Thông thường các tráng đinh Cô-dắc các trấn miền trên Quân khu sông Đông: Elanskaia, Vosenskaia, Migulinskaia và Cadanskaia đều được đưa về hai trung đoàn Cô-dắc dã chiến 11, 12 và trung đoàn ngự lâm Atamansky.
Nhưng năm 1914, không biết vì lý do gì một phần trong số các tráng đinh Cô-dắc người trấn Vosenskaia bị gọi vào lính hiện dịch lại được đưa vào trung đoàn Cô-dắc sông Đông số 3 mang tên Emark Timofeevich(1), trung đoàn nầy trước kia gồm những gã Cô-dắc khu Ust-Medvedisky. Trong số những người bị gọi đi Trung đoàn 3 có cả Mitka Korsunov.
Trung đoàn nầy đóng ở Vilnius(2), cùng với vài phân đội của Sư đoàn kỵ binh số 3. Đến tháng Sáu các đại đội đều thả ngựa ra ngoài thành phố cho ăn cỏ trên đồng.
Một ngày mùa hè ấm áp, u ám, mây trôi trên trời ụn lại từng chỗ, nom như những đàn gia súc, che cả mặt trời. Trung đoàn tiến theo đội hình hành quân. Quân nhạc cử vang trời. Các ngài sĩ quan cưỡi ngựa đi túm tụm một đám với những chiếc mũ cát-két mùa hè màu ka-ki, những chiếc áo quân phục mỏng nhẹ, khói thuốc toả xanh xanh trên đầu.
Hai bên đường làng, những người đàn ông mu-gích và những người đàn bà quần lành áo tốt đang cắt cỏ. Họ đưa tay lên che mắt nhìn các đoàn quân Cô-dắc.
Ngựa đổ mồ hôi đã khá nhiều. Mồ hôi sủi từng đám vàng vàng dưới háng ngựa. Gió đông nam hiu hiu thổi không làm cho ngựa ráo mồ hôi mà càng làm không khí trở nên ngột ngạt, đầy hơi nước.
Đến giữa chặng đường hành quân, khi chỉ còn cách một cái làng nhỏ không xa, bỗng có một con ngựa non xén bờm tự nhiên chạy lẫn vào đại đội năm. Nó đang phi như bay từ một dãy hàng rào ra, thì trông thấy đàn ngựa đông như thế, bèn hí dài một tiếng, phóng ngang qua, cái đuôi vắt hẳn sang một bên vẫn còn giữ những sợi lông tơ bù xù của thời thơ ấu. Bụi xám bay mù lên dưới bốn cái móng nhỏ gọn như vỏ sò rồi lại rơi lả tả xuống lớp cỏ xanh đã bị dẫm nát. Nó chạy lên tới trung đội đi đầu rồi tinh nghịch húc mõm vào bẹn con ngựa của lão quản. Con ngựa của lão quản đã hất mông lên nhưng không nỡ đá: có lẽ nó cũng thương.
- Xéo ngay, đồ ngu xuẩn! - Lão quản vung roi quát.
Binh lính Cô-dắc phá lên cười, họ cảm thấy thích thú trước cái vẻ đáng yêu của con ngựa non gợi lại cho họ những cảnh ở nhà. Đến lúc ấy thì xảy ra một chuyện chẳng ai lường trước: con ngựa non láo xược len vào giữa các hàng của trung đội, thế là trung đội bị tách ra, mất hẳn đội hình chỉnh tề, chặt chẽ lúc nãy. Những con ngựa bị thúc đi cứ trù trừ giậm chân loạn lên. Con ngựa non bị những con ngựa khác len chặt bèn quay ngang và tìm cách cắn con ngựa gần nó nhất.
Viên đại đội trưởng phi ngựa như bay tới:
- Có chuyện gì thế nầy?
Ở chỗ con ngựa xén bờm lỗ mãng xông bừa vào, có mấy con ngựa quay ngang hí rầm lên. Bọn Cô-dắc vừa cười vừa lấy roi quất con ngựa non. Trung đội không còn hàng ngũ gì nữa, láo nháo dồn cả lại một chỗ. Các trung đội phía sau thì thúc lên. Viên sĩ quan chỉ huy trung đội từ dưới đuôi đại đội phi lên theo lề đường, mặt giận bừng bừng.
- Có gì thế hử? - Viên đại đội trưởng gầm lên rồi cho ngựa xông vào giữa đám đông.
- Có con ngựa con kia…
- Nó xông ngay vào giữa đánh chúng tôi…
- Cái con quỷ con nầy, không làm thế nào đuổi đi được!
- Thì cho nó vài roi? Thương cái gì?
Bọn Cô-dắc mỉm cười ra vẻ nhận lỗi. Họ kéo chặt dây cương giữ những con ngựa đang tức bực.
- Chánh quản đâu? Ngài trung uý, trò của nợ gì thế nầy hả? Ngài chỉnh đốn ngay hàng ngũ trung đội của ngài đi, thật chưa từng thấy thế nầy bao giờ?
Viên đại đội trưởng cho ngựa chạy sang bên. Con ngựa của hắn lùi lại, tụt hai chân sau xuống một cái rãnh bên đường. Hắn thúc cho nó một cái đinh gót ủng, con ngựa nhảy sang bên kia rãnh, lên cái ụ mọc đầy tân lê và cúc vàng. Một nhóm sĩ quan đứng lại đằng xa.
Một viên trung tá ngửa đầu uống nước trong bi-đông, một tay đặt lên mũi yên bọc sắt rất đẹp, với cái vẻ âu yếm của một người cha đặt tay lên đầu con.
Lão quản cho trung đội tản ra, rồi vừa văng tục vừa đuổi con ngựa non ra khỏi mặt đường. Trung đội lại tập hợp. Một trăm rưởi cặp mắt cùng nhìn lão quản dướn thẳng người trên bàn đạp, phi ngựa đuổi theo con ngựa non. Nhưng con ngựa non kia lúc thì đứng lại dựa cái sườn bẩn thỉu đầy phân khô vào con ngựa ba véc-sốc của lão quản, lúc lại ngoặt đuôi phi vụt lên. Lão quản đã tìm đủ mọi cách mà không tài nào quất nổi cái roi vào lưng nó, lần nào cũng chỉ trúng cái đuôi xòe ra như cái chổi. Cái đuôi bị đánh rơi thõng xuống, nhưng chỉ một giây sau lại ngang ngạnh vung vẩy trước gió.
Toàn đại đội phá lên cười. Bọn sĩ quan cũng cười. Ngay đến bộ mặt sầm sầm *** trâu của viên đại uý cũng có một cái nhếch mép tương tự như nét cười.
Đi trong hàng thứ ba của trung đội đầu tiên có Mitka Korsunov cùng với Mikhail Ivankov, một gã Cô-dắc ở thôn Kargin trấn Vosenskaia, Kotma Kriuchkov ở Ust-Khop. Gã Ivankov mặt to, vai rộng, cứ lầm lì chẳng nói chẳng rằng. Còn Kriuchkov, biệt hiệu là "Lạc đà" là một gã hơi rỗ hoa, lưng gù gù, luôn kiếm chuyện với Mitka. Kriuchkov là gã Cô-dắc "cũ", tức là đã ở lính hết năm cuối cùng của thời hạn đi lính, và theo một thứ luật không ghi trên giấy trắng mực đen được áp dụng trong trung đoàn, cũng như tất cả các tên Cô-dắc "cũ" khác, gã có quyền đốc thúc, bắt ne bắt nét những thằng Cô-dắc ít tuổi, hơi có chút không vừa ý là có thể rút dây lưng đánh được. Đã qui định như sau: một gã Cô-dắc khoá 1913 có lỗi thì bị đánh mười ba roi, nếu là khoá 1914 thì mười bốn roi. Bọn quản và bọn sĩ quan rất khuyến khích thứ quy củ nầy vì chúng cho rằng làm như thế thì nhồi nhét được cho binh lính ý thức phục tùng người trên, không những theo cấp bậc mà còn theo tuổi.
Mới gần đây Kriuchkov được gắn lon binh nhất. Gã gù lưrg ngồi trên yên, hai vai xuôi thõng, so lại như con chim. Gã nheo mat nhìn một đám mây xám ưỡn căng bộ ngực mênh mông, rồi bắt chước giọng vién đại đội trưởng đại uý Popop vai u thịt bắp, hỏi Mitka:
- Nè, Korsunov, mi bảo tao hay, đại đội trưởng đại đội ta tên là gì hử?
Mitka đã nhiều lần được nếm mùi doi ra vì cái tính ngang ngạnh đầu bò đầu bướu của nó, vì thế lần nầy nó cố làm vẻ mặt cung kính phục tùng.
- Là đại uý Popop, thưa thầy Cô-dắc "cũ"?
- Sao?
- Là đại uý Popop, thưa thầy Cô-dắc cũ!
- Tao có hỏi thế đâu. Mày bảo tao hay anh em Cô-dắc chúng ta nói riêng với nhau gọi là gì cơ.
Ivankov hoác cái miệng sứt môi ra cười rồi nháy mắt ra hiệu cho Mitka, vẻ sợ hãi. Mitka đưa mắt nhìn thì thấy chính viên đại uý Popop đang từ phía sau đi tới.
- Thế nào? Trả lời đi!
- Thưa thầy Cô-dắc cũ, anh em gọi là đại uý Popop ạ.
- Mười bốn roi. Có nói ngay không, đồ mạt kiếp!
- Thưa thầy Cô-dắc cũ, tôi không biết ạ.
- Được rồi, về đến chỗ thả ngựa, - Kriuchkov nói giọng không còn có vẻ đùa nữa, - tao sẽ cho mày ăn roi da! Đã hỏi thì phải trả lời.
- Tôi không biết mà.
- Sao vậy, thằng nhóc con chết tiệt nầy, mày không biết anh em gọi giễu lão là gì à?
Mitka nghe thấy sau lưng có tiếng con ngựa của viên đại uý rón rén bước tới như một thằng ăn cắp, bèn ngậm tăm.
- Thế nào hử? - Kriuchkov hung hãn nheo mắt.
Những hàng phía sau cố nén tiếng cười. Kriuchkov không hiểu người ta cười cái gì, nên cứ tưởng họ cười mình, bèn nổi xung.
- Thằng Korsunov, mày liệu cái thần hồn! Về đến nơi tao sẽ nện cho mày năm mươi roi.
Mitka nhún vai đánh liều.
- Nhọ đuôi!
- Đúng rồi, có thế chứ.
- Khriuchkov! - Sau lưng có tiếng gọi.
Thầy Cô-dắc cựa binh run bắn trên yên, cố rướn thẳng người.
- Mày, thằng khốn nạn nầy, mày giở trò bậy bạ gì ở đây thế hử? - Viên đại uý Popop vừa nói vừa cho ngựa lên ngang con ngựa của Kriuchkov. - Tại sao mày lại dạy thằng Cô-dắc nhóc con nầy như thế hả?
Kriuchkov hấp háy hai con mắt nheo lại, má gã đỏ tím như quả bồ quân. Bọn lính phía sau phá lên cười.
- Năm ngoái tao đã cho đứa nào một bài học rồi hử? Cái móng tay nầy đã xọc rách mõm thằng nào mày còn nhớ không hử? - Viên đại uý giơ cái móng tay út vừa dài vừa nhọn ra trước mũi Khriuchkov, ria hắn rung rung. - Đừng để lần sau tao nghe thấy như thế nữa! Hiểu không?
- Thưa vâng, bẩm quan lớn hiểu rồi ạ!
Viên đại uý cho con ngựa của hắn chạy chậm lại rồi rẽ sang bên đường giữ ngựa, chờ đại đội tiến qua. Đại đội bốn và đại đội năm đã chuyển sang nước kiệu.
- Đại đội nước kiệu… tiến!
Kriuchkov cầm lại dây cương, ngoái nhìn viên đại đội trưởng lúc nầy đã ở tụt lại phía sau. Gã kéo lại ngọn giáo cho ngay ngắn rồi lắc lắc đầu bực bội.
- Thế đấy cái lão Nhọ đuôi nầy? Không biết tự nhiên ở đâu mò tới thế?
Mồ hôi còn đầm đìa sau mẻ cười, Ivankov kể lại:
- Lão đã đi mãi sau lưng bọn mình mà lại. Nói những gì lão đều nghe thấy hết. Hoặc có lẽ lão đã đánh hơi thấy mình nói chuyện gì.
- Đồ ngu xuẩn, sao mày không nháy mắt ra hiệu cho tao biết?
- Nhưng chuyện can gì đến tôi.
- Không can gì à? Thế thì được, lột quần mười bốn roi!
***
Các đại đội đóng quân tại các trang trại của bọn địa chủ trong vùng. Ban ngày binh lính cắt cỏ chua me và các thứ cỏ khác trên bãi cho địa chủ, đêm đến lại buộc hai chân sau những con ngựa, thả cho ăn cỏ những nơi đã chỉ định rồi túm tụm đánh bài, kể chuyện cho nhau nghe hay giở những trò tinh nghịch quanh những đống củi khói bốc nghi ngút.
Đại đội sáu đã biến thành cố nông cho tên đại địa chủ Ba Lan Snaider. Bọn sĩ quan ở một chái nhà, chúng hết chơi bài, bí tỉ chai bố chai con lại bám lấy đứa con gái lão quản lý như một đàn nhặng.
Binh sĩ Cô-dắc đóng trại ở một nơi cách trang trại ba vec-xta. Sáng sáng "pan"(3) quản lý cưỡi một chiếc xe đua đến chỗ họ ở. Lão quý tộc lớp dưới béo phệ và bệ vệ ấy đứng dậy trên xe, duỗi duỗi cho cặp giò toàn mỡ bớt tê dại và không bao giờ quên vẫy cái mũ cát-két trắng lưỡi trai véc-ni chào "anh em Cua-dắc". Trong hàng lính Cô-dắc mặc áo sơ-mi trắng có những tiếng gọi ơi ới:
- Xuống cắt cỏ với chúng tôi cái, "pan"!
- Xuống làm một lát cho tiêu bớt lớp mỡ đi chứ!
- Cầm lấy cái hái mà đi vài hàng, kẻo bán thân bất toại mất!
"Pan" mỉm cười khá điềm tĩnh, rút chiếc mùi xoa đưa ra lau vừng trán hói rất dốc rồi đưa lão quản đi nhận những khoảng cỏ mới cho anh em cắt.
Xe nhà bếp đến lúc giữa trưa. Binh lính Cô-dắc lau rửa rồi đi ăn. Trong bữa ăn anh chàng nào cũng câm như hến, nhưng đến nửa giờ nghỉ sau bữa trưa, chuyện mới nở như pháo ran.
- Cỏ vùng nầy thật là thổ tả. Bì~ sao được với cỏ đồng ta.
- Hầu như chẳng thấy sợi nga quan nào.
- Ở vùng sông Đông, bà con ta bây giờ cắt cỏ xong rồi đấy.
- Cả chúng mình cũng cắt sắp xong rồi. Hôm qua là ngày đầu tuần trăng, sắp mưa đấy.
- Lão Ba Lan nầy thật vắt cổ chày ra nước. Anh em vất vả thế nầy mà chẳng cho được chai rượu.
- Ồ hô-hô? Rượu lão còn cất trên bàn thờ…
- Nầy, các cậu ạ, thế nầy là nghĩa lý làm sao nhỉ: càng giàu có càng keo kiệt?
- Chuyện nầy thì cậu lên tìm hoàng đế mà hỏi.
- Còn ả con gái lão địa chủ, đã có cậu nào trông thấy chưa?
- Thế sao?
- Một con bé đờ đẫn những thịt là thịt!
- Lợn sữa(4) à?
- Đúng đấy đúng đấy.
- Món ấy thì có thể để nguyên xơi tái…
- Không biết có đúng hay không, nhưng nghe nói họ hàng nhà vua đã có người đánh mối rồi đấy.
- Miếng ngon như thế thì đâu đến miệng dân ngu cu đen?
- Nầy các cậu ạ, có tin đồn hình như bộ tư lệnh tối cao sắp tới kiểm tra chúng ta thì phải.
- Con mèo vô công rồi nghề, thành thử…
- Thôi bỏ cái chuyện ấy đi, Tarat.
- Cho anh em một khói được không?
- Đồ dị chủng, đồ quỷ đói, muốn dài tay ra ăn xin thì đến nhà thờ!
- Nầy, các thầy quyền lại đây mà xem, Fedorna nó rít có ghê không, chẳng còn chút gì cả.
- Còn tàn đấy thôi.
- Trông kìa, người anh em, lửa chỗ kia cứ như trong một ả đa tình ấy.
Mọi người nằm sấp hút thuốc. Những cái lưng trần phơi nắng đỏ ửng lên. Ở một chỗ khác, chừng năm gã Cô-dắc cựu binh tra hỏi một tên lính mới:
- Cậu ở trấn nào thế?
- Trấn Elanskaia.
- Như thế là cậu thuộc loài dê(5) à?
- Đúng thế.
- Thế ở vùng các cậu người ta chở muối bằng gì hả?
Ngay gần đấy Kriuchkov Kotma đang nằm trên tấm áo ngựa, vẻ mặt chán ngán, mấy ngón tay vê vê những sợi ria lơ thơ.
- Bằng ngựa.
- Còn bằng gì nữa?
- Bằng bò.
- Còn cá dầy ở Krym thì chở đến bằng gì? Cậu có biết không, cái giống bò có cái gì gồ gồ trên lưng nhai cả gai ấy mà, người ta gọi là gì nhỉ?
- Là lạc đà.
- Ô hô-hô-ha-ha!
Kriuchkov lừng khừng đứng dậy bước tới trước mặt kẻ vừa phạm tội lưng gã gù gù hệt như lưng lạc đà. Gã vươn cái cổ nâu nâu vàng vàng, chỗ lộ hầu to tướng, vừa đi vừa tháo dây lưng.
