Ghi chú đến thành viên
Ðề tài đã khoá
 
Ðiều Chỉnh
  #16  
Old 30-04-2008, 04:54 PM
dunghoitaisao127's Avatar
dunghoitaisao127 dunghoitaisao127 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 39
Thời gian online: 4 ngày 16 giờ 13 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 17 : Lộ thượng ngộ Long Vân
Tây khứ tầm linh quả



Sáng hôm sau, toàn bộ khách khứa rời khỏi Lư gia trang, trong hầu bao nặng trĩu lễ vật tạ ơn của chủ nhà.
Tặng phẩm dành cho Ngân Diện Hầu dĩ nhiên là hậu hĩnh nhất. Mẫn Hiên không chỉ giải thoát cho Kỹ Lưu Tiên mà còn đồng thời cứu vãn cơ nghiệp Lư gia. Quan San đã tìm thấy số châu báu trị giá đến hai chụcvạn lượng vàng trong nhà Cảnh Duy. Tài sản này, Xảo Diện Khách đã trộm từ lúc nào mà Cảnh Thuần cũng chẵng hề hay biết.
Đám tang của Lư Công Đán thật chưa thể cử hành được vì không tìm ra xác. Có lẽ lão chưa chết và bị giam cầm ở Long Vân Bảo?
Tuy biết rõ lai lịch kẻ thù nhưng Tử Khuê lại khuyên nhà họ Lư đừng khai ra. Không nhân chứng thì kiện cáo cũng vô ích và còn mang họa, vì Long Vân Tú Sĩ sẽ dốc hết lực lượng sát nhân diệt khẩu.
Ngân Diện Hầu là đại ân nhân và luận việc rất sáng suốt, nên Lư trang chủ nhất nhất nghe theo. Do đó, trong văn án của Nha môn Dụ Châu không có tên Long Vân Bảo. Đương nhiên, trong danh sách tang vật cũng không nhắc đến viên “Hắc Ngọc”, Dịch Quan San đã chiếm lấy để tặng cho em rể mình. Vô Tướng Quỷ Hồ chẳng ngờ rằng hành vi ấy là mầm đại họa về sau!
Công trạng của Dịch Quan San cũng rất lớn, chỉ đứng sau Ngân Diện Hầu. Gã được trả ơn bằng số vàng năm trăm lượng.
Phần của Tử Khuê là bao nhiêu thì chẳng rõ bởi chàng đã không nhận. Lư Cảnh Thần ép mãi chẳng được liền lén lút trao cho Tống Tiểu Tinh. Đàn bà luôn dễ dãi, mũi lòng trước những lời năn nỉ và ả họ Tống đã cầm lấy.
Gần cuối giờ Mão, sáng hai mươi tám tháng hai, bọn Tử Khuê lên đường đi Hứa Xương chứ không về Trình phủ như đã định. An nguy của Kỹ Tòng Thư đã khiến bọn Thiên Kim quyết định như thế.
Nàng rất áy náy, hết lời tạ lỗi với Ngân Diện Hâu. Nhưng Tiêu Mẫn Hiên chẳng hề bực bội mà vui vẻ nói:
- Tại hạ là kẻ rảnh rang, dư thời gian để nhàn du, trước sau gì cũng có dịp đến bái kiến lệnh đường. Nay sẵn dịp chư vị về Hứa Xương, tại hạ cũng xin tháp tùng. Nghe nói đất ấy có rất nhiều danh lam, thắng cảnh.
Giờ đây, ai nấy đều thán phục và yêu mến Mẫn Hiên, chẳng còn nghi ngại, khách sáo nữa. Vả lại, nếu quả thật Kỹ lão đã bị Long Vân Bảo bắt được thì họ rất cần đến bản lãnh võ công siêu phàm của Ngân Diện Hầu.
Dịch Quan San đã chứng kiến chiêu kiếm kỳ tuyệt mà Mẫn Hiên thi triển để giết hắc y lão nhân dưới mật thất. Gã hiểu rằng Tiêu Hầu không chỉ có tài phóng phi đao mà còn là một kiếm thủ thượng thừa. Tất nhiên Quan San kể lại cho Tái Vân và Thiên Kim nghe.
Nhưng Dịch Quan San đã không nhận ra “Thanh Long kiếm pháp”, còn hai ả mặt ngọc thì chẳng thấy tận mắt. Trong lúc cấp bách Tử Khuê đã phải sử dụng tuyệt kỹ quen thuộc từng khổ luyện nhiều năm, chứ không dám thi thố “Lôi Đình kiếm pháp” vừa mới học xong vài tháng.
Thế là đoàn nhân mã vẫn đông đủ như lúc rời Đăng Phong, rầm rộ ngược bắc. Bọn kiếm thủ người Thổ chỉ bị thương nhẹ vài tên, không ai mất mạng. Giờ đây, mặt mày chúng rạng rỡ vì hầu bao rủng rỉnh bạc thưởng của họ Lư, và trên đầu là những chiếc nón tre mới toanh. Nón cũ đã rách bươm trong trận đánh đêm qua được thay ngay, vì chỗ nào cũng có bán. Lớp khiên thép bên trong còn nguyên vẹn, dễ dàng ép vào nón mới bằng vài mối dây cột.
Bọn sát thủ Thần Phong Hội, thủ hạ của Ngân Diện Hầu càng bội phần khoái chí hơn khi ngoài trăm lượng bạc thưởng của Lư Công Đán, họ còn được Tiểu Tinh dúi cho mỗi gã năm chục lượng vàng ròng lấy từ phần tặng phẩm của Tiểu Hầu gia.
Hai ngày sau, đoàn người đến Nghiệp Thành, quê hương của Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy. Dĩ nhiên, họ phải ghé Hồng Vận đại phạn điếm thăm Tống lão và được mời ở lại qua đêm.
Tối ấy, Tống Nhiên phụ thân Tống Thụy đã bí mật đến phòng riêng của Thiên Kim và Tái Vân. Chẳng hiểu lão đã nói gì mà sáng hôm sau hai người có vẻ ngượng ngùng với Ngân Diện Hầu.
Trưa ngày mồng ba tháng ba, bọn Tử Khuê chỉ còn cách Nhưỡng thành mười mấy dặm. Mé tả đường là ngô đồng rậm rạp, lá xanh um bởi đây là mùa xuân, hơi thu còn rất xa. Nhưng phía bên phải đường lại thấp hẳn xuống thành một vùng trũng rất lớn. Độ sâu của nó chỉ độ năm trượng, song nếu ai ngã xuống đấy thì cũng khó toàn mạng vì dưới đấy ngổn ngang đá tảng.
Để giữ cho đất nền đường quan đạo ấy không bị lở, người ta đã trồng những cây hoàng dương với mật độ dày hơn phía đối diện. Nhưng đương nhiên, do hoàng dương là thân cây gỗ, nên giữa hai gốc vẫn có khoảng cách nhất định.
Và hiện giờ có một hóa tử to béo ngồi dựa gốc cây, mắt nhắm nghiền, y phục bê bết máu. Ngựa của gã đứng gần đấy thản nhiên gặm cỏ, còn cây thương sắt dài thượt thì nằm lăn lóc trên mặt đường.
Cảnh tượng này đã đập vào mắt ba người dẫn đầu đoàn lữ khách. Đó là Tử Khuê, Trình Thiên kim và Dịch Tái Vân.
Họ chẳng khó khăn gì để nhận ra nạn nhân đó là Hồ Đồ Thần Thương Khổng Đam. Hôm rằm tháng hai, có lẽ sợ chạm mặt Nam Thiên Tôn nên Khổng Đam không đến xem cuộc phó ước. Gã đã bỏ đi đâu thì chẳng ai rõ.
Giờ gặp lại họ Khổng, thấy gã bị đánh trọng thương, ba người rất lo lắng. Trình Thiên kim oai vệ giơ tay ra hiệu quát lớn:
- Dừng ngựa!
Biết đã có chuyện lạ, những kỵ sĩ phía sau vội gò cương. Do tuấn mã của Khổng Đam đứng cách gã hơn ba trượng, quay mông ra ngoài chắn đường nên bọn Tử Khuê đã phải dừng lại sai vị trí.
Nạn nhân là đàn ông nên Ngân Diện Hầu tức Tử Khuê phải là người đi đến xem xét thương thế Khổng Đam. Thiên Kim và Tái Vân chậm hơn một chút, bám theo sau.
Đi được vài bước bỗng Tử Khuê thấy Hồ Đồ Thần Thương cử động, khiến cho đầu gã trượt khỏi thân cây chỉ còn dựa dẫm bằng một bên vai. Tư thế này rất chông chênh, hiểm nghèo, bởi nạn nhân chỉ cần cựa quậy thêm một lần nữa thì sẽ bị mất điểm tựa, ngã bật ngữa rơi xuống hố trũng.
Tử Khuê kinh hãi nhảy vào đến để giữ cái xác to như bò mộng của Hồ Đồ Thần Thương lại. Nhưng đồng thời trong tâm trí Tử Khuê lại hiện ra một kỷ niệm đau lòng. Ngày ấy, Quân Sơn Chân Nhân cũng ở trong tư thế tương tự và vì sơ xuất mà chàng phải lãnh hậu quả nặng nề.
Như chim sợ cành cong, bất giác Tử Khuê dồn chân khí ra song thủ, cơ thể căng cứng trong tình trạng cảnh giác cao độ.
Nói thì hơi lâu song việc ấy diễn ra rất nhanh, bởi Tử Khuê đã tiếp cận nạn nhân. Tất nhiên chàng không thể nhảy qua người Khổng Đam mà phải hạ thân xuống mép trái của gã. Và vì họ Khổng đang ngồi duỗi chân trên mặt đất nên Tử Khuê cũng phải ngồi xổm thì mới nắm giữ được người gã.
Tử Khuê đã làm như thế, thò tay tả chụp giữ đùi Khổng Đam để đề phòng gã rơi xuống hố. Đúng lúc ấy, cánh tay hữu của nạn nhân đang ở thế giơ cao và bám vúi vào thân cây bỗng vỗ thẳng vào đầu Tử Khuê.
Dẫu cho nền khí công Trung Hoa có đạt được những thách tích kỳ diệu làm kinh ngạc cả thế giới thì cũng chẳng thế biến cái đầu một vỏ sĩ thành sắt thép đựơc. Não bộ con người mềm mại, mỏng manh và rất dễ bị thương tổn. Quanh xương sọ lại chẳng có bắp thịt che chở, trong khi đặc tính của chân khí là làm tăng thêm độ bền chắc bề mặt và tính đàn hồi. Do đó, “Thạch Đầu Công” chỉ là trò tiểu xảo của bọn Sơn Đông mãi võ và thủ cấp vẫn là nhược điểm muôn thuở của các cao thủ võ lâm.
Còn bàn tay thì lại khác, không chỉ những người có nội công mà ngay cả kẻ luyện ngoại công cũng có thể đấm vỡ tấm ván dày, vỗ nát gạch ngói.
Nghĩa là trong hoàn cảnh này, bàn tay to như nải chuối của Khổng Đam thừa sức vỗ bể sọ Tử Khuê, hay chí ít cũng làm chấn thương sọ não bên trong. Gia dĩ, Hồ Đồ Thần Thương lại nổi danh thần lực, cánh tay to như cột đình, sức mạnh vài trăm cân. Xem ra Tử Khuê khó mà toàn mạng.
Nhưng may thay, hình thức của cái bẫy độc ác độ này lại rất giống những gì đã xảy ra cho Tử Khuê ở Độc Nha Sơn, vì vậy mà chàng thoát chết.
Trong chớp mắt, Tử Khuê đã nghiêng người sang mé tả và cử hữu thủ đỡ lấy đòn ám tập sấm sét kia. Song chưởng chạm nhau, lực phản chấn xô Tử Khuê văng ra ngoài sau, và đẩy Khổng Đam xuống vùng trũng ven đường.
Tiếng rú thảm khốc của họ Khổng đã bị tiếng kêu thất thanh của bọn Thiên Kim át mất.
Không chỉ có hai nữ nhân chứng kiến, Dịch Quan San và những kỵ sĩ đứng đầu cũng thấy khá rõ nhờ ngồi trên lưng ngựa. Họ đã kinh hãi thét lên với niềm tuyệt vọng, vì cho rằng Ngân Diện Hầu không biết mình bị ám toán.
Khi nhận ra Mẫn Hiên đã thoát hiểm, Vô Tướng Quỷ Hồ lại nghĩ đến việc khác. Gã vận công quát lớn:
- Có mai phục!
Được huấn luyện rất chu đáo nên bọn kiếm thủ người Thổ lập tức lật nón làm khiên, rời lưng ngựa và lập thành phòng tuyến. Dĩ nhiên họ che chắn cả vị trí mà Ngân Diện Hầu đã bị đánh văng đến.
Dịch Quan San phán đoán rất chính xác, phản ứng kịp thời nên đã tránh được tổn thất. Từ khu rừng ngô đồng mé tả đường, tên bay ra như mưa. Khách giang hồ thường dùng cung ngắn, mũi tên không được bọc kim loại nên chẳng xuyên thủng được những chiếc nón tre lót thép. Chỉ có vài con tuấn mã thọ tiễn vào đầu, cổ đau đớn hí vang lồng lên bỏ chạy hoặc gục ngã.
Thấy cung tiễn vô dụng, bọn phục binh liền rút gươm tràn ra đông đến hơn trăm tên. Y phục của chúng không giống nhau, song tên nào cũng khoát trên lưng một tấm áo choàng màu lá rừng để ngụy trang.
Tránh rơi vào cảnh một chọi số nhiều, Dịch Quan San chỉ huy đám thuộc hạ giữ vững trận “Khiên Bích”. Chiến thuật này rất hữu hiệu vì khiên, thuẫn là thứ vũ khí chuyên về phòng vệ.
Phép đánh kiếm thuẫn của bọn Xoa Lạp Cốc chẳng có điểm nào tương đồng với “Phong Đô kiếm pháp” của Nhạc Tự Chương cả. Nó thuộc một dòng võ học khác, thích hợp với sa trường hơn là chốn giang hồ. Nguyên nhân vì sao thì hồi sau sẽ nói đến.
Giờ đây, chúng ta chỉ cần biết kỹ binh bị ấy rất lợi hại, công thủ vẹn toàn, phe địch xông vào là bị đánh bật ra và còn thiệt quân nữa. Một số thương vong bởi kiếm thuẫn, số khác chết vì những mũi “Liễu diệp phi đao”. Toán sát thủ Thần Phong Hội đã chia nhau đứng rải rác khắp chiều dài phòng tuyến, sau lưng bọn dũng sĩ người Thổ. Cũng như đêm hôm trước, những mũi dao đen sì lại lén lút bay ra. Người phóng dao không hề giơ cao cánh tay nên phe địch khó mà phát hiện ám khí. Xem ra, tuyệt kỹ ấy của nhà họ Tiêu cũng đáng được ca ngợi.
Thế lúc này chàng trai họ Quách của chúng ta ra sao? Tất nhiên là Tử Khuê chẳng hề hấn gì cả. Được Thiên Kim và Tái Vân thực lòng lo lắng cho, chẳng tỵ hiềm lễ nghĩa, chạy đến đỡ lên. Tử Khuê liền giả vờ thọ thương để được hưởng thụ những giây phút cận kề hiếm hoi. Dịch Tái Vân mang ơn Mẫn Hiên rất nặng nên cuống quít hỏi ngay:
- Thương thế của Hầu gia có nặng lắm không?
Tử Khuê nhăn nhó rên rỉ, thản nhiên tựa vào hai nàng mà uể oải đứng dậy. Nhưng Tống Tiểu Tinh đã đến nơi, mắt đẫm lệ. Nàng rui giọng bảo:
- Để nô tì xem qua vết thương của Hầu gia một chút.
Phía sau Tiểu Tinh còn có anh em họ Từ. Thiên Kim và Tái Vân cảm thấy ngượng, giao Ngân Diện Hầu lại cho họ rồi chạy ra tham chiến.
Tử Khuê tiếc hùi hụi, gượng cười nới với Từ Phong, Từ Vũ:
- Ta không sao! Nhị vị cứ yên tâm mà cự địch.
Hai gã mừng rỡ mỉm cười quay bước ngay. Ở đây, Tiểu Tinh thăm mạch cho chủ nhân, thấy kinh mạch chàng vẫn bình thường liền tủm tỉm bảo:
- Té ra Hầu gia giả đò thụ thương để cận kề hai người đẹp kia.
Ánh mắt chẳng chút ghen hờn vì nàng đã xác định thân phận của mình. Tử Khuê cũng không giấu giếm việc chàng đi ái mộ Thiên Kim và Tái Vân.
Tử Khuê sượng sùng nói sang chuỵên khác:
- Phải chăng phe đối phương là Long Vân Bảo?
Tiểu Tĩnh gật đầu xác nhận và hiếu kỳ hỏi lại chàng:
- Sao Hầu gia biết đấy là bẫy rập mà đề phòng? Nô tài và mọi người đều hoảng vía, cho rằng Hầu gia khó mà toàn mạng.
Tử Khuê chẳng thể thú thực, liền nói tránh đi. Chàng cười khà khà đáp bỡn:
- Bổn nhân là tướng tinh giáng phàm, có thể linh cảm được tai họa nên chẳng cái bẫy nào hại nổi.
Nói xong, chàng quàng vai Tiểu Tinh, dìu nàng đi đến ngồi dưới gốc hoàng dương râm mát. Dáng điệu uể oải, ủ rũ ấy sẽ khiến người tưởng chàng đã thọ thương.
Thực ra chàng làm như thế vì không muốn tay mình nhúng máu quá nhiều. Từ sau cuộc đàm đạo với Lỗ Phán Quan ử Lư gia trang nhân đám cưới của Lư Công Đán và Kỹ Lưu Tiên, Tử Khuê đã cố sức giới sát. Chàng tự nhủ rằng sẽ chỉ tiêu diệt những kẻ đại ác khi chẳng thể đừng. Một người tin vào sự hiện hữu của đạo trời thì luôn biết sợ quả báo.
Nhưng kẻ địch mai phục chốn này là để giết Ngân Diện Hầu cho bằng được. Và chúng chỉ thấy chàng bị đánh văng đi, lăn lông lốc chứ không biết rõ nội tình. Hàng cây ngô đồng ngoài cùng cách đường quan đạo đến năm sáu trượng, nếu không thì bọn Dịch Quan San đã có thể phát hiện ra phục binh.
Đối phương chẳng ngờ rằng Tử Khuê hoàn toàn vô sự, và do muốn bỡn cợt thề thiếp mà chàng có dáng vẻ bạc nhược như thế. Cho rằng cơ hội ngàn vàng đã đến, ba đại cao thủ Long Vân Bảo liền tìm cách tiếp cận con hổ bị thương.
Ba người ấy gồm Vân Nam Song Hiệp và một lão già áo xanh, mặt đen, râu quai nón bạc trắng. Chiếc mũi két cong khoằm, oai vệ của thanh y nhân là một trong những đặc điểm đã tạo nên danh tiếng của Hắc Diện Thần Ưng Lý Quang Ban. Họ Lý là đệ nhất cao thủ vùng Hoa Nam, võ nghệ hơn Vân Nam Song Hiệp một bậc. Lão ta còn có biệt tài nhớ mùi, đánh hơi rất linh diệu chẳng thua gì lũ chó săn.
Vũ khí thành danh của họ Lý là một thanh “Ưng trảo” bằng thép ròng, đen bóng và dài hơn trường kiếm nửa gang tay. Tuy mang tên vuốt ưng nhưng nó lại có đến năm ngón. Ngón giữa thẳng có phần mũi dẹp, vửa nhọn vừa sắc cả hai bề, dùng để đâm và chém. Bốn ngón còn lại cong cong, ngoài công dụng sát thương thì còn có thể khóa cứng vũ khí đối phương mà đoạt lấy.
Có lẽ đây là Hắc Diện Thần Ưng thứ thiệt, bởi lão ta đang thi triển pho tuyệt học “ Ưng trảo truy hồn” đánh cho những chiếc nón thép phải rách toang. Vũ khí của lão khá nặng và rất sắc bén.
Bên cạnh họ Lý còn có Vân Nam Song Hiệp, kiếm thuật cao cường, nên bọn dũng sĩ người Thổ không sao chống đỡ nỗi. Từ Phong, Từ Vũ cũng chiến đấu ở đoạn phòng tuyến này đã phóng liền mấy mũi phi đao mà không thành công. Họ đành phải múa kiếm xông vào ngăn chặn đối phương.
Nhưng ba lão quỷ kia công lực thâm hậu, võ nghệ cao siêu khi liên thủ đã tạo thành một mũi tấn công vô cùng mãnh liệt. Trong phút chốc, ba lão đã đánh bạt hai gã họ Từ và bốn năm gã kiếm thuẫn, vợt hết chiều ngang đường quan đạo mà tiếp cận Ngân Diện Hầu. Sau lưng họ còn có mười tám thủ hạ nữa. Và chính bọn này đã lập thành hàng rào vững chắc để hai thượng cấp tính sổ Ngân Diện Hầu, dưới sự chỉ huy của một lão trong Vân Nam Song Hiệp.
Tất nhiên là Tử Khuê và Tống Tiểu Tinh không ngồi yên chờ chết. Hai người đã đứng bật dậy rút gươm thử thế. Nhưng phe địch không tấn công ngay, đình bộ cách đó hơn trượng. Có vẻ như họ chẳng hề ngán sợ mũi phi đao thần sầu quỷ khốc của ngài Võ lâm đệ nhất cao thủ vậy.
Hắc Diện Thần Ưng cười khẩy nhìn Ngân Diện Hầu với vẻ khinh thị và nói:
- Sao tiểu tử ngươi không trổ tài phóng phi đao để lão phu được thưởng lãm?
Tử Khuê chột dạ, đoán rằng đối phương có áo giáp hộ thân, hoặc đã gặp Xoa Lạp Cốc chủ Nhạc Tự Chương, nên mới có thái độ này? Bản thân chàng thì quá rõ nguyên nhân. Chàng đã thấy cánh tay hữu của Nhạc cốc chủ đột nhiên co giật khiến đường kiếm lệch khỏi quỹ đạo, không chém trúng mũi “Thất hưu đao”. Cộng với việc Nhạc Cuồng Loan bất ngờ khuỵu xuống, ngã bật ngữa khi sắp đổi mạng với Tái Vân, Tử Khuê nghĩ ngay đến sự can thiệp của Lỗ Phán Quan. Chàng rất biết ơn, song cũng khá bực bội khi Lỗ Trực không chịu gặp mình mà cứ âm thầm chi phối như kẻ điều khiển con rối vậy. Nhưng chàng vốn rộng lượng nên đã tự an ủi rằng Lỗ phán quan có lý do bất khả kháng.
Tử Khuê hoang mang, chưa biết tính sao thì lão thứ hai trong Vân Nam Song Hiệp đã nóng nảy bảo:
- Tên tiểu tử! Nếu ngươi ngoan ngoãn trả lại ngay bảo vật, lão phu hứa sẽ ban cho một cái chết toàn thây.
Tử Khuê ngơ ngác đáp:
- Bảo vật nào? Bổn Hầu gia chẳng bao giờ lấy cái không phải của mình.
Lão kia bực tức gằn giọng:
- Đừng giả vờ trong sạch! Chính ngươi đã lấy viên “Hắc ngọc” trên cổ Xảo Diện Khách. Lão phu đã điều tra ở Nha môn Dụ Châu, và khám xét thi thể Khưu lão huynh mà chẳng thấy đâu.
Tử Khuê đã hiểu ra và biết viên Hắc Ngọc đang ở đâu. Đêm ấy, chàng ngại giết người nên đã nấp sau một gốc cây và thấy Dịch Quan San lục lọi cái xác của Khưu Trọng Nhiệm.
Chàng không trách họ Dịch tham vật mà còn cao hứng khi thấy gã đã nẫng được của kẻ thù một vật quý giá.
Tử Khuê mỉm cười gật gù:
- Té ra là vật ấy. Thôi được, ta sẽ hoàn lại để giải tỏa hiềm khích giữa đôi bên.
Câu nói này của chàng hàm ý cầu cạnh, mong đối phương tha mạng cho. Và chàng quay sang, nháy mắt với Tiểu Tinh rồi bảo:
- Túc muội! Hãy trả cho họ đi!
Túc là chân và Tiểu Tinh không hề có cái tên ấy. Nàng hiểu ý chàng, gật đầu rồi tháo tay nải trên vai xuống. Và nàng bất ngờ quẳng nó về phía đối phương. Sau đó, Tiểu Tinh phóng liền một mũi phi đao vào hạ thể lão già người Vân Nam.
Cùng lúc ấy, Tử Khuê cũng dùng “Thất hưu đao” chọn đùi trái Hắc Diện Thần Ưng làm mục tiêu. Đúng ra thì chàng nên bắt chước Tiểu Tinh để có một cái bia rộng hơn. Song chàng là bậc trượng phu chứ chẳng phải đàn bà, không nỡ đánh vào cái chỗ có thể khiến đối phương tuyệt giống, hoặc phải tủi thân đến mức treo cổ chết quách cho xong. Già khú đế như Nam - Bắc Thiên Tôn mà còn mê gái, huống hồ Vân Nam Song Hiệp tuổi mới ngoài sáu mươi.
Đối thủ của Tống Tiểu Tinh là lão Đại, nếu đúng người thật thì tên gọi Nghiêm Biểu Thành. Còn lão Nhị tên Nghiêm Biểu Thực đang đánh nhau với Dịch Quan San và Dịch Tái Vân ở vòng ngoài.
Anh em học Dịch chịu ơn sâu của Ngân Diện Hầu nên đã cố sức phá vây vào hỗ trợ, song chưa đẩy lui được Vân Nam lão Nhị. Hai gã họ Từ cũng bị chậm chân lòng nóng như lửa đốt.
Nhắc lại Vân Nam lão Đại bị Tiểu Tinh vung tay nải vào mặt, tuy nhất thời bối rối song cũng đã phản ứng rất hữu hiệu. Lão lập tức vung kiếm chặn bọc vải nhỏ kia lại, lách sang một bên để tránh ám khí. Do đó, lão chỉ bị lưỡi phi đao cắt rách y phục và trầy da đùi.
Nghiêm Biểu Thành giận dữ xông đến, quyết phân thây cái con nô tỳ xảo trá, độc ác. Lão mà không nhanh chân thì đã nát tan của quý, ôm hận cho đến chết. Lão có bốn nàng tiểu thiếp mởn mơ, nõn nà chứ đâu ít.
Nhưng Tống Tiểu Tinh chẳng hề sợ hãi, ung dung múa gươm giải phá chiêu công vũ bão của đối phương. Kiếm pháp của nàng là sự pha trộn giữa tuyệt kỹ Lôi Đình và sở học của Thần Thuỷ Độc Vương. Cao lão thọ gần trăm tuổi, cuối đời dốc chí tu tiên, đạo tâm sáng loá nên kiếm pháp cũng uyên thâm hơn trước.
Độc dược là một ngành quan trọng của y học, phải là kẻ giỏi y thuật thì mới có thể nghiên cứu chất độc. Do đó, Thần Thuỷ Độc Vương chính thị một vị danh y. Và ông đã dùng sức thuốc để tài bồi cho cô học trò nhỏ đáng thương của mình. Nhờ vậy mà công lực của Tiểu Tinh thâm hậu hơn tuổi tác, có thể ngang nhiên cầm cự với cao thủ lão làng như Nghiêm Biểu Thành.
Phần Tiểu Tinh là thế, còn phía Tử Khuê thì sao? Mũi “Thất hưu đao” của chàng chẳng làm nên tích sự gì cả, và đã bị Hắc Diện Thần Ưng chặn đứng bằng một thế thức cực kỳ thần tốc.
Nhưng lão mặt đen ấy chưa kịp đắc ý thì Tử Khuê đã ập đến, xuất chiêu “Thiên Long yểm nhật”. Đây là một trong những chiêu cuối cùng của pho “Thanh Long kiếm pháp”, ảo diệu phi thường, song cũng vô cùng phức tạp, khó khăn. Ngay Băng Tâm Ma Nữ, mẫu thân Tử Khuê cũng chỉ đạt đến bốn thành hoả hầu của chiêu kiếm này. Riêng Tử Khuê, nhờ có căn cơ thượng phẩm, giác ngộ được đạo biến hoá trong kiếm thuật, nên đã đạt đến sự tinh tuý tận cùng.
Thanh trường kiếm trong tay chàng bay lượn nhanh hơn cơn lốc, trong khoảnh khắc đã đánh ra mấy trăm thế thức, hư thực khó phân, kiếm ảnh mịt mờ vây chặt đối phương.
Lý Quang Bân có cảm giác không gian như chợt u ám hẳn đi, vì từ lớp sương mờ kia hơi thép lạnh ghê người đang xâm chiếm toàn bộ thân trên của lão. Trường kiếm của Ngân Diện Hầu chỉ còn là những vệt dài mờ mờ, đảo lộn cuồng loạn tựa đàn rồng thiêng đang che phủ vầng dương.
Hắc Diện Thần Ưng kinh hoàng trước chiêu kiếm khoáng cổ tuyệt kim ấy, cắn răng dồn hết mấy chục năm tu vi vào hữư thủ, múa tít thanh “Ưng trảo”, dệt màn lưới thép mà phòng thân.
Quả xứng danh bá chủ Hoa Nam, trước mặt Lý Quang Bang hiện ra một luồng hắc quang dày đặc, kín đáo, liền lạc tựa da trời. “Ưng trảo” xé gió vù vù, khí thế rất mãnh liệt tưởng như có thể đánh bạt cả cuồng phong.
Nhưng thay vì thép chạm thép vang rềnh thì chỉ có những tiếng “tinh tang” rất nhẹ. Tử Khuê đã đưa kiếm xuyên qua màng trảo ảnh, lần lượt đâm vào năm phương vị trên người kẻ địch, mà mũi kiếm chỉ phớt chạm thanh “Ưng trảo”.
Điểm kỳ ảo của chiêu “Thanh Long yểm nhật” là như thế đấy. Chỉ sau khi thụ dụng “Thiên niên Hà thủ ô” trong Từ Thạch ốc, Tử Khuê mới đủ chân khí để thi triển thành công chiêu kiếm thần diệu này. Mỗi nhát đâm của chàng phải có tốc độ tương đương cú mổ của độc xà, nghĩa là chỉ bẳng nửa cái chớp mắt.
Tử Khuê đắc thủ song kết quả chẳng hề khả quan. Bởi đúng là Hắc Diện Thần Ưng có mặc áo giáp bên trong tấm trường bào lụa màu xám tro. Nhờ vậy mà Lý Quang Bân không chết bởi hai nhát kiếm đâm trúng ngực, mà chỉ bị thương ở hai đùi và trán. Ba thương tích ấy cũng không nặng vì chính hai nhát đâm vào áo giáp đã đẩy lão lùi lại một chút. Nếu không thì Thần Ưng đã thủng óc, đứt động mạch đùi, biến thành món gà nướng cho Diêm Vương.
Thoát chết trong đường tơ kẻ tóc, Lý Quang Ban thầm biết ơn Long Vân Tú Sĩ. Chính vị thượng cấp sáng suốt ấy đã cho lão mượn tấm bảo y này.
Tuy hơn ngán ngại tài đánh kiếm của Ngân Diện Hầu, song Hắc Diện Thần Ưng vì tự ái của một bá chủ, một cao thủ thành danh mà không chịu đào tẩu ngay. Lão còn cho rằng mình bị hạ phong vì gã oắt con kia đã chiếm được tiên cơ, khi lão mất thời gian đỡ gạt mũi phi đao. Lập luận cũng rất hợp lý vì các đại cao thủ thì bất cứ động tác thừa nào cũng tai hại, bị đối phương lợi dụng ngay. Hơn nữa lão có áo giáp bảo vệ ngực bụng, ưu thế rất lớn.
Do những suy nghĩ chủ quan ấy, Hắc Diện Thần Ưng bình tâm trụ tấn, chống đỡ chiêu kiếm thứ hai của Ngân Diện Hầu. Gã ta đã ập vào ngay chứ không để lão ta yên thân mà cân nhắc quá lâu.
Thần Ưng đã phán đoán có phần hợp lý chứ không sai hoàn toàn. Đầu và tứ chi là những bộ phận nhỏ bé linh hoạt, thường xuyên di động nên rất khó bị đâm trúng. Chiêu kiếm tiếp theo của Từ Khuê nhắm vào mặt Lý Quang Ban đã bị lão hoá giải chẳng mấy khó khăn.
Tử Khuê thực sự bối rối vì chưa bao giờ rơi vào hoàn cảnh này. Trong khi hai pho “Thanh Long kiếm pháp” và “Lôi Đình kiếm pháp” hầu như mọi chiêu kiếm đều có những thế thức đánh vào ngực, bụng đối phương. Ngay cả khi mục tiêu chính là vùng mặt thì chiêu ấy cũng có những đòn hư ảo, uy hiếp phần thấp hơn, dụ cho kẻ địch để lộ sơ hở ở đầu. Nay Lý Quang Bân mặc áo giáp, tất sẽ chẳng thèm lưu ý bảo vệ tâm thất, làm sao trúng kể được. Tử Khuê chỉ còn cách thi triển khoái kiếm đến độ chót, ra đòn như báo táp mưa sa, đâm chém vào những mục tiêu chật hẹp ấy chẳng theo một chiêu thức nào cả. Vì không có chiêu kiếm nào tấn công hai phương vị cách nhau quá xa là đầu và chân, bỏ qua thân giữa. Khi ấy đường gươm sẽ chậm chạp, lỗi nhịp và lộ sơ hở rất lớn.
Nhưng đây chính là lúc để Tử Khuê thâm nhập cảnh giới vô chiêu thượng thừa. Trong điều kiện bình thường, mục tiêu không bị giới hạn, kiếm của chàng biến hoá theo phương thức dùng một chiêu khác nối vào một chiêu dở dang, gọi là biến chiêu. Giờ đây thế thức nối tiếp thế thức, đòn nối tiếp đòn, liên miên bất tuyệt tựa sóng xô, lúc hư lúc thực chẳng theo khuôn khổ. Và khi đã vô chiêu thì đối phương không thể hoá giải được, chỉ còn cách né tránh họăc thoái hậu.
Dĩ nhiên là Tử Khuê chẳng đạt ngay cảnh giới ấy, mà phải sau một giai đoạn bỡ ngỡ. Ban đầu, Hắc Diện Thần Ưng đã chiếm thượng phong, dễ dàng tự vệ và phản công lại, thanh “Ưng trảo” đáng sợ của lão hung hãn bay lượn, chụp lấy thân thể to lớn không được áo giáp che chở của đối thủ. Cái bia của lão có diện tích rất rộng rãi và dễ bị tổn thương.
Những lúc ấy, Tử Khuê chỉ còn biết chống đỡ thụ động, rồi thoát ra bằng bộ pháp “Tiên nữ tuỳ phong”. Trong chớp mắt chàng đã ở ngoải tầm với của thanh “Ưng trảo” và ập vào phản kích.
Trong “Tam thập lục kế” của người Trung Hoa chẳng phải ngẫu nhiên mà “Tẩu kế” là mưu chước cuối cùng, và họ còn có câu “Tẩu vi thượng sách” hoặc “Dĩ đào vi thượng”. Thực ra, đào tẩu, tránh né là cả một nghệ thuật, một triết lý cao siêu, phải biết bỏ đi đúng lúc và đúng cách. Chỉ có những bậc trí giả mới nắm được tinh tuý của diệu kế này. Chẳng phải là “tẩu” trong lúc khó khăn, nguy hiểm, mà còn phải biết đào thoát khi đang thuận lợi, đắc thể. Phạm Lãi bỏ CâuTiễn, Trương Lương rời Lưu Bang được hậu thế xưng tôn là bậc minh triết, đã chứng tỏ giá trị của “Tẩu kế”.
Còn về phương diện võ học, nữ nhân luôn giỏi khinh công hơn nam nhân. Ngoài những yếu tố thể chất đã kể ở hồi trước, phải nói đến mặt tinh thần. Tựu trung, đàn bà vốn thực tế, ít ảo tưởng hơn đàn ông. Quan niệm sống của họ đơn giản, hiền hoà nhưng lại rất gần với chân lý, với đạo của tự nhiên. Họ khôn ngoan như dòng nước, tránh chỗ cao, chảy về chỗ thấp. Cho nên họ không háo danh, hoặc khi thanh danh có rồi thì chẳng luỵ vì danh. Họ sẵn sàng rút lui nếu chạm phải cường địch, chẳng dại gì ở lại mà thiệt thân. Chính vì thế, họ chú trọng vào môn khinh công, dùng cái tâm tư tinh tế, tỉ mỉ của mình mà tìm ra cách đào tẩu, tránh né nhanh nhất.
Tóm lại, vì những lý do ấy nên pho thân pháp “Tiên nữ quá phong” ảo diệu hơn pho khinh công “Thao quang” hoặc “Lôi Tinh”.
Tử Khuê biết cả ba pho khinh công này, song vẫn chuộng sở học của Hoành Sơn Ma Nữ hơn. Chàng nhờ nó mà cầm cự với Lý Quang Ban trong thế hạ phong, cho đến lúc giác ngộ hoàn toàn được yếu quyết vô chiêu.
Và khi đó, kẻ bị lép vế lại là Hắc Diện Thần Ưng. Lão tối tăm mặt mũi vì những nhát kiếm nhanh như chớp và cực kỳ chuẩn xác của đối phương. Chúng bám chặt thủ cấp của lão bất kể việc nó ngả nghiêng sang hướng nào. Và lão không sao dùng vũ khí mà đỡ gạt trúng lưỡi kiếm. Dù đã khôn ngoan thoái hậu nhưng gương mặt oai phong của Hắc Diện Thần Ưng cũng bị tàn phá. Thủng hai má, rách mũi, đứt vành tai bên tả…. là những thương tích không nguy hiểm đến tính mạng song cũng đã làm cho nạn nhân mất hết dũng khí.
Nhất là khi bên kia, Vân Nam lão Đại Nghiêm Biểu Thành đột nhiên rú lên thảm khốc, gục ngã đương trường. Hồn phi phách tán, Hắc Diện Thần Ưng ném mạnh một trái yên cầu xuống mặt đường, tạo ra luồng khói trắng mù mịt rồi đào tẩu.
Tử Khuê có thể phóng phi đao lấy mạng lão ta như từng giết Xảo Diện Khách, song chàng đã nương tay.
Chỉ lát sau, phe Long Vân Bảo rút sạch, để lại đấu trường hai mươi mấy tử thi.
Trưa mồng bốn tháng ba, đoàn người về đến Quách gia trang.
Tử Khuê bồi hồi xúc động bước qua cánh cửa nhà mình, nơi đầy ắp những kỷ niệm vui buồn của tuổi thơ. Nhưng sau lần đụng độ phục binh của Long Vân Bảo, chàng lại càng chẳng dám nghĩ tới việc tiết lộ lai lịch.
Gương mặt bình thản của Băng Tâm Mà Nữ Kỹ Thanh Lam đã khiến bọn Thiên Kim ngạc nhiên. Nữ Hầu đành hạ giọng lựa lời hỏi bà:
- Bẩm mẫu thân, dám hỏi người có nhận được tin tức gì từ Lữ gia trang hay không?
Quách phu nhân lắc đầu, cau mày hỏi lại:
- Không! Phải chăng các ngươi đã ghé Dụ Châu và biết được chuyện gì?
Dịch Quan San lo cho Kỹ Tòng Thư nên cướp lời Thiên Kim:
- Bẩm Lam nương! Thế Đại Cửu phụ hiện đang ở đâu?
Quách phu nhân ngơ ngác đáp:
- Đại ca ta đã đi du ngoạn Bắc Kinh từ hôm rằm. Nhưng sao thái độ các ngươi lại khẩn trương như thế?
Bọn Thiên Kim thở phòng nhẹ nhõm rồi kể lại chuyện Long Vân Bảo bắt cóc Kỹ Lưu Tiên để dụn Tong Thư đi Dụ Châu. Nghe xong Quách phu nhân đưa ra nhận xét:
- Lão thân hiểu rồi, có lẽ gã đưa thư là người của Long Vân Bảo. Nghe nói đại ca đi bắc kinh chẳng rõ bao giờ về nên phe đối phương thất vọng bỏ đi.
Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các cũng hiện diện. Lão vuốt râu đỡ lời:
- Phu nhân bàn rất phải! Nhưng lão phu e rằng kẻ địch đã lên Bắc Kinh tìm bắt Kỹ đại ca.
Băng Tâm Ma Nữ giật mình biến sắc:
- Cảm tạ Trình lão huynh đã chỉ giáo. Tiếc rằng chuyết phu đang lâm bệnh, lão thân chẳng thể xuất trang trong lúc này. Có lẽ…
Nghe nói Quách trang chủ ngã bệnh, Tử Khuê vô cùng lo lắng. Chàng cũng đoán ra rằng mẹ mình sẽ sai Thiên Kim, Tái Vân, Quan San kéo quân thượng kinh để rước Tòng thư. Không muốn họ vất vả, Tử Khuê lên tiếng:
- Bổn hội mới khai trương, mối mang chưa được nhiều. Nếu phu nhân chiếu cố, Bảo An Hội sẽ nhận việc này với giá phải chăng.
Quách nương mừng rỡ đáp:
- Thế thì hay quá! Bổn trang từng thọ ơn của Hầu gia nên chẳng dám hỏi giá cả.
Bà nói thế thì không khác gì bắt đối phương phải nói rõ phí tổn. Tử Khuê biết tỏng tính cẩn thận trong chi tiêu của mẹ mình, liền cười bảo:
- Kinh doanh phải minh bạch. Bổn hội chủ xin nhận bảo vệ Kỹ lão gia an toàn về đến đây, với giá một vạn lượng vàng.
Cái giá khá cao này đã khiến Quách phu nhân đau bụng và làm cho bọ Thiên Kim ngỡ ngàng. Ngân Diện Hầu đã hết lòng hỗ trợ họ, sao giờ lại mài dao sắc thế?
Tuy hà tiện nhưng Băng Tâm Ma Nữ vẫn xem trọng an nguy của đại ca mình hơn vàng bạc. Bà bóp bụng khẳng khái đáp:
Lão thân đồng ý! Xin Hầu gia tiến hành ngay cho. Lão thân có sẵn bức họa chân dung gia huynh, người của quý hội cứ đến Trương gia trang ở Chu Khẩu điếm phía Tây Nam thành Bắc Kinh tất sẽ gặp. Trang chủ phu nhân là biểu muội của anh em lão thân.
Tử Khuê gật đầu, quay sang bảo Từ Phong:
- Các hạ hãy dẫn anh em quay về Trịnh Châu, lấy thêm người rồi thượng kinh, đưa Kỹ lão gia về đây. Số vàng kia ta tặng hết cho các ngươi.
Vàng là cái thứ kim loại có màu sắc rực rỡ, hấp dẫn nhất thế gian, và không chừng còn có mùi quyến rũ nữa. Do đó, Từ Phong suy nghĩ rất nhanh:
- Nay công tử vì mê gái mà sẽ ở ghịt nơi này, chẳng cần bảo vệ nữa. Bọn ta dại gì mà không đi Bắc Kinh một chuyến cho thỏa chí bình sinh. Còn việc đưa lão họ Kỹ kia về Hứa Xương thì quá dễ, chỉ cần hóa trang cho lão là xong.
Đã có chủ ý, Từ Phong phấn khởi phúc đáp:
- Bọn thuộc hạ xin tuân mệnh! Kỹ lão gia sẽ hồi trang mà không mất một mảy lông.
Tử Khuê hài lòng, quay sang bảo Quách phu nhân:
- Xin phu nhân trao trước một nửa để anh em làm lộ phí. Số còn lại, bổn hội sẽ nhận khi hoàn thành nhiệm vụ.
Kỹ Thanh Lam rởi khách sảnh về khuê phòng lấy vàng và bức chân dung của Tòng Thư.
Sau bữa cơm trưa, bọn Thần Phong kiếm thủ lập tức lên đường. Hơi vàng đã khiến bọn họ phấn chấn, chẳng hề nghe mệt mỏi dù không được nghỉ ngơi.
Tử Khuê và Tiểu Tinh lưu lại làm thượng khách của Quách gia trang. Họ được chủ nhà bố trí ở trong một tiểu viện xinh xắn, mé tây vườn hoa lớn.
Ngay chiều hôm ấy, Tử Khuê theo đúng lễ mà hỏi han bệnh tình của Quách trang chủ. Chàng đã bủn rủn tứ chi khi nghe mẹ mình buồn rầu đáp rằng:
- Cảm tạ Hầu gia đã có dạ quan hoài. Chuyết phu tuổi cao, sức khỏe rất kém. Ông ấy lại thích uống rượu nên gan bị tổn thương. Mười ngày trước đã xuất hiện triệu chứng đau bụng, vàng da, vàng mắt. Lão thân e rằng chuyết phu khó thọ được lâu.
Tử Khuê cố nén lòng lại hỏi:
- Bẩm phu nhân! Chẳng lẽ không có kỳ trân, dị dược nào trị được bệnh ấy sao?
Băng Tâm Ma Nữ cười thảm:
- Thực ra, nền y học Trung Hoa đã bó tay trước rất nhiều căn bệnh chứ chẳng phải chỉ có tứ chứng nan y. Lão thân đã hấp thụ trọn vẹn sở học của Cửu Hoa Thánh Y mà cũng không cứu nỗi mạng trượng phu, ngẫm lại thật đáng hỗ thẹn.
Tử Khuê rầu rĩ trở về tiểu viện. Tống Tiểu Tinh nhận ra những nét ưu tư ấy khi chàng tháo mặt nạ bạc. Tiểu Tinh ân cần hỏi han và được nghe Tử Khuê thuật lại nguồn cơn. Nàng vốn là người nhân hậu nên buột miệng xót thương ngay:
- Tội nghiệp cho Quách trang chủ!
Bỗng Tiểu Tinh thoáng cau mày, trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Nô tài vừa chợt nhớ lời dạy của tiên sư. Người từng bảo rằng bệnh xơ gan cổ trướng có thể chữa khỏi nếu tìm được ba quả “Hắc ngọc tiên đào”. Loại kỳ trân này có diệu dụng sinh cơ tạo nhục, phục hồi những tổn thương trong phủ tạng con người.
