Ghi chú đến thành viên
Gởi Ðề Tài Mới Trả lời
 
Ðiều Chỉnh
  #1  
Old 20-07-2008, 12:12 AM
ruarua88 ruarua88 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 26
Thời gian online: 0 giây
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 0 Times in 0 Posts
truyện đêm khuya

Lúc tôi lên bảy gia đình tôi dọn về sống ở Cleveland Ohio trong một khu trung cư lớn gọi là Clifton Manor. Khu trung cư này đã xây lâu năm nên rất cổ xưa và cũ kỷ với những vòng sắt cong chạy dài theo hành lang để chắn gió bên cạnh những cánh cửa lớn đen ngòm không nhìn thấu được. Tôi không nhớ chính xác nó có bao nhiêu tầng nhưng tôi nghĩ là nó có khoảng 5 hay 6 tầng gì đó và ở mỗi tầng có khoảng 15 đến 20 căn.
Ðêm hôm đó là Halloween, trời vừa sụp tối, tôi vội vã chuẩn bị đồ đạc và cái bao (áo gối) đi xin kẹo một mình vì má tôi phải ở nhà chăm sóc đứa em mới sanh. Với lại tôi chỉ đi xin kẹo ở trong khu trung cư này thôi không cần đi ra ngoài xin để làm gì, cho nên má của tôi mới an tâm để tôi đi một mình.
Sau khi đi được vài tầng lầu với cái bao gần đầy kẹo vác theo sau lưng, tôi bước vào thang máy để tiếp tục lên trên tầng kế tiếp. Ðến tầng trên, vừa bước ra thang máy tôi giáp mặt với Donald, con của người cai quản khu trung cư này. Thường ngày anh ta rất cà chớn, vì học hơn tôi một lớp nên anh ta ỷ lớn ăn hiếp tôi, còn tôi chỉ là một người con gái nhỏ con yếu đuối thường bị anh ta xô vào bụi cây trên đường từ trường về nhà. Theo phản ứng tự nhiên, khi gặp anh ta là tôi sợ rồi nhưng hôm nay lại khác, anh ta lại chuyện trò với tôi rất tử tế về việc đi xin kẹo và anh ta còn nói rằng những người ở tầng dưới cho kẹo chocolate bar ngon lắm, nếu muốn đi thì anh ta sẽ dẫn đi. Nghe đến những thỏi chocolate thơm ngon làm lòng ham muốn nổi dậy, tôi không đắn đo suy nghĩ gì hết liền theo anh ta.
Chúng tôi vào thang máy đi xuống tận dưới tầng cuối cùng. Cái tầng này có rất nhiều ống dẫn nước, nước rỉ ra từ những đường rạn nứt trên tường làm cho không khí ở đây rất là ẩm ướt và ma quái với những ánh đèn vàng lờ mờ dọc theo hai bên tường. Ðồ đạc để đầy ở nơi đây được trùm bằng những tấm vải trắng trông giống như những con quái vật. Khi thấy cảnh tượng này tôi cũng hơi sợ nhưng Donald thúc giục gần sắp tới rồi. Donald đi trước tôi nối gót theo sau.
Màng nhện giăng đầy dẫy khắp nơi, có đôi lúc tôi phải cuối xuống để tránh bị màng nhện bám vào đầu tóc. Cuối cùng chúng tôi đến một cái cổng làm bằng gỗ với ống khóa bên ngoài (đáng lẽ tôi phải biết đây là cái cạm bẫy, nhưng vì cứ nghĩ đến những thỏi chocolate mà không để ý gì khác). Donald cầm chùm chìa khóa của ba anh ta nãy giờ đến bây giờ mới dùng đến nó. Sau khi mở ổ khoá xong, anh ta từ từ kéo cánh cửa gỗ ra, bỗng dưng anh ta đổi sắc mặt với cái giọng cà chớn:.Vào trước đi. vừa nói anh ta vừa đẩy tôi thật mạnh vào bên trong căn phòng tối om. Sau đó anh ta đóng sầm cửa lại và khóa tôi ở trong đó. Anh ta đã bỏ tôi ở trong phòng dưới tầng cuối cùng gọi là cái hầm nhà một mình... trước khi đi anh ta còn để lại một tràng cười khoái chí. Lúc đó tôi đã biết mình bị lừa, nhưng đã trễ rồi....
Căn phòng tối om làm tôi sợ lắm, tôi cố gắng dồn hết sức la cho thật lớn, tay thì đập mạnh vào cánh cửa hy vọng có người nghe thấy sẽ xuống nơi này mở khóa cho tôi. Sau một hồi la khóc, thiếu điều gần muốn đái trong quần, tôi không thấy ai đến.cứu. nên tôi nín khóc và tìm cách để ra ngoài. Tôi lấy hết can đảm của một người con nít bảy tuổi dựa theo cái tường trơn trượt phủ đầy rong rêu quờ quạng đi trong bóng tối. Càng đi vào trong càng tối, đến nỗi để tay trước mặt còn không thấy, dĩ nhiên tôi vẫn còn dựa theo bức tường đi cho an toàn, bỗng dưng tôi trượt chân té xuống một vũng bùn lầy, ẩm ướt, và hôi hám làm tôi sợ mất hồn. Sau khi bị trượt chân tôi không thèm đi đâu mà chỉ ngồi yên một chỗ, cho đến khi tinh thần kiệt quệ, tôi đổ hết kẹo trong bao gối ra rồi chui vào trong đó. Có lẽ mệt mõi vì la khóc nên vừa nằm xuống là tôi chìm vào giấc ngủ ngay lập tức.
Không biết mình đã ngủ bao lâu nhưng có gì đó đã làm tôi giật mình. Mở to đôi mắt còn ngái ngủ ra, tôi thấy một vùng ánh sáng lờ mờ cách xa chỗ tôi nằm. Lúc đó tôi nghĩ, có lẽ trời đã sáng nên trong lòng cũng thấy bớt sợ một chút. Nhưng không, ánh sáng đó từ từ tiến đến gần tôi, càng đến gần tôi càng thấy sáng hơn. Chuyện gì đang xảy ra thì tôi không biết, tôi chỉ thấy lạ rồi sợ nên cuộn mình trong bao gối rồi ôm nó thật chặt. A¨nh sáng tiến đến càng gần tôi càng thấy rõ hơn, thì ra đó là một người đàn bà đang cầm một cây nến. Bà ta mặc quần áo lạ lắm không giống má tôi và những người đàn bà khác, tóc bà ta thì bới theo kiểu nào đó tôi chưa từng bao giờ thấy. Tôi nhìn bà ta thật kỹ và để ý rằng bà ta không phải đi như một người bình thường mà từ từ lướt tới rất nhẹ nhàng. Khi đến gần tôi, bà ta không nói gì mà chỉ lấy tay chỉ cánh cửa (bây giờ tôi mới thấy được nhờ ánh sáng của ngọn nến), tôi đoán bà ta có thể là má của Donald xuống đây mở khoá cho tôi nên tôi vội nhanh chân chui ra khỏi bao gối chạy nhanh đến cánh cửa lấy tay cầm cái nắm mở ra. Lúc đó tôi mới phát giác ra cửa vẫn còn khóa. Vào lúc này, tôi chỉ biết đứng đó chết trân, hai mắt chăm chăm nhìn người đàn bà không biết từ đâu đến, nhưng chỉ trong vòng vài giây bà ta lướt đến thật nhanh rồi đi.XUYÊN. qua cánh cửa, sau đó tôi nghe.rắc. một cái cánh cửa mở ra. Khi cửa mở, tôi phóng nhanh ra ngoài và chạy thẳng một mạch về đến nhà mà không dám quay đầu lại. Về đến nhà tôi mới biết má tôi đã gọi cảnh sát và họ đang lục soát tìm tôi khắp nơi trong khu trung cư tôi đang ở kể cả những nhà hàng xóm kế bên. Vừa thở hổn hển tôi vừa kể lại những chuyện đã xảy ra cho má tôi nghe, nhưng khi má tôi nghe đến cái phần tôi gặp một người đàn bà mở khóa cho tôi thì má tôi liền nổi giận nói là tôi bịa chuyện, và chỉ có tôi mới đặt ra câu chuyện ngu xuẩn như vậy...
