Tôi vừa bám được vào cái đòn buồm đằng mũi thì cánh buồm vụt quay theo luồng gió khác, đập đùng đùng như tiếng đạn nổ. Con tàu bị rung chuyển đến tận đáy. Một lát sau, cánh buồm quật lên một lần cuối cùng rồi buông rủ xuống.
Cánh buồm quay ngang làm tôi xuýt rơi xuống biển. Tôi vội vàng bò men theo cái đòn ngang, rồi buông mình để rơi xuống boong tàu.
Tôi ở trên sàn tàu đằng mũi, đứng đầu hướng gió. Cánh buồm to trước mặt vẫn căng thẳng che lấp, không cho tôi trông thấy một phần boong sau. Đằng mũi chẳng thấy bóng một người nào. Sàn tàu không ai cọ rửa từ khi bọn chúng nổi loạn. Trên sàn gỗ thấy đầy vết chân; một cái chai không đã gãy cổ, lăn lông lốc từ góc này đến góc nọ.
Thốt nhiên tàu đi thẳng vào luồng gió mạnh.
Sau lưng tôi, những cánh buồm đằng mũi chuyển động ầm ầm, tay lái kêu răng rắc, con tàu chồm lên dữ dội. Cùng lúc ấy, cánh buồm lớn trên cột cái quay về sau, ròng rọc kêu rít lên, để lộ rõ cả khoảng boong sau lái.
Hai tên canh tàu đều ở đấy cả. Tên giặc đội mũ đỏ nằm ngửa, cứng đờ như khúc gỗ, hai tay dang thẳng thành hình thập ác, mồm há hốc, trông thấy cả răng. Còn lão Hands thì ngồi tựa vào bao lơn, đầu rũ xuống ngực, tay chống xuống sàn tàu, mặt mũi bơ phờ tái nhợt.
Mỗi lượt tàu nghiêng ngả, tên giặc mũ đỏ bị xô từ góc này đến góc kia; nhưng có một điều khủng khiếp, là dù cho tàu có xô mạnh đến đâu, hắn vẫn nằm sải tay như cũ, hai hàm răng vẫn nhe ra.
Tôi thấy trên sàn tàu chung quanh bọn chúng những vệt máu thẫm. Tôi biết ngay chúng đã thịt lẫn nhau giữa cơn say điên loạn.
Tôi đương mở to mắt ngạc nhiên nhìn cảnh tượng ấy thì trời bỗng im gió, con tàu lại đứng yên một chỗ. Lão Hands vừa rên vừa cố quay người lại nhưng không gượng nổi, lão lại gục xuống. Những tiếng rền rĩ của hắn, cái mồm há hốc, quai hàm trễ xuống, tỏ ra hắn đau đớn đến cùng độ và đã kiệt sức. Trong một phút, tôi bỗng động lòng thương. Nhưng nhớ ngay lại những lời lão thốt ra mà tôi đã nghe được khi nấp trong thùng lê, tôi chẳng còn thương xót một tí nào nữa.
Tôi bước xuống đằng lái, đến ngay trước mặt lão, gọi giọng chế giễu :
- Ông Hands! Dậy đi!
Hắn lờ đờ nhìn tôi, nhưng vì mệt quá nên cũng không thổ lộ được vẻ ngạc nhiên. Hắn chỉ rền rĩ được một tiếng: “Rượu!”. Tôi nhìn hắn và biết hắn không còn sức lực để cử động nữa.
Tôi không muốn để mất thì giờ trong lúc này, nên rảo bước ra sau cái cột cái, tránh cánh buồm đương phơ phất trên mặt boong tàu. Tôi lần xuống cầu thang và bước vào buồng tàu. Cả một cảnh tượng hết sức hỗn độn bày ra trước mắt. Những tủ khóa đều bị chúng nạy tung để tìm tấm bản đồ giấu của. Sàn tàu giây đầy vết bùn. Chắc hẳn bọn giặc đã đi sục trong các vũng lầy chung quanh khu trại trên bờ của chúng, rồi xuống tụ tập ở đây để uống rượu và bàn bạc.
Tôi đi vào trong buồng chứa rượu, thấy đã mất nhiều thùng. Chúng đã phá ra gần hết. Chai không bỏ ngổn ngang chất đống. Chắc hẳn từ lúc nổi loạn đến giờ, không một đứa nào trong bọn chúng thoát được con bệnh ma men.
Lục mãi, tôi mới tìm được cho lão Hands một chai rượu đã uống dở; còn về phần tôi, tôi tìm được bánh quy, ít mứt, một chùm nho lớn và một mẩu phó mát. Tôi lại trèo lên boong, mang theo các thức ấy lên và đặt vào đằng sau lái, cách xa chỗ lão Hands ngồi. Xong tôi đến thùng nước ngọt, vục đầu vào uống từng ngụm ngon lành. Khi uống đủ rồi, tôi mới đi lại đưa rượu cho lão Hands.
Lão nốc một hơi dài, đặt chai xuống rồi nói :
- Ối chà! Phải có rượu mới được!
Tôi ngồi vào một chỗ, bắt đầu ăn. Tôi hỏi lão :
- Bị thương có nặng lắm không?
Lão làu bàu trong cổ họng :
- Nếu có cái anh bác sĩ ấy... Ở đây thì tôi đã khỏi hẳn rồi. Nhưng... thật không may! Còn tên kia... - XLão vừa nói vừa chỉ tên mũ đỏ - nó đã chết hẳn... À, còn cậu... cậu ở đâu mà đến được đây?
Tôi đáp :
- Tôi đến đây để chiếm lấy chiếc tàu này. Ông Hands, ông phải coi tôi như thuyền trưởng cho đến khi có lệnh mới.
Hắn nhìn tôi có vẻ cay độc nhưng vẫn im như hến. Mặt hắn đã có sắc hồng tuy hắn còn yếu sức lắm. Mỗi lúc tàu nghiêng, hắn lại ngã giúi giụi.
Tôi lại bảo :
- Này ông Hands, tôi không muốn thấy lá cờ kia ở trên tàu. Tôi xin phép hạ nó xuống. Thà không có gì hết vẫn còn hơn!
Tôi tránh cái cột ngang lủng lẳng ở cột buồm cái, rồi chạy ra chỗ treo cờ, hạ phăng cờ xuống, quẳng luôn xuống biển. Tôi kêu to lên, tay phất mũ :
- Thôi thế là hết đời thằng thuyền trưởng Silver!
Lão Hands vẫn quắc mắt, chăm chú nhìn tôi, nét mặt lầm lì. Lúc sau, lão lên tiếng :
- Ông thuyền trưởng Jim! Tôi chắc bây giờ ông cũng muốn vào bờ. Vậy ta thử nói chuyện với nhau xem!
- Được lắm! Nào ông cứ thử nói đi!
Nói xong, tôi lại tiếp tục ăn rất ngon miệng. Lão chỉ cái xác tên giặc rồi nói :
- Tên kia... hắn kéo buồm với tôi... định cho tàu quay về chỗ cũ. Thế mà bây giờ... hắn đã chết thẳng cẳng! Vậy bây giờ... ai lái tàu về bến được? Còn... Ông, tôi đã rõ. Nếu tôi không chỉ vẽ, thì ông không thể làm được! Vậy ông hãy nghe lời tôi... Ông cho tôi ăn uống và cho tôi một mảnh vải cũ, hay chiếc khăn mùi soa, để tôi băng bó vết thương. Tôi sẽ bảo cho ông cách lái... Tôi nghĩ, nói với nhau như vậy... là thực tình.
Tôi nói :
- Tôi muốn nói rõ với ông điều này... Tôi không muốn quay về chỗ tàu đỗ trước đây. Tôi muốn cho tàu vào đỗ ở bến tàu phía bắc, ông nghe rõ chưa?
Lão kêu to :
- Cái ấy đã hẳn... Tôi không đến nỗi ngốc đâu! Tôi đánh lừa một tí tẹo... nhưng ông đã khôn hơn tôi! Bây giờ... có phải ông muốn tàu vào bến bắc không? Được, tôi xin nghe theo ông... Tôi sẽ giúp ông đưa tàu đến đấy... để rồi tôi bị treo cổ... Nhưng ông cứ tin ở lời tôi hứa.