- Nằm xuống.
Tối tối, khi bóng đêm tháng sáu bềnh bệch như mắt đá mèo toả xuống cánh đồng, bên đống lửa lại có tiếng hát:
Viễn chinh đồng đất nước người,
Con ngựa huyền dưa chàng trai Cô-dắc,
Vĩnh biệt quê hương, ruổi rong vạn dặm xa…
Giọng nam cao sang sảng như tiếng bạc thít đi, nhường cho những giọng trầm trải rộng tấm thảm nhung của nỗi buồn u uất:
Nơi cắt rốn chôn rau, chẳng bao giờ chàng trở lại.
Giọng nam cao lại vút lên mãi, mỗi lúc một trong:
Người vợ trẻ hướng về phương bắc,
Sớm ngóng trông, chiều lại ngóng trông,
Đợi đợi mãi, mong có ngày sẽ thấy,
Ngựa chiến trả về chàng Cô-dắc bạn lòng.
Rồi không biết bao nhiêu giọng cùng hoà theo. Vì vậy bài hát nghe đặc quánh và ngây ngất như thứ rượu bia vùng Polesia:
Bên kia núi, nơi mịt mùng bão tuyết,
Nơi đại hàn, tiếng băng nổ rền vang,
Nơi rừng thông ngả nghiêng trong gió,
Dưới lớp tuyết kia, chàng Cô-dắc gửi nắm xương tàn.
Những giọng hát kể lể câu chuyện mộc mạc về một cuộc đời Cô-dắc. Bè nam cao phụ rung lên như tiếng chim sơn ca tháng tư, khi mặt đất đã tan tuyết:
Lúc hấp hối, chàng xin các bạn.
Đắp cho mình nấm kurgan to.
Kèm theo là những giọng trầm u uất:
Trên mộ ấy, hoa tuyết cầu yêu dấu
Sẽ nở xum xuê, muôn sắc huy hoàng.
Bên một đống lửa khác, một đám người ít hơn hát một bài khác hẳn:
Biển Azop ầm ầm cuộn sóng,
Đoàn chiến thuyền tiến ngược sông Đông
Chàng ataman trẻ trai
Về với nhà cửa ruộng đồng.
Cách đó hơi xa, một gã bẻm mép trong đại đội ngồi bên đống lửa thứ ba kể một câu chuyện diễn biến rất éo le. Khói bốc nghi ngút làm hắn húng hắng ho. Mọi người nín thở lắng nghe từ đầu đến cuối.
Năm thì mười hoạ, chỉ những lúc người anh hùng trong chuyện vượt được một cách tài tình những cạm bẫy do bọn Môtxcan(6) cùng với tà ma bày ra, thì qua ánh lửa mới loáng thấy bàn tay của một anh chàng nào đó vỗ đen đét vào ủng, rồi một giọng khản đặc vì khói kêu lên ra vẻ rất thống khoái:
- Ái chà chà, quả là tài tình, chúa thật!
Rồi chỉ còn cái giọng thao thao bất tuyệt, trơn leo lẻo của anh chàng kể chuyện.
Trung đoàn chuyển ra đóng quân trên đồng cỏ được một tuần thì viên đại uý Popop cho gọi gã đóng móng ngựa của đại đội và lão quản đến gặp hắn:
- Con ngựa thế nào rồi? - Hắn hỏi lão quản.
- Bẩm quan lớn khá lắm, rất béo khỏe nữa là khác. Các chỗ gầy hõm trên lưng đã đầy lên cả rồi. Nó đã lại sung sức.
Viên đại uý vê vê hàng ria đen, vuốt nhọn ra như mũi tên (chính vì thế anh em mới đặt cho hắn cái biệt hiệu Nhọ đuôi), rồi nói:
- Quan trung đoàn trưởng vừa ra lệnh mạ thiếc lại tất cả các bàn đạp và hàm thiếc. Bộ tư lệnh tối cao sẽ xuống kiểm tra trung đoàn. Phải làm thế nào cho bất kỳ cái gì cũng sáng bóng: yên cương cũng như tất cả các thứ khác. Phải làm thế nào cho tất cả những thằng Cô-dắc đều có vẻ đáng yêu, ưa nhìn. Thế nào, người anh em, bao giờ thì mọi việc sẽ làm xong?
Lão quản đưa mắt cho gã đóng móng ngựa. Gã đóng móng ngựa đưa mắt cho lão quản rồi cả hai cùng nhìn viên đại uý.
Lão quản nói:
- Bẩm quan lớn, đại khái đến chủ nhật được không ạ? - Rồi lão đưa mấy ngón tay lên vuốt hàng ria mốc xanh vì khói thuốc để tỏ vẻ cung kính.
- Với tôi thì cẩn thận đấy? - Viên đại uý doạ trước.
Đến đây thì lão quản và gã đóng móng ngựa ra ngoài.
Từ hôm ấy, mọi người bắt đầu làm các công việc chuẩn bị cho bộ tư lệnh tối cao tới kiểm tra. Ivankov Mikhail là con một người đóng móng ngựa và chính hắn cũng biết nghề nầy, vì thế hắn đã giúp gã đóng móng ngựa tráng thiếc lại tất cả các bàn đạp và hàm thiếc. Tất cả các binh sĩ khác tắm chải cho ngựa đến sạch quá tiêu chuẩn. Họ dùng gạch vụn đánh bóng tất cả các dây xích và các bộ phận bằng kim khí trên đồ thắng.
Một tuần sau trung đoàn đã bóng lộn như một đồng hai mươi kopeik mới toanh. Từ móng ngựa tới mặt mũi binh sĩ Cô-dắc, mọi thứ đều sáng như gương. Đến hôm thứ bảy, viên trung đoàn trưởng đại tá Grekov xuống kiểm tra trung đoàn, đã ngợi khen các ngài sĩ quan cùng anh em Cô-dắc siêng năng mẫn cán làm các công việc chuẩn bị và có được một vẻ hùng dũng như thế.
Những ngày tháng bảy tuôn dần ra như cuộn sợi xanh da trời. Được ăn uống no đủ, đàn ngựa Cô-dắc mỗi ngày một béo phây ra, chỉ có binh lính Cô-dắc là nhốn nháo cuống cuồng, trong lòng như thiêu như đốt vì những ý đoán mò: về chuyện bộ tư lệnh tối cao xuống kiểm tra chẳng có phong thanh gì… Những buổi chuyện trò bàn tán quẩn quanh, những cuộc cưỡi ngựa và tập luyện, thế là hết một tuần. Chợt đùng một cái có lệnh đi Vilnius.
Trời gần tối thì tới Vilnius. Các đại đội lại nhận được mệnh lệnh thứ hai: chuyển ngay những cái hòm đựng các đồ riêng của binh lính Cô-dắc lên các xe quân nhu để có thể lại xuất phát.
- Bẩm quan lớn, có chuyện gì thế? - Bọn Cô-dắc bức bội, cố hỏi các sĩ quan chỉ huy trung đội xem tình hình đích xác thế nào.
Bọn sĩ quan chỉ nhún vai. Chính họ cũng đang muốn biết tình hình, dù phải trả tiền.
- Tôi không biết.
- Sắp tới có những buổi diễn tập cho hoàng thượng duyệt hay không?
- Tạm thời chưa rõ. - Những câu trả lời của bọn sĩ quan cũng làm cho binh lính Cô-dắc vui vui.
Chiều mười chín tháng bảy gã liên lạc của viên trung đoàn trưởng rỉ tai thằng bạn gã là Mrykhin ở đại đội sáu, đang trực nhật trong tàu ngựa:
- Chiến tranh rồi, anh em ạ!
- Chỉ nói bậy!
- Lạy Chúa tôi, thật đấy. Nhưng cậu chớ có hở với ai đấy nhé?
Sáng hôm sau trung đoàn tập hợp trong đội hình sư đoàn. Các khung cửa sổ của doanh trại nhấp nhoáng một thứ ánh sáng ảm đạm trên những miếng kính đầy bụi. Toàn trung đoàn ngồi trên lưng ngựa chờ trung đoàn trưởng.
Đại uý Popop cưỡi con ngựa chân rất dài đứng trước đại đội sáu, tay trái đeo găng trắng kéo dây cương. Con ngựa cúi cong cái cổ như hình bánh xe, ngoẹo đầu cọ mõm vào mấy bắp thịt trước ức.
Viên đại tá từ góc ngôi nhà của doanh trại tiến ra, cho ngựa đứng nghiêng trước hàng quân. Viên phó quan rút khăn tay, ngón tay út được chăm sóc cẩn thận tách ra nom rất điệu, nhưng hắn chưa kịp xỉ mũi thì viên đại tá đã phá tan bầu không khí chết lặng căng thẳng.
"Đúng rồi" - Ai cũng nghĩ bụng như thế. Mọi người đều hồi hộp, tinh thần căng thẳng như lò xo. Con ngựa của Mitka Korsunov giậm hết chân nọ đến chân kia. Nó tức mình thúc luôn cho con ngựa một cái gót ủng. Bên cạnh nó là Ivankov. Thằng cha ngồi chĩnh chện trên yên, há hốc miệng ra nghe, cái môi sứt để lộ hàm răng khấp khểnh đen sì. Kriuchkov ở sau lưng hắn, lưng gù gù, mặt nhăn như bị. Xa chút nữa là gã Lapin với hai cái tai như tai ngựa. Sau lưng hắn có thể nhìn thấy bộ mặt cạo nhẵn nhịu và chỗ lộ hàu nổi đầy gân của Segonkov.
- Nước Đức đã tuyên chiến với chúng ta.
Tiếng loạt soạt lan khắp hàng quân tập hợp chỉnh tề, cứ như có làn gió ào ào thổi tới làm gợn sóng cả một cánh đồng đại mạch cuộng đen đã chín đại trà. Một tiếng ngựa hí dài xuyên vào tai mọi người nghe như rnột tiếng rú. Ai nấy há hốc những cái miệng vuông vuông đen ngòm, giương mắt nhìn về phía đại đội một, ở cánh trái, nơi có con ngựa cất tiếng hí.
Viên đại tá còn nói thêm nhiều nữa. Hắn đã sắp đặt các từ ngữ câu cú theo một thứ tự cần thiết, hòng làm cho lòng tự hào dân tộc bùng cháy trong mọi người, nhưng hàng ngàn binh lính Cô-dắc đâu có nhìn thấy trước mặt họ những lá cờ lụa của quân địch loạt soạt ngã xuống dưới chân mình, mà chỉ thấy những cái gì có quan hệ xương máu với mình trong cuộc sống hàng ngày đang hiện lên rõ mồn một, đang kêu gọi inh tai nhức óc: vợ con, người yêu, lúa má chưa gặt, thôn xóm quạnh hiu, cửa nhà…
"Hai giờ nữa trung đoàn sẽ lên đoàn tàu quân sự". Đó là lời duy nhất lọt vào trí nhớ mọi người.
Những người vợ sĩ quan đứng túm tụm cách đó không xa lấy khăn tay che mặt khóc. Binh lính Cô-dắc kéo nhau đi từng đám về doanh trại. Viên trung uý Khorov gần như bế bổng vợ hắn, một người đàn bà Ba Lan, đang có mang.
Trung đoàn ra ga, vừa đi vừa hát. Quân nhạc lúc đầu thổi inh tai, nhưng đến giữa đường lại ngượng ngùng câm bặt. Các bà vợ sĩ quan đi theo bằng xe ngựa. Những đám người quần áo sặc sỡ đứng nháo nhác trên hè đường. Vó ngựa hất tung cát bụi. Gã quản ca của đơn vị như nhạo nỗi đau khổ của mình và của người khác, cứ nhún nhún vai trái, làm nhô cái lon vai màu lam rúm ró, cất giọng hát nhữngười lăng nhăng của một bài hát Cô-dắc thô tục:
Nầy cô nàng hơ hớ, anh mới vừa được con cá măng…
Đại đội cố hát lẫn lộn phần lời của bài hát, đệm theo chỉ có tiếng những vó ngựa mới đóng móng. Họ mang theo ra ga, những toa xe đó từ nay trở thành nhà ở cả, một sự thiếu thốn của mình thể hiện trong bài hát:
Con cá măng, con cá măng, con cá măng anh vớ được,
Quẳng vào nồi anh luộc, anh nấu cháo cá măng.
Cháo cá măng, cháo cá măng, cháo cá măng, nầy cô nàng hơ hớ…
Viên phó quan của trung đoàn cho ngựa chạy từ dưới đuôi đại đội lên đám đang hát, mặt đỏ như gấc vì cười và vì ngượng. Gã quản ca vung tay, quẳng dây cương xuống, nháy mắt một cách rất mất dạy với đám đàn bà đứng xúm đông bên hè đường tiễn đơn vị Cô-dắc. Một thứ nước ngải cứu sắc đắng hắc, không còn là mồ hôi nữa, chảy ròng ròng từ hai bên má đen như đồng hun của gã xuống hàng ria đen.
Nầy cô nàng hơ hớ, anh tìm bà mối, anh mời sơi cháo cá măng…
Tìm ba mối, tìm bà mối, anh mời xơi cháo cá măng…
Trên đường ray, đầu máy xe lửa rúc còi một cách tỉnh táo, như báo trước cho người ta đề phòng rồi phì hơi chuyển bánh.
***
Những đoàn tàu chở quân… Những đoàn tàu chở quân… Những đoàn tàu chở quân… Đếm sao hết những đoàn tàu chở quân.
Trên khắp các mạch máu của đất nước, theo các đường xe lửa, nước Nga đang sôi sục đổ dồn về biên giới miền Tây những đợt máu đựng trong những chiếc áo ca-pôt màu xám.
Chú thích:
(1)Người anh hùng Cô-dắc xưa kia đã đi đánh người Tarta ở Sibiri và chết ở đấy (ND)
(2) Nay là thủ đô nước Lidva.(ND)
(3) Tiếng Ba Lan: quan lớn, địa chủ, ông. (ND)
(4) Nguyên văn thịt cừu" (ND)
(5) Dê là biệt hiệu của trấn Elanskaia
(6)"Moskan" là cái tên mà người Ukraina và người Bạch-Nga dùng để gọi một cách khinh bỉ cho đại biểu chính quyền cũng như dân chúng và binh lính Moskva (ND)
Trung đoàn chuyển tới một thị trấn nhỏ tên là Torzok thì phân ra từng đại đội. Theo lệnh sư đoàn bộ, đại đội sáu bị phái đến chịu quyền điều động của một quân đoàn bộ binh thuộc Tập đoàn quân số ba. Đại đội ấy hành quân tới thị trấn nhỏ Pelikalie thì đặt những vọng tiêu. Biên giới vẫn còn do các đơn vị biên phòng của quân ta bảo vệ.
Các đơn vị bộ binh và pháo binh cũng lục tục kéo đến. Ngày hai mươi tư tháng bảy, trước lúc trời tối, một tiểu đoàn của trung đoàn 108 Klobovsky cùng một đại đội pháo cũng tới thị trấn. Chín tên lính Cô-dắc do tên hạ sĩ của trung đội chỉ huy đến đặt vọng tiêu tại trang trại Alexandrovsky cách đấy không xa lắm.
Đêm hai mươi bảy, đại uý Popop cho gọi lão quản và gã Cô-dắc Stepan Astakhov tới.
Stepan về tới trung đội thì trời đã tối hẳn. Mitka vừa dắt con ngựa từ chỗ cho ngựa uống nước trở về.
- Cậu đấy à Stepan? - Mitka gọi.
- Mình đây. Thế Kriuchkov và anh em đang ở chỗ nào thế?
- Kia, trong nhà ấy.
Stepan nheo mắt như người thong manh bước vào trong nhà với cả một thân hình to lớn, hơi nặng nề, và bộ tóc rất sẫm. Segonkov ngồi ở cạnh bàn, dưới ánh cây đèn dầu, dùng chỉ vuốt nhựa để nối một đoạn dây cương đứt. Kriuchkov chắp tay sau lưng đứng bên bếp lò, gã nháy mắt ra hiệu cho Ivankov chỉ người đàn bà Ba Lan vợ của chủ nhà, mắc bệnh phù thũng nằm trên giường. Hai gã cười với nhau, một lát sau hai cái má hồng hồng của Ivankov vẫn còn giật giật.
- Các cậu ạ sáng mai trời vừa hửng đã phải ra vọng tiêu rồi đấy.
- Ở chỗ nào thế? - Ivankov hỏi, hắn mải nhìn đánh rơi mất những sợi lông chưa se thành sợi.
- Ở cái thị trấn nhỏ Liubov.
- Thế những ai sẽ đi? - Mitka bước vào, vừa đặt thùng nước bên cạnh ngưỡng cửa vừa hỏi.
- Cùng đi với mình có Segonkov, Kriuchkov, Rvachev, Popop và cả cậu nữa, Ivankov ạ.
- Còn mình, Stepan?
- Mitka ạ, cậu thì ở lại.
- Chẳng sao, mặc mẹ các cậu.
Kriuchkov rời khỏi chỗ bếp lò. Gã vặn lưng răng rắc rồi hỏi vợ chủ nhà:
- Từ đây đến Liubov bao nhiêu vec-xta?
- Bốn dặm.
- Thế thì cũng gần thôi, - Stepan vừa nói vừa ngồi xuống chiếc ghế dài, tháo ủng - Ở đây có chỗ nào hong bít tất không nhỉ?
Mọi người ra đi lúc trời hửng. Ở cái giếng chỗ ra khỏi thị trấn có cô gái chân đất buông gàu lấy nước. Kriuchkov cho ngựa dừng lại.
- Nầy cô em thân mến, cho tôi xin ngụm nước?