Rốt cuộc chẳng có người nào tin tôi đến khi cảnh sát xuống dưới hầm nhà và tìm thấy trong căn phòng sau cánh cửa gỗ có nhiều bao giấy kẹo rải rác khắp nơi (bọn chuột đã có một bữa ăn thả vàng), vì vậy họ mới tin tôi thật sự đã bị nhốt ở đây nhưng làm cách nào mà tôi ra khỏi đó, họ không thể nào giải thích được. Tôi không biết người đàn bà tốt bụng đó là ai nhưng tôi xin cám ơn bà ta rất nhiều.
Còn cái thằng Donald thì bị ba mẹ anh ta phạt ba roi vì cái tội nhốt tôi. Từ đó anh ta không còn dám chọc phá tôi nữa, không biết vì anh ta sợ bị ba mẹ đánh hay là vì sợ người đàn bà tốt bụng theo nhát anh ta...



Các chủ đề khác cùng chuyên mục này:

Tài sản của ruarua88

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Old 20-07-2008, 12:13 AM
ruarua88 ruarua88 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 26
Thời gian online: 0 giây
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Một ngôi nhà xanh hai tầng, một gác xép, một khu vườn, một nhà xe và rặng cây ngăn cách nhà hàng xóm. Người ta gọi là ngôi nhà xanh vì những cánh cửa sơn xanh. Ông và Baoman ở đây đã nhiều năm, đã sơn đi sơn lại cửa nhiều lần đến mức tường đá cũng có màu xanh nhạt.
Rặng cây cũng xanh, và những tấm màn cũng xanh.
Một ngôi nhà đẹp, vì một mối tình đã năm mươi năm, từ năm 1941. Mácta và Giuliút Baoman không có con nhưng hạnh phúc. Giulíut nguyên giám đốc ngân hàng, nghỉ hưu và Macta làm bánh nhân anh đào. Họ nghe đài, đôi khi cũng cùng nhảy một điệu van cũ thành Viên hoặc một bài tăng gô Achentina.
Trong khu nhà ở ngoại ô Đenve này, dưới chân những ngọn núi đá, vợ chồng Baoman được nhiều người biết, được ngưỡng mộ. Họ sống thật hạnh phúc nên cũng vui khi thấy học khoác vai nhau cùng nhau đi dạo thanh thản. Giulíut bảy mươi ba tuổi, Macta bảy mươi hai.
Macta bước xuống thang, đôi chân còn nhanh nhẹn. Bà vừa bận quần áo để đi dạo chơi và gọi:
- Giulíut, ông xong chưa?
- Tôi đã chờ bà rồi đây...
Macta Baoman cất tiếng cười vui, bỗng Giulíut nghe chuyển thành tiếng kêu. Rồi một tiếng ngã lăn, một tiếng kêu nữa và im bặt. Ông vội chạy vào phòng, thấy vợ ông nằm dài trên nền, thở hổn hển, mặt nhăn nhó đau đớn...
- Macta, có việc gì xảy ra thế?
- Tôi ngã từ thang gác... Lạy Chúa, tôi có cảm giác chân tôi bị hất lên... như có người không cho tôi đặt chân xuống đất... Ông Giulíut, tôi đau lắm.
Ông Baoman gọi hàng xóm đến cứu. Ông hơi sợ, Macta chắc chắn bị gãy chân, cong người lại một cách kỳ lạ. Hàng xóm, một đôi vợ chồng trẻ hơn gọi xe cấp cứu và ổn định tinh thần ông già.
- Thôi nào, ông Baoman... một chân gãy thì có sao...
- Họ sẽ đưa bà ấy đi bệnh viện, ông bà không biết chứ. Bà ấy không bao giờ rời tôi... và tuổi ấy mà bị gãy chân...
Bác sỹ thì đỡ lo hơn.
- Một chân gãy, dù ở tuổi bà ấy, cũng giải quyết được thôi, ông Baoman, vợ ông có sức khoẻ.
Thế là ông Baoman đưa bà vợ đi bệnh viện, chiều về buồn bã, cô đơn đến nỗi ông bà hàng xóm thương hại.
- Ông sang nhà tôi ăn tối với chúng tôi... đỡ cô đơn.
- Bà ấy phải nằm lại bệnh viện mười lăm ngày...
- Ông cứ ăn bên chúng tôi trong mười lăm ngày.
Giulíut Baoman biết ơn, nhận lời. Và tám ngày tiếp đó cứ đúng bảy giờ, ông sang ăn tối.
Ngày thứ chín, ông sang chậm; bà hàng xóm lo ngại mất nửa tiếng.
- Để tôi sang xem ông ấy đang làm gì.
Chồng bà nhún vai.
- Ông ấy ở bệnh viện về chậm, hoặc đang ngủ...
- Ông ấy không hay chậm giờ. Tôi sang xem.
Bà choàng chiếc áo mưa, thắt khăn quàng cổ và đi ra trong gió lạnh mùa thu. Đi qua bãi cỏ cách nhà bà với nhà Baoman, bà hơi run rẩy.
Không có ánh đèn, cửa đóng. Bà đứng dưới mái cổng nhìn vào nhà xe, thấy có xe, như vậy là Giulíut có ở nhà... Trong khu này người ta không đi bộ ra ngoài, nhất là buổi tối. Thành phố và hàng quán ở cách đó hơn sáu cây số. Một số quán hiếm hoi thì giờ này đã đóng cửa. Bà bấm chuông không có trả lời, ngẩng đầu lên nhìn cửa sổ tầng hai... Hình như một tấm màn lau động, nhưng đây là do được chiếu sáng; một chiếc xe vừa chạy qua hắt một luồng ánh sáng vào ngôi nhà rộng.
Bà hàng xóm đánh trống ngực, không biết vì sao. Ngôi nhà thường ngày dễ mến, êm dịu với mọi màu xanh, tối nay giống như một ngôi nhà có ma. Trống trải, sầu thảm, hung gở. Bà đi một vòng nhìn xem các cửa sổ khác. Tất cả đều đóng kín, chỉ những cánh bên ngoài không khép. Cửa ra vào bếp và phòng khách gần khu vườn cũng vậy. Tất cả đều đóng.
Một chiếc xe khác đi qua, chiếu sáng vào cửa sổ. Bà lợi dụng ánh đèn xe ngó vào khe hở ở phòng khách.
Một tiếng kêu sợ hãi mắc trong họng.
Bà đã thấy ông Baoman nằm dài trên sàn, bất động, trong tư thế trông thật đáng sợ... Bà chạy, chạy dưới trời mưa bụi nhớp nháp. Bà có cảm giác ông Baoman đã chết. Bà biết vậy. Một thứ linh tính...
Mười phút sau khi hàng xóm báo tin, đội trưởng cảnh sát Đon Carudơ cùng hai nhân viên vào ngôi nhà xanh.
Đon Carudơ cao lớn, một loại chim có cái nhìn sắc xảo, giọng nói nghiêm khắc. Quỳ xuống bên cạnh người Giulíut, ông càu nhàu:
- Nói với bác sỹ không vội, ông già chết được một lúc rồi.
Giulíut mặc quần nhung và áo trong nhà. Tay phải ông cầm một khẩu súng ngắn, một mảng máu bắt đầu đông lại phía sau đầu.
Đon Carudơ vẫn lẩm bẩm:
- Ông già không kịp bắn, khốn khổ... này, anh bạn tìm cho tôi cái gì đó nặng gây ra vết thương này...
Rồi Đon Carudơ đi quanh nhà trong lúc hai người của ông lục lọi cẩn thận. Ông cũng có một cảm giác lạ.
- Bà hàng xóm này... bà nói cửa đóng bên trong cả à?
- Vâng, trừ cánh bên ngoài.
- Như vậy là ông già bị giết khi trời còn sáng. Điều tôi băn khoăn là kẻ sát nhân. Hoặc hắn còn ở trong nhà, hoặc có chìa khoá.
- Chẳng ai có chìa khoá. Chúng tôi cũng không.
- Thế tên kia đóng tất cả bên trong bằng cách nào?
Đon Carudơ nhìn ngó, kiểm tra... làm ông bà hàng xóm sợ.
- Ông nghĩ trong lúc này hắn ta đang ở trong nhà?...
- Nếu có, chúng ta sẽ tìm ra...
Pegasus
02-22-2005, 10:43 AM
Một nhân viên bước ra:
- Thủ trưởng, chúng tôi tìm được cái này trên tủ gần lò sưởi ở phòng khách.
"Cái này" là một sắt thọc lửa to lớn, đẫm máu. Một mảng da và một số tóc còn dính ở đó.
