rồi.
Đà rơi quá mạnh nên Tử Khuê không sao trụ lại được. Bàn tay chàng chỉ làm cho sỏi đá, bùn đất bị bóc ra từng mãnh và thân hình chàng lại tiếp tục lăn lông lốc. Tuy nhiên, những nỗ lực ấy cũng sẽ giúp chàng toàn mạng, thoát cảnh thịt nát xương tan.
Song Tử Khuê lại sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu, luôn gặp xui xẻo. Lúc xuống đến chân dốc, đầu va mạnh vào một tảng đá lớn và chàng lập tức hôn mê.
Mãi trưa hôm sau Tử Khuê mới hồi tỉnh. Tuyết vẫn lất phất rơi xuống vực, phủ đầy trên cơ thể chàng. Nằm bất động trong tuyết quá lâu, cơ thể Tử Khuê hầu như đông cứng lại. Chàng cố vận khí và cử động tứ chi song chỉ hoài công, cái lạnh thấu xương đã xăm chiếm hoàn toàn làm kinh mạch bế tắc, máu huyết sắp ngừng chảy.
Biết mình khó thoát chết, Tử Khuê vô cùng sợ hãi, buồn rầu. Nghĩ đến người thân, chàng đau lòng bật khóc.
Chết từ từ là cái chết đáng sợ nhất. Người ta có quá nhiều thời gian để khiếp sợ và tiếc nuối quá khứ. “Vạn cổ tử vi nan” dẫu là bậc anh hùng cái thể cũng chỉ có thể gượng cười chứ lòng thì buồn vô hạn. Họa chăng là những bậc thiền sư giác ngộ, những chân nhân đắc đạo, tin vào thế giới bên kia, lằn ranh sống chết.
Nhưng Tử Khuê không phải là kẻ tu hành, chàng còn rất trẻ nên khát sống vá yêu, biết mất cuộc sống trần tục này, nơi có những người chàng dấu ái. Hình ảnh của họ hiện ra với bao triều mến khiến Tử Khuê đau đớn khôn xiết. Chàng cố mấp máy đôi môi băng giá gọi tên từng người yêu dấu. Và người cuối cùng chàng nhớ đến là vị nghĩa ca họ Lỗ, một hồn ma bóng quế.
Song chính Lỗ phán quan lại làm bừng lên hy vọng sống sót trong lòng Tử Khuê. Chỉ mình lão có đủ khả năng giúp đỡ chàng trong cảnh tuyệt vọng này. Tử Khuê phấn khởi, tập trung tàn lực, thều thào thành tiếng:
- Lỗ đại ca … Lỗ đại ca …
Chàng gọi mãi những tiếng kêu cứu rời rạc, thê lương ấy và chết liệm dần. Khi đã đặt một chân qua ngưỡng cửa “Quỷ Môn Quan”, Tử Khuê mơ màng nghe tiếng ai đó than thở.
Hồi 12 : Hầu phủ hữu cuồng nhân
Ác giả phùng ac báo
Mùa Đông năm ấy khắc nghiệt hơn bao giờ hết. Tuyết phủ trắng vạn vật và cái lạnh cắt da đã giết chết không ít kẻ cơ hàn. Tuy nhiên tình hình võ lâm lại nóng bóng như dầu sôi, chiến tranh giữa hai phe chính tà có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Sau trận Độc Nha sơn, sáu phái Bạch đạo đã hiểu rõ dã tâm của Nam – Bắc Thiên Tôn và Âu Dương Mẫn nên không còn thụ động nữa. Họ âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày giáng ma.
Nhưng hiện tại đối phương chưa có động tĩnh gì, có lẽ đang củng cố lực lượng. Rừng không hai cọp, Song Tôn và Âu Dương Mẫn đều muốn tiêu diệt nhau.
Sang Xuân, hội đồng võ lâm đã thắng một nước cờ khi giáo chủ Thiên Sư Giáo Huyền Thiên Chân Nhân Trương Sách dùng uy tính của mình làm cho Minh Đế nghi ngờ Bắc Thiên Tôn. Thế là từ nay triều đình đứng ngoài cuộc phong ba, chẳng hậu thuẫn cho bất cứ ai nữa.
Song Tôn không hề nản chí, nhập hai bang Chiết Mai, Bích Huyết thành Nam Bắc bang, hùng cứ núi Linh Sơn, trọng địa của Chiết Mai bang. Linh Sơn thuộc huyện Dương Bình, nằm ờ cực Tây Hà Nam, gần ranh giới Thiểm Tây và cũng không xa Sơn Tây. Quả là một vị trí vô cùng thuận lợi.
Nam Bắc bang có hai đồng bang là nhị vị Thiên Tôn. Dương Tố Vy, Lã Bất Thành giữ chức hộ bang Tả Hữu Sứ. Ngoài ra, Song Tôn còn mời thêm vài đại cao thủ đến làm Khách Khanh Hộ Pháp.
Phần Âu Dương Mẫn thì được sự đỡ đầu của Xoa Lạp Cốc nên không thiếu nhân thủ và lại toàn là những tay thiện chiến, giỏi nghề kiếm thuẫn.
Đại khái, cục diện võ lâm hiện là như thế. Song điều mà giới giang hồ quan tâm nhất lại là cuộc so tài giữa Cầu Nhiêm Đại Hiệp Hàn Thiếu Lăng với Thiếu chủ Xoa Lạp Cốc Nhạc Cuồng Loạn vào sáng ngày rằm tháng hai tới.
Sau khi giải cứu hội đồng võ lâm và mấy trăm cao thủ võ lâm thoát khỏi Độc Nha sơn, trước sự hiện diện của nửa vạn hào kiệt tứ hải, thanh danh Hàn Thiếu Lăng rực rỡ như mặt trời chính ngọ. Nhờ chàng ta phá ải, đưa viện binh vào mà bọn tà ma phải tháo chạy.
Nhưng đến đầu tháng giêng, khi tuyết đã tan hết, một cuộc thăm dò quanh vực thẳm Độc Nha sơn được Thiếu Lâm và Cái bang được tiến hành một cách âm thầm. Tuy thế, tin tức về việc ấy cũng bị rò rỉ ra ngoài, khiến võ lâm bàng hoàng, thương xót. Té ra, Cầu Nhiệm Đại Hiệp đã thất tung khi đuổi theo Quân Sơn Chân Nhân Đường Mai Giãn. Trước đó hội đồng võ lâm đã cho núi Quân Sơn trong Động Đình hồ thì không có Đường lão. Họ phỏng đoán rằng hai người ấy có thể đã giao đấu trên con đường xuyên vực và cùng rơi xuống đấy.
Nhưng lạ thay, dưới vực chỉ có thi thể của Đường Mai Giãn và Trịnh Bá Nghiêm, bang chủ Bích Huyết bang. Vậy là vẫn còn hy vọng, mấy chục vạn đệ tử Cái bang ở địa phương lập tức nhận được lệnh truy tìm tung tích của vị Cầu Nhiệm Đại Hiệp.
Song sau đó, vào đầu tháng hai, phái Thiếu Lâm vẫn tiến hành xây dựng lôi đài dưới chân núi, chuẩn bị cho cuộc phó ước của Hàn Thiếu Lăng và Nhạc Cuồng Loạn. Nếu họ Hàn còn sống tất đến phó hội. Bằng như chàng không xuất hiện tức là đã chết và tang lễ sẽ được cử hành long trọng nhất lịch sử võ lâm.
Tại sao hội đồng võ lâm lại vội vã như thế mà không chờ thêm một thời gian nữa? Lý do chính vì nghĩa phụ của chàng, Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh đã bùi ngùi khẳng định rằng tướng tinh của Tử Khuê đã tắt. Ông là bậc kỳ nhân cái thế tinh thông thiên văn địa lý và bói toán, chẳng thể sai được. Không chỉ riêng mình Trần lão mà bất cứ ai biết một chút về môn Chiêm Tinh thì cũng có thể nhận ra sao Khuê đã mờ trên bầu trời đêm.
Cũng có những người không tin vào lời Trung Thiên Tôn, đó là đám nữ nhân thân quyến của Quách Tử Khuê. Đàn bà vốn ngoan cố và khó dạy. Họ cho rằng Tử Khuê là bằng hữu với Lỗ phán quan, một chức sắc cao cấp chốn âm ty, thì không thể chết non được.
Sau khi nghe Thiết Đảm Hồng Nhan kể về sự xuất hiện bất ngờ, éo le của ả Trác Thanh Chân khỉ gió nào đó, Kỹ nương cùng hai con dâu cũng đoán rằng đã tìm ả nọ để lấy lại "Diêm vương Quỷ kỳ". Ả ta không đến Quách gia trang như đã hẹn.
Quách gia trang lập đàn cúng tế, mời gọi Lỗ phán quan hiển linh để họ hỏi han tin tức của Tử Khuê. Song chẳng hiểu sao cái lão chết tiệt ấy chẳng hề xuất hiện. Các bà liền ngấm ngầm nguyền rủa thóa mạ Lỗ Trực, kẻ đã xúi giục Tử Khuê đi Lạc Dương để rồi mất tích. Tuy nhiên, chẳng ai dám chửi thành tiếng.
Giờ đây chúng ta quay lại với chàng trai đen đủi Quách Tử Khuê, xem diễn biến thế nào? Đàn bà bao giờ cũng hữu lý, khi một kẻ có ô dù là quan to chốn âm ty thì chẳng thể chết non được. Trần gian như thế tất địa phủ cũng chẳng khác.
Nhưng nếu như thoát chết một cách dễ dàng, đơn giản thì Tử Khuê nào phải kẻ mang phần số đen đủi, hắc ám. Bởi vậy, khi tỉnh lại, chàng ta phát hiện mình đang bị giam cầm ở trong một nhà lao kỳ quái.
Tử Khuê nằm ngửa trên sàn đá lạnh, ngơ ngác nhìn quanh, tưởng đã đến ngục A Tỳ, chờ Diêm Vương phán xử những việc mình làm trên trần thế.
Nhưng ánh dương quang nhàn nhạt và vài bông tuyết nhỏ đang len lỏi qua những ô cửa trên đầu tường thạch thất đã khiến chàng ngờ ngợ ra đây chẳng phải là cõi âm.
Tử Khuê ngồi bật dậy, đưa tay lên ngực trái, lòng vui mừng khôn xiết khi nghe trái tim vẫn còn thổn thức những nhịp đập đều đặn. Đồng thời chàng cũng ngộ thức được mình hoàn toàn lõa thể, thân không mãnh vải.
Song điều ấy chẳng có nghĩa lý gì trước niềm hạnh phúc của kẻ vừa trở về từ “Quỷ Môn Quan”. Tử Khuê hân hoan xếp bằng vận khí điều tức. Gương mặt chàng mất dần vẻ rạng rỡ vì chân khí đã hoàn toàn thất tán, kinh mạch bế tắc nhiều chỗ.
Sau vài khắc hoài công, Tử Khuê thở dài chấp nhận hoàn cảnh. Chàng tự nhủ rằng chỉ cần sống sót về nhà là có cách chữa trị. Quyển “Huyền Hư Y Cảo” của sư thúc chàng, có đủ những dược phương thần diệu để phục hồi chân nguyên cho kẻ vừa bị trọng thương.