Cô gái dùng một tay giữ cái váy vải thô, cặp chân hồng hồng lõm bõm trong vũng nước, hai con mắt xám sau hàng mi dài thoáng có nét cười. Cô gái đưa gàu nước cho Kriuchkov. Cái gàu khá nặng.
Kriuchkov xách lên uống, tay run run, làm những giọt nước rơi xuống lộp bộp, chảy ngoằn ngoèo theo đường nẹp quần đỏ.
- Chúa cứu thế giúp, cám ơn cô em mắt xám!
- Ơn Chúa Giê-su.
Cô gái nhận lại cái gàu, rồi lùi lại, mỉm cười nhìn quanh.
- Cô em có gì mà cười thế, hay cô muốn theo anh thì theo – Kriuchkov lánh lánh người trên yên, làm ra vẻ sẵn sàng dành cho một chỗ.
- Đi đi thôi! - Stepan thúc ngựa quát to.
Rvachev liếc nhìn Kriuchkov, đầy vẻ chế nhạo:
- Mê nó rồi à?
- Chân con bé hồng hồng như chân bồ câu ấy.
Kriuchkov bật cười, làm mọi người đều quay lại nhìn theo như một khẩu lệnh.
Cô gái dạng cặp chân đầy đặn, bắp chân hồng hồng, rồi cúi xuống thành giếng, chổng mông hằn một đường chia đôi.
- Nếu lấy được làm vợ nhỉ? - Popop thở dài.
- Để mình bảo cái roi lấy vợ cùng một thể cho tất cả các cậu nào muốn lấy vợ, - Stepan nói.
- Sao lại bằng cái roi!
- Cậu động đực rồi à?
- Cũng phải đem ra dùng chứ!
- Chúng mình sẽ thắt chặt nó lại, như thắt cho con bò đực.
Tốp Cô-dắc cười rộ cho ngựa chạy nước kiệu. Lên đến cái gò gần đấy thì đã trông thấy thị trấn Liubov trải ra dưới khe trên một sườn dốc thoai thoải. Mặt trời đang nhô khỏi ngọn đồi sau lưng mọi người. Một con sơn ca là xuống đậu lên cái bình sứ trên cột dây thép trồng bên cạnh.
Stepan vừa học xong một lớp quân sự, vì thế anh ta được chỉ định phụ trách vọng tiêu. Anh ta chọn chỗ ở tạm cho anh em là ngôi nhà cuối cùng, dựng tách rời bên ngoài thị trấn, về phía biên giới.
Chủ nhà là một người Ba Lan khoèo chân, đội mũ dạ trắng, mày râu nhẵn nhụi. Người ấy đưa tốp lính Cô-dắc ra một gian nhà thóc, chỉ cho nơi buộc ngựa. Sau gian nhà thóc, bên ngoài một dãy hàng rào thưa có một khoảng cỏ chua me xanh rờn. Một dãy gò nhấp nhô kéo dài tới cánh rừng gần đấy, xa hơn nữa là những cánh đồng lúa trắng, có con đường chạy qua, rồi lại đến những khoảng cỏ chua me xanh bóng. Mọi người luân phiên mang ống nhòm ra gác ở cái chòi nhỏ sau nhà thóc. Còn bao nhiêu đều nằm nghỉ trong gian nhà thóc mát rượi. Trong đó nồng nặc mùi lúa nén chặt, mùi bụi trấu, mùi cửt chuột và mùi đất mốc meo thum thủm lờm lợm.
Ivankov dựa lưng vào cái gậy dựng trong một góc tối, đánh một giấc li bì đến chiều. Mãi đến lúc mặt trời lặn, anh em mới đánh thức hắn dậy.
Kriuchkov véo một túm da trên cổ hắn, vừ kéo vừa nói:
- Có Nhà nước nuôi, hốc cho đầy vào, béo như con trâu trương, các cậu thử xem nó nầy? Đồ chảy thây, có dậy đi không, ra mà canh bọn Đức!
- Đừng có giở trò khỉ, Kotma?
- Đứng dậy!
- Được rồi, bỏ tay ra! Thôi đừng đùa dai nữa… Mình dậy ngay đây.
Ivankov đứng dậy, mặt sị ra, đỏ dừ. Hắn lắc lắc cái đầu to như cái nồi đặt vững chãi trên cái cổ ngắn cũn, giữa hai cái vai rất rộng. Hắn nằm ở chỗ đất ẩm, bị cảm lạnh, nên sụt sịt buộc lại băng đựng đạn cheo chéo trước ngực, ròi kéo lệl sệt khẩu súng trường ra cửa. Hắn thay gác cho Segonkov rồi điều chỉnh lại cự ly ống nhòm và nhìn rất lâu về phía tây bắc, phía cánh rừng. Đằng ấy, những cánh đồng lúa trắng trắng nhấp nhô dưới làn gió. Ráng chiều đỏ rực mỗi lúc một xuống thấp trên mũi đất màu xanh lá cây của khu rừng liễu đỏ. Bên ngoài thị trấn có con sông nhỏ lượn cong thành hình vòng cung màu xanh da trời rất đẹp. Bầy trẻ tắm bên sông hò la inh ỏi. Một giọng đàn bà trầm trầm gọi ơi ới:
"Staxiu! Sta-a-axiu! Về đây tao bảo!"
Segonkov cuốn một điếu thuốc, châm hút rồi vừa bỏ đi vừa nói:
- Ráng chiều đỏ thế kia. Trời sắp nổi gió đến nơi rồi.
- Sắp nổi gió đấy. - Ivankov đồng ý.
Đến đêm, những con ngựa được tháo yên. Trong thị trấn tắt hết đèn đóm, mọi tiếng động đều lắng xuống. Sáng hôm sau, Kriuchkov gọi Ivankov trong nhà ra:
- Ta ra thị trấn cái đi.
- Ra làm gì?
- Kiếm cái gì nhậu nhẹt một chầu.
- Khó mà có đấy. - Ivankov có vẻ nghi ngờ.
- Mình bảo cho cậu biết. Mình đã hỏi lão chủ nhà rồi. Chỗ cái nhà đằng kia kìa, cậu có trông thấy căn nhà nhỏ lợp ngói kia không? - Kriuchkov giơ một ngón tay đen thui, móng rất dài chỉ cho Ivankov - Cái quán chỗ ấy có bia đấy. Đi nhá?
Hai gã ra đi. Stepan đứng ở cửa gian nhà thóc nhìn ra gọi:
- Hai cậu đi đâu đấy?
Kriuchkov cao cấp hơn Stepan nên chỉ trả lời qua quít.
- Chúng mình đi cái về ngay.
- Quàng lên rồi về, hai cậu nhé?
- Đừng chửi rầm lên đấy!
Một lão Do Thái tóc mượt, mí mắt lật ngược, gập người xuống chào hai gã Cô-dắc.
- Có bia không?
- Thưa ngài Cô-dắc, không còn đâu ạ.
- Chúng tôi sẽ trả tiền.
- Giêsu-Maria, chẳng nhẽ tôi… Chà, thưa ngài Cô-dắc, ngài hãy tin lời lão Do Thái thật thà chất phác nầy, không có bia đâu!
- Quân Do Thái, chỉ nói láo!
- Thưa "pan" Cô-dắc, thật thế đấy! Lão đã nói thế rồi mà.
- Nầy đây… - Kriuchkov bực tức ngắt lời ông lão, thọc tay vào túi quần móc ra cái túi đựng liền đã sờn - Lão mang ngay ra cho chúng tôi không tôi chửi cho bây giờ!
Lão già Do Thái lấy ngón tay út ấn đồng tiền vào trong lòng bàn tay, rồi hạ hai hàng mi lật ngược, đi vào nhà trong.
Một phút sau, lão mang ra một chai vodka ướt đẫm, vỏ chai dính đầy trấu đại mạch.
- Thế mà bảo là không có. Chà, lão già nầy?
- Lão đã bảo là không có bia mà lại.
- Lấy ra cái gì cho chúng tôi nhắm chứ.
Kriuchkov mở nút chai đánh phựt, rồi rót đầy đến miệng một cái cốc cóc gặm.
Hai gã ra về thì đã ngà ngà say. Kriuchkov nhảy cỡn lên giơ nắm tay doạ mấy khung cửa sồ mở toang như những con mắt thao láo đen ngòm.
Stepan nằm ngáp dài trong gian nhà thóc. Bên kia tường mấy con ngựa nhai rơm ngau ngáu. Đến tối thì Popop mang báo cáo đi. Một ngày trôi qua trong cảnh vô công rồi nghề.
Tối. Rồi đêm. Một vừng trăng vàng ệch treo lơ lửng bên trên thị trấn. Chốc chốc trong mảnh vườn sau nhà lại có quả táo chín nẫu rơi đánh bộp, tiếng rơi nghe ươn ướt. Đến khoảng nửa đêm Ivankov nghe có tiếng vó ngựa rầm rập trên dãy phố trong thị trấn. Gã bò dưới cái ngòi lên cố nhìn, nhưng trăng đã bị mây che kín, nên không thể nhìn thấy gì sau tấm màn xám mịt mù.
Gã bèn vào trong nhà lay Kriuchkov ngủ ở cửa.
- Kotma có một toán cưỡi ngựa đang đi tới? Dậy đi!
- Từ đâu đến?
- Đang qua thị trấn.
Hai gã bước ra ngoài. Trên đường phố có tiếng vó ngựa đập lộp cộp rành rọt, chỉ còn cách chừng năm chục xa-gien.
Ta chạy vào trong vườn đi. Ở đấy nghe rõ hơn.
Hai gã chạy tế vòng qua nhà, vào mảnh vườn nhỏ, nằm xuống dưới chân hàng rào. Tiếng người nói rì rầm. Tiếng bàn đạp lạch cạch. Tiếng yên ọt ẹt. Mỗi lúc một gần. Đã lờ mờ nhận ra hình những người cưỡi ngựa.
Họ đi mỗi hàng bốn người.
- Ai?
- Anh cần hỏi ai? - Trong mấy hàng đầu có một giọng nam cao hỏi lại.
- Ai? Trả lời không tôi bắn! - Kriuchkov kéo quy lát lách cách.
- Tô...ôi - Một người cho ngựa dừng lại rồi đến bên hàng rào - Chi đội biên phòng đây - Vọng tiêu à?
- Phải, vọng tiêu.
- Trung đoàn nào thế?
- Trung đoàn Cô-dắc số ba.
- Mày nói gì với ai ở chỗ ấy thế? - trong bóng tối có tiếng hỏi.
Người tới bên hàng rào trả lời:
- Bẩm quan lớn, một vọng tiêu Cô-dắc.
Lại một người nữa tới bên hàng rào.
Chào anh em Cô-dắc.
- Chào ngài - Ivankov không trả lời ngay.
- Anh em đến đây lâu chưa?
- Tối hôm qua.
Người đến sau đánh diêm châm thuốc. Kriuchkov nhận ra một viên sĩ quan mặc quân phục biên phòng.
- Trung đoàn biên phòng chúng tôi đã rút khỏi biên giới rồi. - Viên sĩ quan vừa nói vừa thở ra một hơi thuốc.
- Anh em phải nhớ rằng bây giờ anh em giáp mặt với chúng nó rồi đấy. Có lẽ ngày mai quân địch sẽ tiến tới đây.
- Thưa quan lớn, quan lớn đi đâu bây giờ? - Kriuchkov hỏi, ngón tay vẫn không rời cò súng.
- Chúng tôi phải tập trung với đại đội kỵ binh của chúng tôi ở một nơi cách đây hai vec-xta. Thôi đi đi! Các cậu! Chúc anh em Cô-dắc mọi điều may mắn!
- Chúc ngài đi đường bình an!
Gió đã vén màn mây, trăng đã ló, một thứ ánh sáng vàng khè đầy tử khí toả xuống cái thị trấn nhỏ, xuống những ngọn cây trong vườn, xuống cái mái nham nhở của gian nhà thóc, xuống đoàn người ngựa đang tiến lên ngọn gò.
Sáng hôm sau Rvachev mang báo cáo về đại đội. Stepan thương lượng với người chủ nhà. Người ấy nhận lời để binh lính cắt cỏ chua me cho ngựa với giá không đắt lắm. Từ đêm ngựa vẫn yên cương sẵn sàng. Bọn lính Cô-dắc sợ ở lại giáp mặt với địch. Trước kia, lúc còn biết rằng phía trước có bộ đội biên phòng canh giữ, họ chưa có cái cảm giác bị cắt rời, bị cô độc như thế nầy. Nhưng sau khi biết tin biên giới bị bỏ trống, cảm giác ấy đã mỗi lúc một tăng.
Cánh đồng nhà chủ ở cách gian nhà thóc không xa lắm. Stepan cắt Ivankov và Segonkov đi cắt cỏ. Người chủ nhà đội chiếc mũ dạ trắng như hoa ngưu bàng dẫn hai gã ra khoảng cỏ chia cho nhà bác ta. Segonkov cắt, Ivankov cào những đống cỏ vừa ẩm vừa nặng và bó lại. Trong khi đó Stepan hướng ống nhòm về phía con đường ra biên giới, nhìn thấy một thằng bé chạy tới từ phía tây nam qua cánh đồng. Thằng bé chạy trên ngọn đồi xuống như một con thỏ nâu chưa thay lông. Từ xa nó đã vung hai tay áo ngoài dài ngoẵng kêu lên không biết những gì. Khi chạy đến gần, nó thở hổn hển, giương hai con mắt tròn xoe kêu lên:
- Các chú Cô-dắc ơi, các chú Cô-dắc ơi, quân Đức kéo đến đấy! Quân Đức chúng nó đến từ phía kia kìa!
Thằng bé giơ một ống tay áo dài lòng thòng, cong xuống như một cái vòi Stepan dán mắt vào ống nhòm, nhìn thấy trong phạm vi mắt kính có một nhóm người phi ngựa đằng xa trong một đội hình dày đặc. Anh ta không rời mắt khỏi ống nhòm, gọi to:
- Kriuchkov!
Kriuchkov nhảy từ trong cái cửa xiêu vẹo của gian nhà thóc, nhìn quanh.
- Cậu chạy ngay gọi anh em về? Quân Đức đấy? Một đội trinh sát Đức!
Stepan nghe thấy tiếng chân Kriuchkov chạy đi và bây giờ đã thấy rõ ràng trong ống nhòm một đám người cưỡi ngựa chập chờn trên dải cỏ hung hung. Anh ta thậm chí còn nhận ra màu lông hạt dẻ của những con ngựa và màu lam sẫm của những chiếc áo quân phục. Chúng có hơn hai chục tền. Chúng chạy ộn tới thành một đám chẳng ra đội hình gì cả và tiến từ hướng tây nam tới, thế mà anh chàng quan sát cứ chờ đợi chúng từ hướng tây bắc. Chúng vượt ngang qua con đường, rồi tiến chếch theo sống đồi phía trên khoảng đất lòng chảo, mà thị trấn Liubov thì nằm ngay dưới cái lòng chảo nầy.
Ivankov thè đầu lưỡi ra liếm cặp môi nhăn nhúm rồi ra sức kéo sợi dây để buộc chặt một bó cỏ. Vì quá cố gắng, hắn thở như kéo bễ. Chủ nhà, người Ba Lan khoèo chân, đứng bên hút một cái tẩu. Người ấy luồn hai tay vào thắt lưng, cau hai hàng lông mày dưới vành mũ dạ, gườm gườm nhìn Segonkov cắt cỏ.
- Thế nầy mà cũng gọi là cái hái à? - Segonkov vừa chửi gầm lên bực bội vung cái hái nhỏ như một đồ chơi trẻ con - Bác vẫn cắt cỏ bằng cái nầy hay sao?
- Tôi vẫn cắt đấy - Người Ba Lan trả lời, lưỡi dính vào cái cán tẩu, rồi kéo một ngón tay ra ngoài thắt lưng.
- Cái hái nầy của bác thì chỉ cắt được cỏ ở chỗ cái số ta của đàn bà thôi!
- Hừ-ừm - Người Ba Lan cũng nhận là như thế.
Ivankov phì cười. Gã còn muốn nói thêm gì nữa, nhưng vừa ngoái đầu lại thấy Kriuchkov chạy tới trên cánh đồng đã cày, hai chân trẹo trẹo trên những hòn đất mấp mô, một tay đỡ gươm.
- Thôi quẳng việc nầy đi!
- Còn chuyện gì nữa thế? - Segonkov vừa hỏi vừa cắm mũi lưỡi hái xuống đất.
- Quân Đức!
Ivankov để rơi bó cỏ. Chủ nhà bỏ chạy ngay về nhà, người khom gập, hai tay gần chạm đất, cứ như đang có đạn réo trên đầu.
Hai gã Cô-dắc về tới gian nhà thóc, thở hổn hển, nhảy luôn lên ngựa. Giữa lúc ấy họ thấy một đại đội bộ binh Nga hành quân từ Pelikalie về phía thị trấn. Toán Cô-dắc phi ngựa tới. Stepan báo cáo với viên đại đội trưởng rằng có một nhóm trinh sát Đức đang tiến trên gò, vòng bên cạnh thị trấn. Viên đại uý đăm chiêu nhìn xuống đôi ủng sương muối bám đầy như bụi rồi hỏi:
- Chúng nó có bao nhiêu tên?
- Hơn hai mươi thằng.
- Các anh vòng ra, cắt đường rút lui của chúng nó, chúng tôi sẽ nổ súng ở chỗ nầy. - Hắn quay mặt về đại đội, ra lệnh cho đội hình và dẫn bọn lính đi rảo bước.
Khi toán lính Cô-dắc cho ngựa xông lên gò, những tên Đức đã nhanh hơn họ, cho ngựa chạy nước kiệu, cắt ngang con đường đi Pelikac. Một viên sĩ quan cưỡi con ngựa hồng nhạt, đuôi ngắn, tiến tách rời ở phía trước.