Tôi lại điều đình với lão lần nữa. Ba phút sau, con tàu theo gió đã lướt men theo đảo. Chúng tôi có hy vọng vượt qua doi đất ở phía bắc trước lúc đứng trưa và sẽ tới bến phía bắc khi nước còn ròng. Như vậy, có thể yên tâm cập bến, không sợ nguy hiểm.
Tôi buộc tay lái lại rồi xuống phòng tàu mở lấy chiếc khăn lụa của mẹ tôi cho. Tôi giúp lão Hands buộc lại vết dao trên đùi đương há hốc miệng. Khi đã ăn ít bánh và tợp vài hớp rượu lão đã khác hẳn, lão trở lại tỉnh táo, ngồi thẳng lên và ăn nói đã dõng dạc hơn.
Gió thổi hiu hiu. Chúng tôi thuận buồm xuôi gió. Con tàu lướt phăng phăng trên sóng. Chẳng mấy chốc, tàu đã đi qua chỗ bờ biển cao, đến chỗ doi đất có thông mọc um tùm. Rồi thoáng một cái, tàu lại lướt qua góc đồi lởm chởm đá ở khu đảo phía bắc.
Tôi được chỉ huy chiếc tàu, lại được ngắm cảnh trời quang mây tạnh. Bao nhiêu điều ấy làm tôi đến sướng mê. Bây giờ tôi lại có đủ thức ăn thức uống, không phải lo đói khát. Lúc bỏ lô-cốt ra đi tôi vẫn rất ân hận, bây giờ đã đoạt lại được chiếc tàu, tôi tự thấy thật yên tâm.
Có lẽ tôi sẽ được mãn nguyện say sưa đến tột cùng, nếu không có cặp mắt của lão Hands cứ nhìn vào tôi chòng chọc. Lão nhìn tôi một cách chế giễu, thỉnh thoảng lão trề môi ra cười. Cái cười của lão cũng quái gở. Nó lộ vẻ vừa nhọc mệt, đau đớn, nhưng cũng vừa giảo quyệt, gian hùng. Cặp mắt lão cứ hau háu rình tôi trong từng cử động.
Thuận gió nên tàu chúng tôi đi nhanh về phía bắc.
Chúng tôi có thể cho tàu thẳng đến bến tàu phía bắc, nhưng vì không nghĩ được cách làm thế nào bỏ neo và cho tàu đỗ trước lúc nước ròng, nên chúng tôi phải dừng lại đợi.
Lão Hands bày cho tôi cách làm cho tàu đứng lại. Tôi làm mãi mới được. Xong, tôi với lão ngồi đối mặt nhau ăn bánh, không ai nói với ai một lời.
Sau cùng lão nói, trên môi vẫn giữ cái lối cười đáng ngờ ấy :
- Thưa thuyền trưởng, tôi muốn ông vứt giùm cái xác của tên kia xuống biển. Để thế, trông nó không tiện!
Tôi bảo :
- Sức tôi không làm được việc ấy. Cứ để hắn nằm đấy cũng được, chẳng can hệ gì.
Lão Hands vừa nháy mắt vừa nói :
- Chiếc tàu này là một tai họa. Cậu Jim này! Từ lúc tôi với cậu bước xuống chiếc tàu này ở bến Bristol, kể ra đã có bao người toi mạng! Tôi chưa bao giờ thấy cảnh bi đát như thế. Còn cái tên kia, nó chết thẳng cẳng rồi! Tôi thì không được học hành thông thái như cậu. Vậy cậu cho biết một người đã chết là chết hẳn, hay nó còn sống lại ở một nơi khác?
Tôi đáp bâng quơ :
- Biết đâu đấy! Biết đâu cái hồn của tên kia nó chẳng đương nhìn ông đấy!
Lão nói :
- Chao ôi! Nếu vậy thì giết người chỉ thêm nhọc xác, vì hồn nó vẫn sống mà! Nhưng tôi cho cái hồn cũng không đáng sợ... Tuy vậy, cậu nói rất phải. Bây giờ tôi nhờ cậu giúp cho một việc. Tôi nhờ cậu xuống dưới phòng, lấy cho tôi một thứ... một thứ... Chà! Rõ bực mình! Định nhờ một việc lại nhớ ra một việc khác. Cậu làm ơn lấy cho tôi ít rượu vang, chứ cái thứ rượu mạnh này đã làm tôi váng óc lên rồi!
Lão nói ấp úng, không được tự nhiên lắm. Lão bảo lão thích rượu vang hơn rượu mạnh, lại càng không thể tin được. Chẳng qua lão chỉ kiếm cớ thôi!
Rõ ràng lão muốn cho tôi đi nơi khác, đừng ở trên boong tàu. Nhưng để làm gì? Tôi cố đoán nhưng vẫn chưa hiểu được...
Cặp mắt lão cứ tránh mắt tôi. Lúc nào lão cũng nhìn quanh nhìn quẩn, hết chỗ nọ đến chỗ kia. Khi thì lão nhìn lên trời, lúc lão lại nhìn xuống xác tên đồng bọn. Lúc nào lão cũng cố gượng cười như muốn che giấu một điều gì bối rối trong lòng. Dù cho là một đứa trẻ con khờ khạo đến đâu, tôi cũng biết được lão đương tính toán ngầm, tìm mưu kế để hại tôi.
Tuy vậy, tôi vẫn cứ tảng lờ như không biết. Vì tôi ở vào cái thế mạnh của tôi lúc bấy giờ. Vả lại, với một kẻ ngờ nghệch như lão, tôi có thể che giấu dễ dàng không cho lão biết là tôi ngờ vực. Với thái độ thản nhiên, tôi hỏi lão ta :
- Rượu vang à? Cũng tốt đấy. Rượu trắng hay rượu đỏ? Thích thứ nào?
Lão đáp :
- Thứ nào cũng được! Đỏ hay trắng, với tôi cũng chỉ là một. Miễn sao cứ cho thứ ngon và nhiều vào...
Tôi nói :
- Thôi được, tôi sẽ mang lên cho ông một chai. Nhưng phải lâu lâu tí đấy. Tôi còn phải tìm.
Nói xong tôi bước xuống cầu thang, nện mạnh gót giày thật ầm ĩ, rồi tôi cởi giày, cứ chân không chạy vào đường hầm, trèo lên cầu thang đằng mũi, rồi thò đầu lên chỗ lái.
Tôi biết lão ta không ngờ tôi rình lão ở chỗ đó, nhưng tôi cũng hết sức thận trọng. Và rõ ràng những điều ngờ vực của tôi lúc nãy đối với lão thật quả là đúng...
Tôi thấy lão gắng gượng bò bê, cố cắn răng nhịn đau. Cứ mỗi một cử động là mặt lão nhăn như bị. Nhưng lão vẫn cứ cố bò nhanh qua boong tàu. Chưa đầy một phút lão đã bò đến gần những lỗ thông nước trên sàn. Lão thò tay vào một cuộn dây, móc ra một con dao nhọn, máu dính bê bết tận chuôi.
Lão ngắm con dao một lúc, nghiến răng mím lợi, gại mũi dao vào tay xem có còn sắc nhọn không, rồi vội vàng thủ vào trong áo; xong lão vội bò về ngồi chỗ cũ.
Như vậy là lão Hands đã có thể bò đi nơi này nơi nọ; bây giờ lão lại có khí giới trong tay. Lão phải bỏ công lừa tôi đi khỏi để lão làm việc này. Không nói thì cũng biết lão âm mưu định khử tôi. Nhưng giết tôi xong thì lão sẽ làm những gì? Lão có ý định cố bò lê từ bến phía bắc qua cả vũng lầy để về chỗ trại của bọn chúng không? Hay là lão sẽ bắn đại bác để báo tin cho đồng bọn đến cứu? Dù có đoán giỏi đến đâu cũng đành chịu.
