Những bịa đặt chết người trong Tam Quốc diễn nghĩa
Gia Cát Lượng "cướp" công Tôn Quyền, Lưu Bị, Chu Du - 6 sai lầm chiến lược của Khổng Minh - Người tình bí mật của Quan Công.
Gia Cát Lượng "cướp" công Tôn Quyền, Lưu Bị, Chu Du
Có nhà nghiên cứu nói rằng: La Quán Trung cho Khổng Minh "cướp" công lớn của nhiều nhân vật khác (lấy kế sách, công trạng của người khác gắn vào Khổng Minh)...
Cũng ý kiến này cho rằng, Gia Cát Lượng là người được La Quán TRung "tô son, vẽ phấn nhiều nhất" so với các nhân vật khác. Những điều này đúng hay sai ?
“Không thành kế” của Khổng Minh: Dựng chuyện !
Ngay từ đời Tấn (sau Tam quốc) đã có người tôn sùng Gia Cát Lượng. Một người tên Quách Xung còn đưa ra “5 chuyện của Gia Cát Lượng mà đời chưa biết”, trong đó có "không thành kế".
Cả 5 chuyện do Quách Xung đưa ra đều bị Bùi Tùng Chi bác bỏ khi chú giải Tam quốc chí. Lí do quan trọng để Bùi Tùng Chi bác bỏ là khi Gia Cát Lượng đóng quân ở Dương Bình thì Tư Mã Ý đang làm đô đốc Kinh Châu, đóng quân tại thành Tiết Uyển, nghĩa là xa hàng ngàn dặm, hoàn toàn không thể điều quân chớp nhoáng đi đánh Gia Cát Lượng. Mà như vậy, thì làm gì có "không thành kế" ?
Nhưng câu chuyện do Quách Xung bịa ra quá hấp dẫn, nên Tam quốc diễn nghĩa gán cho Gia Cát Lượng và đưa luôn vào truyện, các vở hí kịch về đề tài Tam Quốc cũng đua nhau diễn tích này.
Ba chuyện thất - không - trảm là ba trích đoạn được công diễn liên tục, chưa khi nào vắng mặt trên sân khấu. Thất là “thất thủ Nhai Đình”; không là “tòa thành bỏ trống”, tức "không thành kế"; trảm là “giết Mã Tốc”.
Ba chuyện này cực hay, nhưng đó là hư cấu, không phải sự thực lịch sử và cũng không lôgic.
Thí dụ, ở chuyện "không thành kế", Tam quốc diễn nghĩa cho rằng Tư Mã Ý không dám tấn công là sợ có quân Thục mai phục. Vậy sao không cử một toán trinh sát xem thực hư thế nào? Có mai phục hay chỉ là nghi binh?
Hơn nữa, Tư Mã Ý trông thấy rất rõ Gia Cát Lượng tươi cười một mình ngồi trên địch lâu gảy đàn. Gần đến như thế, tại sao không sai một vài cung thủ bắn chết béng Gia Cát Lượng cho rồi như binh pháp đã dạy: “Bắt giặc, bắt tướng trước”. Tư Mã ý thuộc làu binh pháp, chẳng lẽ không biết điều này?
Mặt khác, theo lời Quách Xung, khi ấy Tư Mã Ý có 25 vạn quân, Gia Cát Lượng có 1,5 vạn. Theo "Tam quốc diễn nghĩa", khi ấy Tư Mã Ý có 15 vạn quân, Gia Cát Lượng chỉ có 2.500 quân. Với quân số áp đảo như thế, Tư Mã Ý còn sợ gì mai phục? Muốn thăm dò địch tình, tránh bị mai phục, chỉ cần bao vây 3 ngày là biết liền. Vậy sao lại rút quân? Chẳng có lí do nào khiến Tư Mã Ý phải bỏ chạy cả. Vì vậy, khi chú giải Tam quốc chí, Bùi Tùng Chi kết luận câu chuyện Quách Xung đưa ra là không có cơ sở.
Bùi Tùng Chi viết: “Nếu quả như lời Quách Xung nói, Tuyên Đế (Tư Mã Ý) có 25 vạn quân, lại biết Gia Cát Lượng không có thực lực, nếu nghi có quân mai phục, tất tính cách tấn công, cớ sao lại rút lui?”.
“Lửa thiêu Tân Dã” thực ra là kế của Lưu Bị
"Không thành kế" là phịa đã đành, "Lửa thiêu Tân dã" cũng bị biến tướng. Thực ra có chuyện này, nhưng đó là mưu hoả công của Lưu Bị (sách Hậu Hán thư viết: Tiên chủ - Lưu Bị ém quân mai phục, rồi đốt trại giả vờ bỏ chạy. Lũ Đôn đuổi theo đều bị đánh tan tác). Chuyện là thế chứ không phải là mưu của Gia Cát Lượng.
Lửa thiêu Xích Bích thì có, nhưng đó là công của Hoàng Cái - bộ tướng của Chu Du, không phải do Gia Cát Lượng bày mưu. Đến như mượn gió đông lại càng nực cười. Tắm gội sạch sẽ, mặc đạo bào, xõa tóc đi chân không, Gia Cát Lượng biến thành phù thủy (nhận xét của Lỗ Tấn). Chuyện “mượn gió đông” cũng phịa nốt.
Gia Cát Lượng không phải phù thủy, mà là người thực. Trần Thọ trong Dâng biểu (Gia Cát Lượng tập), miêu tả “Gia Cát Lượng mình cao 8 thước, mặt mũi khôi ngô”. 8 thước thời Hán bằng 5 thước 5 tấc bây giờ, tức cao 1,84 mét.
Khi ra khỏi lều tranh, Gia Cát Lượng mới 26 tuổi. Tam quốc diễn nghĩa nói Gia Cát Lượng râu dài chấm ngực. 26 tuổi làm sao râu đã dài chấm ngực, đạo bào chấm gót? Quạt lông khăn lượt thì có thể, nhưng đó là mốt của các danh sĩ đời Hán mạt, không phải trang phục đặc thù của Gia Cát Lượng.
Câu “Quạt lông khăn lượt (thư thái ung dung), nói cười đấy mà cường địch tan thành tro bụi” là chỉ Chu Du, không phải chỉ Gia Cát Lượng. Nếu như có chuyện mượn gió đông thì là Chu Du mượn, vì rằng dân Đông Ngô xưa nay vẫn bảo chính Chu Du mới là người “mượn gió đông”.
7 lần bắt Mạnh Hoạch: Thổi phồng
Thực ra, công lao lớn nhất của Gia Cát Lượng là tổ chức thành công liên minh Tôn - Lưu (Tôn Quyền - Lưu Bị). Ông đề xuất chính sách liên kết với Đông Ngô để chống Tào Tháo. Tào Tháo suy yếu thì thiên hạ chia ba. Và ông đích thân triển khai chính sách đó.
Từ góc độ này mà xét, Gia Cát Lượng là một nhà chính trị và ngoại giao kiệt xuất. Sử ít đề cập đến chuyện Gia Cát Lượng là một nhà quân sự, càng không phải là nhà quân sự lỗi lạc. Sử gia Miêu Việt trong lời nói đầu "Tam quốc chí tuyển chú" viết: “Về chuyện chinh phục phương nam của Gia Cát Lượng, e rằng có sự thổi phồng, thí dụ, bảy lần bắt bảy lần tha Mạnh Hoạch là không phù hợp tâm lý. Hơn nữa, Tam quốc diễn nghĩa viết: Từ sau khi thuần phục Mạnh Hoạch, người phương Nam từ đó không làm phản nữa, cũng không đúng với sự thực lịch sử”.