Đon Carudơ lại quỳ xuống quan sát vết thương rồi lục túi ông già, lấy ra chiếc ví, tiền nong. ở tay trái ông già còn đeo đồng hồ, chiếc đồng hồ có giá các nhân viên tặng lúc về hưu. Như vậy kẻ sát nhân muốn gì? Nhà không bị lục lọi, không có gì bị đảo lộn. Chẳng bị lấy trộm vật gì.
Tên kia chắc gây ra tiếng động, ông già đi lấy khẩu súng trong ngăn kéo tủ hiện vẫn mở. Ông chưa kịp bắn. Sau đó hắn bỏ đi vì mấy người lục lọi khắp nhà chẳng thấy ai, không một dấu vết chạy trốn. Như vậy hắn có chìa khoá. Đon Carudơ suy đi nghĩ lại những tình huống, không thấy giả thuyết nào khác vấn đề có chìa khoá. Chắc hắn không biết ông Baoman đang có người chờ ăn tối, hy vọng còn lâu mới bị phát hiện; không rõ vì động cơ gì.
- Ông bà già có kẻ thù không?
- Ông cũng biết là không... Ông biết rõ họ như chúng tôi. Họ đáng kính phục đến thế kia mà.
Bà Baoman khốn khổ nằm trong bệnh viện không biết gì cả. Cảnh sát tìm tòi xong, thi thể ông Baoman được đưa đi. Ngôi nhà được đóng kín cùng điều bí mật của nó.
Vì có một điều bí mật. Cái gì đó mà những người cảnh sát không thấy. Mặc dù xảy ra rất gần...
Ngôi nhà xanh im lìm, mọi cửa kính đóng dưới mưa thu. ở nhà mình, bà hàng xóm đoán vậy sau bức màn cây và nói với chồng:
- Một ngôi nhà bất hạnh.
- Nào, bà, vấn đề trộm cướp thôi.
- Tôi nói với ông là ngôi nhà bất hạnh, lởn vởn như có bóng ma...
- Được rồi, chỉ còn thiếu điều đó... Bà say sưa khen ngôi nhà như mọi người trong khu phố... và bây giờ lại là ngôi nhà có ma? Bà có thấy ma không?
- Không... nhưng tôi có một cảm giác kỳ cục, viên cảnh sát cũng thế. Giống như có một sự hiện diện vô hình.
- Tốt lắm, bà cứ thêm điều đó vào nỗi đau khổ của và Macta Baoman thì sự việc sẽ hoàn chỉnh.
Bà Macta khốn khổ đúng là bị cắm chặt ở bệnh viện, thậm chí không thể dự lễ tang chồn. Khi ra viện với đôi nạng, bà đến mặc niệm trước mộ chồng và quyết định đến sống với bạn ít lâu ở Caliphocnia. Để thoát khỏi những kỷ niệm trước mắt và hạnh phúc đã mất trong ngôi nhà xanh.
Việc điều tra không làm sáng tỏ được gì. Vẫn hoàn toàn bí mật. Macta không thể nói rõ gì hơn với cảnh sát mà ngược lại. Bà không thấy ai có thể có chìa khoá nhà mình. Nếu có người nào đó có là họ làm trộm. Giuliust có lẽ biết nhưng ông chết rồi, không nghĩa lý gì cả. Không có động cơ rõ ràng.
Ngôi nhà xanh bỏ trống trong nhiều tháng. Mùa đông tới, khu vườn âm u, cây cối trụi lá, những gian phòng rộng rãi, nội thất trang trí theo lối cổ không còn vang tiếng cười của Macta, vắng tiếng nhạc, nhảy múa, hạnh phúc. Vào mùa xuân, bà Baoman trở về nhà được nhiều người chào hỏi. Ông bưu tá là người gặp bà trước tiên, thái độ kín đáo nói với bà:
- Bà biết không... nhà bà... ai cũng bảo là có ma...
Macta Baoman khẽ cười:
- Ông nói gì thế? Ma à? Nó ở đây suốt mùa đông, đúng không?
- Tôi nói để bà biết, thế thôi...
- Nhưng biết việc gì? Ông nhận thấy có vấn đề gì à?
- Tôi thì không, nhưng những người hàng xóm của bà có đấy... và cả những người khác nữa... rồi bà sẽ thấy...
Macta Baoman không tin vào ma quỷ. Bà vững vàng về thể chất và tinh thần. Sự goá bụa là một bất hạnh lớn nhưng bà can đảm chịu đựng, lạc quan, yêu cuộc sống như xưa nay và mê say hạnh phúc. Bà sống một mình với kỷ niệm về Giuliust và những năm qua... vì số phận đã định thế. Đừng ai nói vớ bà về ma quỷ. Đúng ra là cảnh sát phải tìm ra kẻ giết người.
Bà hàng xóm đến thăm. Lại nói về ma.
- Bà cũng nghĩ thế à?
- Không, tôi cũng như bà, không tin vào ma quỷ; đêm đó tôi có cảm giác không hay nhưng hết rồi. Chính bọn trẻ con phao đồn chuyện này. Chúng bảo nhiều lần thấy có ánh đè trong đêm, ở cửa sổ gác xép. Cảnh sát cũng đi tuần vài lần nhưng có lẽ chỉ là ảo giác... Chắc đèn ô tô... có điên chúng mới để đèn trên đó...
Pegasus
02-22-2005, 10:44 AM
Một ông hàng xóm khác sang chào bà Baoman và cũng nói chuyện về ma.
- Bà biết không, chắc vợ tôi không nói với bà vì sợ là kỳ cục nhưng một hôm đi qua nhà bà, bà ấy thấy một chuyện lạ. Lúc đó bà chưa về. Một buổi sáng, đi chợ về qua nhà bà, bà ấy rú lên chạy về tận nhà như người điên, nói rằng thấy một khuôn mặt nhìn ra từ cửa sổ gác xép. Một khuôn mặt trắng bệch như bóng ma của ông nhà. Bà ấy rất xúc động nhưng bây giờ công nhận có thể là nạn nhân của ám ảnh. Với những chuyện nhà có ma người ta kể từ trước đến nay, bà đã cho lục soát hết mọi xó xỉnh của ngôi nhà chưa?
- Tôi không chỉ cho lục soát mà còn quét dọn. Tôi thuê một bà giúp việc làm; ở tuổi này tự mình không chăm lo được nữa, nhà rộng quá. Tôi đoán chắc với ông chẳng thấy con ma nào trên gác xép hoặc phía sau tủ.
Bà Baoman bỏ qua điều bí mật, không để ý đến nữa. Cũng như những nhân viên cảnh sát vậy.
Bà tỏ ra vô cảm về không khí kỳ lạ quanh mình. Thực ra có nhiều nguyên nhân. Có lẽ vì bà nguyên là giáo viên về địa lý, tính tình lạc quan, có đầu óc thực tế và những chiếc bàn quay ma quỷ hoặc có sự hiện hình không xâm nhập vào thế giới trí thức. Macta chỉ sợ những việc thật. Như ngã trên cầu thang chẳng hạn. Chân bà không vững vàng và bà tránh lên xuống cầu thang. Một vấn đề nữa là dù không muốn chấp nhận, bà đã thành nặng tai theo thời gian. Trở ngại đó không làm bà băn khoăn nhưng làm bà ngạc nhiên về những ý nghĩ của bà giúp việc:
- Thưa bà... tôi nghe có tiếng bước chân trên kia...
Cô gái Mêhicô trẻ, búi tóc đen như mực, ở một phòng trên tầng gác từ khi đến giúp việc bà Baoman. Như mọi người Mêhicô, cô quan niệm về cái chết rất đặc biệt. Thần chết hiện diện hàng ngày trong cuộc sống, những người chết luôn ở bên ta và bóng ma ông Giuliút Baoman đối với cô hoàn toàn có thể có thật.
- Thưa bà... Bà có nghe thấy không?
- Không, gì thế nữa cô?
- Như có ai bước đi trên kia... Tôi nghe tiếng động...
- Nào, cô bạn, cô tưởng tượng ra đấy.
Và bà Baoman lại tiếp tục đọc sách, đan áo hoặc nghe nhạc cổ điển.
Ban đêm, gió lay động màn cây in bóng cành lá lên tường nhà. Những chiếc đèn pha ô tô đôi khi hắt mạnh ánh sáng vào những gian phòng rộng và đồ đạc cũ trong nhà như xuất hiện từ bóng tối, có những hình thù lạ và dễ sợ.