Tử Khuê vui mừng khôn xiết, run giọng hỏi:
- Thế lệnh sư có đưa ra trường hợp cụ thể để chứng minh cho luận cứ ấy hay không?
Tiểu Tinh mỉm cười khẳng định:
- Bẩm có! Chính gia sư tổ là người chứng thực giá trị của “Hắc ngọc tiên đào”.
Tử Khuê cố nén nỗi hân hoan ngút trời, nói pha trò:
- Thế thì tốt quá. Bổn nhân sẽ đưa nàng đi tìm linh quả, về bán lại cho Quách gia trang mà kiếm vạn lượng vàng.
- Chẳng lẽ Hầu gia đã biết nơi có tiên đào?
Tử Khuê đắc ý gật gù:
- Đúng vậy! Địa phương ấy chính thị Lôi Đình Thần Cung.
Tiểu Tinh cho rằng Mẫn Hiên biết việc ấy qua Tiêu Lạp Dân nên không thắc mắc. Nàng chỉ lo lắng và lựa lời khuyên giải:
- Xin Hầu gia chớ vội mừng! Lôi Đình Đế Quân rất muốn cháu gái mình Tiêu Dị An lên làm Hội chủ Hoạch Đầu Hội. Nay Hầu gia tự ý thay đổi tôn chỉ của tổ chức ấy, nếu đến Thần Cung tất sẽ bị Trác cung chủ khép tội, chẳng chết cũng lâm cảnh lao tù. Nhược bằng Tiêu đại tiểu thư không thể khỏi bệnh, Trác Ngạn Chi cần người để duy trì cơ nghiệp Hoạch Đầu Hội nên nương tay, thì lão cũng chả dại gì ban cho Hầu gia ba quả tiên đào giá trị liên thành. Mong Hầu gia suy nghĩ lại!
Tử Khuê rất cảm động trước sự quan tâm sâu sác của Tiểu Tinh. Nhưng chàng chẳng thể nói ra sự thật, nên chỉ còn cách trấn an nàng:
- Ta đã hiểu được những khó khăn nàng vừa giải bày. Chúng ta không đến Thàn Cung một cách công khai, mà sẽ đột nhập và lấy trộm “Hắc ngọc tiên đào”.
Biết ý chàng đã quyết, Tiểu Tinh lo sợ đến sa lệ, nghẹn ngào can gián lần cuối:
- Tài sản Tiêu gia chẳng ít, xin tướng công chớ vì vạn lượng vàng mà để cho con thơ phải mất cha.
Tử Khuê hoan hỉ phi thường nắm chặt vai nàng, tươi cười bảo:
- Tạ ơn trời đất. Nhưng nàng có chắc là mình cấn thai chưa?
Tiểu Tinh thẹn thùng cuối đầu thỏ thẻ:
- Nô tài trễ kinh đã bốn hôm, tự chẩn mạch thì phát hiện mình có hiện tượng thai nghén.
Biết nàng giỏi y thuật, chẳng thể lầm lẫn được, Tử Khuê cao hứng cuối xuống hôn lên trán Tiểu Tinh. Nhưng chàng vẫn phải lên đường tìm linh quả về cứu mạng cha già, nên chỉ còn cách khai thực thân phận với Tiểu Tinh. Có như thế nàng mới cam tâm ở lại Quách gia trang chờ đợi. Giong ruổi trên lưng ngựa suốt mấy ngàn dặm đường là việc mà một thai phụ phải tuỵêt đối cấm kỵ.
Tử Khuê cuối xuống bồng nàng đặt lên giường. Chàng cũng lên theo nằm bên cạnh và bắt đầu kể rõ ngọn ngành.
Nửa canh giờ sau, Tiểu Tinh mới chịu tin rằng Tiêu Mẫn Hiên là Quách Tử Khuê, và nàng đã khóc muồi, dặn dò chàng bảo trọng lên đường tìm thuốc cho Quách lão gia. Ngược lại, Tử Khuê cũng phân phó những việc mà Tiểu Tinh phả làm nếu chàng không quay về Hứa Xương.
Trong bữa uống trà đàm đạo sau bữa cơm tối, Tử Khuê nghiêm nghị nói với mẹ mình:
- Bẩm phu nhân! Vãn bối nghe nói “Hắc ngọc tiên đào” của Lôi Đình Thần Cung có thể trị được chứng xơ gan. Dám hỏi phu nhân tin việc ấy không?
Băng Tâm Ma Nữ thờ ơ gật đầu:
- Trong y kinh của gia sư thúc cũng nhắc đến giả thuyết ấy. Nhưng người lại chú thích rằng việc này không đáng tin cậy vì chưa có chứng minh cụ thể.
Tử Khuê bình thản nói tiếp:
- Thực ra, hơn sáu mươi năm trước, có một người đã được “Hắc Ngọc tiên đào” cứu mạng dù bị xơ gan đã ba năm. Người ấy là Nhật Nguyệt Lão Nhân, sư phụ của Thần Thuỷ Độc Vương Cao Mộng Đắc.
Trình Kiếm Các không dằn nổi tính hiếu kỳ, hỏi lại ngay:
- Nhưng tại sao Tiêu Hầu lại biết một việc quá xa xưa như thế? Hay đấy cũng chỉ là lời đồn?
Tử Khuê nhìn lão cười đáp:
- Trình lão gia cứ yên tâm! Vãn bối tỏ tường điều ấy vì nàng tiểu thiếp họ Tống này chính là đồ đệ của Cao Độc Vương.
Cả nhà bàng hoàng, nhìn Tiểu Tinh với ánh mắt nghi hoặc. Người duy nhất tin lời Ngân Diện Hầu là Dịch Quan San. Gã vỗ đùi nói:
- Té ra là thế! Hèn gì ta giết được một cao thủ lão thành như Vân Nam lão Đại, khiến Dịch mỗ không sao hiểu nỗi.
Bằng có hùng hồn ấy đã khiến những người khác tin tưởng hơn trước. Băng Tâm Ma Nữ cũng tràn trề hy vọng, niểm nở hỏi lại Tiểu Tinh:
- Này Tống điệt nữ! Mong ngươi lên tiếng xác nhận lại cho lão thân yên tâm.
Biết bà là mẹ chồng mình, Tiểu Tinh đâm ra sợ hãi, líu ríu thưa:
- Bẩm phu nhân! Tiểu nữ xin cam đoan đấy là sự thật.
Bà mừng rỡ, quay sang hỏi Trác Thanh Chân:
- Chân nhi! Lôi Đình Thần Cung ở địa phương nào? Con hãy chỉ vẽ rõ ràng để ta cử người đến đấy hỏi mua linh quả.
Trác Thanh Chân cùng Tống Thụy đều đã khá hơn trước, mặt hoa hồng hào, đầy đặn. Vì vết sẹo trên góc trán Thanh Chân đã gần như bíến mất, chỉ còn là một dấu chấm lõm mờ nhạt. Nhưng khổ thay, ả họ Trác vẫn chưa tỉnh táo hoàn toàn, ánh mắt và cử động chỉ lộ rõ vẻ ngốc nghếch khờ dại.
Nghe mẹ chồng hỏi vậy, Thanh Chân ngơ ngẩn, tròn mắt đáp:
- Bẩm mẫu thân, Lôi Đình Thần Cung là cái chi chi và nó ở đâu thì hài nhi làm sao mà biết.
Cả nhà thất vọng, thở dài chán nản. Thiết Đảm Hồng Nhan thân thiết với Thanh Chân hơn cả, liền dịu dàng nhắc nhở:
- Đấy chính là nơi mà Tam thư đã đến ăn trộm quả đào màu đen và cứu mạng cái gã Bàng Nguyên Hối.
Thanh Chân nhăn mặt nhíu maỳ, vò đầu bức tóc ra chiều suy nghĩ, miệng thì lẩm bẩm “Đào đen…đào đen….”
Lát sau, nàng ngượng ngùng nói ấp úng:
- Bẩm mẫu thân! Hài nhi chẳng thể hình dung ra đường đi nước bước, chỉ loáng thoáng nhớ được rằng cái cây đào trái màu đen ấy ở trong một khu rừng, dưới chân một ngọn núi đá cao.
Rừng núi thỉ có ở khắp cùng Thiểm Bắc. Thanh Chân nói thế cũng bằng thừa. Băng Tâm Ma Nữ chán chường nhìn đứa con dâu dở người với vẻ thương hại pha chút bực bội.
Nhưng Tử Khuê lại quan tâm đến yếu tố khác. Chàng dịu giọng hỏi Thanh Chân.
- Chẳng hay tiểu thư có còn nhớ cách xuất nhập trong khu rừng ấy hay không? Xin tiểu thư biểu diễn cho tại hạ xem thử.
Thanh Chân rất thích chiếc mặt nạ bạc xinh xắn kia, nên có cảm tình với Ngân Diện Hầu. Nàng hớn hở đứng lên ngay và yểu điệu bước đi. Lạ thay, Thanh Chân tiến tới với cùng một trật tự gồm các bước: tiến tam, hữu tứ, tiến nhị, tả thất. Và khi quay lại thì trật tự ấy đảo ngược.
Một kẻ biết bơi thì dẫu có mất trí cũng vẫn biết bơi khi rơi xuống nước. Những động tác của tứ chi đã trở thành bản năng rất khó bị lãng quên. Thanh Chân còn nhớ được võ công thì cũng không quên được bộ pháp ra vào trận kỳ môn chung quanh Lôi Đình Thần Cung.
Tử Khuê hài lòng cảm tạ Thanh Chân rồi ung dung bảo Băng Tâm Ma Nữ:
- Thực ra dẫu cho phu nhân có đến được Lôi Đình Thần cung thì cũng chẵng mua nổi “Hắc Ngọc tiên đào”. Trác Đế Quân là bậc đại phú, tuổi đã cao nên cần sự trường thọ hơn hoàng kim. Hơn nữa, lệnh lang và các thiếu phu nhân đây đều là kẻ đối đầu Nhạc Cuồng Loan, học trò của Trác Ngạn Chi. Vậy liệu lão ta có chịu bán linh quả hay không? Và nếu bán thì với giá nào?
Băng Tâm Ma Nữ cười mát đáp:
- Hầu gia luận việc rất hữu lý. Nhưng phải chăng các hạ đã có hướng sách nào khác?
Tử Khuê mỉm cười gật gù:
- Phu nhân quả là sáng suốt! Vãn bối có quan hệ quyến thuộc với Trác Đế Quân, sẽ đem ba quả đào tiên về đây với giá vạn lượng vàng.
Dịch Quan San mưu trí tuyệt luân, nhìn ra ngay ẩn tình. Nến cất tiếng nói to:
- Nếu Hầu gia tự tin có thể xin được linh quả sao lại còn phải hỏi han cách xuất nhập trận kỳ môn?
Tử Khuê thản nhiên đáp:
- Tại hạ chẳng dại gì xin xỏ khi biết chắc là không được. Tiên mỗ sẽ trổ tài đạo chích rồi đào tẩu.
Cả nhà sửng sốt nhìn Ngân Diện Hầu không chớp mắt. Dịch Tái Vân buột miệng phê phán:
- Tiên phủ giàu sang nhất Trịnh Châu, sao Hầu gia lại liều thân vì chút tiền tài như thế? Hành vi của các hạ cổ quái khhôn lường, ta chằng thể nào hiểu nổi.
Tử Khuê cười khà khà:
- Năng nhặt chặt bị. Bổn nhân ăn hại của song thân đã nhiều, nay cố kiếm chút đỉnh mà cưới vợ, không để họ tốn kém thêm.
Biết mẹ mình đang cân nhắc, lo cho sự an toàn của số vàng năm ngàn lượng ứng trước, Tử Khuê tủm tỉm trấn an bà:
- Lần này, vãn bối sẽ không ứng trước lộ phí, mà sẽ nhận trọn vạn lượng vàng khi mang đủ ba trái tiên đào về đây. Và trong trường hợp Quách trang chủ dùng xong mà không có triệu chứng thuyên giảm bệnh tình, vãn bối cũng tự nguyện hoàn lại nguyên số.
Băng Tâm Ma Nữ được “nắm dao đằng chuôi” thì vô cùng yên dạ. Nhưng bà cũng thầm tự nhủ:
- Lạ thực! Sao gã lại đoán ra ta đang nghi ngại chuyện ấy nhỉ!
Thấy mẫu thân đã đồng ý, Tử Khuê liền nói sang chuyện khác:
- Bẩm phu nhân! Tỳ thiếp của vãn bối đã cấn thai nên sẽ ở lại đây. Mong phu nhân thương tình chiếu cố cho!
Từ lâu rồi, Quách phu nhân luôn khát khao có được đứa cháu nội đễ ẳm bồng, nhất là khi Tử Khuê vận số long đong, luôn vào sinh ra tử. Bà vẫn thường chê Tái Vân kém phúc đức nên mới không thụ thai, dù đã có nhiều thời gian gần gũi chồng. Nay nghe nói Tiểu Tinh có hỉ tín, bất giác bà mừng lây, vui vẻ nói:
- Cung hỉ! Cung hỉ! Lão thân xin chúc mừng Hầu gia! Các hạ cứ yên tâm thượng lộ, lão thân hứa sẽ chăm sóc Tiểu Tinh chu đáo.
Và bà buột miệng than:
- Ôi! Lão thân mong mỏi đã lâu mà vẫn chưa có đứa cháu nào.
Thiên Kim và Tái Vân chột dạ, thầm ganh tị với ả họ Tống kia. Nhưng nàng ta đang vô cùng hổ thẹn, trông rất tội nghiệp, nên hai nữ nhân trút giận lên đầu Ngân Diện Hầu. Chính cái thói trăng hoa, lấy cả tỳ nữ làm tỳ thiếp của Mẫn Hiên đã khiến họ bị mẹ chồng mắng mỏ.
Tái Vân thọ ơn cứu mạng nên không dám dè bỉu Ngân Diện Hầu, nhưng Nữ Hầu tước thì chẳng phải ngán ai. Thiên Kim hậm hực lên tiếng:
- Này Tiêu Hầu! Túc hạ chưa hề có chính thất, trong khi Tống cô nương lại đang mang cốt nhục của họ Tiêu. Đúng lý ra, nàng ta phải được xem là thiếp chứ sao lại chỉ là tỷ thiếp? Tuy Tiểu Tinh xuất thân dân dã nhưng không thể bị đối xử bất công như vậy. Bổn nhân rất thất vọng về nhân phẩm của Ngân Diện Hầu.
Cả nhả chết điếng, không ngờ Thiên Kim lại nặng lời đến thế. Ngân Diện Hầu dẫu sao cũng là ân nhân, từng cứu Tống Thụy, Tái Vân và Thanh Chân. Vả lại, nếu gã ta nỗi giận, không đi Lôi Đình Thần Cung tìm linh quả nữa thì nguy to.
Quách phu nhân bực bội nạt nàng dâu trưởng:
- Kim nhi! Sao con lại dám xúc phạm đến thượng khách của lão thân? Gia sự của Tiêu Hầu là việc riêng tư, hà cớ gì ngươi phải lắm lời?
Thiên Kim biết mẹ chồng đã nổi lôi đình, nàng sợ đến xanh mặt, định đứng lên ngỏ lời tạ lỗi Tiêu Mẫn Hiên. Nào ngờ, Ngân Diện Hầu cười ha hả, vui vẻ nói:
- Hoàng Phong Hầu dạy chí phải. Tiêu mỗ xin tuân lệnh!
Và gã quay sang bảo Tiểu Tinh:
- Nàng mau vái tạ tấm lòng đại lượng của Trình Hầu tước.
Thiếp có nghĩa là vợ lẽ, còn tỳ thiếp là nàng hầu. Trước đây, Tử Khuê vì sợ Thiên Kim nên chỉ dám nhận Tiểu Tinh làm tỳ thiếp. Nay Nữ Hầu tước vô tình xe dây tự trói, Tử Khuê liền chụp ngay lấy cơ hội.
Tiểu Tinh cũng biết vậy nên mau mắn đứng lên, nghiêng mình thi lễ:
- Tiểu muội xin cảm tạ Đại thư!
Kẻ tinh ý nhất lại là cậu bé Tử Chiêm, nó bật cười hăng hắc và phát biểu:
- Kỳ quái thực! Sao trông giống như cảnh Trình đại tẩu nạp thiếp cho Tam ca thế nhỉ?
Tử Khuê thầm khen bào đệ của mình thông tuệ. Và chàng vội cáo từ ngay vì hổ thẹn khi lừa dối Thiên Kim!
Đồng Quan là một địa phương rất nổi tiếng, từ hồi Chiến Quốc cho đến tận bây giờ. Nguyên nhân vì Đồng Quan có cửa ái Hàm Cốc, cửa ải trọng yếu nhất của nước Tần, thông với với Trung Nguyên. Ải đầu thứ hai là Vũ Quan, không lẫy lừng bằng Hàm Cốc.
Đến tận thời nhà Minh, việc thông thương giữa Thiểm Tây và các tỉnh phía Đông nó cũng vẫn phải qua hai ải này. Do địa hình vùng ranh giới Thiểm Tây – Hà Nam quá hiểm trở, nên người ta chẳng thể mở thêm lối đi nào khác nữa.
Đường trục Đông – Tây nối liền Trường An, Lạc Dương, Trịnh Châu, Khai Phong, Tế Châu và biển Đông. Đồng Quan nằm trên đường ấy, thuộc Thiểm Tây và giáp ranh Hà Nam. Nhờ vậy mà Đồng Quan rất sầm uất, mỗi ngày đón đưa hàng trăm đoàn xe hàng hóa lại qua, lữ khách thì hàng vạn.
Ở chốn đông người, các ngành thương mại, dịch vụ đều phát triển, cho nên trong thành Đồng Quan có rất nhiều hiệu buôn, trà lâu, tửu quán, khách sạn, đỗ trường, kỹ viện…
Tất nhiên, nơi kinh doanh thuận lợi nhất chính là những cơ ngơi nằm trên đường trục chính Đông – Tây qua thành. Đường Bắc – Nam trong thành khó làm ăn hơn vì hướng bắc Đồng Quan là sông Hoàng Hà, còn phía nam là núi rừng hoang vu, thô lậu.
Khi vào thành Đồng Quan bằng cửa hướng Đông, lữ khách sẽ bắt gặp một cơ ngơi ba tầng cực kỳ đồ sộ và khang trang. Nó được mện danh là Đồng Quan đệ nhất tửu lâu.
Lão Tử là người đầu tiên chán ngán thói ba hoa, khoác lác của dân tộc Hoa Hạ, nên đã dạy họ đức khiêm tốn, giấu mình. Ngay chính Khổng Phu Tử còn bị Lão Tử chê là kẻ khoe khoang, kiêu căng. Khổng Tử thì biết mình sai, nhưng trong suốt mấy ngàn năm sau đó, người Hoa Hạ vẫn cứ thích xưng mình là Đệ nhất.
Nhưng Đồng Quan Đệ nhất tửu lâu thì danh phù kỳ thực, nổi tiếng đã gần trăm năm, nhờ thức ăn và rượu ngon số một chốn này.
Bằng chứng là sáng nay, mười chín tháng ba, mới qua đầu giờ Tị mà trên lầu một của tửu lâu đã có đến tám bàn khách khứa. Lúc này còn quá sớm để ăn nhậu, trừ những kẻ vô công rỗi nghề, những ma men hoặc những người chán đời.
Quả đúng là nơi đây đang hiện diện một kẻ chán đời. Người vui vẻ chẳng bao giờ ngồi nhậu một mình và cứ nốc tỳ tỳ hết chén này đến chén khác, mặt thì nặng nề như đeo đá.
Kẻ đáng thương ấy là một vị đạo sĩ áo trắng, tuổi độ quá bốn mươi, dung mạo hơi thô nhưng cũng đầy nét cương nghị và oai vệ. Cây trường kích mạ bạc sáng loáng, dựng ở cột gỗ gần bàn, chính là chiêu bài của Lã Bất Thành, đại để tử Bắc Thiên Tôn.
Họ Lã ngồi quay mặt về hướng bắc, chắc là đang thương nhớ quê xưa Đại Bạch Sơn, ở vùng Cực Bắc cao nguyên Sơn Tây. Ánh mắt xa xăm của Bất Thành chẳng thèm để ý đến vị thực khách mới lên, vừa ngồi xuống một bàn bên mé tả gã.
Người ấy là một chàng thư sinh tuổi độ hăm ba hăm bốn, thân dong dỏng cao, vai rộng, trông khá khỏe mạnh chứ không quá văn nhược. Tuy mặt óc học trò màu xanh nhạt, nhưng bên hông trái chàng ta lại lủng lẵng một thanh trường kiếm, trông chẳng thích hợp chút nào cả.
Khi chàng thư sinh an tọa, lột nón tre rộng vành ra, người ta mới thấy rõ gương mặt đoan chính, thanh tú, sống mũi cao và thẳng, đầu nhọn, mắt sáng, miệng rộng, môi dày…. Là tướng mạo của một nam nhân khả ái, trung hậu. Nhưng tiếc thay, dưới vầng trán rộng kia là một cặp lông mày rậm và dài thượt, rũ xuống như tơ liễu buông mành.
Tướng trường mi này thường xuất hiện ở những người đã quá già. Lúc ấy chúng bạc trắng và đẹp lão. Nhưng khi chúng đen thui và ngự trị trên gương mặt của một chàng trai trẻ thì thật khó coi.
Tuy nhiên chủ nhân của chúng chẳng hề có ý định tỉa tót lại cho bình thường, mà còn tự hào về cặp lông mày dị tướng ấy, đến mức tự xưng là Trường Mi Thư Sinh. Cái danh hiệu này rất nổi tiếng ở miền Nam Quảng Đông, giáp với nước An Nam.
Song chốn ấy là vùng biên thùy hoang vu, thô lậu, chẳng thể bì với đất Trung Nguyên văn vật. Nên Trường Mi Thư Sinh Thượng Quan Nhẫn chỉ được võ lâm xếp vào loại cao thủ hạng ba, và rất ít người biết mặt gã.
Ở người già, tướng trường mi là tướng đại thọ, song với người trẻ thì ngược lại. Nghĩa là Thượng Quan Nhẫn đã yểu mạng chết toi từ hồi đầu xuân năm ngoái.
Kẻ đã qui tiên thì chẳng thể đi đứng, nói năng, ăn uống, nên chúng ta có thể kết luận gã Trường Mi Thư Sinh vừa xuất hiện kia là giả mạo. Va cũng chẳng khó để đoán ra kẻ bịp bợm ấy là Quách Tử Khuê.
Tử Khuê đã chọn cách cải dạng đơn giản này vì mang mặt nạ da người suốt mấy ngàn dặm đường rất bất tiện và bất lợi. Nắng cuối xuân sẽ làm mồ hôi chàng tuôn chảy và bong cả lớp hóa trang. Trong khi đó, cặp lông mày quái dị này được gắn chặt vào mặt chàng bằng một loại keo đặc biệt, nước không trôi, kéo không ra.
Trong đêm cuối cùng, Tử Khuê rời Quách gia trang, Tống Tiểu Tinh đã trao cho chàng một túi lụa nhỏ và ngượng ngùng thú nhận:
- Xin tướng công lượng thứ! Vào đêm giải cứu Lưu biểu tỷ, thiếp đã quay lại mật thất lục soát và tìm thấy túi vải này. Trong đáy có dụng cụ dịch dung của Xảo Diện Khách cùng số ngân phiếu trị giá đến bảy vạn lượng vàng. Từ lâu, thiếp đã muốn dâng cho tướng công mà không dám. Nay đã là phu thế, chắc chàng chẵng nỡ trách thiếp là kẻ tham vặt.
Tử Khuê mỉm cười bao dung nhưng trong lòng suy nghĩ rất nhiều. Nếu tài sản này của Lư gia trang thì chàng sẽ phải hoàn lại, vì sau này chúng thuộc về vợ chồng Lưu Tiên.
Nhưng chàng nhớ rõ Lư Tài Thần đã kiểm tra rất kỹ càng số tài vật bị Xảo Diện Khách ăn trộm, và tuyên bố rằng đủ cả. Vậy phải chăng bảy vạn lượng vàng ngân phiếu trong túi lụa là tiền riêng của Khưu Trọng Nhiệm?
Tử Khuê liền xem kỹ lại những tờ ngân phiếu và phát hiện chúng đều do Sơn Tây Đệ Nhất Tiền Trang phát hành. Cơ sở ấy hoạt động ở miền Bắc Trung Hoa, trong khi địa bàn kinh doanh của Lư Tài Thần là miền Nam nên lão chẳng thể có số ngân phiếu này.
Bỗng chàng có linh cảm xấu rằng biết đâu đấy là vàng của người Mông Cổ tiếp tế cho Long Vân Bảo? Dù Minh Triều đang suy yếu nhưng vẫn còn đứng vững nhờ mấy trăm vạn binh sĩ trấn giữ trường thành. Và chỉ khi Trung Hoa có nội loạn thì rợ Mông mới mong vào được Trung Nguyên. Nay Bắc Thiên Tôn đã chết, có thể quân Mông sẽ mượn tay Long Vân Tú Sĩ?
Không thể đoán chắc được điều gì, Tử Khuê bỏ qua lai lịch số ngân phiếu, xem xét những đạo cụ hóa trang. Ngoài mười mấy tấm mặt nạ, râu giả, lông mày giả, thuốc màu,…còn có quyển sách “Dịch Dung bí kíp”.
Quyển sách này chứa đựng toàn bộ tinh hoa của nghề dịch dung. Bản chất cải trang của Xảo Diện Khách cao siêu hơn hẳn Dịch Quan San. Bằng chứng họ Dịch đã không khám phá ra việc Khưu lão quỷ mang mặt nạ giả làm Lư Công Đán.
Những trang cuối của bí kíp còn có lý lịch từng tấm mặt nạ, kèm theo thẻ Đinh, được đánh số cẩn thận. Tử Khuê cân nhắc một lúc lâu rồi quyết định đóng vai Trường Mi Thư Sinh.
Cặp chân mày quái dị ấy lồ lộ, thu hút sự chú ý của thiên hạ, nên họ sẽ không lưu tâm đến mặt thực của chàng. Trừ phi gặp phải người thân trong gia đình, Tử Khuê chẳng sợ ai nhận ra mình.
Nhắc lại, Tử Khuê ghé vào Đồng Quan đệ nhất tửu lâu để dùng cơm. Tình cờ gặp lại Lã Bất Thành, chàng rất ngạc nhiên và sinh lòng cảnh giác. Sự phản trắc của Hồ Đồ Thần Thương Khổng Đam đã khiến Tử Khuê e sợ lòng người. Kẻ thọ ơn cứu mạng còn bán đứng chàng, huống chi một kẻ xa lạ, thuộc phe đối lập như họ Tả.
Thực ra, Tử Khuê cũng có chút cảm tình với dung mạo và cốt cách của Bất Thành. Gã mang khí chất một bậc đại trượng phu, một dũng sĩ kiên cường chứ chẳng phải phường ngu ngốc, ba phải như Khổng Đam.
Lúc này, trông Lã Bất Thành chẳng khác gì một con sói cô đơn, lạc lõng đang trên đường tìm về vùng thảo nguyên xưa cũ, thân quen. Tử Khuê có cảm giác như thế vì Lĩnh Sơn, tổng đàn của Nam Bắc bang không xa Đồng Quan là mấy, nếu chỉ đi chơi thì Bất Thành chẳng cần phải mang theo tay nải lớn. Và đúng ra, với cương vị cao hiện tại, họ Lã phải có vài thủ hại tháp tùng.
Tử Khuê còn nhận ra việc gã uống rượu suông với đĩa lạc rang nho nhỏ, chẳng có cơm canh gì cả. Nghĩa là hầu bao của gã khá nhẹ, không dám gọi thức ăn. Chắc lát nữa sẽ ghé một quán cơm rẻ tiền nào đó mà chén cho no.
Nhưng sự tình còn bi đát hơn phỏng đoán của Tử Khuê. Lã Bất Thành đã uống cạn bình rượu, gọi tiểu nhị tính tiền. Và gã phát hiện túi bạc giăt lưng đã biến mất.
Suy cho cùng thì Lã Bất Thành chỉ là một kẻ quê mùa, chất phác. Suốt đời gã quanh quẩn ở Đại Bạch Sơn, một vùng khỉ ho cò gáy làm sao có thể đối phó với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt phi thường của bọn trộm cắp chốn phồn hoa. Khi đã mất cảnh giác thì võ công cao cũng vô dụng.
Lã Bất Thành tái mặt, ánh mắt đầy vẻ bi phẫn. Nhưng gã vẫn điềm đạm bảo tiểu nhị:
- Bần đạo hớ hênh nên đã để kẻ gian nẫng mất túi bạc. Bần đạo xin gửi lại cây trường kích, sau này sẽ đến chuộc.
Gã tiểu nhị bực bội mỉa mai:
- Cây sắt này mà đem bán cho lò rèn thì cũng chẳng đủ ba lượng bạc. Xin đạo trưởng thế bằng vật khác.
Lã Bất Thành lên tiếng:
- Cây Ngân kích ấy là vật quý giá nhất đời bần đạo, ngoài ra chẳng còn gì khác.
Dù không muốn thân cận với họ Lã, song Tử Khuê chẳng nỡ để một bậc anh hùng phải chịu nhục. Chàng liền lên tiếng:
- Này tiểu nhị! Tiền rượu của vị đạo trưởng ấy sẽ do ta thanh toán.
Gã hầu bàn mừng rỡ, quay lại cảm tạ vị mạnh thường quân rổi bỏ vào bếp.
Lã Bất Thành khoác tay nải lên vai và xách trường kích đi đến bên Tử Khuê. Gã chắp một tay lên ngực, cúi đầu thi lễ:
- Giờ đây cây Ngân kích này đã thuộc về thí chủ. Mong thí chủ cho biết danh tánh và nơi cư trú, để sau này bần đạo mang bạc đến chuộc.
Tử Khuê không ngờ Bất Thành lại giữ khí tiết đến mức thái quá như vậy. Chàng không phúc đáp mà mời gã ngối và nói:
- Dám hỏi đạo trưởng đang trên đường đi đâu vậy?
Bất Thành buồn rầu đáp:
- Bần đạo định về cố quận ở phía Bắc tỉnh Sơn Tây. Nhưng giờ đây lộ phí đã mất sạch, có lẽ đành phải ở lại Trung Nguyên.
Tử Khuê nghiêm nghị bảo:
- Đạo trưởng luyện võ đã mấy chục năm, sao lại chịu để tài năng mai một ở chốn quạnh hiu? Đạo trưởng làm như thế chẳng phải đã phụ lòng người có công dạy dỗ hay sao?
Bất Thành nở nụ cười thê lương:
- Thực ra, bần đạo cũng có đất để tung hoành. Nhưng nơi ấy là chốn tranh danh đoạt lợi, xem thường tình nghĩa và đạo lý, nên kẻ sơn dã này không thích hợp. Nhược bằng đơn thân hành hiệp thì cũng chẳng xong, vì bần đạo thiếu cả thủ đoạn lẫn bạc tiền.
Tử Khuê gật gù thông cảm và lấy ra sáu thỏi bạc Nguyên Bảo, mỗi thảo năm chục lượng. Đây là loại bạc do triều đình nhà Minh đúc ra. Hai đầu hơi cong lên, toàn bộ thỏi bạc hơi giống hình móng ngựa nên gọi là Mã Đề Ngân.
Chàng đẩy số bạc ba trăm lượng ấy về phía Lã Bất Thành rồi nói:
- Đạo gia cho phép quyên giáo. Chân nhân hãy nhận lấy chút lòng tôn kính Tam Thanh của tại hạ. Khi về đến cố quận, mong đạo trưởng tụng kinh cầu chư thần phù hộ cho Thượng Quan Nhẫn tôi.
Cách cho của chàng rất tể nhị và hợp qui tắc Đạo giáo, khiến Lã Bất Thành có thể yên tâm nhận lấy. Nhưng gã không cầm ngay mà nhìn chàng chăm chú, rồi chậm rãi hỏi:
- Bần đạo tò mò, muốn biết chí hướng của Thượng Quan thí chủ?
Tử Khuê cười đáp:
- Tại hạ tùy thời mà hành sự. Đời loạn thì vung ba thước gươm thiêng diệt ác, chẳng cần ai biết đến mình. Khi giang hồ lặng sóng thì về nhà, vui cùng thê tử, múa gươm dưới trăng cùng bằng hữu hát câu tương phùng.
Nghe xong Lã Bất Thành trầm ngâm một lúc rồi phát biểu:
- Nếu thí chủ lập chí như thế thì bần đạo xin theo hầu, không về Sơn Tây nữa. Bần đạo tuy mộc mạc quê mùa, nhưng tự tin chẳng nhìn lầm người.
Sắc diện gã chân thành, tha thiết, khiến Tử Khuê cảm động và sinh lòng tín nhiệm. Chàng cười mát:
- Sao tôn giá lại vội vàng như vậy? Biết đâu tại hạ bất tài, vô hạnh song lại quen dùng lời hoa mỹ?
Lã Bất Thành bình thản đáp:
- Lúc vừa tròn hai tuổi, bần đạo bị sói tha đi, sống chung với chúng bốn năm. Sau đó mới được tiên sư đem về giáo dưỡng. Bởi vậy mà bần đạo có chút bản năng của loài sói, linh cảm được bạn và thù. Khi tiếp cận thí chủ, bần đạo nghe lòng ấm áp, bình yên, nên biết rằng có thẻ nương tựa được.
Tuổi ấu thơ bi thảm và kỳ lại của Bất Thành đã làm tăng thiện cảm trong lòng Tử Khuê, nhưng thận trọng thêm vẫn hơn. Chàng liền gọi thức ăn mới, mời họ Lã cùng mình đối ẩm, chuyện trò.
Khi hỏi rõ nguyên nhân rởi bỏ Lĩnh Sơn của gã, chàng mới biết được những bí mật vô cùng đáng sợ. Té ra, Nam Thiên Tôn và Quân Sơn Chân Nhân mới là kẻ chủ mưu trong việc xưng hùng xưng bá, còn Bắc Thiên Tôn chỉ là người bị dụ dỗ. Đúng là nhất thời hồ đồ, ôm hận nghìn thu!
Sau khi Phùng lão bị giết, Nam Thiên Tôn chẳng hề nhắc đến chuyện báo thù, mà chỉ lo chiêu mộ anh tài, củng cố thực lực Nam Bắc Bang.
Ngay cả việc mời cao thủ Độc Môn đến khám nghiệm thi hài của Bắc Thiên Tôn lão cũng không làm. Mới đây, Lã Bất Thành còn tình cờ nghe lóm được một phần cuộc trò chuyện giữa Từ Tôn Chiến và sứ giả Long Vân Bảo. Song phương giao ước với nhau rằng sẽ liên thủ mà thôn tính võ lâm Trung Nguyên chia đôi thiên hạ.
Chính vì lý do ấy mà Lã Bất Thành ly khai Nam Bắc bang, xin phép Từ lão cho mình về lại quê xưa.
Tử Khuê hỏi bất cứ điều gì họ Lã cũng thành thật tỏ bày, chẳng hề giấu giếm, kể cả lai lịch cái tên gã:
- Năm xưa có người mắc bệnh nan y đến Đại Bạch Sơn xin thuốc. Lúc bệnh nhân hạ sơn, có hỏi nhỏ bần đạo rằng bệnh mình có thể khỏi hay chăng. Bần đạo liền thành thực đáp rằng không. Thế là người ấy về nhà treo cổ tự vẫn, thay vì còn sống thêm được một hai năm nữa. Tiên sư trách mắng bần đạo thậm tệ và ban cho đạo hiệu Bất Thành để nhắc nhở.
Nói xong gã nghiêm nghị bảo:
- Giờ đây, bần đạo đã biết cẩn ngôn, thí chủ cứ yên tâm nói ra lai lịch thực.
Tử Khuê thầm hài lòng vì Lã Bất Thành trung thực, song không hề ngu ngốc. Chàng cười đáp:
- Các hạ quả là tinh tế. Ta chính là Ngân Diện Hầu đây.
Lã Bất Thành lập tức đứng lên, chắp tay thi lễ:
- Bần đạo vẫn luôn cảm kích việc Hầu gia đả thương lão Nhạc Tự Thương. Giờ đây bần đạo đã có thể toàn tâm, toàn ý theo phò bặc quý nhân giáng ma vệ đạo. Chỉ mong rằng sau này Hầu gia ban cho bần đạo thủ cấp của Xoa Lạp Cốc chủ để tế mộ tiên sư.
Sau hơn hai tháng lội suối băng rừng, chịu biết bao nhọc nhằn cơ cực trên cao nguyên Hoàng Thổ, Tử Khuê và Lã Bất Thành mới đến được Anh Ngọa sơn, thuộc huyện Hoài Viễn, phủ Thỏa Đức.
Nhưng hỡi ôi! Lôi Đình Thần Cung chẳng còn một bóng người. Phần cây “Hắc Ngọc tiên đào” thì đã chết khô. Tử Khuê vô cùng tuyệt vọng, đứng thừ người nhìn thân cây trơ trụi và lũ cành cây khẳng khiu, tàn tạ. Phụ thân chàng cũng chẳng khác gì cây tiên đào này, héo úa và sắp sửa mục nát.
Lã Bất Thành đã biết mục đích của Ngân Diện Hầu là đến đây tìm thuốc. Gã cũng thất vọng vô cùng song vẫn còn sáng suốt hơn người trong cuộc. Gã lặng lẽ suy nghĩ rồi bàn:
- Bầm Hầu gia! Bần đạo từng nghe tiên sư dạy rẳng: “Một số loài thảo mộc cho quả làm thuốc là chính nhưng rễ của chúng cũng chứa một phần dược tính”.
Tử Khuê tỉnh ngộ, lóe lên niềm hy vọng, hân hoan nói:
- Cảm tạ các hạ đã nhắc nhở, nếu không thì ta chẳng nhớ ra và sau này sẽ hối hận.
Hai người liền xoay trần, cùng nhau xô ngã thân cây có chu vi một vòng tay người. Đất Hoàng Thổ chỉ là một thứ bụi mịn, độ bám không cao, nên khi cây đổ đã mang theo đầy đủ rễ cái, rễ con.
Tử Khuê vung kiếm chặt lấy một đoạn rễ cái trắng hồng, mập mạp, dài cỡ sãi tay. May thay nó vẫn còn tươi, rỉ nhựa màu trắng như sữa. Chàng lại chặt nhỏ đoạn rễ ấy thành từng khúc ngắn rồi bỏ vào tay nải. Y phục của chàng được dồn hết qua túi hành lý của Lã Bất Thành.
Tử Khuê rất đắc ý về việc kết giao với Lã Bất Thành. Gã cũng đôn hậu giống chàng nên chuyện trò tương đắc, khiến đường thiên lý bớt tịch mịch. Hơn nữa, chính tài săn bắn của gã đã cung cấp thực phẩm cho họ, vì cao nguyên Hoàng Thổ rất hoang vu, hàng trăm dặm mới có một thôn nhỏ. Ngay nước uống cũng thiếu trầm trọng. Nhưng với chút bản năng của loài sói, Lã Bất Thành đã tìm ra nước, cũng như hang ổ của những loài thú nhỏ.
Sáng hôm sau, hai người lên đường trở lại Trung Thổ. Lúc về còn gian khổ gấp bội so với lúc đi. Những cơn mưa đã xói mòn cắt nát đường quan đạo vốn đã lâu chưa được tu sửa. Có những đêm, Tử Khuê và Lã Bất Thành phải nhịn đói, nằm ép bên nhau dưới gốc cây, chịu đựng cơn mưa tầm tã, lạnh lùng.
Gian truân cùng cực như thế mà gương mặt Lã Bất Thành vẫn tươi tắn, vui vẻ. Tử Khuê chợt nhận ra mình có thêm một bằng hữu tốt, ngoài Dịch Quan San.
Giữa tháng tám, sau tiết Trung Thu hai hôm, họ về đến Trường An thì Tử Khuê nghe được nhiều tin xấu. Quần ma hội tụ cả ở đất Cửu Chân, khởi đầu sự nghiệp tranh hùng, tranh bá.
Lôi Đình Thần Cung đã xây dựng cơ ngơi mới trên mảnh đất khô cằn dưới chân núi Quảng Sơn, bất kể trên lưng chừng núi có Tổng Đàn võ lâm tọa lạc. Trác Ngạn Chi có quyền làm như thế vì ngàn mẫu đất ấy là tài sản của Ngân Diện Hầu Tiêu Lạp Dân.
Long Vân Bảo vẫn ở nguyên cứ địa Thốc Sơn, nhưng họ đã thu phục được toàn bộ những bang hội lớn nhỏ từ phía Nam sông Hoài trở xuống, trừ phái Võ Đương và Thiên Sư Giáo.
Điều khá là bất ngờ là Nam Thiên Tôn đã bỏ Long Vân Bảo mà liên kết cùng Xoa Lạp Cốc. Hiện nay, Nhạc Tự Chương đã kéo quân về sát nhập với Nam Bắc Bang, và trở thành Đồng Bang Chủ. Họ Nhạc và Nam Thiên Tôn cũng âm thầm chinh phục giới võ lâm miền Tây, chỉ còn mấy phái Bạch đạo như Hoa Sơn, Toàn Chân, Nga Mi, Thanh Thành.
Song cái tin khiến Tử Khuê rụng rời chân tay là số phận Quách gia trang. Giang hồ đồn đãi rằng nhà chàng đã bị một đội quân hắc y đông đảo đột kích vào đêm cuối tháng sáu. Cùng lúc ấy, nhiều nơi trọng yếu trong thành cũng phát hỏa nên quân binh chỉ có thể cho một toán lính nhỏ đến hỗ trợ nhà họ Quách. Mười tám gã lính lệ ấy cũng bị bỏ mạng phía ngoài trang. Có lẽ bọn hắc y đã dùng đến hỏa dược nên Quách gia trang bị bốc cháy dữ dội. Sức nóng khủng khiếp đến nỗi nhà sập, da thịt, xương cốt người cũng hóa thành tro, còn nguyên trạng rất ít, nên Nha môn Hứa Xương chỉ có thể phỏng đoán rằng không một ai sống sót. Và số người chết là bao nhiêu thì cũng chẳng rõ.
Con dâu trưởng của Quách gia trang là Hoàng Phong Hầu Trình Thiên Kim không có mặt nên thoát chết. Nàng đã tố cáo hung thủ là Long Vân Bảo, song không có chứng cứ để kiện. Do đó, Nữ Hầu tước thề sẽ tự báo thù cho nhà chồng. Nàng chiêu mộ hào kiệt bốn phương, chờ ngày đủ lực lượng là tấn công núi Thốc Sơn.
Những thông tin ấy do gã Phân đà chủ Cái bang thành Trường An cung cấp cho Tử Khuê. Chàng đã không để lộ thân phận Ngân Diện Hầu, mà dùng mười lượng bạc để hỏi thăm, cục diện võ lâm chẳng có gì bí mật nên gã hóa tử bốn túi ấy đã vui lòng kể rõ.
Nghe xong hung tin sét đánh đó, Tử Khuê choáng váng, cơ hồ không đứng vững nổi. May mà mặt chàng đen đúa vì cháy nắng, nên chẳng thể tái đi. Tử Khuê cố bình tâm cáo từ, về lại phòng mình trong Trường An đại lữ điếm.
Đến lúc này chàng mới để cho lệ thảm tuôn rơi ướt gối. Hình bóng người thân như phản phất trước mắt, mang theo nỗi bị thương cùng cực. Sự thống khổ tột cùng đã làm chàng bật khóc, không sao kiềm chế được.
Lã Bất Thành ở phòng bên cạnh nghe tiếng chàng khóc nức nở vội chạy sang ngay. Nhưng gã không lên tiếng hỏi han hay an ủi mà cứ đứng yên bên giường. Hình như gã cho rằng than khóc là điều cần thiết để một người vơi đi nỗi thương tâm.
Nhưng rồi Tử Khuê cũng nhận ra sự hiện diện của gã. Chàng ngồi lên gạt lệ và rầu rĩ nói:
- Tại hạ đang lâm vào hoàn cảnh cực kỳ bi đát, và sắp sửa liều mình với một kẻ thù rất lợi hại. Nay bản thân tại hạ sống chết còn chưa rõ, e rằng đành lỗi hẹn với Lã các hạ, không thể sánh vai hành hiệp được rồi. Các hạ hãy trở về cố quận ngay sáng mai. Nếu tại hạ còn sống, tất sẽ có ngày đến Đại Bạch Sơn thăm cố hữu.
Lã Bất Thành nhếch mếp cười thê lương:
- Bần đạo đã trót với cao, xem thí chủ là bằng hữu, là tri kỷ nên chẳng thể rời bỏ được. Dẫu cho thí chủ có đi vào núi giáo, rừng gươm thì bần đạo cũng xách ngân kích theo hầu.
Tử Khuê vô cùng cảm động, nhưng vẫn không muốn người bạn trung hậu kia chết oan khi theo chàng đếnThốc Sơn tìm Long Vân Tú Sĩ.
Chàng còn đang suy nghĩ tìm cách thoái thác, Lã Bất Thành đã lại lên tiếng:
- Trong lúc thí chủ ra ngoài, bần đạo có trò chuyện với gã tiểu nhị của khách điếm này. Gã ta cũng biết vài đường quyền cước nên rất chú ý đến tình hình võ lâm. Nhờ vậy mà bần đạo thu thập được khá nhiều thông tin, trong đó có việc gia trang của Cầu Nhiêm Đại Hiệp Quách Tử Khuê bị thiêu rụi, toàn gia chết thảm. Nay thí chủ lại thương tâm cực độ như thế, bần đạo có thể đoan chắc Ngân Diện Hầu là Quách đại hiệp.
Tử Khuê giật mình, hổ thẹn gật đầu và hỏi lại:
- Một lần nữa các hạ đoán đúng. Nhưng ta muốn biết vì sao các hạ có thể đi đến kết luận ấy?
Lã Bất Thành bình thản đáp:
- Điểm đáng ngờ nhất là việc thí chủ lặn lội mấy ngàn dặm đường khổ ải để tìm thuốc cho Quách trang chủ với giá vạn lượng vàng, Hai là một gã trai trẻ như Tiều Hầu gia Tiêu Mẫn Hiên thì không đủ tài để tìm ra những sơ hở trong pho “Kích pháp” của tiên sư.
Quả trên đường đi, trong những lúc dừng chân, Tử Khuê vì muốn thành toàn cho gã nên đã dạy đôi điều, song người tìm ra những sơ hở ấy là sư phụ chàng, Vu Mộc Chân Nhân, tổ sư trong nghề hóa giải sở học của kẻ khác. Bắc Thiên Tôn vì quá tự mãn nên đã không nhìn thấy những khuyết điểm trong sở học.
Nghe Lã Bất Thành giải thích rất chí lý, Tử Khuê chỉ còn cách cúi đầu bái phục.
Tài sản của dunghoitaisao127