Tuy vậy, tôi có thể còn tin cậy ở lão được một điểm, vì điểm này có lợi chung cho cả hai người: ấy là phải bẻ lái cho tàu chạy.
Lão và tôi đều muốn cho tàu đỗ vào một nơi kín gió và chắc chắn, để rồi khi cần, có thể đưa tàu ra cho chạy mà không phải khó khăn nguy hiểm. Từ đây cho đến lúc ấy, tính mạng tôi còn có thể an toàn được.
Tôi vừa đi vừa suy nghĩ. Tôi chạy về phòng, đi giày vào, sờ vào chỗ để rượu, vớ đại lấy một chai rượu vang. Xong đâu đấy tôi xách rượu lên boong.
Tôi thấy lão Hands vẫn ngồi gục đầu như cũ, mắt nhắm nghiền, làm như lão yếu quá, không đủ sức chịu nổi ánh sáng mặt trời. Lão mở choàng mắt ra nhìn rồi rút cuộn thuốc lá trong túi ra, nhờ tôi cắt cho lão một mẩu. Lão bảo :
- Nhờ cậu làm ơn cắt hộ cho tôi một mẩu thuốc, tôi không có dao. Mà dù cho có dao, tôi cũng không còn đủ sức mà cắt... Chà! Cậu Jim ơi! Không khéo tôi sẽ không thấy lại được mặt biển đây! Cậu cắt hộ cho tôi mẩu thuốc. Không dám phiền cậu nhiều đâu. Chỉ một lần này nữa thôi. Rồi tôi sẽ về với ông bà ông vải tôi. Tôi đã thấy mình sắp gần đất xa trời rồi, không sai đâu!
Tôi bảo lão :
- Được! Để đấy tôi cắt cho. Nhưng nếu tôi mà như ông, nếu đã thấy mình khó sống, thì tôi sẽ ăn năn sám hối.
Lão hỏi :
- Tại sao thế? Cậu hãy bảo tôi xem tại sao đã nào!
Tôi nói to :
- Tại sao à? Thì ông đã tự lừa dối lương tâm ông, ông đã gây ra bao tội ác, ông đã bội phản, ông đã giết người. Ông còn hỏi tại sao nữa à? Ông hãy ăn năn sám hối đi để mà chuộc tội với Thượng đế.
Tôi vừa nói với một giọng hào hứng đầy nhiệt tình, vừa nghĩ đến con dao vấy máu hắn đang giấu trong áo để định chọc tiết tôi. Còn lão, lão vẫn điềm nhiên tợp từng ngụm rượu, rồi nói với một vẻ trịnh trọng khác thường :
- Đời tôi đã trải qua nhiều năm trời lênh đênh trên mặt biển, tai đã từng nghe bao điều thiện, ác, hay, dở..., mắt đã từng trông thấy lúc trời quang mây tạnh, bão táp mưa sa... Vậy tôi xin nói thật với cậu: làm điều thiện chẳng được chút lợi lộc gì! Theo ý tôi, cứ nhanh tay giết trước chúng đi là tốt: những kẻ đã chết không làm hại ai được nữa!
Đến đây lão đổi giọng :
- Thôi! Đừng nói nhảm với nhau mãi nữa. Con nước đã lên kia. Vậy ông thuyền trưởng, ông hãy theo lệnh tôi đây. Chúng ta cứ cho tàu đi thẳng một mạch cho xong việc.
Thực ra thì chỉ còn hai dặm nữa là đến bến. Nhưng quãng đường này rất khó đi. Đường vào bến vừa hẹp vừa cạn. Gió xoay đủ chiều. Phải khéo tay lái lắm mới vào được.
Tôi dám nói tôi là một tay giúp việc đắc lực, và lão Hands là một tay thủy thủ thạo nghề.
Qua khỏi cửa sông là đất liền bọc ba bên bốn bề. Lão Hands nhìn ra chung quanh, bảo :
- Nơi này xinh đẹp, lại vắng lặng, nên cho tàu vào.
Tôi hỏi :
- Khi vào có thể bình yên, nhưng khi ra thì làm thế nào?
Lão giảng giải :
- Cậu cứ mang dây cột vào gốc thông kia, một đầu dây khác thì cho vào trục. Đợi nước lên, ta xô vào kéo, tàu sẽ từ từ lùi ra. Thôi! Bây giờ coi chừng đấy! Đã gần đến rồi! Đừng đi nhanh quá! Về bên phải một tí! Thế, được rồi! Về bên phải! Nhè nhẹ chứ! Bây giờ lượn về bên trái, khe khẽ chứ!
Tôi đang chú ý lái tàu nên không lưu tâm đến lão Hands như trước. Tôi sung sướng nhìn tàu rẽ nước tiến vào bến nên quên hẳn sự nguy hiểm đang rình ở bên mình. Có lẽ vì tôi nghe thấy tiếng động hay tôi thấy thấp thoáng bóng người; hay có lẽ vì bản năng tự vệ, tự nhiên tôi quay đầu lại: lão Hands đang bò lại gần tôi, tay phải cầm lăm lăm con dao nhọn.
Khi hai luồng mắt giao nhau, cả hai đều rú lên một tiếng. Tôi rú lên vì sợ hãi, còn lão rú lên vì sắp vồ được mồi. Tôi vội né sang một bên, tràn tới trước. Tôi bỏ tay lái ra, thanh gỗ bật mạnh lại, đánh vào giữa ngực lão làm lão dừng hẳn lại. Khi lão định trí lại thì tôi đã thoát ra khỏi chỗ lão dồn tôi. Và bây giờ, tôi có thể chạy khắp boong tàu để tránh lão. Tôi dừng lại ở trước cột cái, lấy khẩu súng lục trong túi ra. Tuy lão đương tiến lại gần, tôi vẫn bình tĩnh thong thả ngắm, rồi bóp cò. Cò mổ xuống nhưng không có tiếng nổ, nước biển đã làm ướt mất bùi nhùi! Tôi tự mắng tôi về sự cẩu thả ấy. Tại sao tôi không lo lắp đạn từ trước? Nếu tôi biết lo trước thì có đâu đến nỗi bây giờ phải để cho lão Hands đuổi tôi như mèo đuổi chuột!
Tuy đã bị thương nhưng lão còn nhanh nhẹn, tóc lão màu tro rơi lòa xòa trên mặt, mặt lão đỏ tía lên vì vội vì tức. Tôi không kịp thử khẩu súng thứ hai của tôi, nhưng biết trước là vô ích.
Có một điều là tôi không nên để cho lão đuổi mãi rồi bị dồn vào chỗ bí như lúc nãy. Đến lúc lão tóm được thì chỉ vài nhát dao là xong chuyện!
Tôi chống tay vào cột cái, đứng chờ lão đến.
Thấy tôi định lẩn trốn, lão dừng lại, đứng rình tôi một lúc. Còn tôi, tôi vẫn thập thò định chạy. Thật không khác gì cái trò hú tim tôi vẫn chơi khi xưa, có điều chưa bao giờ ngực tôi phập phồng đến thế! Nhưng lúc này quả là một trò chơi trẻ con mà tôi nắm chắc phần thắng, vì lão Hands đã bị thương nặng.
Giữa lúc tôi đang nghĩ như vậy thì con tàu đâm sầm vào bãi cát, lật về một bên, làm mặt boong nghiêng hẳn, nước ùa cả về bên cạnh bao lơn. Tôi và lão Hands xô vào nhau và cùng ngã lăn chiêng xuống cạnh những lỗ tháo nước trên tàu. Xác tên giặc mũ đỏ cũng lăn tuột vào chỗ đó. Tôi ngã lăn vào lão Hands, đầu đập mạnh vào chân lão. Tuy đau điếng người, nhưng tôi đã nhanh chân đứng dậy trước, vì lão còn vướng cái thây ma.