Cô giúp việc lắng nghe, thấy, cảm nhận, phỏng đoán và một hôm tuyên bố:
- Thưa bà, nhà có ma, tôi, tôi không ở lại được...
Đến văn phòng thu xếp việc làm, bà Baoman xin một người mới với đề nghị cụ thể:
- Tôi không đảng phái cũng không phân biệt chủng tộc chút nào nhưng tôi không thích người giúp việc Mêhicô. Họ rất mê tín, ông hiểu chứ?
Không thật sự hiểu vì chẳng quan trọng gì, văn phòng tìm việc giới thiệu cho bà Baoman một quản gia chủng tộc Anglô-Xaxông, người vạm vỡ, quả quyết, chân to, tóc ngắn, có thói quen của những người đứng tuổi và làm cả một đoàn ma sợ hãi. Không vì thế mà chỉ sau một tuần làm việc bà rời bỏ bà Baoman. Bà đến cơ quan cảnh sát.
- Nhiệm vụ tôi là phải nói. Tôi thấy một con ma. Nó đi dưới chân cầu thang lên gác. Một loại thật gớm guốc. Tôi kêu lên và nó biến mất.
Viên cảnh sát ghi lời tố cáo, bỡn cợt hỏi:
- Bà kiện nó chứ?
Nhưng Đon Carudơ, người trước đây một năm được cử điều tra về cái chết Giulíut Baoman, chú ý lắng nghe. Ông đến thăm bà Baoman.
- Ông nói có một con ma gớm guốc ở nhà tôi à? Ông đội trưởng... Ông cũng tin có ma quỷ ư... Cái chết của ông nhà tôi không được làm sáng tỏ, tôi không trách nhưng tôi nghĩ điều bí ẩn đó gây nên những ý nghĩ ngu ngốc trong khu. Tôi đơn độc đã khá vất vả rồi và nếu những chuyện đồn đại đó cứ tiếp tục, tôi chẳng biết tìm ai giúp đỡ nữa...
- Không phải thế, bà Baoman... Tôi muốn biết bà có chắc chắn không có ai thỉnh thoảng lẻn vào nhà mà bà không biết không?
- Tôi đã nói đi nói lại, ông đội trưởng. Tôi chưa bao giờ thấy có gì không bình thường. Nếu có ai ở trong nhà thì tôi phải biết chứ...
- Có vấn đề hôm xảy ra vụ án mạng mọi cửa ngõ đều chốt bên trong... Điều đó lúc nào cũng làm tôi day dứt.
- Người của các ông lúc đó đã lục soát từ trên xuống dưới rồi còn gì...
- Tôi biết... Bà có cho phép tôi tìm kiếm lại không?
- Nếu ông thấy cần và nếu việc làm đó chấm dứt được những lời đồn đại ngu ngốc... tôi đồng ý. Với điều kiện người của ông đừng làm hư hỏng gì. Tôi đang chờ một bà quản gia mới mấy ngày nữa sẽ tới, các ông chờ cho đến khi bà ấy tới để sắp xếp lại trật tự sau khi các ông lục soát.
Đon Carudơ nhận lời. Hẹn trong tám ngày nữa.
Ý nghĩ của viên cảnh sát cũng có lý phần nào. Bà già nặng tai, một tên vô lại có thể lợi dụng ngôi nhà rộng rãi này mà ẩn náu dễ dàng. Vào ra bà ta không biết. Có thể là kẻ giết người... Có thể chỉ là người lợi dụng ngôi nhà trống sau vụ sát hại... vì những chuyện ma quỷ nảy sinh trong lúc bà Baoman đi vắng.
Nhưng hôm sau, sự việc đến nhanh hơn. Đon đang ngồi trong văn phòng, một nhân viên chạy gấp vào:
- Thủ trưởng, bào Baoman gọi điện thoại. Bà lại ngã cầu thang! Bà lê được đến bên máy. Người ta đã cho xe cấp cứu đến; trong lúc chờ đợi bà ấy muốn nói chuyện với ông. Đon cầm máy, nghe giọng nói hổn hển của bà Baoman:
- Tôi nghĩ ông có lý, ông đội trưởng... Tôi bắt đầu thấy sợ... có điều gì đó... đề nghị ông tới cho...
- Tôi sẽ tới!
Mấy phút sau viên cảnh sát đã đến bên cạnh bà già khốn khổ. Nằm dài trên cáng, nhăn mặt đau đớn, bà giải thích:
- Vẫn cái chân ấy... Ông biết lần trước chứ, tôi nhớ... rất lạ về cách bị ngã... tôi đã nói với ông nhà tôi... như có ai ngoặc chân tôi, hoặc ngăn cản tôi đặt chân xuống bậc thang... cảm giác kỳ lạ, nhưng khi ngã lăn qua nhiều bậc thì quên hết mọi chuyện.
- Lần này thì thế nào, bào Baoman, bà có thấy ai không?
- Không, ông đội trưởng ạ, nhưng trước khi ngã tôi cảm thấy có cái gì đó đụng vào mắt cá...
- Lúc ấy bà ở đâu, trên gác, gác xép hay tầng trệt?
Pegasus
02-22-2005, 10:45 AM
Hỏi câu đó khi đang đứng ở sân trước, Đon máy móc nhìn lên bao lơn và ngây người. Ông vừa thấy một bàn tay trắng, gầy, thong thả nâng tấm màn cửa sổ trên tầng và bỏ nhanh xuống.
Bây giờ thì ông chắc chắn. Mẹ kiếp, có kẻ nào đó ở trong nhà này, sống ở đó, ẩn náu, mà bà Macta Baoman không biết.
- Có gì vậy, ông đội trưởng, ông thấy gì à?
- Không, không, nhưng nếu có người nào đó chúng ta sẽ tìm ra, bà đừng lo...
Chẳng làm bà già lo lắng thêm vô ích, nhất là bác sỹ bảo lần trật khớp này nặng hơn, bà ấy chắc chắn không bao giờ đi lại bình thường được.
Ông ra hiệu cho xe cấp cứu đi và chạy ra cổng ra lệnh cho một nhân viên đi theo ông.
- Trên kia có một tên. Anh cẩn thận, chắc hắn nguy hiểm đấy.
Hai người rút súng ra. Nhân viên đi với ông người to cao, một mét chín mươi, hàng ngày vẫn luyện tập ở câu lạc bộ thể thao của cơ quan. Không phải tình cờ mà Đon chỉ định anh.
Họ cùng leo nhanh lên cầu thang, lục tìm khắp căn phòng rồi đi vào một hành lang tối sát gác xép, có vẻ không dẫn đi đến đâu. Bỗng Đon nhận thấy phía cuối cùng có một tấm ván che như một cánh cửa nhỏ, động đậy... Một bàn chân trần xuất hiện, mò tìm thanh thứ nhất một chiếc thang dây. Đon ra hiệu cho nhân viên, lặng lẽ...
Anh này lại gần, hơi chúi chân lấy đà rồi dơ hai tay nhảy tới chộp lấy bàn chân đang lơ lửng. Trong bóng tối, Đon không trông rõ lắm nhưng hình như anh nhân viên đã nắm được, vì anh để treo người một lúc rồi rống lên đau đớn. Tên kia chắc đã đánh mạnh vào tay anh, anh phải thả ra và rơi nặng nề xuống đất.
- Trời, anh sao vậy?
Đon leo ngay lên thang dây, đến mấy nấc trên cao thì bắt kịp chân kẻ kia. Ông kéo mạnh và tất cả nhào xuống kêu lên đau đớn. Ông, thang dây, kẻ kia mà ông vẫn nắm chặt chân.
Trên sàn gác xép, một bóng người cựa quậy yếu ớt. Hai người cảnh sát cúi nhìn. Đó là một con ma. Khuôn mặt như xác chết, râu ria xồm xoàm, tóc dài, đôi mắt điên dại, thân hình gầy gò, quần áo tả tơi để lộ chân tay khẳng khiu. Con ma không cựa quậy nữa, nhắm mắt bất tỉnh. Trong lúc chờ xe cấp cứu, Đon quan sát chỗ ẩn của con ma. Một góc nhỏ sát mái, mạng nhện giăng đầy, chỉ có thể ngồi hoặc nằm. Có một chỗ như giường nằm, là chăn đệm cũ chất lại, cùng những hộp bìa dày, chai không. Diện tích toàn bộ dài không đến một mét rưỡi và rộng nửa chừng ấy.
