Trương Hồng Tiệm người phủ Vĩnh Bình, mười tám tuổi đã là danh sư trong quận. Bấy giờ quan lệnh hạt Lư Long là ông Triệu nọ tham tàn bạo ngược, nhân dân đều khổ vì ông. Có chàng họ Phạm bị đánh chết, các bạn học phẫn nộ trước nỗi oan của bạn, định kêu lên quan Bộ viện, nhờ Trương viết lá đơn, hẹn chàng cùng tham dự. Trương bằng lòng. Vợ chàng là Phương thị đẹp mà giỏi, nghe được mưu ấy, can rằng:
- Ðại phàm Tú tài hành sự, có thể cùng chung thắng lợi mà không thể cùng chung thất baị. Thắng thì ai nấy tham công của trời, một khi thất bại thì tan tác như ngói vỡ không sao họp lại được. Nay thế giới này là thế giới của thế lực, ngay hay queo khó xác định được bằng lý. Chàng lại đơn độc, hoặc giả công việc xấu đi, thì ai là ngược bằng lš. Chàng lại đơn
Trương phục lời vợ, có ý hối, bèn lựa lời từ tạ các thư sinh, chỉ viết lá đơn rồi ra về. Qua thẩm vấn lần đầu, chưa biết là được hay không. Triệu đem số vàng lớn nộp cho các quan to, đám học trò bị bắt hết vì tội kết bè đảng. Lại truy bắt người viết đơn kiện, Trươ š hối, bàn lựa
Ðến địa giới phủ Phượng Tường, tiền đi đường cạn hết. Trời xẩm tối còn trù trừ giữa chốn đồng không, chẳng biết ngủ đổ nơi nào. Bỗng thấy một xóm nhỏ bèn rảo bước đi tới. Một bà già đang đi ra đóng cổng, thấy Trương, hỏi chàng cần gì. Trương kể tình thực. Bà già bảo:
- Ăn uống ngủ nghê đều là việc vặt cả. Có điều là không có đàn ông, không tiện giữ khách lại.
Trương hỏi:
- Tôi cũng không dám mong gì nhiều, chỉ xin ngủ nhờ trong cổng để tránh hùm sói là đủ.
Bà già bèn cho vào, đóng cổng lại, trao cho lá chiếu cói rồi dặn:
- Tôi thương khách không có chốn về, trộm cho ở lại qua đêm, tờ mờ sáng mai nên đi cho sớm, kẻo nương tử nhà chúng tôi hay biết ắt sẽ quở mắng.
Bà già đi khỏi, Trương tựa vào tường nhắm mắt nghỉ. Bỗng có ánh đèn lồng lấp loáng, Trương thấy bà già dẫn đường cho một nữ lang đi ra, vội vàng lánh vào chỗ tối, ghé mắt nhòm trộm, thì ra một cô gái đẹp chừng đôi mươi. Ra đến cổng, thấy cái chiếu cói, cô hỏi vặn bà già, bà già phải nói thực. Cô gái giận dữ mắng:
- Cả nhà toàn đàn bà con gái, sao dám chứa chấp trộm cướp?
Lập tức gọi:
- Người kia đi đâu rồi?
Trương sợ hãi, bước ra phục dưới thềm. Cô gái xét hỏi họ hàng xong, sắc mặt dịu lại bảo:
- May là kẻ sĩ phong, lưu lại không đáng ngại. Nhưng u già không biết trình lên, sơ sài qua quít như thế này, há phải cách tiếp đãi người quân tử?
Liền sai bà già dẫn khách vào nhà. Lát sau bày rượu ra, phẩm vật tinh khiết, rồi lại sai trải đệm gấm trên giường. Trương rất lấy làm cảm ơn, nhân đó hỏi riêng bà già họ tên gia chủ. Bà già đáp:
- Nhà chúng tôi họ Thi, ông bà đều tạ thế, chỉ còn ba con gái. Người cậu gặp mới rồi là cô cả, tên là Thuấn Hoa đó.
Bà già đi ra, Trương thấy trên ghế có tập Nam Hoa kinh chú, bèn lấy để trên gối rồi phủ phục trên giường mở ra xem. Bỗng Thuấn Hoa đẩy cửa vào, Trương buông sách, tìm giày mũ. Cô gái đến bên giường ấn chàng ngồi xuống, bảo:
- Khỏi cần, khỏi cần!
Nhân đó nàng ngồi cạnh giường, thẹn thò bảo:
- Thiếp thấy chàng là bậc tài sĩ phong lưu, toan đem nhà cửa gởi gắm, lại e phạm phải mối ngờ dưa mận, chẳng hay có tránh khỏi bị vất bỏ không?
Trương hoảng sợ không biết trả lời ra sao, chỉ nói:
- Không dám giấu, tiểu sinh ở nhà đã có vợ rồi.
Cô gái cười:
- Ðiều đó tỏ rằng chàng rất thành thực, nhưng không ngại gì cả. Chàng đã không ghét bỏ thì đến mai xin phiền mai mối.
Nói xong toan đi ra. Trương nhổm người kéo lại, cô gái cũng ở lại. Trời chưa sáng đã trở dậy, tặng vàng cho Trương, bảo:
- Chàng giữ lấy dùng để đến thăm em. Về chiều, muồn muộn chàng hãy đến, kẻo người khác trông thấy.
Trương theo lời, sớm đi tối đến, nữa năm thành lệ thường. Một hôm, Trương đến khá sớm, tới chỗ ấy chẳng thấy thôn xóm nào, vô cùng kinh ngạc. Ðang loanh quanh thì nghe bà già lên tiếng:
- Sao cậu đến sớm thắ?
Trong nháy mắt, nhà cửa y như cũ, còn mình đã ở trong phòng. Trương càng lấy làm lạ. Thuấn Hoa từ nhà trong đi ra, cười bảo:
- Chàng ngờ là thiếp chăng? Nói thực với chàng, thiếp là hồ tiên, cùng chàng vốn có mối duyên xưa. Nếu chàng lấy làm quái dị, xin từ biệt ngay lập tức.
Trương quyến luyến sắc đẹp của nàng nên cũng yên tâm trở lại. Ðến đêm bảo với nàng:
- Nàng đã là tiên, hẳn ngàn dặm chỉ bằng một hơi thở. Tiểu sinh xa nhà đã ba năm, nỗi nhớ vợ canh cánh bên lòng, vậy nàng có thể dắt tôi về thăm một lần được chăng?
Nàng có vẻ không bằng lòng đáp:
- Thiếp tự thấy tình cầm sắc sâu nặng hơn chàng. Chàng ở với người này lại nhờ người kia, đem cách ấy mà đối xử với người nhân ái với mình là sai lầm đấy.
Trương tạ lỗi nói:
- Sao nàng lại nói ra những lời như thế? Ngạn ngữ có câu: 'Một ngày vợ chồng, trăm năm ơn nghĩa'. Sau này tôi trở về, khi nhớ đến nàng cũng như hôm nay tôi nhớ vợ vậy. Thiết nghĩ có mới quên cũ, nàng cho thế là phải được sao?
Nàng bèn cười:
- Lòng dạ thiếp hẹp hòi, đối với thiếp, chỉ muốn chàng không quên; đối với người, chỉ mong chàng không nhớ. Nhưng nếu chàng muốn về thăm, việc ấy nào có khó gì? Nhà chàng chỉ cách gang tấc mà thôi.
Rồi cầm tay nhau ra khỏi nhà. Thấy đường sá tối tăm. Trương ngại ngần không dấn bước, nàng phải kéo đi. Chẳng bao lâu, nàng bảo:
- Ðến nơi rồi! Chàng về, thiếp hẵng đi đây!
Trương dừng chân nhận kỹ, quả thấy cổng nhà mình. Trèo tường vào thấy trong nhà đèn còn sáng. Ðến gần lấy hai ngón tay gõ cửa, bên trong hỏi là ai. Trương nói rõ vì sao về. Người bên trong cầm đèn, mở then, đúng là Phương thị. Ðôi bên mừng rỡ, dắt tay vào màn. Trương thấy con trai nằm trên giường, cảm khái nói:
- Hồi tôi đi, con mới đứng đến đầu gối, nay người đã dài bằng chừng này rồi!
Vợ chồng dựa kề, ngỡ còn trong mộng. Trương bắt kể hết những gì đã trải. Hỏi đến việc kiện tụng, bấy giờ mới biết đám thư sinh kẻ chết vì đói rét trong ngục, kẻ bị đưa đi xa, Trương càng phục tầm nhìn của vợ. Phương thị buông mình ngả vào lòng chồng nói:
- Chàng có thêm vợ đẹp, hẳn không còn nhớ đến người rơi lệ trong chăn đơn gối chiếc nữa nhỉ!