Rồi phải tìm ngay ra cách khác để tháo thân. Nhanh như chớp, tôi bám vào dây buồm phía sau, leo thoăn thoắt lên không kịp thở. Khi đã ngồi đàng hoàng trên cột ngang rồi, tôi mới thở dốc. Nhờ nhanh chân nên tôi đã thoát chết. Khi lão Hands vừa vung dao lên, tôi đã leo vọt lên cao rồi. Con dao cắm phập ngay sát dưới chân tôi. Lão ở dưới trông lên, mồm há hốc, mặt ngây đờ như một pho tượng gỗ.
Bây giờ có thì giờ, tôi liền thay luôn đạn trong súng lục. Muốn chắc chắn hơn, tôi thay cả đạn cho khẩu kia. Thấy tôi làm như vậy, lão Hands cuống cuồng lên. Lão biết sắp sửa thất thế đến nơi; lão chần chừ một chút rồi cố gắng bám vào dây buồm. Mồm lão ngậm ngang con dao, tay lão lần lên chậm chạp, coi bộ rất khó nhọc. Thỉnh thoảng, vết thương bị đau nhói làm lão bật lên một tiếng rên. Khi lão leo lên được một phần ba đường dây thì tôi đã nạp đạn xong vào hai khẩu súng. Tôi cầm mỗi tay một khẩu súng rồi bảo lão :
- Này ông Hands! Nếu ông còn nhích lên một bước nữa, tôi sẽ cho ông một phát vỡ sọ!
Rồi tôi nói thêm, vừa nói vừa cười gằn :
- Ông cũng biết đấy! Kẻ đã chết không làm hại được ai đâu!
Lão dừng lại, không dám leo nữa. Trông mặt lão cũng biết rằng lão đương suy nghĩ lung lắm. Nhưng lão nghĩ ngợi lâu quá, đến nỗi tôi phải bật cười. Cuối cùng, lão bỏ con dao ngậm trong mồm ra, nuốt nước bọt nhiều lần, rồi bắt đầu nói. Trong lúc nói, nét mặt lão vẫn có cái gì như lưỡng lự băn khoăn :
- Cậu Jim! Tôi nghĩ rằng tôi với cậu, hai người đều gặp sự chẳng may! Tốt hơn hết là nên làm lành với nhau. Nếu tàu không nghiêng, tôi đã tóm được cậu. Nhưng rủi cho tôi quá! Bây giờ tôi đành phải chịu thua cậu vậy! Nhưng cậu hiểu cho. Một tay lão luyện già đời như tôi mà phải thua một đứa bé miệng còn hơi sữa như cậu, kể cũng nhục nhã!
Nghe lão nói, tôi thấy khoái cả người. Tôi đang dương dương tự đắc như con gà chọi thì thốt nhiên, tôi thấy lão đưa tay về sau. Một vật gì lao vút đến như mũi tên xé gió. Tôi thấy đau nhói ở vai mình. Trong lúc thất thần ấy, và không định tâm một chút nào, hai khẩu súng trong tay tôi bỗng nổ cùng một lúc và đều rơi xuống cả! Không những chỉ có súng rơi mà tôi thấy cả lão Hands cũng rú lên một tiếng, rồi buông tay, ngã lộn đầu xuống nước.
Tàu đổ nghiêng, các cột buồm cũng đều ngã nghiêng trên mặt nước. Tôi vẫn đang ở chót vót trên trục buồm ngang, trông xuống thấy rõ mặt nước ở phía dưới con tàu.
Lúc nãy, lão Hands đứng thấp hơn nên đã ngã vào cái quãng giữa bao lơn tàu và tôi. Lão nhô lên mặt nước một lần nữa, người sủi đầy máu và bọt biển, rồi chìm nghỉm. Lúc sau, khi mặt nước đã yên tĩnh, tôi thấy lão nằm còng queo dưới bóng chiếc tàu nghiêng. Vài ba con cá lội tung tăng quanh mình lão. Đôi khi mặt nước chao động, tưởng như lão cựa quậy chực đứng lên. Thật ra lão đã chết hẳn, vừa bị đạn, vừa bị sặc nước.
Trong lúc này, máu vẫn chảy ròng ròng trên lưng và trên ngực tôi. Con dao nhọn cắm vào thịt tôi rát bỏng như một miếng sắt nung đỏ. Tuy vậy nỗi đau đớn về thể xác không làm cho tôi kinh sợ bằng việc nếu phải rơi xuống mặt biển xanh lè ở cạnh cái xác lão Hands ghê tởm! Ý nghĩ ấy làm tôi phải nhắm nghiền mắt lại. Nhưng sau đấy, tôi định thần lại, tim bớt đập và trở lại bình tĩnh như thường.
Ý nghĩ đầu tiên của tôi là phải rút con dao ra. Chỉ nghĩ đến thế, tôi cũng đã rùng mình. Nhưng chính nhờ cái rùng mình ấy mà tôi được thoát nạn. Con dao thật ra chỉ dính vào tôi ở lớp da ngoài. Vì thế, tôi mới chỉ rùng mình, con dao đã bật ra khỏi người. Tuy máu có túa ra nhiều hơn, nhưng lưỡi dao chỉ còn găm mảnh áo của tôi vào cột buồm mà thôi! Tôi rứt mạnh ra và tụt xuống boong tàu...
Đến nơi, tôi buộc lại vết thương.
Tôi đưa mắt nhìn quanh. Bây giờ cả chiếc tàu đã về tay tôi. Tôi không muốn ở trên tàu với cái xác anh hành khách ăn vạ này nữa. Tôi nghĩ đến việc ném nốt tên mũ đỏ xuống biển. Xác hắn lăn ra tận bao lơn, nằm sóng soài ở đó. Nhờ thế mà lôi nó đi thì cũng dễ. Xác chết bây giờ đối với tôi quen rồi, cũng chẳng đáng sợ gì! Tôi kéo nó lên như kéo một bao cám, rồi lấy sức đẩy nó xuống biển.
Hắn đâm sầm, rơi tõm xuống, cái mũ đỏ bật ra ngoài nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Một lát sau, mặt nước trở lại yên tĩnh, tôi thấy xác hắn và xác lão Hands nằm cạnh nhau. Hắn tuy trẻ tuổi nhưng đầu đã hói. Hắn nằm đó, cái đầu hói gối lên đầu gối kẻ đã giết hắn, một đàn cá lượn nhanh thoăn thoắt quanh mình hai tên giặc biển. Lúc này, nước thủy triều đã xuống. Mặt trời sắp lặn. Bóng thông ngả dài trên mặt bến và in cả lên sàn tàu. Gió chiều đã nổi. Tuy đã có ngọn núi hai đỉnh che gió, nhưng gió vẫn còn lồng vào trong các cánh buồm và làm dây buồm kêu cót két.
Nhận thấy rõ nguy cơ, tôi vội tháo các cánh buồm đầu mũi, kéo tuột xuống boong tàu. Nhưng còn cánh buồm to thì khó lòng mà tháo ra được! Khi tàu nghiêng, đầu cột buồm đã ngả ra xa và một phần nhỏ cánh buồm đã bị nhúng nước. Như thế lại càng nguy hiểm. Nhưng buồm đương căng, nên tôi không dám động đến. Sau cùng tôi dùng dao cắt các dây néo... Đầu cột buồm ngả xuống, cánh buồm phập phồng trên mặt nước. Tôi cố kéo nhưng không chuyển. Mà sức tôi cũng chỉ đến đấy là cùng.
Thôi cũng đành phó thác nó ở đấy rồi có ra sao thì ra. Lúc này, bóng đêm đã trùm cả vũng biển. Trời đã bắt đầu lạnh. Nước thủy triều xuống nhanh. Chiếc tàu mỗi lúc một nằm rạp xuống bờ biển.
Tôi bò lên đằng trước tàu rồi dòm xuống. Hình như chỗ này nước cạn. Tôi tụt dần xuống. Nước chỉ ngập đến lưng, mặt cát dưới chân tôi rắn chắc và gợn sóng. Tôi vui mừng lội một mạch lên bờ.
Ngay lúc ấy, mặt trời đã tắt. Gió thổi đìu hiu trong bóng tối, lướt qua những chòm cây thông nghiêng ngả trập trùng.