Có tấm ván mỏng có lẽ để đấy đã lâu che kín hốc chuột đó lên đến mái nhà. Trước đây chắc có lỗ cửa nhưng đã bị bịt lại. Con ma ẩn náu trong ấy. Đã từ lâu nhưng không ai để ý đến tấm ván vì quá nhỏ, người ta không hình dung có người sau đó. Hơn nữa ván cùng màu với gác xép, đầy bụi và có vẻ được đóng chặt vào tường.
Một nhân viên cảnh sát nhớ lại:
- Thủ trưởng, lần đầu khi lục soát ngôi nhà, hôm xảy ra án mạng, tôi đã thấy chỗ này. Tôi gõ vào tấm ván, thử kéo ra không được... không ngờ...
Không ai ngờ, bà Baoman càng ít chú ý hơn. Hốc này đã bịt lại từ lâu rồi.
Con ma được bác sỹ khám; ông thấy không có trường hợp nào tương tự.
- Anh ta trong tình trạng quá yếu, do thiếu ăn uống và chắc có vấn đề ở phổi. Cú rơi xuống sàn làm anh ta hầu như hết sống. Nếu tỉnh lại tôi nghĩ còn lâu ông mới thẩm vấn được.
Đon cho chụp mấy tấm ảnh nơi ẩn náu của con ma và bản thân con ma, đưa lại cho bà Baoman xem.
Bà Baoman suy nghĩ... Khuôn mặt hốc hác, đầy râu, gần như chết rồi, không nói lên điều gì với bà... hay là... nhưng...
- Trời ơi, không thể... giống như là Giăcxơn. Êđua Giăcxơn... chúng tôi biết anh ta lúc mười tám tuổi...
- Ông bà có quan hệ với anh ta như thế nào?
- Anh ta chơi đàn, chúng tôi thích anh đến chơi. Anh ở xa đến đây vì tình trạng sức khoẻ, bệnh lai, cần không khí miền núi... Một hôm chúng tôi không nghe nói về anh nữa. Anh biến mất, chúng tôi nghĩ đã về với mẹ. Mấy năm sau chúng tôi gặp anh, đã trở thành đại diện thương mại, bảo vẫn khoẻ. Anh lại biến mất trong hai năm... và khi chúng tôi gặp lại, anh đã thay đổi ghê ghớm. Khoảng ba mươi lăm tuổi mà có vẻ như đã năm mươi. Gầy còm, thất vọng, cô đơn... bà mẹ chết rồi. Như chúng tôi hiểu, bà ấy bị người chồng thứ hai lột sạch, chàng trai không còn một xu. Chúng tôi muốn giúp đỡ anh ta từ chối. Chúng tôi vẫn yêu mến anh ấy, việc từ chối đó làm chúng tôi ngạc nhiên. Rồi anh bỏ đi, chúng tôi không bao giờ gặp lại anh ta nữa.
Tuy vậy, có đấy, họ vẫn gặp lại nhưng không biết thôi.
Mấy ngày sau báo chí đăng những lời khai của Êđua Giăcxơn với cảnh sát. Anh ta được mệnh danh "Người trên tầng cao". "Người trên tầng cao" ghét ông bà Baoman vì họ sống hạnh phúc. Chỉ có thế. Anh ta có định kiến về hạnh phúc không chịu nổi ấy, nghĩ mình là một con người bị đày đoạ, không yêu thương, bị mọi người bỏ rơi. Một tình trạng điên cuồng thực sự. Nếu người ta nói nhỏ gần anh, anh cho là nói xấu anh, nhìn anh cười là người ta chế nhạo anh. Người ta quên chào anh vì anh đáng ghét; nếu bắt tay anh thì chỉ vì thương hại.
Thể bệnh tâm thần này thật đáng sợ. Vì chủ thể nghĩ mình sáng suốt, có ý thức, chủ động. Hơi có một cử chỉ hoặc lời nói của người khác thì cho là công kích mình.
Êđua Giăcxơn bị hấp dẫn bởi hạnh phúc của ông bà Baoman và ngôi nhà xanh đồng thời căm ghét hạnh phúc đó. Đấy là một loại tự kỷ ám sự suy sụp. Nguồn gốc ám ảnh bị đầy đoạ từ chỗ đó.
Lần cuối cùng đến thăm ông bà Baoman, anh ta nhận thấy nguồn dự trữ thực phẩm bao giờ cũng đầy đủ. Về hưu, đã có tuổi, Giulíut và Macta rất ít đi mua bán. Trong bếp, chiếc tủ lạnh luôn đầy cũng dễ lấy để dùng, cũng như chiếc bàn của ông Baoman bao giờ cũng có một ít tiền mặt.
Êđua bèn quyết định lẩn tránh mọi người, đến sống ở nhà họ, bí mật, trong gác xép.
Anh ta sống ở đó nhiều tuần, nhiều tháng trong góc nhỏ kín đáo dưới mái nhà mặc nắng hạ rét đông. Từng lúc anh ta đi ăn, lấy trộm thức ăn trong tủ lạnh, mượn một cuốn sách, ngọn đèn chạy pin. Cũng từng lúc, nhất là sau cái chết của Giulíut, anh nhìn qua cửa sổ trong ngôi nhà trống vắng... với khuôn mặt ma, trong một giây rồi chẳng làm gì nữa.
Một hôm căm ghét bệnh hoạn anh tuồn một chiếc gậy vào giữa chân bà Baoman và bậc thang gác.
Khi bà đi bệnh viện, ở nhà một mình với Giulíut trong ngôi nhà hạnh phúc, anh ta bỗng nhận ra mình có thể phá tan hạnh phúc đó. Anh theo Giulíut, im lặng như chiếc bóng, từ phòng này đến phòng kia, tạm thời rời bỏ cảnh cô đơn. Nhưng như vậy, một hôm anh gặp nguy hiểm. Giulíut thấy anh, không nhận ra anh, rất sợ chạy đi lấy súng.
Êđua đánh ông bằng que sắt thông lò. Ông chết ngay.
Rồi anh tiếp tục sống như một con chuột trong ngôi nhà hạnh phúc, bà Baoman trở về, lòng căm ghét lại dấy lên, càng độc địa hơn. Người đàn bà này muốn tiếp tục sống, can đảm vượt lên sự goá bụa, vẫn luôn nghe nhạc, đọc sách, thêu đan, cười nói... Thật không thể chịu được. Bà ta không có quyền chế nhạo anh. Bà vẫn đầy đoạ anh vì hạnh phúc tìm lại đó.
Thế là anh lại chơi trò ngáng ở cầu thang. Nhưng lần này... chiếc gậy dấu không kỹ lắm. Bà Baoman cảm thấy con ma làm hại mình...
Giới báo chí say sưa về "Người trên tầng cao" được toà án xem là tỉnh táo... Có nghĩa là ý thức được hành động của mình khi thực hiện. Nhưng khái niệm tỉnh táo có thể đến bất chợt, lúc có lúc không.
Dù sao thì anh ta cũng bị tù chung thân, trở thành người thủ thư của nhà tù và sống cuộc đời còn lại ở đấy.
Bao giờ cũng như một con chuột.
Tài sản của ruarua88

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #3  
Old 20-07-2008, 12:13 AM
ruarua88 ruarua88 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 26
Thời gian online: 0 giây
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Một ngôi nhà xanh hai tầng, một gác xép, một khu vườn, một nhà xe và rặng cây ngăn cách nhà hàng xóm. Người ta gọi là ngôi nhà xanh vì những cánh cửa sơn xanh. Ông và Baoman ở đây đã nhiều năm, đã sơn đi sơn lại cửa nhiều lần đến mức tường đá cũng có màu xanh nhạt.
Rặng cây cũng xanh, và những tấm màn cũng xanh.
Một ngôi nhà đẹp, vì một mối tình đã năm mươi năm, từ năm 1941. Mácta và Giuliút Baoman không có con nhưng hạnh phúc. Giulíut nguyên giám đốc ngân hàng, nghỉ hưu và Macta làm bánh nhân anh đào. Họ nghe đài, đôi khi cũng cùng nhảy một điệu van cũ thành Viên hoặc một bài tăng gô Achentina.