- Đuổi theo? Chúng ta sẽ đuổi kịp chúng nó ở vọng tiêu thứ hai! - Stepan ra lệnh.
Lúc còn trong thị trấn đã có một người lính kỵ binh biên phòng nhập bọn với toán Cô-dắc, nhưng đến đây thì anh chàng cho ngựa chạy chậm lại.
- Cậu làm sao thế? Hết hồn vía rồi à, người anh em? - Stepan quay lại quát lên.
Người lính biên phòng khoát tay, rồi cho ngựa đi bước một về phía thị trấn. Toán Cô-dắc cho ngựa chạy nước kiệu nhanh. Lúc nầy thì không dùng ống nhòm cũng có thể nhìn thấy rõ quân phục màu lam của bọn long kỵ binh Đức. Chúng cho ngựa chạy nước kiệu chậm theo hướng vọng tiêu thứ hai đặt ở một trang trại cách thị trấn chừng ba vec-xta, vừa tiến vừa ngoái nhìn đám lính Cô-dắc. Khoảng cách giữ hai bên đã thu ngắn khá nhiều.
- Chuẩn bị bắn? - Stepan nhảy trên yên xuống, hô giọng khàn khàn.
Cả bọn cuộn dây cương vào tay, đứng bắn loạt đạn đầu tiên. Con ngựa của Ivankov đứng chồm hẳn lên, lôi chủ nó ngã xuống. Trong khi ngã, Ivankov còn kịp nhìn thấy một tên Đức lăn từ trên lưng ngựa xuống: đầu tiên hắn chỉ lười nhác nghiêng người sang một bên rồi bất thình lình vươn hai tay lộn cổ xuống. Bọn Đức không dừng lại cũng không lấy súng trường ra khỏi bao, mà chỉ cho ngựa chuyển sang nước đại. Đội hình của chúng tản rộng hơn. Gió xoắn những lá cờ đuôi nheo bằng vải mắc trên ngọn giáo. Stepan nhảy lên ngựa trước tiên. Con ngựa bị quất không tiếc tay. Đội trinh sát Đức rẽ ngoặt sang trái.
Toán Cô-dắc đuổi phía sau lao theo đà, vượt quá chỗ tên Đức ngã ngựa chừng bốn mươi xa-gien. Sau đó là một vùng có nhiều đồi nhấp nhô, bị cắt ngang dọc bởi những cái khe nhỏ không sâu lắm, vách khe dựng đứng nham nhở như răng cưa. Bọn Đức vừa lên bên kia một cái khe thì toán Cô-dắc lại xuống ngựa, bắn theo thêm mỗi gã một kẹp đạn. Lại một tên lính Đức bị hạ trước vọng tiêu thứ hai.
- Lộn cổ rồi! - Kriuchkov luồn chân vào bàn đạp kêu lên.
- Sẽ có anh em mình trong trang trại ra ngay thôi? Vọng tiêu thứ hai ở chỗ nầy đấy… - Stepan vừa lẩm bẩm vừa đưa một ngón tay vàng khè vì khói thuốc lá ấn một kẹp đạn mới vào buồng đạn của khẩu súng trường.
Bọn Đức đã chuyển sang nước kiệu đều. Trong khi phóng ngựa qua trang trại, chúng ngoái cổ nhòm váo. Nhưng trong sân vắng tanh. Chỉ có vừng mặt trời vẫn dội nắng chang chang xuống những mái ngói của các ngôi nhà. Stepan ngồi nguyên trên ngựa nã một phát. Một tên Đức hơi tụt lại phía sau lắc lắc đầu rồi thúc con ngựa bằng gót ủng.
Về sau mới được biết đêm qua bọn Cô-dắc đã rút khỏi vọng tiêu thứ hai vì thấy dây điện tín bị cắt ở một nơi cách trang trại nửa véc-xta.
- Đuổi đến vọng tiêu thứ nhất! - Stepan quay nhìn những tên Cô-dắc khác kêu lên.
Đến giờ Ivankov mới thấy mũi Stepan bị sướt một miếng da nhỏ lủng lẳng ngay trên lỗ mũi.
- Sao chúng nó không bắn lại nhỉ? - Gã sửa lại khẩu súng trường đeo sau lưng, hỏi giọng bực bội.
- Chờ đấy sẽ biết… - Segonkov vừa trả lời vừa thở ì ạch như con ngựa sổ mũi.
Bọn Đức cho ngựa chạy xuống cái khe đầu tiên mà cũng chẳng ngoái lại nhìn. Bên kia khe là khoảng đất cày đen sì, bên nầy cỏ dại mọc lởm chởm, lơ thơ vài bụi rậm. Stepan cho ngựa đứng lại, hất mũ cát-két lên, đưa mù bàn tay lên chùi những giọt mồ hôi to tướng. Anh ta đưa mắt nhìn một lượt các gã Cô-dắc khác, nhổ bãi nước bọt rồi nói:
- Ivankov, cậu tiến tới chỗ lòng chảo, nhìn xem chúng nó đâu.
Mặt Ivankov đỏ tía như gạch, lưng áo đẫm mồ hôi. Gã liếm cặp môi khô cứng một cách thèm khát, thúc ngựa đi.
- Nếu được hút thuốc nhỉ. - Kriuchkov lấy roi xua một con mòng ngựa, khẽ nói.
Ivankov cho ngựa đi bước một, kễng chân trên bàn đạp để nhìn xuống khoảng đất lòng chảo. Đầu tiên gã chỉ nhìn thấy những ngọn giáo đưa đi đưa lại, rồi bất thình lình thấy bọn Đức quay ngựa trở lại, xung phong theo mặt dốc từ dưới lòng chảo lên. Viên sĩ quan phi ngựa trên hàng đầu, thanh kiếm giơ lên như trong tranh. Lúc Ivankov kéo ngựa quay lộn lại, trong óc gã ghi được hình ảnh khuôn mặt khó đăm đăm, không râu không ria cùng dáng cưỡi ngựa đĩnh đạc của viên sĩ quan. Tiếng vó ngựa của bọn Đức dội vào tim Ivankov như trận mưa đá. Gã cảm thấy hơi lạnh của chết chóc xuyên vào mình đau nhói. Gã cho ngựa quay lại rồi lặng lẽ phi trở về với đồng đội. Stepan không kịp gập túi thuốc, nhét nhầm ra ngoài túi áo.
Kriuchkov nhìn thấy những tên Đức sau lưng Ivankov và là thứ nhất cho ngựa xông lên. Cánh phải của bọn Đức định chặn đường Ivankov, chúng đuổi kịp gã với một tốc độ kinh người. Gã vừa ra sức đánh ngựa, vừa ngoái nhìn lại. Những cơn co giật làm khuôn mặt xám ngoét của gã méo xệch, hai con mắt lồi hẳn ra ngoài. Phía trước, Stepan áp hẳn xuống mũi yên, cho ngựa phi nước đại. Một đám bụi nâu cuốn xoáy lên phía sau Kriuchkov và Segonkov.
"Thôi! Thôi! Chúng nó đuổi kịp đến nơi rồi" - Đầu óc Ivankov như tê dại, gã cũng chẳng nghĩ đến chống cự, cả cái thân hình to lớn đẫy đà co rúm, đầu cúi xuống sát bờm ngựa.
Một tên Đức to lớn, tóc đỏ, đuổi kịp Ivankov và chĩa ngọn giáo đâm vào lưng gã. Mũi giáo nhọn hoắt xuyên qua dây lưng da, ngập chéo vào trong người đến nửa véc-sốc.
- Anh em ơi, quay trở lại! - Ivankov như mất trí, kêu lên rồi rút gươm ra khỏi vỏ. Gã gạt được mũi giáo thứ hai, chĩa vào sườn, rồi dướn người lên, chém một nhát vào lưng tên Đức phi ngựa ở bên trái. Gã đã bị vây tứ phía. Một con ngựa Đức to lù lù hích ngực vào sườn con ngựa của gã, thiếu chút nữa thì hất lộn gã xuống đất.
Ivankov nhìn thấy khuôn mặt lờ mờ rất khủng khiếp của một tên địch ở ngay sát mặt mình.
Stepan là người đầu tiên phi ngựa tới. Anh ta bị bọn Đức dồn ngay sang bên cạnh. Anh ta múa tít thanh gươm, người quay ngược quay xuôi, oặt ẹo trên yên, răng nhe ra trắng loá, mặt biến sắc hẳn, nom như mặt người chết. Ivankov bị một mũi gươm sạt vào cổ. Một tên long kỵ binh xông tới chém gã, lưỡi gươm vung lên, nhấp nhoáng một ánh ảm đạm. Ivankov giơ gươm đỡ được, thép đập phải thép, bật ra một tiếng rít dài. Từ sau lưng gã, một tên địch đâm mũi giáo vào dây lon vai rồi ấn xuống, dây lon bật khỏi vai. Sau cái đầu ngẩng cao của một con ngựa, loáng thấy khuôn mặt đẫm mồ hôi của một tên Đức có tuổi, khuôn mặt đầy tàn hương đỏ như gấc, quai hàm xệ xuống, run run. Thằng cha vung gươm lên một cách vụng về, định thừa cơ đâm vào ngực Ivankov. Thanh gươm chém không tới, tên Đức quẳng gươm, lôi khẩu súng trường ra khỏi cái bao khâu liền vào yên, cặp mắt nâu nâu hoảng sợ nháy lia lịa, không rời Ivankov.
Nhưng hắn chưa kịp kéo khẩu súng khỏi vỏ thì Kriuchkov đã chĩa ngọn giáo đâm trúng người hắn qua một con ngựa. Tên Đức xé toang ngực chiếc áo quân phục xanh sẫm, ngửa hẳn người ra sau, kêu lên vừa kinh hoàng vừa ngạc nhiên:
- Mai-nô Gôt(1)!
Ngay bên cạnh, tám tên long kỵ binh vây chặt Kriuchkov định bắt sống, nhưng gã đã kịp cho con ngựa đứng chồm hẳn lên, quay người như chong chóng, vung gươm chống lại cho đến khi thanh gươm bị đánh bật. Rồi gã nắm được ngọn giáo của tên Đức ở bên cạnh, bèn giật lấy, động tác làm đúng như khi luyện tập.
Những tên Đức kia lùi lại, dùng gươm đỡ ngọn giáo. Bên một vạt đất cày sầu thảm lẫn đất sét, tất cả cứ thế quần nhau không kể gì sống chết, tất cả đều sôi sục điên cuồng, đều ngả nghiêng trong trận chiến đấu giáp lá cà như dưới một đọt cuồng phong. Quá sợ đến trở nên hung dữ như thú rừng cả hai bên Cô-dắc lẫn Đức đều bạ chỗ nào chém đâm chỗ nấy, bất kể là lưng, là tay, là ngựa hay là vũ khí…
Những con ngựa cũng kinh hoàng đến điên cuồng rồ dại, cứ xông bừa lên, có con không hiểu vì sao tự nhiên lăn đùng ra. Ivankov đã trấn tĩnh được. Một tên long kỵ binh tóc vàng mặt dài xông tới đánh gã gã chém liền tên kia mấy nhát, nhưng nhát nào thanh gươm cũng chạm phải vành mũ sắt rồi lại trượt xuống.
Stepan phá được vòng vây xông ra ngoài, nhưng đã mất khá nhiều máu. Viên sĩ quan Đức đuổi theo Stepan. Stepan hạ khẩu súng trường trên vai xuống, giết được hắn bằng một phát bắn trong lúc hai bên gần như mặt giáp mặt. Phát súng nầy đã tạo ra bước ngoặt chấm dứt trận giáp lá cà. Tên Đức nào cũng mang nhiều vết thương vì những miếng đòn vô nghĩa lý, hơn nữa chúng lại mất sĩ quan, vì thế bắt đầu vỡ chạy. Toán Cô-dắc không truy kích, cũng chẳng bắn theo. Chúng cho ngựa chạy thẳng về thị trấn Pelikalie, nơi đại đội đóng. Bọn Đức khiêng một tên đồng đội ngã ngựa bị thương ra khỏi yên rồi bỏ chạy về biên giới.
Ngựa phi được vài vec-xta thì Ivankov lảo đảo:
- Mình không còn hơi sức gì nữa… Mình ngã mất? - Gã cho ngựa đứng lại, nhưng Stepan kéo dây cương.
- Đi!
Kriuchkov chùi máu loang đầy mặt rồi nắn nắn trên ngực áo quân phục của gã loang lổ những vết đỏ lòm.
Đến cái trang trại trước kia là điểm của vọng tiêu thứ hai, toán Cô-dắc phân làm hai.
- Cho ngựa rẽ sang phải, - Stepan chỉ cái đầm bên ngoài trang trại, xanh rờn như trong thần thoại giữa một rừng liễu đỏ.
- Không, sang trái. - Kriuchkov không nghe.
Mọi người chia làm hai tốp. Stepan và Ivankov về thị trấn chậm một chút. Bọn Cô-dắc trong đại đội đã đứng chờ hai người bên ngoài hàng rào.
Ivankov ném dây cương, tụt trên yên xuống, lảo đảo rồi quỵ xuống. Anh em nậy mãi mới lấy được thanh gươm ra khỏi bàn tay cứng như đá.
Một giờ sau, gần như cả đại đội đều kéo ra chỗ viên sĩ quan Đức bị giết. Bọn Cô-dắc tháo giầy, lột quần áo, vũ khí rồi xúm đông xúm đỏ xem mặt hắn. Khuôn mặt còn trẻ, khó đăm đăm, đã bắt đầu vàng ệch. Gã Tarasov ở Ust-Khop lẹ tay tháo được chiếc đồng hồ có dây bạc trên xác chết và bán luôn tại chỗ cho tên hạ sĩ trung đội hắn.
Trong ví viên sĩ quan, bọn Cô-dắc thấy có ít tiền, một bức thư, một món tóc bạch kim bỏ trong một chiếc phong bì và bức hình của một thiếu nữ có nụ cười rất kiêu kỳ.
Chú thích:
(1) Mein Gott! Lạy Chúa tôi (Tiếng Đức)(ND)
Sau đó người ta đã nặn ra một chiến công từ trận chiến đấu trên. Kriuchkov được viên đại đội trưởng yêu, nên theo bản báo cáo tác chiến của hắn, gã được tặng huân chương thánh Gioóc. Còn các bạn của gã thì chẳng được đả động gì đến. Người anh hùng được đưa lên sư đoàn bộ, và rong chơi phè phỡn trên đó cho tới khi chiến tranh chấm dứt. Ba thứ huân chương khác gã cũng được nhận cả, chỉ vì ở Petrograd và Moskva có những bà quyền thế và những ngài sĩ quan đến xem mặt gã. Các bà ồ, các bà à, các bà tọng cho gã Cô-dắc sông Đông đủ mọi thứ thuốc lá đắt tiền và bánh kẹo.
Đầu tiên gã chỉ hô cho các bà nghe bằng đủ các giọng, nhưng sau nhờ có ảnh hưởng tốt của những kẻ có tài bợ đỡ đeo lon sĩ quan trong bộ tư lệnh, gã bắt đầu chuyển sang làm một nghề khá phát tài là kể chuyện "chiến công". Mặt đỏ như quả bồ quân, gã khoác lác không chút ngượng mồm để cho các bà tha hồ hân hoan cảm động ngắm bộ mặt rỗ nhằng rỗ nhịt, y như mặt thằng ăn cướp của gã Cô-dắc anh hùng. Thế là mọi người đều sung sướng, mọi người đều vừa lòng.
Vua Nga ngự giá đến đại bản doanh, người ta lại dẫn Kriuchkov đến bái yết mặt rồng. Vị hoàng đế tóc râu ngô đưa cặp mắt ngái ngủ nhìn Kriuchkov như người ta xem một con ngựa. Ngài hấp háy hai mi sưng mọng, lũng nhũng như hai cái túi, vỗ vỗ vai gã:
- Gã Cô-dắc cừ lắm! - Rồi ngài quay lại bảo đám người theo hầu:
- Cho trẫm cốc nước suối.
Cái đầu có bờm tóc xoã trước trán của Kriuchkov luôn luôn được đưa lên những trang báo cáo và tạp chí. Có cả những bao thuốc lá mang chân dung Kriuchkov. Giới lái buôn ở Nizegrod đem đến tặng gã một khẩu súng bằng vàng.
Bộ quân phục lột của viên sĩ quan Đức bị Stepan giết được đính lên một tấm bảng bằng gỗ dán rất rộng. Tướng Phôn Renncamphơtơ cho Ivankov và viên quản lên một chiếc xe hơi cùng với tấm bảng đó rồi tới trước những đơn vị sắp ra tuyến lửa, đọc những bài diễn văn động viên của Nhà nước.
Nhưng sự thật chỉ là thế nầy: những con người chưa học được thuần phục cách giết hại đồng loại đã bị đẩy lên vũ đài của Thần chết. Trong một tâm trạng kinh hoàng của thú vật, họ chạm trán nhau, quật ngã nhau, mù quáng đâm chém nhau, làm cho bản thân mình cùng những con ngựa trở nên đui què mẻ sứt, rồi hốt hoảng bỏ chạy trước những phát súng, những xác chết, với cả một tâm hồn bị què cụt
Người ta gọi đó là chiến công.