Thế là sau khi một mình ra đi, tôi đã lại trở về, mà không phải về tay không. Chiếc tàu nằm đó, không còn một tên giặc nào ở trên, chỉ còn đợi chở chúng tôi ra biển. Bây giờ tôi chỉ mong chóng về đến lô-cốt để khoe công trạng của tôi cho mọi người biết.
Có thể bị quở trách về việc bỏ trốn đi, nhưng tôi đã đoạt lại được chiếc tàu trên tay giặc. Kể ra cũng có thể lấy công chuộc tội. Nghĩ vậy, tôi càng nôn nóng muốn về ngay để gặp mặt mọi người. Tôi nhớ lại rằng con sông con chảy xuống vũng biển tàu đỗ trước đây bắt nguồn từ trái núi hai ngọn, tôi vội chạy ngay về hướng ấy để lội qua sông ở nơi đầu nguồn cho được cạn.
Rừng không rậm lắm, tôi đi men theo ven đồi; lúc sau tôi lội qua con sông nước ngập đến bắp chân.
Thế là tôi đã đến gần chỗ gặp Ben Gunn khi trước. Tôi đi cẩn thận hơn, dò từng bước.
Bây giờ đêm đã tối mò. Ra khỏi chỗ đất trũng ở giữa hai ngọn núi, tôi thấy một tia sáng chiếu rọi lên trời. Tôi đoán Ben Gunn đương thổi cơm tối trên một bếp củi lửa đỏ rực.
Nhưng bụng tôi rất lấy làm lạ về sự bất cẩn của hắn. Ánh sáng bừng lên như thế, lẽ nào bọn Silver đóng ở bên kia lại không trông thấy được?
Bóng đêm mỗi lúc mỗi dày đặc. Đường càng khó đi. Cảnh vật chung quanh bị nhòa trong bóng tối. Chỉ còn vài ngôi sao thưa thớt lấp lánh trên cao.
Thốt nhiên, ánh sáng tràn đến quanh mình. Ngẩng lên, tôi thấy một vùng ánh sáng xanh lả lướt trên đỉnh gò Vọng Viễn, và lát sau, mặt trăng tròn vành vạnh đã nhô lên sau các thân cây.
Hướng theo bóng trăng, tôi vội vã đi nốt quãng đường còn lại, khi đi, khi chạy. Gần đến nơi, tôi đi thật cẩn thận, vì biết đâu một người trong bọn tôi lại chẳng lầm cho tôi một phát súng đến đi đời!
Mặt trăng lên cao dần. Ánh trăng chiếu lốm đốm qua cây lá. Ngay trước mặt tôi, thấp thoáng có ánh lửa hồng trong lùm cây. Ngọn lửa có lúc đỏ rực, có lúc tối sầm lại, hình như lửa của một đống tro tàn chưa tắt hẳn. Đi đến chỗ trống, tôi nhìn kỹ. Đằng góc phía tây, ánh trăng chiếu sáng rực rỡ. Cả khu lô-cốt còn chìm trong bóng tối. Một vài vệt ánh trăng chiếu ngang qua lô-cốt. Phía bên kia lô-cốt, một đống than hồng hiu hắt. Chung quanh im lặng như tờ. Chỉ nghe tiếng gió thổi trong lá cây.
Tôi đứng lại, vừa ngạc nhiên vừa lo sợ. Xưa nay không bao giờ chúng tôi đốt lửa to. Lệnh ông thuyền trưởng là phải hết sức tiết kiệm củi. Tôi hồ nghi là có tai biến gì đã xảy ra trong lúc tôi đi vắng. Tôi đi vòng về mé đông, và dò theo chỗ tối, tôi leo qua bờ rào. Muốn cho chắc dạ, tôi bò nhẹ nhàng đến góc lô-cốt. Nhưng tôi yên tâm ngay. Tôi khoan khoái lắng nghe tiếng ngáy đều đều của những người đồng đội đương ngủ yên lành. Giá vào lúc khác mà nghe thế, tôi đã phàn nàn về sự canh phòng không cẩn mật, nhưng lúc này tôi nghe tiếng ngáy đều đều ấy như nghe một điệu đàn du dương.
Nhưng dù sao, canh gác như vậy thì cũng quá cẩu thả. Nếu bọn giặc đến thì không một người sống sót! Tôi tự nhủ: “Ông thuyền trưởng vừa bị thương nằm xuống là đã ra thế rồi!” Tôi lấy làm hối là đã để các bạn lại trong cơn ngặt nghèo ít người canh gác.
Tôi bò vào cửa. Trong nhà tối như mực, chẳng trông rõ vật gì. Tôi quờ quạng hai tay đằng trước, mò vào. Tôi định bụng bò vào ngủ chỗ mọi khi, để sáng mai dậy, thấy mặt tôi, mọi người phải một mẻ ngạc nhiên.
Tôi vấp phải cái chân của một người đang ngủ; người ấy trở mình càu nhàu mấy tiếng trong cơn mê rồi lại ngủ.
Thốt nhiên, một tiếng nói the thé vang lên trong xó tối :
- Đồng ăn tám, đồng ăn tám, đồng ăn tám, đồng ăn tám!
Tiếng ấy cứ kêu mãi, đều đều như tiếng cối xay.
Thôi, đúng con vẹt của Silver đây rồi! Nó canh gác còn giỏi hơn người. Thấy tôi mò vào, nó đã kêu liến thoắng lên để báo động.
Tôi còn đương bối rối chưa kịp định thần lại, thì mọi người trong nhà đã thức choàng dậy, đứng phắt lên. Tiếp theo là tiếng Silver quát lớn :
- Ai? Ai?
Tôi vội chạy bổ ra ngoài, chẳng may va phải một người khác. Tôi lùi lại đằng sau thì lại rơi vào tay một kẻ khác, tên này đã ôm chặt lấy tôi.
Khi đã bắt được tôi rồi, Silver gọi to :
- Dick! Đem đuốc lại đây.
Một người chạy vụt ra ngoài, rồi đem ngay một bó đuốc sáng rực vào.
Ánh đuốc sáng rực chiếu rõ căn nhà, làm tôi thoáng nhìn qua đã hoảng vía. Bọn giặc đã đánh chiếm được khu lô-cốt và cả lương thực. Thùng rượu, bánh, mỡ, thịt muối đều còn nguyên chỗ cũ. Điều làm tôi lo sợ nhất là không thấy tăm hơi một người nào bị bắt. Lúc bấy giờ tôi yên trí là tất cả bọn tôi đã bị giết rồi. Tôi hối hận vô cùng. Lương tâm tôi cắn rứt vì đã bỏ đồn, không ở lại để cùng anh em đồng sinh đồng tử.
Trong lô-cốt, có tất cả sáu tên giặc; chắc chúng chỉ còn sống vẻn vẹn có thế. Năm đứa đứng sừng sững giữa nhà, có lẽ chúng đương say vùi, nhưng đột nhiên bị đánh thức nên trông mặt thằng nào cũng đỏ ngầu, xì xị. Còn một thằng thì nằm chống cùi. Thằng này mặt mũi nhợt nhạt như người chết, cái băng buộc trên đầu hắn còn mới tinh. Tôi chắc tên này là tên giặc bị thương chạy tuột vào rừng giữa hôm đánh nhau.
Con vẹt đang đứng rỉa lông trên vai gã Silver. Gã trông nhợt nhạt và nghiêm nghị hơn mọi lần. Gã vẫn mặc bộ quần áo dạ như hôm đến đồn thương lượng. Bộ quần áo bây giờ đã bẩn và bị gai móc rách nhiều chỗ.
Gã nói :
- Kìa cậu Jim! Thật là trời run rủi! Tình cờ cậu đến thăm chúng tôi! Thật quý hóa!
Nói thế rồi gã ngồi trên thùng rượu, cho thuốc lá vào tẩu xong, gã nói :
- Dick! Đưa mượn bó đuốc!