Trong khu nhà ở ngoại ô Đenve này, dưới chân những ngọn núi đá, vợ chồng Baoman được nhiều người biết, được ngưỡng mộ. Họ sống thật hạnh phúc nên cũng vui khi thấy học khoác vai nhau cùng nhau đi dạo thanh thản. Giulíut bảy mươi ba tuổi, Macta bảy mươi hai.
Macta bước xuống thang, đôi chân còn nhanh nhẹn. Bà vừa bận quần áo để đi dạo chơi và gọi:
- Giulíut, ông xong chưa?
- Tôi đã chờ bà rồi đây...
Macta Baoman cất tiếng cười vui, bỗng Giulíut nghe chuyển thành tiếng kêu. Rồi một tiếng ngã lăn, một tiếng kêu nữa và im bặt. Ông vội chạy vào phòng, thấy vợ ông nằm dài trên nền, thở hổn hển, mặt nhăn nhó đau đớn...
- Macta, có việc gì xảy ra thế?
- Tôi ngã từ thang gác... Lạy Chúa, tôi có cảm giác chân tôi bị hất lên... như có người không cho tôi đặt chân xuống đất... Ông Giulíut, tôi đau lắm.
Ông Baoman gọi hàng xóm đến cứu. Ông hơi sợ, Macta chắc chắn bị gãy chân, cong người lại một cách kỳ lạ. Hàng xóm, một đôi vợ chồng trẻ hơn gọi xe cấp cứu và ổn định tinh thần ông già.
- Thôi nào, ông Baoman... một chân gãy thì có sao...
- Họ sẽ đưa bà ấy đi bệnh viện, ông bà không biết chứ. Bà ấy không bao giờ rời tôi... và tuổi ấy mà bị gãy chân...
Bác sỹ thì đỡ lo hơn.
- Một chân gãy, dù ở tuổi bà ấy, cũng giải quyết được thôi, ông Baoman, vợ ông có sức khoẻ.
Thế là ông Baoman đưa bà vợ đi bệnh viện, chiều về buồn bã, cô đơn đến nỗi ông bà hàng xóm thương hại.
- Ông sang nhà tôi ăn tối với chúng tôi... đỡ cô đơn.
- Bà ấy phải nằm lại bệnh viện mười lăm ngày...
- Ông cứ ăn bên chúng tôi trong mười lăm ngày.
Giulíut Baoman biết ơn, nhận lời. Và tám ngày tiếp đó cứ đúng bảy giờ, ông sang ăn tối.
Ngày thứ chín, ông sang chậm; bà hàng xóm lo ngại mất nửa tiếng.
- Để tôi sang xem ông ấy đang làm gì.
Chồng bà nhún vai.
- Ông ấy ở bệnh viện về chậm, hoặc đang ngủ...
- Ông ấy không hay chậm giờ. Tôi sang xem.
Bà choàng chiếc áo mưa, thắt khăn quàng cổ và đi ra trong gió lạnh mùa thu. Đi qua bãi cỏ cách nhà bà với nhà Baoman, bà hơi run rẩy.
Không có ánh đèn, cửa đóng. Bà đứng dưới mái cổng nhìn vào nhà xe, thấy có xe, như vậy là Giulíut có ở nhà... Trong khu này người ta không đi bộ ra ngoài, nhất là buổi tối. Thành phố và hàng quán ở cách đó hơn sáu cây số. Một số quán hiếm hoi thì giờ này đã đóng cửa. Bà bấm chuông không có trả lời, ngẩng đầu lên nhìn cửa sổ tầng hai... Hình như một tấm màn lau động, nhưng đây là do được chiếu sáng; một chiếc xe vừa chạy qua hắt một luồng ánh sáng vào ngôi nhà rộng.
Bà hàng xóm đánh trống ngực, không biết vì sao. Ngôi nhà thường ngày dễ mến, êm dịu với mọi màu xanh, tối nay giống như một ngôi nhà có ma. Trống trải, sầu thảm, hung gở. Bà đi một vòng nhìn xem các cửa sổ khác. Tất cả đều đóng kín, chỉ những cánh bên ngoài không khép. Cửa ra vào bếp và phòng khách gần khu vườn cũng vậy. Tất cả đều đóng.
Một chiếc xe khác đi qua, chiếu sáng vào cửa sổ. Bà lợi dụng ánh đèn xe ngó vào khe hở ở phòng khách.
Một tiếng kêu sợ hãi mắc trong họng.
Bà đã thấy ông Baoman nằm dài trên sàn, bất động, trong tư thế trông thật đáng sợ... Bà chạy, chạy dưới trời mưa bụi nhớp nháp. Bà có cảm giác ông Baoman đã chết. Bà biết vậy. Một thứ linh tính...
Mười phút sau khi hàng xóm báo tin, đội trưởng cảnh sát Đon Carudơ cùng hai nhân viên vào ngôi nhà xanh.
Đon Carudơ cao lớn, một loại chim có cái nhìn sắc xảo, giọng nói nghiêm khắc. Quỳ xuống bên cạnh người Giulíut, ông càu nhàu:
- Nói với bác sỹ không vội, ông già chết được một lúc rồi.
Giulíut mặc quần nhung và áo trong nhà. Tay phải ông cầm một khẩu súng ngắn, một mảng máu bắt đầu đông lại phía sau đầu.
Đon Carudơ vẫn lẩm bẩm:
- Ông già không kịp bắn, khốn khổ... này, anh bạn tìm cho tôi cái gì đó nặng gây ra vết thương này...
Rồi Đon Carudơ đi quanh nhà trong lúc hai người của ông lục lọi cẩn thận. Ông cũng có một cảm giác lạ.
- Bà hàng xóm này... bà nói cửa đóng bên trong cả à?
- Vâng, trừ cánh bên ngoài.
- Như vậy là ông già bị giết khi trời còn sáng. Điều tôi băn khoăn là kẻ sát nhân. Hoặc hắn còn ở trong nhà, hoặc có chìa khoá.
- Chẳng ai có chìa khoá. Chúng tôi cũng không.
- Thế tên kia đóng tất cả bên trong bằng cách nào?
Đon Carudơ nhìn ngó, kiểm tra... làm ông bà hàng xóm sợ.
- Ông nghĩ trong lúc này hắn ta đang ở trong nhà?...
- Nếu có, chúng ta sẽ tìm ra...
Pegasus
02-22-2005, 10:43 AM
Một nhân viên bước ra:
- Thủ trưởng, chúng tôi tìm được cái này trên tủ gần lò sưởi ở phòng khách.
"Cái này" là một sắt thọc lửa to lớn, đẫm máu. Một mảng da và một số tóc còn dính ở đó.
Đon Carudơ lại quỳ xuống quan sát vết thương rồi lục túi ông già, lấy ra chiếc ví, tiền nong. ở tay trái ông già còn đeo đồng hồ, chiếc đồng hồ có giá các nhân viên tặng lúc về hưu. Như vậy kẻ sát nhân muốn gì? Nhà không bị lục lọi, không có gì bị đảo lộn. Chẳng bị lấy trộm vật gì.
Tên kia chắc gây ra tiếng động, ông già đi lấy khẩu súng trong ngăn kéo tủ hiện vẫn mở. Ông chưa kịp bắn. Sau đó hắn bỏ đi vì mấy người lục lọi khắp nhà chẳng thấy ai, không một dấu vết chạy trốn. Như vậy hắn có chìa khoá. Đon Carudơ suy đi nghĩ lại những tình huống, không thấy giả thuyết nào khác vấn đề có chìa khoá. Chắc hắn không biết ông Baoman đang có người chờ ăn tối, hy vọng còn lâu mới bị phát hiện; không rõ vì động cơ gì.
- Ông bà già có kẻ thù không?
- Ông cũng biết là không... Ông biết rõ họ như chúng tôi. Họ đáng kính phục đến thế kia mà.
Bà Baoman khốn khổ nằm trong bệnh viện không biết gì cả. Cảnh sát tìm tòi xong, thi thể ông Baoman được đưa đi. Ngôi nhà được đóng kín cùng điều bí mật của nó.
Vì có một điều bí mật. Cái gì đó mà những người cảnh sát không thấy. Mặc dù xảy ra rất gần...
Ngôi nhà xanh im lìm, mọi cửa kính đóng dưới mưa thu. ở nhà mình, bà hàng xóm đoán vậy sau bức màn cây và nói với chồng:
- Một ngôi nhà bất hạnh.
- Nào, bà, vấn đề trộm cướp thôi.