Chữ ký của dunghoitaisao127
[SIZE="6"][COLOR="Red"]
When you fall down, let try again![/COLOR][/SIZE]
  #17  
Old 30-04-2008, 04:55 PM
dunghoitaisao127's Avatar
dunghoitaisao127 dunghoitaisao127 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 39
Thời gian online: 4 ngày 16 giờ 13 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 18 : Hầu phủ tru cường địch
Hồi gia phụ tử hoan


Khoảng đầu tháng chín, có hai kỵ sĩ từ phương bắc xuống, dừng cương trước cửa tổng đàn Hoàng Phong bang. Họ chính là Trường Mi Thư Sinh Thượng Quan Nhẫn và Lã Bất Thành.
Tử Khuê sợ rằng Long Vân Bảo cho nội gián đến đầu quân Hoàng Phong bang nên vẫn giữ nguyên vỏ bọc Trường Mi. Chàng không sợ nhận diện vì ngoài đôi chân mày quái dị, mặt chàng hiện nay rất đen và hốc hác. Năm tháng trời bôn ba trên thảo nguyên Hoàng Thổ đã khiến chàng sụt mất mười mấy cân thịt. Lúc này, Tử Khuê còn gầy guộc hơn hồi mới hạ sơn.
Trong lúc chờ tên võ sĩ gác cổng mang bái thiếp vào trong bẩm báo, Tử Khuê đảo mắt quan sát khắp nơi. Chàng phát hiện chốn này đã được sửa sang lại và xây thêm rất nhiều phòng ốc để có thể chứa cả ngàn người.
Tử Khuê thở dài, hiểu rằng Thiên Kim chỉ hoài công và tốn kém mà thôi. Đám hào kiệt ô hợp kia chẳng thể nào địch lại bọn kiếm thủ thiện chiến của Long Vân Bảo.
Nữ Hầu tước và Phá Sơn Quyền Trình Kim Các đã ra đến. Chắc là sự xuất hiện của Lã Bất Thành đã làm họ kinh ngạc và nghi hoặc.
Quả nhiên, Trình Thiên Kim xẵng giọng nói ngay:
- Lã Bất Thành! Phải chăng lão Nam Thiên Tôn sai ngươi đến đây làm nội gián?
Dường như sau tai họa của nhà chồng, cái tính nết Trình Thiên Kim đã trở về với nữ Hầu tước.
Da dẻ của Lã Bất Thành cũng đen chẳng kém gì Tử Khuê, nên khó biết được gã có nổi giận hay không. Bất Thành điềm đạm phúc đáp:
- Hầu gia chớ hiểu lầm! Bần đạo đã ly khai Nam Bắc bang từ hồi tháng ba. Hơn nữa, hiện nay Từ sư thúc liên minh với kẻ đã sát hại gia sư thì bần đạo sao có thể ở lại Lĩnh Sơn được nữa. Bần đạo xin thể trước vong linh tiên sư rằng đến đây với tất cả tấm lòng.
Trình Kim Các xen vào:
- Nhưng sao các hạ không tìm đến nương tựa Lôi Đình Thần Cung hoặc Long Vân Bảo? Với bản lãnh võ công của các hạ thì lo gì không được hai nơi ấy trọng dụng.
Câu hỏi này rất khó trả lời, nhưng Lã Bất Thành đã có chỗ sở cậy, thản nhiên chỉ vào tay nải trên vai trái:
- Bần đạo có mang theo vật bảo chứng, song không thể đưa ra tại chốn này. Chẳng lẽ Hoàng Phong bang thế mạnh người đông mà không dám để bần đạo vào nhà?
Thiên Kim bị khích tướng, cười nhạt bảo:
- Mời nhị vị nhập trang! Nhưng nếu dối gian thì đừng hòng sống sót mà ra khỏi đây.
Chủ khách cùng vào khách sảnh ở sân trước. Thấy chỉ có vài tỳ nữ, họ Lã yên tâm mở tay nải, để lộ ra những đoạn rễ cây. Sau đó, gã lấy ra một phong thư dán kín trao cho Thiên Kim.
Nữ Hầu tước đọc xong, xem xét dấu ấn triện rất kỹ lưỡng. Nàng cũng có một cái như thế, chỉ khác tên nên dễ dàng phân biệt giả chân.
Nét mặt Thiên Kim dịu đi và ánh mắt chợt buồn rười rượi. Nàng bâng khuâng nói:
- Tấm chân thành của Tiêu Hầu quả là đáng quý. Nhưng dẫu cho mớ rễ cây này có công hiệu cũng vô ích. Những người khỏe mạnh, võ công cao cường mà còn không thoát chết, huống chi kẻ bệnh hoạn như Quách lão gia.
Rồi nàng nhìn thẳng vào mặt Lã Bất Thành:
- Đã có lời bảo chứng của Ngân Diện Hầu thì ta sẽ thu nhận đạo trưởng và giao cho chức vụ hộ pháp Hoàng Phong bang,
Nàng lại nhìn sang Trường Mi Thư Sinh và cau mày hỏi Bất Thành:
- Sao các hạ lại đồng hành với một người vốn ở tận cùng đất Hoa Nam này?
Bất Thành đáp:
- Hồi giữa tháng ba, bần đạo rởi bỏ núi Lĩnh Sơn, lang thang xuống phía nam, khi đến Tín Dương thì rỗng túi, sắp phải đi ăn mày. May thay, bần đạo được Thượng Quan thí chủ đây cưu mang, cùng nhau trở lại Hoa Bắc. Mong Hầu gia nể mặt bần đạo thu nạp luôn Trường Mi Thư Sinh.
Tuy hơi xem thường bản lãnh của Thượng Quan Nhẫn, song Thiên Kim cũng nghe lời Bất Thành.
Hai người được Phá Sơn Quyền đưa xuống khu hậu viện, nơi ăn ở của bọn hào kiệt mới đầu quân. Trong bữa cơm chiều, Tử Khuê đếm được khoảng hai trăm người, đều là những hảo hán người Hà Nam. Có lẽ Phá Sơn Quyền cũng sợ nội gián nên đã lựa chọn cẩn thận.
Hầu hết bọn họ đều có mặt ở Độc Nha sơn nên biết Lã Bất Thành là ai. Do đó, họ rất tôn kính Lã Bất Thành, song lại thờ ơ với Trường Mi Thư Sinh.
Ngay đêm hôm ấy, Tử Khuê vượt tường tổng đàn sang Hầu phủ do thám. Chàng nuôi hy vọng rằng người thân của mình còn sống sót, chạy về nương náu Hầu phủ. Và việc Thiên Kim chiêu binh mãi mã chỉ là để đánh lạc hướng kẻ thủ.
Trong cuộc sống vợ chồng, Thiên Kim đã có lần kể lể cho Tử Khuê nghe về cái cách nàng điều hành Hoàng Phong bang để khoe tài cầm quân. Nhờ vậy mà chàng biết rõ cả qui luật tuần tra canh gác Hầu phủ cũng như những nơi trọng yếu. Hơn nữa, chàng đã từng đến đây một lần.
Ban đêm, đàn Độc Phong không làm việc, nên số người canh phòng tăng lên gấp bội. Nhưng với số tu vi hiện tại, khinh công của Tử Khuê còn cao cường hơn cả Trác Thanh Chân. Khi chàng hoán vị từ bụi hoa này đến lùm cây khác thì tốc độ nhanh như gió, thân ảnh chỉ còn là một bóng mờ. Vì vậy, mặc cho khắp nơi chập chờn đèn đuốc, Tử Khuê vẫn êm ái vượt qua đại hoa viên, luồn đến phía sau dãy bắc sương.
Hầu phủ được xây dựng theo lối Tứ hợp viện truyền thống, chỉ khác ở chỗ sân trước rất rộng để chứa xe cộ của khách. Vì Hoàng Phong Hầu đời thứ nhất là người thích tiệc tùng, tháng nào cũng có một hai đại yến và gần chục tiểu yến song đến đời Thiên Kim thì dứt vì nàng là phận gái.
Nhắc lại Tử Khuê mau chóng áp sát rồi phi thân lên mái ngói lướt mau đến vị trí có ngọa phòng của Trình lão thái. Khuê phòng của Thiên Kim cũng ở cạnh đấy.
Lúc này mới là giữa canh hai, mẹ con họ chưa ngủ, đang trò chuyện trong phòng Hầu tước lão phu nhân. Tử Khuê liền nằm xuống, áp tai vào khe ngói.
Tim chàng đập loạn lên khi nghe nhạc mẫu nói:
- Kim nhi! Tuy chẳng rõ mớ rễ cây tiên đào kia có công dụng gì hay không, con vẫn phải cấp tốc mang đến Hứa Xương để Quách lão gia dùng thử.
Thiên Kim vâng dạ và thở dài rầu rĩ:
- Cũng may mà Thanh Chân dù si ngốc vẫn biết cõng lão gia đào tẩu, tìm đến nhà Nhị thư của Khuê ca. Nhưng khổ nỗi, Chân muội không biết gì về an nguy của những người khác, ả chỉ nói thêm rằng gia nương bị đánh trọng thương, nhưng sau đó thế nào thì không rõ.
Nghe xong, trong lòng Tử Khuê lóe lên niềm hy vọng. Thanh Chân có thể cứu được phụ thân chàng thì những người còn lại cũng có cơ may sống sót. Tang Đông Dã, đệ tử của Địa Thần đã bố trí một thông lộ bí mật từ hầm ngầm trổ ra bờ sông Thạch Lương hướng tây.
Dưới kia, Thiên Kim nói tiếp:
- Sáng mai, hài nhi sẽ sai Tiểu Trinh và Tiểu Huệ đem rễ cây tiên đào đi Hứa Xương.
Tử Khuê tự nhủ rằng sẽ đi theo bảo vệ. Chàng cũng đang định đến đấy để diện kiến phụ thân mình.
Chàng vừa nhỏm dậy để quay về thì thấy thấp thoáng trên mái ngói dãy tây sương có bóng đen. Chắc chắn gã cũng từ tổng đàn Hoàng Phong bang mò sang đây và chính là nội gián Long Vân Bảo.
Tên hắc y ấy thân hình nhỏ thó và có bản lĩnh khinh công cực kỳ linh diệu. Nếu không, gã đã chẳng vượt qua nổi sự tuần tra nghiêm mật của bọn đệ tử Hoàng Phong bang. Giờ đây, gã lom khom bước đi êm ái như mèo, cứ vài trượng thì dừng lại cuối xuống như để nhặc vật gì đó.
Mái ngói Hầu phủ không chỉ có hai mặt dốc mà là sự liên kết giữa nhiều mái nhỏ, lối kiến trúc này tạo nên tính thẩm mỹ và cả sự thông thoáng. Nhưng cũng chính vì thế mà khách dạ hành được che chắn không sợ người ở dưới nhìn thấy. Do đó, gã hắc y kia ung dung mà hành động.
Tử Khuê không hiểu gã đang làm gì nên đã ẩn mình kín đáo và căng mắt quan sát. Khi hắn ta lần sang đến nóc của dãy bắc sương, Tử Khuê mới ngã ngữa. Thì ra gã hắc y đã lần lượt đặt những vật tròn tròn dài độ nửa gang tay xuống mái ngói và những vật ấy được nối với nhau bằng một sợi dây.
Tử Khuê toát mồ hôi, thức ngộ rằng đấy là hỏa dược. Cài xong, đối phương chỉ cần đốt một đầu dây dẫn hỏa là Hầu phủ sẽ tan tành. Thuốc nổ không những đánh sập nhà cửa mà còn gây ra đám cháy. Chàng nghiến răng căm hận, linh cảm rằng Quách gia trang cũng bị tàn phá theo phương pháp này, và hung thủ là gã khốn kiếp kia.
Tử Khuê cố nén lòng ẫn nhẫn chờ đợi và suy tính kế hoạch đối phó. Cuối cùng gã hắc y lần đến gần vị trí của chàng. Trơng chớp mắt, Tử Khuê đã phong tỏa huyệt đạo đối phương mà không gây ra bất cứ tiếng động nào. Chàng đặt cái xác cứng đờ ấy nằm xuống mái ngói rồi lướt đi, thu lượm toàn bộ những thỏi hỏa dược vào túi vải mà gã chết tiệt kia dùng đựng chúng.
Sau đó, Tử Khuê quay lại lục soát người gã, tìm thấy một chiếc hỏa tập và một cây pháo hiệu. Đây là loại pháo bông phóng bằng tay, gồm một đoạn ống tre dài độ gang tay, đuôi có ba cánh mỏng và dây dẫn hỏa ngắn. Pháo hiệu trong quân sự thì lớn hơn, kết hợp với pháo thăng thiên để có thể bay cao.
Tử Khuê cân nhắc một lúc lâu, hiểu rằng phải tìm chỗ kín đáo mà khai thác gã này bằng cực hình thì mới mong moi được kế hoạch của phe địch.
Chàng liền vác gã hắc y và túi hỏa dược đi ra rìa ngói phía sau. May sao, Tử Khuê nhìn thấy Phá Sơn Quyền đang đi kiểm tra các chốt canh. Chành mừng rỡ gọi nhỏ:
- Trình Phó bang chủ!
Trình Kim Các giật bắn mình, ngước lên nhìn và cảnh giác đặt tay vào chuôi đao. Tử Khuê nhảy xuống nói mau:
- Tại hạ đã bắt được gian tế đang cài hỏa dược. Xin Trình lão đừng làm kinh động vì có thể còn vài tên nữa.