Khi đã châm thuốc xong, gã lại nói :
- Thôi được rồi! Cắm bó đuốc vào đống củi kia, rồi đi ngủ đi! Ông Jim đây là chỗ thân tình. Ông cũng chẳng bắt lỗi bắt phạt gì các anh đâu mà sợ.
Rồi gã quay lại bảo tôi, vừa nói vừa lấy tay ấn thuốc trong tẩu :
- Còn cậu Jim! Cậu đến đây làm tôi vừa lo vừa mừng. Từ lúc gặp cậu lần đầu, tôi vẫn biết cậu là người láu lỉnh. Nhưng đến việc này thì tôi không ngờ được...
Tôi đứng im không đáp một câu nào. Chúng nó để tôi đứng tựa vào vách. Tôi nhìn thẳng vào gã Silver, bề ngoài rất bạo dạn, nhưng trong ruột rối như tơ vò. Silver ngồi yên lặng, thở ra vài làn khói thuốc, rồi nói tiếp :
- Cậu Jim, cậu đã đến đây, tôi xin nói thật cho cậu nghe. Tôi vẫn thú cậu ở chỗ cậu là một người dũng cảm giống in như tôi thời tôi còn niên thiếu. Tôi vẫn hằng ao ước được cậu nhập bọn với chúng tôi, đồng cam cộng khổ. Vậy đây là dịp tốt. Ông thuyền trưởng của cậu tuy là một tay thạo nghề nhưng quá nghiêm khắc. Còn ông bác sĩ thì cũng đã xỉ vả cậu hết lời. Ông ta bảo cậu là một thằng tồi, một thằng tệ bạc. Nói tóm lại, họ chán cậu rồi! Nếu cậu không lập riêng một phe - mà người đâu mà lập - thì chi bằng cậu cứ nhập bọn quách với thằng Silver này!
Tôi tự nhủ :
“Tốt lắm! Như vậy là cả bọn tôi còn sống...”
Tuy tôi có tin một phần nào ở lời Silver về việc bác sĩ oán giận tôi khi tôi bỏ trốn, nhưng tôi không lo, mà lại rất vững bụng. Silver lại bảo :
- Không nói thì cậu cũng biết, cậu đương ở trong tay bọn tôi. Nhưng tôi thích làm cho cậu vỡ lẽ phải trái hơn là dọa nạt. Nếu cậu thuận thì ở, mà không thích ở thì đi, cậu cứ cho biết!
Trong khi nói một cách mỉa mai như thế, gã đã lộ ngầm cái ý dọa giết tôi. Tôi hỏi gã, giọng run run :
- Tôi có phải trả lời ngay không?
Gã bảo :
- Hãy khoan, hãy nghĩ cho kỹ đã... Không ai thúc giục cậu đâu!
Dần dần tôi đâm ra bạo, tôi hỏi lại :
- Dù muốn theo ai đi nữa, thì các ông cũng phải cho tôi biết sự thực: Tại sao các ông lại ở đây, và bọn tôi bây giờ ở đâu?
Một tên giặc buột mồm định nói xen vào, nhưng Silver đã quát im. Rồi gã dịu giọng nói :
- Sáng hôm qua, bác sĩ Livesey cầm một lá cờ trắng đến chỗ chúng tôi và nói: “Thuyền trưởng Silver, ông đã bị họ phản. Tàu đã mất rồi!”. Chắc bọn chúng tôi mải mê rượu chè nên mới sơ ý. Đến khi nhìn lại thì ôi thôi, chiếc tàu đã biến đi đâu mất! Thật là xấu hổ và nhục nhã. Bác sĩ bảo: “Thôi, chúng ta thương lượng với nhau đi!” Thế là chúng tôi thương lượng. Các ông ấy chịu nhường lại cho chúng tôi tất cả, cả đồn, cả củi, cả thức ăn. Còn các ông ấy, các ông ấy kéo đi đâu thì có trời biết!
Gã ngồi bình tĩnh hút thuốc lá rồi lại tiếp :
- Để cho cậu yên tâm, tôi cho cậu biết là cậu không dính dáng gì vào việc này cả. Khi tôi hỏi: “Bên ông còn lại mấy người?” Bác sĩ đáp: “Còn bốn, một bị thương. Còn thằng bé con thì tôi không biết nó ở đâu. Thôi ở đâu thì ở, mặc xác nó!” Đấy, bác sĩ đã nói với tôi như vậy đấy!
- Thế là hết?
- Phải, thế là hết!
- Bây giờ tôi phải chọn... chứ gì?
- Cậu cứ chọn, không sợ gì nữa!
Tôi bỗng đứng thẳng người lên, nói một mạch :
- Tôi không phải là thằng ngốc mà không hiểu được bọn ông định làm gì tôi! Nhưng gì thì gì, tôi cóc cần! Tôi phải nói với các ông một vài điều. Trước hết là bọn các ông đương lâm vào thế nguy: tàu mất, của mất, người mất. Các ông hoàn toàn thất bại. Vậy ông có muốn biết ai gây ra những việc ấy không? Tôi, chính tôi. Chính tôi đã ngồi nấp trong thùng lê, đã nghe các ông bàn bạc và đã báo ngay cho bọn tôi. Chính tôi đã cắt dây buộc tàu. Chính tôi đã giết chết hai thằng giữ tàu, và cũng chính tôi đã lái tàu giấu vào một nơi kín mà bọn ông không một ai có thể biết được! Chính tôi là người ở tay trên các ông, từ đầu đến cuối. Tôi coi các ông bất quá như ruồi muỗi mà thôi. Bây giờ, giết hay để là tùy ông! Nhưng có một điều tôi muốn cho ông biết, là nếu ông không giết tôi thì tôi sẽ quên tất cả việc đã qua. Khi ấy ra tòa, tôi sẽ hết sức cứu ông. Giết đi một cách vô ích hay để lại để sau này làm chứng cho khỏi bị treo cổ, cái ấy là tùy ở ông!
Tôi dừng lại, vì tôi nói đã muốn hụt hơi. Tôi lấy làm lạ về việc trong bọn chúng không có một đứa nào nhúc nhích. Chúng đứng nhìn tôi như một đàn cừu. Khi ấy, tôi lại nói :
- Ông Silver! Tôi coi ông là người khá nhất ở đây. Nếu tôi có việc gì, tôi nhờ ông nói hộ lại với bác sĩ Livesey những việc tôi đã làm...
Silver đáp lại, giọng gã rất lạ, không hiểu ý gã muốn mỉa mai tôi hay gã cảm phục trước thái độ can đảm của tôi :
- Tôi sẽ nhớ lời cậu dặn.
Ngay khi ấy, tên thủy thủ già tên là Morgan mà tôi đã gặp một lần trước đây ở trong hàng cơm của Silver tại bến Bristol vội kêu to :
- Chính hắn! Chính hắn đã nhận ra thằng Hắc Cẩu...
Một giọng khác kêu to :
- Lại cũng chính hắn đánh cắp cái bản đồ của thằng Bill! Quanh đi quẩn lại, chúng ta đều bị thằng nhãi con này đánh lừa!
- Đây... để tôi cho hắn nếm cái của này!
Morgan vừa nói vừa càu nhàu chửi. Hắn nhảy xổ lại, rút soạt dao ra, nhanh nhẹn như một thanh niên hai mươi tuổi.
Silver quát to :
- Hãy khoan đã! Anh làm gì ở đây, Morgan? Bộ anh tưởng anh là thủ lĩnh ở đây hả! Anh cứ thử trái lệnh tôi, anh sẽ biết tay tôi. Ba mươi năm trời nay, kẻ nào đã trêu vào tay này thảy đều nát thây và đều làm mồi cho cá biển. Không thằng nào bướng với tôi mà toàn mạng được đâu! Morgan, anh có thể tin lời tôi nói...
Morgan chùn lại, nhưng những tên khác vẫn xì xào. Một tên nói :
- Morgan làm đúng đấy!
Một tên khác nói thêm vào :
- Tôi đã để người ta bắt nạt nhiều rồi! Thà tôi chịu chết treo cổ còn hơn để cho họ bắt nạt tôi lần nữa.