Theo nhiều tài liệu, Gia Cát Lượng cũng không liên tục giở độc chiêu như trong "Tam quốc diễn nghĩa" hoặc dân gian đồn thổi. Thích giở độc chiêu là Quách Gia. Còn Gia Cát Lượng thì “cực kỳ thận trọng” như các sử gia nhận xét hoặc ông tự nhận.
Có thể ví ông như Tiêu Hà. Ông không giống Trương Lương, Hàn Tín. Nhưng trong "Tam quốc diễn nghĩa" thì gộp cả Tiêu Hà, Trương Lương và Hàn Tín vào một Gia Cát Lượng, không những “ngồi trong màn trướng mà thắng ngoài ngàn dặm”, hơn nữa, Gia Cát Lượng còn như một nhà tiên tri, biết tuốt. Bất kể ai, hễ trong tay có “Cẩm nang” của Gia Cát Lượng, cứ theo lời dặn trong đó mà làm, thì đánh đâu thắng đó, chiếm đâu được đó. Các đại tướng của Lưu Bị như Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân chỉ là những con rối trong tay Gia Cát Lượng, không hiểu cũng phải chấp hành, hiểu cũng phải chấp hành.
Thật ra “Cẩm nang” là có thật, nhưng đó là chuyện của Tào Tháo với Trương Liêu (Tam quốc chí - Trương Liêu truyện) xảy ra vào năm thứ 20 đời Kiến An (năm 215). "Không thành kế" là có. Tào Tháo, Văn Sính, Triệu Vân nghe nói từng sử dụng, nhưng cũng rất đáng ngờ, phải tiếp tục khảo cứu. Tuy còn có tranh cãi, nhưng người ta rất ít nhắc đến Tào Tháo, vì nói chung dân chúng không ưa Tào Tháo, dù ông mới là người đáng bàn nhất trong 3 nhân vật: Lưu Bị, Tôn Quyền, Tào Tháo.
“Thuyền cỏ mượn tên” là kế của Tôn Quyền
Gần đây, các học giả Trung Quốc đã soạn sách “100 điều chưa biết về Gia Cát Lượng”, trong đó có nêu nhiều tình tiết thực trong lịch sử mà nhà văn đã hư cấu. Một số tình tiết tiêu biểu là:
1. Quan Vũ giết Hoa Hùng: Truyện Tam quốc diễn nghĩa kể Quan Vũ chém Hoa Hùng trong nháy mắt, khi chén rượu mời của Tào Tháo trước khi ra trận còn nóng. Nhưng thực tế theo sử sách thì người giết Hoa Hùng, bộ tướng của đổng Trác là Tôn Kiên, người khai nghiệp ở Giang đông.
2. Thuyền cỏ mượn tên: Trong trận Xích Bích nổi tiếng, có tình tiết Gia Cát Lượng đi cùng Lỗ Túc và 30 thuyền cỏ trong sương mù, khiến Tào Tháo không dám xuất quân mà chỉ bắn tên ra. Thế là hàng chục vạn mũi tên cắm vào thuyền cỏ quay ngang. Gia Cát Lượng thu tên về nộp cho Chu Du. Sự thực việc dùng “thuyền cỏ mượn tên” là do chính Tôn Quyền thực hiện.
3. “Sinh Du hà sinh Lượng?”: Tam quốc diễn nghĩa kể chuyện Gia Cát Lượng 3 lần chọc tức Chu Du khiến Du tức phải than: “Trời sinh Du sao còn sinh Lượng?” rồi chết. Sự thực là Chu Du chết bệnh trong quân ngũ, không liên quan đến việc bị Gia Cát Lượng chọc tức.
4. Cha con Gia Cát Chiêm tử trận: Do đề cao Gia Cát Lượng, La Quán Trung để con và cháu ông là Gia Cát Chiêm, Gia Cát Thượng, tử trận khi đặng Ngải vào Tây Xuyên. Sự thực là cha con Gia Cát Chiêm đã hàng Đặng Ngải.
(Dịch giả Trần Đình Hiến)
6 sai lầm chiến lược của Khổng Minh
Không ai phủ nhận tài năng kiệt xuất của Gia Cát Khổng Minh về chính trị - ngoại giao, nhưng việc dùng binh của ông có đến mức thần thánh như chúng ta vẫn nghĩ?
Chỉ cần đọc “Tam quốc diễn nghĩa” - cuốn sách ca ngợi Gia Cát Lượng hết lời - cũng có thể tìm ra nhưng sai lầm lớn của ông trong lĩnh vực quân sự suốt quãng đời giúp nhà Thục.
Sai lầm 1: Thất thủ Kinh Châu
Năm 219, Quan Vũ lúc bấy giờ trấn thủ Kinh Châu đã đem quân tấn công quân Tào Tháo và chém Bàng Đức, nhưng lại mất cảnh giác với quân của Tôn Quyền mà không để ý rằng Tôn Quyền đang có âm mưu lấy lại Kinh Châu. Kết quả Kinh Châu bị mất và Quan Vũ, Quan Bình (con Quan Vũ) đã bị chết.
Đối với việc này, Quan Vũ chịu trách nhiệm trực tiếp, nhưng Gia Cát Lượng không chỉ đạo cặn kẽ cho Quan Vũ nên gây sai lầm lớn. Ông chưa nhận thức đủ nhược điểm của Quan Vũ là người nóng tính nên đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Tin tức Kinh Châu thất bại báo về, cả Lưu Bị và Gia Cát Lượng hối hận nhưng không kịp.
Sai lầm 2: Thất bại bi thảm Hồ Đình, Tỷ Quy
Thất bại thứ hai là thất bại Hồ Đình vào năm 222. Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi Lưu Bị đã muốn lấy lại Kinh Châu và năm đó, mượn danh nghĩa trả thù cho Quan Vũ nên đã tuyên bố tuyệt giao với Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền.
Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược “liên Ngô chống Tào” của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết rõ đánh Ngô hại nhiều hơn lợi, nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị, nên dẫn đến thất bại bi thảm Hồ Đình, Tỷ Quy.
Sai lầm 3: Không theo kế của Nguỵ Diên chiếm Trường An
Khi Khổng Minh ra Kì Sơn lần thứ nhất, Nguỵ Diên đã hiến một kế cực hay: đi theo hang Tý Ngọ chỉ một trận là chiếm được toàn bộ Tây Trường An (Hạ Hầu Mậu trấn giữ vốn là tướng Ngụy vô mưu). Nhưng Gia Cát Lượng nhất quyết không nghe. Nếu thực hiện theo kế Ngụy Diên, theo nhiều nhà quân sự, có thể cục diện Tam Quốc sẽ thay đổi lớn theo hướng có lợi cho nhà Thục.
Nói về chuyện đối xử với Ngụy Diên, Gia Cát Lượng cũng chứng tỏ sự đố kỵ của mình. Các nhà phân tích cho rằng: Ngụy Diên làm phản, chính vì Gia Cát Lượng gieo vào lòng ông tư tưởng phản trắc mà thôi.
Vừa mới gặp Ngụy Diên, Gia Cát Lượng đã thét quân chém đầu vì lý do: thuộc hạ mà phản chủ (trong khi đó, Gia Cát Lượng cũng thu nạp biết bao hàng tướng với lý do: từ bỏ chỗ tối về với chỗ sáng).
Rồi sau đó Gia Cát Lượng liên tiếp trù dập Ngụy Diên. Ra quân thì chuyên cho Diên làm tiên phong, nhưng dâng kế nào cũng không nghe. Như vậy thì làm sao Ngụy Diên - một tướng tài - có thể đội trời chung với Gia Cát Lượng?!