Trương đáp:
- Không nhớ, sao còn về đây? Với cô ấy, tuy gọi là gắn bó nhưng rút cục không phải người đồng loại, chỉ riêng ân nghĩa của cô ấy là khó quên mà thôi!
Phương thị đáp:
- Chàng tưởng thiếp là ai vậy?
Trương nhìn kỹ, thì đâu phải là Phương thị mà là Thuấn Hoa! Ðưa tay sờ con thì chỉ là một cái gối tre. Trương ngượng quá, không nói sao được. Thuấn Hoa bảo:
- Lòng chàng thế nào đủ biết rồi! Lẽ ra dứt tình từ đây, còn may chàng chưa quên ơn nghĩa, sẩy chân tự chuộc vậy!
Vài ba ngày sau, nàng chợt nói:
- Thiếp nghĩ si tình quyến luyến chẳng có vị gì. Chàng hàng ngày oán thiếp không đưa đi, nay vừa hay thiếp định đến đô thành, tiện đường có thể cùng đšên
Bèn ngoảnh phía đầu giường lấy cái tối tre rồi cùng cưỡi lên. Thuấn Hoa dặn Trương nhắm mắt lại, chàng cảm thấy cách đất không xa, gió ù ù thổi. Lát sau đổ xuống. Nàng nói:
- Giã biệt chàng từ đây!
Trương đang định dặn dò, nàng đã đi mất hút, Trương đứng sững giây lát, nghe chó sủa trong thôn; giữa khoảng mênh mang thấy cây cối nhà cửa đều là cảnh vật làng cũ, bàn theo đường mà về. Vượt tường gõ cửa, hệt như hôm trước. Phương thị giật mình trở dậy, không tin là chồng về, gạn hỏi chứng cớ xác thực, mới khêu đèn nghẹn ngào bước ra. Lúc thấy nhau, Phương thị không sao ngăn được nước mắt. Trương vẫn nghi Thuấn Hoa biến hoá nên, lại thấy đầu giường có đứa trẻ nằm như đêm trước, bèn cười:
- Lại đưa cái gối tre về đây à?
Phương thị không hiểu, mặt biến sắc nói:
- Thiếp mong chàng ngày dài bằng năm, ngấn nước mắt trên gối vẫn còn đó. Vừa gặp được nhau tuyệt không có luyến thương gì cả, không hiểu lòng dạ chàng ra sao?
Trương quan sát thấy đúng, bấy giờ mới nắm cánh tay vợ sụt sùi, kể lại tường tận. Hỏi đến kết cục của vụ kiện, quả như lời Thuấn Hoa nói. Vừa mới cùng nhau cảm khái, đã nghe ngoài cửa có tiắng giày, hỏi không thấy thưa. Thì ra trong làng có tên Giáp là kẻ vô lại, trộm thấy nhan sắc Phương thị từ lâu. Ðêm ấy từ thôn khác về, xa xa thấy người trèo tường, hắn chắc mẩm là kẻ hẹn hò gian dâm, bèn bám theo vào. Giáp vốn không quen biết Trương mấy, chỉ núp mà nghe. Ðến khi Phương thị hỏi mấy lần, Giáp mới hỏi lại:
- Ai ở trong nhà thế?
Phương thị nói lảng:
- Có ai đâu!
Giáp nói:
- Tôi đứng nghe đã lâu, xin trộm phép bắt kẻ gian vậy.
Phương thị bất đắc dĩ phải nói thực. Giáp bảo:
- Cái án lớn của Trương Hồng Tiệm chưa xoá, hắn về nhà cũng phải trói nộp cho phủ quan.
Phương thị van nài mãi, Giáp càng nói sấn sổi. Lửa giận bốc lên, Trương vớ dao xông vào, chém vào đầu Giáp. Giáp ngã xuống vẫn kêu được. Trương đâm liền mấy nhát nữa hắn mới chết. Phương thị nói:
- Việc đã đến thế này, tội càng thêm nặng. Chàng trốn ngay đi, thiếp xin chịu tội.
Trương nói:
- Kẻ trượng phu chết thì chết, há chịu để nỗi nhục liên luỵ vợ con mà cầu sống hay sao? Nàng không phải lo nghĩ gì, chỉ cốt giữ sao cho thằng con này khỏi đứt mạch thư hương thì dù chết nhắm mắt được rồi.
Sáng ra, Trương lên huyện thú tội. Triệu vì là người trong vụ án nên tạm trừng trị sơ sơ. ít lâu sau từ quân giải lên đô thành, cùm kẹp cấm đoán rất khổ. Trên đường đi, gặp một cô gái cưỡi ngựa có bà già dắt đi qua, chính là Thuấn Hoa. Trương gọi bà già lại để nói chuyện, nước mắt theo lời gọi tuôn trào. Cô gái quay ngựa lại, vén tấm sa che mặt, kinh ngạc hỏi:
- Anh họ tôi đây, sao lại đến nông nỗi này?
Trương kể vắn tắt, Thuấn Hoa bảo:
- Cứ như anh trước đây thì quay đầu không ngó ngàng tới mới phải, nhưng tôi không nỡ. Tệ xá không xa, xin mời các vị chức dịch cùng hạ cố, lại xin đỡ ít tiền đi đường.
Cả bọn đi theo vài ba dặm, thấy một xóm núi, lầu gác hẳn hoi. Thuấn Hoa xuống ngựa đi vào, sai bà già mở cửa mời khách. Rồi đó rượu, chả đầy đặn ngon lành dường như có chuẩn bị trước. Lại sai bà già ra nói:
- Trong nhà vừa hay không có đàn ông, xin Trương quan nhân mời thêm hai vị công sai mấy chén, rồi đây trên đường còn nhờ cậy các vị nhiều. Có điều đã sai người sửa soạn mấy chục lạng vàng để quan nhân làm lộ phí và thù tiếp hai vị, nhưng nay chưa tới kịp.
Hai viên chức dịch mừng lắm, thả sức uống, không nói đến chuyện lên đường nữa. Trời gần tối, hai tên nọ say mèm. Thuấn Hoa bước ra, chỉ tay vào gông, lập tức gông tuột ra. Nàng kéo Trương cưỡi chung một ngựa, ruỗi nhanh như rồng bay. Lát sau, giục chàng xuống ngựa bảo:
- Chàng xuống đây thôi. Thiếp có hẹn với em gái ở hồ Thanh Hải, lại vì việc chàng nấn ná mất một buổi, phiền cô ấy trông đợi lâu rồi.
Trương hỏi:
- Khi nào gặp lại nhau được?
Thuấn Hoa không đáp, hỏi lần nữa, nàng đẩy Trương xuống ngựa mà đi. Ðến sáng, hỏi mới biết nơi ấy là Thái Nguyên. Trương bàn đếắn quận, thuê nhà dạy học trò, lấy tên khác là Cung Tử Thiên. Ở đấy mười năm, hỏi thăm biết việc truy lùng kẻ trốn đã lơi lỏng, lại loanh quanh trở về miền Ðông. Gần đến cổng làng, không dám vào ngay, đợi đến đêm khuya mới vào. Tới cổng nhà, thấy tường cao kiên cố, không trèo qua được đành lấy roi ngựa đập cổng. Một lúc lâu, vợ mới ra hỏi. Trương thì thầm cho biết, vợ mừng quá, mở cho vào, rồi giả vờ lớn tiếng mắng:
- Ở đô thành có túng thiếu thì nên quay về cho sớm, ai khiến ngươi nửa đêm đến đây?
Vào đến nhà, kể cho nhau mọi chuyện, bấy giờ Trương mới biết hai tên công sai bỏ trốn chưa về. Ðang trò chuyện, ngoài rèm có một thiếu phụ đi qua đi lại, Trương hỏi là ai, vợ đáp:
- Con dâu mình đấy!
Trương lại hỏi:
- Con bây giờ ở đâu?
Phương thị đáp:
- Con lên quận thi Hương chưa về.
Trương sa nước mắt:
- Lưu lạc chừng ấy năm, con nay đã khôn lớn nên người. Chưa kể việc con nối được mạch thư hương, chỉ riêng chờ mong, nàng cũng sắp cạn cả tâm huyết rồi.
Trò chuyện chưa dứt, con dâu đã hâm rượu nấu cơm, bày la liệt khắp bàn. Trương vui mừng quá sức mong đợi. Mấy ngày liền đều náu trong buồng, chỉ sợ người hay biết.
Một hôm, vừa mới đi nằm, bỗng nghe tiếng người huyên náo, đập cửa rất gấp. Hai vợ chồng sợ quá, trở dậy. Nghe người nói:
- Có cổng sau không nhỉ?
Lại càng sợ, vơ vội lấy tấm cánh cửa thay thang đưa Trương trèo tường ra ngoài giữa đêm rồi mới ra cổng hỏi xem, thì ra người đến báo tin con thi đỗ. Phương thị mừng rỡ, hối hận để chồng bỏ trốn, không thể kéo lại được nữa.