- Tôi nói với ông là ngôi nhà bất hạnh, lởn vởn như có bóng ma...
- Được rồi, chỉ còn thiếu điều đó... Bà say sưa khen ngôi nhà như mọi người trong khu phố... và bây giờ lại là ngôi nhà có ma? Bà có thấy ma không?
- Không... nhưng tôi có một cảm giác kỳ cục, viên cảnh sát cũng thế. Giống như có một sự hiện diện vô hình.
- Tốt lắm, bà cứ thêm điều đó vào nỗi đau khổ của và Macta Baoman thì sự việc sẽ hoàn chỉnh.
Bà Macta khốn khổ đúng là bị cắm chặt ở bệnh viện, thậm chí không thể dự lễ tang chồn. Khi ra viện với đôi nạng, bà đến mặc niệm trước mộ chồng và quyết định đến sống với bạn ít lâu ở Caliphocnia. Để thoát khỏi những kỷ niệm trước mắt và hạnh phúc đã mất trong ngôi nhà xanh.
Việc điều tra không làm sáng tỏ được gì. Vẫn hoàn toàn bí mật. Macta không thể nói rõ gì hơn với cảnh sát mà ngược lại. Bà không thấy ai có thể có chìa khoá nhà mình. Nếu có người nào đó có là họ làm trộm. Giuliust có lẽ biết nhưng ông chết rồi, không nghĩa lý gì cả. Không có động cơ rõ ràng.
Ngôi nhà xanh bỏ trống trong nhiều tháng. Mùa đông tới, khu vườn âm u, cây cối trụi lá, những gian phòng rộng rãi, nội thất trang trí theo lối cổ không còn vang tiếng cười của Macta, vắng tiếng nhạc, nhảy múa, hạnh phúc. Vào mùa xuân, bà Baoman trở về nhà được nhiều người chào hỏi. Ông bưu tá là người gặp bà trước tiên, thái độ kín đáo nói với bà:
- Bà biết không... nhà bà... ai cũng bảo là có ma...
Macta Baoman khẽ cười:
- Ông nói gì thế? Ma à? Nó ở đây suốt mùa đông, đúng không?
- Tôi nói để bà biết, thế thôi...
- Nhưng biết việc gì? Ông nhận thấy có vấn đề gì à?
- Tôi thì không, nhưng những người hàng xóm của bà có đấy... và cả những người khác nữa... rồi bà sẽ thấy...
Macta Baoman không tin vào ma quỷ. Bà vững vàng về thể chất và tinh thần. Sự goá bụa là một bất hạnh lớn nhưng bà can đảm chịu đựng, lạc quan, yêu cuộc sống như xưa nay và mê say hạnh phúc. Bà sống một mình với kỷ niệm về Giuliust và những năm qua... vì số phận đã định thế. Đừng ai nói vớ bà về ma quỷ. Đúng ra là cảnh sát phải tìm ra kẻ giết người.
Bà hàng xóm đến thăm. Lại nói về ma.
- Bà cũng nghĩ thế à?
- Không, tôi cũng như bà, không tin vào ma quỷ; đêm đó tôi có cảm giác không hay nhưng hết rồi. Chính bọn trẻ con phao đồn chuyện này. Chúng bảo nhiều lần thấy có ánh đè trong đêm, ở cửa sổ gác xép. Cảnh sát cũng đi tuần vài lần nhưng có lẽ chỉ là ảo giác... Chắc đèn ô tô... có điên chúng mới để đèn trên đó...
Pegasus
02-22-2005, 10:44 AM
Một ông hàng xóm khác sang chào bà Baoman và cũng nói chuyện về ma.
- Bà biết không, chắc vợ tôi không nói với bà vì sợ là kỳ cục nhưng một hôm đi qua nhà bà, bà ấy thấy một chuyện lạ. Lúc đó bà chưa về. Một buổi sáng, đi chợ về qua nhà bà, bà ấy rú lên chạy về tận nhà như người điên, nói rằng thấy một khuôn mặt nhìn ra từ cửa sổ gác xép. Một khuôn mặt trắng bệch như bóng ma của ông nhà. Bà ấy rất xúc động nhưng bây giờ công nhận có thể là nạn nhân của ám ảnh. Với những chuyện nhà có ma người ta kể từ trước đến nay, bà đã cho lục soát hết mọi xó xỉnh của ngôi nhà chưa?
- Tôi không chỉ cho lục soát mà còn quét dọn. Tôi thuê một bà giúp việc làm; ở tuổi này tự mình không chăm lo được nữa, nhà rộng quá. Tôi đoán chắc với ông chẳng thấy con ma nào trên gác xép hoặc phía sau tủ.
Bà Baoman bỏ qua điều bí mật, không để ý đến nữa. Cũng như những nhân viên cảnh sát vậy.
Bà tỏ ra vô cảm về không khí kỳ lạ quanh mình. Thực ra có nhiều nguyên nhân. Có lẽ vì bà nguyên là giáo viên về địa lý, tính tình lạc quan, có đầu óc thực tế và những chiếc bàn quay ma quỷ hoặc có sự hiện hình không xâm nhập vào thế giới trí thức. Macta chỉ sợ những việc thật. Như ngã trên cầu thang chẳng hạn. Chân bà không vững vàng và bà tránh lên xuống cầu thang. Một vấn đề nữa là dù không muốn chấp nhận, bà đã thành nặng tai theo thời gian. Trở ngại đó không làm bà băn khoăn nhưng làm bà ngạc nhiên về những ý nghĩ của bà giúp việc:
- Thưa bà... tôi nghe có tiếng bước chân trên kia...
Cô gái Mêhicô trẻ, búi tóc đen như mực, ở một phòng trên tầng gác từ khi đến giúp việc bà Baoman. Như mọi người Mêhicô, cô quan niệm về cái chết rất đặc biệt. Thần chết hiện diện hàng ngày trong cuộc sống, những người chết luôn ở bên ta và bóng ma ông Giuliút Baoman đối với cô hoàn toàn có thể có thật.
- Thưa bà... Bà có nghe thấy không?
- Không, gì thế nữa cô?
- Như có ai bước đi trên kia... Tôi nghe tiếng động...
- Nào, cô bạn, cô tưởng tượng ra đấy.
Và bà Baoman lại tiếp tục đọc sách, đan áo hoặc nghe nhạc cổ điển.
Ban đêm, gió lay động màn cây in bóng cành lá lên tường nhà. Những chiếc đèn pha ô tô đôi khi hắt mạnh ánh sáng vào những gian phòng rộng và đồ đạc cũ trong nhà như xuất hiện từ bóng tối, có những hình thù lạ và dễ sợ.
Cô giúp việc lắng nghe, thấy, cảm nhận, phỏng đoán và một hôm tuyên bố:
- Thưa bà, nhà có ma, tôi, tôi không ở lại được...
Đến văn phòng thu xếp việc làm, bà Baoman xin một người mới với đề nghị cụ thể:
- Tôi không đảng phái cũng không phân biệt chủng tộc chút nào nhưng tôi không thích người giúp việc Mêhicô. Họ rất mê tín, ông hiểu chứ?
Không thật sự hiểu vì chẳng quan trọng gì, văn phòng tìm việc giới thiệu cho bà Baoman một quản gia chủng tộc Anglô-Xaxông, người vạm vỡ, quả quyết, chân to, tóc ngắn, có thói quen của những người đứng tuổi và làm cả một đoàn ma sợ hãi. Không vì thế mà chỉ sau một tuần làm việc bà rời bỏ bà Baoman. Bà đến cơ quan cảnh sát.
- Nhiệm vụ tôi là phải nói. Tôi thấy một con ma. Nó đi dưới chân cầu thang lên gác. Một loại thật gớm guốc. Tôi kêu lên và nó biến mất.
Viên cảnh sát ghi lời tố cáo, bỡn cợt hỏi:
- Bà kiện nó chứ?
Nhưng Đon Carudơ, người trước đây một năm được cử điều tra về cái chết Giulíut Baoman, chú ý lắng nghe. Ông đến thăm bà Baoman.
- Ông nói có một con ma gớm guốc ở nhà tôi à? Ông đội trưởng... Ông cũng tin có ma quỷ ư... Cái chết của ông nhà tôi không được làm sáng tỏ, tôi không trách nhưng tôi nghĩ điều bí ẩn đó gây nên những ý nghĩ ngu ngốc trong khu. Tôi đơn độc đã khá vất vả rồi và nếu những chuyện đồn đại đó cứ tiếp tục, tôi chẳng biết tìm ai giúp đỡ nữa...