Sai lầm 4: Làm mất Nhai Đình
Nhai Đình là yết hầu của Hán Trung. Hán Trung là địa bàn chiến lược của nước Thục. Gia Cát Lượng hiểu rất rõ tầm quan trọng của Nhai Đình, nên khi cử Mã Tốc trấn giữ, đã bắt ông này phải viết bản quân lệnh, nếu để mất là phải chém đầu.
Sự cẩn thận này không thừa, nhưng điều đó phỏng có ích gì khi Gia Cát Lượng đã nhìn người không đúng. Trước khi chết, Lưu Bị từng dặn Khổng Minh rằng: “Mã Tốc là kẻ lẻo mép, không có thực tài, quyết không được trọng dụng”. Vậy nhưng Gia Cát Lượng không nghe, vẫn trao yết hầu vào tay kẻ chỉ biết cúc cung tận tuỵ với mình, mà không có thực tài.
Sai lầm 5: Tự làm suy yếu đất nước
Với tham vọng lớn thống nhất Trung Nguyên, Gia Cát Lượng 6 lần ra Kỳ Sơn đều thất bại, do nguyên nhân lương thảo không đầy đủ, hoặc sức của địch quá mạnh, hoặc nội tình nước Thục mâu thuẫn mà nửa chừng lui quân. Việc đánh nhau liên miên, không tích trữ được quân lương, của cải, khiến đất nước suy kiệt nhanh chóng và lòng dân ai oán.
Sai lầm 6: Phò tá kẻ bất tài hoang dâm vô độ
Lưu Bị trước khi chết đã uỷ thác việc nước cho Gia Cát Lượng, nói rằng: “Tài năng của ông cao hơn Tào Tháo gấp 10 lần, nhất định có thể làm cho nước nhà ổn định, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Nếu như con tôi không làm được gì, mong ông giúp đỡ, còn như nó bất tài thực sự, ông có thể thay nó”. Lưu Bị còn để lại di chúc bắt Lưu Thiện phải kính nể Gia Cát Lượng như cha đẻ.
Lưu Thiện nối ngôi Thục đế mới 17 tuổi không có tài, Gia Cát Lượng phải lo lắng toàn cục, chỉnh đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Sau này Lưu Thiện hoang dâm vô độ, tin dùng nịnh thần, mặc dù có thể lên thay Lưu Thiện nắm quốc gia, đưa Thục lớn mạnh như di huấn của Lưu Bị, nhưng Gia Cát Lượng quyết giữ đạo nghĩa cổ hủ, làm bề tôi đến lúc chết. Kết quả Thục suy yếu rồi sau bị diệt vong.
Chính vì thế mới có nhận định: Cơ đồ nhà Thục do một tay Khổng Minh dựng nên và cũng một tay ông hất đổ đi.
(Nguyễn Bùi tổng hợp)
Người tình bí mật của Quan Công
“Tam quốc diễn nghĩa” chưa bao giờ nhắc đến chuyện Quan Công có một người tình bí mật đẹp đến độ “chim sa cá lặn”. Hơn nữa, đau đớn thay, người tình ấy lại bị Tào Tháo “nẫng tay trên”. Đây có phải là lý do quan trọng khiến Quan Công quyết rời bỏ Tào Mạnh Đức, qua 5 ải chém 6 tướng Ngụy?!
Tại sao Quan Vũ là ông tổ nghề thợ cạo?
Quan Vũ, tự là Quan Vân Trường, dân thường kêu bằng Quan Công. Quan Công nổi tiếng bởi rất coi trọng tình nghĩa. Khi sa vào tay Tào Tháo, Quan Công được Tào Tháo đối xử hết sức tử tế, ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn, lên ngựa thưởng một nén vàng, xuống ngựa thưởng một nén bạc.
Quan Công cũng biết vậy: “Tào Công đãi ta cực hậu”. Nhưng không vì thế mà Quan Công phản bội Lưu Bị. Do vậy, Tào Tháo càng kính nể, nên khi nghe tin Lưu Bị ở chỗ Viên Thiệu, Quan Công bỏ đi, Tào Tháo cũng không đem quân đuổi theo.
Quan Công được suy tôn là Thần Tài đã đành, nhưng điều khó lí giải: ông còn được tôn là tổ sư của nghề thợ cạo. Thời Hán, người ta để tóc dài, do đó không có nghề thợ cạo. Có lẽ ông sử dụng thanh long đao - rất giống người thợ cạo sau này, luôn có “con dao cạo” trên tay, nên người ta mới “gán” cho ông là tổ sư của nghề này chăng?
Lần gian trá duy nhất trong đời Quan Vũ
Quan Vũ cũng có lần gian trá, và có lẽ là lần gian trá duy nhất trong đời. Đó là chuyện ông đánh tráo cây long đao.
Chuyện kể như sau: Một gia đình có cây long đao của tổ tiên để lại. Nó quá nặng, 80 cân thời ấy (bằng 40 kilôgam) không ai sử dụng nổi, để trong nhà thì vướng, gia đình đó đem thả xuống một cái vực, thi thoảng mới lấy lên xem có han gỉ hay không.
Cây long đao cực tốt, ngâm dưới nước mà không hề hấn gì. Biết chuyện, Quan Vũ hỏi mượn, múa thử thấy vừa tay, rất ưng ý bèn hỏi mua.
Nhưng vì là của gia bảo, gia đình kia không bán, chỉ cho mượn một thời gian rồi đòi lại. Quan Vũ bèn nghĩ ra một kế: đánh tráo cây long đao. Ông ngầm sai người thân tín rèn một cây long đao đúng như nguyên mẫu rồi đem trả. Gia đình kia nhận lại cây đao mà không biết là của giả. Có chuyện như vậy, nhưng người đời không coi đó là gian trá, trái lại, còn tán thưởng vì họ chịu ảnh hưởng câu y phục xứng kỳ đức, Quan Vũ xứng đáng được dùng cây long đao đó.
Không được liệt vào hàng mưu trí
Quan Vũ võ nghệ siêu quần, muôn người khôn địch. Sai lầm lớn nhất của ông là chủ quan khinh địch, không nghe theo lời khuyên của Vương Phủ đến nỗi bị vây khốn ở Mạch Thành, cuối cùng sa vào tay Lã Mông, hai cha con đều bị giết.
Màn Quan Công hiển thánh chẳng qua là vớt vát đôi chút uy tín, không đủ chứng minh ông là con người trí dũng song toàn (vì thực ra Quan Vũ không được liệt vào hàng mưu trí). Vì vậy như trên đã nói, trong dân gian người ta thờ ông là thờ Thần Tài, mong được ông phù hộ luôn buôn may bán đắt trong kinh doanh, chứ không thờ ông như một vị Thánh. Mà nếu được một số người coi là Thánh, thì là Thánh ở Trung Quốc, chứ không phải Thánh ở nước khác như có người lầm tưởng. Nhiều người trong chúng ta hiểu sai ý nghĩa này.
Quan Vũ có thể được suy tôn làm... Thần ái tình
Nhưng có một chuyện mà ít người biết nếu không đọc Thục ký và Hoa dương quốc chí hoặc Tam quốc chí - Quan Vũ truyện.
Đó là Quan Công từng yêu tha thiết một thiếu nữ, nhiều lần đề nghị Táo Tháo cho lấy làm vợ.
Thấy vậy, Tào Tháo đoán người con gái kia chắc thuộc loại người khác thường, bí mật sai người đi triệu về thì nàng quả thật “chim sa cá lặn”, nổi máu tham Tào Tháo liền “chiếm làm của riêng”.