Silver ngồi ngả người trên thùng rượu, tay cầm tẩu thuốc lá. Hắn gầm rít lên :
- Nào, còn ai muốn nói cái gì nữa nào? Nói gì, cứ nói cho hết đi! Các anh câm hả? Kẻ nào muốn gây chuyện với tôi, sẽ được biết ngay... Tôi đã sống từng này tuổi đầu rồi mà còn để cho một thằng say quèn làm nhục tôi à? Nào, tôi đợi đấy! Kẻ nào dám vác dao đến thì tôi tuy què quặt, nhưng cũng quyết moi gan hắn ra xem thử to hay nhỏ!
Không một tên nào dám hó hé.
Silver lại ngậm tẩu thuốc vào mồm rồi nói :
- Các anh chỉ là đồ tồi! Khi nói đến chuyện đánh nhau, các anh chỉ biết rụt cổ lại! Các anh đã bầu tôi làm thuyền trưởng, vì xét ra tôi hơn hẳn các anh, các anh phải tuân lệnh tôi chứ! Tôi bảo cho các anh biết, tôi rất mến thằng bé này. Thật là một đứa bé có một không hai. Nó còn hơn cả bất kỳ một kẻ hèn nhát nào trong bọn các anh: Kẻ nào động đến nó, coi chừng!
Mọi người đều im thin thít.
Tôi vẫn đứng tựa vào tường, lòng hồi hộp nhưng cũng lóe lên một tia hy vọng. Silver tựa lưng vào tường, hai tay khoanh trước ngực, miệng ngậm tẩu thuốc, thái độ bình tĩnh một cách lạ lùng. Mắt hắn vẫn không rời bọn thủ hạ bướng bỉnh của hắn.
Bọn kia lùi dần về đằng góc lô-cốt, tiếng bàn bạc rì rầm. Thỉnh thoảng có thằng ngóc đầu lên nhìn Silver. Ánh đuốc soi hồng nét mặt gân guốc của chúng. Silver nhổ toẹt một bãi nước bọt ra xa rồi nói :
- Có điều gì nói thì cứ nói đi! Không nói thì ngồi im!
Một tên đáp lại :
- Xin lỗi ông, tôi xin nói. Ông đã phá luật. Bọn tôi đương bất bình đây. Bọn chúng tôi không muốn để ai bắt nạt. Chúng tôi có quyền của chúng tôi. Theo luật, chúng tôi có quyền bàn bạc với nhau. Xin lỗi ông, tôi vẫn nhận ông là thuyền trưởng của chúng tôi trong lúc này. Chúng tôi xin phép ra ngoài kia để họp một tí...
Nói xong, hắn lễ phép giơ tay lên chào rồi bước ra.
Những đứa khác đều làm theo hắn. Cuối cùng, bọn chúng ra hết, bỏ lại Silver với ngọn đuốc bập bùng. Silver bỏ tẩu thuốc lá xuống, hạ giọng, nói chỉ vừa đủ tôi nghe :
- Này cậu Jim! Cậu thấy không? Suýt nữa chúng thịt cậu đấy! Nhưng tệ hơn nữa là chúng sẽ tra tấn hành hạ cậu... Giờ đây chúng lại sắp hất cẳng tôi đấy! Nhưng cậu nhớ cho, tôi sẽ không bỏ cậu. Thú thật khi cậu chưa nói, tôi chưa định cứu cậu đâu! Nhưng nghe cậu nói rồi, tôi tự nghĩ: “Cậu Jim là người tin được! Bây giờ hãy cứu lấy Jim, sau này Jim sẽ cứu lại ta. Jim là chỗ dựa cuối cùng của ta mà ta cũng là chỗ dựa của Jim. Hãy cứu lấy người làm chứng cho ta, sau này nó sẽ cứu ta thoát chết”.
Bắt đầu hiểu ra câu chuyện, tôi hỏi :
- Thế ông nghĩ thế nào?
- Tôi nghĩ, tôi đã thất bại hẳn rồi, tôi đã nản lắm rồi! Còn cái bọn kia cũng không có gì đáng ngại... Tôi sẽ hết sức cứu cậu ra khỏi nanh vuốt của bọn chúng. Nhưng tôi cứu cậu, cậu phải cứu lại tôi. Cậu đừng để cho thằng Silver này phải bị treo cổ.
Nghe hắn nói, tôi rất bối rối. Làm thế nào mà cứu được một tên giặc già đầy tội ác như vậy khỏi chết được! Tôi đáp :
- Giúp được gì cho ông, tôi sẽ giúp...
- Đó là lời hứa danh dự của một người đứng đắn.
Nói xong, hắn tập tễnh đi châm thuốc hút, rồi trở lại nói :
- Tôi nói thật với cậu. Bây giờ tôi đứng về phe ông Trelawney. Những việc cậu làm, tôi không cần hỏi. Nhưng tôi tin ở cậu. Tôi tin ở sự nhận xét của tôi. Tôi biết người biết của. Chao ôi! Cậu còn trẻ lắm! Cậu và tôi, một già một trẻ, chúng ta còn làm được nhiều việc to tát!
Hắn lấy ít rượu trong thùng ra uống. Rồi hắn nói :
- À cậu Jim, tiện đây tôi muốn hỏi cậu, tại sao bác sĩ Livesey lại giao cho tôi bức bản đồ chỉ chỗ giấu kho vàng?
Thấy tôi ngạc nhiên, hắn nói lảng :
- Chắc có điều gì bí ẩn ở bên trong. Nhưng không biết điều lành hay điều dữ!
Nói xong hắn lại tợp một ngụm rượu. Rồi hắn lắc lư cái đầu tóc vàng bệch như đón đợi một điều gì không lành.
Bọn giặc đứng họp ở ngoài. Thốt nhiên một đứa chạy vào mượn bó đuốc. Silver đồng ý. Tên kia xách đuốc ra, để lại chúng tôi ngồi trong xó tối.
Ngồi mãi tôi đi đến lỗ châu mai cạnh đấy, nhìn ra ngoài. Bọn chúng đứng họp ở góc đồi. Đống tro đã tàn. Một đứa đứng cầm bó đuốc vừa mang ra. Một đứa nữa quỳ ở giữa, tay cầm con dao lấp lánh. Những đứa khác đứng khom lưng nhìn vào tên cầm dao.
Tôi chỉ có thể nhìn thấy tên này đương cầm một cuốn sách. Tôi đương tự hỏi, làm sao bọn chúng lại có cái của lạ ấy thì tên quỳ giữa đã vụt đứng lên, rồi cả bọn kéo nhau vào.
Tôi nói :
- Chúng vào rồi kìa!
Silver bảo :
- Cho chúng vào! Cho chúng cứ nắm đằng lưỡi, tôi còn giữ cái chuôi đây!
Khi cánh cửa mở, cả bọn ùa vào; chúng đẩy một đứa lên trước. Tên này rụt rè tiến lên từng bước một, tay phải nắm chặt đưa ra đằng trước. Silver quát to :
- Cứ lại đây! Không ai ăn thịt anh đâu mà sợ!
Tên giặc bạo dạn bước lại gần, giúi vội vào tay Silver một vật gì rồi vội bước lui về. Silver cúi xuống nhìn rồi bảo :
- Cái vết đen! Tôi đã biết mà! Các anh muốn báo hiệu trước để xử tội tôi. Các anh lấy giấy này ở đâu ra? Chết chửa! Các anh đã xé giấy ở một quyển kinh thánh để làm cái vết đen. Thật là điềm chẳng lành! Sao dại dột thế?
Morgan nói :
- Biết ngay mà! Tôi đã bảo mà!
Silver nói tiếp :
- Các anh đã làm thì các anh phải chịu lấy. Thằng ngốc nào lại đưa quyển kinh thánh ra thế này?
Một tiếng đáp :
- Dick đấy!
Silver hỏi :
- Thật Dick không? Thế thì cầu nguyện đi!