Hai thủ hạ tháp tùng có xách theo đèn lồng nên Trình lão đã sớm nhận ra Trường Mi Thư Sinh. Nghe nhắc đến hỏa dược, Phá Sơn Quyền lạnh cả gáy, song vẫn thận trọng hỏi lại:
- Làm sao các hạ vào được đến tận chốn này?
Tử Khuê cười nhạt:
- Tôn giá chớ hỏi tại hạ mà hãy hỏi gã gian tế. Hắn đi trước, tại hạ chỉ bám theo sau. Còn vì sao không bị phát hiện thì tại hạ chẳng rõ.
Trình Kim Các thẹn đỏ mặt, biết rằng mình chưa hoàn thành trách nhiệm bảo vệ Hầu phủ.
Lão ngượng ngùng bước lên hành lang, gõ cửa sau dãy bắc sương mà gọi Thiên Kim. Ả tỳ nữ Tiểu Huệ ra mở chốt, miệng ngáp dài.
Nữ Hầu tươc cũng đã từ phòng Trình lão thái chạy về. Nàng tái mặt khi xem xét những thỏi hỏa dược và lên tiếng cảm tạ Thượng Quan Nhẫn.
Tử Khuê nóng ruột khoa tay:
- Bang chủ chớ bận tâm. Việc cần làm ngay bây giờ là tìm hiểu xem kế hoạch của Long Vân Bảo thế nào.
Rồi chàng ngồi xuống lột khăn che mặt của gã hắc y, để lộ một dung mạo khá quen thuộc với Phá Sơn Quyền. Trình lão thảng thốt kêu lên:
- Vũ Dương Hắc Yến Khúc Giác Lượng! Khốn nạn thực! Không ngờ con trai của bằng hữu lão phu lại làm giam tế cho Long Vân Bảo.
Tử Khuê để mặc lão tha hồ ân hận, xấu hổ với Thiên Kim. Chàng giải huỵêt mê cho tù binh rồi quắc mắt hăm dọa:
- Này Khúc Giác Lượng! Ta sẽ cho ngươi nếm mùi đau khổ để lát nữa thực thà khai báo.
Dứt lời, chàng thi thố ngay thủ pháp “Phân gân thác cốt” đã học được của Dịch Quan San. Gã cho rằng chàng quá hiền lành, khi cần thiết sẽ không đủ thủ đoạn để hỏi cung, nên đã bắt chàng phải học cách tra tấn dã man này.
Tử Khuê lạnh lùng bẻ trặc tất cả những khớp xương ở tứ chi đối phương, gồm khớp vai, khớp cùi chỏ, khớp cổ tay, khớp háng, khớp đầu gối và khớp cổ chân.
Thân hình cong vẹo, dị dạng của Vũ Dương Hắc Yến co giật liên tục, mắt trợn trắng, mặt nhăn nhó, biểu hiện nỗi đau đớn cực độ. Do bị phong tỏa quai hàm nên nạn nhân không la hét được, chỉ phát ra những tiếng rên siết thê lương nho nhỏ.
Trình Thiên Kim phải quay đi chẳng dám nhìn thảm trạng khủng khiếp ấy. Nàng còn thầm chê trách Trường Mi Thư Sinh là kẻ tàn nhẫn thái quá.
Thấy mồ hôi kẻ gian tế toát ra như tắm, và cả nước tiểu cũng vãi ra khai rình, Tử Khuê bèn giải tỏa cực hình. Chàng sửa luôn khớp quai hàm của họ Khúc rồi nghiêm giọng hỏi:
- Phải chăng bọn Long Vân Bảo đang mai phục bên ngoài Bạch Ngưu trấn?
Vũ Dương Hắc Yến thiểu não gật đầu. Tử Khuê hỏi thêm rất nhiều câu và được Khúc Giác Lượng khai báo đầy đủ. Đòn tra tấn lúc nãy còn đáng sợ hơn cái chết, gã chẳng hề muốn kinh qua lần nữa.
Giữa canh ba, pháo hiệu từ nóc Hoàng Phong Hầu phủ bay vút lên không trung, tỏa ánh sáng xanh trong chốc lát rồi tắt ngay. Nhưng ám hiệu ngắn ngủi ấy cũng đủ để đội quân hắc y đang ẩn nấp ở cánh rừng phía tây Hầu phủ tràn đến như nước lũ.
Chúng đi vào con đường nhỏ chạy dọc tường bắc tổng đàn Hoàng Phong bang và Hầu phủ. Hai cơ ngơi này tọa lạc kề bên nhau, cùng quay mặt về hướng nam. Hầu phủ thì nằm sát đường trục chính Bắc – Nam của Bạch Ngưu trấn, còn tổng đàn ở hướng tây Hầu Phủ.
Do đó, một toán hắc ý đông độ trăm tên đã nhảy qua tường sau tổng đàn, và số còn lại vẫn thẳng tiến để tập hậu Hầu phủ.
Chúng biết rằng sẽ gặp phải sức kháng cự của phe chủ nhà, song không ngờ đệ tử Hoàng Phong bang lại yếu đuối và nhút nhát đến thế. Họ vừa đánh vừa chạy, miệng la bài hải, trông rất tội nghiệp. Nhờ vậy mà cả hai toán hắc y đều mau chóng vào cả trong vườn hoa lớn, phía sau Hầu phủ cũng như tổng đàn.
Đến lúc ấy, phe chủ nhà không chạy nữa mà lập thành phòng tuyến chung quanh bìa hoa viên mà kháng cự.
Bọn hắc y chưa kịp nghi ngờ thì hỏa dược dưới chân bùng nổ. Những gì Vũ Dương Hắc Yến gài trên nóc Hầu phủ va tổng đàn Hoàng Phong bang đã được sử dụng để đón tiếp kẻ địch.
Đất cát, hoa cỏ trong vườn hoa bị cày xới, bắn văng tung tóe phủ đầy những thi thể áo đen. Những ống hỏa dược ấy không nổ cùng một lúc, do tốc độ cháy của dây dẫn nên một nửa quân số hắc y đã kịp quay đầu bỏ chạy. Nhưng vòng vây đã khép chặt và vô cùng kiên cố. Bất cứ kẻ nào xông ra khỏi bẫy cũng đều bị chặn lại.
Do lời cung khai của Khúc Giác Lượng mà Phá Sơn Quyền đã thâu tóm được tám tên nội gián nữa, trong tổng đàn Hoàng Phong bang. Và giờ đây, lực lượng bên ấy do Lã Bất Thành thống lĩnh, thi hành kế mai phục.
Tình trạng hai nơi khá giống nhau, chỉ khác ở chỗ số đại cao thủ tiến vào Hầu phủ nhiều hơn. Lã Bất Thành chỉ phải đối phó với một cường địch có võ công cao cường.
Đó là một hắc y nhân đầu trùm kín bằng túi vải, chỉ chừa hai lỗ mắt nên không rõ tuổi tác. Hắn có thân hình vạm vỡ, cầm một thứ vũ khí khá lạ mắt. Nó giống như đoản côn nhưng đầu lại gắn một đoạn thép nhọn, sắc hai bề. Nghĩa là cây côn kia có thể đâm và chém.
Gã cầm côn nọ may mắn không bị thương bởi hỏa dược, hung hãn xông đến phá vây. Hai hảo hán Hà Nam đứng ở vị trí ấy, liên thủ đối phó với cây đoản côn đen sì. Song hắc y nhân thần lực kinh hồn, chỉ quét một đường côn đã đánh văng hai thanh trường kiếm và sấn tới thọc mũi thép vào ngực họ.
Lã Bất Thành vốn đứng sau hai hảo hán Hà Nam vội vươn dài trường kích đâm vào mặt kẻ địch. Hắc y nhân đành phải bỏ mục tiêu, vung côn đỡ thế kích thần tốc ấy.
Hai thanh thép nặng chạm nhau chát chúa và hắc y nhân bị đẩy lùi ra sau. Lã Bất Thành chiếm được tiên cơ, ập đến tấn công bằng chiêu “Điêu Thuyền hí thủy”. Những thế đâm, chém, móc của cây ngân kích nối nhau bay ra với tốc độ rất nhanh, liên miên bất tuyệt, phong toả toàn bộ thân trên đối thủ.
Hắc y nhân trụ tấn, múa tít vũ khí mà chống trả, đoản côn bay vù vù, thế thức ảo diệu tuyệt luân, hóa giải được chiêu kích của Lã Bất Thành. Nhưng thứ côn thuật thượng thừa kia chỉ xuất phát từ Thiếu Lâm Tự và Lã Bất Thành đã đoán ra lai lịch đối thủ.
Việc Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương gia nhập Long Vân Bảo không làm cho Bất Thành ngạc nhiên bằng sự tăng tiến công lực của kẻ phản đồ. Qua va chạm vũ khí, Bất Thành phát hiện công lực Hoa Dương đã cao hơn trước hai bậc, một hiện tượng không thể có trong điều kiện bình thường. Trừ phi gã may mắn gặp được kỳ trân dị dược,
Nhưng ngược lại, kích pháp của Bất Thành cũng tinh xảo hơn xưa, nhờ sự chỉ giáo của Tử Khuê. Chàng đã đem đạo biến hóa ra giảng giải và do bản chất thuần phác, mộc mạc mà gã đã ngộ được phần nào, đường kích tiêu dao tự tại, ảo diệu tuỵêt luân.
Đêm nay, Bất Thành phấn khởi so tài với kẻ địch xứng tay là Lã Hoa Dương, thép chạm thép vang rền, song phương quần thảo kịch liệt, ra đòn như chớp giật, vô cùng hào hứng.
Dần dà, Lã Bất Thành cũng chiếm được thượng phong, song chưa muốn kết liễu trận đấu. Chẳng mấy khi gã được đánh sướng tay đến thế. Hơn nữa, phe nhà đang đắc thắng sắp giết sạch bọn hắc y, gã không cần phải giúp đỡ họ.
Mặt trận bên tổng đàn Hoàng Phong bang là thế, giờ chúng ta sang Hầu phủ xem sao. Trước đây, hai cơ ngơi ấy thông nhau ở phần đuôi, nhưng sau này, chiêu mộ thêm anh tài. Nữ Hầu tước đã cho xây thêm tường để hai bên hoàn toàn cách biệt.
Tương tự như Thiếu Lâm Thần Côn, ba đại cao thủ khác của Long Vân Bảo cũng không trúng đòn hỏa dược, chỉ xây xát chút đỉnh. Nhưng có lẽ ỷ vào võ công cao cường hoặc do lệnh của Long Vân Tú Sĩ, họ không tìm cách thoát thân mà lại xông thẳng về phía Nữ Hầu tước Thiên Kim.
Sáu đệ tử Hoàng Phong bang lập tức chặn ba người ấy lại, song đều bị đánh văng, thọ thương gần hết. Công lực và kiếm thuật của ba hắc y nhân nọ quả thật là đáng sợ.
Không để thủ hạ tiếp tục liều mình, Nữ Hầu tước và Phá Sơn Quyền lướt tới tấn công hai kẻ địch, kẻ thứ ba do cặp tỳ nữ Tiểu Huê, Tiểu Tinh phụ trách.
Thanh bảo đao dũng mãnh cảu Trình Kim Các đã cầm chân được đối thủ. Đường đao hùng mạnh, trầm ổn và kín đáo này là kết quả của mấy chục năm khổ luyện. Trình lão lại là người điều độ, không ham tửu sắc nên công lực tuần tự tăng tiến theo tuổi tác, chẳng hề suy giảm. Địch thủ của Phá Sơn Quyền đã phải kinh ngạc trước tài đánh đao của một người vốn nổi danh về quyền thuật. Bị bất ngờ nên nhất thời thất thế, gã ta nghiến răng vũ lộng trường kiếm đỡ đòn và thọc những thức đâm thần tốc vào mặt đối phương. Nhưng Phá Sơn Quyền đã hạ thấp tấn để tránh né và quét một đao sấm sét, khiến gã hắc y phải mau mau thoái hậu, thoát cảnh thân đứt làm đôi. Càng đánh lâu gã càng bị lép vế, song vẫn cố cầm cự để chờ sự hỗ trợ của đồng đảng.
Quả đúng là hai hắc y nhân kia đang ở thế thượng phong, khi đối phó với lũ đàn bà con gái. Gân cốt nữ nhân vỗn nhỏ và mảnh mai, cơ bắp kém nở nang, sức lực thua xa bọn đàn ông dù cũng cùng một thời gian luyện tập. Huống chi, Trình Thiên Kim tuổi trẻ, có ít năm tu vi hơn đối thủ nàng. Nàng chỉ còn cách dựa vào thân pháp linh hoạt và sự ảo diệu của kiếm pháp cộng với tính khí cương cường, bất khuất.
Nữ Hầu tước đã phối hợp nhuần nhuyễn hai pho Hoàng Phong và Thành Long kiếm pháp, ngang nhiên đương cự với một lũ địch mạnh hơn. Đây cũng là một ngạc nhiên dành cho phe Long Vân Bảo. Trước đây, họ cứ nghĩ bang chủ Hoàng Phong bang tài nghệ tầm thường, chỉ ỷ lại vào tước Hầu phủ và lũ ong độc.
Hai lỗ mắt trên túi vải trùm đầu của bọn hắc y được khoét khá rộng, để không làm cản trở nhãn tuyến. Nhờ vậy mà Thiên Kim có thể nhìn thấy dôi chân mày điểm bạc của kẻ địch. Nàng thầm chột dạ vì biết đối phương là cao thủ lão làng, công lực hơn mình đến mấy bậc. Nàng bèn thận trọng hơn, tránh những đòn đọ sức mà thiên về biến hóa, nên tạm thời duy trì được thế quân bình.
Nhưng vị kiếm khách già cả kia lại không chấp nhận đứng ngang hàng với kẻ hậu sinh. Lão dồn thêm chân khí vào hữu thủ, loang kiếm nhanh như chớp giật, tấn công ồ ạt ả nhãi ranh họ Trình bằng những đòn hung hãn và độc ác phi thường. Hỏa hầu “Long Vân kiếm pháp” của lão còn cao hơn anh em nhà Vân Nam Song Hiệp.
Thiên Kim không sao địch lại, liên tiếp bị đẩy lùi. May mà có vài nam đệ tử Hoàng Phong bang xông vào liên thủ nên tình hình không đến nỗi quá tệ. Nhưng hoàn cảnh của hai ải tỳ nữ Tiểu Trinh – Tiểu Huê thì bi đát hơn, dẫu đã có sự hỗ trợ của ba bốn đồng đội. Đông đảo không hoàn toàn đồng nghĩa với ưu thế. Nhất là trong trường hợp vây đánh một người, trận địa khá hẹp, dễ vướng tay nhau. Cho nên, ngoài tác dụng xa luân chiến, đám đông chẳng dễ gì áp đảo ngay được một kẻ có bản lãnh cao siêu. Dẫu từ xưa đã có câu “Mãnh hổ nan địch quần hồ”. Song thực ra, con cọp chỉ bỏ chạy chứ không hề chết. Tất nhiên, nó đã giết không ít cáo chồn.
Ở đây cũng thế! Lão hắc y nhân này ung dung đối phó với đám hậu bối võ nghệ kém cỏi, trong chốc lát đã lần lượt đả thương Tiểu Trinh – Tiểu Huệ và hai tráng đinh khác. Có thể lúc đầu lão ta còn chút nương tay với hai cô gái chỉ đáng tuổi con mình. Nhưng khi thấy họ không biết thân phận cứ lăn xả vào không để lão rảnh tay trợ giúp đồng đảng, hắc y lão nhân liền nổi giận, xuất chiêu cực kỳ ác độc. Trường kiếm bay vun vút trong gió thu, phát ra những âm thanh xoèn xoẹt như xé lụa, đánh văng Tiểu Huệ và chụp lấy Tiểu Trinh.
Ả tỳ nữ trung thành của Thiên Kim đã rơi kiếm, chỉ còn chờ chết. Nhưng trong khoảnh khắc thập tử nhất sinh ấy, có ai đó đã đến bên xô Tiểu Trinh ra khỏi vùng nguy hiểm, đồng thời vung gươm giải phá chiêu kiếm quyết liệt của hắc y nhân.
Lão áo đen phát hiện mũi kiếm của kẻ mới đến như đốm hàn tinh bắn vào ngực trái mình, đành phải nghiêng mình tránh đòn, rồi phản công bằng ba thức đâm nhanh và chuẩn xác. Song chàng trai trẻ có cặp lông mày cổ quái kia chẳng chút bối rối, vung gươm đỡ gạt rất dễ dàng. Sau đó, Trường Mi Thư Sinh tấn công tới tấp, lưỡi kiếm dường như biến mất, chỉ còn là một dải lụa thật mờ ảo vây bủa trên thân địch thủ.
Hắc y lão nhân cảm thấy hơi lạnh tỏa đến ào ạt và trước mặt mịt mùng kiếm ảnh thì biết rằng đã gặp phải một tay gươm xuất chúng. Không thể hóa giải được chiêu kiếm kỳ tuyệt kia, lão áo đen chỉ còn cách thủ tấn lùi một bước để tránh bớt nhuệ khí, rồi dồn toàn lực vào chiêu “Long quyển phù vân”.
Đây là chiêu phòng thủ hữu hiệu nhất trong pho “Long Vân kiếm pháp”, thanh gươm trên tay lão nhân loang nhanh đảo lộn tựa rồng cuốn mây, dệt nên màn lưới thép kín đáo như bưng, dẫu mưa rào cũng chẳng thể lọt qua.
Không có những thức đâm theo phương pháp “Dĩ công vi thủ”, chiêu này chỉ nhằm mục đích chặn đứng nhịp tấn công của đối thủ. Vũ khí của địch chạm vào lưới kiếm sẽ bật ra, sai lệch quỹ đạo đã định, chiêu thức gián đoạn.
Đạo lý ấy không sai, song vẫn có ngoại lệ. Kiếm của Trường Mi Thư Sinh chập chờn bay lượn, bám trên bề mặt lưới thép do chiêu “Long quyển phù vân” tạo ra, tuy có va chạm song rất hời hợt, nhẹ nhàng. Và trong chớp mắt, như chú muỗi tìm ra lỗ thủng trên màn trướng, lưỡi gươm ấy chui qua sơ hở đâm thủng tâm thất lão áo đen.
Nạn nhân rú lên thảm khốc, buông gươm ôm vết thương mà gục ngã, mắt trợn trừng đẩy vẻ kinh ngạc.
Tử Khuê trong vai Trường Mi Thư Sinh chẳng có thời gian để bất nhẫn, vội tung mình bay chếch về phía trận địa của nữ Hầu tước. Nàng đã trúng một kiếm vào vai trái và sắp mạng vong bởi chiêu kế tiếp của đối thủ.
Tử Khuê hóa thành đám mây bạc pha sắc hồng, do lưỡi kiếm sáng như gương phản chiếu ánh đuốc. Kiếm kình vù vù chấn động không gian tựa sấm rền, vì chàng đã đánh chiêu “Lôi nộ bình sa”, một trong những chiêu cuối của pho “Lôi Đình kiếm pháp”.
Những người hiếu võ chẳng bao giờ gián đoạn việc rèn luyện. Trong mấy tháng vừa qua, dẫu phải gian nan rong ruỗi dặm dài, Tử Khuê vẫn không ngừng suy nghĩ về kiếm thuật. Kiếm đạo là biển mặn mênh mông, còn kiếm thuật tựa như nước ngọt và lương thực. Càng mang theo được nhiều hành trang, người kiếm sĩ càng đi được xa và có thể đến được bờ bên kia.
Tử Khuê rất xem trọng pho “Lôi Đình kiếm pháp”, bởi nó đứng đầu hàng ngũ của loại kiếm thuật dương cương. Trong khi “Thanh Long kiếm pháp” mang tính âm nhu. Nếu chàng hòa hợp được âm dương, cương nhu thì sẽ tiến được một chặng đường dài trên kiếm đạo.
Mộng ấy chưa thành, song hiện tại Tử Khuê đã tinh thuần “Lôi Đình kiếm pháp”, hỏa hầu chỉ kém Trác Đế Quân mà thôi. Cho nên, chiêu “Lôi nộ bình sa” đã đạt đến uy lực tận cùng, mãnh liệt tựa nhát búa của Lôi Thần giáng xuống đầu kẻ địch.
Lão già xấu số ấy vội cử gươm chống đỡ bằng chiêu “Ngưỡng tảo không vân”, trường kiếm vươn cao cản lùi cây kiếm thép đang ập xuống. Lần này, do kiếm pháp Lôi Đình là cương mãnh nên gươm chạm gươm kịch liệt, chát chúa ghê người. Và ngay sau đó có tiếng rú đau đớn của hắc y nhân. Tay phải lão thì cụt, họp sọ thì thủng sâu ở vị trí huyệt Bách Hội.
Hai cái chết rùng rợn liên tiếp của đồng đảng khiến lão hắc y thứ ba bấn loạn tâm can, lộ sơ hở lớn và bị Phá Sơn Quyền chém đứt đôi.
Đầu canh hai đêm rằm tháng chín, có một bóng đen vượt tường sau Lã gia trang, trong thành Hứa Xương, cơ ngơi này nằm trên đường Hoa Đà, mặc dù mộ của vị thần y thời Tam Quốc lại ở ngoài thành.
Mã trang chủ tên gọi Đông Cao, chính là rể thứ hai của nhà họ Quách. Khác với gã chết tiệt Nhâm Đức Tín, chồng của Quách Đại tiểu thư Thu Dung, Mã Đông Cao rất hiền lành, trung thực và hết lòng tôn kính cha mẹ vợ. Có lẽ đó là lý do khiến Quách Thiên Tường đã bảo Trác Thanh Chân cõng mình đến đây nương náu. Vả lại, Mã gia trang rất gần doanh trại của tổng binh Hứa Xương Quách Tử Xuyên, cháu ruột Thiên Tường.
Quách tổng binh vô cùng hổ thẹn vì không cứu được gia đình của Đại bá phụ trong đêm cuối tháng sáu vừa rồi. Gã chỉ có thể chuộc lỗi bằng cách cho quân canh gác Mã gia trang thật nghiêm mật. Và hằng đêm, gã đích thân đến kiểm tra bọn lính rất chặt chẽ, quyết không để xảy ra sự cố gì.
Nhưng gã đã uổng công vì bóng đen kia khinh công tuỵêt thế, dễ dàng qua mặt đám lính tuần, nhảy vèo qua tường trang lọt vào hoa viên, dẫu cho ánh trăng rằm soi sáng khắp nơi. Vị khách dạ hành nọ lại rất thông thuộc địa hình Mã gia trang, luồn lách qua khu nhà bếp, khu ăn ở của bọn gia nhân, tiến vào hành lang mặt sau quần thể Tam hợp viện.
Toàn bộ chùa chiền, miếu mạo ở Trung Hoa đều quay mặt về phía Nam. Nhà cửa bách tính cũng có xu hướng ấy song không triệt để lắm. Vì đôi khi bổn mạng của chủ nhà chẳng hợp với hành hỏa, là phương Nam. Hoặc giả, các hiệu buôn dọc theo phố chính những nơi thị tứ phải mở cửa ra mặt tiền đường, bất kể phương hướng nào.
Mã gia trang có vị trí rất tốt. Bởi phố Hoa Đà chạy theo hướng Đông Tây nên nhà họ Mã vừa có mặt tiền lại vừa có cửa hướng Nam, và mới đủ quy cách kiến trúc Tam hợp viện.
Dù tam hay tứ thì dãy nhà hướng Bắc luôn là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, thần thánh cũng như chỗ ở của chủ nhân. Dĩ nhiên, kẻ đột nhập kia hiểu điều ấy, tìm đến trúng phóc phòng the của vợ chồng Mã Đông Cao. Thấy họ đã ngủ khò, gã liền mò sang phòng xa xa vẫn còn sáng đèn. Qua khe cửa, gã nhìn thấy một lão nhân mặt vàng võ, hốc hác đang đối ẩm cùng một thiếu nữ áo xanh xinh xắn.
Kẻ đột nhập đã bịt vải đen ngang mặt, đầu quấn khăn che nửa trán, chỉ còn hở đôi mắt sinh động và lúc này đôi mắt ấy đột nhiên ướt rượt rổi ứa lệ. Té ra gã không phải thích khách hay đạo tặc mà là chàng trai bất hạnh Quách Tử Khuê, đang tìm gặp lại cha già, vợ dại.
Tử Khuê yêu thương phụ thân chẳng kém gì mẫu thân. Thậm chí chàng còn cảm thấy cha mình dễ thân cận hơn là mẹ. Quách trang chủ tính tình phóng khoáng, không câu nệ tiểu tiết, không cố chấp, luôn thông cảm và che chở cho Tử Khuê.
Tử Khuê đang định gõ cửa thì nghe bên hướng phòng chị mình cso tiếng khua động. Chàng e rằng anh rể thức giấc nên đành cố đợi thêm một lúc.
Bên trong phòng, cuộc đối ẩm kỳ lạ vẫn diễn ra, Trác Thanh Chân giữ chặt bình rượu, rót đầy chung của mình song chỉ bố thí cho cha chồng vài giọt. Thiên Tường nhăn nhó năn nỉ:
- Hảo tức nữ! Đằng nào lão phu cũng phải chết, sao ngươi lại nỡ bắt ta phải nhịn rượu?
Thanh Chân cười hì hì, kiên quyết lắc đầu:
- Lão gia chẳng thể chết được. Hài nhi nghe Nguyệt lão ứng mộng bảo như thế.
Quách Thiên Tường giận dữ chửi vang:
- Tổ bà cái lão Lỗ Phán Quan! Lão là nghĩa huynh của Khuê nhi, sao không báo trước để Quách gia tránh khỏi tai họa?
Thanh Chân sợ hãi, ấp úng phân bua:
- Bẩm lão gia! Vị Nguyệt lão tên Lỗ Phán Quan ấy cũng tỏ ra hối tiếc, buồn rầu và nói cái gì mà quả báo, nghiệp chướng… hài nhi chẳng thể nào hiểu nổi.
Quách trang chủ giật mình, tư lự một lúc rồi lẩm bẩm:
- Phải chăng lão phu làm việc thiện còn ít? Hay là do năm xưa Lam muội lạm sát quá nhiều người?
Ông thở dài nốc cạn chút rượu của mình rồi buồn bã hỏi thêm:
- Chân nhi! Lão chết toi ấy có nói gì về hạc lạc của Khuê nhi hay không?
Thanh Chân gật đầu:
- Bẩm lão gia! Lão chết toi…à không, Nguyệt lão bảo rằng Khuê nhi sẽ về đúng đêm trăng tròn.
Quách Thiên Tường giật thót mình vừa mừng vừa giận, nói như rên rỉ:
- Chân nhi ơi là Chân nhi! Hôm nay là ngày rằm, ngươi không nhớ hay sao?
Thanh Chân ngơ ngác đáp:
- Ừ nhỉ! Để hài nhi mở cửa sau ra xem trăng đã tròn hay chưa?
Nàng rời bàn, bước đến tháo chốt, mở toang cánh cửa thông ra vườn hoa nhỏ phía sau. Tử Khuê đã chực sẵn cấp tốc điểm Á huyệt của Thanh Chân rồi nói nhỏ:
- Ta đây! Chân muội chớ làm kinh động mọi người.
Thanh Chân hoan hỉ gật đầu, tự giải khai huyệt đạo rồi che miệng mà cười khúc khích. Tử Khuê lao đến, quỳ dưới chân cha già, khóc mà nói:

- Hài nhi chẳng phụng dưỡng song thân, lại còn gây ra họa diệt gia, tội lỗi ấy dẫu chết ngàn lần cũng chẳng dám mong được thứ tha.
Quách Thiên Tường mừng đến xa lệ, xoa đầu ái tử, run giọng an ủi:
- Khuê nhi còn sống là tốt rồi! Tai họa kia là quả báo chứ đâu phải do lỗi của ngươi. Con hãy đứng lên đi!
Thanh Chân mau mắn đỡ trượng phu lên và hớn hở nói:
- Phải mở tiệc mừng mới được. Để tiểu muội đi báo tin vui cho cả nhà biết.
Tử Khuê vội giữ nàng lại và hỏi Quách lão:
- Bẩm phụ thân! Chẳng hay Mã tỷ phu có thể tin tưởng được hay không?
Thiên Tường gật gù:
- Đổng Cao khác xa Đức Tín, con cứ yên tâm. Nhưng Chân nhi khoan hãy báo tin, để lão phu cùng Khuê nhi chuyện trò một lát cho thỏa lòng.
Ông thò tay vớ bình rượu, chép miệng nói tiếp:
- Gặp được Khuê nhi, lão phu đã yên lòng nhắm mắt. Nào cha con ta cùng uống vài chug!
Sực nhớ đến bệnh trạng của phụ thân, Tử Khuê liền móc trong ngực áo lấy ra một túi lụa dày khá nặng. Chàng trút ra bàn những viên sáp ong lớn bằng quả nhãn và hớn hở nói:
- Phụ thân! Hài nhi không tìm được “Hắc Ngọc tiên đào”, vì cây ấy đã chết khô. Nhưng hài nhi đã mang rễ cái của nó về và nấu lấy tinh chất, làm thành trăm viên thuốc này. Hài nhi tin rằng chúng sẽ trị được chứng bệnh gan của người.
Thanh Chân ứng tiếng ngay:
- Tướng công nói đúng đấy lão gia! Năm xưa, Tiên mẫu cũng từng nói rằng rễ cây tiên đào có dược lực còn tốt hơn quả. Bà hận gia phụ nên không thèm nói cho ông ấy biết điều này.
Không ngờ Thanh Chân lại nhớ ra chi tiết cực kỳ quan trọng ấy, khiến Tử Khuê vui mừng khôn tả. Chàng tát yêu vào gò má hồng hào vì men rượu của Thanh Chân để biểu lộ sự âu yếm. Sau đó, chàng bóc bỏ lớp sáp ong, đưa viên thuốc trắng như sữa, ngan ngát mùi hăng hắc cho cha già.
Ỷ có thần dược, Quách trang chủ thản nhiên nhai nát viên thuốc rồi nuốt với vài hớp rượu.
Tài sản của dunghoitaisao127

  #18  
Old 30-04-2008, 04:58 PM
dunghoitaisao127's Avatar
dunghoitaisao127 dunghoitaisao127 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 39
Thời gian online: 4 ngày 16 giờ 13 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 19 : Bạch Hổ luyến Hồ Ly
Tú Sĩ hiển thần công