Sau đó, Tử Khuê bình tâm quan sát cái nhà tù kỳ dị này và tự hỏi ai đã đưa mình đến đây? Nếu là Lỗ phán quan thì sao không đưa chàng về thẳng nơi dưỡng thương gần nhất là Thiếu Lâm Tự. Vậy phải chăng người xuống vực thẳm cứu chàng thuộc phe địch? Phe nhà sẽ không để bệnh nhân trần truồng trong một tòa nhà bằng đá lạnh tanh như thế này.
Dòng suy tưởng mênh mang đã bị cắt đứt khi ánh mắt Tử Khuê thâu tóm toàn bộ cảnh vật. Chàng đã ngờ ngợ ra lối kiến trúc kỳ lạ này.
Năm xưa, ân sư chàng, Vu Mộc Chân Nhân đã từng nói về những nỗ lực của nền y học Trung Hoa trong việc điều trị bệnh điên.
Bệnh điên tức thị bệnh phong, đứng đầu trong nan y tứ chứng: phong, lao, cỗ, lại. Người đời sau dễ gây nhầm lẫn khi dùng chữ “phong” để chỉ bệnh cùi hũi. Thật ra, “lại” mới chính là tên chính xác của bệnh cùi.
Trong từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh tiên sinh không hề có chữ “phong” nào mang ý nghĩa chỉ thị là bệnh cùi cả.Và ở mục chữ “lại”, tiên sinh giải thích rõ từ này chỉ bệnh phong cùi, bệnh hủi. Vì vậy, phải chăng người Giao Châu đã đọc trái chữ “phung” thành “phong” và chữ này hoàn toàn thuần Việt?
Chúng ta hãy trở lại căn thạch thất hình bát giác đang giam hãm Quách Tử Khuê. Nó rất giống với những lời mô tả của Vu Mộc Chân Nhân về một căn phòng trị bệnh điên.Trước mỗi vách của tòa nhà tám cạnh này đều có những tảng đá hình khối chữ nhật chôn dựng đứng. Dựa vào màu sắc, Tử Khuê có thể nhận ra chúng là đá nam châm.
Hấp lực với sắt thép của từ thạch là điều thần bí, kỳ diệu mà người Trung Hoa cổ tôn sùng. Ngoài việc dùng từ thạch để chế tạo ra kim chỉ Nam, họ còn hy vọng đặc tính kỳ lạ của đá nam châm sẽ chữa trị được bệnh điên cuồng.
Các thầy lang đã thiết lập những căn phòng có vách chất đầy những thanh từ thạch và nhốt bệnh nhân vào trong ấy. Họ mong rằng những hấp lực của đá nam châm sẽ điều chỉnh những lệch lạc trong cơ thể kẻ điên. Và là cháu chắt của Phục Hy, Văn Vương các thầy thuốc Trung Hoa đã phối hợp với nguyên lý Bát Quái. Cho nên các phòng các từ thạch đều mang hình bát giác tám cạnh.
Có thể phương pháp trị bệnh điên độc đáo ấy đã du nhập vào Trung Hoa từ Ba Tư theo con đường tơ lụa. Người ta nói người Ba Tư và người Địa Trung Hải cũng sử dụng cách điều trị này từ thời rất xa xưa.
Để khẳng định điều mình phỏng đoán, Tử Khuê đến xem xét một tảng đá ở gần nhất. Chàng mỉm cười méo mó khi tìm thấy một chiếc đinh rỉ sét đang bám chặt trên đấy.
Tử Khuê chán nản lẩm bẩm:
- Mình có điên đâu mà họ nhốt vào đây cơ chứ?
Chàng thẫn thờ nhìn lên nóc tòa thạch thất, nhận ra mái nhà làm bằng lớp lá dầy cộm, gắn chặt với tám thanh vì kèo vững chắc.
Trên mỗi bức tường, cách mặt đất chừng độ hai trượng, người ta trổ những hàng ô thông sáng vuông vức, cạnh chỉ độ gang tay. Nghĩa là Tử Khuê có phục hồi đầy đủ sức lực, nhảy lên tới chỗ ấy thì cũng vô phương thoát được.
Tử Khuê thở dài, lững thững dạo quanh căn phòng có đường kính ba trượng nọ. Chàng vui mừng vì lần lượt phát hiện ra những tiện nghi tối thiểu.
Ở một cạnh hơi tối tăm bởi không nhằm hướng nắng tỏa đến, Tử Khuê tìm thấy một bể nước nhỏ và một hồ xí. Bể nước thông với bên ngoài bằng một lỗ hẹp nhỏ ở đấy, tất nhiên chàng không thể chui lọt. Hồ xí thì khỏi bàn tới. Cảm thấy khát, Tử Khuê cầm chiếc gáo gỗ trên thành bể múc nước mà uống vài ngụm. Nước lạnh đến ê răng vì đang là mùa Đông và có tuyết rơi.
Đi thêm vài bước, Tử Khuê phát hiện những mãnh vải rách nằm lây lất, có lẽ chúng là của cái gã bệnh nhân gã ở đây trước chàng?
Tử Khuê trố mắt kinh ngạc khi nhìn thấy quyển “Lôi Đình bí phổ” đang nằm trong mớ giẻ rách kia. Chàng hoan hỉ nhặt lên, thắc mắc hỏi vì sao kẻ thù không tịch thu bảo vật liên thành này? Chợt nhớ đến “Tỵ Lôi Thần Châu”, chàng liền xem xét bắp đùi mình thì thấy nó vẫn còn. Đang lúc tâm tư rối tự to vò, Tử Khuê chợt nghe tiếng người gọi văng vẳng:
- Nhị công tử! Tiểu tỳ đã mang cơm chiều đến.
Chàng ngỡ ngàng tiến về phía ấy, nhận ra rằng phía sau tảng từ thạch tối tăm nhất có cửa thông ra ngoài. Nếu giờ là buổi hoàng hôn thì hướng này thuộc hướng nam.
Các tảng từ thạch đều cao hơn đầu người, dầy độ hai gang và rộng gần sải tay. Chúng được chôn trước các bức vách đá và không sát, cách ba bước chân. Do khung cửa nhỏ hơn một chút, lại ở nơi thiếu ánh sáng nên nếu không đến gần, Tử Khuê sẽ khó nhận ra.
Lúc này, chàng thấp thỏm bước qua khung cửa, đi hết đoạn đường hầm chật hẹp dài độ gần mười trượng, gặp một cánh cửa gỗ dày, đai thép cực kỳ rắn chắc. Cửa vẫn đóng kín mít và mâm cơm được đưa qua một khe chữ nhật trổ trên phần dưới cánh. Tử Khuê còn nghe được tiếng dặn dò vọng lại, trong lúc ả tiểu tỳ quay gót:
- Nếu công tử không chịu uống thuốc giống như hôm qua, thì đừng mong thoát khỏi cảnh giam cầm.
Tử Khuê nhìn mâm cơm, thấy có một bát sứ Giang Tây rất đẹp, miệng hình lục giác. Mùi thơm và hơi nước nóng hổi phát ra từ khe nắp đậy. Chàng ngồi xuống, tò mò mở nắp bát thuốc và nếm thử.
Sau khi tiếp nhận quyển “Huyền Hư Y Cảo” của Cửu Hoa Chân Nhân, mẫu thân chàng trở nên say mê nghề thuốc. Bà đã lập ra cả một dược phòng trong trang với đầy đủ dược vị. Tử Khuê thường giúp mẹ trong việc bào chế nên thông thuộc nhiều loại thảo dược.
Giờ đây, chàng không khó khăn nhận ra mùi của những loại thuốc quý như: Sâm, hà thủ ô, tam thất, đỗ trọng, bá kinh thiên … Chúng rất tốt cho việc khôi phục nguyên khí, nên Tử Khuê khoan khoái uống cạn ngay.
Bỗng chàng sững sờ vì một ý niệm hãi hùng. Đó là việc ngày hôm qua vẫn còn một gã nhị công tử điên khùng chết tiệt nào đó đã hiện diện chốn này. Và chàng sẽ phải trả lời thế nào với gia chủ về việc gã ta thì biến mất, còn mình thì có mặt?
Lúc uống nước, Tử Khuê đã soi mặt vào gáo gỗ, biết rằng khuôn mặt mình không hề thay đổi. Nghĩa là chẳng có việc Lỗ phán quan đưa hồn chàng nhập vào xác khác. Càng nghĩ càng bế tắc. Tử Khuê thở dài phó mặc, bưng cơm vào trong và chén sạch sẽ, chàng đang đói đến rã ruột.
Đêm xuống, ngoài trời gió Đông rít vù vù, tuyết lọt qua những hàng lỗ thôn hơi phía bắc. Nhưng lạ thay, Tử Khuê lại thấy ấm hơn lúc chiều, có lẽ nhờ bát thuốc quý kia. Chàng thao thức mãi không ngủ được vì hoang mang và thương nhớ người thân. Bỗng Tử Khuê nghe ở hướng nam có tiếng người trò chuyện nho nhỏ. Dường như gã gác cửa đang tâm sự với tình nhân, là ả nữ tỳ mang cơm đến lúc chiều.
Tử Khuê muốn biết thêm thông tin về hoàn cảnh hiện tại của mình, nên nhẹ nhàng lần đến đấy, ngồi nghe ngóng. Quả nhiên, câu chuyện của đôi tình nhân nọ có đề cập đến chàng, tức gã nhị công tử điên loạn.
Sau vài đêm, Tử Khuê đã loáng thoáng biết được nạn nhân đã phát điên năm mười hai tuổi, được đưa vào Từ thạch đã tám năm.Và may sao, sau nhiều năm dài hoài công chờ đợi, cách đây ít ngày, nhị công tử không còn múa may, đập phá hay chửi rủa, la hét nữa. Gã bắt đầu ăn uống đều đặn và còn thò tay cho phụ thân mình chẩn mạch.
Tiêu trang chủ cũng là thầy thuốc của con mình. Ông nhận ra quý tử Tiêu Mẫn Hiên sắp khỏi bệnh. Nhưng ông không dám thả gã ra ngay vì Mẫn Hiên có thể bất ngờ chạy trốn. Gã khùng ấy thông minh tuyệt thế, căn cơ võ học thuộc hàng thượng phẩm. Năm mười hai tuổi, gã học hết nghề của cha và chạy nhanh như sóc. Kiếm quyền có thể quên nhưng khinh công thì không. Hơn nữa, trong suốt mấy năm qua, Tiêu trang chủ đã bồi bổ cho con trai bằng trăm thứ thuốc quý nên sức lực Mẫn Hiên rất dồi dào. Thỉnh thoảng trang chủ cho y nhịn đói vài bữa rồi mới đưa cơm canh tới cho thuốc vào thế là y nuốt sạch.
Trong đợt cuối năm này, Tiêu trang chủ đã sử dụng đến thảo dược ngàn năm và những vị thanh tâm, chia ra uống trong vòng một tháng. Đến rằm tháng mười một tới, nếu bệnh của Mẫn Hiên khả quan hơn thì được mang ra ngoài điều trị tiếp.
Những thông tin nọ đã giúp Tử Khuê bình tâm. Sau tám năm không gặp mặt, chắc hẳn họ Tiêu chẳng thể nhận ra sự khác biệt giữa chàng và Mẫn Hiên. Vả lại, trong Từ Thạch ốc nào có ai khác ngoài chàng! Họ bắt buộc phải tin chàng là con trai họ. Sau khi được tự do, Tử Khuê sẽ tìm cách trốn về Hứa Xương.
Để đề phòng bất trắc, Tử Khuê đã học thuộc lòng “Lôi Đình bí phổ” rồi xé vụng, mỗi ngày một ít, thả vào hồ xí.