Mặt trận còn chưa ổn định thành một con rắn dài hàng bao nhiêu vec-xta không xê dịch. Trên biên giới thỉnh thoảng lại nổ ra những cuộc đụng độ và những trận chiến đấu kỵ binh. Những ngày đầu sau khi tuyên chiến, bộ tư lệnh Đức cố vươn ra những cái vòi mò mẫm, tức là những đội trinh sát kỵ binh mạnh, quấy rối các đơn vị quân ta, luồn qua các đồn tiền tiêu, dò xét cách bố trí và quân số của các đơn vị Sư đoàn kỵ binh số 12 dưới quyền chỉ huy của tướng Kaledin hoạt động ở phía trước trận địa của Tập đoàn quân Brusilov. Ở bên trái sư đoàn 12, sư đoàn kỵ binh số 11 đã vượt biên giới nước Áo và đang tiếp tục tiến thêm. Những phân đội của sư đoàn nầy đã chiến đấu chiếm được Lesnhiup và Brody, rồi lại phải dẫm chân tại chỗ vì quân Áo vừa nhận được tiếp viện và kỵ binh Hungari đã có những trận tập kích vào kỵ binh của chúng ta, làm cho kỵ binh ta phải đề phòng và lui về Brody.
Sau trận chiến đấu ở gần thành phố Lesnhiup, trong lòng Grigori Melekhov, một nỗi đau khổ nhức nhối luôn luôn tàn nhẫn làm tình làm tội chàng. Chàng gầy đi trông thấy, sút cân nhiều. Dù là hành quân hay nghỉ ngơi, ngủ say hay chỉ thiu thiu mơ màng, chàng thường thấy hiện ra hình ảnh người lính Áo mà chàng đã chém chết bên dãy hàng rào. Trong giấc ngủ, chàng rất hay sống lại trận chiến đấu đầu tiên và ngay trong khi ngủ, trong khi bị dằn vặt bởi những hồi ức nặng tựa đá đeo, chàng vẫn có cái cảm giác bị chuột rút ở bàn tay phải nắm cán giáo quá chặt. Lần nào tỉnh dậy, chàng cũng phải đưa tay lên che cặp mắt nhắm nghiền đến đau nhức, cố xua tan cơn ác mộng.
Kỵ binh dẫm nát lúa má đã chín vàng. Các cánh đồng in đầy những vết móng ngựa với những lỗ đinh nhọn hoắt, cứ như vừa có một trận mưa tàn phá khắp xứ Galixi, ủng bộ binh đầm rắn các con đường đất dẫm vụn nát đá trải đường, đạp nát nhừ những đám bùn tháng tám.
Ở các nơi diễn ra những trận chiến đấu, bộ mặt sầu thảm của đất cũng bị trái phá khoét lỗ chỗ như mặt người rỗ hoa. Dưới những cái lỗ ấy đang hoen rỉ những mảnh gang và thép thèm khát máu người.
Đêm đêm những vừng lửa đỏ ối sau đường chân trời vươn những cánh tay lên trời, chếu rực những thôn xóm, những thị trấn, những thành phố như những ánh chớp. Tháng tám là tháng mùa hoa quả chín, thóc lúa đang chờ được gặt về, trời luôn luôn đăm chiêu xám xịt, hoạ hoằn được ngày nắng ráo thì hơi nước lại xông lên oi bức ngột ngạt.
Tháng tám đã sắp qua. Lá trong các khu vườn chuyển sang màu vàng với một ánh mỡ màng. Các cuống lá bắt đầu có cái màu đỏ lúc hấp hối. Đứng xa mà nhìn thì cứ có cảm giác như cây cối bị những vết thương xé rách thân hình đang tuôn ra những dòng máu đỏ:
Grigori để ý theo dõi những điều biến đổi trong các bạn cùng đại đội. Prokho Zykov vừa ở trạm quân y về, hai má hằn rõ vết sẹo hình móng ngựa, trên hai bên mép ẩn hiện một nét vừa đau khổ vừa băn khoăn, cặp mắt dịu dàng như mắt một con bò non luôn nháy lia lịa.
Egor Zarkov thì bất cứ lúc nào cũng có thể văng những lời tục tĩu tồi tệ nhất, hắn làm những việc đê tiện nhiều hơn cả trước kia và chửi không tha một cái gì trên đời. Anh chàng cùng thôn với Grigori là Emelian Grosov, một gã Cô-dắc chín chắn, tháo vát, thì không hiểu sao người tự nhiên đen đi như hòn than, và thỉnh thoảng vô duyên vô cớ cười khà khà một trận, tiếng cười không có ý thức, chẳng có gì vui. Mặt mũi ai cũng mang những nét khác trước. Ở mỗi người, các hạt giống mà chiến tranh gieo rắc đều được ấp ủ theo cách riêng và cũng nảy nở theo một cách riêng.
Trung đoàn rút ở tuyến lửa về, đóng lại để nghỉ ngơi ba ngày, nhận số quân bổ sung từ vùng sông Đông chuyển đến. Đại đội vừa sắp ra tắm ở cái đầm của một tên địa chủ thì thấy một đoàn kỵ binh rất đông kéo tới từ nhà ga ở cách trang trại ba vec-xta.
Trong khi binh lính Cô-dắc đại đội bốn ra tới con đê, đội kỵ binh ở nhà ga tới đang từ trên cái dốc núi dài kéo xuống, và bây giờ bắt đầu thấy rõ đây là kỵ binh Cô-dắc. Prokho Zykov đứng trên con đê, cúi xuống để cởi áo quân phục. Gã chui đầu ra khỏi áo, nhìn kỹ.
- Anh em mình đấy, dân sông Đông đấy.
Grigori cau mày nhìn đội hình hành quân hàng dọc trườn về phía trang trại.
- Người ta điều quân bổ sung tới.
- Có lẽ bổ sung cho chúng ta đấy.
- Chắc hẳn đã phải gọi đến kỳ hai rồi.
- Kìa có nhìn thấy không các cậu? Kia là Stepan Astakhov có phải không? Chỗ kia kìa, hàng thứ ba ấy! - Grosov kêu lên rồi cười một tiếng ngắn ngủn, the thé.
- Cả thằng em nhà chúng nó cũng bị gọi ra rồi.
- Còn Anikey thì chỗ kia kìa!
- Griska! Melekhov! Anh cậu kia kìa. Đã nhận ra chưa?
- Nhận ra rồi.
- Cậu phải thết mình một chầu đấy, đồ thổ tả, mình đã nhận ra trước cậu.
Grigori giương mắt nhìn chằm chằm, làm những vết nhăn trên hai gò má sâu xuống, chàng cố nhận ra con ngựa của Petro. "Ở nhà mới mua đấy", - chàng bụng bảo dạ rồi đưa mắt lên nhìn mặt anh, khuôn mặt biến đổi một cách kỳ lạ vì lần cuối cùng hai anh em gặp nhau đã quá lâu. Hàng ria màu lúa chín xén bớt bên dưới và cặp lông mày bị nắng thui trắng phếch như bạc. Grigori bỏ chiếc mũ cát-két xuống rồi vẫy vẫy tay như trong khi diễn tập, chạy ra đón anh. Theo sau Grigori, một đám Cô-dắc đang cởi dở quần áo cũng chạy xuống, dẫm nát cả những đám bạch chỉ thân rỗng rất dễ gãy và những bụi ngưu bàng già cỗi.
Đại đội bổ sung cho ngựa đi vòng khu vườn, tiến vào trang trại, nơi trung đoàn đóng quân. Dẫn đầu đại đội là một viên đại uý có tuổi vạm vỡ, đầu mới cạo nhẵn, không râu ria, cái miệng hách dịch với hai bên mép cong xuống đờ ra như gỗ.
Grigori nghĩ bụng: "Thằng cha nầy có lẽ giọng khàn khàn, hắc hắc lắm đây?" Chàng mỉm cười với anh rồi lại đưa nhanh mắt lên nhìn thân hình viên đại uý ngồi rất vững trên lưng con ngựa có cái mũi khum khum chắc hẳn giống Kalmys.
- Đại đội! - Viên đại uý cất tiếng hô, giọng trong sang sảng. - Các trung đội thành hàng dọc, vai trái đưa lên trước… bước!
- Có khỏe không anh? Grigori sung sướng và cảm động mỉm cười, gọi to chào Petro.
- Ơn Chúa. Bọn chúng anh đến với chúng mày đây. Thế nào, dạo nầy ra sao?
- Cũng bình thường.
- Còn sống cơ à?
- Tạm thời còn sống.
- Ở nhà gửi lời hỏi thăm đấy.
- Ở nhà ra sao hả anh?
- Vẫn khỏe mạnh cả.
Petro tì tay lên mông con ngựa lực lưỡng màu hồng nhạt, quay hẳn lại, đưa cặp mắt tươi cười nhìn khắp người Grigori, trong khi con ngựa đi xa dần. Đám đi sau Petro, người thì Grigori quen, người thì không. Lưng họ lên lên xuống xuống che không cho chàng nhìn thấy anh nữa.
- Có khỏe không, Griska! Gửi cậu lời hỏi thăm của bà con trong thôn.
- Cậu cũng đến chỗ bọn mình đấy à? - Grigori nhìn thấy cái bờm tóc dầy vàng óng, nhận ra Misa Kosevoi bèn nhe răng cười.
- Đến với các cậu đây. Chúng mình cứ như những con gà thấy kê là đến mổ.
- Đi cho người ta mổ thì có! Rồi cậu cũng sắp bị mổ thôi.
- Được, rồi xem?
Egor Zarkov nhảy lò cò trên đê xuống, trên mình hắn chỉ độc chiếc sơ-mi. Hắn nghiêng nghiêng người giơ tay lấy thăng bằng, cố thọc chân vào cái ống quần lũng lẵng.
- Chào anh em cùng trấn!
- Chà-à-à! Té ra là Zarkov Egor.
- Nầy, con ngựa non, cậu bị buộc chân sau đấy à?
- Bà cụ nhà mình ở nhà thế nào?
- Vẫn còn sống.
- Bà cụ có lời hỏi thăm cậu đấy, nhưng mình không nhận mang hộ quà vì quá nặng.
Egor lắng nghe câu trả lời với vẻ mặt nghiêm trang khác thường, rồi cứ tồng ngồng như thế ngồi xuống cỏ. Hắn đưa tay lên che bộ mặt xúc động đầy buồn phiền, chân run bắn lên chẳng làm thế nào lồng vào ống quần được nữa.
Một đám Cô-dắc đã cởi gần hết quần áo bên ngoài dãy hàng rào sơn xanh da trời. Từ bên kia con đường trồng toàn những cây dẻ, đám lính bổ sung từ vùng sông Đông tiến vào sân.
- Chào anh em đồng hương!
- Nầy, hình như bác Alexandr, thông gia với tôi có phải không?
- Chính Alexandr đây.
- Andreyan! Andreyan! Cái con quỷ dữ cụp tai nầy, không nhận được ra tao à?
- Nầy thầy quyền, vợ cậu có lời hỏi thăm đấy?
- Ơn Chúa!
- Thế Boris Belov đâu?
- Cậu ấy ở đại đội nào thế?
- Có lẽ đại đội bốn.
- Cậu ấy người đâu ta?
- Người Zaton trấn Vosenskaia.
- Cậu tìm cậu ấy có việc gì thế? - Một gã thứ ba thoáng nghe thấy câu chuyện hỏi xen vào.
- Có việc cần. Mình chuyển hộ bức thư.
- Người anh em ạ, cậu ấy đã bị giết hôm kia ở gần Raybrody rồi.
- Có thật không?
- Thật đấy! Chính mắt mình trông thấy mà. Viên đạn trúng ngay dưới đầu vú bên trái.
- Các cậu ở đây có ai vùng sông Chernaia không?
- Không, thôi đi đi.
Đuôi đại đội đã vào hết, toàn đại đội tập hợp giữa sân. Trên mặt đê lại đông nghịt những gã Cô-dắc lại quay ra tắm.
Chỉ lát sau, những gã thuộc đại đội bổ sung cũng lũ lượt kéo ra.
Grigori ngồi cạnh anh. Mùi ẩm ướt của đất sét trên con đê xông lên nồng nặc. Ở chỗ sát mép bờ cỏ xanh rờn, nước đặc sánh nhấp nhoáng ngũ sắc như nở hoa. Grigori vừa giết những con rận trong các đường viền và nếp nhăn trên áo sơ-mi vừa kể lể:
- Anh Petro ạ, bây giờ trong lòng em đau khổ chết đi được. Lúc nầy em sống chẳng ra sống, chết chẳng ra chết. Cứ như bị đưa vào dưới hòn đá cối xay, bị nghiền nát nhừ rồi lại được nhả ra. - Giọng Grigori rè rè, than vãn. Một vết nhăn sâu đen đen nằm chếch ngang trán (đến lúc nầy Petro mới nhận thấy vết nhăn đó và nó đã làm anh ta bất giác sờ sợ), vết nhăn hoàn toàn mới có ấy làm Petro kinh ngạc với tính chất biến đổi, xa lạ chứa đựng trong đó.
- Đau khổ như thế nào? - Petro vừa hỏi vừa kéo cái áo sơ-mi qua đầu, để lộ một thân hình trắng hếu với một cái ngấn rất đều chung quanh cổ ngăn với phần bị rám nắng.
- Rồi anh sẽ thấy thế nào, - Grigori nói vội vã, giọng chàng trở nên cứng rắn trong cơn bực bội, con người đang bị xua đến chỗ đánh giết nhau, anh chớ dính dáng vào làm gì? - Con người đã trở nên tồi tệ hơn cả loài sói độc. Bốn bề toàn một không khí hằn thù. Có lẽ bây giờ em mà cắn ai thì người ấy sẽ hoá dại ngay tức khắc.
- Thế mày đã có lần phải… giết người rồi à?
- Đã có! - Grigori gần như kêu lên rồi vo tròn cái áo sơ-mi ném xuống chân. Chàng đưa mắt nhìn sang chỗ khác và cứ lấy những ngón tay nắn bóp mãi chỗ cổ họng, tựa như muốn ấn cho bật ra những lời bị tắc trong cổ.
- Kể tao nghe đi, - Petro bảo Grigori nhưng lại tránh và sợ bắt gặp con mắt thằng em.
- Lương tâm giày vò em. Ở gần Lesnhiup em đã dừng giáo đâm chết một thằng. Trong lúc đang hăng… Mà không đâm cũng không được Nhưng vì sao em lại chém chết một thằng khác cơ chứ?
- Như thế nào?
- Còn thế nào nữa? Em đã vô cớ chém chết một con người để rồi vì nó, vì cái thằng chó đẻ ấy mà tâm hồn em bị ốm đau quặt quẹo. Thằng khốn nạn, đêm nào em cũng nằm mơ thấy nó. Không biết có phải lỗi ở em không?
- Mày chưa quen đấy thôi. Chờ đấy mà xem, rồi sẽ thấy như cơm bữa.
- Đại đội anh là đại đội bổ sung phải không? - Grigori hỏi.
- Sao lại bổ sung? Không đâu, chúng tao tới trung đoàn Hai mươi bảy.
- Thế mà em cứ tưởng đến tiếp viện chúng em.
- Đại đội chúng tao bị ghép vào một sư đoàn bộ binh nào đó. Bây giờ chúng tao đang đuổi theo trung đoàn ấy đây. Nhưng cùng đi với chúng tao cũng có một bộ phận bổ sung, người ta cắt đến chỗ chúng mày những thằng trẻ.
- À ra vậy. Thôi, chúng ta tắm cái đã.
Grigori vội vã tụt quần, rồi leo lên mặt đê, người rám nâu hơi gù nhưng cân đối. Petro thấy từ dạo hai anh em chia tay nhau đến giờ, thằng em anh ta đã già hẳn đi. Grigori duỗi thẳng hai tay, bổ nhào xuống nước. Làn nước đặc sánh màu xanh lá cây ập tới kín chỗ sau hai bàn chân Grigori rồi lại tản ra. Grigori bơi ra chỗ đám lính Cô-dắc đang cười khà khà ở giữa đầm, hai bàn tay vỗ xuống nước như âu yếm vuốt ve, vai di động lười nhác.
Petro hì hục mãi mới tháo xong cây thánh giá đeo sát người và bài kinh cầu nguyện khâu trong cái túi đựngười chúc phúc của mẹ. Anh ta nhét cái dây đeo vào trong chiếc áo sơ-mi rồi lần xuống nước, vẻ mặt vừa sợ vừa khó chịu. Đầu tiên Petro té nước lên cho ướt ngực ướt vai, sau đó ái chà một tiếng và ngụp xuống, bơi đuổi theo Grigori. Hai anh em bơi cách nhau một quãng, cùng sang tới khoảng bờ cát mọc đầy những bụi rậm ở bên kia đầm.
Thân thể được cử động nên Grigori cũng khuây khoả chút ít. Chàng vừa vươn tay bơi, vừa nói bằng một giọng cân nhắc, không còn sôi nổi như lúc nãy nữa:
- Rận cắn khắp người em. Lại thêm cái nhớ nhà. Bây giờ em chỉ mong được qua nhà một cái: nếu có cánh em sẽ bay đi ngay. Dù chỉ được nhìn qua một cái. Thế nào anh, ở nhà ra sao?
- Natalia nó về nhà ta rồi?
- Sao?
- Vẫn khỏe mạnh.
- Cha mẹ thế nào?
- Vẫn bình thường. Còn con Natalia thì nó vẫn đợi mày đấy. Nó cứ nhất định cho rằng mày sẽ lại về với nó.
Grigori bị sặc, chàng lặng lẽ nhổ chỗ nước vừa ộc vào miệng.
Petro quay đầu lại, cố nhìn vào mắt Grigori.
- Mày viết thư về nhà cũng nên có một câu hỏi thăm nó chứ. Có mày nó mới sống được.
- Sao Natalia lại thế nhỉ… Đã xé đôi còn muốn chắp vá lại hay sao?
- Người ta nói cũng đúng… Con người chỉ sống bằng hy vọng. Con bé ngoan lắm. Tính nết thì đứng đắn. Biết giữ gìn. Các chuyện lẳng lơ ** thoã, nó hoàn toàn không có chút gì.
- Natalia lấy chồng đi thì tốt hơn.
- Mày nói gì mà lạ!
- Chẳng có gì lạ cả. Chỉ có một con đường như thế thôi.