Nói cho cùng, những sự kiện và nhân vật lịch sử dù rạng rỡ đến mấy đều có thể còn lắm điều bàn tán, thêu dệt thêm và dần rơi vào quên lãng, đúng như Tô Đông Pha đã viết: “Đại giang đông khứ, lãng đào tận phong lưu nhân vật” (Trường giang chảy về đông, sóng nước cuốn trôi hết anh hùng).
Khi Quan Vũ biết chuyện thì “ván đã đóng thuyền”, ông vô cùng đau khổ. Có thể nói, Quan Công vì nghĩa khí mà không hàng Tào, nhưng còn một lí do quan trọng không kém, đó là vì bị Tào Tháo cướp mất người yêu. Chỉ riêng chuyện này, Tào Tháo đã trở thành kẻ thù không đội trời chung của Quan Vũ.
Trong Tam quốc, Quan Công là nhân vật duy nhất công khai bộc lộ tình yêu nam nữ. Ông khác với các anh hùng hào kiệt, các chính nhân quân tử trong xã hội cổ truyền Trung Quốc ở điểm này. Trong Tam quốc diễn nghĩa và trong Thủy hử, các anh hùng hào kiệt đều không có tình yêu nam nữ mà chỉ có quan hệ vợ chồng theo tông pháp. Vì sao vậy? Điều này liên quan đến văn hóa Trung Quốc, phần cuối bài viết này sẽ nói rõ. Lẽ ra, Quan Vũ phải được suy tôn là Thần Ái tình mới đúng.
“Tam quốc diễn nghĩa” có vị thế như thế nào?
Đừng cho rằng hình tượng văn học hoặc hình tượng dân gian chỉ là hư cấu, không tác dụng gì. Trên thực tế, nhiều người coi Tam quốc diễn nghĩa như sách giáo khoa của cuộc đời.
Nhà sử học Tôn Lê từng nói: “Các mưu sĩ coi đây là cái túi khôn, người làm tướng coi đây là một bồ mưu lược”. Nhà lí luận văn học hiện đại Tiền Chung Thư có nói về người đời sau học tập Không thành kế của Khổng Minh như sau: Không thành kế là điển hình về “không lừa dối mà khiến người mắc lừa... không có quân mà thản nhiên cho người khác biết là không có quân mà tin rằng có quân, cho người khác biết thực trạng mà không tin vào thực trạng ấy, tức là siêu lừa”.
Lời bình của cha con Mao Tôn Cương cũng chí lý: “Người cẩn thận không dám liều, nhưng chỉ người cẩn thận mới dám liều... Tư Mã Ý tin rằng Khổng Minh vốn rất thận trọng, không dám liều, nên mới bị lừa”.
Ngụy Hi bình luận càng thú vị: “Nếu gặp bọn cướp thời bây giờ cứ xông bừa, chắc là tóm được Khổng Minh”. Có thể thấy, dù là hình tượng văn học hay hình tượng dân gian đều để lại những gợi ý cho người đời. Sự hình thành và lưu truyền một hình tượng nào đó là có lí do của nó. Nhiệm vụ của các nhà sử học là tìm ra cái lý ấy. Điều này quả không dễ.
Thực ra, lịch sử có ba hình tượng thì lịch sử cũng có ba cách đọc. Cách thứ nhất là đứng trên lập trường cổ nhân mà đọc, cách mà Tiền Chung Thư gọi là “ý kiến của lịch sử”. Hai là đứng trên lập trường hiện đại mà đọc, Tiền Chung Thư gọi là “ý kiến thời nay”. Ba là đứng trên lập trường cá nhân mà đọc, gọi là “ý kiến cá nhân”. Bất kể ai nói về lịch sử đều phải đụng đến ba ý kiến này.
Những "bịa đặt chết người" trong Tam Quốc diễn nghĩa (2): Nỗi oan dậy đất của Chu Du trước Gia Cát Lượng
Tính cách, thái độ, tài năng của những nhân vật lớn như Gia Cát Lượng, Chu Du, Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền... và những sự kiện lớn trong "Tam Quốc diễn nghĩa" thật - giả đến đâu, chúng ta sẽ dần dần được sáng tỏ.
Hãy bắt đầu từ nhân vật nổi tiếng Chu Du của Đông Ngô.
Gia Cát Lượng chưa bao giờ chọc tức Chu Du
Nhắc tới Chu Du, người ta liền nghĩ tới Tam khí Chu Du, chết vì tính đố kỵ; Nhớ câu Chu Du than thở: “Đã sinh Du sao còn sinh Lượng”. Nhưng đó là trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, nó hoàn toàn không giống Chu Du trong lịch sử.
Trong lịch sử, Gia Cát Lượng chưa bao giờ chọc tức Chu Du, và Chu Du cũng chưa bao giờ tức thổ huyết mà chết. Vì sao? Vì Chu Du là một con người rất có bản lĩnh. Tam quốc chí đánh giá rất cao về ông: “Cởi mở, khí phách hơn người”. Người cùng thời cũng rất trân trọng ông.
Lưu Bị nhận xét về Chu Du là “rất độ lượng”. Tưởng Cán - danh sĩ Hoài Hải, nói ông “là con người thanh lịch”. Nhân đây xin minh oan cho Tưởng Cán. Tưởng Cán sang Giang Đông sau khi trận Xích Bích đã xảy ra 2 năm, không làm gì có chuyện Tưởng Cán trộm thư của Sái Mạo gửi Chu Du. Bộ mặt Tưởng Cán cũng không gớm ghiếc, mũi trắng lốp như trong hí kịch. Trái lại, Tưởng Cán khá đẹp trai. Sách Giang biểu truyện chép: “Cán dung mạo đẹp, có tài hùng biện, khắp Giang - Hoài không có đối thủ”.
-Chu Du: Thiên hạ đệ nhất nam tử Giang Đông
Chu Du tuổi trẻ tài cao, nổi tiếng đẹp trai ở Giang Đông. Tam quốc chí chép ông “khôi ngô hùng vĩ, dung mạo tuyệt đẹp” và còn nói thêm “người Giang Đông gọi ông là Chu Lang. Lang là chỉ người đàn ông anh tuấn, kêu bằng Lang là để tán dương vẻ đẹp của người được gọi. Giang Đông có hai người được gọi là Lang: Chu Du và Tôn Sách.
Đương nhiên, một con người được kêu bằng Lang không chỉ ở dung mạo đẹp, mà còn ở khí chất, ở tâm hồn. Chu Du có đầy đủ khí chất cao thượng, tài hoa. Ông rất chú ý trau dồi nhân phẩm, giỏi trận mạc, am hiểu nghệ thuật, nhất là âm nhạc. Ngay cả khi rượu đã 3 tuần, tức đã ngà ngà say, ông vẫn chỉ ra nốt nhạc đánh sai trong dàn nhạc cung đình. Vậy nên mới có chuyện người đương thời lưu truyền câu “khúc hữu ngộ, Chu Lang cố” (khi nốt nhạc đánh sai, Chu Lang liền ngó về phía đó). Một con người tài hoa như vậy, với âm nhạc mà còn thế, chắc chắn biết điều binh khiển tướng, nắm vững nghệ thuật tiến hành chiến tranh.
Chu Du quả rất giỏi trận mạc. Trong trận Xích Bích, ông là Tổng chỉ huy liên quân Tôn - Lưu. Về phong độ Chu Du, Tô Đông Pha đã miêu tả trong Xích Bích hoài cổ: “Nhớ Công Cẩn năm xưa, khi Tiểu Kiều mới sánh duyên cùng, hào hoa phong nhã, quạt lông khăn lượt, nói cười đấy mà kẻ cường địch tan thành tro bụi”.