Những chén thuốc quý của Tiêu gia trang đã giúp Tử Khuê dần dần tụ tập được chân khí, đả thông vài kinh mạch bị bế tắc. Vì rảnh rỗi và cũng vì cuộc phó ước với Nhạc Cuồng Loạn vào ngày rằm tháng hai sắp tới, Tử Khuê đã tham luyện võ công của Lôi Đình Thần Cung. Chẳng cần tinh thông, chàng chỉ cần nắm vững từng chiêu thức để dễ dàng đối phó. Vu Mộc Chân Nhân là tôn sư trong nghề phá giải võ học người khác, nên Tử Khuê không hề gặp khó khăn khi tìm cách khắc chế võ học Lôi Đình.
Lạ thay, phần khinh công trong bí phổ lại có đến hai pho gồm “Lôi Đình thân pháp” và “Tiên nữ tùy phong”.TK theo khẩu quyết của pho thứ hai mà luyện thử thì phát hiện nó cực kỳ thần diệu và cũng chính là tuyệt kỹ mà Trác Thanh Chân đã thi thố.
Chàng phỏng đoán đấy là sở học Hoành Sơn Tiên Nữ, vợ bé Lôi Đình Thần Đế Quân. Hoành Sơn là một ngọn núi nhỏ vùng Tây Bắc Thiểm Tây, gần ranh giới Nội Mông.
Tử Khuê ngẩn người tự hỏi:
- Phải chăng Trác Thanh Chân chính là di nữ của Lôi Đình Đế Quân và Hoành Sơn Tiên Nữ nên mới sở hữu thủ lục võ công của cả hai? Một cung nữ bình thường thì làm sao có được quyển bí kíp trị giá liên thành này?
Khi hồi tưởng lại câu nói của ả họ Trác, chàng càng tin chắc vào giả thiết của mình. Thanh Chân vốn ở Hoành Sơn với mẹ, chỉ đến Thần Cung để trộm “Hắc ngọc tiên đào”. Nàng không cư trú tại đấy nên Nhạc Cuồng Loạn không biết mặt.
Khi người ta chết đi sống lại thì luôn tỏ ra bao dung, rộng lượng hơn trước. Do vậy, Tử Khuê chẳng hề trách Thanh Chân đã lừa dối mình. Chàng còn cảm thấy nhớ nhung người vợ bất đắc dĩ, một nàng tiên bé bỏng, ngây thơ.
Gần giữa tháng mười một, Tử Khuê đã khôi phục được năm phần nội lực và thông hiểu “Lôi Đình bí phổ”. Chàng cũng luyện thành pho “ Tiên nữ tùy phong”, khinh công tăng tiến vượt bậc. Tuy nhiên, khi thi triển nó, chàng không giống ai, dáng bộ ẻo lả như là Thanh Chân.
Chiều mười bốn, Tử Khuê đoán rằng đã đến lúc nhận thuốc nên ra của nam chờ sẵn. Lát sau, chàng nghe có tiếng chân quen thuộc của ả tỳ nữ Tiểu Sương. Khi ả còn cách cửa gỗ chừng hơn trượng, thì Tử Khuê phát hiện thêm tiếng chân nhẹ nhàng cùa người thứ hai và người này lên tiếng:
- Tiểu Sương! Hôm nay nhà bếp cho nhị đệ ta ăn những món gì vậy?
Tiểu Sương đình bộ quay lại, vui vẻ nói:
- Bẩm đại tiểu thư! Cũng chỉ là những món thường lệ. Có điều gần đây nhị công tử ăn nhiều quá, món nào cũng chẳng chê.
Sau gần một tháng lắng nghe, Tử Khuê đã khá thông thạo tình hình của Tiêu gia trang. Chàng biết rằng nàng đại tiểu thư kia tên là Tiêu Dị An, tuổi đã hai mươi bốn, tuy xinh xắn nhưng ế chồng vì tính tình lạnh lùng, khắc nghiệt. Dị An là con của đại phu nhân đã quá cố, còn Mẫn Hiên là con của người kế thất.
Thính giác của Tử Khuê cực kỳ linh mẫn, nghe được những âm thanh do Dị An gây ra khi mở lồng đậy cơm. Và ả ế chồng kia hít hà khen thơm rồi vui vẻ bảo:
- Trông ngon lành lắm. Ta rất hài lòng.
Tiêu Dị An quay gót bỏ đi, còn Tiểu Sương tiếp tục mang mâm cơm đến cửa Từ Thạch ốc. Khi ả chuẩn bị đưa mâm cơm đút qua khe, chợt lẩm bẩm mấy câu:
- Lạ thật! Sao đại tiểu thư đột nhiên quan tâm đến nhị thiếu gia thế nhỉ? Mẫn Hiên mà khỏi bệnh thì nàng ta mất quyền thừa kế chứ có lợi lộc gì?
Lúc đầu, Tử Khuê không hề bận tâm đến lời nói ấy. Song khi bưng chén thuốc lên uống, chàng nhận ra ngay có mùi lạ. Sau gần ba chục chén, Tử Khuê đã quá quen thuộc hương thơm của thuốc và chàng chợt nhớ đến thái độ lạ lùng của Tiêu Dị An qua nhận xét của Tử Sương.
Hồi tưởng lại hành vi của anh rể Nhậm Đức Tín, chàng ngần ngại không dám uống chén thuốc. Họ Nhâm có thể vì số tài sản thừa kế mà dám bán đứng chàng thì biết đâu Dị An cũng sẵn sàng đầu độc Mẫn Hiên để giành lấy cơ nghiệp?
Để kiểm chứng, Tử Khuê đưa mâm cơm vào trong đặt xuống sàn. Sau đó, chàng tìm bắt một con thằn lằn trên vách. Tám năm không quét dọn, nơi đây cực kỳ dơ bẩn và đầy bụi bậm. Trước khi phát điên, nhị công tử đã có hai mươi năm công lực dù tuổi mới mười hai. Tiêu trang chủ đã hết dạ tài bồi cho nhị công tử, dùng kỳ trân dị dược để biến Mẫn Hiên thành cao thủ. Có thể gã đã lâm bệnh vì sự ưu ái đó của cha già. Cho nên khi phát cuồng, gã thừa sức đập chết bất cứ ai vào quét dọn.
Khi tiếp quản cơ ngơi ô uế này, Tử Khuê cũng không dám cải thiện môi trường vì sợ lộ. Chàng chỉ phủi sạch chỗ mình nằm ngủ. Loài thằn lằn thì chẳng quản sạch dơ, vui vẻ sinh sôi nảy nở rất nhiều, bám đầy trên tường thạch ốc. Tử Khuê vươn mình thi triển phép “tụ khí thành ti”, búng rơi một con khá lớn. Tử Khuê vận công có chừng mực nó không chết, tính cựa quậy nhưng bị ngón tay của chàng khống chế không nhúc nhích.
Tử Khuê dùng miệng thổi một ít nước thuốc thổi vào miệng con vật đáng thương. Khi được thả ra, nó bò loạn xạ như điên cuồng, nhưng chỉ lát sau là bất động.
Tử Khuê xem xét lại, biết nó đã chết hẳn, liền buông tiếng thở dài, ngán ngẩm cho thói đời.
Nửa đêm, Tử Khuê chợt phát hiện tiếng động rất nhẹ ở hàng ô chữ thông gió trên vách hướng đông. Chàng liếc nhanh về hướng ấy và thấy thấp thoáng ánh mắt ai đó.
Biết Dị An quay lại thăm dò kết quả, Tử Khuê giả vờ ngáy đều. Dị An nghe được, thất vọng lẩm bẩm thành lời:
- Lạ thật! Chẳng lẽ Hà thủ ô ngàn năm đã phá giải được độc tính của “Cuồng Tâm Tán”?
Ả bực bội buông mình xuống đất, bỏ đi mất. Tử Khuê suy nghĩ miên man đến cục diện éo le ngày mai khi phải đóng vai Tiêu Mẫn Hiên.
Chàng đã tính chuyện bỏ chạy ngay khi vừa ra khỏi cửa Từ Thạch ốc. Nhưng hiện giờ công lực của chàng chỉ còn một nửa, và Kinh Túc Dương Minh Vị vẫn bị bế tắc ở huyệt Lương Khâu, phía trên đầu gối chân phải, không chạy nhanh được. Nghĩa là Tử Khuê phải ở lại thêm một thời gian, chờ hoàn toàn bình phục rồi mới ra đi.
Sáng hôm sau, Tử Khuê giật mình tỉnh giấc vì tiếng ai kêu réo:
- Mẫn nhi! Con mau ra cho phụ thân xem bệnh trạng trong người thế nào?
Tử Khuê choàng dậy và súc miệng rồi mới chạy ra, chàng hồi hộp đưa tay qua khe hở trên cánh cửa.
Tiêu trang chủ xem mạch rất lâu, cuối cùng nghiêm nghị nói với ai đó:
- Phu nhân! Lão phu đoán chắc rằng bệnh tình của Hiên nhi đã thuyên giảm được sáu bảy phần. Cứ uống thuốc thêm một tháng nữa là có thể đưa ra ngoài.
Thì ra trang chủ phu nhân cũng hiện diện. Nghe trượng phu nói xong, bà bật khóc trách móc:
- Sao tướng công bảo rằng hôm nay Hiên nhi sẽ được chấm dứt cảnh giam cầm đầy đọa, mẫu tử trùng phùng? Thiếp đã quá mỏi mòn vì chờ đợi, vì thương xót con thơ, chắc không sống nổi cho đến lúc con thơ bình phục.
Tiêu trang chủ rầu rĩ biện bạch:
- Tuy thể trạng rất tốt song không hiểu sao Hiên nhi cứ lặng thinh, khiến lão phu chẳng yên tâm. Nếu thả ra ngay bây giờ, lỡ nửa đêm nó phát cuồng chạy trốn thì ai mà đuổi kịp? Lão phu phát hiện trong người Hiên nhi có đến hơn ba chục năm công lực. Xiềng xích con thơ thì lão phu chẳng nỡ, bằng như điểm huyệt thì vô ích vì năm xưa Hiên nhi đã học phép “Đạo chân xung huyệt”, tự động hóa giải chỉ sau nửa khắc.
Trang chủ phu nhân tuyệt vọng, quỳ xuống, nắm chặt tay Tử Khuê, vuốt ve và khóc lóc:
- Hiên nhi ơi! Tám năm nay lòng mẫu thân đau đớn như ai cào ai xé, lúc nào cũng mong nhớ đến con thơ, mong có ngày con tỉnh trí. Sao Hiên nhi không thương xót mẹ hiền mà thoát khỏi cảnh u mê?
Rồi bà gục mặt vào hai bàn tay Tử Khuê mà khóc ngất. Giọng bà khá giống Kỹ nương và vô cùng tha thiết khiến lòng chàng xúc động. Bất giác, Tử Khuê bật miệng, bùi ngùi nói nhỏ:
- Xin mẫu thân đừng khóc nữa!
Nghe câu nói ấy, trang chủ phu nhân hoan hỉ phi thường, quay sang bảo chồng:
- Tướng công có nghe gì không? Hiên nhi đã nhận ra thiếp!
Tiêu trang chủ hân hoan tiếp lời:
- Lão phu cũng đã nghe rồi, để ta hỏi Hiên nhi vài câu cho rõ đã.