Sáng sớm hôm sau, Quách Xuân Hương bưng thau nước ấm và khăn sạch đến phòng phụ thân.
Nàng luôn đích thân làm việc này chứ không sai tỳ nữ hoặc em dâu. Đây là dịp hiếm hoi để nàng tỏ lòng hiếu kính với cha già. Tuy đã tục huyền, Quách lão vẫn luôn yêu thương chị em nàng, không để họ chịu thiệt hoài như thói thường tình.
Xuân Hương vừa đặt thau nước xuống chiếc giá gỗ trước tấm gương đồng, thì bị ai đó ôm chặt từ phía sau. Nàng tưởng đấy là đứa em dâu ngốc nghếch họ Trách, nào ngờ nghe tiếng nam nhân:
- Nhị thư! là tiểu đệ đây!
Nhận ra giọng nói thân thiết, nàng bàng hoàng nhìn vào mặt gương rồi bật khóc.
Nửa canh giờ sau, Đại tiểu thư Quách Thu Dung đến vấn an cha, và nước mắt lại rơi như mưa..
Qua sáu ngày, những triệu chứng của bệnh gan đã lui dần. tuy da, mắt còn vàng nhưng bụng không đau vì xẹp bớt. Hiện tượng này đã khiến cho Vương đại phu, thầy thuốc của Quách lão phải ngạc nhiên. Ông vô cùng tự hào, cho rằng mình đã trở thành Đệ nhất thần y của Trung Hoa. Nhưng khi xem xét lại những toa thuốc mà mình đã kê thì thấy cũng giống như của vài bệnh nhân đã qua đời. Thực ra, Quách Thiên Tường đã không uống chúng từ lúc con trai mang rễ cây tiên đào về.
Song song đó, do được gần gũi chàng, tâm bệnh của Thanh Chân cũng dần dần thuyên giảm, nhớ lại vài dữ kiện giải thích nguyên nhân của tai hoạ.
Thì ra, hồi đầu tháng sáu, Long Vân Tú Sĩ Quảng Chiêu Phong có cử sứ giả đến Quách gia trang, đòi gặp Ngân Diện Hầu. Khi nghe nói Tiêu Mẫn Hiền không còn ở đây, gã sứ giả đã nói rõ mục đích là viên ngọc màu đen.
Dịch Quan San biết giữ chỉ mang họa nên đã trả lại. Vậy thì tại sao Long Vân Bảo vẫn tấn công Quách gia trang? Tử Khuê suy nghĩ mãi mà không hiểu nỗi. Chàng chỉ còn một giả thiết là Long Vân Tú Sĩ muốn bắt sống người thân của chàng để uy hiếp Trung Thiên Tôn. Và nếu đúng như vậy thì họ không chết, đang bị giam ở Thốc Sơn. Đấy là manh mối, là hy vọng duy nhất. Tử Khuê quyết định xuôi Nam một phen.
Mờ sáng ngày hai mươi hai tháng chín. Tử Khuê rời Hứa Xương. Trách Chân Nhân đòi theo nhưng chàng không cho.
Lòng ky sĩ nóng như lửa đốt trên vó ngựa phi mau. Tuấn mã của Tử Khuê có bề ngoài tầm thường chẳng mang đặc điểm nào khác lạ, lông tuyền một màu hung đỏ. Điều này rất có lợi vì người ngoài không thể dựa vào ngựa mà đoán lai lịch chủ nhân.
Dáng vóc của nó còn thấp nhỏ hơn bình thường một chút do lai giữa nòi Đại Uyển và nòi Vân Nam.
Giống ngựa Đại Uyển nổi tiếng về tốc độ nước rút, còn ngựa Vân Nam thì rất bền sức và giỏi leo dốc. Cho nên người bạn bốn chân tên Ký nhi của Tử Khuê có những đức tính ấy. nếu nó không phải là Thiên Lý mã, Ngân Diện Hầu Tiêu Lạp Dân đã không bỏ ra hai ngàn lượng bạc để mua về.
Đường quan đạo từ Hứa Xương xuống Tín Dương là đường trục chính bắc – Nam, đường huyết mạch nên khá tốt, vì thường xuyên được tu bổ. nhưng Tử Khuê rất mến tuấn mã của mình, chẳng nỡ bắt nó trổ tài ngàn dặm.
Năm ngày sau, Tử Khuê còn cách Tín Dương hơn chục dặm, có thể nhìn thấy màu đỏ của rừng Phong trên đỉnh núi Thốc Sơn. Nét đẹp ấy của mùa Thu chỉ làm cho nỗi buồn trong tâm hồn Tử Khuê thêm bát ngát.
Chàng cố nén lòng quay đi, vì phải đến La sơn thăm dò tình hình của nghĩa phụ Trung Thiên Tôn trước đã.
Xế trưa, Tử Khuê vào thành Tín Dương, tìm chỗ dùng cơm. Tín Dương là địa phương phồn thịnh nhất vùng cực nam tỉnh Hà Nam. Thành quách đồ sộ, rộng rãi, đường phố lát đá phẳng phiu, nhà cửa khang trang, quán xá, hiệu buôn rất nhiều.
Cảnh vật Tín Dương đã gợi cho Tử Khuê nhớ đến lần cùng Thiết Đảm Hồng Nhan ghé qua đây. Tống Thuỵ cũng có mặt ở Quách gia trang, trong đêm cuối tháng sáu và với tính khí của nàng thì chỉ e lành ít dữ nhiều. Trác Thanh Chân kể rằng tống Thụy đã thọ thương, y phục đẫm máu hồng song vẫn chiến đấu như hổ dữ.
Thanh Chân đã thoát ra theo lối cổng chính chứ không phải bằng đường hầm bí mật thông với sông Thạch Lương. Chỉ có kẻ si ngốc mới hành động như thế. Song kỳ diệu thay, mặt ấy lại chẳng có kẻ địch nào đủ sức chống đỡ những đạo “Lôi Đình thần chưởng” của Thanh Chân, và với tài khinh công siêu phàm dẫu phải cõng một người trên lưng, nàng vẫn lướt nhanh như gió khiến đối phương trở tay không kịp.
Sau này, Quách Tử Xuyên, tổng binh thành Hứa Xương đã theo lời dặn của bá phụ mà kiểm tra đường thoát hiểm ra sông. Gã nhận thấy lối ấy đã đổ sập, nhưng không rõ trước hay sau khi có người kịp thoát ra.
Tử Khuê hiểu rằng càng suy nghĩ càng tuyệt vọng nên cố gạt muộn phiền, tập trung vào mục đích trước mặt.
Đến giữa thành, nơi giao nhau của hai đường phố chính, chàng rẽ trái và dừng cương ngay phạn điếm đầu tiên. Quán cơm ấy mang chiêu bài Duyệt Tân đại phạm điếm, là nơi chàng và Thiết Đảm Hồng Nhan đã từng ghé vào.
“Duyệt Tân” có nghĩa là làm vui lòng khách. Mà khách thì kẻ thanh người tục, nên phạn điếm này bán cả món chay lẫn món mặn.
Tình cờ, hôm nay Tử Khuê lại đang mặc đạo bào xanh, cải trang thành một đạo sĩ. Trong trận tấn công Hoàng Phong Hầu phủ, phe Long Vân Bảo đã có một tên thoát chết là Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương, cho nên Tử Khuê chẳng dám mang dung mạo Trường Mi Thư Sinh mà mò đến cứ địa của kẻ thù.
Chàng đã dày công nghiên cứu pho “Dịch dung bí kíp”, thức ngộ được rằng có những cách cải trang đơn giản song cực kỳ hữu hiệu, chỉ vài nét chấm phá tinh tế bằng thuốc màu cũng đủ khiến mặt chàng khác trước.
Tử Khuê trao dây cương và dặn gã tiểu nhị lấy loại yến mạch tốt nhất cho tuấn mã. Để đảm bảo rằng Ký nhi sẽ được chăm sóc tốt, chàng đã thưởng cho gã ta một tờ tiền giấy Đại Minh Thông Hành Bảo Sao, trị giá năm lượng bạc.
Sự hào phóng này đã sớm được loan báo đến những kẻ phục vụ khác, nên mâm cơm chay của Tử Khuê rất thịnh soạn, đắt tiền. Và có tới hai gã tửu bảo đứng hầu cạnh bàn với dáng điệu cúc cung tận tụy.
Chúng tin rằng lát nữa sẽ vòi được món tiền thưởng béo bở.
Ăn xong, Tử Khuê nhâm nhi chén trà thơm nhìn ra ngoài đường phố. Chàng vô cùng kinh ngạc khi lần lượt thấy những nhân vật quan trọng và quen thuộc đi ngang qua về hướng của đông thành.
Họ gồm năm vị chưởng môn Bạch đạo, trong Hội đồng Võ lâm, chỉ thiếu Trương Thiên Sư. Sau đó là Trình Thiên Kim, Thần Đao Bảo chủ Tần Minh Viên, hai người này mặc tước phục đầy đủ, nét mặt rất trầm trọng.
Kỳ lạ hơn nữa là việc cả tổng binh thành Đăng Phong Trịnh Trường Hoài cũng đến đây.
Tử Khuê liền quay sang hỏi gã tiểu nhị:
- Này thí chủ! Chẳng hay ở cửa đông thành có đại sự gì vậy ?
Gã ta hớn hở đáp ngay với dáng vẻ vô cùng quan trọng:
- Bẩm đạo trưởng! đây là sự kiện mà chẳng phải ai ở Tín Dương này cũng được phép biết. Do đệ tử có người bào muội làm tỳ nữ trong Vương phủ nên mới tỏ tường. Số là thế này….
“Cách nay gần tháng, trong phủ đệ của Hoài Âm Vương gia bỗng xuất hiện yêu quái, trời đổ mưa dữ dội và Lôi Thần đã giáng mấy búa xuống hoa viên để diệt trừ con yêu ấy. Khổ thay! Chắc là yêu quái chạy vào nhà ẩn trốn nên đã có một nhát búa đánh trúng mái hành lang dãy phòng của Vương phi.
Bà ta không hề bị tổn thương da thịt song lúc mê lúc tỉnh cho đến tận bây giờ, cơ thể thì cứ co giật liên tục.
Các bậc danh y đất Tín Dương và lân cận đều bó tay, nên Vương gia đã treo bảng cầu hiền, hứa thưởng vạn lượng vàng cho ai cứu được Vương phi…”
Nghe xong, Tử Khuê đoán ra vì sao những nhân vật lúc này phải đến Tín Dương. Trình Thiên Kim, Tần Bảo chủ và Trịnh tổng binh là những người có mặt hôm Âu Dương Mẫn bị giết. Hoài Âm Vương muốn tìm viên “Tỵ Lôi thần châu” nên hỏi họ. Ba người ấy sẽ cứng họng vì chính chàng đã lấy viên ngọc giả ấy để phi tang lúc rút mũi “Thất Hưu Đao” ra khỏi xác lão ác ma.
Còn các phái võ lâm đến Vương phủ là để dâng thuốc quý hoặc nỗ lực cứu mạng Vương phi. Họ không thể không đến vì Hoài Âm Vương Chu Kiều vừa được Thiên tử giao thêm trọng trách chấn hưng nền võ học Trung Hoa. Nghĩa là ông ta quản lý tất cả những môn phái, bang hội trong võ lâm.
Tử Khuê còn đang cân nhắc thì phát hiện vài đoàn người ngựa đi qua của phạn điếm. Lần này là bọn tà ma Lôi Đình Thần Cung, Nam bắc bang. Chàng nhận ra họ nhờ những lá cờ hiệu oai phong lớn bằng cả manh chiếu.
Tử Khuê càng thêm bối rối, cố tìm ra cách cứu người mà không để lộ thân phận thực. Chàng là người nhân hậu, chẵng nỡ để bà Vương phi đáng thương kia chết oan được. Chàng quyết định tìm chỗ kín đáo. Hoá trang cẩn thận rồi đi đến Vương phủ.
Nhưng chàng chưa kịp rời bàn thì Trương Thiên Sư và ba bốn chục đệ tử bước vào phạm điếm. Họ mang theo đến hai cỗ xe song mã chở đầy cờ xí, quạt lọng, nhạc cụ, chắc là lập pháp đàn cầu đảo hoặc tróc yêu.
Tử Khuê khấp khởi mừng thầm, hiểu rằng có thể mượn tay Thiên Sư giáo hành động. Mọi người, cả bạn lẫn thù đều sẽ tưởng nạn nhân thoát chết là nhờ pháp lực của Huyền Thiên Chân Quân Trương Sách.
Chàng liền ngồi lại, gọi một bình rượu nhỏ vừa uống vừa tính toán kế sách.
Trương Thiên Sư đồng bàn với hai lão tuổi lục tuần, có lẽ là các sư đệ. Trương giáo chủ chỉ ăn có một chén cơm đã buông đũa, rót rượu uống, sắc mặt đầy nét ưu tư. Hai người kia thấy vậy cũng vội vã nuốt chén cơm, chẳng dám ăn thêm.
Trương Thiên Sư rót rượu cho họ rồi buồn bã nói:
- Nếu Vương phi bị con yêu kia nhập vào thì may cho chúng ta. Bằng như bà ta chỉ thuần tuý mang những triệu chứng của người bị sét đánh thì phép thuật của bổn giáo sẽ vô dụng. Khổ thay! Hoài Âm Vương lại khăng khăng cho rằng Vương phi bị yêu quái mượn xác. Phen này, nếu thất bại thì bổn giáo sẽ mất hết tiếng tăm và không còn được triều đình trọng vọng nữa. Do vậy, bổn nhân đành phải hy sinh mười năm tuổi thọ, dùng phép “Dĩ niên đảo mệnh” mà cứu người.
Hai sư đệ của ông lập tức biến sắc. Một người rầu rĩ nói:
- Hà tất giáo chủ sư huynh phải dùng đến hạ sách ấy. Trong lịch sử hơn ngàn năm, bổn giáo đã từng trải qua nhiều lần suy rồi lại thịnh. Nay có lỡ gặp hồi bĩ cực thì cũng do sự vận hành của đại đạo. Mong giáo chủ sư huynh nghĩ lại.
Trương Sách cười thảm, lắc đầu:
- Khổng Phu Tử từng nói: “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”. Lúc này, Phật giáo đang thời kỳ hưng thịnh, chùa chiền mọc lên như nấm. Còn Đạo giáo thì càng ngày càng ít tín đồ. Bổn nhân không thể để cơ nghiệp Thiên Sư giáo tiếp tục suy thóai, nếu không sẽ chẳng mặt mũi nào xưng là hậu duệ của Trương tổ sư.
Tử Khuê cũng là đạo sĩ nên biết Trương tổ Sư đây là Trương Đạo Lãng, người sáng lập ra Ngũ Đấu Mê Thuyết Đạo thời đông Hán, chứ không phải là Trương Tam Phong, tổ sư của Võ Đang.
Tử Khuê chẳng hề bài bác Phật pháp, song vẫn thiên về học thuyết Lão Trang. Chàng chợt bùi ngùi xót xa cho viễn cảnh lụi tàn của một tôn giáo vĩ đại nhất Trung Hoa. Chàng cũng thầm kính phục Trương Thiên Sư, vị giáo chủ đầy nhiệt huyết, dám hy sinh vì nghĩa cả.
Tử Khuê đã có kế sách vẹn toàn, bèn bước đến thi lễ và nói nhỏ với Trương Thiên Sư:
- Đệ tử là Vu Diệp, xin bái kiến giáo chủ.
Đầu giờ Mùi, phái bộ Thiên Sư giáo tiến vào Vương phủ. Giờ đây, sắc mặt của Trương Thiên Sư vô cùng rạng rỡ, tươi tắn, vì ông đã nắm chắc thành công. Sự xuất hiện bất ngờ của kẻ sở hữu “Tỵ Lôi Thần châu” đã khiến Trương giáo chủ vui mừng không xiết, nhất là khi Tử Khuê khẳng định rằng mình đã từng cứu mạng một nạn nhân của Lôi Thần.
Đám đạo sĩ đệ tử được bọn gia đinh Vương Phủ đưa xuống hậu viện. Chỉ có Trương Thiên Sư và hai sư đệ tiến vào đại khách sảnh. Tử Khuê giả làm đệ tử hầu cận giáo chủ, vai mang kiếm pháp, tay cầm phất trần, bám sát Trương Thiên Sư. Nếu ai có hỏi thì Trương Sách sẽ khai chàng mang đạo hiệu Nguyên Thông.
Lúc này, trong đại khách sảnh có khá đông người và mặt ai cũng nặng trĩu lo âu. Ngay cả bậc cao tăng đắc đạo như phương trượng Thiếu Lâm mà cũng không bình thản nổi, lý do là vì Hoài Âm Vương Chu Kiềm khét tiếng nóng nảy, ngang ngược, hành động bất chấp đạo lý. Nếu ái phi của gã mệnh hệ gì thì các phái khó tránh khỏi tai họa.
Tuy tình hình cổ quái, bất thường song Chu Kiềm lại được Thiên tử nể vì. Bản thân Hoài Âm Vương có công trấn giữ biên ải suốt mười năm trời, nhiều năm vào sinh ra tử đánh đuổi rợ Mông, bảo toàn cương thổ. Nhờ công trạng ấy, Chu Kiềm được ban cho “Miễn tử kim bài”, tức giấy phép giết người.
Dẫu cho Hoài Âm Vương không giết các chưởng môn thì chí ít cũng cấm họat động hoặc không cho mở trường dạy võ. Lúc ấy, mấy phái tăng đạo sẽ đói meo, sống bằng của bố thí y như Cái bang vậy. đấy là những phái có truyền thống lâu đời, được nể nang đôi chút. Còn những bang hội khác thì bị dẹp tiệm là cái chắc. Ngay cả bọn ma đầu cái thế như Lôi Đình Đế Quân, Long Vân Tú Sĩ, Xoa Lạp Cốc Chủ, Nam Thiên Tôn.. cũng chẳng dám kháng lệnh của Chu Kiềm. Nhưng ngược lại, nếu phái nào cứu được Vương Phi thì sẽ chiếm được cảm tình của Chu Kiềm và đứng đầu võ lâm. Do đó, ai cũng mang theo linh đan, diệu dược để lập công, song chăng ai dám tin chắc mình sẽ thành công.
Trong tâm trạng u ám ấy, những người đến trước chào hỏi Trương Thiên Sư chẳng mấy nồng nhiệt. Chỉ có mình bang chủ Cái bang là còn kha khá. Ăn mày thì chẳng còn gì để mất cả.
- Này, Trương giáo chủ! Cả võ lâm trông cậy vào tài bắt ma của ông đấy!
Tần Bảo chủ chợt buột miệng than thở:
- Chỉ sợ bệnh của Vương phi chẳng phải là do yêu quái gây ra. Lúc ấy thì biết tìm viên “Ty Lôi thần châu” ở đâu. Hôm đó, lão phu không hề nhìn thấy viên ngọc nọ trên người của Âu Dương Mẫn.
Trương Thiên Sư khoa tay mỉm cười:
- Thần Đao Bá chớ lo! Bần đạo đã sớm nhận ra Vương phủ đầy yêu khí. Con yêu này tuy lợi hại, thoát được sự trừng phạt của Lôi Thần, song sẽ phải bỏ đi khi bần đạo lập đàn, thỉnh Nhị Lang Thần giáng hạ. Nhị Lang là vị thần được thờ phụng trong Đạo giáo, và có đến hai nguyên hình. Một là con trai thứ của Lý Băng, quận Thú đất Thục thời nhà Tần, gọi là Lý Nhị Lang. Họ Lý có công giúp cha xây đập sông Mân Giang, tây bắc huyện Quán, tỉnh Tứ Xuyên, nên được bách tính nhớ ơn, xây miếu Nhị Lang để cúng tế. Hai là Dương Tiễn, “Dương Nhị Lang” trong tây Du Ký và Phong Thần Diễn Nghĩa.
Chết nỗi, thần giả nổi tiếng hơn thần thực, nên sau này khi nhắc đến Nhị Lang Thần là người ta nghĩ ngay đến gã Dương Tiễn ba mắt, có con Hạo Thiên Khuyển. Sức mạnh của văn chương quả là ghê gớm!
Nhắc lại, khi nghe Trương Thiên Sứ tuyên bố chắc nịch đầy tự tin như thế, cử tọa bán tín bán nghi, song chẳng ai buồn mở miệng hỏi thêm và đấy cũng là lúc Hoài Âm Vương xuất hiện sau giấc ngủ trưa.
Đại khách sảnh là nơi Hoài Âm Vương tiếp kiến quan lại các địa phương, nên phần nền hướng bắc được tôn cao và có năm bậc thang. Thay cho long ngai là một cỗ đại ỷ bằng danh mộc đen bóng, chạm trổ cầu kỳ. Hai bên đại ỷ còn có thêm bốn chiếc ghế dựa, vây lấy ba mặt của một án thư.
Hoài Âm Vương đi ra từ cánh cửa phía đông của bức vách, theo sau là đội giáp sĩ và ba người mặc thường phục. Hai trong ba kẻ ấy là người quen. Bác Lỗ Tiên Sinh Lương Viễn Phương và Diệu Thủ Thần Cơ Tư Mã Uy. Nhân vật thứ ba mặt đạo bào xanh, đầu đội mũ quả dưa, tay cầm quạt lông, mặt sáng như trăng rằm, trông rất giống Gia Cát Lượng.
Bang chủ Cái bang cau mày, nói nhỏ với Vân Thiên Tử:
- Thì ra Long Vân Tú Sĩ đã sớm dựa dẫm vào thế lực của Hoài Âm Vương. Võ lâm nguy mất thôi!
Tử Khuê đứng hầu Trương Thiên Sứ ở bàn kế bên, nghe được câu nói ấy liền chăm chú quan sát Quảng Tú Sĩ. Cũng như hầu hết những tên đại gian ác khác, dung mạo lão ta thanh tú, hiền hòa, dễ mến. Kẻ lộ nét xảo quyệt chỉ là phường tiểu yêu, chẳng thể mưu đồ việc lớn. Chàng ngấm ngầm thở dài, nhìn sang Hoài Âm Vương. Té ra, Chu Kiềm tuổi tác chỉ độ ba mươi bốn, ba mươi lăm, thân hình vạm vỡ tráng kiện, khác hẳn với Long Vân Tú Sĩ, tướng mạo gã thô kệch, trán thấp, mũi to, môi mỏng, gò má cao, lông mày rậm giao nhau ở mi tâm. Và phía dưới cặp chân mày phá tướng ấy là đôi mắt rắn vô cùng đáng sợ. Chu Kiềm lại còn hơi gù lưng, trông rất xấu xí.
Tử Khuê đã hiểu vì sao Hoài Âm Vương không được kế vị ngôi hoàng đế, dù gã là anh của đương kim thánh thượng.
Lúc này, mọi người đều đứng cả lên để đoán Chu Kiềm. họ không phải quỳ vì tổng quản Vương phủ đã dặn dò trước rằng Vương gia mang cốt cách võ tướng, chẳng thích lễ nghi phiền toái.
Chu Kiềm không ngồi xuống, đảo mắt quan sát đám khách khốn khổ kia, rồi cau mày hỏi với vẻ bực bội:
- Này, Trương tổng quản! Khanh chưa mời được Trần tiên trưởng núi La Sơn hay sao?
Vị tổng quản họ Trương sợ hãi ấp úng đáp:
- Khải bẩm Vương gia! Nô tài đã bốn lần đến La Sơn để thỉnh lão Trần Tiên nhưng không gặp được. Lão tiều phu nơi chân núi bảo rằng Trung Thiên Tôn đi vân du Nam Hải, khoản giữa tháng mười mới về.
Hoài Âm Vương lộ rõ vẻ thất vọng, chứng tỏ đã tin tưởng vào pháp lực hoặc y thuật của Trần Ninh Tĩnh. Biết cử toạ đang thắc mắc, Chu Kiềm liền giải thích:
- Trần Chân Nhân chính là bậc địa tiên thời nay, nên bổn Vương hết lòng tôn kính. Năm kia, khi bổn Vương mới về đất Tín Dương, do thuỷ thổ bất phục mà lâm trọng bệnh. Trần tiên trưởng nhờ thần thông mà biết được đến đây cứu mạng Chu mỗ.
Nói xong, Chu Kiềm vẫy tay cho phép mọi người an toạ. Tử Khuê cùng bọn tiểu tăng, đạo đồng phải lùi ra ngoài, đúng sát vách đại sảnh.
Khi nhắc đến Trung Thiên Tôn thì giọng nói và sắc diện Hoài Âm Vương khá hiền hoà, nhưng giờ đây mặt gã lạnh như tiền, ánh mắt sắc bén rợn người. gã nhìn cử toạ như đồ tể nhìn đàn gia súc, tính toán xem con nào béo tốt.
Trương tổng quản đọc danh sách những nhân vật được triệu kiến. Khi nghe tên thì người ấy đứng len thi lễ và dâng thuốc quý, bất kể nó có liên quan gì đến bệnh tình của Vương phi hay không.
Quả là đáng tức cười vì hầu hết là thuốc trị nội ngoại thương bổ nguyên khí như Đại Hoàn Đan, Thái Ất thần đan, Sinh Cơ Tán, Bách Niên Sâm, Bách Niên Tam Thất, Hà Thủ Ô già….
Lôi Đình Đế Quân Trác Ngạn Chi nổi bật nhất vì đã mang đến một quả “ Hắc Ngọc tiên đào” phơi khô. Lão rất tự tin vào kỳ trân và y thuật của mình nên mạnh dạn đề nghị:
- Khải tấu Vương gia! Dược lực của “Hắc ngọc tiên đào” rất mãnh liệt, thảo dân phải đích thân đối chứng lập phương thì mới an toàn chữa trị và đạt hiệu quả.
Chu Kiềm cười nhạt:
- Ái khanh của bổn Vương là tiên nữ giáng trần, tuy đang lâm bệnh mà nhan sắc mị lực vẫn có thể nhiếp hồn bất cứ nam nhân nào, dù già hay trẻ. Nay cái lão chết toi Tư Mã Vy này cũng không kềm lòng nỗi, bị bổn Vương biến thành thái giám. Nếu Trác khanh không sợ bị thiến thì cứ việc đứng ra điều trị.
Toàn trường khiếp vía, chú mục nhìn gương mặt khó coi của Diệu Thủ Thần Cơ. Té ra luật trời thông minh khiến kẻ dâm đãng xảo quyệt như Tư Mã Vy phải chịu cung hình.
Dĩ nhiên Trác Ngạn Chi cũng xanh mật, lẵng lặng ngồi xuống. Tuy nhiên tuổi tác đã quá bảy mươi mà tóc lão vẫ xanh đen, da dẻ trắng trẻo mịn màng. May mà ba chòm râu đã hoa râm. Nếu không, trông lão cũng chẵng khác gì mới tứ tuần. Đấy chính là hiệu dụng của “Hắc ngọc tiên đào”.
Lôi Đình Đế Quân ngắm nghía hung thần họ Chu và thầm hối tiếc. Nếu biết phải chịu cảnh e dè, quy luỵ thế này thì lão đã chẳng vào trung thổ, mưu đồ nghiệp bá.
Rồi cũng đến lượt ba kẻ tội nghiệp có liên quan đến “Ty Lôi Thần châu” “ Hoàng Phong Hầu, Thần Đao Bá, tổng binh thành Đăng Phong đều dâng lên lễ vật rồi quỳ xuống biện bạch, đem tổ tông ra mà thề rằng chẳng thấy viên ngọc màu tím nọ.
May thay, Chu Kiềm tin họ, gã gật gù phán:
- Vậy thì có lẽ gã Tiêu Mẫn Hiên đã lấy trộm thần châu. Bằng cớ là gã không dám đến đây. Tội ấy, bổn Vương sẽ tính sau nếu pháp lực của Trương Thiên Sư không cứu nỗi Vương phi. Thực ra, bổn Vương tin rằng đây là bệnh do quỷ ám, vì nạn nhân bị sét đánh thường chết ngay. Hơn nữ, Tần cung cách xa hành lang đến tám trượng. Trương Thiên Sư là người đến sau cùng nên đứng chót danh sách. Biết đã tới lượt, ông đứng lên, chắp tay thi lễ, rồi điềm đạm nói:
- Vương gia quả là bậc anh minh, sáng suốt, bần đạo cũng đã nhìn thấy yêu khí bốc lên từ khu hậu phủ, và bận đạo tự tin có thể đuổi được yêu quái ấy ra khỏi ngọc thể của Vương phi.
Lời khẳng định lạc quan của Trương Sách đã làm cho Hoài Âm Vương phấn khởi. Nếu không chắc ăn thì Trương Thiên Sư chẳng dại gì cao giọng mà sau này mang nhục. Chu Kiềm nhoẻn miệng cười, để lộ hàm răng trắng khỏ, song mỗi chiếc đều hơi nhỏ và nhòn nhọn:
- Hay lắm! Bổn Vương xin đặt hết hy vọng vào giáo chủ.
Rồi gã nghiêm giọng bảo cử toạ:
- Bổn Vương mời các vị ở lại Vương phủ, chờ dự tiệc mừng Vương phi khỏi bệnh.
Tiếng là mời song thực chất là giam lỏng.
o0o
Đến tận chiều hôm sau, hai mươi ba tháng chín, pháp đàn “Nhị Lang Thần khổn yêu đại trận” mới chuẩn bị xong trong hoa viên Vương phủ.
Ba phái Toàn Chân, Võ Đương, Hoa Sơn cũng thuộc Đạo giáo nên Trương Thiên Sư phải bày biện y như thật, đầy đủ lễ tiết, thì mới mong qua mắt họ được. Cũng may là Trương Sách mang theo đủ đồ nghề, chỉ cần làm thêm vài thứ, nếu không phải mất đến ba ngày.
Trên thảm có trống giữa vườn hoa, Trương Thiên Sư cắm sào tre và dùng chỉ đỏ căng thành một hình Bát Quái Đồ. Trong cung dựng một lều hình vuông, mỗi cạnh trượng rưỡi, quây kín bằng lụa dày màu đen. Vị Vương phi họ Tần xinh đẹp kia sẽ nằm trong ấy, dĩ nhiên là trên giường nệm.
Trên tám góc và tám cạnh Bát Quái Đồ, cờ phướn cắm la liệt. Sào tre cao vút, phất phơ những lá bùa giấy vàng, chữ viết bằng máu gà trống. Dưới chân sào là một thau đồng lớn chứa gạo nếp. Dùng để cắm nhang. Ở tám cạnh Bát Quái Đồ, và bốn góc liều của Vương phi cũng có những chậu hương như thế. Vị chi tổng cộng là hai mươi bát nhang do hai mươi đạo sĩ trông nom, sẽ liên tục toả khói mịt mù che kín trận pháp. Danh nghĩa là để Nhị Lang thần giáng hạ tróc yêu, song thực chất là không cho người ngoài nhìn thấy Tử Khuê chui vào lều bệnh nhân.
Pháp đàn bằng gỗ, cao gần trượng, đặt ngay cạnh chính nam của hình bát giác, tức cung Khảm, vì đây là Hậu thiên Bát quái đồ của Văn Vương nhà Chu. Trên pháp đàn đặt một bàn gỗ dài và trên bàn là vật hiến tế, nhang đèn. Song quan trọng nhất là tượng Lý Nhị Lang, cốt tre, ngoài phết giấy bồi được sơn phết tinh sảo, đẹp mắt.
Vị Nhị Lang Thần này đeo gươm, tay tả chống nạnh, tay hữu chỉ về phí rốn trận, tư thế rất oai nghiêm.
Chân đài gỗ cũng có những lò hương nghi ngút, và mười sáu đạo sĩ sẽ đứng quanh đấy, tay cầm nhạc cụ như chuông, mõ, sênh, phách, đàn, trống. Trong số đó có Tử Khuê.
Đúng giữa giờ Tý, Trương Thiên Sư mang kiếm gỗ đào và phất trần, trèo lên pháp đàn, triển khai khổn yêu đại trận.
Trước đó, Tần Vương phi đã được Hoài Âm Vương đích thân bồng ra, đặt vào lều vải. Gã điểm huyệt, phong toả tứ chi để nàng ta không bất ngờ bỏ chạy, phá hỏng buổi tế lễ.
Cúng kiếng thì phải có tên tuổi bệnh nhân, nạn nhân, nhờ vậy chúng ta biết vị Vương phi đáng thương kia tên Tần Hạnh Nga, sinh giờ Tý ngày rằm tháng chín năm Giáp Ngọ, tức năm Thành Hoá thứ mười, quê quán Hà Bắc. Tấu xảo thay, Tần Vương Phi và Tử Khuê ra đời cùng một lúc.
Khói từ mấy chục hò hương bốc lên ngùn ngụt, vì mỗi lò cắm cả bó chứ chẳng phải vài cây. Khói mù cùng với tiếng nhạc, tiếng tụng niệm trầm trầm đã tạo nên vẻ huyền ảo trang nghiêm cho pháp đàn. Các đạo sĩ trẻ cứ thản nhiên tấu nhạc và tụng những đoạn kinh quen thuộc trong pho Thái Thượng Cảm Ứng Thiên.
Trên đàn, Trương Thiên Sư cũng khấn vái, niệm chú, đốt bùa, cung thỉnh Nhị Lang Thần giáng hạ.
Ông hơi hổ thẹn vì phải đóng kịch, nên tự an ủi bằng cách thành tâm cúng tế xem như Tần Vương phi đúng là bị ma ám vậy.
Lạ thay, gần nữa khắc sau, một luồng quái phong đột nhiên xuất hiện vần vũ trong khuôn viên trận khổn yêu, khiến cờ xí, bùa chú bay phần phật và làm lung lay cả pho tượng Lý Nhị Lang. Chính lúc ấy, đôi pháp nhãn của Trương Thiên Sư nhận ra yêu khí bốc lên ngùn ngụt từ chiếc lều ở trong cung.
Trương Sách kinh hãi, nhanh tay đốt liền mấy đạo bùa và rải gạo nếp và không trung, miệng thì niệm chú chẳng ngớt. Ông chưa kịp ngăn cản thì thấy Tử Khuê lao vút đi như tên bắn, vượt qua làn khói mờ, chui tọt vào cửa lều ở hướng Nam.
Trương Thiên Sư vô cùng lo lắng, sợ Tử Khuê bị con yêu kia giết chết. Nhưng ông không còn các nào khác ngoài việc tiếp tục thi thố pháp thuật trấn áp yêu tinh, khiến nó chẳng thể nào làm hại Tử Khuê.
Hoài Âm Vương cùng các đại nhân vật võ lâm đang ngồi trên lầu của toà Vọng Nguyệt lâu mé tả hoa viên để theo dõi cuộc tế lễ. Lúc đầu chẳng mấy ai tin tưởng, song giờ đây họ bàng hoàng, ngơ ngẩn khi thấy cảnh tượng quái dị trước mắt. chung quanh họ gió thu hẩy hẩy, vậy mà trong trận khói bay cuồng loạn, cờ phướn phất phới, bùa chú bị giật rách. Nhưng họ không biết một điều là có kẻ đã đột nhập căn lều lụa đen.
Vào đến nơi, nhờ ánh đèn vàng vọt của ngọn toạ đăng treo ở cột lều, Tử Khuê nhìn thấy rõ bệnh nhân của mình. Chàng rảo bước đến bên giường, song lại tần ngần, do dự. Muốn cứu Tần Hạnh Nga, chàng phải bắt buộc phải mạo phạm đến thân thể nàng.
Chưa kịp có chủ ý dứt khoát thì Tử Khuê bổng phát hiện quái sự, chàng ngơ ngác đưa tay dụi mắt khi thấy gương mặt trắng như bạch ngọc của Tần Vương phi hoá thành mặt chồn, mọc đầy lông đen.
Khi biết đây là sự thực, Tử Khuê thất kinh hồn vía, định quay lưng đào tẩu. Nhưng gương mặt kia đã trở lại như cũ, vì Tần Hạnh Nga mở miệng khẩn cầu, giọng nói cùng ánh mắt rất bi ai:
- Xin Tinh quân mở lượng hải hà, khai ân cứu mạng đệ tử. Tuy là chồn tinh nhưng đệ tử chưa hề làm hại bất cứ ai.
Tử Khuê nghe nàng gọi mình là Tinh Quân thì sực nhớ ra cái gốc gác thần tiên. Chàng hơi vững bụng, nghiêm nghị nói :
- Nàng dám trái luật trời, hoá thành mỹ nữ mê hoặc bậc quý nhân của triều đình, đấy là một tội. Giả như nàng sanh con, làm ô uế dòng máu họ Chu, là tội thứ hai. Sao ta dám cứu nàng để mang tiếng nối giáo cho giặc.
Tần Hạnh Nga cười thảm, lắc đầu:
- Tinh Quân ngộ nhận rồi. Nếu không có đệ tử thì Chu Kiềm đã tạo phản từ lâu. Còn việc sinh nở thì Tinh Quân chớ lo, số Chu Kiềm vốn tuyệt tự. Đệ tử muốn tạo phúc cho bá tính, không ngờ lại chẳng được cảm thông, bị lão Lôi công lòng dạ hẹp hòi kia truy sát. Nếu Tinh Qun không rủ lòng thương thì đệ tử chết oan, chẳng nhắm mắt nổi.
Dứt lời, lệ thảm tuôn trào, trông nàng rất đáng thương. Tử Khuê vốn là người nhân hậu, suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Nếu nàng lập trọng thệ rằng suốt đời làm việc thiện, ta mới an tâm cứu giúp.
Tần Hạnh Nga mừng rỡ thề thốt ngay, đem cả Phật Tổ Như Lai lẫn Ngọc Hoàng Thượng Đế ra bảo chứng.
Tử Khuê hài lòng, đưa tay lột tấm chăn đơn trên người Tần Hạnh Nga và giải toả huyệt đạo. Chàng ấp úng trình bày phương thức chữa bệnh, mặt đỏ như gấc.
A hồ hy mỉm cười, yểu điệu lột hết xiêm y, không chút thẹn thùng. Thân hình Tần Hạnh Nga cân đối, mĩ miều chẳng kém Dịch Tái Vân, và còn bội phần khiêu gợi hơn vì da thịt bát ngát mùi hương kỳ lạ. Mùi chồn không thơm như hoa, có phần hăng hắc nhưng vô cùng quyến rũ, khiến cho bọn nam nhân loạn nhịp tim, mạch máu căng phồng. Có lẽ chính nó đã khiến cho Diệu Thủ thần Cơ Tư Mỹ Vy bị thiến.
Tử Khuê cũng đã động tình khi nhìn ngắm và tiếp xúc với cơ thể đầy tà mị nọ. Nhưng chàng đang nẫu ruột vì an nguy của từ mẫu và thê thiếp nên đã kiềm chế dục vọng.
Cũng như lần cứu Tái Vân, bàn tay của Tử Khuê chạm đến đâu thì nơi ấy thôi đau đớn. Hạnh Nga dần tỉnh táo hẳn, cảm nhận được hết nỗi vui thoát chết. Nàng nhìn gương mặt đôn hậu, dễ mến của Tử Khuê với ánh mắt tri ân và ngày càng chất ngất ngây yêu thương.
Ngoài kia, trống chiêng ỏm tỏi, đàn sáo vang lừng. Tử Khuê chẳng dám duy trì, hành động thật nhanh để kịp thoát ra. Hơn nữa, chàng sợ mình không giữ lòng được lâu thêm. Mị lực của Hạnh Nga quả là đáng sợ.
Nhưng khi xong việc, Hạnh Nga nắm chặt tay Tử Khuê, giữ lại và thỏ thẻ:
- Nếu chàng chịu nán lại ít khắc, thiếp xin hứa sẽ giúp chàng hội ngộ với người thân. Thiếp và chàng vốn có chúc duyên tiền định nên sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng giờ, chỉ cách nhau bốn trăm mươi năm.
Tử Khuê vừa ngạc nhiên vừa hoan hỉ phi thường. A hồ ly này biết được lai lịch bát tự niên canh của chàng, dù mới gặp lần đầu, qua dung mạo giả thì đạo hạnh chẳng tầm thường. Và với pháp lực của Hạnh Nga, chàng tin rằng nàng ta thừa sức giụp mình tìm gặp gia quyến. Tử Khuê hỏi dồn:
- Náng nói đi! Họ vẫn bình an cả chứ? Và họ đang ở đâu ?
Hạnh Nga liếc chàng tình tứ, nũng nịu đáp:
- Thiếp mới thoát chết, thần thông chưa bình phục hoàn toàn. Ít ngày nữa, thiếp mới có thể trả lời chàng được.
Nói xong, Hạnh Nga trườn lên hôn khắp mặt Tử Khuê. Đôi môi mềm mại, thơm tho của nàng đã ru hồn và dìu chàng vào giấc mộng vu sơn kỳ tuyệt.
Giữa giờ Sửu, Tử Khuê rời lều vải, quay về chân pháp đàn. Do vị trí thuận lợi mà Trương Thin Sư nhìn thấy và nhận ra Tử Khuê giơ ngón cái báo hiệu thành công.
Huyền Thiên Chân Quân mừng như được sống lại, quát vang một tiếng để kết thúc nghi lễ. Lão đã mỏi tay, mỏi miệng vì phải tụng niệm,múa kiếm suốt gần canh giờ.
Lúc này, đèn đuốc mới được phép đốt lên, sáng rực cả hoa viên. Hoài Âm Vương đã mau mắn chạy đến chân pháp đàn hỏi han. Trương Giáo chủ vuốt râu cười khà khà dõng dạc nói:
- Vương gia có thể vào lều đưa Vương phi hồi cung. Tà ma đã bị trục xuất khỏi Vương phủ.
Đến tận trưa ngày hai mươi chín, tiệc mừng Tần Vương phi thoát nạn mới được tổ chức. Ngoài các chưởng môn nhân còn có thêm bọn quan lại phủ Tín Dương. Đây là dịp để vương phủ nhận những món lễ vật hậu hĩnh của thuộc cấp.
Đại yến được bày trong đại hoa viên vì tiết trời cuối thu mát mẻ, không mưa và nắng thì nhàn nhạt, chẳng thể xuyên qua cành lá của những hàng cây hồng hội già nua. Khắp nơi, rải rác những bông cúc nở muộn đủ các màu tím, đỏ, phớt vàng, trắng nhạt, xanh.. dường như chúng đang cố níeu kéo mùa thu lại, để Tần Hạnh Nga còn có cơ hội thưởng lãm. Thời xưa, kỳ hoa cúc không dài, hết mùa thu là chẵng nhìn thấy nữa.
Hôm nay, Tần Vương phi xinh đẹp phi thường, trâm cài lược giắt, lộng lẫy trong bộ cung trang màu hồng phấn. Tuy chẳng gầy như hoa cúc song dáng đi của nàng vẫn ẻo lả thướt tha, bội phần kiều mị. Có lẽ nàng chưa khỏi hẳn nên được Hoài Âm Vương dìu dắt.
Chỉ mình Tử Khuê biết Hạnh Nga giả vờ bạc nhược, tránh việc kề cận Chu Kiềm, để đêm đêm có thể đến với chàng. Tử Khuê luôn tự trách móc, dằn vặt bản thân, nhưng không bao giờ cưỡng lại niềm khát khao trước ả hồ ly diễm lệ kia. Giờ đây, chàng đã hiểu mình là người háo sắc, đa tình, chẳng thể mượn chữ nhân duyên để biện minh.
Hoài Âm Vương vui vẻ nói lời khai yến. Sau đó, khách khứa lên tiếng chúc mừng. Ai cũng đều cố giấu vẻ gượng gạo và tránh không nhìn mặt Vương Phi. Anh mắt, nụ cười của Hạnh Nga hấp dẫn phi thường, có thể khiến họ thất thố rồi mang họa. Thiên tử còn lắng nghe, hành động cân nhắc đôi chút chứ Hoài Âm Vương thì không.
Bàn của Vương gia cùng Vương phi đặt trong một toà tiểu đình lục giác, bàn khách vây quanh ba mặt. Tiểu đình là nơi uống rượu, thưởng trăn, hóng mát, ngắm hoa nên không có vách và nên luôn luôn cao hơn mặt bằng chung. Nhờ vậy, cử toạ dễ dàng nhìn thấy và nghe được những lời phán bảo của bậc vương hầu.
Sau vài tuần rượu, Chu Kiềm đứng lên, sang sảng tán dương công trạng của Trương Thiên Sư à thản nhiên tuyên bố:
- Bổn vương thừa mệnh thánh hoàng chấn hưng nền vỏ học nước nhà, sao cho trai tráng, người người khỏe mạnh, giỏi kiếm cung. Được như thế thì sau này đại Minh mới có những đạo quân hùng mạnh, thiện chiến, khả dĩ chống lại bọn rợ phương Bắc. Trước tiên, bổn vương sẽ cải cách hội đồng Võ lâm, vì các khanh đã có lỗi khi để cho gã tội phạm Điền Sĩ Lệ qua mặt, trở thành Minh chủ. Hội đồng Võ lâm phải thu nạp thêm một hai bậc tài trí thì mới mong hoạt động có hiệu quả.
Lục vị chưởng môn Bạch đạo vô cùng lo lắng, sợ rằng Chu Kiềm sẽ đưa Long Vân Tú Sĩ lên đứng đầu Hội đồng Võ lâm, giao trứng cho ác. Vân Thiên Tử vì tiền đồ của giang hồ và xã tắc nên quyết định chịu thiệt thòi. Ong đứng lên thi lễ rồi nói:
- Khải tấu vương gia bần đạo là kẻ có lỗi nhất trong vụ việc Điền Lệ Sĩ lòng vô cùng hổ thẹn, chẳng mặt mũi nào mà đứng đầu hội đồng nữa. Bần đạo xin tiến cữ Trương Thiên Sư, bậc Chân Nhân đạo hạnh cao siêu, trí đức vẹn toàn lên làm Chủ tịch Hội đồng Võ lâm.
Hoài Âm Vương thoáng cau mày bất mãn, vì đấy không phải là chủ ý của gã. Nhưng Tần Vương phi đã vỗ tay tán thưởng, mặt hoa rạng rỡ vẻ hài lòng. Dù đã cưới nàng hơn hai năm nhưng Chu Kiềm vẫn say Tần Hạnh Nga như điếu đổ. Đến mức gã chẳng hề tìm được lạc thú nơi bất cứ nào khác. Vô tình, Chu Kiềm trở thành vị Vương gia đức độ chung tình nhất triều đình, không hề có thứ phi hay cung nga.
Do đó, Hoài Âm Vương rất tôn thờ, yêu quý Tần Hạnh Nga, sẵn sàng làm bất cứ điều gì nàng muốn. Thế là Chu Kiềm lờ phắt món lễ vật ba vạn lượng vàng của Long Vân Tú Sĩ, chuẩn tấu đề nghị của Vân Thiên Tử:
- Địch hiền khanh quả là người có khí tiết, không tham quyền cố vị. Bổn Vương rất cao hứng trước lời tiến cử sáng suốt của khanh.
Vân Thiên Tử có tục danh là Địch Trường Cát. Ong chậm rãi bước đến tiểu đình cách đấy chừng hơn trượng, dâng nạp lại ấn triện cho Hồi m Vương.
Trong lúc đó, các vị chưởng môn nhân kia đã kịp bàn bạc xong kế hoạch, nên Trương Thiên Sư thản nhiên lên nhận chức danh và ấn triện, khi Chu Kiềm gọi. Và ông đã nhận được một cái nháy mắt khuyến khích của Tần Vương phi. Dấu hiệu ấy hàm ý rằng Hạnh Nga sẽ hỗ trợ ông hết mình.
Trương Sách vững bụng, kính cẩn nói:
- Khải tấu Vương gia! Bần đạo tài hèn đức kém, nay được giao trọng trách thì cũng đành xã thân gánh vác. Tuân theo chỉ dụ của Vương gia về việc mở rộng Hội đồng Võ Lâm, bần đạo mạnh dạn tiến cử hai bậc kỳ nhân lão thành là Nam Thiên Tô Từ Tôn Chiến và Lôi Đình Cung chủ Trác Ngạn Chi.
Đây là cơ hội cuối cùng để nuốt trôi ba vạn lượng vàng của Long Vân Tú Sĩ, nên Chu Kiềm phán ngay:
-Ý của bổn vương thiên về Quảng hiền khanh, tức Long Vân Bảo chủ. Sau hơn một năm quen biết, ta có thể khẳng định Quảng chiêu Phong là người thao lược, trí dũng song toàn.
Trương Thiên Sư than thầm, song không dám cãi. May thay, Tần Vương phi đã lên tiếng cứu vãn tình hình. Nàng nũng nịu nói với Chu Kiềm:
- Vương gia! Thần thiếp cho rằng Quảng hiền khanh nên hiển lộ thần công, đả bại hai ứng viên kia mới có thể danh chính ngôn thuận gia nhập Hội đồng Võ lâm. Nếu không, lòng người sẽ chẳng phục.
Anh mắt và nụ cười đổ thành nghiêng nước của mỹ nhân đã khiến Chu Kiềm nhũn cả tay chân, đáp ứng ngay:
- Ai khanh bàn chí phải!
Rồi gã dõng dạc tuyên bố:
- Bổn vương quyết định dùng phương pháp tỷ võ đoạt soái để chọn ra người thứ bảy trong Hội đồng Võ lâm, mời ba ứng viên bước ra!
Đấu trường là khu bắc trống trải, sát ngay cạnh Bắc triều đình cho nên Chu Kiềm và Hạnh Nga chỉ cần ngồi sang phía bên kia bàn là có thể thưởng lãm trận so tài. Mười bàn tiệc của khách cũng đã được bọn gia nhân, tỳ nữ dọn đến bìa khoảnh cỏ để cử toạ tiện quan sát.
Thực đơn của đại yến gồm đến hơn ba chục món ăn, nên những món mới được mang lên, chén đũa, ly tách cũng thay cả.
Tử Khuê muốn tìm hiểu võ công của Long Vân Tú Sĩ, liền rời bàn của đám đệ tử Thiên Sư giáo, đến đứng sau lưng Huyền Thiên Chân Quân, giả vờ phe phẩy quạt cho ông ta. Trừ Trương Sách, không ai trong Hội đồng Võ lâm nhận biết Tử Khuê. Chàng cũng không dám tìm gặp Trình Thiên Kim, dù phu thê đã trùng phùng sau trận Long Vân Bảo tấn công Hầu phủ. Tử Khuê hổ thẹn vì việc dan díu với Tần Vương Phi.
Một cỗ trống trận đã được mang ra đặt trong tiểu đình, để Hoài Âm Vương đích thân cầm trịch trận so tài. Chu Kiềm cao hứng gõ một hồi trống hào hùng rồi hỏi:
- Từ khanh và Trách khanh, ai là người xung phong đấu với Quảng khanh trước ?
Nam thiên tôn từ tôn Chiến vì thanh danh mà phải tham dự cuộc tỷ vỏ này. Lão hơi ngán Lôi Đình Cung Chủ, song xem thường Long Vân tú sĩ, nên muốn thắng trước một trận, sau đó thua Trác Ngạn chi thì cũng đỡ nhục. Với chủ ý như thế Nam Thiên Tôn mau mắn lên tiếng:
- Khải bẩm Vương gia! Bần đạo xin được lãnh giáo Quảng tú sĩ vài chiêu.
Lão xăng xái xách kim thương bước ra, đứng giữa bãi cỏ trống, dáng điệu rất oai phong.
Long Vân Tú Sĩ bình thản thi lễ cùng Vương gia và Vương phi rồi đủng đỉnh xuất trận. Họ Quảng không nỡ dụng vũ khí chứng tỏ sở trường về quyền thuật hoặc cách không chưởng lực.
Quảng Chiêu Phong ít tuổi hơn nên có quyền ra tay trước. Hồi đại cỗ khai trận của Chu Kiềm vừa dứt thì Long Vân Tú Sĩ lao vút về phía đối thủ.
Nam Thiên Tôn cẩn trọng đón đánh kẻ địch bằng chiêu “ Liên phòng nghênh khách” (Gương sen đón khách), kim thương đâm mau hàng trăm thức, khống chế toàn bộ cơ thể của Long Vân Tú Sĩ.
Mọi người tưởng rằng chiêu thức ảo diệu và mãnh liệt này sẽ khiến Quảng Chiêu Phong e ngại, đề khí bốc lên cao để né trácnh. Và đấy cũng chính là cơ hội phát huy ưu thế của cách không chưởng lực.
Nhưng không phải thế, Long Vân Tú Sĩ vẫn thản nhiên lao đầu vào lưới chông, song thủ khoa nhanh thẳng thắn va chạm với mũi thương sắc nhọn. Lần này bàn tay và phần cẳng tay ló ra khỏi tay áo đã được bọc bởi lớp khí xanh nhạt, mờ mờ. Nếu là ban đêm thì lớp khí ấy chắc sẽ toả sáng, trông rất huyền bí, tà quái!
Toàn trường rúng động, hiểu rằng Long Vân Tú Sĩ đã luyện thành “Thanh Hà bất hoại thần công”, tuyệt học đạo gia thời nhà Nguyên. Năm Đại Đức thứ sáu, đời Nguyên Thái tổ, Thanh Hà pháp sư thống lĩnh năm ngàn đệ tử mặc đạo bào thêu đóa hoa sen màu xanh, khởi nghĩa chống Mông Cổ, lấy núi Thái Sơn làm cứ địa.
Với tấm thân sắt thép và tuyệt học “Thanh Hà thần chưởng”, pháp sư đã phá tan nhiều đạo quân Mông Cổ, chiếm lại gần hết tỉnh Sơn đông. Triều đình nhà Nguyên vô cùng lo sợ, bèn dùng kế “Tá đao sát nhân”, đem năm vạn lượng vàng mua chuộc gã đệ tử thân tín của pháp sư.
Mùa đông năm Đại Đức thứ mười, trời rét cắt da. Thanh Hà pháp sư say rượu trùm chăn ngủ vùi, bị gã phản đồ đập vỡ sọ.
Gần hai trăm năm qua, tuyệt học của Thanh Hà pháp sư tưởng chừng đã thất truyền, chẳng ngờ lại rơi vào tay của Long Vân Tú Sĩ.
Do đặc tính phát quang mà “Thanh hà bất hoại thần công” rất dễ được nhận ra. Nam Thiên Tôn là bậc bô lão võ lâm nên càng rành rẽ. Lão vô cùng sợ hãi, nhưng chẳng lẽ lại nhận thua ngay nên cố cầm cự thêm một lúc.
Từ Tôn Chiến dần hết tu vi múa tít kim thương, ra đòn như vũ bão, cầu thắng trong vòng vài chục chiêu, nếu không xong thì rút lui. Lão chẳng cần phải tiết kiệm sức lực cho một trận chiến lâu dài, nên khí thế cực kỳ mãnh liệt, thương kình vù vù xé gió.
Đường thương của Nam Thiên Tôn không chỉ dũng mãnh mà còn hiểm ác, ảo diệu tuyệt luân, luôn uy hiếp chỗ nhược của đối phương.
Vũ khí nặng chính là khắc tinh của các loại thần công hộ thể. Lực đạo của cây thương thép nặng ba mươi cân có thể đập vỡ đầu con trâu thì thủ cấp của Quảng Chiêu Phong cũng khó vẹn toàn. Và theo nguyên lý phản lực thì thân hình Long Vân Tú Sĩ cũng sẽ bị đánh văng đi khi trúng một đòn tảo diệp ngàn cân, dù không tổn thương.
Họ Quảng cũng hiểu điều ấy nên chẳng dại gì trực diện đương cự. lão liều thi triển “Thanh Hà thân pháp” tựa đoá sen xanh phất phơ trước gió né những đường thương quá mạnh, rồi ập vào phản kích bằng những đạo chưởng kình sấm sét.
Tuy cách không chưởng là thành tựu cao nhất của khí công và quyền thuật Trung Hoa, song nó có những nhược điểm nhất định. Nếu không thì cả võ lâm đã đổ xô vào rèn luyện, chẳng để ý đến những công phu khác nữa. Một trong những nhược điểm ấy là tốc độ. Do lực cản của không khí mà độ nhanh của chưởng phong bị giới hạn và một cao thủ lão thành, giàu kinh nghiệm như Nam Thiên Tôn có thể dựa vào những biểu hiện ở vai, cánh tay, bàn tay đối phương mà đoán ra phương vị bị chưởng kình uy hiếp.
Lúc ấy, Từ lão nhanh chóng đảo bộ, thả tấn hay xoay người né tránh. Thỉnh thoảng, lão cử tả thủ đỡ lấy. Sau đó, Nam Thiên Tôn tràn tới, vươn dài kim thương phản công bằng một đòn cực kỳ hung hãn.
Tài đánh thương điêu luyện và công lực thâm hậu của Từ Tôn Chiến đã được cử toạ vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Hoài âm Vương thì tán thưởng bằng một hồi trống vang rền.
Long Vân Tú Sĩ hơi bị mất mặt, song còn phải giữ gìn cho trận gặp Lôi Đình Đế Quân nên cố nén lòng tiếp tục thi triển phép du đấu, chờ đối thủ xuống sức mới kết liễu một cách an toàn.
Nhưng đúng như câu “Kẻ sĩ ba ngày không gặp đã thấy khác”. Giờ đây, Nam Thiên Tôn dẻo dai hơn mấy tháng trước bội phần, cứ như là lão mới sáu mươi chứ không phải gần cửu thập. Đã hai khắc trôi qua mà Nam Thiên Tôn vẫn chưa có dấu hiệu mệt mỏi, cây thương ba chục cân vẫn bay lượn nhẹ nhàng, nhanh nhẹn.
Vân Thiên Tử từng chạm trán Nam Thiên Tôn nên rõ hơn ai hết. Ông thầm ngạc nhiên trước hiện tượng ấy nên chú tâm quan sát và phát hiện râu tóc họ Từ không bạc phơ như xưa, mà lác đác điểm những sợi đen.
Đây chính là bí mật của Nam Thiên Tôn, và cũng là nguyên nhân khiến lão phế bỏ việc tu hành tái xuất giang hồ. Vua Mông đã giữ đúng lời hứa, gửi tặng Nam Thiên Tôn một con “Bích mục thử”. Kỳ trân hiếm có của sa mạc Đại Qui Bích có tác dụng làm người ta trẻ lại. cải lão hoàn đồng, trường sinh bất tử và là mơ ước bao đời của nhân loại. Cảm giác tử vong luôn ám ảnh người già nên Nam Thiên Tôn sốt sắng nhận lời hợp tác với ngoại bang. Nhưng thực ra, lão chẳng dại gì mang tiếng Hán gian, ô nhục ngàn năm, chỉ mong lấy được vàng và kỳ trân rồi phủi tay.
Càng đánh lâu, Nam Thiên Tôn nhận ra tác dụng diệu kỳ của “Bích mục thử”. Phấn khởi và yên tâm hơn, lão tin rằng Long Vân Tú Sĩ sẽ bại vong vì kiệt lực trước.
Nhưng cũng chính thời điểm ấy, Quảng Chiêu Phong không còn nhẫn nhịn được nữa, đem tuyệt kỹ thủ thân ra sử dụng. Lão thoái hậu để tránh một đòn hoành tảo của kim thương, rồi đề khí bốc lên không trung, giáng xuống ba đạo chưởng kình ác liệt.
Nam Thiên Tôn đảo bộ tránh hai chưởng đầu rồi đưa tả thủ đón chưởng thứ ba. Đồng thời, lãi vươn hết tầm thương định đâm một nhát thần tốc vào cái cơ thể đang sắp sa xuống.
Song khi mũi kim thương còn cách người kẻ địch vài gang thì Từ lão nhận ra một tia sáng màu xanh nhạt đang bay đến trước mặt mình. Lão kinh hoàng nghiêng đầu né tránh, nhưng không còn kịp nữa. Đạo chỉ kình kia nhanh tựa tên bay, xé gió xoèn xoẹt xạ thẳng vào mắt trái Nam Thiên Tôn. Không chỉ nhãn cầu mà não bộ của Nam Thiên Tôn cũng bị xuyên thủng. Lão rú lên thảm khốc, buông rơi vũ khí, ôm vết thương và gục ngã. Nam Thiên Tôn quằn quại một lúc rồi bất động.
Cử tọa bàng hoàng trước cái chết bất ngờ của Nam Thiên Tôn cũng như tuyệt kỹ cách không chỉ lực thất truyền kia. Sử võ lâm chỉ nói đến “Thanh Hà thần chưởng” nhưng không ngờ tuyệt học Thái Sơn lại có cả phần chỉ pháp.
Công phu này vốn không xa lạ với các phái võ lâm. Những cao thủ lão thành tu vi chừng bốn mươi năm, nếu khổ luyện đúng cách thì có thể xạ ra một đạo chỉ phong, song chỉ dài độ hai ba gang tay chứ không giết người ở khoản cách xa gần một trượng như “Thanh Hà chỉ pháp”.
Người bị chấn động băn khoăn lớn nhất chính là chưởng môn phái Toàn Chân. Tùng Xuân Tử bồi hồi tự hỏi rằng phải chăng “Thần công Nhất dương chỉ” của tổ sư Vương Trùng Dương là có thực chứ chẳng phải là lời đồn! và tại sao tuyệt học ấy lại mai một, không truyền cho hậu bối? Ba trăm năm trước, phải chăng vì Vương tổ sư đột tử ở tuổi năm mươi tám, nên không kịp dạy lại công phu “Nhất Dương chỉ” cho Toàn Chân thất tử?
Dòng hoài niệm cay đắng của Tùng Xuân Tử bị cắt đứt bởi hồi trống hùng hồn của Hoài Âm Vương. Chu Kiềm hân hoan tuyên bố :
- Quảng hiền khanh thần công cái thế, đã đường đường chính chính thắng trận này. Đễ giữ đạo công bằng, Quảng khanh sẽ nghỉ ngơi, đến giờ thìn sáng mai mới đấu trận thứ hai.
Chẳng ngờ gã nói xong, Đoạt mệnh thương Lưu Côn Phổ, đệ tử mới của Nam Thiên Tôn quỳ xuống xin phép được mang xác sư phụ về Lĩnh sơn mai táng.
Đầu canh hai đêm ấy, Tần Hạnh Nga đột nhiên tìm đến Tử Khuê. Chàng kinh hãi hỏi:
- Sao nàng lại đến quá sớm như thế? Lỡ Chu Kiềm phát hiện ra thì sao?
Hạnh Nga mỉm cười trấn an:
- Tinh quân cứ yên tâm! Thiếp đã nhờ một con chồn nhỏ thế chân, tuyệt đối không thể bị lộ.
Rồi nàng nghiêm nghị nói:
- Tinh quân hãy tắt đèn, giả như đã ngủ. Chúng ta cùng bàn bạc một lúc rồi thiếp sẽ đưa chàng đi gặp người thân.
Tử Khuê mừng rỡ quạt tắt ngọn bạch lạp, lên giường nằm. Tần Hạnh Nga nằm cạnh chàng, thỏ thẻ nói:
- Liệu Tinh quân có đủ sức đả bại Long Vân Tú Sĩ hay không?
Tử Khuê rầu rĩ lắc đầu:
- Không! Ta đã suy nghĩ rất nhiều, cố tìm ra cách đối phó với lão ta, song chỉ hoài công, trừ phi thí mạng. Nhưng ta vì tông mạch nhà họ Quách cũng như hạnh phúc của người thân mà chẳng thể chết sớm được.
Tần Hạnh Nga im lặng một lúc rồi mới nói với giọng tư lự:
- Tinh quân biết cân nhắc trọng khinh vậy là rất tốt. Hơn nữa, vận nước đang hồi u ám nên giang hùng đua nhau xuất hiện, mưu đồ chung đỉnh. Chàng đã lỡ vướng vào ân oán võ lâm tất không thể khoanh tay đứng nhìn. Ngoài Long Vân Tú Sĩ, Tinh quân vẫn còn những kình địch khác nữa. Vả lại, bậc chân nhân vốn chẳng cưỡng cầu, trông chừng mệnh trời mà hành sự.
Tử Khuê sực nhớ đến một nghi vấn, bèn ngắt lời Hạnh nga:
- Này Tần Vương! Nàng là bậc thần thông quảng đại, liệu có thể cho ta biết hạ lạc của “Diêm Vương quỷ kỳ”?
Hạnh nga cười khúc khích:
- Chàng quá khen khiến thiếp hổ thẹn. Hồ ly tinh chớ nào phải thần tiên. Nhưng may là thiếp lại có thông tin về lá cờ ấy. Nó hiện nay nằm trong tay Long Vân Tú Sĩ.
Tử Khuê giật mình kinh hãi, nghi hoặc vặn lại:
- Thế còn “Phong Đô thần chưởng”của Xoa Lạp Cốc Chủ Nhạc Tự Cương thì thế nào? Ta thấy oai lực của nó chẳng khác gì “Diêm Vương quỷ kỳ”
Tần Hạnh Nga nghiêm nghị giải thích:
- Khi nghe Long Vân Tú Sĩ kể lại chuyện ấy cho Hoài Âm Vương nghe, thiếp đã sai thủ hạ đi Tung Sơn dò hỏi. Bọn hồ ly núi Thiếu Thất đã báo rằng Nhạc Tự Vương người đầy yêu khí, có vẻ như đã luyện “Chiêu hồn đại pháp”.
Tử Khuê buồn thảm nói:
- Ta là người võ sĩ chỉ biết sở cậy vào ba thước gươm thiêng. Nay kẻ ác có tà pháp hộ thân thì người hiệp khách chỉ còn cách quy ẩn.
Tần Hạnh Nga lắc đầu, tủm tỉm cười bảo:
- Tinh quân là khắc tinh của mọi loại tà pháp. Chàng cứ yên tâm mà giáng ma vệ đạo.
Tử Khuê thầm vui trong dạ, hào khí sục sôi, không còn chán nản, yếu thế nữa. mặc dù đã tin vào cốt cách thần tiên của mình, song chàng lại yêu những gì chân thực, có tình người.
Chuyện trò thêm một lúc, bỗng Tần Hạnh Nga nghẹn ngào, thỏ thẻ:
- Thiếp là phận chồn tinh hèn mọn, được hầu hạ Tinh quân vài đêm ngắn ngủi cũng là đại hạnh. Duyên bèo nước đến đây là dứt, thiếp sẽ đưa chàng rời Vương phủ, đến núi Thốc sơn rồi chia tay mãi mãi.
Tử Khuê bùi ngùi cảm động, song chẳng nói gì vì số phận đã an bài như thế.
Chàng bồi hồi hôn lên trán Tần Hạnh Nga rồi trỗi dậy thu xếp hành lý.
Tử Khuê bồng mỹ nhân trên tay, thản hhiên đi qua cổng chính Vương phủ mà chẳng hề bị chặn lại, dường như không ai nhìn thấy chàng cả.
Trước khi theo Trương Thiên Sư vào phủ, Tử Khuê đã mướn một phòng trong khách điếm, để có chỗ hoá trang và gởi ngựa. Giờ đây, chàng đến đấy lấy tuấn mã, sau khi trả tiền trọ và thưởng cho tiểu nhị.
Cổng thành vẫn còn mở, Tử Khuê thúc ngựa phi mau. Tần Hạnh Nga ngồi trong lòng chàng, nhẹ như bông nõn.
Ba khắc sau, Tử Khuê dừng cương xuống ngựa ở cánh rừng mé hữu Long Vân bảo, phía nam chân núi Thốc sơn.
Sào huyệt của Quảng Chiêu Phong được canh gác cần mật, đèn đuốc sáng trưng, bọn tuần tra qua lại trên đỉnh tường.
Bảo là một loại kiến trúc tương tự như thành, song nhỏ hơn. Tường bảo khá dày, trên có địch lâu và đường đi để các cung thủ triển khai khi bị tấn công.
Tử Khuê bâng khuâng hỏi:
- Tần Vương! Chúng ta sẽ vào bằng cách nào?
Hạnh Nga lắc đầu, nhìn chàng bằng ánh mắt xót thương, lên tràn ra từ đôi mắt huyền tuyệt đẹp, lóng lánh dưới ánh sao thu. Nhờ nhãn lực tinh tường, Tử Khuê đã nhận ra vẻ bi thương ấy, hốt hoảng hỏi dồn:
- Tần Vương! Chẳng lẽ họ đã chết cả rồi sao?
Hạnh Nga gật đầu, buồn bã kể :
- Thiếp đã huy động bọn tiểu hồ điều tra rất kỹ lưỡng, được biết trên ấy Long Vân Tú Sĩ đích thân thống lĩnh thủ hạ tấn công Quách gia trang. Lão ta là người độc ác và hẹp hòi, chẳng chịu bỏ qua bất cứ mối hiềm khích nào dù nhỏ bé. Huống chi, Xảo Diện Khách Khưu Trọng Nhiệm lại chính là cháu ruột của Quảng Chiêu Phong.
Long Vân Tú Sĩ đã ra lệnh giết sạch và cướp hết tài sản quách gia trang. Lũ chồn nhỏ ở phía tây sông Thạch Lương kể rằng đã có mấy chục người bay lên không trung
Nghe xong Tử Khuê tuyệt vọng đến mức thân hình lảo đảo, cơ hồ ngất xỉu.
Hạnh Nga vội đưa tay đỡ chàng và nói tiếp:
- Nhưng lệnh đường vẫn sống sót, bị Long Vân Tú Sĩ bắt về giam cầm ở đây.
Tin vui này đã khiến cho Tử Khuê tỉnh táo lại đôi chút, nghẹn ngào bảo:
- Tạ ơn trời phật. ta sẽ vào giải cứu gia mẫu mới được.
Hạnh Nga lại lắc đầu, nghiêm nghị nói:
- Không cần đâu! Bọn hồ ly đã làm việc ấy. Nhưng lệnh đường đã cụt một tay, và còn bị Quảng Chiêu Phong tra khảo tàn nhẫn để hỏi han bí mật của mảnh “Bát Quái chiếu yêu đồng kính”. Do đó, chàng phải mau chóng đưa lệnh đường về Hứa Xương tĩnh dưỡng. Rễ của cây “Hắc Ngọc tiên đào” mới cứu được mạng bà.
Dứt lời, nàng lên tiếng gọi:
- Bạch Nhi đâu, mau đem người ra đây!
Lập tức có tiếng lá cây sột soạt và bốn bóng người đi tới, tay khiêng một chiếc cáng. Đó là bốn thiếu nữ áo trắng, dáng vóc nhỏ thó. Họ nhẹ nhàng đặt cáng xuống rồi thi lễ:
- Chúng đệ tử bái kiến Tinh Quân.
Tử Khuê gật đầu cho phải phép, ngồi ngay xuống xem xét tình trạng của mẫu thân. Tần Hạnh Nga lấy ra một viên dạ minh châu toả sáng xanh nhạt, soi rọi cho chàng.
Tử Khuê bật khóc khi thấy mẹ hiền đã tàn phế, thân thể gầy trơ xương và hơi thở nhẹ như tơ. Lửa thù hận trong lòng chàng bốc lên ngùn ngụt, chỉ muốn quay lại ngay Vương phủ để phân thây Long Vân Tú Sĩ.
Tần Hạnh Nga hiểu được điều ấy, lạnh lùng bảo:
- Chàng chưa đủ sức đẻ báo thù đừng nghĩ ngợi cho uổng công. Nhưng nếu chàng muốn tiết hận, thiếp sẽ cho nổ tung Long Vân bảo giết sạch bọn đệ tử Quảng Tú Sĩ.
Tuy đang chìm đắm trong lửa hận, Tử Khuê vẫn còn giữ được lương tri. Chàng cau mày bác bỏ:
- Không nên! Kẻ gieo nhân sẽ gặt quả. Ta không thể sát hại một lúc mấy trăm người, tổn hại đến lòng nhân của trời đất. Kẻ chỉ huy chính là Long Vân Tú Sĩ, còn họ chỉ là tay sai.
Tần Hạnh Nga mỉm cười hài lòng:
- Thiện tai! Thiện Tai! Chàng quả đáng mặt Khuê tinh. Trong lúc cùng cực này mà cũng vẫn giữ được đức nhân. Thiếp sẽ vì chàng mà báo oán, khiến Quảng Chiêu Phong trắng tay, song chẳng giết một ai. Chàng hãy xem đây!
Nói xong, Tần Hạnh Nga xoã tóc, quay về hướng Long Vân Bảo bắt ấn, niệm chú, lập tức quái phong nổi lên hướng về phía Long Vân Bảo và ẩn hiện hàng ngàn hồn ma, bóng quế đang gào thét ghê rợn.
Bọn võ sĩ tuần tra kinh hoàng rú lên, nhảy cả xuống đất. Lát sau, gần ngàn người trong Long Vân Bảo hốt hoảng chạy bán sống bán chết ra khỏi nơi đầy ma quỷ ấy. Chúng không dám dừng chân vì đám hồn ma đuổi theo, lởn vởn sau lưng. Chắc chắn rằng sau trận này chẳng còn tên nào còn dám quay lại đây nữa.
Đến lượt ả tỳ nữ Bạch Nhi và bọn hồ ly tiểu tốt núi Thốc Sơn hành động. Long Vân Tú Sĩ thiện nghề hỏa dược nên trong bảo có cả một kho thuốc nổ. Giờ đây số hỏa pháo ấy được rải khắp các cơ ngơi rồi phát nổ thiêu huỷ toàn bộ Long Vân Bảo.
Tài sản của dunghoitaisao127