Ðêm ấy Trương vượt bờ chui bụi, vội chẳng kịp chọn đường, đến sáng vô cùng mệt mỏi. Lúc đầu vốn định đi về hướng Tây, bèn hỏi người qua lại, thì ra cách con đường lớn lên kinh đô không bao xa nữa. Trương bèn vào trong làng, toan gán áo để ăn. Thấy một cái cổng cao, có dán tờ báo tin đỗ trên tường, Trương tới gần xem, biết là nhà họ Hứa, mới đỗ Hiếu Liêm. lát sau, một cụ già từ trong đi ra, Trương đón chào và kể tình thực. Ông già thấy dung mạo thanh nhã, biết không phải người kiếm miếng ăn bàn mời vào khoản đãi, nhân đó hỏi đi đâu. Trương nói thác:
- Vãn sinh mở trường dạy học ở đô thành, trên đường về gặp cướp.
Ông già giữ lại để dạy cậu út. Trương hỏi sơ chức tước thì ra là quan Kinh Ðường đã nghỉ hưu; người đỗ Hiếu Liêm là cháu cụ. Hơn tháng sau, Hiếu Liêm dẫn một người đỗ cùng bảng đến chơi, nói là họ Trương quê Vĩnh Bình, trẻ tuổi, chừng mười tám mười chín. Trương thấy họ, quê đều đúng, bụng ngờ là con mình, nhưng trong ấp có khá nhiều nhà họ Trương nên hẵng im lặng. Ðến tối, khi cởi bỏ tang phục, Hiếu Liêm họ Trương đưa tờ giấy 'bổ dụng' ra, Trương vội mượn coi, thì đúng là con trai mình, bất giác sa lệ. Mọi người kinh ngạc hỏi han, Trương chỉ vào tên mình nói:
- Trương Hồng Tiệm chính là tôi đây.
Rồi kể hết nguyên do. Hiếu Liêm họ Trương ôm lấy cha khóc ầm lên. Hai chú cháu ông cụ Hứa khuyên giải, an ủi, mới đổi buồn thành vui. Hiếu Liêm cùng họ Hứa lập tức gửi thư cùng tiền bạc thưa lên quan Ngự sử, rồi cha con họ Trương đưa nhau về.
Phương thị từ lúc được báo tin con đỗ, hàng ngày buồn vì nỗi chồng bỏ trốn, bỗng nghe tin Hiếu Liêm đã về, thì càng đau buồn thương cảm hơn. Lát sau, cha con cùng vào, Phương thị kinh hãi như thấy từ trên trời rơi xuống. Hỏi duyên cớ, mới cùng nhau mừng mừng tủi tủi.
Cha con của Giáp thấy con trai Trương vinh hiển, không dám manh tâm gieo hoạ nữa. Trương đãi ngộ rất hậu, lại kể rõ tình trạng đêm hôm ấy, cha Giáp cảm động thêm cả phần xấu hổ; từ đấy giao hảo với nhau.
Thư sinh họ Cố người Kim Lăng, học rộng tài hoa, nhưng nhà rất nghèo, lại vì có mẹ già không nỡ rời dưới gối, nên hàng ngày chỉ vẽ thuê viết mướn kiếm ăn. Ðã hai mươi lăm tuổi mà vẫn phòng không lạnh lẽo.
Trước cửa nhà chàng là một ngôi nhà bỏ hoang từ lâu, một hôm có một bà già cùng một cô gái đến thuê để ở. Vì thấy không có đàn ông, nên chàng cũng chưa tiện thăm hỏi gốc tích của họ. Một hôm tình cờ từ ngoài về, chàng gặp cô gái trong phòng mẹ đi ra, tuổi chừng mười tám mười chín, xinh đẹp, thanh tú, trên đời ít có người sánh kịp. Gặp chàng, cô không tránh mặt nhưng có vẻ nghiêm lạnh. Chàng vào nhà hỏi mẹ, bà bảo:
- Ðó là cô gái ở nhà trước cửa, sang mượn thước và kéo may. Cô vừa cho biết nhà cũng chỉ có một con một mẹ. Trông cô có vẻ không phải con nhà nghèo. Hỏi sao không lấy chồng, đáp vì còn mẹ già. Ðể mai mẹ sang chào bà cụ, nhân tiện dò ý xem sao. Nếu ước vọng của họ không cao xa quá thì con có thể phụng dưỡng mẹ già thay nàng.
Hôm sau bà qua nhà cô gái, thấy mẹ nàng là một bà lão điếc. Nhìn trong nhà, tịnh không còn một bữa gạo cho ngày mai; hỏi cách sinh sống thì chỉ trông nhờ vào hai bàn tay cô gái. Dần dà mẹ chàng đem chuyện kết thân giữa hai nhà ra ướm hỏi; bà cụ ý như cũng bằng lòng, nhưng còn quay sang bàn bạc với cô gái; nàng nín lặng, xem chừng không được vui.
Mẹ về, kể lại cho con nghe và tỏ ý ngờ vực nói:
- Hay là cô ấy ngại nhà mình nghèo chăng? Tính tình nghiêm nghị không nói không cười, xinh như đào mận mà lại lạnh lùng như sương tuyết, thật là người kỳ lạ!
Mẹ con than tiếc một lúc rồi cũng bỏ qua.
Một hôm chàng ngồi ở phòng, bỗng có một thiếu niên đến nhờ vẽ tranh. Chàng ta dung nhan đẹp đẽ nhưng ý tứ thì khá buông tuồng. Hỏi ở đâu đến, đáp là ở thôn quê. Sau đó vài ba ngày lại đến một lần. Lâu dần thành quen, cười đùa cợt nhã. Chàng suồng sã ôm choàng lấy, cũng không chống cự gì lắm, liền tư thông với nhau. Từ đấy đi lại rất thân thiết.
Gặp khi cô gái đi ngang, thiếu niên đưa mắt nhìn, hỏi là ai, chàng đáp:
- Cô hàng xóm.
Thiếu niên nói:
- Ðẹp thì đẹp thật, mà sao thần sắc đáng sợ thế!
Lát sau chàng vào nhà trong, mẹ bảo:
- Vừa rồi cô gái sang xin gạo, nói đã hai ngày bếp không đỏ lửa. Cô gái thật có hiếu nhưng nhà nghèo quá, kể cũng đáng thương, ta cũng nên chu cấp ít nhiều.
Chàng nghe lời, mang đấu gạo sang, gõ cửa nói lại ý mẹ. Cô gái nhận gạo cũng không cảm tạ.
Hàng ngày nàng sang nhà, thấy mẹ chàng may vá, cũng vá áo xâu kim giúp mẹ. Ra vào trong nhà, làm lụng mọi việc như con dâu. Chàng càng thêm biết ơn nàng, mỗi khi có ai biếu xén thức gì đều chia ra biếu lại mẹ nàng. Cô gái vẫn không hé răng nói một lời cảm tạ. Bỗng nhiên mẹ chàng mọc cái nhọt ở chỗ kín, đêm ngày kêu khóc. Cô gái thường xuyên đến tận giường chăm sóc, rửa mụn bôi thuốc cho bà, ngày ba bốn bận. Mẹ rất áy náy nhưng cô không nề hà chuyện bẩn thỉu. Mẹ nói:
- Ôi, làm sao có một nàng dâu như con trông nom mẹ lúc tuổi già, để chết cho mát mẻ đây!
Nói xong, buồn bã nghẹn ngào. Cô gái an ủi bà rằng:
- Anh nhà là người con chí hiếu, còn hơn cảnh nhà cháu mẹ goá con côi gấp trăm lần.
Mẹ nói:
- Tới lui hầu hạ bên giường, nào phải là việc người con trai hiếu làm nổi đâu. Vả lại, thân này cũng đã xế chiều, hôm trái nắng trở trời chẳng biết thế nào nên rất khắc khoải về một người nối dõi.
Ðang nói thì chàng vào, mẹ khóc bảo:
- Mẹ mang ơn nương tử nhiều lắm, con chớ quên báo đáp.
Chàng cúi đầu vái tạ. Cô gái nói:
- Chàng kính trọng mẹ tôi, tôi không vái tạ, chàng vái tạ làm gì?
Do đấy chàng càng thêm kính yêu, nhưng cử chỉ nàng rắn rỏi, không đằm thắm, nên mảy may chẳng sàm sỡ được. Một hôm cô gái ra khỏi cửa, chàng đăm đăm nhìn theo. Nàng bỗng quay đầu lại cười tươi tắn. Chàng mừng rỡ vì việc xảy ra đến ngoài ý muốn, bèn chạy theo sang nhà; chọc ghẹo cũng không kháng cự, vui sướng cùng giao hoan. Xong xuôi, nàng dặn:
- Việc này chỉ một lần, không có lần thứ hai đâu nhé!