Ông nghiêm nghị hỏi:
- Hiên nhi! Con còn nhớ phụ mẫu danh tính là gì không?
Tử Khuê không biết vì bọn gia đinh, nô tỳ chỉ gọi là trang chủ và phu nhân chứ đâu dám gọi tên của họ. Tử Khuê bí quá đáp lại:
- Hài nhi nhờ tiếng khóc bi ai của mẫu thân mà hồi tỉnh lại, nhất thời chẳng thể nhớ ra danh tính của song thân.
Cây nói gãy gọn hợp đạo lý này của chàng đã quá đủ để người mẹ đáng thương kia tin rằng con mình đã khỏi bệnh. Bà mếu máo hỏi chồng:
- Tướng công còn chờ gì nữa mà không mở khóa cửa?
Tiêu trang chủ cẩn thận như vậy là vì sợ bất trắc sau này. Mẫn Hiên mà thoát ra, chạy loạn xa khắp nơi thì cà thiên hạ biết ông có người con điên loạn, tổn hại thanh danh cao quý của một dòng họ mà mấy đời tập Tước Hầu. Tám năm nay, Tiêu trang chủ luôn phải nói dối người ngoài rằng Mẫn Hiên được gởi đi học võ phương xa.
Dù lòng còn phấp phỏng nhưng ông vẫn phải chiều ý người vợ trẻ đẹp, hiền thục. Nhị phu nhân Từ Lan nhan sắc phi phàm và trẻ hơn chồng đến hai mươi tuổi. Bà còn ha sinh một nam tử là Mẫn Hiên khiến tông tự họ Tiêu không đứt đoạn. Do vậy, Tiêu trang chủ yêu thương bà tha thiết.
Biết cửa sắp được mở, Tử Khuê vội nói:
- Mẫu thân à, hài nhi cần một bộ y phục.
Từ nương bật cười:
- Mẫu thân có mang theo sẵn trong người nhưng vì quá vui mừng mà quên mất.
Nói xong, bà đút qua khe một bọc vải có tấm trường bảo gấm xanh, áo trong, đồ lót và đôi giày vải. Lạ thay, chúng khá vừa vặn dù Từ nương chưa bao giờ nhìn thấy vóc dáng Tử Khuê.
Khi cửa mở toang, Tử Khuê mới hiểu ra nguyên nhân. Thân hình chàng và Tiêu trang chủ có kích thước tương tự.
Chàng chưa kịp quan sát kỹ gương mặt của lão già quắc thước, râu ba chòm oai vệ kia thì bị một phu nhân áo đen ôm chầm lấy. Chàng thoáng nhận ra rằng Tiêu phu nhân khá giống mẹ mình.
Những ngày sau đó, Tử Khuê không hề gặp phải khó khăn gì. Ai cũng tin tưởng và vui mừng khi thấy nhị công tử đã bình phục, trở thành thanh niên tráng kiện, tuấn tú.
Chỉ mình đại tiểu thư Tiêu Dị An là gượng cười, buồn nhiều hơn vui. Nhưng nàng không còn cơ hội để ám hại đứa em cùng cha khác mẹ nữa. Lúc nào cũng có bốn người lẫn quẫn cùng nhị công tử, bất kể ngày đêm. Họ có trách nhiệm khống chế Mẫn Hiên khi gã có dấu hiệu phát cuồng trở lại.
Và Tử Khuê phát hiện ra rằng Tiêu gia trang đầy dẫy cao thủ. Từ vị tổng quản già nua đến gã gia đinh gác cổng. Chàng không thắc mắc mà chỉ dặn lòng thêm cẩn thận. Lòng thương con trời biển của Từ nương đã khiến Tử Khuê gọi bà là mẹ mà không hề ngượng miệng.
Từ nương chăm sóc chàng như đứa trẻ thơ, luôn kề cận kể lể mọi việc trong trang, cố giúp ái tử sớm hồi phục ký ức một cách trọn vẹn.
Trí nhớ của Tử Khuê thì mẫn tiệp phi thường nên chẳng hề quên cái gì cả. Chỉ sau nửa tháng, chàng đã thông thuộc tên tuổi từng người.
Tất nhiên, giờ thì chàng biết Tiêu trang chủ tên gọi là Tiêu Lạp Dân, tuổi chẵn sáu mươi. Ông ta còn là Ngân Diện Hầu đời thứ tư của Minh Triều.
Khi Tử Khuê giả vờ không nhớ, thắc mắc về cái tước hiệu kỳ quái ấy thì được Từ nương giải thích:
- Cao tằng tổ Tiên Phương là một kiếm khách. Ông ta thường mang một chiếc mặt nạ che đến mũi mà hành hiệp, nên được người võ lâm xưng tụng là Ngân Diện Kỳ Hiệp. Khi Thái Tổ hoàng đế Chu Nguyên Chương tiến đánh Sơn Tây, trúng mai phục của quân Mông Cổ ở gần Tỉnh Châu, sắp mất mạng thì được Tiên Phương cứu giá. Sau đó, họ Tiêu theo phò Minh Thái Tổ cho đến khi giang sơn được thu hồi trọn vẹn. Lúc luận công ban thưởng, được phong hầu, Tiêu cao tằng tổ đã xin cái danh hiệu Ngân Diện Hầu. Minh Thái Tổ chuẩn tấu, sai bộ công đúc một chiếc mặt nạ bằng bạc, pha thêm vàng và đồng cho cứng cáp, trên khắc dấu Ngọc Tỷ, rồi tặng cho họ Tiêu.
Bà mỉm cười kết luận:
- Hiên nhi biết không? Họ Tiêu chúng ta đã chuốc lấy khổ, vì lúc nào muốn đeo Kim bài, xưng Tước Hầu, thì mãi mang luôn cái mặt nạ nặng trịch, lạnh lẽo ấy. May cho ta là Hầu Tước phu nhân thì không phải mang mặt nạ.
Quen thói thân mật vui vẻ với mẹ hiền, Tử Khuê buột miệng nói đùa:
- Quả là may thật! Nếu không thì thiên hạ đã chẳng được chiêm ngưỡng dung nhan tuyệt thế của mẫu thân.
Từ nương rất cao hứng vì được ái tử tán dương, song giả vờ trừng mắt mắng yêu:
- Hiên nhi chớ bẻm mép! Ta đã già nua còn đẹp đẽ cái nỗi gì nữa.
Chợt bà phát hiện mặt mình đang nóng bừng lên vì hãnh diện, vội đứng dậy mở tủ, lấy ra môt quyển sách mỏng, trao cho con rồi nói:
- Hiên nhi! Đây là bí lục võ công nhà ta, con hãy ôn luyện lại cho thuần phục để phụ thân vui lòng.
Ngoài bìa ghi bốn chữ “Tiêu gia bí kíp” song khẩu quyết bên trong giống hệt “Lôi Đình bí phổ”, chỉ khác ở chỗ không có pho “Tiên nữ tùy phong”, và hai pho kiếm chưởng thì thiếu sáu, bảy chiêu lợi hại nhất. Tử Khuê kinh ngạc khôn cùng nhưng không dám để lộ ra.
Vẻ mặt thẫn thờ của chàng đã khiến Từ nương ngộ nhận. Bà nở nụ cười hiền hòa và an ủi:
- Năm xưa, con đã từng thuộc lòng bí kíp này, cứ từ từ nghiên cứu sẽ nhớ lại thôi. Phần đường lối của chiêu thức, ta sẽ nhắc nhở, hướng dẫn cho.
Té ra Từ nương là bậc kỳ nữ xuất chúng, nắm vững tinh túy tuyệt học của Lôi Đình. Do bẩm sinh bất túc nên nội công chỉ có thành tựu giới hạn. Nếu không, bà đã là một cao thủ thượng thừa.
Trong suốt gần một tháng trời, bà cẫn mẫn dạy cho Tử Khuê từng thức kiếm, từng đường quyền. Nhờ vậy mà chàng tiếp thu rất nhanh. Kỳ công này chẳng làm ai tán thưởng vì họ cho rằng nhị công tử chỉ nhớ lại những gì học thuở niên thiếu. Song họ sẽ kinh ngạc nếu biết chàng thông thạo võ học Lôi Đình hơn cả Tiêu trang chủ. Chàng chỉ thiếu tuyệt kỹ “Phách không chưởng lực” vì kém hỏa hầu.
Bề ngoài, vẫn sử xự như mình chưa hồi phục trọn vẹn, ít nói và thỉnh thoảng lại mỉm cười vô cớ. Thật ra, trong lòng chàng rối như tơ vò chẳng biết giải quyết hoàn cảnh éo le này thế nào. Chàng thật tâm yêu thương Từ nương, không muốn bà phải khổ tâm thêm nữa. Và dẫu có trình bày sự thật thì cũng chẳng có ai tin, họ sẽ cho rằng bệnh chàng tái phát. Giả sử họ tin thì càng bội phần tai hại, vì chàng sẽ lấy đâu ra một gã Mẫn Hiên mà trả họ.
Cuối cùng, Tử Khuê quyết định đào tẩu trong dịp tết nguyên đán. Và chàng sẽ để lại một phong thư, trấn an vợ chồng Tiêu trang chủ rằng mình đi du ngoạn, mở rộng kiến văn. Về đến nhà, chàng sẽ thỉnh cho được Lỗ phán quan, hỏi cho rõ nội tình và hạ lạc của Tiêu Mẫn Hiên. Nếu gã còn sống thì chàng bắt họ Lỗ mang gã trả về Từ Thạch ốc.
Tử Khuê đã nhiều lần khấn vái, gọi tên nghĩa ca mà không thấy hiện ra. Chàng thầm trách lão đem con bỏ chợ, đưa chàng vào cảnh ngộ oái ăm này.
Do từ đầu đã nuôi ý định đào tẩu nên Tử Khuê dành nhiều thời gian lang thang khắp Tiêu gia trang, tức Hầu Phủ. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương xuất thân từ chốn bần hàn, thảo mãng nên cũng có chút máu khôi hài. Khi Tiêu Chương chê Tước Trung Dũng Hầu và đòi đổi thành Ngân Diện Hầu thì Minh Thái Tổ hơi phật ý. Ông ta chuẩn tấu song chơi lại bằng cách bắt họ Tiêu chỉ được xưng Hầu khi mang mặt nạ.
Đeo ngân diện cả ngày thì bất tiện, nhất là lúc Đông về, bạc sẽ lạnh tanh, da mặt khó chịu vô cùng. Thế nên con cháu họ Tiêu đành phải cho gia nhân, tỳ nữ gọi mình là trang chủ.
Cố sự trên giải thích việc vì sao chủ nhân Hầu phủ lại không được bọn người nhà xưng hô là Hầu Tước Đại Nhân. Hầu phủ của dòng họ Tiêu không nguy nga tráng lệ, song diện tích rất lớn, tường xây cao đến hai trượng, án ngữ mọi sự dòm ngó của người bên ngoài. Phía sau phủ là đại hoa viên rộng đến vài mẫu, trồng gần trăm cây Thủy Sam cổ thụ tuổi đến gần hoa giáp.
Thủy Sam là loại cây thân gỗ lớn, rụng lá, thuộc họ Sam, có thể cao đến mười hai trượng. Thân chính cao thẳng, cành nhánh vươn ngay về hướng nam bắc, đông tây xen kẽ nhau giống tháp nhọn. Lá Thủy Sam có dạng dày, dẹt, mọc hai bên, nhánh nhỏ, màu lá thay đổi theo mùa. Mùa Xuân lá màu nõn chuối non tơ mềm mại. Mùa Hè lá trở nên xanh biếc mượt mà đáng yêu. Mùa Thu lá chuyển vàng, mùa Đông chuyển sang màu hồng rồi rụng dần.