  #19  
Old 30-04-2008, 05:01 PM
dunghoitaisao127's Avatar
dunghoitaisao127 dunghoitaisao127 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 39
Thời gian online: 4 ngày 16 giờ 13 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 20 : Long Vân bán dạ trầm giang để
Hắc vận phu thê khí đổ hầu



Tất cả mọi người đều có chung một đề tài nóng hổi là cái chết của Huyết Mai Hội Chủ Điền Sĩ Lệ, tức Minh Chủ Võ Lâm Âu Dương Mẫn. Người có công lao lớn nhất trong vụ này lại chính là Thần Đao Bảo chủ Tần Minh Viên.
Giữa giờ Thìn ngày rằm tháng mười một, đại hội tranh chức Minh chủ Võ lâm sẽ được cử hành long trọng.
Số người tham dự đông đến hàng vạn, nhiều hơn bất kỳ một thịnh hội nào trước đó trong suốt trăm năm trở lại đây.
Một trong những lý do hấp dẫn khách giang hồ là việc bãi bỏ quy định tuổi tác người ứng cử.
Từ một chàng trai hai mươi cho đến bà già trăm tuổi cũng được quyền thượng đài.
Nghe nói chính Hoài Âm Vương Chu Kiềm đã ra lệnh như vậy và ông sẽ đích thân dự khán đại hội lần này cùng vị Vương phi đẹp như Hằng Nga tái thế của mình.
Người ta kháo nhau rằng Tần Vương phi còn đẹp hơn cả Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân. Đẹp đến mức lão chết tiệt Diệu Thủ Thần Cơ phải bị thiến.
Quần hùng mò đến chân núi Thiếu Thất từ mờ sáng, để tìm cho mình một vị trí tốt. Hộ chễm chệ ngồi xuống chỗ đã chiếm được, vừa ăn sáng vừa nói chuyện phiếm. Tất nhiên đề tài nóng hổi chính là cái chết của Nam Thiên Tôn và vụ cháy Long Vân Bảo.
Đắc ý hơn ai hết là bọn hào kiệt vùng phía Nam sông Hoài. Họ cười hô hố kể rằng Quảng Chiêu Phong đã sạt nghiệp, nghèo đến mức phải ăn chực Vương phủ, đừng nói đến việc dựng lại cơ đồ.
Mọi người cố phỏng đoán xem hung thủ là ai mà lại có thể huy động được âm binh và vét sạch phòng quỹ vô cùng bí mật của Long Vân Bảo.
Thực ra chính Tú Sĩ cũng nghi ngờ rằng Cầu Nhiêm Đại Hiệp Quách Tử Khuê còn sống và ra tay phục hận. Bằng cớ là đội quân tinh nhuệ của lão đi tấn công Hoàng Phong Hầu phủ đã chết sạch, còn một mình Lã Hoa Dương. Nhưng Thiếu Lâm Thần Côn chỉ gặp Lã Bất Thành và không biết bên Hầu phủ có những cao thủ nào. Do đó Quảng Chiêu Phong lại thiên về giả thiết Nữ Hầu tước đã được Nam Bắc Bang hỗ trợ.
Tiết đông lãnh lẽo nhưng tuyết chỉ rơi lất phất. Tuy nhiên ai cũng mặc áo ngự hàn và uống vài chung rượu cho ấm người.
Mùa Đông chinh là thiên tai đối với người nghèo, cho nên hai chữ “cơ hàn” mới đi chung. Họ không tiền để mua áo lông cừu, đành chịu co ro trong những chiếc áo kép, áo bông sơ sài chẳng đủ ấm.
Ngược lại trời rét lại là dịp để người khá giả kheo khoang những bộ áo lông đắt tiền. Gọi là bộ vì ngoài áo choàng dài đến gót, còn có cả mũ và ủng. Lông cừu, lông dê chỉ là loại xoàng. Loại sang nhất, đắt tiền nhất chính là lông Điêu Thử.
Điêu Thử là loài thú nhỏ sống ở Tây Bá Lợi Á, phía Bắc nước Nga La Tư, và ở Nhật Bản. Bộ lông của nó mượt mà, dài, rậm, chống rét cực kỳ hữu hiệu. Người ta phải dùng mấy chục tấm lông Điêu Thử mới may thành một bộ áo ngự hàn, nên giá đắt hơn vàng. Tất nhiên thứ lông ấy cũng rất đẹp dù chỉ có hai màu, vàng hoặc đen.
Sáng nay hai người duy nhất mặc áo Điêu Thử chính là Hoài Âm Vương và Tần Vương Phi. Chu Kiềm chọn màu vàng còn Hạnh Nga màu đen, khiến gương mặt kiều diễm trắng như ngọc của nàng càng nổi bật.
Chính vì sự hiện diện của hai vị quý nhân này mà chiều sâu của lôi đài phải tăng lên gấp rưỡi. Phần được làm thêm cao hơn sàn đài một sải tay. Vương gia cùng Vương phi sẽ ngồi trên ấy dự khán, và bàn của ban giám khảo ở phía trước họ. Dĩ nhiên chung quanh họ còn không ít cận vệ.
Ban giám khảo tức Hội đồng Võ lâm cũng vẫn chỉ có sáu người y như cũ. Lý do là vì trận đấu giữa Lôi Đình Cung chủ và Long Vân Tú Sĩ đã bị huỷ bỏ khi Long Vân Bảo bốc cháy.
Ngay trong đêm ấy, Hắc Diện Thần Ưng Lý Quang Ban đã chạy vào thành Tín Dương đến Vương phủ báo tin. Long Vân Tú Sĩ rụng rời chân tay, phi ngựa như bay về Thốc Sơn nhưng đã quá muộn. Sang hôm sau lão cùng thuộc hạ đào bới dống gạch vụn, mò xuống phòng quỹ dưới tầng hầm. Chiếc Tủ gỗ dày bọc đồng lá vẫn còng nguyên, song số châu báu và ngân phiếu trị giá sáu chục vạn lượng vàng đã biến mất. Thế là Quảng Chiêu Phong tức đến phát ốm, chẳng còn lòng dạ đâu mà so tài với Trác Ngạn Chi nữa.
Đúng giờ đã định Hoài Âm Vương oai vệ nói lời khai mạc. Đại ý trong bài diễn văn là việc chấn hưng nền võ học Trung Hoa, giúp trai tráng được khoẻ mạnh, can trường để rồi còn đi lính. Cuối cùng gã giới thiệu Trương Thiên Sư là người chấp chưởng mới của Hội đồng Võ lâm.
Phần lớn quần hùng bấm bụng cười thầm, bởi thực chất họ chính là những kẻ chống quân dịch, sưu thuế. Theo luật Đại Minh thì tất cả chàng trai trẻ hai mươi tuổi đều phải nhập ngũ hoặc đi làm sưu dịch, cho đến tuổi sáu mươi. Trừ tăng nhân đạo sĩ, những người tàn tật, bệnh nặng. Sau khi Hoài Âm vương huấn thị xong, Trương Thiên Sư bước ra tiến hành những thủ tục cần thiết. Ông đọc đài quy và kêu gọi quần hùng đăng ký ghi danh tham dự để ban giám khảo tra xét tư cách đạo đức.
Tránh vết xe đổ lần trước năm nay có thêm quy định là Tân Minh Chủ chỉ được trao cờ và ấn sau nửa năm điều tra cặn kẽ. Không những thế, trong lúc đương nhiệm, Minh Chủ vẫn có thể bị Hội đồng Võ lâm truất phế khi có đủ sáu phiếu thuận và sự chuẩn y của Hoài Âm Vương.
Những cải cách ấy của Trương Thiên Sư đã được mọi người thán phục. Họ cho rằng tài lãnh đạo của Trương Sách hơn hẳn Vạn Thiên Tử. Bản thân Huyền Thiên Chân Nhân cũng rất cao hứng. Việc ông trừ yêu tróc quái ở Hoài Âm Vương phủ đã lan truyền rộng rại khiến uy tín của Thiên Sư Giáo được nâng cao chót vót. Bách tính hết lời ca ngợi Trương Sách và lũ lượt kéo đên các đạo quán và làm cho sự nghiệp Thiên Sư Giáo hưng thịnh hơn bao giờ hết.
Giới hạn tuổi tác đã được nới rộng nên số người đăng ký tranh tài khá đông, song chẳng có ai trên bát thập. Ở tuổi ấy trừ những kẻ căn cơ thượng đẳng, kỳ dư đều gối mỏi chân chùn, đầu óc mụ mẫm yếu đi theo quy luật của tự nhiên.
Điều lệ mới còn tuyệt diệu ở chỗ phân chia các ứng viên thành hai nhóm tùy theo tuổi tác, từ nhị thập đến ngũ thập và từ ngũ thập trở lên. Hai kẻ đứng đầu hai nhóm ấy sẽ đấu trận bế mạc, ai thắng làm Minh chủ còn người thua làm phó.
Quy củ này làm nức lòng giới trẻ, họ ghi danh khá đông. Sự vắng mặt của Ngân Diện Hầu đã khiến nhiều người can đảm hơn. Vả lại đài quy chỉ cho phép các ứng viên thành danh nhờ ám khí xuất thủ một làn duy nhất trong một trận đấu.
Sự tham gia của Nga Mi Nhất Phụng Lạc Y Thường là một bất ngờ thú vị. Đã ba bốn năm nay, Nhất Phụng không vào Trung Nguyên. Người thứ hai trong Võ Lâm Ngũ Tú đăng ký thượng đài là Vỡ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ.
Nhóm cao thủ lão thành cũng thiếu một người, đó là Long Vân Tú Sĩ Quảng Chiêu Phong. Giang hồ đã biết họ Quảng luyện thành tuyệt học “Thanh Hà”, hạ sát Nam Thiên Tôn dễ như trở bàn tay. Nghĩa là Tú Sĩ thừa sức trở thành Minh Chủ.
Tóm lại, sự khiếm diện của hai đại cao thủ một già một trẻ đã gây nhiều thắc mắc lẫn nỗi vui mừng. Nhưng thủ tục ghi danh xét duyệt còn tiếp tục đến cuối ngày hôm nay, nên chẳng ai dám đoán chắc Ngân Diện Hầu và Long Vân Tú Sĩ sẽ bỏ lỡ cơ hội.
Lôi Đình Cung Chủ Trác Ngạn Chi là người nóng ruột nhất. Lão rất cần gặp đứa cháu hờ Tiêu Mẫn Hiên. Tiêu Lạp Dân và Tiêu Dị An đã qua đời nên người duy nhất có quyền định đoạt tài sản Hầu phủ là Tiêu Hầu gia. Nếu lão không sớm thu phục được Mẫn Hiên thì chỉ vài năm nữa, hai trăm đệ tử Thần Cung sẽ chẳng còn gạo mà ăn. Trác Ngạn Chi đã vung tay quá trán khi xây dựng Thần Cung mới, ngân quỹ bị thâm hụt rất nặng. Bao năm qua, Thần Cung tồn tại được cũng là nhờ ăn chia với Hoạch Đầu Hội. Do cái chết của cha con Lạp Dân và cây “Hắc ngọc tiên đào” mà Đế Quân phải dời nhà vào Trung Thổ.
Khổ thay, chính thủ hạ của Đế Quân là Tổng quản Du Vinh lại khăng khăng nghe lời Tiêu Mẫn Hiên, duy trì Phi Đao Bảo An Hội và không đi đâm thuê chém mướn nữa. Du Vinh được sự hậu thuẫn của toàn bộ nhân thủ Hoạch Đầu Hội, cũng như Tiêu Nhị phu nhân Tử Lan nên Trác Ngạn Chi đành phải bó tay.
Đế Quân tức nổ đom đóm mắt khi hôm nay Du Vinh thản nhiên dương cờ Phi Đao Bảo An Hội, hộ tống Hầu Tước phu nhân Tử Lan đến dự đại hội. Du lão và Từ nương được quần hùng đón chào nồng nhiệt và được ban tổ chức xếp ngồi ở dãy ghế danh dự, ngang hàng với Lôi Đình Cung chủ. Từ nương đến đây với hi vọng gặp được con trai mình. Đứng hộ vệ sau lưng bà và Du Vinh chính là hai anh em họ Từ. Họ mới từ Bắc Kinh trở về đưa Kỹ Tòng Thư đến Hứa Xương hôm cuối tháng chín.
*
* *