Chàng không đáp, ra về. Hôm sau, lại hẹn, thì nàng nghiêm nét mặt, không ngoái nhìn, đi thẳng. Ngày ngày nhiều lần qua lại, thường gặp nhau luôn, nhưng nàng không hề làm bộ tươi cười hay dùng lời đưa đẩy; hơi đùa cợt một chút đã nghe những câu lạnh người. Một hôm, nhân chỗ vắng người, nàng chợt hỏi:
- Chàng thiếu niên hàng ngày vẫn đến là ai thế?
Chàng kể tình đầu; nàng bảo:
- Ðã nhiều lần y có những cử chỉ, thái độ vô lễ với thiếp rồi. Vì là chỗ thân quen với chàng nên thiếp đành bỏ qua. Nhờ chàng chuyển lời; nếu còn tái phạm tức là không múôn sống nữa đấy!
- Anh phải cẩn thận, người ấy không đụng đến được đâu!
Thiếu niên nói:
- Không đụng đến được, sao anh lại đụng được?
Chàng chối là không có chuyện ấy, thiếu niên nói:
- Nếu không có gì sao những lời thô lỗ cợt nhả kia lọt vào tai anh được?
Chàng không còn biết nói thế nào. Thiếu niên nói:
- Cũng phiền anh chuyển lời hộ: Cô nàng đừng giả vờ nghiêm nghị nữa. Nếu không tôi nói toạc ra cho mọi người cùng biết.
Chàng rất giận, đỏ mặt tía tai; Thiếu niên bèn bỏ đi.
Một đêm, chàng đang ngồi một mình, bỗng nhiên cô gái tìm đến, cười bảo:
- Em với chàng tình duyên chưa dứt, lẽ nào không phải là số trời?
Chàng mừng cuống lên, ôm nàng vào lòng. Ðột nhiên, nghe tiếng giày lộp cộp, hai người giật mình nhổm dậy, thì thiếu niên đã xô cửa bước vào. Chàng kinh hải hỏi:
- Cậu là gì vậy?
Anh ta cười đáp:
- Tôi đến để xem con người trinh trắng đấy thôi.
Rồi ngoái nhìn nàng nói:
- Hôm nay không chê trách người khác nữa ư?
Cô gái đỏ lừng gò má, lông mày dựng đứng lên, không nói một lời. Nàng hất mạnh vạt áo, để lộ một chiếc bao da, thuận tay rút phắt ra một con dao găm sáng loáng, dài chừng một thước. Thiếu niên trông thấy, sợ hãi bỏ chạy. Ðủôi theo ra đến cửa, nhìn quanh, thì đã mất hút. Nàng cầm dao găm ném vào khoảng không, chỉ nghe một tiếng ỎrạtÕ đã thấy hiện ra một luồng sáng rực rỡ như cầu vồng. Lát sau nghe tiếng một con hồ trắng, đầu và mình mỗi thứ văng một nơi, nhìn mà thất kinh. Cô gái nói:
- Anh bạn đẹp trai của chàng đó. Tôi đã dằn lòng tha thứ, nhưng hắn nhất định không muốn sống thì biết làm thế nào?
Rồi nàng cất dao vào bao. Chàng cố kéo trở vào phòng, nàng bảo:
- Vừa rồi yêu quái làm mất cả hứng, xin để đêm mai.
Nói đoạn ra cửa đi thẳng. Ðêm sau, quả nhiên cô gái lại đến, bèn cùng nhau ân ái. Hỏi về kiếm thuật, nàng đáp:
- Ðó không phải là điều chàng nên biết. Hãy giữ kín, nếu lộ ra, e tai vạ đến chàng.
Lại bàn chuyện hôn nhân, cô gái nói:
- Ðã chung chăn gối, lại lo liệu việc nhà, không phải vợ thì còn là gì? Ðã là vợ chồng hà tất phải nói đến cưới hỏi.
Chàng hỏi:
- Hay là chê tôi nghèo?
Nàng đáp:
- Chàng đã đành là nghèo, nhưng thiếp giàu sao? Sum vầy đêm nay, chính là thương chàng nghèo đấy thôi.
Khi chia tay lại dặn:
- Việc làm cẩu thả này không thể thường luôn được. Lúc nên đến, thiếp sẽ tự đến, không nên đến thì ép buộc nhau có ích gì!
Về sau mỗi lần gặp gỡ, hễ chàng nói chuyện riêng tư là cô gái lại tránh đi. Tuy nhiên, việc vá may nấu nướng vẫn một tay nàng quán xuyến, không khác gì người vợ chính thức.
Ðược mấy tháng, mẹ nàng chết, chàng dốc sức lo việc ma chay. Từ đó, nàng ở nhà một mình. Chàng nghĩ phòng không bóng chiếc có thể tính chuyện chung chạ được, bèn nhảy qua tường mà vào, đến bên cửa sổ gọi mãi, nhưng rốt cuộc chẳng một ai thưa. Bèn lại cửa chính nhòm vào thì nhà trống không mà cửa vẫn cài. Trộm ngờ cô gái có nơi hò hẹn nào khác. Ðến đêm, lại tới, vẫn y như vậy, bèn tháo viên ngọc vẫn đeo bên mình để lại trên cửa sổ rồi đi. Hôm sau gặp nhau ở buồng mẹ. Khi chàng đi ra, cô gái theo sau,nói:
- Chàng ngờ thiếp ư? Mỗi người đều có tâm sự riêng, không thể nói hết với người khác. Nay dẫu muốn chàng hết ngờ cũng đâu có được. Nhưng có một việc phiền chàng lo liệu gấp.
Hỏi việc gì, đáp:
- Thiếp có mang đã tám tháng rồi, e sinh nở nay mai. Nhưng danh phận của thiếp chưa rõ ràng, chỉ có thể sinh con cho chàng chứ không thể nuôi con cho chàng được. Chàng hãy thưa riêng với mẹ lo tìm một người vú nuôi, nói dối là con xin được chứ đừng nói là con do thiếp sinh ra.
Chàng nhận lời, về kể lại với mẹ, bà cười bảo:
- Con bé này kỳ thật! Hỏi cưới thì không chịu, mà lại ăn vụng với con mình.
Bà vui mừng làm theo ý nàng và chờ đợi.
Lại cách hơn một tháng, có đến mấy ngày cô gái không sang. Mẹ lấy làm ngờ, đến cửa nhòm xem thì cửa đóng mà nhà vắng lặng. Gõ cửa hồi lâu mới thấy cô gái đầu bù tóc rối, mặt mũi không rửa, từ trong buồng bước ra, mở cửa cho bà vào xong, đóng lại ngay. Vừa vào trong nhà đã nghe tiếng trẻ khóc oe oe trên giường. Bà kinh ngạc hỏi:
- Con sinh từ bao giờ vậy?
Nàng thưa:
- Ðã ba ngày.
Giở tã lót ra xem thì là đứa bé trai, má bụ bẫm trán rộng, bà vui mừng nói:
- Con đã vì già mà nuôi cháu; một mình lênh đênh, rồi sẽ nương tựa vào ai?
Cô gái nói:
- Ðiều con canh cánh trong lòng, chẳng dám phơi bày cùng mẹ. Ðợi lúc đêm hôm vắng vẻ sẽ cho cháu về với bà.
Mẹ về nói chuyện với con trai, cũng thầm cho là lạ. Ðến đêm, bế đứa trẻ về. Lại mấy đêm sau, vào khoảng nửa đêm, cô gái bỗng gõ cửa, bước vào, tay xách chiếc túi da cười nói:
- Việc lớn của thiếp đã xong rồi. Từ nay xin vĩnh biệt!
Chàng vội hỏi duyên cớ, nàng nói:
- Công ơn nuôi mẹ thiếp vẫn khắc sâu trong dạ. Trước đây từng nói ỎChỉ một lần thôi, không có lần thứ haiÕ không phải có ý đem việc chung đụng gối chăn ra để báo đáp. Chỉ vì chàng nghèo không thể lấy được vợ nên gắng sinh cho chàng một đứa con để nối dõi. Những mong chỉ một lần là thành, chẳng ngờ lại thấy có kinh nên phải Ỏphá giớiÕ lần thứ hai. Nay ơn chàng đã đền, chí thiếp đã toại, chẳng còn gì ân hận nữa!
Hỏi:
- Trong túi có vật gì đấy?
Ðáp:
- Ðầu kẻ thù!