-Tướng chiến trường vẫn quạt lông, khăn lụa
Quạt lông là quạt làm bằng lông vũ, khăn lượt là khăn đội đầu bằng lụa xanh. Ung dung biết mấy! Hào hoa biết mấy! Dưới triều đại phong kiến, giới quí tộc và quan lại thường đội mũ. Mũ cao ngất ngưởng, áo rộng thùng thình. Nhưng đến cuối đời Đông Hán, khăn lượt quạt lông là cái mốt của danh sĩ. Làm tướng mà khăn lượt quạt lông, thì tính cách nho nhã càng nổi bật.
Ta có thể hình dung một cảnh tượng như sau: Tào Tháo bày thủy trận trên Trường Giang, chiến thuyền san sát, cờ xí rợp trời, người yếu bóng vía trông thấy mà hồn bay phách lạc. Vậy mà Chu Du vẫn quạt lông khăn lượt, ung dung tự tại, tính toán không sót một kẽ hở, cuối cùng đại phá quân Tào bằng chiến thuật lấy yếu đánh mạnh, để lại một chiến thắng lừng danh kim cổ, là niềm cảm hứng bất tận cho thơ ca ngàn đời sau đó.
Tuy nhiên, chiến tranh không phải là nghệ thuật, không chỉ cười cợt mà cường địch tan thành tro bụi. Khi chỉ huy trận Xích Bích, Chu Du lấy Tiểu Kiều đã 10 năm, chứ không phải mới thành hôn như Tô Đông Pha viết trong Xích Bích hoài cổ.
Tô Đông Pha viết vậy để khắc họa càng đậm tính cách Chu Du, người hùng trong trận Xích Bích. Tuy rằng không thể coi văn học là lịch sử, nhưng vẻ hào hoa phong nhã của Chu Du trong đời thường đúng như Tô Đông Pha miêu tả.
Quan trường, tình trường, chiến trường đều mỹ mãn
Chu Du năm 24 tuổi đã được Tôn Sách phong chức Kiến Uy Trung Lang Tướng, cai quản toàn bộ lực lượng quân sự Giang Đông. Cũng vào năm này, Chu Du lấy Tiểu Kiều, Tôn Sách lấy Đại Kiều, hai hoa khôi Giang Đông, ái nữ của Kiều Công. Có thể thấy Chu Du là con người mà về quan trường, tình trường, chiến trường đều mỹ mãn, không có lý do gì để ganh tị với người khác, lại càng không thể nhỏ nhen, ghen ghét người tài đến mức tức hộc máu mà chết.
Đúng là Chu Du và Lưu Bị khi công khai, khi ngấm ngầm có sự tranh chấp quyết liệt. Ông đã từng đề nghị Tôn Quyền giam lỏng Lưu Bị, chia rẽ Quan Công - Trương Phi. Nhưng đó là vì quyền lợi chính trị của Đông Ngô mà ông là một thành viên quan trọng. Đây là nhiệm vụ chính trị, không liên quan gì đến bản tính của ông.
Và còn chuyện này nữa. Khi ấy Chu Du ngại là ngại Lưu Bị, chứ không ngại Gia Cát Lượng. Đơn giản là khi ấy Gia Cát Lượng mới ra khỏi lều tranh, chưa có tiếng tăm gì, chưa phải là đối thủ của Chu Du. Chỉ vài nét phác họa như thế, đủ để ta thấy Chu Du mắc tiếng oan dậy đất với những chuyện đối đầu với Gia Cát Lượng.
-Ba bộ mặt của nhân vật và sự kiện lịch sử
Thực ra, rất nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử đều có ba bộ mặt, ba hình tượng lịch sử. Một là, bộ mặt ghi lại trong chính sử, gọi là hình tượng lịch sử, là bộ mặt do các nhà sử học chủ trương. Cũng cần nói thêm rằng, hình tượng lịch sử có khi cũng không đúng với bộ mặt thật trong lịch sử. Vì sao vậy? Vì rằng trong tay ta không còn những tài liệu nguyên thủy, cũng không thể dựng người xưa ngồi dậy để hỏi han, mà dù có hỏi thì chưa chắc đẫ nói thực. Vậy là ta phải dựa vào những gì ghi chép về lịch sử, chủ yếu là trong chính sử.
Nhưng chính sử đôi khi cũng có chỗ không tin cậy. Chính vì vậy mà nhà sử học nổi tiếng Lã Tư Dật từng cảnh báo: “Một số ghi chép trong “Tam Quốc chí” và “Hậu Hán thư” chưa chắc đã đủ độ tin cậy”. Thí dụ, nhà Thục - Hán không đặt chức quan chép sử, vậy nên những ghi chép về Thục - Hán đều dựa vào chuyện kể, hoặc tin tức vỉa hè, khiến chúng ta chỉ còn hy vọng vào những khảo chứng của các nhà sử học. Rồi thì, quan điểm của các nhà sử học cũng không thống nhất. Tất cả những cái đó, khiến lịch sử càng xa thì tam sao thất bản càng lớn, “Tam Quốc diễn nghĩa” đã chứng minh điều đó.
Hai là, hình tượng lịch sử của các nhân vật lịch sử trong tác phẩm văn nghệ (thơ ca, tiểu thuyết, hí kịch...) ta gọi là hình tượng văn học do các văn nghệ sĩ dựng nên trong tác phẩm văn học, mà Chu Du, Gia Cát Lượng, Lưu Bị, Tào Tháo, Tôn Quyền... trong Tam Quốc diễn nghĩa là những trường hợp điển hình. Những nhân vật lịch sử này đã được La Quán Trung gán cho một bộ mặt hoàn toàn khác trong chính sử và cả trong đời thường. Cụ thể như thế nào, xin dành cho khi nhắc đến từng người trong bài này.
Ba là, hình tượng các nhân vật lịch sử do dân chúng dựng nên, ta gọi là hình tượng dân gian. Vì rằng, trong con mắt mỗi chúng ta hầu như đều có một nhân vật lịch sử mà ta thích hoặc không ưa. Hợp với mình thì thích, không hợp với mình thì không ưa. Hoặc ai tô vẽ gì cũng mặc, nhân vật lịch sử có thế nào thì nói thế ấy, không thêm không bớt. Hình tượng dân gian này nhiều khi khác xa hình tượng văn học.
Thí dụ: Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Lưu Bị được giới thiệu là dòng dõi hoàng tộc, hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương, Hoàng đế đất Ba Thục, nhưng trong dân gian thì được coi là ông tổ của nghề đan lát, vì ông này xuất thân từ nghề dệt chiếu, đan giày cỏ; Quan Công xuất thân từ nghề buôn (ông này có cửa hiệu tạp hóa trước khi kết nghĩa vườn đào) nên dân gian thờ là Thần Tài; Trương Phi là võ tướng, dũng mãnh là thế, nhưng lại được coi là ông tổ của nghề đồ tể, vì Trương Phi xuất thân làm nghề mổ lợn.
Cũng vậy, trong Thủy Hử, Tống Công Minh (Tống Giang) được coi là ông tổ của nghề cướp đường, Thời Thiên được coi là ông tổ của nghề trộm cắp. Và còn nhiều thí dụ khác nữa, ở đây không kể hết.
Dịch giả Trần Đình Hiến (báo Gia Đình & Xã Hội)
Last edited by Lãng tử áo rách; 23-10-2010 at 08:57 PM.
Dưới đây là những bài viết của Dịch giả Trần Đình Hiến "mổ xẻ" hết sức thú vị về những "bịa đặt chết người" dưới góc độ lịch sử trong bộ tiểu thuyết nổi tiếng "Tam quốc diễn nghĩa".