Giờ chúng ta tìm hiểu xem sao hai đại nhân vật ấy lại vắng mặt.
Thực ra thì Long Vân Tú Sĩ đã gặp phục binh. Mờ sáng ngày mười ba, Quảng Chiêu Phong cùng tá thủ hạ rời thành Nhữ Châu. Đoàn tùy tùng khiêm tốn ấy gồm Hắc Diện Thần Ưng và bảy tên đệ tử của Tú Sĩ.
Trời lạnh cắt da, tuyết phủ trắng ngô đồng, lau sậy hai bên đường. Tuy là người cơ cảnh nhưng Tú Sĩ cũng không nghĩ đến việc kẻ thù sẽ mai phục nơi trống trải thế này. Hơn nữa, nằm bất động hàng giờ dưới tuyết là hành vi dại dột và khó thực hiện. Dọc đường từ đây đến Đăng Phong thiếu gì những địa hình tốt để mai phục.
Nhưng khổ thay, phe đối phương lại khá ngu ngốc, chọn ngay hạ sách khiến một kẻ đa mưu túc trí như Long Vân Tú Sĩ phải bất ngờ. Từ những đống tuyết lạnh lẽo ở hai bên đường, phục binh bất thình lình ló ra chẳng khác nào thây ma đội mồ. Và những xác chết trắng toát ấy tân công Tú Sĩ bằng một thứ ám khi rất lạ lùng. Mấy chục cái khiên băng thép mỏng vun vút xé gió đông bay đến và vây bủa chín con mồi.
Bọn mai phục cực kỳ xảo quyệt, xuất thủ đánh vào lưng và tả hữu lúc phe Tú Sí sắp vượt qua trận địa. Vật bay càng nhanh âm thanh phát ra càng lớn, nên Quảng Chiêu Phong nhanh chóng rời yên ngựa bốc lên cao để tránh né. Họ không biết rằng đối phương đã tiên liệu trước, tập trung ám khí ở độ cao thích hợp. Hậu quả là những con mồi bị vành khiên sắc như dao xé rách.
Hắc Diện Thần Ưng và bảy gã đồ đệ thân tín của Long Vân Tú Sĩ kêu rên thảm khốc, rơi xuống đất. Ngy cả bản thân Long Vân Tú Sĩ cũng không toàn vẹn. Trong lúc cấp bách lão chẳng thể phát huy hết công dụng của “Thanh Hà bất hoại thần công”, nên đã thọ thương ở mông và đùi. May mà lão có mặc bảo y nếu không thì lưng cũng bắn máu tươi.
Cho rằng đã trúng phải mai phục của Xoa Lạp Cốc chủ Nhạc Tự Chương, Long Vân Tú Sĩ chẳng dám sính cường ở lại chiến đấu. Chân vừa chạm đất là lão lao vút đi như tên bắn, chẳng màng đến tính mạng thủ hạ. Trong lúc thọ thương Tú Sĩ không tự tin thắng được Nhạc Tự Chương và mấy chục cao thủ Xoa Lạp Cốc. Lão vừa chạy và nghiến răng thề sẽ báo thù.
Họ Quảng không hề biết rằng toán phục binh chẳng hề nghĩ đến việc vây đánh lão. Họ nhanh chóng giết chết tám kẻ trúng thương, thu nhặt vũ khí, lục lọi chiến lợi phẩm rồi rút lui ngay.
Ba mươi hai người này được trùm kín toàn thân bằng thứ lông cừu thượng hàng nên có thể bày ra trận địa mai phục dưới cơn mưa tuyết. Hơn nữa, cái lạnh của mùa đông Trung Thổ chẳng thấm gì so với cao nguyên Sơn Tây hoặc Thiểm Bắc.
Xong xuôi, họ nhanh chóng kéo về nơi giấu ngựa, theo đường tắt mà đi về hướng Bắc. Dường như họ đã có sẵn kê hoạch chu đáo và sẽ dành cho Long Vân Tú Sĩ một bất ngờ nữa.
Gần cuối giờ Tý, có một kỵ sĩ áo cừu đen, mũ lông phủ tai, che kín gần hết gương mặt, dừng cương bên bờ sông Dĩnh Hà. Thành Đăng Phong bên kia sông chỉ cách chừng hai chục dặm.
Tuy được gã trạo phu đò ngang mời mọc ân cần, song kỵ sĩ nọ chẳng vội xuống đò, đảo mắt quan sát rất kỹ lưỡng. Khi thấy trên đò chỉ có bốn năm kẻ quê mùa già lão, mang theo quang gánh chứa đầy rau và gà vịt, người kỵ sĩ mới yên tâm hạ mã, dắt ngựa lên đò.
Gã trạo phu vui vẻ nói:
- Xin đại nhân chờ ít khắc, chỉ cần có thêm vài người khách nữa là tiểu nhân sẽ khởi hành ngay!
Kỵ sĩ áo đen nóng ruột phủ dụ:
- Lão phu đang gấp. Ngươi cứ việc khai thuyền, lão phu sẽ trọng thưởng.
Giọng nói thanh tao ấy là của Long Vân Tú Sĩ. Lão thấy gã trạo phu gật đầu cười hề hề, ra dáng muốn cầm tiền trước, bèn móc túi ra lấy tờ Bảo Sao năm lượng bạc.
Gã trạo phu chớp lấy rất nhanh rồi hớn hở ra lệnh sang sông. Đò ngang khá lớn chở được cả xe hàng hoá nên cần đến năm sáu tay chèo.
Quảng Chiêu Phong có trí nhớ rất tốt, đã vài lần qua đây nên biết mặt gã chủ đò ngay. Gã ta họ Trần tên Ngũ, hành nghề đã chục năm.
Tuy khá yên tâm Tú Sĩ vẫn rất cảnh giác, vận thần công hộ thể để đề phòng bất trắc. Khi dồn chân khí ra châu thân, da thịt lão căng phồng lên, làm hai vết thương ở mông và đùi phải đau rát. Vết thương không nặng nhưng cũng làm khinh công của lão giảm sút đáng kể. Hai là những chỗ ấy rất dễ bị tổn thương lần nữa, nếu đối phương tấn công vào đấy.
Long Vân Tú Sĩ nghe lòng sục sôi lửa hận thù, quyết dành cho Nhạc Tự Chương cái chết thảm khốc nhất. Từ lâu lão đã rất ghét Xoa Lạp Cốc chẳng kém gì đối với Ngân Diện Hầu. Lão đã nghe báo lại rằng trong cái đêm Xảo Diện Khách Khưu Trọng Nhiệm bị giết, đã có mấy chục gã kiếm thuẫn người Thổ, mang dang nghĩa gia đinh họ Quách.
Tú Sĩ vô cùng thương tiếc đứa em ruột thịt tài ba. Khưu Trọng Nhiệm đã đổi họ, giết người cướp của mấy chục năm, tích cóp được bao nhiêu cũng đem về Thốc Sơn cho huynh trưởng. Nay số tài sản mồ hôi nước mắt ấy đã mất sạch, Tú Sĩ cơ hồ phát điên lên được.
Dù đang miên man suy nghĩ như thế nhưng khứu giác của Tú Sĩ vẫn ngửi được mùi hoả dược. Lão là bậc thầy trong nghề sử dụng thuốc nổ nên chẳng lạ gì cái mùi khen khét ấy.
Long Vân Tú Sĩ kinh hoàng, nhún chân bay vèo lên cao, cố rơi cuống nước càng xa càng tốt vì hiểu rằng sức ép của vụ nổ sẽ lan trải dưới sông có thể giết chết lão.
Hai vết thương ở mông và đùi đã làm chậm chân Tú Sĩ. Nhờ “Thanh Hà thần công” và bảo y mà lão thoát chết nhưng đã thọ thương khá nặng. Lão khôn ngoan giả chết, trôi theo dòng nước lạnh lùng của sông Dĩnh Thuỷ. Phe địch bơi đuổi theo nhưng không kịp, vì Tú Sĩ bị hoả dược đẩy văng đi rất xa.
* * *
Đấy là nguyên nhân khiến Long Vân Tú Sĩ không có mặt ở đậi hội võ lâm. Còn Ngân Diện Hầu thì hiện diện từ lâu trong lốt hoá trang và không đi chung với Nữ Hầu Tước Trình Thiên Kim.
Tử Khuê ngại chạm mặt với Lôi Đình Đế Quân nên đã không dùng thân phận Ngân Diện Hầu. Chàng rất bất nhẫn khi nhìn thấy vẻ trông chờ tuyệt vọng trên gương mặt hốc hác của Tiêu Nhị phu nhân Từ Lan. Song bản thân chàng cũng đang ở trong trạng thái thống khổ cùng cực, từ lúc biết trừ mẫu thân chẳng ai còn sống sót.
Tử Khuê đã vùi đầu vào khổ luyện võ công để có thể tạm quên đi nỗi thương tâm. Nếu không chàng sẽ suy sụp và gục ngã. Nhưng hình bóng của Tái Vân, Tiểu Tinh, Tống Thuỵ, Tử Chiêm, Quan San...cứ mãi hiện ra khiến lòng chàng tan nát.
Tử Khuê đến đây chẳng phải để tranh ngôi Minh chủ, chỉ mong có cơ hội tốt để ám tập Long Vân Tú Sĩ. Nhưng kẻ thù lại vắng mặt một cách khó hiểu khiến chàng rất thất vọng, rời khỏi đại hội, lững thững dạo quang vòng ngoài.
Đại hội sẽ kéo dài bảy tám ngày, thậm chí lâu hơn, nên quán xá mọc lên như nấm, đông đúc hơn cả hồi năm ngoái, khi khách giang hồ đến đây tìm “Diêm Vương quỷ kỳ”.
Và không chỉ mình Tử Khuê chán ngán sự chờ đợi, trong lúc ban giám khảo tiếp nhận ghi danh hay xét duyệt, có hàng ngàn hảo hán đã bỏ ra đây để uống rượu và đấu khẩu.
Năm nay, do sự hiện diện của Hoài Âm Vương mà quan lại thành Đăng Phong khổ như chó! Lão Tri huyện thì phải túc trực dự khán đại hội, luôn ở trong tầm mắt Chu Kiềm để chứng tỏ mình mẫn cán, quan tâm đến mọi sự việc trong địa hạt. Phần Tổng binh Trịnh Trường Hoài đang đứng trước lều chỉ huy. Chàng rất mến gã hiếu tử cương trực này bèn rẽ vào.
Trịng Tổng Binh thấy khách chẳng hề quen bàn cau mày nói:
- Đây là chốn quân cơ, thường dân không được phép vào.
Tử Khuê thản nhỉên dấn bước, xoè kim bài ra nói:
- Bổn nhân là Ngân Diện Hầu đây!
Trịnh Trường Hoài mừng rỡ hớn hở ôm quyền thi lễ:
- Mạt tướng có ý mong đợi Hầu gia, không ngờ người lại cải trang vi hành thế này. Mời Hầu gia vào lều uống vài chén cho ấm bụng.
Tử Khuê lắc đầu:
- Cảm tạ hảo ý của Trịnh túc hạ. Nhưng ta ghé vào chỉ vì muốn biết túc hạ đã đòi được công đạo hay chưa?
Trịnh Trường Hoài vái dài, sắc diện rất rạng rỡ:
- Ơn tương trợ của Hầu gia suốt đời này mạt tướng không dám quên. Kẻ hèn này đã theo lời người dạy bảo, rắc thứ phấn tuyệt diệu ấy vào phong thư rồi gửi cho lão cẩu tặc Trác Thanh Khê. Đồng thời mạt tướng cử người đến Hàng Châu nghe ngóng. Quả nhiên họ Trác đã phát cuồng, cưỡng bức bất cứ nữ nhân nào lão trông thấy. Và nửa tháng sau lão chết trong cảnh điên loạn. Nha môn Triết Giang không hề nghi ngờ phong thư kia. Dẫu họ có điều tra thì cũng vô ích vì mạt tướng đã ghi một cái tên vớ vẩn nào đó.
Tử Khuê hài lòng chúc mừng họ Trịnh rồi quay bước. Sự thành công mỹ mãn của mưu kế đơn giản nọ khiến chàng thức ngộ ra trí tuệ luôn lợi hại hơn cả võ nghệ.
Khi nghe chàng kể về thứ bột “Cuồng tâm tán” pha “Thiên niên hà thủ ô”, Tống Tiểu Tinh kết luận rằng nó là loại thuốc độc không thể giải được. Bằng chứng là Lôi Đình Đế Quân phải bó tay, để Lập Dân và Dị An vong mạng, dù lão sở hữu giải dược “Cuồng tâm tán”. Phụ Thân của Trác Ngạn Chi đã tặng ba trái “Hắc ngọc tiên đào” cho Nhật Nguyệt Lão Nhân để đổi lấy chất kỳ độc cuồng tâm.
Tử Khuê bồi hồi nhớ đến số độc phấn còn lại đang nằm trong chuôi kiếm, tự hỏi mình có nên sử dụng để báo thù hay không và bằng cách nào?
Vừa đi vừa cân nhắc, đôi mắt của Tử Khuê chợt nhìn thấy Lạc Mạo Chân Nhân trong một quán trọ tồi tàn. Chàng mừng rỡ bèn ghé vào, ngồi xuống ghế đối diện và khẽ gọi:
- Sư thúc! Tiểu điệt là Vu Diệp đây!
Trời lạnh nên việc mang mặt nạ da người không gặp điều bất tiện như trời nóng bức. Hành thích Long Vân Tú Sĩ trước mặt Hoài Âm Vương dù thành hay bại cũng bị khép tội. Do đó Tử Khuê đã phải hoá trang cẩn thận. Hiện tại chàng mang dung mạo của một hảo hán đôi mươi, mặt bị bẫm, hiền lành, non nớt và danh tính là Dương Đức Thao, quê quán ở tận đất Ngân Xuyên, Tây Vực.
Nghe giới thiệu Lạc Mạo Chân Nhân hoan hỉ cười tít mắt:
_ Mẹ kiếp! Thế mà bần đạo cứ tưởng thuật bói toán của mình không còn linh nghiệm nữa. Ngươi mà không đến thì bần đạo phải đi Hứa Xương để tìm.
Tử Khuê cau mày hỏi:
- Sư thúc tìm tiểu điệt vì việc gì?
Chân Nhân cười méo mó, nhăn mặt đáp:
- Bần đạo đã sai lầm khi xem Long Vân Tú Sĩ là Ma vương xuất thế. Thực ra đại nạn lại dấy lên ở phương Bắc, và ngoài ngươi ra không ai có thể vãn hồi tai kiếp này.
Tử Khuê ngao ngán lắc đầu, lạnh lùng ngắt lời:
- Đấy là việc của sư thúc! Tiểu điệt cũng vì những ân oán giang hồ mà mang hoạ diệt gia, giờ quyết chảng màng đến thịnh suy của võ lâm nữa.
Dứt lời, Tử Khuê đứng dậy, vái chào CHân Nhân rồi bỏ đi. Chân Nhân không hề giữ lại, vuốt râu mỉm cười bí ẩn.
Tử Khuê thẫn thờ rảo bước, cố tránh xa Lạc Mạo Chân Nhân. Không phải là chàng chán ghét lão, chẳng qua thù nhà quá nặng khiến hùng tâm, tráng trí lụi tàn.
Tử Khuê vô tình theo chân một nhóm hảo hán đến một toà nhà gỗ lớn, nơi đang tập trung khá nhiều người.
Hàng rào bằng ván gỗ và những khoảng sân trơ đất ở chung quanh mộc xá chứng tỏ nó chỉ mới được dựng lên và không có ý định lưu lại mãi chốn này.
Tuy nhiên bản thân cơ ngơi ấy thì rất đẹp và đồ sộ. Có lẽ nó được mang từ nơi khác đến. Cột cái của kiến trúc gỗ thường được kê trên những chân tán bằng đá chứ không chôn xuống đất nên rất dễ tháo rời.
Sự hiện diện của bọn giáp sĩ giáo dài khiến Tử Khuê đoán rằng đây là chốn nghỉ ngơi của Hoài Âm Vương. Nhưng dường như không phải vì trên dãy hành lang mặt trước mộc xá bày biện những vật kỳ lạ gì đó, thu hút nhiều người xem.
Tử Khuê tò mò bước lại gần kiễng chân quan sát. Thì ra trên vách ván treo đầy những thanh bảo đao, bảo kiếm cũ kỹ, cổ kính. Các loại trường binh như côn, kích, giáo, đại đao thì được cắm dựng đứng trong giá binh khí, tất cả đều sáng loáng, toả ánh thép xanh rờn, thoáng nhìn cũng là đồ tốt.
Tử Khuê hỏi nhỏ gã kế bên:
- Này đại huynh! Phải chăng người ta đêm những vũ khí ấy đến đây để bán?
Hảo hán nộ quay lại thấy gương mặt non choẹt của đối phương thì phấn khởi, khoe khoang kiến văn:
- Tiểu huynh đệ chắc mới xuất đạo nên không biết. Đây chính là cửa hàng binh khí nổi tiếng nhất võ lâm. Chủ nhân của nó là Thiên Bảo Đổ Hầu Kỹ Thục Luân. Lão ta chuyên sưu tầm những vật quý giá, kỳ lạ trong võ lâm, kể cả binh khí, vài năm mới đem phát mãi một lần.
Tử Khuê gật gù hỏi thêm:
- Đại huynh! Thế sao trong chiêu bài của lão ta lại có chữ “Đổ Hầu”?
Gã kia vênh mặt đáp:
- Kỹ Thục Luân là em họ Kỹ Thục Thái Phi, mẹ của Đương Kim Hoàng Đế nên được phong tước hầu. Nhưng lão ta lại mê cờ bạc hết chỗ nói, liền xưng là “Đổ Hầu”. Lát nữa ngươi sẽ thấy lão ta đỏ đen ngay cả trong kinh doanh.
Gã dừng lại nuốt nước bọt, lấy hơi nói tiếp:
- Chắc ngươi không hiểu chứ gì? Ví dụ một thanh bảo kiếm giá một ngàn lượng vàng, nếu ngươi chỉ có tám trăm lượng thì có thể thử thời vận bằng cách chọn một trong mười hộp kiếm giống nhau, hoặc là ngươi đổ xúc xắc với lão ta.
Là kẻ xui tận mạng nên Tử Khuê rất chán ghét nghề đổ bác. Chàng cảm tạ hảo hán nọ rồi bước qua hành lang mé tả của mộc xá.
Ở đây, ngoài binh khí còn những bảo vật khác như áo giáp, hộ tâm kính, ngà voi....và đặc biệt là một con sơn quỷ rừng Thần Y Giá. Lão già trông coi cửa hàng giới thiệu như thế.
Con vật nửa người nửa khỉ này chỉ cao bằng đứa trẻ chín mười tuổi, toàn thân phủ đầy lông đen tuyền nhưng không có đuôi. Nó đang bị nhốt trong một chiếc lồng sắt rất kiên cố.
Vu Mộc Chân Nhân từng tận mắt quan sát bọn sơn quỷ và vẽ lại rất sống động chính xác. Do đó, Tử Khuê biết con vật đó là đồ giả. Sơn quỷ thực phải có những đặc điểm như: trán thấp, mắt vàng, xương mi mắt lộ, mũi hếch, miệng rộng, răng nhọn, tai vểnh....
Trong khi con trước mặt chàng chẳng khác gì một con người mang bộ lông của loài khỉ. Và ánh mắt bi thương tuyệt cọng đầy vẻ bi thương kia đã khiến Tử Khuê phải rùng mình. Chàng cố bình tâm, cao giọng hỏi lão già mặc áo lông dê, thủ hạ của Thiên Bảo Đổ Hầu:
- Bẩn lão trượng! Chẳng hay con sơn quỷ ấy được bán với giá bao nhiêu?
Lão ta trịnh trọng nói:
- Con vật này thông linh tuyệt thế hiểu được tiếng người, tính nết lại hiền lành thuần hậu, làm được bất cứ việc gì do chủ nhân sai bảo. Không những nó giỏi nhào lộn mà còn biết múa quyền nữa. Do đó lão Hầu gia định đem về Bắc Kinh bán cho các Vương tôn, hoàng thân quốc thích. Chỉ có họ mới dám bỏ ra số tiền ba vạn lượng.
Tử Khuê chỉ đêm theo năm sáu trăm lượng ngân phiếu, đành ngậm ngùi nhìn đứa trẻ đáng thương kia mà xót xa. Chàng định bỏ đi cho lòng đỡ nhức nhối thì phát hiện con quỷ này thò tay qua song sắt dùng ngón trỏ viết vào không khí. Lập tức nó bị lão nhân áo lông dê vung roi quất vào tay, nên nó phải rút tay về.
Nhưng Tử Khuê nhãn lực phi thường đã nhận ra năm chữ :”Hứa Xương Quách Tử Khuê”. Chàng bàng hoàng choáng váng chẳng dám tin đó là sự thật. Chàng cố nén xúc động quan sát lại thật kỹ và nhận ra những nét quen thuộc ở hàm răng, ánh mắt và bớt son nhỏ trên vành tai trái của sơn quỷ. Biết chắc đấy là bào đệ mình, Tử Khuê vui mừng khôn xiết, đồng thời cũng vô cùng tức giận trước thảm trạng của Tử Chiên.
Chàng chỉ muốn nhảy xổ đến phá tan lồng sắt cứu em ra. Song chàng còn đủ tỉnh táo để cân nhắc thiệt hơn, hiểu rằng sẽ không thoát ra nổi và di hoạ về sau này. Hơn nữa hàng chẳng thể lộ thân phận thực khiến Long Vân Tú Sĩ đề phòng, khó báo thù nhà.
Cuối cùng Tử Khuê đi đến chủ ý là nhờ Trình Thiên Kim mua con sơn quỷ. Với danh nghĩa Nữ Hầu tước nàng có thể nhận hàng trước trả tiền sau.
Tử Khuê vội vã trở lại lôi đài, nhưng nửa đường đã gặp Thiên Kim. Có lẽ nàng sợ chàng chạm mặt Long Vân Tú Sĩ ở ngoài này nên ra xem thử.
Chung quang không có ai, Thiên Kim có thể tuỳ tiện tỏ bày:
- Trước sau gì lão quỷ họ Quảng cũng xuất hiện, hà tất tướng công phải trông đợi, tìm kiếm. Hơn nữa kế hoạch của chúng ta là tập kích lão khi đại hội đang cử hành cơ mà.
Tử Khuê khua tay ngắt lời nàng và nói mau:
- Ta đã gặp Tứ đệ, Chiêm nhi vẫn còn sống.
Nữ Hầu tước ngạc nhiên và hân hoan khôn tả. Nàng thốt:
- Tạ ơn Hoàng thiên! Thiếp vẫn thường khóc thầm mỗi khi nhớ đến nó.
Chợt nàng nhận ra ánh mắt bi ai cổ quái của Tử Khuê, liền cau mày hỏi:
- Phải chăng Tứ đệ đang bị kẻ nào giam giữ?
Tử Khuê rầu rĩ gật đầu và kể lại mọi việc. Thiên Kim ứa nước mắt vì xót thương Tử Chiêm, song sau đó nghiến răng nói:
- Việc gom đủ ba vạn lượng vàng để chuộc Chiêm đệ hôm nay không phải là khó. Thiếp sẽ đứng ra mượn Thiếu Lâm Tự, nhưng thiếp chẳng cam tâm để yên cho kẻ đã hãm hại, hành hạ Chiêm đệ.
Sợ ái thê nổi tính “Trương Phi” giết chết Thiên Bảo Đổ Hầu, Tử Khuê dịu giọng can ngăn:
- Biết đâu Kỹ Thục Luân mua lại Chiêm đệ từ tay kẻ khác. Trước mắt ta cứ mang Chiêm đệ về nhà chữa trị, khi biết rõ trắng đên hãy nghĩ đến chuyện ân oán.
Thiên Kim gật đầu tuân mệnh trượng phu, song vẫn còn hậm hực. Hai người quay lại toà mộc xá để Thiên Kim gặp gỡ Tử Chiêm. Thiêm Kim mặc áo lông cáo tuyết nhưng đầu lại đội mũ lông Điêu Thử màu vàng rất đẹp. Hai tai mũ làm bằng lông đuôi Điêu Thử gọi là Điêu Nhĩ, nàng kéo một cái vắt ngang qua mặt để Tử Chiêm không nhận ra mà phản ứng thái quá. Nếu Kỹ Thục Luân biết họ là người thân sẽ không dám bán và lão sẽ đòi giá cao hơn.
Thiên Kim đến sát lan can hành lang mà ngắm con sơn quỷ thật lâu. Rốt cuộc nàng sa lệ hiểu rằng đấy chính là đứa em chồng ngây thơ láu lỉnh ngày nào.
Thiên Kim vội lui gót chẳng dám lưu lại lâu nữa vì sợ rằng mình sẽ bật khóc. Nàng vội trở về khu đại hội. Tử Khuê thì ở lại mộc xá trông chừng bào đệ.
Hơn một khắc sau, Thiên Kim trở lại, mắt phượng tròn xoe, đầy vẻ tức tối. Nàng kể với Tử Khuê rằng:
- Thiếp đã đến gặp Thiên Bảo Đổ Hầu, đồng ý mua con sơn quỷ với giá ba vạn lượng vàng. Nhưng lão ta lại trở quẻ, bảo rằng thủ hạ lão nói bậy, lão không hề có ý định bán, và nếu bán thì cũng với giá mười vạn lượng vàng chứ không cho thiếu. Song ngân quỹ của Thiếu Lâm chỉ còn hơn ba vạn lượng. Thiếp giận quá nói ra sự thật và đòi kiện lão ta. Nhưng lão lại không sợ, bảo rằng lão đã mua lại Chiêm đệ với giá chín vạn lượng,chỉ lời có một vạn lượng, và lão ta còn rủ thiếp dánh bạc, nếu thắng thêm bảy vạn nữa thì đủ tiền chuộc Chiêm đệ.
Nghe xong Tử Khuê giận run người, nhưng trong đầu lại loé lên ý hay. Chàng suy nghĩ một lúc rồi cười bảo Thiên Kim:
- Nàng cứ nhận lời. Ta đã có cách vét sách hầu bao của Đổ Hầu.
Thiên Kim thở phào, bẽn lẽn nói:
- Thiếp đã làm việc ấy và đang lo bị tướng công quở trách.
Tử Khuê phì cười và dặn dò nàng kế hoạch hành động.
*
* *
Đầu giờ Ngọ, đại hội võ lâm nghỉ trưa, giữa giờ Mùi mới tiếp diễn. Quần hùng đã biết tin Nữ Hầu tước mang ba vạn lượng vàng ra đánh bạc với Thiên Bảo Đổ Hầu, nên ăn uống qua quýt vài chén rồi quay lại. Canh bạc này liên quan đến số phận một con người nên được tổ chức nagy tại lôi đài, trước sự chứng kiến của toàn võ lâm.
Quần hùng vốn yêu mến Cầu Nhiêm Đại Hiệp Quách Tử Khuê nên rất thương cảm khi thấy em trai chàng bị biến thành khỉ, bị giam cầm như thú vật. Tuy không chắc Đổ Hầu là thủ phạm song rất nhiều người lén thoá mạ lão. Kỹ Thục Luân thì chẳng dại gì công nhận mình biết con sơn qủy ấy vốn là người. Giữa giờ Ngọ, chiếu bạc đã bày biện xong. Chiếc bàn dài của ban giám đài giờ đây được đặt xoay dọc ở giữa, chia lôi đài ra làm hai phần. Ghế của hai phe chơi bạc đặt cách xa bàn đến gần một trượng để tránh việc dùng chân khí thao túng những viên xúc xắc trong chén.
Nữ Hầu tước đã thách Đổ Hầu chơi trò tài xỉu. Thiên Bảo Đổ Hầu đồng ý nhưng ra điều kiện lão sẽ cầm cái và sẽ chỉ sử dụng ba cửa Đại, Tiểu và Bảo. Ba mặt cùng số gọi là Bảo, dẫu tay con đặt Đại hay Tiểu thì cũng thua. Đổ Hầu là tổ sư trong nghề cờ bạc chuyên nghiệp, đã khổ luyện mấy chụ năm, thủ pháp vô cùng tinh diệu, điều khiển ba hạt xí ngầu theo ý muốn. Nay lão cầm cái, Thiên Kim chỉ có xác suất thắng là một phần ba, sạch túi là đương nhiên.
Phe của Đổ Hầu gồm có lão, vợ chồng Vương gia, tri huyện Đăng Phong cùng vài đại cao thủ võ lâm như Lôi Đình Đế Quân, Xoa Lạp Cốc Chủ.
Bên Thiên Kim có Tử Khuê, Thần Đao Bảo Chủ, Phó hội chủ Phi Đao Bảo An Hội Du Vinh, năm vị Chưởng môn nhân trong Hội đồng Võ lâm. Trương Thiên Sư thì đứng giữa ở đầu bàn hướng Bắc, phụ trách việc mở bát và công bố điểm số. Nghĩa là Đổ Hầu lắc xong trở về chỗ ngồi, rồi đến lượt Thiêm Kim đặt cược. Khi nàng đã yên vị thì Trương Chân Nhân giở chén.
Ở dưới lôi đài, quần hùng háo hức chờ đợi, tay thủ sẵn hầu bao. Họ sẽ mượn kết quả trên lôi đài mà ăn thua với nhau. Mà cờ bạc là một trong những tật xấu cơ bản của người Hoa Hạ. Từ quan đến dân, từ giàu đến ghèo và phổ biến nhất là trong giới giang hồ.
Giờ đây họ im như thóc, không gian tĩnh lặng đến mức có thể nghe được tiếng xúc xắc reo lúc Đổ Hầu lắc chén. Nhưng khi lão ta vừa lắc xong thì tiếng giao ước, đặt của quần hào nổi lên, rì rầm như sấm dậy. Bị Trương Thiên Sư quở trách họ mới hạ giọng xuống.
Trên này Trình Thiên Kim bước đến bên bàn, đặt một tờ ngân phiếu xuống và run giọng:
- Cửa Đại một ngàn lượng.
Trương Thiên Sư vận công phát ngôn lại cho toàn trường được rõ. Sau đó lão thu vén tay áo đạo bào, chậm rãi mở bát và xướng thật lớn:
- Nhất, nhị, tứ…thất điểm: Tiểu!
Mặc kệ Thiên Kim xanh mặt, dưới này quần hùng chung chi cho nhau, kẻ thắng thì rạng rỡ, kẻ thua thì nhăn nhó chửi thề.
Canh bạc thứ hai Thiên Kim lại đặt cửa Đại hai ngàn lượng và thua…lần thứ ba nàng vẫn chọn cửa Đại bốn ngàn lượng, song vẫn thua.
Mọi người thầm thương hại Hoàng Phong Hầu, hiểu rằng nàng đang cố dùng chiến thuật cấp số, lần sau đặt gấp đôi lần trước ở cùng một cửa. Nhưng Đổ Hầu thừa sức lắc ra tám chín lần Tiểu liên tiếp, vét sạch ba vạn lượng vàng.
Đến lần thứ tư, khi nghe Tử Khuê nói nhỏ: “Đặt hết số vàng vào cửa đại” thì Thiên Kim bước lên tuyên bố:
- Hai vạn ba ngàn lượng cửa Tiểu!
Toàn trường giật mình, không ngờ Thiên Kim lại “khát nước” đến mức ấy. Nàng ta đúng là tay non, bản lĩnh cờ bạc thấp kém, định lực yếu ớt. Trong nghề đổ bát, kẻ lão luyện rất sành đoán tâm lý qua sắc diện hoặc những cử chỉ nhỏ nhặt của đối phương. Đổ Hầu đã quan sát Thiên Kim thật kỹ rồi mới quyết định lắc Đại hay Tiểu. Cũng nhờ tài nghệ nhìn thấu lòng đối thủ mà lão mới vét được hơn hai chục vạn lạng vàng của bọn đai phú đất Nam Kinh.
Thiên Kim trở về chỗ ngồi, người run lẩy bẩy, lo lắng dến mức toát mồ hôi. Tử Khuê ngồi nagy sau lưng nàng, rỉ tai trấn an:
- Nàng cứ yên tâm! Ta bảo đảm rằng sẽ thắng.
Tử Khuê rất tự tin vì đã có chỗ sở cậy. Ba lần đặt trước chỉ để thử nghiệm xem vận xui còn ám chàng nữa không. Chàng chọn cửa nào thì Thiên Kim chọn cửa ấy và thua. Đồng thời chàng cũng tình cờ nhận ra những ám hiệu không tán thành của Vương phi tần Hạnh Nga. Tức là ả hồ li diễm lệ này thừa thần thông để nhìn xuyên qua bát sứ. Và lần này HạnhNga đã mỉm cười chứng tỏ Thiên Kim sẽ thắng.
Quả nhiên Trương Chân Nhân mở chén và hào hứng hô vang:
- Lục, nhất, nhị…cửu điểm: Tiểu!
Cử toạ vui mừng trước thắng lợi bất ngờ của Nữ Hầu tước, hoan hô kịch liệt.
Thiên Bảo Đổ Hầu chẳng hề biến sắc, ung dung bước ra lắc chén theo một nhịp không đều. Tử Khuê nhắm mắt, tưởng tượng rằng mìng đang đứng trước mảnh giấy có ba chữ Tiêu, Đại, Bảo. Lần này chàng phân vân cực đội, không thể xác định Đại hay Tiểu…Lát sau chàng thức ngộ ra rằng đấy cũng là kết quả, liền dặn dò Thiên Kim:
- Ta đặt hai cửa Tiểu Đại mỗi cửa hai vạn ba ngàn lượng. Nhưng nếu nàng nghe tiếng ta ho thì bỏ canh bạc này, yêu cầu Đỏ Hầu lắc lại.
Thiên Kim nhất nhất tuân lời nhưng giọn nói vẫn khá yếu ớt:
- Bốn vạn sáu ngàn lượng cho cửa Bảo.
Toàn trường chấn động vì theo quy củ Trương Thiên sư công bố lúc đầu thì nhà cái thua cửa Bảo theo tỉ lệ “tứ bội”. Tức là Thiên Kim đặt một ăn bốn. Vị chi, Đổ Hầu phải chung cho nàng mười tám vạn bốn ngàn lượng, bất kể ba hạt xúc xắc cùng mang số nào, từ nhất đến lục. Không nghe tiếng ho của Tử Khuê, Thiên Kim lững thững về chỗ. Nàng hồi hộp đến mức nghe bàng quang nặng trĩu, chỉ muốn tiểu ra quần.
Hoài Âm Vương cũng là con sâu cờ bạc, chẳng nén nổi lòng phấn khích, cười bảo:
- Hào hứng thực! Trương hiền khanh hãy nhường ta mở bát canh bạc này.
Tất nhiên Trương Thiên Sư mau mắn tuân lệnh. Chu Kiềm xăng xái bước ra mở bát và gầm vang:
- Ba mặt nhị: Bảo!
Quả xứng danh Đổ Hầu, Kỹ Thục Luân vẫn thản nhiên như chỉ thua vài lượng bạc lẻ. Lão chờ tiếng huyên náo của cử toạ lắng xuống mới nói:
- Lão phu sẽ trao sơn quỷ cho Nữ Hầu tước cùng với tám vạn bốn ngàn lượng vàng. Nhưng cuộc chơi vẫn tiếp diễn và lần này Trình Hầu tước làm cái.
Hoài Âm Vương cực lực tán thành khiến Thiên Kim không thể từ chối. Quần hùng cũng reohò chẳng chịu thôi.
Mục đích của Tử Khuê là cứu cho được bào đệ, nay đã thành công mà còn lời được chẵn mười vạn lượng, không tính ba vạn mượng của Thiếu Lâm Tự. Hơn nữa chàng cũng nhận được cái gật đầu và nụ cười khuyến khích của Tần Hạnh Nga nên rất vững dạ. Ả hồ ly ấy đã đứng cạnh Hoài Âm Vương vì Chu Kiềm không chịu quay về chỗ. Thế là bọn giáp sĩ phải khiêng hai cỗ đại ỷ đến đặt ở đầu bàn hướng Bắc.
Thiên Kim khôn ngoan trả lại cho Đại Giác Thiền Sư ba vạn lượng, để lỡ có thua thì cũng hoà vốn. Nàng đang ngất ngây trong men thắng lợi song vẫn bật khóc khi chiếc lồng nhốt Tử Chiêm đang được mang từ mộc xa đến.
Cử toạ cũng phải mủi lòng khi con vật lông lá kia chui ra ôm chặt lấy Nữ Hầu tước và rú lên những âm thanh bi thiết của người câm. Thì ra nó chính là bào đệ chín tuổi của Cầu Nhiêm Đại Hiệp Quách Tử Khuê. Chiêm nhi vừa khóc vừa chỉ về phía Thiên Bảo Đổ Hầu như mách với chị dâu rằng lão đã hãm hại hành hạ mình.
Tiếng chửi rủa, thoá mạ lác đác vang lên và mỗi lúc một nhiều. Hoài Âm Vương bất bình trước hành vi tàn nhẫn của cậu họ mình nhưng vẫn lên tiếng trấn áp dư luận.
Chẳng hiểu Thiên Kim đã trấn an em chồng thế nào mà Tử Chiêm ngoan ngoãn ngồi trong lòng một gã đệ tử trẻ tuổi của Hoàng Phong Bang ngay sau lưng nàng, kẻ đó chính là Tử Khuê. Chàng không thể biểu lộ tình cảm ở chốn này, liền an ủi Chiêm nhi vài câu rồi điểm huyệt ngủ.
Cố giấu vẻ lúng túng, cầm bát lắc loạn xạ mười mấy cái rồi đặt xuống. nàng hi vọng rằng những tiếng reo hỗn loạn ấy sẽ khiến Đổ Hầu không sao đoán đúng kết quả.
Nhưng khổ thay lão chết dẫm Kỹ Thục Luân lại chẳng cần nghe ngóng, dùng ngay chiến thuật cấp số. Lão bắt đầu ở cửa Tiểu với một ngàn lượng, thua thì tăng gấp đôi, y như Thiên Kim đã từng làm.
Đối với người không rành cờ bạc như Thiên Kim thì chiến thuật kia rất hữu hiệu. Hơn nữa ba hột xúc xắc là của Đổ Hầu, có xu hướng ra Tiểu nhiều hơn Đại. Lão có thể điều khiển được chúng nhưng Thiên Kim thì không.
Cho nên chỉ sau chục ván, Nữ Hầu Tước đã thua hơn bốn vạn lượng. Và trong ván tiếp theo, số vàng mà Đổ Hầu đặt ở cửa Tiểu là năm vạn lượng. Thiên Kim đưa tay vuốt mồ hôi trán, nago ngán tuyên bố:
- Nếu ván này mà túc hạ thằng thì ta sạch vốn, không chơi nữa.
Đổ Hầu gật đầu tán thành vì tạm thu hồi đủ số. Còn con sơn quỷ kia thì lão đành chịu mất.
Nhưng Hoài Âm Vương lại thét lên:
- Tam tứ ngũ…Thập nhị điểm: Đại!
Đổ Hầu đau như bị thiến, chờ Thiên Kim lắc xong thì bước lên, chống hai ay vào cạnh bàn, giả vờ phân vân song kỳ thực là laõ đang dùng chân khí kiểm tra ba hạt xí ngầu. Chúng xao động tạo ra những âm thanh rất nhỏ, phe đối phương ngồi xa cả trượng chẳng thể nào nghe thấy được. Hoài Âm Vương công lực không cao, Tần Vương phi thì chẳng biết võ nghệ, dẫu ngồi gần cũng vô dụng. Dựa vào tiếng động quen thuộc của xúc xắc, Đổ Hầu biết rõ kết qủa yên tâm dặt xuống cửa Tiểu mười vạn lượng.
Lúc Hoài Âm Vương giở chén và đọc điểm số: “Tam tứ lục” thì Đổ Hầu chết điếng, không dám tin vào tai mình, liền bước đến xem.
Trình Thiên Kim cười khanh khách, lên vơ trọn số ngân phiếu và đắc ý nói:
- Sao, Kỹ Hầu gia còn dám chơi tiếp không?
Như khiêu khích, nàng cầm bát lắc nhẹ vài cái rồi quay về ghế. Đổ Hầu vẫn đứng đấy, đem hét tài nghệ ra thi thố. Khi đã đoán chắc mười phần, lão trút cả hầu bao vào cửa Đại. Thấy tổng cộng chỉ có mười sáu vạn lượng, lão tháo luôn bảo kiếm bên hông và cao giọng:
- Đây là thanh thần kiếm, chém sắt như chém bùn. Lão phu định giá nó là bốn vạn lượng hoàng kim, bù vào số ngân phiếu cho đủ hai chục vạn lượng.
Quần hùng bất bình la ó:
- Mẹ kiếp! Sao lão lại ép người thái quá như thế? Dẫu có là Thái A hay Long Tuyền thì cũng chẳng đáng giá bốn vạn lượng vàng!
Quả đúng như vậy! Không phải ai có thần binh trong tay cũng trở thành vô địch. Chẳng hạn như trường hợp của Vân Thiên Tử, chưởng môn phái Võ Đang. Tuy sở hữu “Trạm Lư bảo kiếm”, thần vật thời Xuân Thu nhưng vẫn không thắng nổi Nam Thiên Tôn. Và nếu lão đối phó với Lôi Đình Cung chủ hoặc Long Vân Tú Sĩ cũng thua chắc. Đồng thời khách giang hồ chỉ cần bỏ ra vài chục lượng vàng là mua được một thanh kiếm bằng thép tốt, dẫu không sắc bén như Trạm Lư nhưng cũng dễ gì gãy nổi.
Trình Thiên Kim cũng đồng quan điểm với mọi người, cười nhạt bảo:
- Kiếm của lão quý ở chỗ nào mà tự ra giá ấy?
Kỹ Thục Luân rút kiếm ra khỏi vỏ bằng đồng đen, chậm rãi vuốt ve bản kiếm sáng như gương, tư lự kể:
- “Sau thời Xuân Thu, nghệ thuật đúc kiếm của Trung Hoa bị mai một. Nhưng không hiểu sao tuyệt kỹ nọ truyền bá sang xứ Phù Tang và tồn tại cho đến bây giờ.Vào cưối thời Nguyên, một kiếm khách người Hán nuôi mộng đánh đuổi rợ Mông, nên vượt biển sang tận Nhật Bản. Ông ta đã nhờ lò rèn danh tiếng nhất xứ Phù Tang chế tạo cho mình một thanh kiếm, theo kích thước hình dáng của trường kiếm Trung Hoa với giá năm trăm lượng vàng. Ông ta đặt tên cho nó là “Đảo Nguyên Thần Kiếm”.
“Khi về đến Trung thổ, vị đại hiệp nọ theo phò Thái tổ Hoàng đế bổn triều, lập được rất nhiều công trạng. Nhưng sau đó Trần Khởi đột nhiên biến mất không rõ nguyên do.
“Ba năm trước lão phu đến Nam Xương đánh bạc, tình cờ mua được thanh “Đảo Nguyên Thần Kiếm” này của một tay chơi gặp vận xui…”
Biết chủ nhân đã khô cổ vì nói dông dài, thủ hạ của Đổ Hầu bưng đến cho lão một chén trà. Kỹ Thục Luân khoan khoái nhấp vài hớp rồi kể tiếp:
- Đảo Nguyên Thần Kiếm sắc bén phi thường và còn hơn những thanh kiếm thượng cổ ở chiều dài. Nó bằng với trường kiếm đương đại…
Trong số quần hùng có người nóng ruột, ném ngay lên đài một thanh đoản côn bằng sắt và thúc dục:
- Sao lão lắm lời thế! Hãy mau thử kiếm rồi chơi tiếp canh bạc.
Đổ Hầu cúi xuống nhặt cây côn lên và vung kiếm chém thật mạnh.
Sau hai nhát thanh côn gẫy đôi mà thanh kiếm vẫn không hề sứt mẻ. Thành tích ấy quá đủ để chứng minh giá trị thần kiếm, dẫu Trạm Lư cũng khó hơn nổi.
Cử toạ vỗ tay, trầm trồ khen ngợi mãi.
Tử Khuê bồi hồi thức ngộ rằng “Đảo Nguyên Thần Kiếm” là vật chàng rất cần đến. Có nó, chàng mới có hy vọng giết nổi Long Vân Tú Sĩ. Tử Khuê liền bảo Thiên Kim chấp nhận cái giá bốn vạn lượng vàng của thanh kiếm quý.
Nữ Hầu tước nghe lời phu quân, đứng lên dõng dạc nói:
- Thôi được, bổn nhân đồng ý thanh “Đảo Nguyên” đáng giá bốn vạn lượng vàng. Nhưng ta nói trước, nếu lão thua thì đừng mong chuộc lại. Đổ Hầu gật đầu khẳng định, tra gươm vào vỏ, đặt chung với đám ngân phiếu.
Thấy Đổ Hầu không quay về ghế, Hoài Âm Vương vui vẻ vẫy Thiên Kim:
- Trình Hầu hãy đến cả đây để chứng minh canh bạc phi thường này. Ngay cả ở Bắc Kinh cũng không có tay chơi nào ăn thua quyết kiệt như hai vị.
Chu Kiềm mở bát, chưa kịp hô điểm thì Thiên Bảo Đổ Hầu đã lảo đảo, ôm ngực ngã quỵ, miệng rên rỉ:
- Tức chết đi được…Trời hại ta rồi, sao lại có thể là Tiểu!
Rồi lão hộc máu và ngất xỉu.
*
* *
Con người là động vật duy nhất có thể chết vì tức tối. những loài khác cũng biết tức giận khi bị tranh mất mồi, song chẳng có con nào ngu đến mức lăn đùng ra chết cả.
Trường hợp điển hình nhất, nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Hoa chính là ngài Chu Du, đô đốc của Đông Ngô thời Tam Quốc. Chuyện kể rằng Khổng Minh tam khi Chu Du, ba lần chọc giận cũng đủ khiến Công Cẩn hộc máu chết tươi.
Cách chết lạ lùng ấy chỉ xảy ra cho những kẻ cao ngạo. Người khiêm tốn thường dễ dàng vượt qua cảm giác bị xúc phạm.
Thiên Bảo Đổ Hầu không tự cao bằng Chu Du nên thoát chết. Lão chỉ bị liệt nửa người vì cơn đột quỵ. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ để Hoài Âm Vương bận rộn, tuyên bố hoãn đại hội võ lâm đến sáng mai.
Cử toạ vui vẻ tán thành ngay và lên tiếng đòi Hoàng Phong Hầu chiêu đãi. Nàng đã thắng tổng cộng ba sáu vạn lượng vàng, không kể thanh bảo kiếm, trở thành người giàu có nhất võ lâm.
Thiên Kim quen tính tiết kiệm, dẫu là của bắt được cũng không hề hoang phí. Nhưng Tử Khuê lại cười bảo:
- Sau này về làm dâu của mẫu thân ta, nàng tha hồ thắt lưng buộc bụng. Thứ tài sản phi nghĩa ấy chỉ nên dùng vào việc thiện hoặc cúng đường chùa miếu.
Nữ Hầu tước chẳng dám cãi lời phu tướng, bước ra cao giọng tuyên cáo theo đúng những gì Tử Khuê đã dặn dò, song nàng không lấy danh nghĩa cá nhân mà mượn tiếng bên chồng:
- Kính cáo chư vị đồng đạo võ lâm! Nay chuyết phu thất tung, Quách gia trang bị thiêu huỷ, nhưng vì đạo làm vợ, làm dâu, bổn nhân quyết noi theo chí hướng của chàng. Bổn nhân xin đại diện Quách gia cúng đường tam Bảo, Tam Thanh mỗi phái một vạn lượng hoàng kim, kể cả Thanh Thành, Nga Mi. Riêng cái Bang, người đông của khó, bổn nhân xin tặng ba vạn lượng. Bảo An Phi Đao hội có ơn tương trợ Quách gia, xin nhận vạn lượng. Đồng thời mong Du phó hội chủ cầm thêm năm ngàn lượng, thay mặt Quách gia chiêu đãi quần hùng. Bổn nhân phải đưa Tử đệ về chữa trị, không thể ở lại bồi tiếp chư vị được.
Tổng cộng là mất đứt đi mười hai vạn rưỡi lượng vàng, rộng rãi ngoài sức tưởng tượng của cử toạ. Nếu là kẻ khác thì chưa chắc đã chịu nhả ra xu nào. Mọi người hoan hô quá cỡ, tán dương nhà họ Quách khéo dạy nàng dâu.
Trong lúc ấy các chưởng môn lần lượt bước lên nhận ngân phiếu. Trình Thiên Kim lễ từng vị tăng, đạo rồi cung kính dâng lên. Họ vô cùng cảm kích biết đây là ý của Tử Khuê.
Đại biểu hai phái Nga Mi, Thanh Thành là Nga Mi Nhất Phụng và Thanh Khê Tử, hai người này rất lúng túng, vừa mừng vừa ngượng, vì không ngờ rằng môn phái của mình lại có phần, dù đã nhiều năm chẳng tham gia phù trì chính khí võ lâm trung thổ. Nhưng họ phải nhận vì đây là của cúng đường chư Phật, chư Thần.
Nga Mi Nhất Phụng là đệ tử tục gia nên Thiên Kim không quỳ lạy, chỉ nghiêng mình thi lễ. Đối với Bang chủ Cái Bang và Du Vinh thì nàng cũng làm vậy.
Đại hồng chung trên chùa Thiếu Lâm bỗng vang lên từng hồi trầm hùng, khoan thai như chứng giám cho lòng thành của phu thê Tử Khuê.
Cúng dường xong, Thiên Kim nói với cử toạ:
- Còn lại hai mươi ba vạn năm ngàn lượng, Quách gia sẽ chẩn tế cho tai dân và những người cùng khổ.
Nàng cáo biệt họ và vợ chồng Hoài Âm Vương rồi kéo thủ hạ rời đại hội. Quần hùng tiễn đưa bằng những tràng pháo tay vang dội. Riêng Tần Vương phi nở nụ cười hài lòng với Tử Khuê.
Tài sản của dunghoitaisao127