Thủy Sam là loại có sức sống mãnh liệt, tính thích ứng rộng rãi, sinh trưởng nhanh, mỗi năm cao thêm từ gang rưỡi đến bốn gang tay. Bởi vậy, Thủy Sam là báu vật trong ngành rồng rừng lấy gỗ. Thủy Sam là loại cây đặc hữu của Trung Hoa, có ở miền Đông Bắc từ nhiều triệu năm trước. Gần năm trăm năm sau, thời nhà Minh, người ta tưởng rằng Thủy Sam đã tuyệt chủng thì lại thấy hơn một ngàn cây ở huyện Lợi Xuyên, Hồ Bắc.
Tất nhiên là Tử Khuê không cần biết những điều ấy về Thủy Sam. Giờ đã là tháng chạp, nên cây chẳng còn chiếc lá nào. Chàng ngắm nhìn những cành cây trơ trụi, tưởng nhớ đến Quách gia trang, nơi cũng có vài cây như thế và chàng thầm tính toán việc trèo lên cây mà nhảy ra ngoài.
Hàng Thủy Sam cuối đại hoa viên cách tường bốn trượng bằng một con đường trải sỏi phẳng phiu. Trên đường ấy, lúc nào cũng có bọn gia nhân dắt chó đi tuần cả ngày lẫn đêm.
Ngoài ra còn có cả những chốt canh cố định, nhãn tuyến bao quát suốt con đường. Nếu Tử Khuê băng qua đường mà vượt tường thì sẽ bị phát hiện ngay. Và khi nhà họ Tiêu dùng chó đánh hơi mà truy đuổi thì chàng khó thoát nổi. Chàng cần vài khắc thời gian và không để đối phương biết mình ra bằng lối nào.
Tử Khuê gật gù hài lòng tin rằng từ ngọn cây cao mười trượng kia chàng có thể vượt qua khoảng cách bốn trượng ra ngoài tường một cách êm thắm. Thời điểm thích hợp sẽ là những ngày xuân, khi người ta vui say mừng năm mới.
Tiếng chân người phía sau nhắc nhở Tử Khuê nhớ trở ngại cuối cùng, đó là sự giám sát của hai gã cận vệ. Sau này, Tiêu trang chủ đã yên tâm hơn nên giảm số người canh chừng xuống còn hai. Nhưng hai gã này có võ công khá nhất, cơ trí cũng tinh minh, già dặn, hành vi cẩn trọng, chu đáo.
Họ là anh em ruột, mang họ Từ do phụ thân nhị phu nhân nuôi dưỡng. Vì mồ côi sớm, không biết cha mẹ là ai nên hai gã này mang họ ân nhân.
Từ lão gia nuôi trẻ mồ côi vì lòng nhân, chứ không phải với ý định nhận nghĩa tử, nên hai gã vẫn chỉ là nô bộc. Người giàu có rất thận trọng trong việc nhận con nuôi, để phòng hậu họa giành gia sản sau này, nhất là khi họ đã có con ruột.
Lúc Từ Lan xuất giá về làm dâu nhà họ Tiêu thì hai gã cũng đi theo vì trước giờ quen hộ vệ nàng. Tuy đã chính thức là gia đinh của Hầu phủ song họ luôn giành lấy trách nhiệm bảo vệ nhị phu nhân. Về sau, Từ nương đã sai họ bảo vệ Mẫn Hiên tức Tử Khuê.
Từ Phong ba mươi chín, Từ Vũ ba mươi tám tuổi, cao trung bình nhưng cơ thể rắn chắc, lực lưỡng. Tên thì hiền lành, song sắc diện lạnh như tiền, mắt loang loáng, thần sắc rất đáng sợ dù ngũ quan đoan chính, chẳng có chút dị dạng. Và dường như họ chỉ tươi cười khi tiếp cận Từ nương và Mẫn Hiên.
Tử Khuê đủ trình độ để biết hai gã ấy là đại cao thủ, cả kiếm thuật lẫn khinh công. Cảm động trước lòng trung thành của họ đối với Từ nương mà chàng yêu mến hai gã. Ngược lại, phong thái đôn hâu, điềm nhiên và dễ thân cận của Tử Khuê đã chinh phục được hai anh em họ.
Trang chủ phu nhân thấy vậy hài lòng khen:
- Không ngờ khi trưởng thành, Hiên nhi lại có được tính tình dễ mến như vậy. Năm xưa ta cứ lo khi lớn lên, ngươi sẽ cao ngạo, lạnh lùng như Dị An.
Nhưng đến tối hai mươi bốn tháng chạp thì xảy ra một biến cố đã làm đảo lộn hoàn toàn những mưu tính của Tử Khuê.
Sau nhiều đêm suy nghĩ, chàng đã có thể khẳng định rằng tám năm trước, chính đại tiểu thư Tiêu Dị An đã hạ độc Mẫn Hiên bằng “Cuồng Tâm tán”. Và sau này, nếu Từ nương còn sinh nở được lần nữa thì đứa bé ấy cũng sẽ bị Dị An ám hại. Trước khi ra đi, Tử Khuê muốn đền đáp ân tình của Từ nương nên định sẽ bày cho bà cái phương pháp khôn khéo mà mẫu thân chàng đã sử dụng.
Cuối canh hai, Tử Khuê đi sang phòng của trang chủ phu nhân ở sát vách, cùng chung dãy bắc sương. Tiêu trang chủ vắng nhà đã hơn nửa tháng. Từ nương hớn hở hỏi:
- Trời lạnh căm căm sao Hiên nhi không đi nghỉ sớm, còn sang đây làm gì?
Tử Khuê ngồi xuống đôn gỗ hòa nhã đáp:
- Hài nhi buồn về thái độ lạnh nhạt của đại thư nên khó ngủ. Hài nhi mong mẫu thân lên tiếng, chia cho nàng ta một nửa gia sản để tránh cảnh nồi da xáo thịt.
Từ nương mỉm cười chua chát:
- Hiên nhi lầm rồi! Từ nhiều năm nay phần thừa kế đã được chia đôi. Dị An ghét ngươi vì muốn tranh giành chức Hội chủ Hoạch Đầu Hội đấy thôi.
Tử Khuê bàng hoàng như bị sét đánh ngang tai, chết điếng cả người. Ai lại có thể ngờ đến việc Ngân Diện Hầu phủ lại là sào huyệt của tổ chức giết thuê lừng danh Trung Thổ cơ chứ?
Song Tử Khuê phải mau mau trấn tĩnh, cố không để lộ sự sợ hãi và kinh ngạc tột độ của mình. Chàng đang là Mẫn Hiên, mới tỉnh táo sau tám năm mê muội, không biết gì cả.
Tử Khuê đứng lên, giả vờ đi khép cánh cửa sổ, tranh thủ chút thời gian cho sắc diện bình thường trở lại. Chàng quay về quế rồi từ tốn nói:
- Mẫu thân chưa từng nhắc nhở nên hài nhi không nhớ nổi việc này.
Từ nương nhìn chàng bằng ánh mắt xót xa và bảo:
- Thật tâm ta cũng muốn Hiên nhi quên hẳn vì không dính dáng gì đến cái tổ chức nhơ nhớp ấy. Nhưng số trời đã định, ta không sao cưỡng lại được. Ngày mai phụ thân ngươi sẽ hồi phủ và tổ chức đại hội thường niên. Ngươi sẽ được giới thiệu với tư cách Thiếu Hội Chủ và tham gia điều hành sự vụ để vài năm nữa kế vị ngôi Hội Chủ.
Tử Khuê nghe gáy lạnh toát, rầu rĩ khoái thác:
- Hài nhi mới khỏi bệnh, chỉ muốn được đi du ngoạn đó đây cho bõ tám năm tù đày, chẳng muốn làm gì cho mệt trí. Mong mẫu thân nói giúp vài câu với phụ thân.
Từ nương buồn bã lắc đầu:
- Dẫu mẹ có thương con thì cũng đành bất lực vì tính nết cha ngươi vô cùng độc đoán. Tốt nhất là Hiên nhi cứ giả đò vui vẻ tham dự. Sang Xuân, ta sẽ mượn cớ về chơi quê ngoại, đưa Hiên nhi đi thăm thú những thắng cảnh Trung Nguyên.
Bà dừng lời, nhấp hớp trà thơm rồi nói tiếp:
- Còn một lý do bắt con phải làm vui lòng phụ thân, đó là tính mạng của Từ Phong và Từ Vũ. Hồi tháng chín, họ được cử đi ám sát một nhân vật ở An Dương nhưng đã không hoàn thành nhiệm vụ. Hai gã ấy chẳng nỡ ra tay vì đối tượng có đến bảy đứa con thơ nhao nhác. Dị An là người khắc nghiệt, tàn ác, lại đang chấp chưởng Hình Đường, tất sẽ không tha cho họ. Chỉ có Hiên nhi là đủ tư cách cứu họ khỏi án tử.
Bà nhìn chàng với vẻ khẩn cầu:
- Từ Phong, Từ Vũ tuy là nô bộc nhưng đã lớn lên với mẹ, tình nghĩa thâm sâu. Mong Hiên nhi hãy vì ta mà cứu họ.
Tử Khuê thấy hai gã sát thủ còn giữ được lòng nhân ái vô cùng cảm phục và thương mến. Chàng khẳng khái trấn an Từ nương:
- Mẫu thân yên tâm, hài nhi đoan chắc sẽ gỡ tội được cho hai người ấy.
Từ nương hài lòng, cùng Tử Khuê trò chuyện mãi đến gần sáng mới đuổi chàng về phòng.
Tử Khuê lấy cớ hỏi han nội tình rất cặn kẻ, hiểu được nhiều bí ẩn trọng đại. Thì ra, Tiêu Lập Dân là sư đệ, đồng thời là em rể Lôi Đình Cung Chủ Trác Ngạn Chi. Đôi lúc ông cũng muốn nghe lời Từ nương, giải tán Hoạch Đầu Hội, song bị trưởng nữ Dị An phản đối. Nàng ta có hậu thuẫn là cậu ruột, tức Lôi Đình Đế Quân, nên không sợ cha mình.
Càng hiểu rõ hoàn cảnh hiện tại, Tử Khuê càng thêm hoang mang, lo sợ, dù biết có trốn vế Quách gia trang cũng khó mà yên thân. Chẳng lẽ chàng cứ phải trốn tránh suốt đời, không dám lộ mặt?
Nỗi buồn phiền cùng cực đã biến thành sự bi phẫn, Tử Khuê nghiến răng thề rằng sẽ ở lại, tìm cách tiêu diệt xong cái tà hội ác độc này. Đây cũng là nghĩa vụ của võ sĩ đối với giang hồ và bách tính.
Chủ ý ấy đã khiến Tử Khuê bình tâm lại, thiếp đi lúc canh tư.
Quả nhiên trưa hôm sau, Tiêu Lạp Dân về đến phủ và ra lệnh triệu tập toàn bộ thủ hạ, trong tòa đại sảnh rộng thênh thang lúc đầu giờ Tuất, tối mai.
Ông đã trò chuyện với Mẫn Hiên, tức Tử Khuê về đại hội này. Chàng mỉm cười đáp ngây ngô:
- Phụ thân cứ yên tâm. Hài nhi đã được mẫu thân chỉ giáo qua. Được làm thiếu chủ thì sung sướng biết bao, tha hồ ra oai với thiên hạ.