Hé ra cho nhòm, thì râu tóc bết vào nhau mà máu loang nhoè nhoẹt. Chàng sợ muốn đứt hơi, lại hỏi kỹ thêm. Nàng nói:
- Trước đây không dám nói với chàng, vì sợ nếu chuyện không giữ kín được sẽ lộ ra. Nay việc đẫ xong, kể chàng nghe cũng chẳng hại gì. Thiếp vốn người Chiết Giang, cha làm quan Tư mã bị kẻ thù hãm hại, nhà cửa bị tịch biên. Thiếp phải cõng mẹ già đi trốn, ấn giấu họ tên, chôn vùi tung tích đã ba năm rồi. Sở dĩ không báo thù ngay chỉ vì mẹ đang còn. Ðến khi mẹ mất, lại vướng Ỏkhối thịÕ đang mang trong bụng. Vì thế cứ nấn ná mà thành lâu. Ðêm hôm nọ đi vắng, chẳng có duyên có gì khác, chỉ vì đường sá cổng ngõ chưa thông thuộc, sợ có sự nhầm lẫn mà thôi.
Nói xong, ra cửa, lại dặn rằng:
- Ðứa con thiếp sinh ra, hãy chăm sóc cẩn thận! Chàng phúc mỏng, chẳng sống lâu được, con rồi sẽ làm rạng rỡ cửa nhà. Ðêm khuya đừng làm kinh động đến mẹ, thiếp đi đây!
Chàng đang rầu rĩ, toan hỏi đi đâu thì nàng đã vụt đi nhanh như chớp, chỉ nháy mắt đã không thấy đâu nữa. Chàng than tiếc, đứng sững như kẻ mất hồn. Sáng hôm sau kể lại với mẹ, hai mẹ con cứ tấm tắc là chuyện lạ lùng.
Ba năm sau quả nhiên chàng mất. Ðứa con mười tám tuổi đỗ Tiến sĩ, phụng dưỡng bà nôi cho đến hết tuổi già.
Hề Thành Liệt là một sĩ nhân ở Thành Ðô. Có một vợ và một thiếp. Người thiếp họ Hà, tiểu tự là Chiêu Dung. Người vợ chết sớm, bèn lấy vợ kế họ Thân, tính đố kỵ nhau, ngược đãi người thiếp họ Hà sinh được một con trai đặt tên là Ðại Nam. Hề lâu nay không trở về, Thân gạt Hà ra, không thổi cơm chung, cứ ngày ngày đong phần thóc cấp cho. Ðại Nam lớn dần, thóc ăn không đủ nữa. Hà phải dệt vải để phụ vào phần ăn, không dám xin thêm. Ðại Nam thấy ở trường học, trẻ con ngâm nga đọc sách, cũng muốn đi học. Mẹ cho là hãy còn bé quá, nhưng cũng dắt đến trường cho học thử, để con chán phải bỏ. Ðại Nam sáng dạ, sức học gấp đôi các trẻ khác. Thầy làm lạ, tình nguyện không đòi tiền học. Hà bèn cho con theo học thầy, biếu lễ chút đỉnh. Ðược hai, ba năm đã học thông kinh sách. Một hôm, đi học về nói với mẹ rằng:
- Trong trường có năm sáu đứa đeo lấy cha xin tiền mua quà bánh, sao con lại không có cha?
Mẹ nói:
- Chờ lúc nào con lớn lên, mẹ sẽ cho con biết.
Ðại Nam hỏi:
- Con nay đã bảy, tám tuổi, bao giờ mới là lớn?
Mẹ bảo:
- Con đến trường đi qua miếu đức quan Thánh thì nên vào lạy, ngài sẽ phù hộ cho chóng lớn.
Ðại Nam tin lắm, ngày hai buổi đi qua đều vào lạy. Mẹ biết thế, hỏi:
- Con khấn điều gì?
Cười đáp:
- Chỉ xin sang năm ngài cho con lớn bằng đứa mười lăm, mười sáu tuổi.
Mẹ cười. Song Ðại Nam sức học và hình vóc đều lớn như nhau, mới mười tuổi mà như mười ba mười bốn tuổi; những văn bài cậu làm, bài nào văn chương cũng trôi chảy. Một hôm, nói với mẹ rằng:
- Trước kia mẹ nói, con lớn lên mẹ sẽ cho biết cha ở đâu, bây giờ đã đến lúc rồi đấy!
Mẹ bảo:
- Chưa đâu, chưa đâu!
Lại hơn một năm nữa, đã như người lớn hẳn hoi, càng gạn hỏi luôn luôn. Mẹ bèn thuật lại ngành ngọn. Ðại Nam nghe nói, thương cảm khôn xiết, múôn đi tìm cha. Mẹ nói:
- Con hãy còn non trẻ quá, cha còn hay mất chưa biết, làm sao tìm được ngay?
Ðại Nam không nói gì mà bỏ đi, đến giữa trưa không về, bèn đến hỏi ở trường, thì thầy nói sau giờ cơm sớm chưa trở lại trường. Mẹ cả kinh cho là Ðại Nam bỏ học, bỏ tiền ăn ra thuê người đi tìm kiếm khắp nơi mà không có tung tích gì.
Ðại Nam ra khỏi cửa, mù mờ chẳng biết nên đi đâu, cứ thẳng đường mà đi miết. Gặp một người đang định đi Quỳ Châu, nói mình họ Tiền. Ðại nam ăn xin và đi theo. Tiền bực đi chậm quá, thuê cho một con lừa, tiền lưng cạn hết. Ðến Quỳ, cùng nhau ngồi ăn, Tiền lén bỏ thuốc vào thức ăn, Ðại Nam mê man bất tỉnh. Tiền chở đến một ngôi chùa lớn, giả thác là con mình, không may bị ốm giữa đường, hết tiền ăn, muốn đem bán cho nhà chùa. Tăng đồ thấy mặt mũi khôi ngô khác thường, tranh nhau mua. Họ Tiền lấy được vàng rồi ra đi. Tăng chúng đổ thuốc cho Ðại Nam, dần dần tỉnh, sư cụ trụ trì biết tin đến xem, thấy tướng mạo rất lạ, gạn hỏi ngọn ngành, lại càng thương, bảo các tăng giúp tiền bạc rồi cho đi.
Có thư sinh họ Tưởng ở Lô Châu, đi thi trượt trở về, trên đường gặp hỏi biết duyên cớ, khen là hiếu, kết làm bạn đồng hành. Ðến Lô Châu, cho ở trong nhà mình hơn một tháng, gặp ai cũng hỏi. Có người mách rằng trong đám thương nhân đi Mân có người họ Hề, bèn từ biệt họ Tường để đi Mân. Tưởng giúp cho áo quần giày dép, xóm làng cũng góp nhau giúp tiền ăn. Trên đường gặp hai khách buôn vải đi Phúc Thanh, mời cùng kết bạn đường. Ðược vài ngày, khách dòm được tiền trong đãy của Ðại Nam, bèn đem đến chỗ vắng, trói tay trói chân, cướp hết mà đi. Vừa có ông cụ họ Trần người Vĩnh Phúc đi qua đấy, cởi trói, dìu lên xe, chở về nhà mình. Ông cụ là một nhà cự phú, thương nhân các trấn phần lớn đều từ cửa nhà cụ mà ra. Cụ dặn các khách buôn Nam Bắc hỏi dùm tin tức của Hề, và giữ Ðại Nam ở lại làm bạn đọc sách với các con mình. Ðại Nam bèn ở lại, không đi đây đi đó nữa, từ đó nhà càng xa, tin tức càng nghẽn.
Hà Chiêu Dung sống cô quạnh ba bốn năm, Thân thị xén bớt phần ăn, đè nén đến điều, bắt phải tái giá. Hà tự làm lấy mà ăn, ý chí không lung lay. Thân ép bán cho một lái buôn Trùng Khánh. Lái buôn bắt cóc đem đi. Ðến đêm, Hà lấy dao cứa cổ. Lái buôn không dám bức, chờ cho vết thương lành lặn, đem bán lại cho một khách buôn ở Diêm Ðình. Ðến Diêm Ðình, Hà tự xẻ lồng ngực, lộ rõ phủ tạng. Người khách buôn hốt quá, lấy thuốc ra buộc vết thương; khỏi rồi, chỉ muốn làm vãi. Người khách buôn bảo rằng:
- Tôi có người bạn buôn, không có bộ phận của đàn ông, chỉ muốn tìm người may vá trong nhà, ở với người ấy cũng không khác gì làm bà vãi, mà lại cũng có thể bù lại chút vốn tôi bỏ ra.
Hà nghe theo. Người khách buôn cho xe đưa đi. Ðến cửa, chủ nhân chạy ra, thì là chàng Hề. Số là Hề đã bỏ nghiệp nho mà đi buôn. Người bạn buôn thấy không có vợ bèn đem Hà thị tặng cho. Gặp nhau kinh ngạc, buồn thương, kể lể những nỗi khổ sở. Hề mới biết là mình đã có con, đi tìm cha chưa về. Hề bèn dặn các quán trọ, dò hỏi tin tức Ðại nam, mà Chiêu Dung tự phận thiếp nay trở thành chính thất. Nhưng trải qua nhiều bước gian truân, yếu đau lắm bệnh, không thể gánh vác được mọi việc, bèn khuyên chồng lấy vợ lẽ, Hề trông gương tai hoạ lúc trước, không chịu nghe theo. Hà nói:
- Nếu thiếp là kẻ tranh giành ngôi thứ ở nơi giường chiếu, thì trong mấy năm nay đã theo người ta mà đẻ con rồi, có còn được đoàn tụ với nhau như ngày nay nữa đâu! Vả chăng cái ách mà người ta đặt lên cổ mình, còn đau đớn âm ỷ ở trong lòng, lẽ nào tới phiên mình mình lại đem đặt lên cổ người khác!