- Chuyện giữa hai đứa chúng mày với nhau, tao cũng chẳng can thiệp.
- Thế còn Dunhiaska?
- Nó có thể là một cô dâu được rồi đấy em ạ! Có một năm mà nó nhớn nhớn là, mày chẳng còn nhận ra được nữa đâu.
- Thật à - Grigori ngạc nhiên, vui hẳn lên.
- Thật thế đấy. Ở nhà sẽ cho nó về nhà chồng mà chúng mình chẳng được nhúng ria vào rượu cưới của nó đâu. Lũ khốn kiếp, có lẽ chúng nó đã giết chúng mình từ bao giờ rồi.
- Chuyện ấy thì cũng dễ thôi?
Hai anh em leo lên bãi cát rồi chống khuỷu tay nằm song song bên nhau, cùng phơi mình dưới nắng lúc nầy đã gay gắt. Miska Kosevoi bơi qua, nhô gần nửa người lên khỏi mặt nước.
- Xuống nước đi, Griska!
- Hượm đã, để mình nằm một lát.
Grigori vừa chôn một con bọ hung vào lớp cát xốp tơi vừa hỏi:
- Anh có nghe tin gì về Acxinhia không?
- Hồi chưa tuyên chiến, anh có gặp nó trong thôn.
- Còn về đấy làm gì nữa?
- Nó về nhà chồng lấy đồ đạc.
Grigori húng hắng ho rồi lấy sống bàn tay gạt cát vùi kín hẳn con bọ hung.
- Anh có nói chuyện với Acxinhia không?
- Chỉ chào hỏi qua loa. Coi bộ béo tốt phởn phơ lắm. Có lẽ ăn cơm nhà địa chủ cũng dễ chịu.
- Còn Stepan?
- Đến mẩu nến nó cũng để cho Acxinhia lấy. Không xảy ra một chuyện gì cả. Nhưng mày phải liệu liệu đấy. Phải để ý giữ mình. Anh em kể lại cho tao biết rằng một lần thằng Stepan say rượu, nó đã doạ: hễ cùng chiến đấu là ngay trận đầu nó sẽ cho mày ăn kẹo đạn ngay.
- À hà!
- Nó không tha thứ cho mày đâu.
- Em cũng biết.
- Con ngựa tao mua lấy đấy, - Petro nói sang chuyện khác.
- Ở nhà phải bán bò à?
- Bán mấy con hói. Được một trăm tám mươi rúp. Mua con ngựa mất một trăm năm mươi rúp. Tốt hơn con của mày. Mua ở Chutkan đấy.
- Thế lúa má như thế nào?
- Được mùa. Nhưng lại không được gặt đem về. Chưa kịp gặt đã bị xách cổ đi rồi.
Câu chuyện đã chuyền sang vấn đề cày cấy làm ăn nên không còn căng thẳng như lúc nãy. Grigori thèm khát nuốt lấy từng tin nhà. Giờ phút nầy, chàng hoàn toàn sống với những mẩu tin đó, và đã gần như chàng trai ngang bướng và chất phác trước kia.
- Thôi lạnh rồi, chúng mình mặc quần áo thôi, - Petro bảo em rồi phủi cát trên cái bụng ướt đẫm, người run run. Da lưng, da tay đã nổi gai ốc.
Bọn lính Cô-dắc kéo đàn kéo lũ ở đầm về. Stepan Astakhov đuổi kịp hai anh em ở dãy hàng rào ngăn khu vườn với sân trang trại.
Anh chàng vừa đi vừa chải bờm tóc xoã trước trán bằng một cái lược xương nhỏ, rồi nhét lại bờm tóc vào dưới lưỡi trai. Stepan tới ngang Grigori.
- Chào anh bạn!
- Chào anh, - Grigori dừng lại, nhìn Stepan bằng cặp mắt có phần ngượng nghịu, như hối lỗi.
- Còn chưa quên mình chứ?
- Gần như quên mất rồi.
- Mình thì không quên cậu đâu, - Stepan mỉm một nụ cười chế nhạo, rồi không dừng lại, vượt luôn lên trước bá vai một gã Cô-dắc đeo lon hạ sĩ đi phía trước.
Trời vừa tối thì trung đoàn nhận được của sư đoàn bộ mệnh lệnh truyền qua điện thoại, bảo phải tới ngay vị trí. Chỉ mười lăm phút, trung đoàn đã sửa soạn xong xuôi. Được bổ sung thêm quân số, đơn vị vừa đi vừa hát tiến ra lấp lỗ hổng mới bị kỵ binh Hungary chọc thủng.
Lúc chia tay, Petro dúi vào tay em một tờ giấy gấp tư:
- Cái gì thế nầy? - Grigori hỏi.
Anh chép cho mày một bài kinh cầu nguyện. Giữ lấy nhé…
- Nó có giúp được gì không chứ?
- Đừng có báng bổ, Griska!
- Em có báng bổ gì đâu.
- Thôi tạm biệt em. Mong em khỏe mạnh. Mà mày đừng có xông xáo lên trước những thằng khác làm gì. Thần chết nó vốn hay chọn những đứa quá hăng đấy? Ra đến đấy thì liệu mà giữ lấy mình? - Petro kêu to.
- Nhưng đã có bài kinh cầu nguyện rồi cơ mà?
Petro khoát tay.
Mọi người đi đến mười một giờ mà chẳng có biện pháp đề phòng gì cả Mãi sau bọn quản mới truyền cho các đại đội mệnh lệnh hành quân hết sức yên lặng, cấm hút thuốc.
Trên cánh rừng xa xa thấy bay vụt lên những viên đạn tín hiệu kèm theo những đám khói tím.
Một cuốn sổ nhật ký nhỏ, bìa bằng da ma-rô-canh, màu giả gỗ sồi. Các góc bìa đã sờn và gãy: người chủ cuốn sổ đã bỏ nó trong túi từ lâu. Các trang bên trong đầy những dòng chữ ngã viết ngoằn ngoèo…
"Ít lâu nay mình bỗng cảm thấy cần phải sờ đến giấy bút.
Mình muốn ghi một cái gì, đại loại như một tập "nhật ký " ở đại học.
Trước hết là về nàng: hồi tháng hai, mình không còn nhớ là ngày bao nhiêu nữa, anh chàng sinh viên Boiaryskin, đồng hương với nàng, đã giới thiệu mình với nàng. Mình đã gặp hai anh ả ở cửa rạp xi-nê. Giới thiệu xong, Boiaryskin bảo mình: "Lida là người cùng trấn với mình, trấn Vosenskaia Timofey ạ, cậu hãy quí Lida, chăm sóc Lida. Lida là một thiếu nữ tuyệt vời ". Mình còn nhớ là lúc ấy mình có nói một vài lời chẳng ra đầu chẳng ra đũa gì cả rồi nắm lấy tay Lida một lát, bàn tay mềm nhũn và đẫm mồ hôi. Mình đã bắt đầu làm quen với Elizaveta Mokhov như thế đấy. Lida là một cô gái hư hỏng, mình chỉ cần nhìn qua là nhận thấy ngay: ở những người đàn bà như thế con mắt thường nói lên nhiều hơn mức cần thiết.
Cũng phải thú thực rằng Lida dã gây cho mình một ấn tượng không có lợi cho nàng lắm: trước hết là bàn tay đẫm mồ hôi. Mình chưa từng gặp một người nào nhiều mồ hôi đến như thế bao giờ. Sau đến hai con mắt. Thật ra thì Lida có một cặp mắt rất đẹp, với những ánh như hạnh nhân, nhưng đồng thời cặp mắt ấy lại gây một cảm giác khó chịu.
Bạn Vaxia ạ, trong khi viết mình đã chủ tâm lựa chọn từ ngữ, thậm chí dùng đến những hình tượng, để đến khi điều đáng xảy ra sẽ xảy ra, khi cuốn "nhật ký" nầy đến được tay cậu ở Semipalachinsk (mình đã có sẵn ý nghĩ như thế nầy: đến khi cái trò chơi ái tình giữa mình và Elizaveta Mokhova chấm dứt, mình sẽ gửi nó tới tay cậu. Chưa biết chừng cậu đọc tài liệu nầy sẽc ảm thấy khá thú vị), cậu sẽ có khái niệm chính xác về những việc xảy ra.
Mình sẽ kể theo thứ tự thời gian. Thế là mình đã làm quen với nàng và cả ba cùng xem một bộ phim lăng nhăng nào đó, đầm đìa tình cảm, Boiaryskin cứ ngậm tăm (cậu ta bảo rằng bị vỡ một cái "cữu sỉ" đó là danh từ cậu ta dùng để gọi răng hàm), còn mình thì bắt chuyện rất khó khăn. Như thế là mình đồng hương với Lida, tức là hai người ở hai thôn giáp nhau. Sau khi nói lên một số hồi ức chung chung về cái đẹp của phong cảnh vùng đồng cỏ vân vân, hai đứa lại im như thóc. Có thể nói mình đã nín thinh một cách rất thoải mái, mà Lida cũng chẳng cảm thấy khó chịu chút nào khi cả hai đều cạn hết chuyện để nói. Mình được nàng cho biết rằng nàng đang học y năm thứ hai, xuất thân trong một gia đình thương nhân, rất thích nước trà đặc và thuốc lá Axmolov(1). Như cậu thấy đấy, để tìm hiểu về cô gái có cặp mắt mắt hạnh nhân ấy, mình chỉ lượm được những tư liệu đến là nghèo nàn. Đến lúc chia tay hai chúng mình tiễn nàng ra tới chỗ xe điện đỗ), nàng có mời mình đến nhà chơi. Mình ghi chỗ ở của nàng và định đến ngày 28 tháng 4 sẽ ghé thăm.
29 tháng tư
Hôm nay mình đến thăm Lida, nàng thết mình nước trà và kẹo nu-ga. Bản chất Lida là một cô gái tò mò. Mồm mép rất ghê, khá thông minh, chỉ có một điều là cô nàng sặc mùi các nhân vật của Archybasev(2), từ xa đã ngửi thấy rồi. Mãi khuya mình mới ở nhà Lida về. Mình hút thuốc lá hết điếu nọ đến điếu kia, trong khi đó đầu óc cứ rối bời với những chuyện chẳng có chút gì liên quan đến Lida, đặc biệt là vấn đề tiền. Bộ quần áo ngoài của mình mặc đã sờn nát, nom đến là man rợ, nhưng lại không có "tư bản". Nói chung là bi đát cùng cực.
1 tháng năm
Hôm nay đã được đánh dấu bằng một chuyện đáng ghi nhớ.
Chúng mình đang giết thì giờ bằng một cách hoàn toàn vô hại ở khu Sokolniki thì bỗng nhiên vấp phải một chuyện như thế nầy: cảnh binh và một toán lính Cô-dắc, chừng hai mươi tên, giải tán một đám công nhân biểu tình ngày mồng một tháng năm. Một anh chàng say rượu giơ gậy đánh con ngựa của một gã Cô-dắc, gã kia bèn dùng ngay đến cái roi của gã (không hiểu sao người ta lại công nhận thêm cho cái roi một cái tên nữa là "hèo", tuy cái tên cúng cơm của nó đã đủ nổi tiếng rồi?) Mình bèn bước tới can thiệp. Lấy lương tâm mà nói thì lúc ấy trong lòng mình cũng có sôi sục những tình cảm hết sức cao quý. Mình tới can thiệp và gọi gã Cô-dắc là đồ khốn nạn và gì gì nữa. Gã vung luôn roi định đánh cả mình, nhưng mình đã nói bằng một giọng khá cứng rắn rằng chính mình cũng là một thằng Cô-dắc người trấn Kamenskaia và vì thế có thể cho gã một trận bò lê bò càng. Được cái gã Cô-dắc nầy còn trẻ, tính tình cũng hồn hậu, và xem ra thời gian ở lính còn chưa làm cho gã tán tận lương tâm.
Gã trả lời rằng gã là dân trấn Ust-Khopeskaia và nắm đấm của gã cũng không vừa đâu. Hai bên đã chia tay nhau một cách hiền lành. Nếu gã kia giở trò gì với mình thì rất có thể xảy ra một cuộc đánh lộn, và có thể còn có những điều tệ hại hơn nữa đối với mình.
Mình can thiệp vào việc ấy, lý do là vì trong đám có cả Lida, mà chính vì Lida có mặt cho nên trong lòng mình đã nảy ra một ý muôn "lập công" rất là trẻ con. Dưới con mắt của chính mình, mình đã biến thành một con gà trống và mình cảm thấy như bên dưới cái mũ cát-két đã mọc lên một cái mào đỏ vô hình… Tình hình đã phát triển đến mức như thế rồi đấy!
3 tháng năm
Mình đang có tâm trạng của một thằng nghiện rượu lên cơn. Sạch sành sanh, chẳng còn xu nào dính túi. Ở chỗ giữa hai ống quần, nói cho đơn giản là ngay dưới đũng, đã bục ra một miếng, hệt như quả dưa bở vùng sông Đông đã chín nẫu. Hy vọng đường vá không bục lại rất mong manh. Kết quả cũng chỉ như ta vá một quả dưa bở mà thôi!
Volotka Strenev lại chơi. Mai sẽ lên giảng đường.
7 tháng năm
Nhận đủ tiền của ông cụ nhà mình gửi cho. Trong thư cụ chửi cho một trận nên thân, nhưng mình chẳng thẹn chút nào. Nếu như cụ còn biết rằng các rui mè đạo đức trong thằng con đã mục nát cả rồi… Mình mua một bộ quần áo ngoài. Ngay những gã đánh xe cũng phải chú ý đến chiếc cravat. Mình vào một tiệm ở đường Tverskaia để cạo râu. Mình ở trong tiện ra nom cứ như một anh chàng bán hàng cho một tiệm tạp hoá. Đi đến góc phố Sadovetriumfannaia, một thằng cảnh sát mỉm cười với mình. Cái thằng xỏ lá! Chẳng nhẽ nom mình như thế nầy thì giữa mình với nó có chỗ nào giống nhau hay sao? Nếu nó gặp mình trước đây ba tháng thì sao? Nhưng thôi, chuyện cũ bới lại làm gì? Ngẫu nhiên mình nhìn thấy Lida ở cửa sổ xe điện. Nàng vẫy chiếc găng mỉm cười. Không hiểu nom mình như thế nào nhỉ?
8 tháng năm
"Dù ở tuổi nào người ta cũng phải cúi đầu trước thần Ái tình". Mình cứ hình dung cái miệng của thằng chồng Tachiarna(3) hoác ra như miệng khẩu pháo. Ngồi trên "chuồng gà", mình chỉ muốn nhổ toẹt cho hắn một bãi vào miệng. Mỗi khi nhớ lại câu ấy, đặc biệt là phần cuối: "A-a-a-ái ti-ti-ình…" thì quai hàm mình lại giật giật, ngáp đến sái đi, như lên cơn thần kinh.
Nhưng vấn đề là ở chỗ mình yêu ngay trong tuổi yêu đương. Trong khi viết những dòng nầy, tóc mình đang dựng đứng cả lên.
Mình đến chơi nhà Lida. Mình bắt đầu câu chuyện từ nơi nảo nơi nào bằng giọng rất là hùng hồn. Lida làm vẻ như chẳng hiểu gì cả, cứ tìm cách lái sang những chuyện khác. Hay là sớm quá chăng?
Chà, mẹ kiếp, bộ quần áo nầy làm rối cả việc! Nhưng mình nhìn vào trong gương lại thấy là từ chối mình sao được. Mình nghĩ thầm: nào cứ nói toạc móng heo ra. Hiện nay mình còn có mẽ hơn những thằng khác nhiều. Nếu bây giờ không thổ lộ tình yêu ngay thì hai tháng nữa sẽ quá muộn: cái quần sẽ sờn đi và sẽ bục ở chỗ không thể nào có lý lẽ chống chế. Mình vừa viết vừa cảm thấy trong lòng hân hoan lạ thường: trong lòng mình đang tập trung một cách xán lạn nhất tất cả các tình cảm tốt đẹp nhất của các nhân vật ưu tú nhất trong thời đại chúng ta. Trong đó có thể thấy cả nhiệt tình đắm đuối sôi nổi lẫn "con mắt của lý trí minh mẫn". Ngoài các ưu điểm khác lại còn có một món tạp pí lù những đức tính tốt.
Nhưng hôm nay mình vẫn chưa làm xong các công việc chuẩn bị với Lida. Mụ chủ nhà đã đến phá rối câu chuyện. Mụ mời Lida ra hành lang và mình nghe thấy mụ hỏi vay nàng tiền. Nàng từ chối, tuy nàng đang có tiền. Việc nầy mình biết chắc chắn, vì thế mình đã hình dung bộ mặt Lida khi nàng từ chối bằng giọng rất thành thực, cặp mắt màu hạnh nhân nom cứ thật như đếm. Thế là mình hết hứng thú nói chuyện tình yêu.
13 tháng năm
Mình yêu đứt đuôi con nòng nọc rồi. Chuyện nầy thì không còn có thể hoài nghi chút nào nữa. Mọi triệu chứng đều đã rõ rành rành.
Ngày mai mình sẽ thổ lộ nỗi lòng với Lida. Nhưng cho đến nay mình vẫn chưa xác định rõ vai trò mình sẽ đóng.
14 tháng năm
Mọi việc đã diễn ra một cách hoàn toàn bất ngờ. Trời mưa, âm áp dễ chịu. Hai chúng mình đi trên phố Mokhovaya, gió quét chéo trên những viên đá trải đường. Mình thì nói, còn Lida cư cúi đầu đi lặng lẽ, như đang lưỡng lự đắn đo. Những dòng nước mưa nhỏ chảy từ trên mũ xuống má Lida, nom Lida tuyệt quá. Mình ghi lại dưới đây câu chuyện giữa hai chúng mình:
- Cô Elizaveta Sergeyeevna ạ, tôi đã trình bày với cô tất cả nỗi lòng của tôi rồi. Bây giờ chỉ còn chờ cô cho biết ý cô ra sao.