Tiêu Lạp Dân thở dài ngán ngẩm, thương cho ái tử chưa hoàn toàn bình phục, ngây thơ cứ y như trẻ con vậy. Nhưng tin vào tài y thuật của mình, Lạp Dân không lo lắng lắm. Ông hỏi han, dặn dò con trai một lúc rồi mới dời gót.
Ông ta đi rồi, Tử Khuê ngồi nhìn qua song cửa hướng tây, ngắm cảnh tuyết rơi mà thương nhớ người thân nơi cố quận. Chàng hiểu rằng còn rất lâu mới được cùng họ đoàn viên.
Là kẻ thuần phác, ít mưu mẹo, Tử Khuê không tài nào tìm được cách thoát khỏi mớ bòng bong này, kể cả việc làm sao mà phá tan Hoạch Đầu Hội mà không khiến cho Lôi Đình Đế Quân nghi ngờ.
Sực nhớ đến gã anh vợ xảo quyệt, đa mưu túc trí là Vô Tướng Quỷ Hồ Dịch Quan San, Tử Khuê tạm yên lòng. Sang Xuân,chàng sẽ tìm cách rời khỏi Hầu phủ, lẻn về Hứa Xương cùng gã bàn bạc kế sách.
Tiếng tằng hắng của Từ Vũ ở bên ngoài khiến Tử Khuê chạnh lòng. Sau cuộc đàm đạo vừa rồi với Tiêu trang chủ, chàng không còn tự tin nữa. Ông đã nghiêm nghị dặn dò chàng không được can thiệp vào việc trừng phạt hai gã họ Từ. Dường như Tiêu Lạp Dân đã đoán trước được rằng Từ nương sẽ nhờ chàng gỡ tội cho họ.
Phần vì lời hứa với người đàn bà bất hạnh kia, phần vì thương anh em họ Từ, Tử Khuê bóp trán tính toán, cố tìm ra phương sách. Phải chăng “đương cục giả mê, bàng quang giả tỉnh”. Chuyện người thì sáng, chuyện mình thì tối? Cuối cùng Tử Khuê cũng có được kế lưỡng toàn, vừa cứu được họ, vừa loại trừ được kình địch.
Chàng mở cửa, khoác áo cừu ra ngoài rủ Từ Phong và Từ Vũ đi dạo bằng một câu ngớ ngẩn đến mức họ phải mỉm cười:
- Này nhị vị! Ta chợt nhớ đến lũ thằn lằn trong Từ Thạch ốc, muốn đi xem chúng có mạnh khỏe không?
Tuy đang chờ án tử hình mà thần thái hai gã này vẫn thản nhiên. Có thể do họ cam tâm chấp nhận, vì không còn đường nào khác, đào tẩu thì ba tháng sau cũng chết vì kỳ độc mãn tính. Tất cả thủ hạ Hoạch Đầu Hội đều bị khống chế bởi độc dược. Hoặc dã họ tin tưởng rằng nhị công tử sẽ vì mẫu thân mà cứu họ.
Hôm nay là ngày đẹp trời hiếm hoi trong cái mùa Đông chết dẫm này. Trời vẫn lạnh, nhưng gió thổi nhẹ và tuyết rơi lất phất.
Đang lúc giữa giờ Mùi, trừ những kẻ trong phiên đang canh gác, phần lớn người trong phủ đều ngủ cả. Cảnh vật khá tĩnh lặng, nhất là vườn Thủy Sam phía sau. Từ Thạch ốc tọa lạc ở giữa khu rừng này.
Đến nơi, Tử Khuê nghiêm nghị bảo hai cận vệ:
- Nhị vị cứ ở ngoài này, cứ để ta vào một mình được rồi. Có người lạ, bọn thằn lằn sẽ không dám gặp ta.
Hai gã nhìn nhau ngao ngán, gật đầu và cố nén nụ cười. Họ vào trong chỗ bẩn thỉu, hôi hám ấy làm gì cơ chứ?
Chẳng còn nhốt ai nên cửa Từ Thạch ốc không hề khóa, dù ổ khóa vẫn còn treo lủng lẵng nơi khoen. Bọn gia nhân cũng không hề có ý quét dọn cơ ngơi kỳ dị này. Nó sẽ được phá bỏ khi Tiêu trang chủ xác định rằng nhị công tử đã hoàn toàn bình phục.
Tử Khuê rất hài lòng khi thấy bên trong còn giữ được nguyên trạng. Chàng bước mau đến tảng từ thạch ở hướng Đông Nam, nơi mình tạt chén thuốc nước đã bị Dị An hạ độc.
Tử Khuê không sợ bẩn vì thứ nước thuốc sắc đặc sánh, bám chặt và làm loang lỗ mặt đá. Giờ đây, những chỗ ấy cũng phủ thêm một lớp bụi mỏng.
Trên sàn gạch có khá nhiều mảnh vụn của bát dĩa, muỗng đũa … những thứ ấy bị Mẫn Hiên hủy hoại. Chúng được làm bằng gỗ, khi gã hơi hồi tỉnh, không còn phá phách nữa mới được dùng đồ sứ.
Tử Khuê nhặt một mảnh bát có mép khá sắt, cạo lớp thuốc đã khô cứng trên mặt đá, tất nhiên có cả bụi bặm.Chàng hứng lấy thứ cặn bã ấy bằng một mảnh giấy đã mang theo sẵn trước khi rời phòng.
Được một nhúm nhỏ, vo chặt lại chừng hạt nhãn, Tử Khuê cho rằng đã đủ. Chàng sẽ hạ độc Dị An bằng đường hô hấp nên không thể dùng nhiều được. Số còn lại chàng để dành phòng khi hữu sự.
Tử Khuê đã hồi ức lại nội dung quyển “Huyền Hư Y Cảo” biết “Cuồng Tâm tán” lợi hại vô song, không hề để lại dấu vết và cũng không có thuốc giải. Chất độc này theo máu, công phá phần não bộ khiến nạn nhân phát cuồng, vô phương chữa trị. Tuyên truyền “Cuồng Tâm tán” là độc kỹ lừng danh của Thủy Thần Độc Vương Cao Mộng Đắc. Thần Thủy là một địa phương ở vùng cực Bắc tỉnh Thiểm Tây. Họ Cao chết đã bốn mươi năm, không người nối dỗi nên võ học thất truyền. Giờ đây cái thứ vũ khí độc địa ấy trong tay Tiêu Dị An, khiến một kẻ thiện dụng độc như Tiêu Lạp Dân cũng không ngờ đến.
Tử Khuê hiểu rằng độc tố đã phân tán đều trong chén thuốc, nên với một ít bụi phấn thế này thì khó mà làm cho Dị An phát điên. Song chàng hy vọng rằng ả sẽ tạm thời bị choáng váng, tâm thần hỗn loạn, không giữ được chủ ý sát hại anh em họ Từ. Để đảm bảo phần thắng, Tử Khuê dự đinh rằng sẽ ra tay nhiều lần, vì sẽ ngồi chung bàn tọa với Dị An.
Đầu giờ Tuất ngày hai mươi sáu tháng chạp, đại hội thường niên của Hoạch Đầu Hội được tiến hành, trong tòa đại sảnh phía sau quần thể Tứ hợp viện, cơ ngơi chính của Hầu phủ.
Tòa nhà này mới được xây dựng chừng hai mươi năm, khi nhân số của Hoạch Đầu Hội quá đông.
Từ sáng đến giờ đã có hàng trăm người lần lượt tìm đến Hầu phủ. Họ chính là thủ lĩnh của những phân hội địa phương, thường là chốn phồn vinh, sầm uất. Nơi hoang dã nghèo khó thì làm quái gì có ai đủ tiền mướn sát thủ. Thân chủ của Hoạch Đầu Hội không chỉ có giới võ lâm mà phần lớn là đám thương lái, đám nhà giàu và bọn quan lại. Chỗ nào có lợi lộc thì nơi ấy có tranh giành.
Những phát minh thành tựu trong lịch sử đã chứng tỏ dân tộc Trung Hoa cực kỳ thông tuệ, cần cù và đầy sáng tạo. Đồng thời họ cũng rất thâm hiểm nên mới nổi tiếng thế giới về binh pháp và thuật quyền mưu.
Người Trung Hoa đã áp dụng “Tam thập lục kế” vào cả lĩnh vực buôn bán, quan trường. Họ thích nhất là kế “Tá đao sát nhân”, mượn tay kẻ khác để loại trử kẻ địch, thù nhân. Cho nên, nghề giết mướn rất ư phát đạt ngay từ thời Xuân Thu, Chiến Quốc.
Trong lịch sử Trung Hoa, Kinh Kha là một hình tượng của một tráng sĩ anh hùng, bất khuất. Nhưng xét cho cùng, Kinh Kha cũng là một kẻ đâm thuê chém mướn. Người đời sau vì chán ghét Tần Thủy Hoàng mà tôn sùng Kinh Kha. Nhưng nếu họ Kinh thành công thì Trung Hoa chẳng thể sớm thống nhất, và nền văn minh không phát triển một cách nhanh chóng, rực rỡ đến thế.
Tử Khuê phải cố nín cười khi thấy bên trên chiếc hương án đặt trước cạnh tường hướng bắc có bức họa tường rất lớn, vẽ một chàng tráng sĩ hiên ngang đang đứng cạnh một bờ sông.
Tử Khuê có thể đoán chắc đấy là Kinh Kha vì mé tả có bài thơ cổ bi tráng:
Phong phiêu phiêu hề
Dịch thủy hàn!
Tráng sĩ nhất khứ hề
Bất phục phản!
Thì ra Hoạch Đầu Hội đã tôn Kinh Kha làm tổ sư, phủ hào quang lên cái nghề giết thuê đầy tội lỗi của mình.
Chẳng hiểu hằng trăm tên giết mướn kia có thật lòng tin vào sự cao quý của nghề nghiệp mình đang làm hay không? Giờ đây họ đều hướng về hương án thờ Kinh Kha với vẻ thành kính rất mực. Trông họ chẳng khác gì những thiện nam, tín nữ đang chiêm bái tượng Phật trong chùa vậy.
Thích khách chứ chẳng phải đệ tử danh môn chính phái nên không có đồng phục. Họ cũng không ai đeo mặt nạ vì ai cũng mang trên vai vài ba cái án sát nhân, theo kiểu Danh Đầu Trạng của Lương Sơn Bạc. Hơn nữa, họ đều bị khống chế bằng độc dược mãn tính, có phản bội, cáo giáo đồng đảng thì cũng không thể sống sót.
Sau diễn từ khai mạc và nghi lễ thượng hương bái tổ, đại hội tiến hành việc tổng kết vụ sự. Một chiếc bàn dài và ba ghế dựa đã được mang ra đặt trước hương án. Khoảng nền vách bắc cao hơn phần diện tích còn lại độ gần sải tay, giúp cử tọa có thể nhìn rõ đoàn chủ tịch. Bọn môn nhân cũng được ngồi trên đôn gỗ vì hội nghị sẽ kéo dài hàng canh giờ.
Nhưng trước khi cho phép thủ hạ an tọa, Tiêu Lạp Dân đã tuyên cáo việc nhị công tử Tiêu Mẫn Hiên chính thức trở thành Thiếu Hội Chủ, sau này sẽ kế vị lão.