  #20  
Old 30-04-2008, 05:03 PM
dunghoitaisao127's Avatar
dunghoitaisao127 dunghoitaisao127 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 39
Thời gian online: 4 ngày 16 giờ 13 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 21 : Đài thượng chư ma hiện
Lâm trung kiến thê nhi



Trước khi lão nhân vào tới bàn, Tái Vân đã sớm kéo vạt áo cừu cho che phần ngực bị hở lại, và tiếp tục cho Huy nhi bú sữa. Nàng chẳng hề ngước lên chào hỏi dù người đó là bậc cao niên. Tái Vân cũng đã hơi xoay người về hướng cửa sổ nên Tử Khuê nhận ra vẻ sợ hãi, chán ngán trong ánh mắt nàng.
Lão nhân kia ngồi xuống ghế đối diện, nhếch mép cười nhạt:
- Hà tất nàng phải vì con của kẻ khác mà vất vả suốt đêm như thế. Biết vậy, lão phu đã sớm để nó chết quách cho xong, đỡ tốn nửa hạt “Thiên sơn Tuyết liên tử”
Đông Nhạc Tiên Hồ thản nhiên mai mỉa:
- Nửa hạt sen chết tiệt ấy đã được bán với giá ngàn lượng vàng, sao giờ sư thúc lại còn tiếc nuối.
Tử Khuê thoáng giật mình, nhớ lại Dịch Quan San tâm sự, và đoán rằng lão nhân râu ba chòm kia là Bạch Điển Thư Sinh Đinh Trọng Khế, sư thúc gã.
Đinh Trọng Khế từng là một bậc anh tài trẻ đẹp, võ nghệ cao cường, hai mươi tuổi đã nổi danh Ngọc Diện Kiếm Khách. Khổ thay, cái mỹ hiệu nọ chỉ thọ được có ba năm. Chẳng hiểu sao da dẻ họ Đinh đột nhiên nổi lên những đốm lang ben rất tệ hại. Chúng dày cộm, sần sùi, biến gương mặt anh tuấn của Trọng Khế thành một mảng da beo loang lổ, khó coi.
Lang ben tức là bạch điển phong, là một bệnh ngoài da rất thông thường, dễ chữa trị. Nhưng trường hợp Trọng Khế thì lại đặc biệt trầm kha, không thuốc nào chữa khỏi. Có lẽ do gã ăn nhằm cái thứ quỷ quái nào đấy, độc tính nằm trong máu huyết chẳng trục ra được. Thế là giới giang hồ mau mắn đã tặng cho họ Đinh danh hiệu mới: Bạch Điến Thư Sinh. Trọng Khế vô cùng nhục nhã, gác kiếm đi học nghề y, đã mấy chục năm không xuất đầu lộ diện.
Phải chăng Đinh Trọng Khê đã thành công nên giờ đây Tử Khuê chẳng còn nhìn thấy những đốm lang ben oan nghiệt trên mặt lão nữa?
Còn việc lão cứu mạng Huy nhi với giá ngàn lượng vàng thì chàng không quan tâm đắt rẻ và vẫn chi ân. Trẻ sinh non rất khó sống, nhất là khi không được bú sữa mẹ, cũng may là có nửa hạt Tuyết liên tử. Nhưng lòng biết ơn của Tử Khuê đã sớm bị sứt mẻ vì câu nói của vị ân nhân.
- Tối nay, Bành mỗ đã thi hành kế “Di hoạ giang đông” loại được Long Vân Tú Sĩ ra khỏi chốn giang hồ và cảm thấy ngàn lượng vàng kia không đủ cho sự nghiệp tranh bá đồ vương. Lão quyết định bán thằng bé này cho Ngân Diện Hầu phủ và bán con nhà ….(không đọc được) họ Tống cho lão Quách Thiên Tường, mỗi đứa giá năm vạn lượng vàng. Trinh sát của lão phu đã báo về rằng Quách trang chủ đang nương náu ở nhà con rể Mã Đông Cao.
Tử Khuê thêm một lần mừng như chết đi sống lại khi nghe nói Tống Thuỵ vẫn toàn mạng và đang có mặt nơi này.
Trong kia, Đông Nhạc Tiên Hồ cau mày hỏi lại họ Đinh:
- Vì sao sư thúc không bán luôn tiện nữ mà kiếm thêm vài vạn lượng.
Bạch Điển Thư Sinh lắc đầu, nhìn hau háu gương mặt kiều diễm của Tái Vân và chậm rãi đáp:
- Anh hùng phải có mỹ nhân. Lão phu đã chọn nàng làm người phối ngẫu.
Tái Vân biến sắc, run rẩy đặt cọng lông gà vào chén sữa vì Huy nhi đã ngủ ngon. Rồi nàng rầu rĩ thở dài:
- Lão tinh thông “Nhiếp hồn ma thuật” mê hoặc được đại ca ta, nhưng việc chiếm đoạt Vân này chẳng dễ đâu. Ta thà tự sát chứ không lỗi đạo với trượng phu.
Dứt lời, nàng rút trong áo ra một con dao nhỏ. Tuy đây chỉ là dụng cụ rọc giấy song cũng cũng thừa sức đưa nàng về chốn suối vàng.
Đinh Trọng Khế không ngờ Tái Vân lại quyết liệt đến thế và thủ sẵn phương tiện quyên sinh. Lão bực bội cười gằn:
- Té ra một ả hồ ly khét tiếng phong lưu như ngươi lại học trò tiết phụ! Để xem người nhịn đói, nhịn khát được mấy hôm.
Nói xong, lão đứng phắt dậy, giận dữ bỏ đi. Ở đây, Tái Vân bật khóc, cúi xuống hôn Huy nhi và than trách:
- Huy nhi oi! Chắc mẫu thân không còn cơ hội chăm sóc con nữa rồi. Cha ngươi quả là kẻ hồ đồ, cương nhu, thiện ác, tiến thoái chẳng rạch ròi nên thê tử mới khốn khổ thế này.
Tử Khuê choáng váng trước lời phê phán của ái thê, tự hỏi phải chăng mình đúng là người như vậy? Mấy năm qua, chàng háo hức dấn thân vào chốn giang hồ song lại luôn lo lắng hậu quả, rốt cuộc cũng tan nhà nát cửa. Và chàng luôn thụ động, chưa bao giờ dám tự vượt qua hoàn cảnh. Chàng đã trở thành kẻ dối lòng khi tay nhuốm máu mà cứ tự cho mình là nhân nghĩa.
Ngay như lúc này, chàng vẫn phân vân không dám giết Bạch Điển Thư Sinh do lão có ơn cứu mạng Huy nhi. Trong khi lão bức hiếp vợ chàng và nuôi dã tâm khuynh đảo võ lâm, gây nhiều cảnh máu xương.
Nghe tiếng khoá cửa, đoán rằng Trọng Khuê đã rời thạch xá, chàng lập tức chạy vòng ra phía trước mà đuổi theo. Lão ta đã đi được vài trượng, cách toà mộc lầu không xa.
Tử Khuê lạnh lùng trầm giọng gọi:
- Bạch Điển Thư Sinh! Quách mỗ đã đến đây.
Đinh Trọng Khế kinh hãi quay phắt lại, rút kiếm thủ thế và quát vang:
- Có kẻ địch!
Tử Khuê bình thản đứng đợi, trong lúc họ Đinh hoang mang dò hỏi:
- Phải chăng người là Quách Tử Khuê?
Khi chàng gật đầu, Trọng Khế giả lả nói:
- Thế thì hay quá! Thê tử của hiền điệt đều ở cả nơi này. Sau biến cố hồi tháng sáu, Dịch sư điệt đã đưa họ đến đây nương náu.
Lúc này, Dịch Quan San và đám kiếm thủ người Thổ đã ùa đến, đuốc dầu toả sáng rực trời. Tử Khuê đưa tay lột mặt nạ và quát bằng tiếng Thổ:
- Ta là Quách thiếu gia đây! Các ngươi mau cầm chân Dịch Quan San để ta khống chế lão họ Đinh.
Tuy có tới sau chục gã kiếm thuẫn là người mới, vừa được chiêu dụ từ hàng ngũ Xoa Lạp Bang, nhưng chúng cũng đã nghe đám lính cũ kể về vị thiếu chủ nhân từ, rộng rãi, cho nên mệnh lệnh của Tử Khuê được chúng răm rắp chấp hành.
Càng may mắn hơn cho chàng là khi gã răng hô Tang Đông Dã đã bất ngờ điểm huyệt Dịch Quan San. Sau đó, gã cao giọng điều động một toán kiếm thủ đi giải thoát Tái Vân, Tống Thuỵ.
Ở đây, Tử Khuê nghiêm nghị bảo bảo Trọng Khế:
- Lúc nãy, ta đã nghe hết những lời lão nói với Vân muội. Và ta cho rằng lão không đáng sống nữa.
Bạch Điển Thư Sinh thẹn quá hóa giận, quắc mắt nạt:
- Người tưởng có thể dọa được lão phu hay sao?
Tử Khuê chẳng nói chẳng rằng rút gươm đánh chiêu “Hiểu Xuân Lôi Xướng” (Sấm hát đầu xuân). Kiếm kình ì ầm nhỏ nhẹ, có vẻ như hiền hoà không chút gay gắt, nhưng kỳ thực đây là một trong những chiêu tấn công ảo diệu và mãnh liệt nhất của pho “Lôi Đình kiếm pháp”. Nó có khá nhiều thức chém như chẻ núi nên sẽ phát huy hết diệu dụng của thanh “Đảo Nguyên thần Kiếm”.
Dù tin tưởng rẳng Dịch Quan San đã là nô lệ của mình, song Trọng Khế vốn thận trọng kè kè bảo kiếm bên mình. Hơn nữa, lão là kiếm sĩ, mê thanh thép lạnh hơn cả vợ con, nên chẳng thể rời, cả những lúc ăn cơm, tắm gội hay đại , tiểu tiện. Nhờ vậy mà lúc này Trọng Khế có vũ khí để chống đỡ đường gươm lợi hại của đối phương.
Tất nhiên kiếm của họ Đinh cũng là loại kiếm rất tốt, dẫu gặp gỡ Thần binh thượng cổ cũng chẳng gãy ngay. Và bản thân Trọng Khế cũng phải có thành tựu võ học rất cao mới dám nghĩ đến việc tái xuất giang hồ, tranh phong cùng những đại cao thủ như Long Vân Tú Sĩ, Lôi Đình Cung chủ.
Bạch Điểu Thư Sinh vung gươm hoá giải chiêu kiếm của đối thủ, sắc mặt anh nhiên, nhãn thần rực rỡ hào hứng. Quách Tử Khuê được xem là kiếm thủ cừ khôi nhất võ lâm đương đại, nên việc so gươm với chàng là một cơ hội ngàn vàng để Trọng Khế đánh giá sở học của mình.
Sau nhiều năm phiêu bạt tìm thầy chữa bênh, Trọng Khế đã lưu lạc sang tận dãy Thiên Sơn hùng vĩ và giá lạnh. Chính tại nơi này, họ Đinh đã may mắn hội ngộ với bậc kỳ nhân, không hết bệnh song lại học được y thuật lẫn võ nghệ Thiên Sơn Phái. Và thành tựu về kiếm thuật còn cao hơn cả.
Bạch Điển Thư Sinh đến Tây Vực năm ba mươi sáu tuổi, khi quay về Trung Thổ thì đã ngoài ngũ thập. Do bệnh cũ vẫn còn nên Trọng Khế ẩn cư trong cánh rừng hoang vu này, chỉ liên lạc với hai người. Mãi tận mùa Thu năm ngoái, lão mới tìm ra được phương pháp tiêu diệt được ”Căn bệnh quái ác” phục hồi dung mạo anh tuấn, đường hoàng. Đồng thời, họ Đinh cũng đạt đến cảnh giới thượng thừa của sở học Thiên Sơn.
Tựa như người đàn bà có nữ trang đẹp luôn khao khát trưng ra, khoe với thiên hạ, Trọng Khế bắt đầu nghĩ đến việc tái xuất dương danh. Nên khi Dịch Quan San đưa người họ Quách tới nương náu, nhờ giúp đỡ, một kế hoạch xưng hùng xưng bá đã hình thành trong đầu Trọng Khế. Lão bèn khống chế tâm thức Quan San, sử dụng gã cùng đám dũng sĩ người Thổ như đội quân tiên phong, cốt cán. Còn với bọn Tái Vân, Tống Thuỵ, Huy nhi thì lão có những tính toán thâm độc khác.
Nhưng không ngờ rằng Quách Tử Khuê lại tìm ra chốn này và tình cờ phát hiện dã tâm của lão.
Trọng Khế chỉ hơi ngán tài phóng phi đao của Ngân Diện Hầu, chứ chẳng ngại đường gươm của Cầu Nhiên Đại Hiệp. Lão vẫn tự nhủ rằng mình là tay kiếm vô địch. Lão không biết hai người ấy là một.
Tống Tiểu Tinh đã chết trong đêm đầu tháng mười một, sau khi sinh non. Thật xấu hổ khi nói cho người ngoài biết việc chồng mình lấy vợ lẽ và có con, nên bọn Tái Vân đã giấu biệt, bảo Trọng Khế rằng Huy nhi là con của Ngân Diện Hầu. Đinh lão nại cớ người dưng mà đòi cái giá ngàn lượng vàng mới chịu đem kỳ trân ra cứu đứa bé.
Ẩn tình là thế, kể ra thì dài dòng, chán ngắt, song không kể cũng không được. Giờ chúng ta quay lại trận so gươm để tìm chút hào hứng, sôi động.
Bạch Điển Thư Sinh nhờ nuốt chín hạt “Thiên Sơn Tuyết Liên tử” mà hiện có đến hơn hoa giáp công lực. Trong truyện kiếm hiệp, yếu tố kỳ duyên rất phổ biến và được ưa chuộng. Việc ấy cũng thú vị chẳng khác gì chuyện một gã nghèo kiết xác nào đó của thời nay, trúng mười tờ độc đắc vậy.
Lão già họ Đinh may mắn ấy dồn nguồn chân khí hùng hậu ra tay hữu loang kiếm nhanh như chớp giật, trong khoảnh khắc đã đâm chém, đỡ gạt hàng trăm thế thức, hoá giải chiêu “Hiển xuân lỗi xướng”
Chàng trai họ Quách chỉ chiếm được chút ưu thế là đã chém mẻ lưỡi gươm của đối phương. Và chàng cũng đã thức ngộ ra rằng minh kém sức hơn, chẳng nên sử dụng lối đánh cương mãnh. Hơn nữa, phong thái và phương thức chiết chiêu của Bạch Điển Thư Sinh đã chứng tỏ một trình độ kiếm thuật thượng thừa.
Tử Khuê liền bỏ ý định tốc chiến tốc thắng, xuất chiêu “Thu vũ phiêu phiêu”, kiếm ý hoà dịu, nhẹ nhàng, chủ về tốc độ hơn là lực đạo. Song chẳng phải vì vậy mà chiêu kiếm Huyền môn này kém lợi hại, kiếm ảnh giăng mắc tựa mưa Thu, áp đến bủa vây địch thủ.
Trọng Khế thầm tán thưởng tài khoái kiếm kỳ tuyệt của kẻ hậu sinh, song cũng đau lòng khi thấy thanh gươm thân thiết mấy chục năm bị sứt mẻ. Lão tự an ủi rằng mình sẽ được bồi thường thoả đáng khi hạ sát Tử Khuê và đoạt lấy kiếm báu của chàng. Lão có chứng kiến canh bạc giữa Trình Thiên Kim và Đỗ Hầu, nên đoán đây chính là thanh “Đảo Nguyên thần kiếm”
Những ý nghĩ ấy thoáng qua trong chớp măt. Trọng Khế xuất chiêu “Tuyết lạc thiên sơn” chặn đứng đường gươm thần tốc của đối thủ và phản kích bằng chiêu “Sơn mạch cửu bàn” (Hướng núi quanh co chín khúc). Trường kiếm và cánh tay phải lão uyển chuyển lạ thường, quỹ đạo của mũi gươm cực kỳ phức tạp, rối rắm khiến Từ Khuê không sao xác định được những vị trí bị uy hiếp.
Nhưng là người sở đắc đạo biến hoá, Từ Khuê chẳng chút bối rối, thi triển “Thất Tinh Tranh Huy” đâm liền bảy thức theo gần đúng phương vị chòm sao Bắc Đẩu.
Chiêu này rất đơn giản vì chỉ có đúng bảy thế kiếm. Diệu dụng của nó nằm trong yếu tố tốc độ và dũng khí. Từ Khuê dường như không hề đếm xỉa đến thanh kiếm quỷ dị của đối phương, thản nhiên sấn tới để đổi mạng.
Từ ý nghĩ đến hành động có một khoảng cách nhất định, bao gồm vận tốc truyền dẫn của dây thần kinh và phản ứng nhanh nhạy của cơ bắp. Con người bị lão hoá theo thời gian, nên ngưòi già luôn chậm chạp hơn kẻ trẻ trung. Trong kiếm thuật cũng vậy, cánh tay đầy những bắp thịt thanh xuân, nhạy cảm của Tử Khuê đã thực hiện của tâm ý một cách gần như đồng thời.
Vả lại, đường thẳng ngắn hơn đường cong, những thế kiếm rất giản dị của chàng đã nhanh hơn đường gươm hoa mỹ, phức tạp của đối phương.
Vì nhanh hơn nên bắt kịp, mũi kiếm “Đảo Nguyên” chạm vào thân kiếm của Trọng Khế và đẩy nó lệch đi. Sau đó, hai thức đâm còn lại hướng tới mặt và ngực nạn nhân.
Bạch Điển Thư Sinh hồn phi phách tán, nghiêng dầu tránh né và xoè tả thủ che kín huyệt Đản Trung để đỡ nhát kiếm chết người.
Lý ra, mũi kiếm “Đảo Nguyên” phải xuyên thủng cả lòng bàn tay lẫn ngực họ Đinh. Nhưng một âm thanh khô khốc của kim loại chạm nhau đã vang lên, và Trọng Khế chỉ bị đẩy lùi. Nghĩa là bàn tay của lão che chở bởi một lớp thép vô cùng chắc chắn.
Bọn dũng sĩ ngưòi Thổ đứng vòng bên ngoài “ồ” lên tiếc rẻ. Và có tiếng nữ nhân run rẩy cảnh báo:
- Tướng công! Tả thủ của Đinh lão quỷ có mang chiếc bao tay đan bằng thép.
Đấy chính là giọng nói của Dịch Tái Vân. Tử Khuê gật đầu tỏ ý đã hiểu, trong lúc vẫn tấn công như vũ bão. Tuy đối phương có bảo vật hộ thân song chàng chẳng hề ngán ngại, thi triển bộ pháp “Tiên nữ tuỷ phong” và tài khoái kiếm kỳ tuyệt áp đảo kẻ địch. Ngoài hai ưu thế áy, Tử Khuê còn có một thứ mà họ Đinh không có, đó là kinh nghiệm giao đấu. Mấy chục năm qua, Trọng Khê như kẻ chơi cờ với chính mình, chẳng thể biết nước cờ ảo diệu của thiên hạ.
Lòng tự tôn bị tổn thương, Trọng Khế dồn hết chân khí ra thanh kiếm thi thố “Thiên sơn kiếm pháp” đến phút chót hoá giải đường gươm ác liệt của Tử Khuê và phản kích lại.
Với tu vi hơn hẳn hoa giáp, thanh kiếm trong tay lão vún vút, xé nát không gian. Kiếm phong cuồn cuộn quyện lấy ngàn vạn bông tuyết trắng, hung hãn vây bủa lấy đối thủ. Thép chạm thép vang rền, Tử Khuê điềm nhiên cự địch, ăn miếng trả miếng chẳng hề chịu sút kém.
Bạch Điển Thư Sinh mỗi múc càng điên tiết khi thấy tên hậu bối kia luôn tránh được những đòn trí mạng bằng một thân pháp huyền ảo tuyệt luân. Gã chết giẫm ấy cứ như hồn ma bóng quế, lão chẳng thể nào chạm đến được.
Và đã đến lúc “Đảo Nguyên thần kiếm” phát huy uy lực. Sau hàng ngàn lần va chạm lưỡi kiếm Trọng Khế bị mẻ không còn chừa chỗ nào và thậm chí có những chỗ bị tổn thương đến bốn năm lần, hằn rất sâu làm giảm độ bền chắc.
Tử Khuê hiểu rõ điều ấy, bất ngờ xuất chiêu “Ngọ môn trảm quái” trong “Lôi Đình kiếm pháp”. Chiêu này lấy ý từ đao pháp có những thế chém cực mạnh.
Dẫu biết rằng bất lợi, song Đinh Trọng Khế vẫn phải vung gươm chống trả chứ không thể né tránh. Lão đã lùi khá sát vòng dây của bọn dũng sĩ người Thổ, chẳng còn đất nữa. Vả lại, Tử Khuê tràn đến quá nhanh.
Nếu nó về kiếm thuật thì tuyệt học “Lôi Đình” oai trấn võ lâm đứng đầu vũ nội. Nó còn lợi hại hơn cả “Thanh Long kiếm pháp” của Huyền Hư Phái. Năm xưa, Trung Thiên Tôn đả bại được Lôi Đình Đế Quân là nhờ Trác Ngạn Chi đã mất sức sau khi đấu với Nam – Bắc Thiên Tôn. Sau này, tuy đã bước qua cửa Kiếm Đạo song Trần lão vẫn luôn tán thưởng “Lôi Đình kiém pháp” và dặn dò Tử Khuê không được xem thường. Ngờ đâu chàng may mắn học được chính nó, trở thành kiếm thủ bậc nhất trong thiên hạ.
Chiêu “Ngọ môn trảm quái”cũng nằm trong số vốn thủ mạng của Trác Ngạn Chi. Lão không dạy cho bất cứ ai, cả Tiêu Lập Dân lẫn Nhạc Cuồng Loan. Nhưng Hoành Sơn Tiên Nữ trí nhớ tuyệt luân, chỉ lén đọc qua một lượt là chép lại không sai nửa chữ. Ngạc Chi hắt hủi Tiên Nữ vì Trác Thanh Châu là gái, bỏ đi chẳng ngờ rằng lại lỗ vốn to.
Giờ đây, “Đảo Nguyên Thần Kiếm” giáng những đòn sấm sét, chém đứt thanh gươm đầy thương tích và tiện đứt cánh tay của Bạch Điển Thư Sinh. Tử Khuê không có ý định giết lão, nhưng Tang Đông Dã đã bất ngờ lướt đến đâm thủng cổ họng Đinh Trọng Khế
Tài sản của dunghoitaisao127

Ðề tài đã khoá

Từ khóa được google tìm thấy
ach ho tinh quan, �������, �����������, ������, bac ho tinh quan, bacg ho tinh quan, bach hô tinh quan, bach hô tinh quân, bach hổ tinh quân, bach ho ta quan, bach ho tih quan, bach ho ting quan, bach ho tinh quan, bach ho tinh quan 4vn, bach ho tinh quan chm, bach ho tinh quan hoi 1, bach ho tinh quan hoi 2, bach ho tinh quan pdf, bach ho tinh quan prc, bach ho tinh quan-hoi 2a, bach ho tinh quan., bach ho tjh quan, bach hotinh quan, bachhôtinhquân, bachhotinhquan, bachhotinhquan hoi2, bachhotinhquan pdf, bachotinhquan 10, bạch hổ tinh quân, bạch hô tinh quân, bạch hổ tinh quân, bich ho tinh quan, ������, ���������, doc bach ho tinh quan, doctruyen bachhotinhquan, downl bachotinhquan, �����������, �����, ������, ����������, ho bach tinh quan, ��������, �����������, �����, ������, kiem hiep cua uu dam hoa, kiemhieptruyenuudamhoa, �������, ���������, �������, ��������, phim bach ho tien quan, phim bach ho tinh quan, truen bach ho tinh quan, truyen bach ho tinh quan, truyen uudamhoa, truyenbachhotinhquan, uu đàm hoa.chm, www.bach ho tinh quan, �������, ����������, ��������, �����


©2008 - 2014. Bản quyền thuộc về hệ thống vui chơi giải trí 4vn.eu™
Diễn đàn phát triển dựa trên sự đóng góp của tất cả các thành viên
Tất cả các bài viết tại 4vn.eu thuộc quyền sở hữu của người đăng bài
Vui lòng ghi rõ nguồn gốc khi các bạn sử dụng thông tin tại 4vn.eu™

Tự độngTELEXVNITắtChính tảKiểu cũ