Hề bèn dặn bạn khách buôn mua cho một cô người thiếp già, tuổi hơn ba mươi. Qua nửa năm, khách quả mua được thiếp đem về. Khi vào cửa, thì lại chính là người vợ họ Thân. Người nào người nấy nhìn nhau lạ lùng, kinh hãi. Trước đó, Thân thị ở một mình được một năm, người anh tên là Bao khuyên tái giá. Thân nghe theo, duy ruộng nương thì bị con cháu trong họ ngăn không cho bán. Chỉ bán các vật sở hữu, tích cóp được mấy trăm đồng vàng, đem về nhà anh. Có người lái buôn ở Bảo Ninh, nghe nói thị giàu, có cả một hòm tư trang, bèn lót nhiều tiền cho Bao để lừa phỉnh thị mà cưới làm vợ. Nhưng người lái buôn thì già khụ và tàn phế, chẳng còn sức làm đàn ông nữa. Thân oán giận anh mình, không yên phận làm vợ, hết doạ thắt cổ trên giường, lại đe gieo mình xuống giếng, quấy nhiễu không chịu nổi. Lái buôn giận, lục soát tiền bạc lấy hết, định đem bán làm thiếp, nhưng ai cũng chê đã lỡ thì rồi. Lái buôn ta đi Quỳ Châu, đem thị đi cùng, gặp người khách buôn cùng một cửa hiệu với Hề, vừa may lại trúng ý định, bèn mua mà mang đi. Ðến khi gặp Hề thì vừa thẹn, vừa sợ, nói không ra một tiếng. Hề hỏi lại người khách buôn cùng cửa hiệu cũng biết đại khái, bèn nói:
- Nếu gặp người đàn ông khoẻ mạnh, thì đã ở lại Bảo Ninh, đâu có gặp nhau ở đây nữa! Âu cũng là số cả! Nhưng nay ta mua thiếp chứ không phải cứơi vợ, vì thế, trước hết hãy vào lạy Chiêu Dung để đúng lễ vợ cả vợ bé đã!
Thân lấy làm xấu hổ, Hề nói:
- Xưa kia còn làm vợ cả thì như thế nào?
Hà khuyên nên miễn cho thị, nhưng Hề không chịu, cầm gậy đứng trước mặt cưỡng ép. Thân bất đắc dĩ cũng phải lạy, nhưng trước sau vẫn không chịu hầu hạ, chỉ làm lụng ở phòng khác. Hà đều khoan dung cho hết, cũng chẳng nỡ xét nét siêng năng hay lười biếng. Mỗi khi chuyện trò yến ẩm cùng Chiêu Dung, Hề cứ gọi Thân thị đến hầu hạ bên cạnh. Hà muốn thay thế bằng một con hầu, Hề không nghe. Gặp lúc quan huyện lệnh họ Trần tên Tự Tông, đến nhậm chức ở Diêm Ðịnh. Hề có việc tranh chấp nhỏ với người làng, họ bèn kiện Hề tội cưỡng bức vợ cả làm vợ lẽ. Trần Công không xét, quát mắng đuổi ra. Hề mừng lắm, nói riêng với Hà, ca ngợi ông huyện nhân đức.
Một đêm, canh đã khuya, tiểu đồng gõ cửa vào báo quan huyện lệnh đến. Hề hốt quá, vội vàng mặc áo xỏ giày, thì quan đã vào nhà trong, lại càng hoảng, không biết làm thế nào. Hà nhìn kỹ, vội vàng đi ra, nói rằng: “Con ta đây mà!” Rồi khóc lên. Trần Công bèn sụp xuống đất, nức nở nghẹn ngào. Sô là Ðại Nam từ khi theo họ của cụ Trần đến nay đã nên quan. Lúc ông mới từ kinh đô chuyển đến, có vòng đường đi qua cố hương, mới biết hai mẹ đều đã cải giá, gục đầu thương cảm. Người trong họ biết Ðại Nam đã là quan sang, đem nhà ruộng trả lại cả. Ông cho đầy tớ ở lại để sửa sang, xây cất, mong có ngày cha lại trở về. Rồi được bổ nhiệm ở Diêm Ðình, lại múôn bỏ quan để tìm cha. Cụ Trần ra sức khuyên can. Vừa gặp lúc có người thầy bói bèn xin một quẻ. Thầy bói nói:
- Nhỏ thành lớn, thiếu thành trưởng, tìm trống được mái, tìm một được hai; quẻ này đi làm quan thì tốt.
Trần Công bèn đi nhậm chức. Vì không tìm được hai thân, nên làm quan mà không dám ăn mặn, uống rượu. Ngày hôm ấy, nhận được đơn kiện của người làng, thấy nói đến họ Hề, có ý ngờ, lén sai người tâm phúc đi hỏi han, quả đúng là cha, bèn thừa lúc đêm tối, đi ra theo kiểu “vi hành”; gặp lại mẹ chàng tin thầy bói là thần kỳ. Khi trở về, dặn chớ tiết lộ, đưa hai trăm đồng vàng, bảo bố sửa soạn hành trang trở về làng cũ. Bố tìm đến nơi thì nhà cửa mới mẻ, nuôi thêm hai người hầu ngựa cưỡi, nghiễm nhiên là một đại gia.
Thân thị thấy Ðại Nam giàu sang thịnh vượng thì lại càng hổ thẹn. Người anh là Bao nghe tin, đâm đơn lên quan, muốn giành lại ngôi vợ cả cho em mình. Quan điều tra được thực tình. Giận nói:
- Ðã tham của, khuyên em tái giá hai lần đổi chồng, còn mặt mũi nào mà tranh giành cả lẽ như ngày xưa?
Bèn truyền đem Bao ra đánh roi rất nặng.
Từ đó, danh phận rõ ràng, Thân cam phận bé mọn thờ Hà như chị, thì Hà cũng lấy nghĩa mợ cả đối xử với Thân như em, quần áo, ăn uống không một thức gì tranh phần dùng riêng. Trước kia, Thân vẫn sợ Hà phục thù, đến đây lại càng thẹn thùng, hối hận. Hề cũng quên điều ác ngày xưa của thị, cho phép người nhà gọi bằng thái mẫu, chỉ có phong tặng là không được mà thôi.
Thư sinh họ Ðổng, tên tự là Hà Tư, người ở ấp Tây đất Thanh Châu. Vào tháng đông, trời gần tối, trải chăn ra giường và đốt mẻ than dưới gầm. Ðang định thắp đèn lồng thì vừa có người bạn mời đi uống rượu, bèn đóng cửa mà đi.
Ðến chỗ bạn, thấy trong bàn tiệc có một thầy lang sành xem mạch thái tố, chẩn mạch cho khắp mọi người. Sau cùng, nhìn đến thư sinh Vương Cửu Tư và chàng Ðổng, ông thầy nói:
- Tôi xem cho người đã nhiều, chưa thấy ai có mạch lạ như hai ông; mạch thì sang mà có điềm hèn, mạch thọ mà có điềm yểu. Thật bỉ nhân chẳng dám hiểu ra sao nữa. Mà riêng ông Ðổng lại càng lạ lắm.
Mọi người cùng kinh ngạc nhao lên hỏi. Ông lang đáp:
- Thuật của tôi chỉ biết đến đấy là cùng rồi, không dám đoán liều nữa. Chỉ xin hai ông tự mình cẩn trọng mà thôi.
Hai người mới nghe sợ lắm, sau rồi cùng nghĩ là câu nói nước đôi mơ hồ, nên bỏ qua chẳng để tâm nữa.
Nửa đêm, Ðổng ra về, thấy cửa nhà học khép hờ, ngờ quá. Trong cơn say, cố nhớ lại, tất là khi đi vội vã, quên khoá cửa. Vào phòng, chưa kịp đốt đèn lên, hãy đưa tay sờ vào trong chăn trước xem có ấm hay không. Vừa mới thọc tay vào, đụng ngay da thịt mịn màng của ai đang nằm sẵn, kinh ngạc hết sức, vội rụt tay lại. Ðốt gấp đèn lên, thì ra một cô em tuyệt mỹ, mặt sáng sủa, tuổi còn non, không khác gì thần tiên. Mừng cuống cuồng, đùa bỡn, đưa tay xuống phần dứơi cơ thể, thì xù xì một nắm lông đuôi. Hốt hoảng quá định chạy, thì cô gái đã tỉnh dậy, đưa tay ra nắm lấy cánh tay hỏi:
- Chàng định đi đâu?