Dịch giả Trần Đình Hiến là một dịch giả nổi tiếng về Văn học Trung Quốc (người dịch rất thành công các tác phẩm của Mạc Ngôn; và mới đây là Totem Sói), Trần Đình Hiến đã có những tìm hiểu sâu rộng về lịch sử, văn hóa Trung Hoa và trải qua nhiều năm trực tiếp sống, làm việc tại Trung Quốc.
Khi báo GĐ&XH đề nghị ông viết về những “bịa đặt chết người” về mặt lịch sử trong bộ tiểu thuyết nổi tiếng “Tam Quốc diễn nghĩa” (thực ra, tiểu thuyết được quyền hư cấu, nhưng khi đọc “Tam Quốc diễn nghĩa”, rất nhiều người đã tin những câu chuyện trong đó là sự thật lịch sử), ông đã hứng khởi nhận lời. Dưới đây là loạt bài viết của ông
Kỳ 1: Nhào nặn, tô vẽ lịch sử
“Uống rượu luận anh hùng”, “Ba lần đến lều tranh”: Bịa
Trung Quốc có 4 danh tác:
1. “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung, xuất hiện cuối Nguyên đầu Minh, thế kỷ XV.
2. “Thủy hử” của Thi Nại Am, xuất hiện dưới triều Minh (thế kỷ XV – XVI).
3. “ Tây du ký” của Ngô Thừa Ân, xuất hiện dưới triều Minh (thế kỷ XV – XVI)
4. “ Hồng lâu mộng” xuất hiện vào đời Càn Long (1736 – 1796) triều Mãn Thanh.
Trong 4 tác phẩm trên, “Hồng lâu mộng” được dánh giá cao nhất về nghệ thuật, nhưng ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội Trung Quốc và nước ngoài, thì phải kể đến “Tam quốc diễn nghĩa”.
“Tam quốc diễn nghĩa” là bộ tiểu thuyết lịch sử viết về “Tam quốc”. “Tam quốc” nhằm chỉ ba nước Ngụy, Thục, Ngô cùng tồn tại trong “thế chân vạc” trong khoảng 60 năm.
Năm 220 Tào Phi xưng Đế, năm 221 Lưu Bị xưng Đế, năm 222 Tôn Quyền xưng Đế. Đến năm 280, Tấn Vũ Đế thu phục ba nước, lập ra triều Tấn, chấm dứt “Tam quốc”. Nhưng nếu căn cứ vào những sự kiện lịch sử thì lịch sử Tam quốc phải kể từ niên hiệu Sơ Bình năm thứ nhất đời Hán Hiếu Đế (190) đến niên hiệu Thái Khang năm thứ nhất đời Tấn Vũ Đế (280), tổng cộng 90 năm. Nhà sử học Phạm Văn Lan trong Trung Quốc thông sử, gọi thời kỳ này là thời kỳ chia rẽ.
Tam quốc là thời kỳ lịch sử đầy những biến cố phi thường. Những nhân vật tạo nên các biến cố đó như Tào Tháo, Lưu Bị, anh em Viên Thiệu, Viên Thuật, anh em Tôn Sách, Tôn Quyền v.v... khi chính thức hình thành Tam quốc đều đã vắng mặt. Mà nếu thiếu họ thì không thành “Tam quốc”. Không chỉ các nhân vật lịch sử vắng mặt, mà những câu chuyện khiến người ta si mê, như “uống rượu luận anh hùng”, “ba lần đến lều tranh”... đều không có chỗ trong lịch sử “Tam quốc”.
“Nhất tướng công thành, vạn cốt khô”
Vì lẽ đó, chính sử cũng như dã sử, người ta đều phân định Tam quốc bắt đầu từ loạn Đổng Trác hoặc sớm hơn, cho đến khi vương triều Tây Tấn được thành lập. Lại nữa, “thế chân vạc” Ngụy, Thục, Ngô thực ra đã hình thành trước khi thật sự hình thành Tam quốc. Các thế lực quân phiệt ở các địa phương lớn mạnh lên qua các cuộc đàn áp nông dân khởi nghĩa cuối đời Đông Hán. Tiếp đó là cuộc hỗn chiến giữa các quân phiệt. Cuối cùng, còn lại ba thế lực lớn nhất là Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền tranh nhau ngôi bá chủ, và sau đó cả ba bị diệt, vương triều Tấn được thành lập.
Tam quốc là thời kỳ động loạn. Đây là thời kỳ chinh chiến triền miên, khói lửa ngất trời, xác chết đầy đồng, dân sống vất vưởng. Nhưng người ta có câu: “Trai thời loạn” - Đây cũng là thời kỳ xuất hiện các anh hùng hào kiệt cùng với những giang hồ hảo hán, và cả những kẻ côn đồ. Đủ các loại người. Hùng tài đại lược như Tào Tháo, cúc cung tận tụy như Gia Cát Lượng, tài hoa lỗi lạc như Chu Du, kiên trì nhẫn nại như Lưu Bị, coi trọng tình nghĩa như Quan Công...
Sức hấp dẫn của tác phẩm “Tam quốc diễn nghĩa” vượt lên các trứ tác lịch sử. Vì rằng tác phẩm văn nghệ cần sự tưởng tượng và hư cấu.
Trên cơ sở lịch sử, lấy lịch sử làm đề tài để tưởng tượng và hư cấu, hư hư thực thực, nửa thật nửa giả, rồi thì, do sức hấp dẫn ma mị của văn nghệ, giả biến thành thực, những hình tượng giả do văn nghệ tạo nên, lại như hình tượng lịch sử đích thực. Trường hợp “Tam quốc diễn nghĩa” là như vậy.
Từ quan điểm khoa học về lịch sử mà xét, những người nói trên không chỉ là anh hùng thời đại, mà còn là anh hùng dân tộc, vì rằng người nào cũng muốn chấm dứt chiến tranh, đất nước thống nhất, thiên hạ thái bình. Có điều, người nào cũng muốn giành lấy nhiệm vụ lịch sử ấy, không muốn nhường cho kẻ khác. Chính vì vậy mà nảy sinh mâu thuẫn, thậm chí xung đột, biến nhau thành kẻ thù không đội trời chung, một mất một còn. Rồi thì thắng lợi cuối cùng lọt vào tay một người, đúng như câu “Nhất tướng công thành, vạn cốt khô”.
Nhào nặn lịch sử, tạo sự hấp dẫn
Cho nên có thể nói rằng, chiến tranh giữa Ngụy, Thục, Ngô là không thể tránh khỏi, không còn cách nào khác. Lịch sử cứ thế tiếp diễn theo hai vế tương phản. Một vế dùng chiến tranh để kết thúc chiến tranh. Vế thứ hai là nhân dân chịu muôn vàn khổ cực để kết thúc chiến tranh. Vậy khi tán dương những anh hùng lịch sử, không được quên nỗi khổ không thể đong đếm được mà nhân dân phải gánh chịu.
Một đặc điểm của “Tam quốc” là thời gian ngắn. Ngụy, Thục, Ngô chỉ tồn tại được nửa thế kỷ, nếu cộng cả “tiền Tam quốc” cũng chỉ được 90 năm. 90 năm so với lịch sử một dân tộc chỉ một thoáng, như bóng câu qua cửa sổ. Mọi người chưa kịp suy ngẫm thì mọi chuyện đã trở thành quá khứ, trở thành lịch sử. Lịch sử thường do người chiến thắng ghi chép, không tránh khỏi thiếu công bằng. Dân gian chép sử thì năm người mười ý, “Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay”. Ý kiến của các học giả cũng ít khi nhất trí. Thí dụ, Gia Cát Lượng ra khỏi lều tranh là do Lưu Bị ba lần đến thỉnh cầu, hay là ông ta tự tiến cử? Trận Xích Bích là do công của Hoàng Cái hay là Tào Tháo tự đốt chiến thuyền rồi rút lui? Vì sao có chuyện tam sao thất bản như vậy? Xin xem tiếp những phần sau sẽ rõ.