Nhưng đến đây, cái thằng mắt vàng tên là George đã đứng ra nói :
- Thôi đừng nói phiếm nữa! Chúng tôi đã họp và đã gửi cho ông cái vết đen. Ông cứ đọc đi rồi hãy nói chuyện.
Silver đáp :
- À, anh George. Tính anh bao giờ cũng thích nhanh nhảu. Chữ anh viết ở giấy đây phải không? Chữ tốt lắm! Chà! Bây giờ anh trở nên một tay lỗi lạc trong anh em rồi. Có lẽ anh sẽ lên làm thuyền trưởng! Này, nhờ anh đưa hộ bó đuốc. Cái tẩu thuốc lá này cứ tắt luôn!
George nói :
- Thôi ông đừng có đùa nữa! Không ai phục ông đâu!
Silver trả lời một cách khinh bỉ :
- Anh nói như đứa con nít. Tôi bảo cho anh biết: bây giờ tôi vẫn là chủ của anh. Cái vết đen của anh chỉ đáng giá nửa đồng xu. Bao giờ các anh đưa lý lẽ ra rồi hẵng hay.
George đáp :
- Lý lẽ đây: điều thứ nhất, ông đã làm cho việc tìm của này bị hỏng! Điều thứ hai, ông đã thả cho kẻ thù đi khỏi nơi này. Tại sao họ đi? Có giời mà biết! Điều thứ ba, ông ngăn cản không cho chúng tôi đuổi theo họ khi họ rút lui. Chao ôi! Chúng tôi đã rõ ông là người ăn ở hai lòng. Và sau cùng, điều thứ tư, là chuyện thằng nhãi con này...
Silver hỏi một cách bình tĩnh :
- Có thế thôi, phải không?
George đáp :
- Từng ấy cũng đủ quá rồi! Chúng tôi có bị treo cổ cũng chỉ vì cái lối đòn xóc hai đầu của ông!
- Được! Bây giờ các anh hãy nghe tôi trả lời. Các anh bảo tôi làm hỏng việc. Tất cả các anh ở đây đều biết dự định của tôi. Nếu làm theo lời tôi nói thì bây giờ có phải mọi người đều không ai thiệt mạng mà giàu sang phú quý rồi không? Nhưng ai gây ra tai hại này? Ai bắt tôi phải bỏ dự định ấy? Ai nóng ăn làm hỏng việc? Ai? Ai tước quyền thuyền trưởng của tôi trao cho tôi cái vết đen giữa hôm lên bộ? Ai bắt tôi làm cái trò múa rối ấy? Chính Anderson, lão Hands và George chứ còn ai? Bây giờ trong ba đứa, chỉ còn hắn sống sót mà hắn còn lếu láo, dám khua môi múa mép ư?
Silver ngừng lại. Nhìn sắc mặt tên George và cả bọn chúng, tôi biết lời nói của Silver đã có hiệu quả.
Morgan kêu lớn :
- Thế còn những điều khác, nói nốt đi!
Silver lau mồ hôi trán rồi nói tiếp :
- Còn cái điều về cậu bé này, tôi nói cho anh nghe... Cậu bé chả là con tin đó sao? Các anh có biết việc của chúng ta hỏng đến mức nào không? Chỉ vì ba tên khốn nạn ấy mà chẳng mấy chốc chúng ta đều bị treo cổ lên cả! Nghĩ đến chuyện ấy, có lúc tôi cứ đờ đẫn cả người. Trong lúc thập tử nhất sinh như vậy, thì bắt được cậu bé này. Thực là phúc lớn. Cậu ấy là vật bảo mạng cho chúng ta. Thế mà các anh đòi giết nó đi. Không! Tôi không làm được việc ấy! à còn điều thứ ba. Này tôi hỏi thật! Anh John, đầu anh chưa vỡ toạc đấy à? Cả anh George nữa! Cách đây sáu giờ, chả phải anh lên cơn sốt run bần bật, mặt bây giờ vẫn còn vàng nghệ đấy không? Có lẽ các anh không cần một ông thầy thuốc chính cống hằng ngày đến thăm bệnh và cho thuốc các anh phỏng? Còn cái điểm thứ hai vì sao tôi thỏa thuận điều đình với họ. Thế việc này chả phải chính các anh đến quỳ gối trước mặt tôi, van xin tôi làm việc ấy cho các anh, vì tinh thần các anh đã quá tan rã rồi không? Mà lúc ấy nếu tôi không làm, các anh đã chết đói tất! Nhưng những việc nhỏ mọn ấy cũng chẳng đáng kể đâu. Cái lý do chính là cái này đây!
Hắn nói thế, rồi ném luôn xuống đất một mảnh giấy. Tôi nhận ra ngay đó là bức bản đồ màu giấy cũ đã ố vàng, trên có vạch ba chữ thập đỏ mà tôi đã lấy ở dưới đáy hòm của tên Bill khi xưa. Tại sao bác sĩ Livesey lại giao cho hắn bức địa đồ ấy? Đó là điều tôi không hiểu thấu...
Bức bản đồ vừa đưa ra đã làm bọn giặc ngạc nhiên đến hoa mắt! Chúng nhảy xổ vào tấm bản đồ như một lũ mèo vồ một con chuột nhắt.
Rồi cái bản đồ được chuyền từ tay nọ sang tay kia, hết thằng này giật đến thằng khác giật; được xem tận mắt rồi, chúng hò hét, chửi thề, rồi cười hí hửng với nhau như trẻ con, tưởng như bọn chúng đã sờ thấy được vàng trong tay rồi, và đã chắc chắn mang vàng lên tàu, ung dung đi ra khơi vậy...
Một đứa nói :
- Đúng rồi! Chính bản đồ của Flint, chính chữ ký của Flint đây!
George nói :
- Tốt lắm! Vàng có đấy, nhưng tàu không có nữa thì lấy cái đếch gì mà mang đi?
Silver quay lại nhảy xổ lên, quát to :
- Câm cái mồm đi, không có tôi vặn cổ bây giờ! Làm thế nào mang đi à? Cái đó, phải hỏi ở anh và cả bọn anh đã đánh mất chiếc tàu ấy! Nhưng anh cũng chỉ là một thằng vô dụng thôi. Trí óc anh cũng chả hơn gì trí óc một con gián. Anh đã để mất tàu, anh còn nỏ mồm hỏi một cách hỗn xược như thế hả? Thật quá lắm!
Morgan tỏ đồng tình :
- Silver nói đúng đấy!
Silver bảo :
- Đúng đứt đi chứ lị! Bọn anh thì để mất tàu, còn tôi thì tìm ra kho của. Như thế thì hỏi ai hơn ai? Thôi bây giờ tôi từ chức mẹ nó đi cho xong. Mặc các anh muốn bầu ai làm thuyền trưởng thì bầu!
Tất cả đồng thanh kêu lớn :
- Silver! Silver vẫn làm thuyền trưởng!
Silver hỏi to :
- Thật thế chứ? George, thôi anh đợi lần khác vậy. Cũng may cho anh là tính tôi không hay thù vặt. Các bạn! Còn cái vết đen này, bây giờ nó còn giá trị gì nữa không? Vô ích chứ! Chỉ có Dick đã làm hỏng quyển thánh kinh, nên nó sẽ tự mang lấy họa.
Dick lo lắng hỏi :
- Bây giờ phải làm thế nào?
Nói xong hắn cứ bo xo bắn xắn trong người. Silver ném cho tôi mảnh giấy cầm ở tay và bảo :
- Cậu Jim! Tôi cho cậu xem cái của lạ này!
Đó là một mẩu giấy có một mặt trắng vì nó ăn vào trang cuối; còn mặt kia có vài câu sách kinh thánh. Trên mặt chữ in bị than xóa lem nhem. Bên mặt giấy trắng có mấy chữ “Trao tận tay”, cũng viết bằng than.
Thế là câu chuyện đêm hôm ấy chấm dứt. Mọi người uống rượu rồi đi nằm. Tôi cứ nằm thao thức mãi không chợp mắt được. Còn Silver thì vẫn bình tĩnh đánh một giấc ngon lành.