Dĩ nhiên, ai nấy đều vỗ tay tán thành bởi “con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Nhưng trong lòng họ đầy ắp e ngại vì biết chàng trai mặt mày ngơ ngáo kia đã từng điên loạn suốt mấy năm qua.
Được Tiêu Lạp Dân dặn dò từ trước, Tử Khuê bước ra vái chào cử tọa và chỉ cười tươi chứ không phát biểu. Lạp Dân sợ Mẫn Hiên nói quàng nói xiên thì mất mặt họ Tiêu.
Tử Khuê mang bản chất hiền lành đôn hậu nên nụ cười rất dễ mến, khiến bọn sát thủ lão luyện kia nhận ra tính nết và lập tức có tình cảm. Sau này, chàng làm Hội chủ thì bọn thuộc hạ sẽ dễ sống hơn cô ả La Sát Tiêu Dị An kia.
Đại tiểu thư nhà họ Tiêu không hề xấu xí, đôi mắt lá răm và bờ môi anh đào chín mọng kia còn có vẻ đa tình nữa. Thân hình nàng cũng thon thả, khiêu gợi chứ không gầy đét. Thế mà chẳng hiểu sao một ả rất mực đàn bà như thế lại khắc nghiệt, tàn nhẫn phi thường?
Thấy ái tử được nhìn với ánh mắt tán thưởng, Tiêu Lạp Dân, tức Hội chủ Hoạch Đầu Hội, cao hứng mời toàn trường an tọa. Phần ông dẫn con gái, con trai mình đến ngồi ở bàn chủ tịch.
Lòng Tử Khuê vô cùng hồi hộp, quyết định ra tay sớm vì lát nữa sẽ không còn cơ hội. Chàng và Dị An sẽ ngồi hai ghế tả hữu, chính giữa là Tiêu Lạp Dân.
Cho nên, khi Tiêu Hội chủ vừa an vị và Dị An đang lay hoay kéo ghế, Tử Khuê búng ngay một nhúm bột đất chứa “Cuồng Tâm tán” vào mũi ả chị hờ.
Tử Khuê đã dùng muỗng sứ nghiền nát số bột đất kia trở nên nhuyễn nhỏ như bụi bặm, mắt thường khó mà phát hiện.
Đã quen với phép điểm huyệt bằng tia cương khí nên thủ pháp của chàng cực kỳ chuẩn xác. Chàng lại dựa vào nhịp phập phồng của bộ ngực nở nang kia mà chọn đúng lúc Dị An hít vào. Nàng ta khoác áo lông cừu ngắn song không khép vạt.
Dị An lãnh trọn số bụi tai hại ấy và lập tức hắt hơi lia lịa, khiến Tử Khuê lo ngay ngáy sợ bụi thuốc văng ra hết. Chàng thầm van vái cả Phật Tổ lẫn Tam Thanh cho mình đừng thất bại, nguy hại đến tính mạng của anh em họ Từ. Trong quá khứ, Tử Khuê đã gặp quá nhiều xui xẻo nên không còn tự tin khi làm bất cứ việc gì. Dẫu biết rằng chất độc đi vào đường hô hấp sẽ tác dụng nhanh và mạnh hơn đi vào dạ dày, song Tử Khuê lại không nắm vững được lượng độc tố cần thiết.
Trà nóng đã được mang ra nhưng chén nào cũng có nắp đậy. Khi uống, người ta sẽ dùng cạnh nắp để chặn xác trà. Nhấp xong một hai hớp thì đậy nắp cho nóng. Do vậy, Tử Khuê không hy vọng hạ thủ thêm lần nữa vào chén trà. Vả lại, việc dùng chân khí búng mạnh thuốc qua mặt một đại cao thủ như Tiêu Lạp Dân là một hành động dại dột.
Tuy luôn rén rình rập sắc diện, thần thái của Dị An, Tử Khuê vẫn theo dõi được diễn tiến của hội nghị. Lúc này, phân hội chủ các địa phương đang trình bày với Tiêu Lạp Dân về những khó khăn, những hợp đồng chưa hoàn thành của khu vực mình đang phụ trách.
Chàng sợ đến toát mồ hôi khi một lão già gầy, đầu hói, đứng lên phát biểu:
- Thưa Hội chủ! Phân hội Hứa Xương vừa phát hiện Đông Nhạc Tiên Hồ Tái Dịch Vân trong nhà một lão đại phú họ Quách. Thuộc hạ đã thử đột nhập vào dọ thám thì phát hiện việc canh phòng của Quách gia trang cực kỳ nghiêm mật. Và dường như bãn lãnh của bọn gia đinh rất cao cường, không thua gì những sát thủ kiêu dũng của bổn hội. Thuộc hạ cho rằng phân hội Hứa Xương không đủ sức bắt cóc ả họ Dịch, xin Hội chủ cử thêm người đến hỗ trợ.
Tiêu Lạp Dân trầm ngâm vuốt chòm râu dài và đẹp một lúc rồi mới nói:
- Lão phu rất tin tưởng vào nhãn quan sắc bén của Hồ các hạ nên lòng rất nghi hoặc. Thường thì các nhà đại phú không thể có được lực lượng gia nhân lợi hại đến mức ấy. Phải chăng Quách trang chủ là một cao thủ đã phong kiếm quy ẩn? Nếu không thì Quách gia đâu có quan hệ với một nhân vật danh tiếng giang hồ như Dịch Tái Vân? À! Thế Đông Nhạc Tiên Hồ đến ở Quách gia trang với tư cách gì?
Lão phân hội chủ họ Hồ tên Kiệt kia lộ vẻ đắc ý:
- Bẩm Hội chủ! Tám ngày trước, thuộc hạ giả làm người cơ nhỡ đến Quách gia trang. Tuy bị chặn tại nội cổng để nhận bố thí, song thuộc hạ đã may mắn nhìn thấy Đông Nhạc Tiên Hồ cùng một nữ nhân nữa, hai nàng ấy đang thơ thẩn trước phía trước cửa thùy hoa. Và nếu thuộc hạ không nghe lầm thì bọn tỳ nữ gọi Dịch Tái Vân là Nhị Thiếu, còn nàng thứ hai là Đại Thiếu. Xem ra, gã Quách công tử chết tiệt nào đó quả tốt phúc. Vợ lớn của gã cũng đẹp tuyệt trần, chỉ kém Dịch Tái Vân chút đỉnh.
Nghe xong, Tiêu Hội chủ tư lự bảo:
- Xem ra lai lịch Quách gia trang có điều bí ẩn, chúng ta không thể hành động hồ đồ được. Lão phu sẽ cho người đến Thần Đao Bảo thương lượng lại, đòi giá gấp đôi, tức sáu ngàn lượng hoàng kim. Trong lúc này, Hồ các hạ cứ huy động anh em giám sát Quách gia trang và điều nghiên kỹ địa hình. Nếu Tần Minh Viên chấp nhận giá mới, lão phu sẽ đưa quân xuống Hứa Xương và sử dụng “Tam nhật mê hồn câu” mà tấn công Quách gia trang.
Tử Khuê chết điếng cõi lòng, thập phần lo lắng cho ái thê và người thân. Chàng bỗng có cảm giác chán ghét cả Tiêu Lạp Dân. Qua ánh mắt và chất giọng của lão khi bày mưu tính kế. Tử Khuê không tin rằng Lạp Dân có ý hướng thiện như lời Từ nương đã kể. Nghĩa là cho dù Tiêu Dị An không ngăn cản thì lão ta cũng không bao giờ chịu từ bỏ quyền lực và những món lợi khổng lồ của nghề giết mướn.
Dẫu sau này có kẻ thủ hạ không sợ chết, đứng ra cáo giác cũng chẳng đáng lo. Hầu Phủ có Minh Thư Thiết Khoán của minh Thái Tổ, bộ đầu công khai, các cấp không được vào tra xét, trừ phi xin được Thánh chỉ. Tiêu Lạp Dân có thừa thời gian để phi tang hoặc tạm lánh mặt. Chỉ vài tháng sau là kẻ phản bội sẽ chết rất êm ái, không còn nhân chứng nữa. Lão đã sử dụng hai loại độc khác nhau. Loại dành cho các phân hội chủ có kỳ hạn nửa năm. Loại dành cho sát thủ, do thám cấp thấp thì chỉ tròn ba tháng.
Những thông tin ấy do Từ nương tiết lộ với Tử Khuê. Chính bà là người đang cất giữ hàng ngàn viên giải dược cũng như toa điều chế. Tuy gian hùng cái thế, song Tiêu Lạp Dân lại tinh tưởng tuyệt đối vào người vợ trẻ đẹp, hiền lành.
Tử Khuê hiểu rằng phải ngăn chặn ngay bàn tay tội lỗi của Tiêu Lạp Dân, không phải chỉ vì an nguy của Quách gia trang mà còn nhiều nạn nhân khác nữa.
Nhưng dẫu sao Tiêu Lạp Dân cũng có ân đối với chàng. Nếu không nhờ ba chục chén thuốc quý có “Thiên niên Hà thủ ô” thì những đoạn kinh mạch bị bế tắc, bị đông cứng trong cơ thể chàng sẽ không bao giờ được khai giải. Mất võ công đối với người võ sĩ còn đau khổ hơn là cái chết. Hơn nữa, ám hại một người mà hơn gần tháng nay chàng gọi là phụ thân thì đáng xấu hổ làm sao!
Nhưng nghĩ câu “đại nghĩa diệt thân”, vì họ Tiêu không thể chết vì lượng độc ít ỏi. Tử Khuê quyết định hành động.
Chàng đã vo tròn, nén chặt độc phấn thành những viên nhỏ cỡ hạt đậu xanh. Khi sử dụng, Tử Khuê vận công nghiền nát rồi búng đi. Chàng ngồi sát mé tả Tiêu Lạp Dân nên có thể hạ thủ rất dễ dàng, bằng một lực đạo tương đối nhỏ, không hề làm xao động không gian.
Tiêu Lạp Dân đang chăm chú nhìn xuống dưới, lắng nghe phân hội Phúc Kiến báo cáo. Lão chẳng thể phát hiện những động tác nhanh như chớp của bàn tay phải Tử Khuê đang đặt ngửa trên đùi.
Cũng như Tiêu Dị An, Tiêu Lạp Dân cũng hít phải phần lớn bụi phấn, ngứa mũi hắt hơi vài cái, song không hề nghi ngờ gì cả. Dẫu là người luyện võ, khi trời Đông giá lạnh, thì thỉnh thoảng vẫn bị cảm mạo, việc ấy rất bình thường.
Tử Khuê lại tiếp tục ở trong tâm trạng hồi hộp, chờ đợi kết quả. Nãy giờ, Tiêu Dị An vẫn chẳng có biểu hiện gì khác thường khiến Tử Khuê lo lắng vì bụi thuốc chứa quá ít “Cuồng Tâm tán” nên vô tác dụng.
Nhưng lát sau, khi đến mục luận tội, kết án những thuộc hạ mắc lỗi, Tử Khuê đã nhận ra giọng nói của Dị An hơi run, không đanh thép như thường ngày và nhịp thở chẳng đều. Chàng mừng rỡ quan sát thật kỹ và thấy mặt ả đỏ bừng, sống mũi lấm tấm mồ hôi.
Tổng cộng có đến hai mươi sáu môn nhân Hoạch Đầu Hội phạm phải lỗi lầm. Hai gã Từ Phong, Từ Vũ đứng đầu danh sách vì tội kháng lệnh. Số còn lại mang tội danh hèn nhát, bất lực và không hoàn thành nhiệm vụ.