- Tôi không tin rằng tình cảm của anh chân thực.
Mình nhún vai với một vẻ hết sức ngu xuẩn rồi nói bừa rằng mình sẵn sàng thề hoặc làm một việc gì đại khái như thế.
Lida nói:
- Anh hãy nghe tôi. Anh nói rằng cứ y như một nhân vật của Turgenev(4) ấy. Anh nói đơn giản một chút thì hơn.
Còn đơn giản hơn làm sao được nữa? Anh yêu em.
- Và còn gì nữa?
- Còn chờ ý kiến của Lida.
Anh muốn có một lời thổ lộ trả lời à?
Anh muốn được trả lời.
- Anh có thấy không, anh Timofey Ivanovich… Lida còn nói với anh làm sao được nữa? Lida cũng có phần thích anh… Anh cao lắm (5).
- Anh còn lớn được thêm - Mình hứa.
- Nhưng chúng mình biết nhau còn quá ít, tình cảm không biết có hợp với nhau không?
- Chúng ta cùng ăn ở với nhau hết một pút muối rồi sẽ hiểu nhau hơn.
Lida đưa bàn tay hồng hồng lên chùi hai bên má ướt đẫm rồi nói:
- Thôi được, chúng mình sẽ cùng sống với nhau ở với nhau một thời gian rồi sẽ xem sao. Nhưng anh phải cho Lida một thời gian để cắt đứt một mối quan hệ cũ của Lida mới được.
- Hắn là ai thế? - Mình tò mò muốn biết.
- Anh không biết hắn ta đâu Một lão đốc-tờ, chuyên chữa bệnh hoa liễu
- Bao giờ em sẽ được tự do?
Lida hy vọng trước thứ sáu.
- Chúng mình sẽ sống với nhau chứ? Tức là cùng ở một căn hộ chứ?
- Vâng, như thế cũng được, càng tiện. Anh sẽ dọn đến chỗ Lida.
- Sao thế?
- Lida có một căn phòng tốt lắm. Sạch sẽ, mà bà chủ nhà lại đặc biệt đáng yêu.
Mình không phản đối. Đến góc đường Tverskaia thì chúng mình chia tay. Hai chúng mình hôn nhau làm một bà qua đường rất đỗi kinh ngạc.
Không biết ngày mai sẽ đem lại cho mình những gì đây?
21 tháng năm
Hai chúng mình sống tuần trăng mật. Nhưng hôm nay không khí "trăng mật" đã bị u ám vì Lida bảo mình phải dùng những đồ lót khác mới dược. Quả thật đồ lót của mình đã rách mướp như một cơn ác mộng. Nhưng tiền, tiền… cả hai tiêu toàn bằng tiền của mình, mà tiền của mình thì có nhiều gì cho cam. Đến phải kiếm một việc gì mà làm.
25 tháng năm
Hôm nay mình đã quyết định đi mua quần áo lót, nhưng Lida lại làm mình phải tiêu một món bất ngờ. Lida nằng nặc đòi ăn tối ở một tiệm lớn và mua một đôi bí tất lụa. Chúng mình đã đi ăn tối và đã mua bít tất, nhưng mình hoàn toàn tuyệt vọng: đồ lót của mình bục ra!
27 tháng năm
Lida đã làm mình sức cùng lực kiệt. Thể xác của mình hoàn toàn bại hoại, cứ hao hao như một thân cây hướng dương trụi hết lá.
Không còn là đàn bà nữa, mà là lửa với khói!
2 tháng sáu
Hôm nay hai chúng mình thức giấc lúc chín giờ. Mình vốn có cái tật thổ tả cứ ngọ nguậy đầu ngón chân, vì thế đã đi đến kết quả như thế nầy: Lida lật chăn, nhìn mãi bàn chân mình. Rồi nàng tóm tắt kết quả quan sát: Chân anh không phải là chân mà là vó ngựa. Còn tệ hơn nữa là khác! Các ngón chân lại còn lông lá đến thế kia nữa, xì! - Rồi với vẻ mặt kinh tởm, nàng nhún vai mãi như lên cơn sốt rét rồi trùm chăn, quay mặt vào tường.
Mình ngượng quá, co chân lại và đưa tay sờ vào vai nàng:
- Lida.
- Bỏ tôi ra!
- Lida, như thế nầy thì còn ra sao nữa. Anh làm thế nào đổi được kiểu chân bây giờ, nó có được sản xuất theo đơn đặt hàng đâu? Còn như những cái lông thì đó là một của ngu xuẩn, chỗ nào mà nó chẳng mọc. Em là sinh viên y khoa cũng phải biết quy luật phát triển của thiên nhiên chứ.
Lida bèn quay mặt về phía mình, hai con mắt màu hạnh nhân lại thêm một ánh chocolatte, đầy vẻ bực bội.
Ngay hôm nay, mời anh đi mua lấy ít thuốc xoa mồ hôi. Chân anh xông lên một mùi y như mùi người chết ấy!
Mình bèn nhận xét một cách rất chí lý rằng hai bàn tay Lida bao giờ cũng đẫm mồ hôi. Lida không nói gì nữa, nhưng trong lòng mình, nếu nói theo một thể "văn vẻ" thì đã có một bóng mây che phủ…
Vấn đề đâu phải là chân và lông chân…
4 tháng sáu.
Hôm nay hai chúng mình di chơi thuyền trên sông Moskva.
Chúng mình hồi tưởng vùng sông Đông yêu dấu. Lida đã có một thái độ rất không xứng đáng. Nàng luôn luôn kiếm những cái xấu của mình mà nói, đôi khi nói rất thô bạo. Mình cũng ăn miếng trả miếng, và như thế có nghĩa là sẽ đi tới tan vỡ, mà mình đâu muốn có chuyện như thế. Dù đã có tất cả những điều xảy ra, mình vẫn cư gắn bó với nàng nhiều hơn. Lida chỉ là một người đàn bà quen được nuông chiều. Mình không có đủ ảnh hưởng để làm biến đổi tận gốc tính cách của Lida. Một cô gái đáng yêu tính nết đồng bóng. Hơn nữa lọc lõi việc đời biết cả những điều mà chính mình cũng chỉ tai nghe.
Trên đường về nhà, Lida kéo mình vào một tiệm bào chế rồi vừa cười vừa mua ít bột tan và một thứ quỷ quái gì nữa.
- Những cái nầy để anh bôi cho đỡ mồ hôi.
Mình cúi chào một cách rất nịnh đầm và cám ơn Lida.
Kể ra cũng lô bịch, nhưng đúng là như thế đấy.
7 tháng sáu
Trí óc của Lida có một gia sản quá nghèo nàn. Nhưng ngoài các vấn đề trí óc, nàng lại có thể làm thầy bất cứ ai.
Ngày nào trước khi đi ngủ mình cũng rửa chân bằng nước nóng, xoa nước hoa Cô-lô-nhơ và rắc một ít cái thứ của tội của nợ gì ấy.
16 tháng sáu
Càng ngày mình càng cảm thấy không thể chịu đựng nổi Lida.
Hôm qua Lida đã lên một cơn thần kinh. Sống chung với một con người như thế đến là mệt.
18 tháng sáu
Hai bên chẳng có điểm nào chung giống với nhau! Hai chúng mình nói hai thứ tiếng khác nhau. Yếu tố kết hợp hai người là cái giường. Cuộc đời cứ như bị thiến bị hoạn.
Sáng nay, trước khi ra hiệu bánh mì, Lida lấy tiền trong túi áo mình, thấy quyển sổ nầy, bèn lôi ra.
- Anh có cái gì thế nầy?
Người mình nóng như lửa đốt. Nếu Lida dở xem vài trang thì không hiểu sẽ ra sao? Mình bèn trả lời và chính mình cũng phải ngạc nhiên trước cái giọng tự nhiên của mình.
- Quyển sổ ghi toán số học đấy.
Lida thờ ơ bỏ lại quyển sổ vào trong túi rồi ra ngoài. Phải cẩn thận hơn mới được. Những lời bông đùa viết riêng cho nhau xem chỉ tốt khi không có người thứ ba đọc.
Viết cho bạn Vaxia xem là một nguồn giải khuấy cho mình đấy.
21 tháng sáu
Lida làm mình quá đỗi kinh ngạc. Lida mới 21 tuổi đầu mà không hiểu đã hư thân mất nết như thế nầy từ bao giờ? Gia đình Lida ra sao, Lida đã được giáo dục như thế nào? Ai đã ảnh hưởng đến sự phát triển của Lida? Đó là những vấn đề mà mình hết sức muốn biết. Lida đẹp một cách quái đản. Lida kiêu hãnh vì cái thân hình tuyệt mỹ của nàng. Nhưng ngoài sự tôn thờ xác thịt của mình tht chẳng còn gì khác nữa. Mình cũng có vài lần thử nói với Lida những chuyện đưng đắn. Thuyết phục một tín đồ Cựu giáo cho hắn tin là không có Thượng đế thì còn dễ hơn cải tạo Lida.
Cuộc sống chung giữa hai người đã trở nên vô nghĩa lý và ngu xuẩn. Nhưng mình vẫn chần chừ chưa muốn tan vỡ ngay. Phải thú nhận rằng dù có như thế, mình vẫn thích Lida. Lida đã mọc rễ vào cuộc đời mình rồi.
24 tháng sáu
Nhưng sự việc lại hết sức đơn giản. Hôm nay hai chúng mình đã hoàn toàn cởi mở với nhau. Lida nói rằng mình không thoả mãn được nàng về mặt xác thịt. Chưa chính thực tan vỡ, nhưng có lẽ chỉ ngày một ngày hai.
26 tháng sáu
Phải cho Lida một con ngựa đực trong trại gây giống ngựa của trấn. Một con ngựa đực!
28 tháng sáu
Thật khổ tâm cho mình nếu phải chia tay với Lida. Lida quấn lấy chân mình như những đám rong ở chỗ sình lầy. Hôm nay hai chúng mình đi chơi núi Vorobev. Lida ngồi chiếc ghế bên cạnh cửa sổ. Nắng chiếu qua những hình chạm trổ trên thành gờ của cái mái xuống món tóc xoăn của nàng. Làn tóc màu vàng ròng. Dù sao cũng có được chút xíu thi vị!
4 tháng 7
Mình đã bỏ việc. Còn Lida thì bỏ mình. Hôm nay mình uống bia với Strenev. Hôm qua hai đưa đã uống vodka. Mình và Lida đã chia tay nhau một cách đứng đắn, như mọi người có văn hoá. Không xảy ra chuyện gì cả. Hôm nay mình gặp Lida ở phố Dimitrovka cùng với một gã thanh niên đi ủng dô-kề. Mình chào thì chỉ thấy nàng chào lại rất kín đáo. Thôi đã đến lúc chấm dứt chun nhật ký nầy rồi: nguồn đã cạn.
30 tháng bảy
Thật là bất ngờ lại phải cầm bút viết. Chiến tranh. Nhiệt tình bùng lên một cách thú tính. Như mùi những con chó lở đã có giòi, mùi tinh thần yêu nước bốc ra nồng nặc hàng vec-xta từ mỗi chiếc mũ quả dưa. Anh em sinh viên đều phẫn nộ, nhưng mình lại sung sướng. Mình đang đau khổ vì niềm thương nhớ "thiên đường đã mất"(6). Đêm qua mình đã gặp Lida trong một giấc mơ rất không chay tịnh. Nàng vẫn còn để lại cho mình một vết tương tư. Xoá bỏ quách cho xong.
1 tháng tám
Các trò ầm ĩ đã làm mình chán ngấy. Nỗi buồn nhớ xưa lại quay trở lại. Nỗi buồn nhớ ấy, mình cứ mút nó mãi như đứa trẻ mút đầu vú cao su.
3 tháng tám
Có lối thoát rồi! Mình ra trận! Có ngu xuẩn không? Ngu xuẩn hết chỗ nói. Có đáng nhục không?
Nhưng mặc các chuyện ấy, mình có còn chỗ nào khác để lẩn trốn đâu. Chỉ cần có được một chút xíu những cảm xúc mới mẻ. Trước đây hai năm kiếm đâu ra những cảm xúc tràn trề như thế nầy? Hay mình già mất rồi?
7 tháng tám
Mình viết trên toa xe. Mãi hôm nay mới rời khỏi Voronez.
Ngày mai mình sẽ xuống xe ở trấn Kamenskaia. Mình đã có quyết tâm vững chắc: chiến đấu "vì đức tin, vì vua, vì nước"(7)
12 tháng tám
Người ta sửa soạn cho mình một buổi hoan tống long trọng. Lão ataman say rượu bí tỉ đọc một bài diễn văn kích động. Chờ lão nói xong, mình rỉ tai lão: "Bác xuẩn lắm, bác Andrey Karpovich ạ!" Lão kinh ngạc, mặt giận đến tái xanh tái tím, rồi rít lên nói chọc mình:
"Thế mà cậu cũng là một người có học đấy. Phải chăng cậu cũng cùng một duộc với những thằng chúng tôi đã cho ăn roi năm một ngàn chín trăm linh năm?". Mình bèn trả lời rằng tiếc thay mình không "cùng một duộc" với họ. Ông cụ nhà mình khóc, chạy đến hôn mình, nước mũi cứ chảy ròng ròng. Mình bèn nói đùa rủ cụ cùng ra trận với mình. Cụ hoảng hốt kêu lên: "Mày làm sao thế, còn công việc ở nhà thì làm thế nào?" Ngày mai mình sẽ ra ga.
13 tháng tám
Nơi nào cũng thấy hía chín vàng mà chưa gặt. Những con chuột đồng trên các gò đống đều béo căng béo núc, giống một cách lạ lùng mấy thằng Đức trên cái hình vẽ rẻ tiền in đá mà Kotma Kriuchkov xỏ vào ngọn giáo của gã. Mình đã nếm đủ mùi đời, ăn nhiều uống khỏe, đã học qua toán học cũng như môn khoa học chính xác khác, nhưng chưa bao giờ mình nghĩ rằng có ngày trở thành một tay "sô vanh" như thế nầy. Mình cũng có nói chuyện với bọn Cô-dắc trong trung đoàn.
22 tháng tám
Ở một nhà ga nào đó, mình đã gặp đám tù binh đầu tiên. Một gã sĩ quan Áo thân hình cân đối, dáng người có vẻ là một nhà thể thao, bị áp giải ra ga. Hai cô tiểu thư đang đi dạo trên sân ga mỉm cười với gã. Gã vừa đi vừa cúi chào một cách duyên dáng và gửi tặng hai cô nàng một cái hôn gió.
Bị bắt làm tù binh mà vẫn mày râu nhẵn nhụi, hào hoa phong nhã, ghệt da vàng bóng lộn. Mình đưa mắt nhìn theo gã. thằng cha vừa trẻ, vừa đẹp trai, vẻ mặt hồ hởi dáng yêu tệ. Chạm trán với những thằng như thế nầy thì không đang tâm vung gươm lên được đâu?
24 tháng tám
Người chạy giặc, người chạy giặc, người chạy giặc… Mọi nẻo đường đều thấy những đoàn xe chở người chạy giặc và lính tráng.
Đoàn xe lửa quân y đầu tiên chạy qua. Tàu chạy đến ga thì mình thấy một gã bộ binh còn trẻ nhảy từ trên toa xe xuống. Mặt gã buộc băng. Mình và gã nói chuyện với nhau. Gã bị thương vì đạn ghém. Gã hết sức hài lòng vì vị tất còn phải ở lại quân đội, do hỏng chỉ một mắt. Gã cười.
27 tháng tám
Mình đến trung đoàn của mình. Trung đoàn trưởng là một ông già dễ thương. Dân Cô-dắc tầng lớp dưới. Ngay ở đây đã ngửi thấy mùi máu rồi. Nghe đồn ngày kia bọn mình sẽ ra vị trí chiến đấu.
Trung đội ba đại đội ba của mình gồm những thằng Cô-dắc trấn Konstatinovskaia. Toàn những thằng chán ngấy. Chỉ được một thằng hay pha trò và hát được.
28 tháng tám
Bọn mình ra trận địa. Hôm nay ngoài ấy súng nổ đặc biệt ghê gớm. Cảm tưởng cứ như sắp có cơn giông nên sấm nổ ầm ầm đằng xa. Mình thậm chí hít hít xem có hơi mưa không. Nhưng trời mượt như xa-tanh, sạch bong.
Hôm qua con ngựa của mình vấp phải cái bánh của chiếc xe nhà bếp dã chiến nên chạy khập khiễng. Mọi điều đều mới lạ, đều không bình thường, vì thế mình chẳng còn biết nên nhằm vào chuyện gì mà bắt đầu viết, nên viết gì.
30 tháng tám
Hôm qua không có thì giờ viết. Lúc nầy mình đang viết trên yên đây. Lắc ghê quá, những chữ viết ra dưới cây blít chì nom thật là kỳ quặc chẳng còn ra hình thù gì nữa. Ba chúng mình mang thừng đi buộc cỏ.