Kịch tính trong lịch sử “Tam quốc” là đối tượng lọt vào mắt xanh của những nhà sáng tác văn học nghệ thuật và luôn luôn là đề tài để đời sau bình phẩm. Ai biết Lưu Bị thì hiểu Lưu Bị hơn Lưu Tú. Ai biết Tào Tháo thì hiểu Tào Tháo hơn Vương Mãng. Nhưng định hướng những suy nghĩ và cách nhìn khác nhau về một mối là do ý đồ trong tác phẩm văn nghệ, mà ở đây là “Tam quốc diễn nghĩa”.
Ngoài những lí do trên, “Tam quốc diễn nghĩa” còn một yếu tố quan trọng khác. Đó là do tư tưởng “tôn quân”. La Quán Trung đã vừa hư cấu vừa nhào nặn lại các sự kiện và bộ mặt các nhân vật lịch sử: Ai tôn phò nhà Hán thì dù bất tài cũng được tô vẽ thành anh hùng, tài năng quán thế, nhân cách cao thượng; ai chống lại nhà Hán – mặc dù đó là một triều đại đã mọt ruỗng - thì dù tài năng quán thế cũng trở nên bất tài, tư cách hèn hạ.
Tuy nhiên, sự vật bao giờ cũng có hai mặt của nó. Mặt thành công của “Tam quốc diễn nghĩa” nói trên, đi kèm với thất bại (trớ trêu thay, cũng có thể gọi là thành công) trong việc tiêu chí hóa mẫu người anh hùng đã nhào nặn người Trung Quốc thành những con người không thực, nhân cách méo mó, giả nhân giả nghĩa.
Theo dõi lịch sử Trung Hoa từ đời Tống trở đi thì rõ.
Trên đây là tổng quan về bộ tiểu thuyết trường thiên “Tam quốc diễn nghĩa”, một tiểu thuyết chương hồi, ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách của người Trung Quốc. Biết bao thế hệ người Trung Quốc say mê “Tam quốc diễn nghĩa”, người làm tướng tìm thấy ở đây mưu thần chước quỷ, kẻ làm quan rút ra ở đây những xảo thuật trị dân, triều Mãn Thanh còn lệnh cho hoàng gia phải thuộc lòng “Tam quốc diễn nghĩa”. “Tam quốc diễn nghĩa” trở thành sách gối đầu giường từ dân đến quan ở Trung Quốc, chí ít trong khoảng 500 năm lịch sử.
“Tam quốc chí”, “Tam quốc chí chú”, “Tam quốc diễn nghĩa”: Cuốn nào đáng tin?
Nhưng chính từ “Tam quốc diễn nghĩa”, ta thấy rõ hơn văn hóa truyền thống Trung Quốc và các anh hùng hảo hán tượng trưng cho lí tưởng thời đại trong “Tam quốc diễn nghĩa” đã được nhào nặn như thế nào?
Trước hết hãy làm rõ mối quan hệ giữa “Tam quốc chí”, “Tam quốc chí chú” với tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa”.
Tây Tấn diệt Ngụy, Thục, Ngô thống nhất Trung nguyên năm 280. Sau đó 5 năm, tức năm 285, Trần Thọ biên soạn xong “Tam quốc chí”. Trần Thọ quê Tứ Xuyên, tính cách điềm đạm, trung thực và đặc biệt rất thận trọng đối với công việc chép sử. Ông là một nhà sử học chân chính. Với thái độ cực kỳ cẩn trọng, ông ghi chép những gì đã được xác minh là đúng với sự thực. Với những vấn đề tồn nghi, ông không chép nếu thấy vô lý. Với những vấn đề còn phân vân hoặc thiếu sử liệu chứng thực, ông vẫn chép nhưng có ý kiến bảo lưu để người đời sau bàn tiếp. Vì khoảng cách mới 5 năm, chứng nhân lịch sử rất nhiều và vì người ta chưa kịp quên, nên hầu hết những gì ông khẳng định đều chính xác. Nhưng cũng vì thời gian quá ngắn so với công việc sưu tầm biên khảo, nên ông chưa kịp thu thập rất nhiều sự kiện và một số nhân vật lịch sử. Do đó mới có bộ “Tam quốc chí chú” (chú giải Tam quốc chí) của Bùi Tùng Chi xuất hiện sau đó 130 năm (năm 413).
Bùi Tùng Chi quê gốc Sơn Đông, sống vào thời Lưu Tống - Nam Bắc triều. Về tính cách, ông cũng cẩn thận như Trần Thọ. Vì có độ lùi 130 năm, đủ để ông thu thập hết những gì Trần Thọ bỏ sót hoặc phân vân chưa quyết. Sử liệu trung thực và những lời bình xét xác đáng của hai ông khiến hai bộ sách này trở thành chính sử có độ tin cậy cao, người đời sau mỗi khi tranh luận về Tam quốc mà ý kiến bất đồng, đều lấy “Trần chí, Bùi chú” làm trọng tài phân xử.
Tiếp đó, sau 1.100 năm, tức vào cuối Nguyên đầu Minh (cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV) xuất hiện tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung. Ông người Sơn Tây (có thuyết nói ông quê Tiền Đường-Chiết Giang hoặc Lư Lăng-Giang Tây), nghe nói là học trò Thi Nại Am (tác giả tiểu thuyết “Thủy hử”). La Quán Trung dựa vào sử liệu Tam quốc để sáng tác bộ tiểu thuyết trường thiên “Tam quốc diễn nghĩa”.
Xuất phát từ tư tưởng bảo hoàng, bằng sức tưởng tượng và hư cấu của một nhà văn tài năng trác việt, La Quán Trung nhào nặn lại các sự kiện và nhân vật lịch sử cho phù hợp với lí tưởng tôn quân của ông. Người nào trung thành với nhà Hán thì dù bất tài cũng được ông tô vẽ thành chính nhân quân tử. Ai chống lại nhà Hán thì dù là bậc anh hùng hào kiệt, ông cũng gán cho cái tên “gian thần quốc tặc”.
Hình tượng Tào Tháo trong dân gian sử không đẹp, người ta gọi là kẻ gian hùng, gian thần, thậm chí gian tặc. Câu cửa miệng của người đời: “Gian hùng như Tào Tháo”, “Đa nghi như Tào Tháo”. Chỉ mỗi Lỗ Tấn gọi ông là anh hùng.
Phần I: “Ta thà phụ người, chứ không để người phụ ta”
“Kẻ thoán nghịch”, “quốc tặc”...
Lỗ Tấn viết: “Tào Tháo là một con người rất có bản lĩnh, ít nhất cũng là anh hùng. Tôi không phải đồng đảng của Tào Tháo, nhưng tôi khâm phục ông ta” (Lỗ Tấn - Mối quan hệ giữa phong độ và văn chương Ngụy Tấn với thuốc và rượu).
Vậy ba nhận xét, ba hình tượng về Tào Tháo: anh hùng, gian hùng, gian tặc, hình tượng nào chuẩn xác?
Muốn giải đáp được câu hỏi trên, phải làm rõ Tào Tháo là con người như thế nào? Chuyện này không dễ.