Ðổng càng sợ, người run lên, năn nỉ xin người tiên tha cho. Cô gái cười, nói:
- Thấy cái gì mà cho người ta là tiên?
Ðổng đáp:
- Tôi chẳng sợ phần đầu mà sợ phần đuôi.
Cô gái lại cười bảo:
- Ðuôi đâu mà đuôi? Anh lầm rồi.
Ðoạn cầm tay Ðổng kéo vào cho sờ lại, thì thịt ở đùi mềm mại như mỡ, chỗ xương cụt nhẵn thín.
Cô gái cười nói:
- Thế nào? Rượu say mê mẩn, chẳng biết thấy gì đâu đâu mà lại vu cho người ta như vậy?
Ðổng vốn thấy người đẹp đã thích rồi, nay hết sợ lại càng mê mẩn, nghĩ lại tự trách mình là lầm. Nhưng vẫn còn điều nghi ngờ, không hiểu nàng vì sao mà đến. Nàng đáp:
- Anh không nhớ cô bé tóc vàng nhà hàng xóm phía Ðông sao? Bấm đốt ngón tay, từ lúc dời đi nơi khác, đến nay đã được mười năm rồi. Lúc ấy tôi chưa cài trâm, mà anh cũng còn để tóc trái đào cơ đấy.
Ðổng chợt nhớ ra, hỏi:
- Thế em là cô Toả nhà họ Chu đấy ư?
Nàng đáp:
- Phải đấy.
Ðổng nói:
- Bây giờ em nói, anh mới mang máng nhớ lại. Mười năm không gặp, thế mà đã thành người yểu điệu thế này rồi đấy! Nhưng sao mà lại đến được đây?
Cô gái nói:
- Thiếp lấy phải thằng chồng đần, được đâu bốn, năm năm, cha mẹ chồng theo nhau qua đời, lại chẳng may chồng cũng vừa mới mất, còn lại một mình thiếp, bơ vơ không nơi nương tựa. Nhớ lại người quen biết thuở nhỏ chỉ còn có mình chàng, nên cố gượng tìm đến gặp. Vừa tới cổng thì trời tối, xảy lại có người đến mời chàng đi uống rượu, bèn lén nấp để đợi chàng về. Ðợi đã lâu, chân lạnh cóng, nổi cả da gà lên, nên phải nhờ cái chăn cho ấm người lên một chút, xin chớ ngờ nhau.
Ðổng mừng, cởi áo cùng ngủ, lấy làm đắc ý lắm.
Ðược hơn một tháng, người gầy rộc hẳn đi. Người nhà lấy làm lạ, thì nói là cũng không biết tại sao. Càng lâu mặt mũi càng gầy võ. Mới đâm hoảng, vội đi tìm ông thầy chẩn mạch giỏi hồi trước, nhờ chẩn cho. Thầy lang đáp:
- Ðây là mạch bị yêu quái ám rồi. Cái điềm chết ngày trước, nay quả đã nghiệm. Bệnh không thể làm gì được nữa.
Ðổng khóc hu hu không chịu đi. Thầy lang bất đắc dĩ phải châm cho ở tay, đốt ngải cứu cho ở rốn, rồi đem thuốc tặng cho, dặn rằng:
- Nếu có gặp ai đấy thì phải gắng mà dứt đi.
Ðổng cũng tự biết nguy hiểm. Về đến thư trai, cô gái cười cợt đứng đón. Chàng tức mình nói:
- Ðừng dan díu với nhau nữa. Tôi sắp chết rồi đây.
Nói rồi bước đi không ngoái lại. Cô gái xấu hổ quá, cũng tức lên mà nói:
- Mày còn muốn sống nữa ư?
Ðến đêm, Ðổng uống thuốc rồi ngủ một mình. Vừa mới chợp mắt, đã thấy giao hợp cùng cô gái, tỉnh dậy thì tinh đã xuất ra rồi. Càng sợ, bèn dời giường vào nhà trong, vợ con đốt đèn canh giữ. Nhưng vẫn mơ thấy như cũ. Lén nhòm cô gái thì không thấy đâu nữa. Ðược mấy hôm, Ðổng thổ ra hơn một đấu huyết mà chết.
Vương Cửu Tư đang ở trong phòng học, thấy một cô gái tìm đến, mê thích vì sắc đẹp nên ăn nằm cùng nàng. Hỏi ở đâu đến thì đáp:
- Thiếp là láng giềng nhà Hà Tư. Anh ấy trước thân thiết với thiếp lắm, không ngờ bị hồ mê hoặc mà chết. Cái giống yêu quái ấy thật đáng sợ. Phàm người đã đọc đến sách vở, phải nên cẩn thận đề phòng.
Vương càng phục, bèn ân ái vui vầy với nhau. Ðược vài hôm, đâm mê hoảng, gầy ốm. Chợt mộng thấy Ðổng về bảo:
- Kẻ đang cùng anh mặn nồng là hồ đấy. Giết hại tôi rồi, nó lại còn múôn giết hại cả bạn tôi nữa. Tôi đã kiện nó ở dưới Âm ty, để rửa mối hờn. Trong vòng bảy hôm, cứ đêm đêm anh nên thắp hương ở bên ngoài phòng ngủ nhà mình đừng có quên.
Tỉnh dậy, lấy làm lạ, nói với cô gái:
- Tôi ốm lắm, e sắp bỏ thân nơi ngòi rãnh đến nơi, có người khuyên nên kiêng chuyện chung chạ.
Cô gái đáp:
- Mệnh đáng thọ, dẫu gần đàn bà vẫn sống, mệnh không thọ thì không gần đàn bà vẫn chết.
Lại ngồi kề bên mà cười đùa. Vương kìm lòng không đậu lại cùng nàng mây mưa. Xong rồi thì hối, nhưng vẫn không sao dứt hẳn được.
Ðến tối, cắm hương ở trên cửa. Cô gái đến, nhổ vứt đi. Ðêm lại mộng thấy Ðổng về, trách sao làm trái lời dặn. Ðêm hôm sau, ngầm dặn người nhà chờ lúc mình với ả ngủ rồi hãy lén đốt hương lên. Cô gái đang ở trên giường bỗng hoảng hốt nói:
- Lại đốt hương nữa đấy à?
Vương đáp:
- Không biết.
Nàng vội trở dậy tìm thấy hương bẻ dụi tắt đi, rồi trở vào nói:
- Ai xúi anh làm như vậy?
Vương đáp:
- Có thể là đàn bà con gái trong nhà lo tôi đau ốm, tin lời thầy bói, thắp hương để trừ tà đấy thôi.
Cô gái bối rối không vui. Người nhà lén dòm thấy hương tắt, lại đốt nén khác. Cô gái chợt thở dài, bảo:
- Phúc trạch nhà anh còn dầy thật. Tôi đã lầm lỡ giết Hà Tư rồi lại chạy đến với anh, thật đúng là lỗi của tôi. Tôi sắp phải cùng anh ta đến đối chất trước toà án Âm ty. Nếu anh không quên chút tình cũ, xin chớ làm hỏng mất cái túi da của tôi.
Nói xong, rụt rè bước xuống giường, ngã lăn ra đất mà chết. Ðốt lửa soi, đã thành một con chồn. Còn sợ nó sống lại, vội gọi người nhà lột da, treo lên.
Bệnh Vương rất nặng, thấy hồ hiện về nói:
- Tôi đã kêu oan ở pháp toà. Pháp toà bảo chàng Ðổng thấy gái mà mê, chết là đáng tội. Nhưng cũng buộc tội tôi mê hoặc người không đúng, thu mất viên kim đan, rồi lại cho sống lại. Vậy bộ da của tôi ở đâu.
Ðáp:
- Người nhà không biết đã đem lột mất rồi.
Hồ thảm đạm nói rằng:
- Ta giết người đã nhiều, nay chết kể cũng đã muộn. Nhưng anh thật nhẫn tâm thay!
Hờn giận mà bỏ đi. Vương ốm tưởng nguy, nửa năm mới khỏi.
Thuận Thiên Mỗ Sinh , nhà nghèo , gặp phải năm đói kém theo cha đi đất Lạc kiếm ăn . Tánh chàng rất độn , mãi 17 tuổi mới viết chữ thành hàng lối , nhhưng được bộ mặt lịch sự trai , khéo pha trò , tài nghề viết thư từ , cho nên ai cũng tưởng là chàng học giỏi lắm , nhhưng không dè bên trong rỗng tuếch .
Không bao lâu , cha mẹ kế tiếp qua đời , chàng trơ trọi một mình , phải làm nghề gõ đầu trẻ ỡ Lạc , để kiếm ăn độ nhựt .