Trong lúc nầy, hai cậu kia đang buộc cỏ, còn mình thì nằm sấp, "định hình" những điều hôm qua chưa ghi kịp. Hôm qua lão quản Tolokonikov cắt sáu thằng chúng mình di trinh sát (lão gọi mình một cách dè bỉu là "sinh viên": "Nầy thằng sinh viên, móng con ngựa của mày long ra rồi mà không trông thấy à?" Chúng mình đi ngựa qua một thị trấn nhỏ cháy dở, không biết tên là gì. Trời nóng quá. Mấy con ngựa cũng như bọn mình đều ướt đẫm. Thật là tai hại, lính tráng Cô-dắc thì mùa hè cũng phải mặc quần cưỡi ngựa bằng dạ. Mình đã nhìn thấy lần đầu tiên một người bị giết ở cái rãnh bên ngoài thị trấn. Một thằng Đức. Nó nằm ngựa, hai chật tụt xuống rãnh đến đầu gối. Một tay nó ngoặt ra sau lưng, còn bàn tay kia vẫn nắm khư khư một kẹp đạn súng trường. Cạnh đấy không thấy khẩu súng nào. Ấn tượng đến là khủng khiếp. Mình chỉ nhớ lại các cảm xúc của mình lúc bấy giờ mà cũng lạnh cả gáy… Dáng nó nằm có vẻ như nó ngồi thõng chân xuống rãnh, rồi ngả lưng xuống nghỉ. Quân phục màu xám, mũ sắt. Nhìn thấy cả lần lót bằng da bên trong áo ghép tưng miếng từng miếng, như trong những điếu thuốc lá để thuốc khỏi vãĩ ra. Ấn tượng đầu tiên ấy đã làm mình choáng váng đến nỗi không còn nhớ được mặt mũi nó như thế nào nữa. Chỉ thấy những con kiến vàng to kếch sù bò trên cái trán vàng ệch và hai con mắt lim dim đờ đẫn không còn chút tinh thần gì nữa. Trong khi ngựa đi qua, anh em Cô-dắc làm dấu phép. Mình nhìn vết máu nhỏ ở bên phải chiếc áo quân phục. Phát đạn xuyên vào sườn bên phải. Khi đi qua, mình nhận thấy rằng bên trái, chỗ viên đạn phá ra ngoài, vêt máu lớn hơn, máu đổ xuống đất nhiều hơn và áo quân phục rách như xơ mướp.
Mình ngồi yên ngựa mà người cứ run bắn lên. Sự thật là như thế đấy!
Thằng trung sĩ biệt hiệu là Trundakey thấy bọn mình hết hồn hết vía như thế bèn kể một câu chuyện thô bỉ lòng lấy lại tinh thần cho mọi người, nhưng chính môi hắn cũng run bần bật…
Cách thị trân nửa vec-xta, có những bức tường của một nhà máy gì đó đã cháy thui, tường gạch ám khói đen sì. Bọn mình sợ không dám đi thẳng trên đường cái vì con đưòng chạy bên cạnh đống tro tàn nầy, bèn quyết định đi vòng. Vừa cho ngựa rẽ sang bên thì từ trong đó bắt đầu có những phát súng nã vào chúng mình. Nói ra cũng nhục, nhưng tiếng nổ của phát súng đầu tiên thiếu chút nữa thì làm mình lộn cổ trên yên xuống. Mình nắm chặt mũi yên và theo linh tính cúi rạp xuống, một tay giật cương. Chúng mình cho ngựa chạy theo hướng thị trấn, qua bên cạnh cái rãnh có thằng Đức bị giết và chỉ hoàn hồn khi thị trấn đã nằm lại sau lưng. Sau đó lại lộn trở về. Chưng mình xuống ngựa, cho hai cậu giữ ngựa, còn bốn thằng thì đi bộ tới bên lề thị trấn, ra cái rãnh lúc nãy. Chúng mình khom lưng đi theo lòng rãnh. Từ xa mình đã trông thấy hai cái chân của thằng Đức bị giết với đôi ủng ngắn màu vàng, hai đầu gối gập lại nhọn hoắt. Mình nín thở đi qua bên cạnh nó, cứ như đi gần một người đang ngủ và sợ làm người ấy thức giấc. Bên dưới xác chết, cỏ bị dẫm nát rất xanh, rất ướt…
Chúng mình nằm xuống dưới rãnh. Vài phút sau chín thằng u-lan(8) Đức nối đuôi nhau cuỡi ngựa tiến ra từ trong đống hoang tàn của nhà máy bị đốt cháy… Mình dựa vào quân phục mà đoán thế.
Thằng sĩ quan đi tách sang một bên hô không biết những gì bằng một giọng cổ gay gắt. Sau đó toán quân địch phi ngựa vể phía bọn mình. Anh em đang gọi mình ra giúp họ buộc cỏ. Mình phải ra đây.
30 tháng tám
Mình muốn kể nốt để cậu biết chuyện lần đầu tiên mình nhằm vào một con người mà nổ súng. Đó là lúc bọn u-lan Đức phi ngựa về phía chúng mình đến giờ mình còn như đang nhìn thấy trước mắt những cái áo quân phục xanh xanh xám xám, những chiếc mũ bóng loáng hình ổng, phần trên loe to màu xanh đồng như màu da thằn lằn, những ngọn giáo mắc cờ đuôi nheo rung rinh).
Bọn u-lan cưỡi những con ngựa lông nâu sẫm. Không hiểu sao mình lại đưa mắt xuống nhìn cái ụ đất phía trên cái rãnh, thấy một con cánh cam nhỏ, xanh như ngọc bích. Ngay trước mắt mình, con cánh cam mỗi lúc một to ra một cách quái đản. Nó làm mấy ngọn cỏ dung đưa, bò lên khuỷu tay mình như một tên khổng lồ, lúc ấy khuỷu tay mình đang tì lên cái ụ đất sét khô lổn nhổn từng hòn to.
Con cánh cam leo lên ống tay áo va-rơi ka-ki của mình rổi bò rất nhanh lên khẩu súng, rồi lại chuyển từ khẩu súng sang dây đeo súng. Mình đang theo dõi hành trình của con cánh cam nghe thấy tiếng thằng trung sĩ Trundaley quát, lạc cả giọng: "Bắn đi chứ, chúng mày làm sao thế?".
Mình đặt lại khuỷu tay cho vững, nheo mắt lại và cảm thấy tim mình to phồng lên mãi, to một cách lạ lùng, chẳng khác gì con cánh cam màu ngọc bích lúc nãy. Trên nền một chiếc áo quân phục xanh xanh xám xám, đầu ruồi trên mũi súng rung rung trong kẽ khe nhắm. Tơrandaley nổ súng ngay bên cạnh mình. Mình bóp cò và nghe thấy tiếng viên đạn của mình bay ra như rên xiết. Rất có thể là mình đã nhằm quá thấp. Viên đạn bắn vào đất rồi bật lên giĩra đám bụi mù. Lần đầu tiên mình đã nhằm vào một con người mà nổ súng.
Mình bắn văng mạng hết kẹp đạn, chẳng nhắm mà cũng chẳng nhìn thấy gì trước mặt. Lần cuối cùng mình kéo củ tỏi về phía sau nghe thấy tiếng lách cách, mới biết kẹp đạn đã hết đạn. Mãi lúc ấy mình mới đưa mắt lên nhìn bọn Đức. Chúng nó đã phóng ngựa quay trở lại nhưng hàng ngũ vẫn chỉnh tề. Viên sĩ quan phi ngựa sau cùng.
Chúng nó có chín thằng và mình nhìn thấy cái mông màu nâu sẫm của con ngựa thằng sĩ quan cưỡi, cùng bản kim khí trên đỉnh mũ u-lan của nó.
2 tháng chín
Trong "Chiến tranh và hoà bình" có đoạn Tolstoi tôi viết về nét vạch giữa hai đạo quân thù địch, cái nét vạch của những điều chưa biết nó tựa như đường ranh giới giữa người sống và người chết. Đại đội kỵ binh của Nicolai Rostov xông lên xung phong, vì Rostov đã thầm xác định đường ranh giới ấy. Hôm nay mình đã nhớ lại đoạn ấy trong cuốn tiểu thuyết một cách đặc biệt rõ ràng, vì lúc trời bình minh, chúng mình đã tấn công kỵ binh nhẹ của quân Đức… Tư sáng các đơn vị của chúng nó được pháo binh yểm trợ rất tốt đã đánh lui bộ binh của chúng ta. Mình đã nhìn thấy những thằng bộ binh của ta, có lẽ thuộc hai trung đoàn bộ binh 241 và 273, hoang mang tháo chạy. Sau chộc tấn công thất bại, chúng đã hoàn toàn mất tinh thần: hai trung đoàn lên tấn công mà không có pháo binh yểm trợ nên đã bị hoả lực của địch đánh bật trở lại và bị tiêu diệt gần một phần ba toàn bộ quân số. Bọn kỵ binh nhẹ của quân Đức bèn đuổi theo bộ binh của chúng ta. Đến lúc ấy trung đoàn mình được đem ra sử dụng vì chúng mình đã đặt trước trong một khoảng rừng trống để làm nhiệm vụ hậu bị. Mình nhớ rằng sự việc đã diễn ra như thế nầy.
Chúng mình tiến ra khỏi làng Tytvich lúc ba giờ sáng. Trời sắp rạng nên bóng tối càng dày đặc thêm. Không khí nặc mùi lá thông và mùi lúa yên mạch. Trung đoàn tiên lên từng đại đội, rẽ sang bên trái con đường làng, vượt qua đồng lúa. Những con ngựa vừa chạy vừa thở phì phì, vó ngựa, đạp rơi những hạt sương to mọng trên lúa yên mạch.
Mình mặc áo ca-pôt mà vẫn thấy lạnh. Trung đoàn bị lôi đi rất lâu trên cánh đồng và một tiếng đồng hồ sau từ trên trung đoàn bộ mới có sĩ quan phi ngựa xuống trao cho trung đoàn trưởng một mệnh lệnh. Ông già của chúng mình truyền đạt mệnh lệnh bằng một giọng bực bội. Trung đoàn chuyển hướng theo góc vuông tiến vào trong rừng. Trong những đội hình hàng dọc, các trung đội đứng chen chúc trong khoảng rừng trống. Chiến đấu đang diễn ra ở một chỗ nào đó bên trái bọn mình. Cứ nghe những tiếng nổ cũng có thể đoán ra rằng các đại đội pháo Đức đang hoạt động với số lượng rất lớn.
Tiếng nổ của các loạt đạn khi trầm khi bổng. Có cảm tưởng như những đám lá thông toả hương nồng nặc trên đầu bọn mình đang cháy bùng bùng. Cho đến lúc mặt trời mọc, chúng mình chỉ ở yên một chỗ mà nghe. Sau đó vẳng tới những tiếng "hu-ra" run run, uể oải chẳng có khí lực gì cả, nghe đến là thảm hại, rồi tất cả lại lặng đi trong những tiếng súng máy rền đều đặn. Trong giờ phút đó, trăm ngàn ý nghĩ không đầu không đũa dồn lên đầu óc mình. Nhưng chỉ có một điều mà mình hình dung thấy một cách rõ ràng, rành rọt đến đau như dao cắt những bộ mặt mỗi người một vẻ của bộ binh ta tiến lên trong đội hình tấn công.
Mình nhìn thấy những thân hình xám xám tlong những bộ quần áo lũng nhũng như những cái túi, đội những mũ lưõí trai bằng vải ka-ki nhăn nhúm như những cái bánh mỏng xếp lên nhau, đi những đôi ủng bộ binh thô xấu, cao không tới đầu gối, đang dẫm loạn lên mặt đất mùa thu, mình nghe thấy rành rọt cái giọng cười khàn khàn của những khẩu súng máy Đức, đang biến những con người sống, đẫm mồ hôi, thành những thây ma. Hai trung đoàn đã bị đánh tan tác phải quẳng cả vũ khí tháo chạy. Một trung đoàn kỵ binh nhẹ của quân Đức truy kích ngay sau lưng họ. Chúng mình đang ở bên sườn trung đoàn, chỉ cách chừng ba trăm xa-gien hoặc còn gần hơn nữa.
Có lệnh. Chúng mình tập hợp trong nháy mắt. Mình chỉ nghe thấy một tiếng hô lạnh lùng, cố ghì nhỏ, nghe chỉ như tiếng hàm thiếc: "Tiến… tiến! " là mọi người đã phi vụt lên ngay. Hai tai con ngựa mình cuỡi cứ áp chặt lấy nhau, tưởng chừng không thể nào dùng tay gỡ ra được nữa. Mình ngoái cổ lại thấy trung đoàn trưởng và hai sĩ quan phi ngựa sau lưng. Nó kia rồi, nét vạch nằm giữa những người sống và người chết kia rồi. Nó kia rồi, sự mất trí vĩ đại đó kia rồi!
Hàng ngũ bọn kỵ binh nhẹ đã rối loạn, chúng còn tự làm nát thêm. Chính mắt mình nhìn thấy trung uý Chernekov chém chết một thằng ky binh nhẹ Đức. Mình nhìn thấy một cậu Cô-dắc ở đại đội sáu đuổi theo một thằng Đức, cậu ta phát điên lên, chém cả vào mông con ngựa của thằng kia. Da bật ra từng mảng dưới thanh gươm vung lên… Không, không thể tưởng tượng được! Những điều như thế không có cái tên nào để gọi nữa! Sau khi trở về, mình nhìn thấy mặt Chernekov tựa như đang tập trung suy nghĩ với một vẻ vui mừng cố giữ cho khỏi lộ ra. Thật cứ như đang ngồi đánh bài chứ không phải là ngồi trên yên sau khi vừa giết người. Trung uý Chernekov tiến còn xa. Một con người rất có năng lực.
4 tháng chín
Chúng mình được nghỉ ngơi. Sư đoàn của quân đoàn 2 bị điều ra mặt trận. Bọn mình đóng quân ở thị trấn nhỏ Kobizino. Sáng nay, những phân đội thuộc sư đoàn kỵ binh II và anh em Cô-dắc Ural hành quân cấp tốc qua thị trấn. Những cuộc chiến đấu đang diễn ra ở phía Tây. Súng nổ ầm ầm không lúc nào ngớt. Ăn trưa xong mình đi tới quân y. Một đoàn xe chở thương binh chạy tới chỗ mình. Vài người tải thương vừa cười vừa mở cửa một chiếc xe bốn bánh. Mình lại gần. Một gã bộ binh cao lớn, mặt rỗ, ái chà một tiếng, rồi mỉm cười xuống xe có một người tải thương đỡ. "Cậu Cô-dắc ạ, chúng nó đã néml cho mình một nắm đậu Hà Lan vào mông đấy. Mình nhận được bốn viên đạn ghém". Gã tải thương hỏi: "Thế quả pháo nổ ở phía sau à?" - "Sao lại nói là nổ ở phía sau. Chính mình tấn công giật lùi đấy chứ". Một nữ y tá bước ra từ trong một căn nhà nhỏ của nông dân. Mình vừa đưa mắt nhìn cô ta đã run bắn người lên, phải dựa vào một chiếc xe tải cho khỏi ngã. Cô y tá giống Lida một cách lạ lùng. Cũng cặp mắt ấy, khuôn mặt bầu dục ấy, cái mũi ấy, làn tóc ấy. Ngay đến giọng nói cũng như hệt. Phải chăng chỉ là mình mơ màng thấy như thế? Có lẽ bây giờ thì bất cứ người đàn bà nào mình cũng đều thấy giống Lida.
5 tháng chín
Suốt một ngày một đêm, cho ngựa ăn ở chỗ buộc ngựa, nhưng bây giờ lại phải ra ngoài ấy. Thể xác mình đã kiệt quệ, không còn chút sức lực gì nữa. Thằng lính kèn thổi bài đóng yên. Lúc nầy nó chính là thằng mà có lẽ mình sẽ cho ăn kẹo đạn một cách khoái trá nhất!
***
Grigori được đại đội trưởng phái đi liên lạc với ban tham mưu trung đoàn. Qua một nơi vừa diễn ra những cuộc chiến đấu. Grigori nhìn thấy một gã Cô-dắc bị giết ngay giữa đường cái. Gã nằm áp bộ tóc vàng xuống lớp đá dăm trải đường bị những vó ngựa dẫm thủng lỗ chỗ. Grigori xuống ngựa, bịt mũi khám người gã (mùi thây người chết xông nồng nặc, lờm lợm từ cái xác). Chàng tìm thấy trong túi quần đi ngựa có quyển sổ nầy, một cái bút chì hoá học và một túi đựng tiền. Chàng tháo lấy cái băng vải gài các kẹp đạn rồi liếc nhanh nhìn qua khuôn mặt trắng bệch, ủng sũng đã bắt đầu thối rữa. Hai bên thái dương và chỗ tinh mũi đầy nước đã đen như nhung. Bụi đường bám đen sẫm trên vết nhăn chếch ngang vầng trán người chết có vẻ như đang suy nghĩ rất lung một điều gì.
Grigori lấy chiếc khăn tay vải phin tìm thấy trong túi người chết phủ lên mặt anh ta rồi lại đi tiếp con đường lên ban tham mưu trung đoàn, nhưng chốc chốc vẫn ngoái nhìn lại. Quyển sổ được chuyển cho bọn văn thư ban tham mưu. Bọn nầy chụm đầu cùng đọc đi đọc lại vừa đọc vừa cười cuộc đời ngắn ngủi cùng những điều say đắm thường tình của một người mà họ không quen biết.
Chú thích:
(1) Chủ xưởng thuốc lá ở Rostov thời bấy giờ (ND)
(2) (1878 - 1927) Một nhà văn tư sản Nga, nổi tiếng với tập Sanhi (ND)
(3) Câu thơ và nhân vật trong "Evgeni Olêghin". Kiệt tác của Puskin (ND)
(4) (1778 - 1833) Một nhà văn lớn người Nga, tác giả của "Nhật ký người đi săn", "Cha và con", "Tổ ấm quý tộc". v. v.
(5) Anh chàng Timofey nầy vốn lùn. (ND)
(6) Mượn đầu đề của tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Anh Miltơn tả lại cảnh con người bị đuổi khỏi thiên đường. (ND)
(7) Khẩu hiệu mà chính phủ Nga hoàng nêu ra trong Đại chiến thế giới thứ nhất. (ND)
(8) Một loại kỵ binh, thường chiến đấu bằng súng trường. (ND)