Dị An đọc đến tên ai thì người ấy đứng lên, gương mặt lo âu, ủ rũ. Họ thừa biết mình nhận sự trừng phạt hà khắc đến mức nào. Nhẹ nhất cũng bị đòn trăm hèo, nằm liệt giường hai tháng.
Lúc đọc được gần nửa danh sách đen kia thì Dị An đã dừng lại, cởi áo lông cừu. Hành động này khá bất thường vì thời tiết rất lạnh, dù cửa nẻo đóng kín và trong sảnh có hơn chục lò sửi ấm bằng đồng và hàng tá đèn đuốc.
Đọc xong thay vì luận tội ngay thì ả lại ôm quyền cáo lỗi với cử tọa rồi lui vào nhà sau, cứ như bàng quang sắp vỡ đến nơi vậy.
Lạ thay, Tiêu Hội chủ cũng bắt đầu xuất hạn, đứng lên cởi bỏ áo lông cừu, trao cho ả tỳ nữ hầu trà. Sau đó, Lạp Dân ngồi xuống nghiên cứu bản danh sách bọn thủ hạ phạm quy, cân nhắc hình phạt cho từng người để lát nữa góp ý cùng trưởng nữ.
Hai mươi sáu gã bất hạnh ấy đứng trơ như phỗng, cao hơn những kẻ còn lại đang ngồi trên ghế nên phát hiện quái sự đầu tiên. Chúng không nén nổi sự kinh ngạc tột cùng, đồng thanh “ồ” lên. Kế đó, toàn trường xôn xao như vỡ chợ.
Thì ra, đại tiểu thư Dị An đã ra đến, đầu tóc ướt đẫm và toàn thân không mảnh vải. Thế mà nàng ta còn tươi cười, vòng tay phân bua:
- Xin chư vị lượng thứ cho. Bổn nhân nghe người nóng nực vào tắm cho mát.
Diễn biến tiếp theo còn khủng khiếp hơn nữa, Tiêu Lạp Dân quay sang nhìn ái nữ, thay vì hốt hoảng thì lại xô ghế, bước đến ôm chầm lấy. Lão mê muội hôn hít, vuốt ve tấm thân nõn nà của Dị An với những động tác khát khao và dâm đãng. Khổ thay, Tiêu Dị An không hề phản kháng mà còn cười khanh khách đầy thích thú.
Cảnh tượng loạn luân quái dị kia đã khiến toàn trường hoàn toàn chết lặng. Tử Khuê cũng bối rối đến mức chẳng biết phải làm sao. Chàng đâu ngờ thứ bột thuốc kia lại có tác dụng quái gở, khó coi đến thế?
Khi Tiêu Lạp Dân thoát y, người ta mới hiểu rõ lão điên loạn đến mức định giao phối với Dị An ngay tại chốn này. Ai đó thảng thốt thét lên:
- Họ đã phát cuồng rồi!
Và từ hàng ghế đầu tiên gần nạn nhân nhất, có hai người nhảy xổ đến, khống chế huyệt đạo của hai cha con Tiêu Hội chủ. Họ chính là Đường chủ nội đường, tức lão tổng quản Du Vinh và Đường chủ ngoại đường Tuân Khánh. Cương vị của hai người ấy trong hội chỉ kém ba cha con nhà họ Tiêu.
Từ lâu, Tử Khuê đã biết hai lão này có võ công rất cao siêu, được Tiêu Lạp Dân xem trọng. Và hôm kia, chàng lại được Từ nương tiết lộ rằng họ là người của Lôi Đình Thần Cung, đến hỗ trợ cho Lạp Dân đã nhiều năm nay.
Sau khi lệnh cho bọn tỳ nữ khiêng hai kẻ đã phát cuồng vào trong hậu viện. Du tổng quản nghiêm nghị bảo cử tọa:
- Sự nghiệp của bổn hội liên quan đến rất nhiều người, không thể vì chút bệnh tình của cha con Tiêu Hội chủ mà phế bỏ. Thời gian điều trị chắc sẽ khá lâu nên lão phu đề nghị đại hội tạm trao quyền Hội chủ cho Thiếu Hội chủ Tiêu Mẫn Hiên.
Cơ nghiệp này vốn là của dòng họ Tiêu, toàn thể môn hạ trong đại hội đều tán thành.
Tử Khuê nào muốn vướng vào vũng bùn nhơ nhớp, bèn giẫy nẫy như đĩa phải vôi, ấp úng nói:
- Kính cáo chư vị. Tại hạ trẻ người non dạ, lại vừa thoát cảnh mê cuồng chẳng bao lâu, sao có thể đảm đương vụ sự của bổn hội. Hay là Du lão cứ tạm nắm quyền hội chủ một thời gian, chờ gia phụ bình phục?
Nghe chàng nói thế cử tọa phía dưới lập tức im lặng một cách khó hiểu. Họ chờ đợi câu trả lời của Du Vinh với ánh mắt đầy nghi hoặc.
Họ Du có gương mặt tròn trịa, hồng hào trông khá phúc hậu. Nhưng tục ngữ có câu “họa hổ họa bì nan họa cốt” nên mọi người vẫn có quyền nghi ngờ Du tổng quản thừa nước đục thả câu,nắm lấy ngôi vị Hội chủ. Việc cả hai cha con họ Tiêu phát cuồng cùng một lúc chẳng phải đáng ngờ lắm sao?
Du Vinh bối rối, thở dài bảo Tử Khuê:
- Lão phu mà chấp chưởng thì lòng người không phục mà còn bị đàm tiếu nữa. Nhị công tử cứ yên tâm đảm nhận một thời gian, lão phu và Tuân lão ca sẽ hết lòng phò tá, hướng dẫn cho.
Đường chủ ngoại đường Tuân Khánh đang xem xét những chén trà uống dở dang trên mặt bàn. Nghe họ Du nói vậy, lão bước lại và lên tiếng trình bày:
- Này anh em. Dẫu cho nhà họ Tiêu có tiền sử bệnh điên thì cũng khó xảy ra việc Hội chủ và Dị An đột nhiên loạn trí cùng một lượt. Lão phu ngờ rằng họ đã bị hạ độc bởi một thứ xuân dược cực kỳ mãnh liệt. Nhưng khi kiểm tra những chén trà, lão phu không hề phát hiện quái sự. Hơn nữa, thiếu chủ cũng cùng uống những thứ trà ấy mà không sao. Tuy nhiên, ba tách trà vẫn được giữ lại để nhờ bậc cao minh xem xét thêm. Vài ngày nữa, nếu bệnh tình Hội chủ và Dị An không thuyên giảm, lão phu sẽ đưa họ về Lôi Đình Thần Cung chữa trị. Còn việc điều hành bổn hội thì lão phu khẳng định rằng chỉ mình nhị công tử Tiêu Mẫn Hiên đủ tư cách. Xin chư vị chớ nên phân tâm, nghi hoặc mà ảnh hưởng đến hoạt động của bổn hội.
Tuân Khánh có dung mạo đoan chính, trang nghiêm, tính tình trầm tĩnh, ôn hòa, xử sự thì cương quyết và chu đáo. Trước giờ, họ Tuân vẫn được anh em trong hội kính trọng, nể sợ. Nay nghe Tuân Khánh phân tích sự vật một cách khách quan, rạch ròi như thế, mọi hoài nghi tan biến cả. Và có kẻ thẳng thắn nêu ý kiến, đó là chủ phân hội Thiểm Tây:
- Bẩm Tuân Đường chủ! Thuộc hạ cứ thắc mắc mãi, không hiểu Hội chủ và tiểu thư bị hạ độc bằng cách nào. Trà không có độc và cơm tối thì dùng chung với chúng ta. Hơn nữa, chẳng ai có động cơ để ám hại họ cả.
Tuân Khánh đưa tay gãi sống mũi rồi nói tiếp:
- Lão phu cũng đã suy nghĩ như Hà lão đệ. Quả đúng là không có ai có động cơ và điều kiện để hạ độc. Lúc này, lão phu chưa thể khẳng định nguyên nhân, phải chờ xem diễn tiến bệnh tình của nạn nhân như thế nào.
Và lão vòng tay nói với Tử Khuê:
- Nay công tử là quyền Hội chủ, xin hãy tiếp tục chủ trì đại hội. Lão phu xin phép được ra ngoài chăm sóc Hội chủ và tiểu thư.
Nãy giờ Tử Khuê ở trong tâm trạng hồi hộp lo âu, hối tiếc vì đã hạ thủ cả Tiêu Hội chủ, gây ra sự nghi ngờ to lớn. Chàng thầm trách mình là kẻ ấu trĩ, không nhìn xa trông rộng. Một mình Dị An phát cuồng thì còn được. Nay cả hai cha con đều nhất loạt loạn tâm, bảo sao Tuân Khánh không ngờ vực?
Chất độc “Cuồng Tâm tán” trong máu hai nạn nhân có thể bị Lôi Đình Đế Quân phát hiện ra và lão sẽ nghĩ đến chàng.
Nhưng cảm giác sợ hãi đôi lúc lại khiến người ta hổ thẹn và phẫn nộ, nhất là đối với một chàng trai mang bản chất anh hùng hiệp sĩ như Tử Khuê. Chàng liền nghĩ rằng lão Trác Ngạn Chi chết giẫm kia có gì đáng sợ, khi chàng đã tỏ tường võ công của lão.
Chủ ý ấy đã nâng đỡ tinh thần của Tử Khuê. Chàng bình tâm dấn thân chơi tiếp canh bạc dở dang. Tuấn Khanh đi rồi, Tử Khuê liền ngồi vào ghế Hội chủ và vui vẻ mời tổng quản Du Vinh cùng mình điều khiển đại hội. Họ Du khoan khoái nhận lời, nhắc nhở tân Hội chủ xử lý cho xong việc hai mươi sáu gã môn nhân phạm lỗi.
Tử Khuê cầm bảng danh sách, đọc qua loa rồi đứng lên, điềm đạm tuyên bố:
- Bổn nhân trộm nghĩ rằng khi chúng ta tôn thờ Kinh Kha làm tổ sư thì cũng nên hành sự cho giống họ Kinh. Một bậc anh hùng cái thế như Kinh tổ sư chắc cũng không nỡ giết một người cha để bảy đứa con thơ phải mồ côi, không nơi nương tựa. Vậy thì xét cho cùng, Từ Phong và Từ Vũ đã hành động đúng. Còn hai mươi bốn vị kia cũng không có lỗi khi thất bại. Năm xưa, Kinh Kha cũng đâu có giết được Tần Thủy Hoàng. Tóm lại, bổn nhân quyết định tha bổng tất cả.
Không phải chỉ riêng hai mươi sáu gã sát thủ phạm lỗi, hầu như tất cả mọi người hiện diện đều vỗ tay hoan hô cách ứng xử nhân từ của tân Hội chủ. Bao năm qua, Tiêu Lạp Dân đã ỷ vào thuốc độc mà bắt bọn môn nhân phải chịu đựng những quy củ cực kỳ khắt khe, tàn nhẫn.
Con sâu cái kiến còn ham sống nên khi gặp mục tiêu quá khó khăn, người ta phải tháo lui để bảo toàn tính mạng. Hành vi ấy hoàn toàn hợp lý, song Lạp Dân không chấp nhận, khép tội họ và xử phạt rất nặng.