Lúc đó trong xóm có người con gái mồ côi , họ Nhan , dòng dõi một nhà học giỏi . Khi người cha còn , thường dạy nàng học , chỉ đọc qua một lượt là nhớ nằm lòng . Ngoài mười tuổi , học làm thơ , người cha nói :
- Nhà ta có nữ học sĩ , tiếc không được đội mũ thôi .
Vì thế ông rất mực yêu quí , chỉ mong kén được một người chồng quý hiển cho con . Sau lúc ông qua đời , bà mẹ nàng vẫn ôm cái chí lớn đó . Nhưng đeo đuổi ba năm cũng chẳng toại nguyện , kế bà ấy cũng mất . Có người khuyên nàng lấy chồng học trò , nàng cũng đồng ý , nhưng cũng chưa kén được ai .
Vừa lúc mụ hàng xóm leo tường qua , nói chuyện với nàng , trong tay cầm một giấy viết chữ gói chỉ thêu , nàng mỡ ra xem , thì là chữ của Mỗ Sinh viết gởi bạn ở lối xóm . Nàng xem đi xem lại , khen ngợi chữ tốt . Mụ nọ dòm biết ý tứ , nói nhỏ :
- Ấy là một chàng đẹp trai , cũng mồ côi như cô , tuổi ngang như cô, nếu cô bằng lòng thì tôi mách chàng cậy mối đến là xong .
Nàng lẳng lặng không nói chi .
Mụ nọ về ngỏ ý với chồng . Người bạn lối xóm vốn chơi thân với chàng , đem chuyện ấy nói , chàng bằng lòng lắm , nhân có chiếc vòng vàng của mẹ để lại , bèn cậy người đem đến làm lễ vấn danh và xin cưới liền .
Vợ chồng như cá nước duyên ưa , hết sức vui vẽ . Ðến bửa được thấy văn bài chồng làm , nàng phì cười và nói :
- Văn với minh dường như hai người , thế này biết đời kiếp nào thi đổ ?
Từ đó sớm hôm khuyên đốc chàng học , nghiêm khắc như thầy đối với học trò . Tối đến , nàng chăm đèn ngồi , tự cất tiếng học ê a , học trước để làm gương cho chồng ; học mãi đến canh ba mới nghĩ .
Như vậy được hơn một năm , văn chương thi cử của chàng đã hơi thông , nhưng đi thi khoa nào cũng rớt . Thân danh lận đận , sinh sống lại nghèo , tự nghĩ tình cảnh buồn tênh , bất giác hu hu khóc lóc .
Nàng phát cáu , mắng nhiếc to tiếng :
- Trời để cho mình làm đàn ông thật uổng . Nếu để cho tôi bỏ khăn yếm , thay đổi làm con trai , thì tôi coi sự thi đổ dễ như trò chơi vậy .
Chàng đang buồn rầu héo gan héo ruột , nghe vợ nói khoác như vậy , quắc mắt giận nói :
- Mình là đàn bà , chưa được bước chân đến chổ thi cử bao giờ , mới tưởng công danh phú quí như chuyện xuống bếp múc nước hay nấu cháo vậy . Nếu cho mình được làm đàn ông thì rồi cũng lận đận rớt lên rớt xuống như ai , chứ tài giỏi gì ?
Nàng cười :
- Mình đừng nên giận , tôi nói thiệt đó . Ðến khoa thi này , tôi sẽ cải trang mà đội tên mình vô trường thi , nếu quả thật tôi cũng lận đận rớt lên rớt xuống như mình thì xin khoét mắt không dám coi rẻ thiên hạ nữa .
Chàng cũng cười và nói :
- Khanh chưa biết nổi cay đắng bên trong ra sao , nên muốn nếm thử . Ðã muốn vậy thì cứ làm , nhưng tôi chỉ sợ chân tướng lộ ra bị làng xóm cười chê mà thôi .
Nàng trả lời :
- Tôi nhất định làm thiệt không phải giả bộ đâu . Còn nhớ thường ngày mình nói tổ tiên có nếp nhà cũ ở đất Yên , vậy tôi xin cải trang làm con trai đi theo mình về ở đó , giả làm em mình , làng xóm biết đấy là đâu .
Chàng nghe theo . Nàng liền vô buồng bịt khăn mặc áo nam tử đi ra hỏi chồng :
- Mình xem tôi có làm con trai được không nào ?
Chàng nhìn vợ quả thật là một thiếu niên đẹp trai , trong lòng mừng rỡ , lập tức đi chào lới xóm để về cố hương . Những người chơi thân đều có quà tặng , mua một con ngựa đở chân , cùng vợ lên đường .
Người anh con nhà bác của chàng còn sống thấy hai em về , cùng trẻ đẹp , hết sức vui mừng sớm hôm chăm nom giúp đở . Lại thấy hai em thức khuya dậy sớm chăm chỉ học hành , lòng thêm yêu quí , thuê một thằng bé để hầu hạ riêng . Nhưng buổi tối , chàng đuổi thằng bé về .
Mỗi khi trong làng có đám cưới đám giổ gì mời thĩnh , duy có anh (anh đây tức là chàng) ra mặt , còn em chỉ ngồi học trong buồng , đến nổi về làng đã nữa năm mà ít người được trông thấy mặt .
Có người nào ân cần xin cho giáp mặt thì anh từ chối hộ . Người ta xem văn bài của em hay quá , lấy làm kinh hải . Có kẻ xông vào tận nơi thì em chỉ cái chào qua loa , rồi ẩn mặt ngay .
Những người được thấy dung nhan , đều hâm mộ tán dương , vì thế tiếng tăm vang dậy , mấy nhà quyền quí tranh nhau , muốn gã con gái cho . Người anh con bác đem chuyện ấy bàn tính , em chỉ nhoẻn cười , cố nài ép thì nói :
- Thề lập chí trèo lên mây xanh , không thi đậu thì không lấy vợ .
Gặp kỳ thi hạch tại tĩnh , anh em cùng đi thi . Anh lại rớt . Em đậu số một , rồi thi Hương đậu Cử nhơn thứ tư , qua năm sau đậu luôn tấn sĩ .
Trào đình bổ đi tri huyện Ðồng thành , việc cai trị giỏi dang , lần lần thăng Chưởng Ấn Ngự Sữ ở Hà Nam , giàu có ngang bậc vương hầu . Rồi viện cớ bệnh tật xin về quê quán hưu dưỡng . Quan khách đến thăm đầy ngỏ , đều từ tạ không tiếp .
Từ lúc học trò cho tới khi quý hiển , không hề nói tới sự cưới vợ , khiến ai cũng lấy làm lạ . Sau khi về hưu , dần dà có nuôi thị nữ hầu hạ . Người ta nghi chắc có sự tòn ten với mấy ả này , nhưng người chị dâu để ý dò xét , tuyệt nhiên không có sự gì ám muội .
Minh trào mất ngôi , trong nước đại loạn ,bấy giờ mới tự thú với chị dâu :
- Thú thiệt với chị , em không phải là đàn ông , mà chính là vợ của Tiểu lang đó . Vì thấy chồng học lôi thôi thi mãi chẳng đậu , em phát cáu tự làm cho biết tay . Bấy lâu giấu diếm hồi hộp , chỉ lo đở bể ra , bị nhà vua triệu vô tra hỏi thì thiên hạ cười chết .
Chị dâu không tin . Bèn tháo giày vớ đưa bàn cẳng cho xem , bấy giờ chị mới chưng hửng , nhìn trong giày thấy lót đầy bông gòn và vải . Từ đó , nàng trở lại làm đàn bà , còn chức hàm của vợ thì chàng lãnh lấy .
Hồi nào tới giờ , nàng không hề chửa đẻ , bèn ra tiền mua hầu cưới thiếp cho chồng , và nói :
- Phàm ai làm nên giàu sang cũng mua hầu có thiếp để tư phụng cho sướng thân . Riêng tôi làm quan trải mười năm , chỉ vò vỏ một mình , thế thôi . Mình phước gì mà được hưỡng hầu non gái đẹp như vầy chớ ?
Chàng cười và nói bỡn :
- Thì mình lựa chọn lấy ít cậu đẹp trai để chúng hầu hạ , như kiễu Sơn Âm công chúa , em Tống phế đế ngày xưa vậy , có sao ? Xin mình cứ việc .
Người đồn nhau câu chuyện ấy làm một trò cười .
Lúc ấy , cha mẹ chàng được ơn vua truy tặng mấy lần . Các hàng văn thân đến mừng , đều tôn chàng là quan Thị ngự , nhưng chàng hổ thẹn về sự nhận chức hàm do vợ làm nên , cho nên suốt đời cam làm anh học trò tầm thường , đi ra chưa từng dùng võng lọng bao giờ.