Lỗ Tấn nói, đọc Tam quốc diễn nghĩa, xem kịch Tam quốc không phải là phương pháp đúng đắn để nhìn nhận Tào Tháo. Phải dựa vào sử sách, nhưng sử sách cũng có nhiều chỗ không đáng tin, vì rằng triều đại nào bền, ắt hẳn có nhiều người tốt, triều đại nào ngắn thì hầu như không có. Tào Tháo lại sống đúng vào một giai đoạn rất ngắn, tất nhiên bị đời sau xuyên tạc là lẽ thường.
Bôi xấu mãi thì tạo nên thành kiến. Thành kiến truyền từ đời này sang đời khác thì biến thành sự thực. Trường hợp Tào Tháo càng rắc rối. Vì rằng, hai bộ sách có ảnh hưởng nhất là Tam quốc diễn nghĩa và Tư trị thông giám đều không ưa Tào Tháo.
Tam quốc diễn nghĩa thì khỏi nói, gọi Tháo là quốc tặc. Còn Tư trị thông giám thì khi biên soạn, nhóm sử gia Tư Mã Quang đã lược bỏ rất nhiều điều tốt của ông ta.
Tô Đông Pha kể lại: “Khi nghe kể Tam quốc, người nghe thấy Lưu Bị thua thì chau mày, thậm chí chảy nước mắt, thấy Tào Tháo thua thì vui mừng hớn hở”. Đó là thời Bắc Tống. Còn Nam Tống gọi Tháo là giặc. Từ Nguyên, Minh, Thanh trở đi, Tào Tháo đồng nghĩa với câu chửi. Đến đời Càn Long (giữa thế kỷ XVIII) dứt khoát gọi ông ta là kẻ thoán nghịch (cướp ngôi vua).
Nhát búa cuối cùng bổ vào đầu Tào Tháo
Trên sân khấu, Tào Tháo mặt xanh lét, đặc trưng sắc diện của kẻ gian hùng, ngược lại với sắc mặt đỏ lựng, đặc trưng của người quân tử. Đây là nhát búa cuối cùng, Tào Tháo không bao giờ mọc mũi sủi tăm được nữa.
Thực ra, bắt đầu từ triều Tấn, đã có ý kiến khác nhau về Tào Tháo.
Vương Thẩm trong Ngụy thư và Tư Mã Bưu trong Độc Hán thư đều khẳng định Tào Tháo là chính nhân, thậm chí còn công khai bảo vệ ông.
Trong khi đó, Tôn Thịnh trong Dị đồng tạp ngữ và Ngô Nhân trong Tào Man truyện thì lên án Tào Tháo về những hành vi gian trá của ông ta.
Sử gia Đông Tấn Tập Tào Xỉ, gọi luôn Tào Tháo là kẻ thoán nghịch. Từ Nam Bắc triều đến Tùy Đường, kẻ nói tốt, người bảo xấu. Những chuyện này đều được ghi chép tường tận trong Tào Tháo bình truyện của sử gia Trương Tác Diệu.
Có thể thấy, ý kiến thời đại có sự bất đồng, mà ý kiến lịch sử cũng có bất đồng về Tào Tháo. Thêm vào đó, ý kiến cá nhân cũng không nhất trí, bộ mặt thật của Tào Tháo càng mơ hồ.
Tuy vậy, có thể khẳng định một điều: Tào Tháo bị chửi.
Vụ án giết 8 người của Tào Mạnh Đức
Trên đời không có yêu và ghét vô cớ. Tào Tháo bị chửi cũng có nguyên nhân của nó. Nguyên nhân thì nhiều, trong đó nổi bật là tính gian trá mà người ta cho là thể hiện rất rõ trong con người Tào Tháo.
Người đời ghét nhất câu của ông: Ta thà phụ mọi người trong thiên hạ, quyết không để mọi người trong thiên hạ phụ ta. Nếu đúng là như vậy, Tào Tháo quả thật xấu xa tồi tệ. Do vậy, phải xem chuyện này có thực hay không?
Câu nói trên của Tào Tháo không thấy chép trong Tam quốc chí, chỉ thấy Bùi Tùng Chi dẫn Ngụy thư, Thế ngữ và Tạp ký của Tôn Thịnh.
Chuyện xảy ra như sau: Đổng Trác sau khi vào kinh, cắt đặt Tào Tháo làm Phiêu Kỵ Hiệu Úy, Tào Tháo không nhận, bỏ chạy khỏi Lạc Dương, trốn về quê. Trên đường đi, Tháo giết cả nhà Lã Bá Xa vốn là người quen.
Vì sao mà giết? Các sách nói trên đều chép khác nhau. Ngụy thư chép: “Bá Xa đi vắng, các con Bá Xa và tân khách không cho Thái Tổ (tức Tào Tháo) ngủ nhờ, lại còn cướp ngựa và hành lý, Thái Tổ sẵn đao trong tay, liền giết chết mấy người”.
Thế ngữ chép: “Thái Tổ nghĩ mình chống lệnh Đổng Trác, những người này có ý bắt mình, nên đang đêm chém chết tám người rồi bỏ đi”.
Tạp ký của Tôn Thịnh thì ghi: “Thái Tổ nghe tiếng dao thớt, nghi họ định hại mình, liền đang đêm giết sạch”.
Táng tận lương tâm hay lương tâm cắn rứt?
Chuyện giết cả nhà Lã Bá Xa thì không cần bàn cãi, đó là chuyện có thực. Nhưng vì sao mà giết người? Theo Ngụy thư thì là phòng vệ, hoặc tự vệ quá mức. Theo Thế ngữ và Tạp ký của Tôn Thịnh thì vì quá nghi ngờ mà ngộ sát.
Ngụy thư có ý bênh Tào Tháo nên không bàn. Nhưng Tạp ký của Tôn Thịnh kể rất cụ thể: Một là nghe tiếng mài dao; hai là, sau khi giết người, Tào Tháo mới phát hiện người nhà Lã Bá Xa mài dao để mổ lợn thết đãi mình, bèn xót xa mà nói rằng, ta đành có lỗi với người, không để người phụ ta. “Đành” có nghĩa bất đắc dĩ, biết mình giết lầm, nói câu này để tự an ủi, nhưng trong lòng thì xót xa, chứng tỏ Tào Tháo chưa đến nỗi táng tận lương tâm.
Nhưng Tam quốc diễn nghĩa đã thay đổi tận gốc câu nói trên: Từ đau xót biến mất, thay vào đó là Ta thà phụ người trong thiên hạ, chứ không để mọi người trong thiên hạ phụ ta.
Thêm “thiên hạ nhân” (mọi người trong thiên hạ) so với câu trước chỉ mỗi “nhân” (người), ý nghĩa rất khác nhau. Câu trước là chỉ riêng gia đình Lã Bá Xa, câu sau là chỉ tất cả mọi người. Tuy vẫn là cái ác, nhưng mức độ và phạm vi khác nhau hoàn toàn.
Điểm thứ hai, câu Ta đành phụ người, không để người phụ ta là câu nói trong trường hợp đã biết là giết lầm cả nhà Lã Bá Xa. Có nghĩa là, mình đã giết lầm, là có tội với người ta, nhưng xét hoàn cảnh, chẳng còn cách nào khác. Mình đang cùng đường mạt lộ, đành phụ người, chứ không để người phụ mình. Nói ra câu này còn có đôi chút lương tâm.
Nhưng nếu nói rằng, ta thà phụ người trong thiên hạ, chứ không để mọi người trong thiên hạ phụ ta, đối xử nhất loạt đều như thế, thì đúng là kẻ gian hùng.