- Không phải thế, bà Baoman... Tôi muốn biết bà có chắc chắn không có ai thỉnh thoảng lẻn vào nhà mà bà không biết không?
- Tôi đã nói đi nói lại, ông đội trưởng. Tôi chưa bao giờ thấy có gì không bình thường. Nếu có ai ở trong nhà thì tôi phải biết chứ...
- Có vấn đề hôm xảy ra vụ án mạng mọi cửa ngõ đều chốt bên trong... Điều đó lúc nào cũng làm tôi day dứt.
- Người của các ông lúc đó đã lục soát từ trên xuống dưới rồi còn gì...
- Tôi biết... Bà có cho phép tôi tìm kiếm lại không?
- Nếu ông thấy cần và nếu việc làm đó chấm dứt được những lời đồn đại ngu ngốc... tôi đồng ý. Với điều kiện người của ông đừng làm hư hỏng gì. Tôi đang chờ một bà quản gia mới mấy ngày nữa sẽ tới, các ông chờ cho đến khi bà ấy tới để sắp xếp lại trật tự sau khi các ông lục soát.
Đon Carudơ nhận lời. Hẹn trong tám ngày nữa.
Ý nghĩ của viên cảnh sát cũng có lý phần nào. Bà già nặng tai, một tên vô lại có thể lợi dụng ngôi nhà rộng rãi này mà ẩn náu dễ dàng. Vào ra bà ta không biết. Có thể là kẻ giết người... Có thể chỉ là người lợi dụng ngôi nhà trống sau vụ sát hại... vì những chuyện ma quỷ nảy sinh trong lúc bà Baoman đi vắng.
Nhưng hôm sau, sự việc đến nhanh hơn. Đon đang ngồi trong văn phòng, một nhân viên chạy gấp vào:
- Thủ trưởng, bào Baoman gọi điện thoại. Bà lại ngã cầu thang! Bà lê được đến bên máy. Người ta đã cho xe cấp cứu đến; trong lúc chờ đợi bà ấy muốn nói chuyện với ông. Đon cầm máy, nghe giọng nói hổn hển của bà Baoman:
- Tôi nghĩ ông có lý, ông đội trưởng... Tôi bắt đầu thấy sợ... có điều gì đó... đề nghị ông tới cho...
- Tôi sẽ tới!
Mấy phút sau viên cảnh sát đã đến bên cạnh bà già khốn khổ. Nằm dài trên cáng, nhăn mặt đau đớn, bà giải thích:
- Vẫn cái chân ấy... Ông biết lần trước chứ, tôi nhớ... rất lạ về cách bị ngã... tôi đã nói với ông nhà tôi... như có ai ngoặc chân tôi, hoặc ngăn cản tôi đặt chân xuống bậc thang... cảm giác kỳ lạ, nhưng khi ngã lăn qua nhiều bậc thì quên hết mọi chuyện.
- Lần này thì thế nào, bào Baoman, bà có thấy ai không?
- Không, ông đội trưởng ạ, nhưng trước khi ngã tôi cảm thấy có cái gì đó đụng vào mắt cá...
- Lúc ấy bà ở đâu, trên gác, gác xép hay tầng trệt?
Pegasus
02-22-2005, 10:45 AM
Hỏi câu đó khi đang đứng ở sân trước, Đon máy móc nhìn lên bao lơn và ngây người. Ông vừa thấy một bàn tay trắng, gầy, thong thả nâng tấm màn cửa sổ trên tầng và bỏ nhanh xuống.
Bây giờ thì ông chắc chắn. Mẹ kiếp, có kẻ nào đó ở trong nhà này, sống ở đó, ẩn náu, mà bà Macta Baoman không biết.
- Có gì vậy, ông đội trưởng, ông thấy gì à?
- Không, không, nhưng nếu có người nào đó chúng ta sẽ tìm ra, bà đừng lo...
Chẳng làm bà già lo lắng thêm vô ích, nhất là bác sỹ bảo lần trật khớp này nặng hơn, bà ấy chắc chắn không bao giờ đi lại bình thường được.
Ông ra hiệu cho xe cấp cứu đi và chạy ra cổng ra lệnh cho một nhân viên đi theo ông.
- Trên kia có một tên. Anh cẩn thận, chắc hắn nguy hiểm đấy.
Hai người rút súng ra. Nhân viên đi với ông người to cao, một mét chín mươi, hàng ngày vẫn luyện tập ở câu lạc bộ thể thao của cơ quan. Không phải tình cờ mà Đon chỉ định anh.
Họ cùng leo nhanh lên cầu thang, lục tìm khắp căn phòng rồi đi vào một hành lang tối sát gác xép, có vẻ không dẫn đi đến đâu. Bỗng Đon nhận thấy phía cuối cùng có một tấm ván che như một cánh cửa nhỏ, động đậy... Một bàn chân trần xuất hiện, mò tìm thanh thứ nhất một chiếc thang dây. Đon ra hiệu cho nhân viên, lặng lẽ...
Anh này lại gần, hơi chúi chân lấy đà rồi dơ hai tay nhảy tới chộp lấy bàn chân đang lơ lửng. Trong bóng tối, Đon không trông rõ lắm nhưng hình như anh nhân viên đã nắm được, vì anh để treo người một lúc rồi rống lên đau đớn. Tên kia chắc đã đánh mạnh vào tay anh, anh phải thả ra và rơi nặng nề xuống đất.
- Trời, anh sao vậy?
Đon leo ngay lên thang dây, đến mấy nấc trên cao thì bắt kịp chân kẻ kia. Ông kéo mạnh và tất cả nhào xuống kêu lên đau đớn. Ông, thang dây, kẻ kia mà ông vẫn nắm chặt chân.
Trên sàn gác xép, một bóng người cựa quậy yếu ớt. Hai người cảnh sát cúi nhìn. Đó là một con ma. Khuôn mặt như xác chết, râu ria xồm xoàm, tóc dài, đôi mắt điên dại, thân hình gầy gò, quần áo tả tơi để lộ chân tay khẳng khiu. Con ma không cựa quậy nữa, nhắm mắt bất tỉnh. Trong lúc chờ xe cấp cứu, Đon quan sát chỗ ẩn của con ma. Một góc nhỏ sát mái, mạng nhện giăng đầy, chỉ có thể ngồi hoặc nằm. Có một chỗ như giường nằm, là chăn đệm cũ chất lại, cùng những hộp bìa dày, chai không. Diện tích toàn bộ dài không đến một mét rưỡi và rộng nửa chừng ấy.
Có tấm ván mỏng có lẽ để đấy đã lâu che kín hốc chuột đó lên đến mái nhà. Trước đây chắc có lỗ cửa nhưng đã bị bịt lại. Con ma ẩn náu trong ấy. Đã từ lâu nhưng không ai để ý đến tấm ván vì quá nhỏ, người ta không hình dung có người sau đó. Hơn nữa ván cùng màu với gác xép, đầy bụi và có vẻ được đóng chặt vào tường.
Một nhân viên cảnh sát nhớ lại:
- Thủ trưởng, lần đầu khi lục soát ngôi nhà, hôm xảy ra án mạng, tôi đã thấy chỗ này. Tôi gõ vào tấm ván, thử kéo ra không được... không ngờ...
Không ai ngờ, bà Baoman càng ít chú ý hơn. Hốc này đã bịt lại từ lâu rồi.
Con ma được bác sỹ khám; ông thấy không có trường hợp nào tương tự.
- Anh ta trong tình trạng quá yếu, do thiếu ăn uống và chắc có vấn đề ở phổi. Cú rơi xuống sàn làm anh ta hầu như hết sống. Nếu tỉnh lại tôi nghĩ còn lâu ông mới thẩm vấn được.
Đon cho chụp mấy tấm ảnh nơi ẩn náu của con ma và bản thân con ma, đưa lại cho bà Baoman xem.
Bà Baoman suy nghĩ... Khuôn mặt hốc hác, đầy râu, gần như chết rồi, không nói lên điều gì với bà... hay là... nhưng...
- Trời ơi, không thể... giống như là Giăcxơn. Êđua Giăcxơn... chúng tôi biết anh ta lúc mười tám tuổi...
- Ông bà có quan hệ với anh ta như thế nào?
- Anh ta chơi đàn, chúng tôi thích anh đến chơi. Anh ở xa đến đây vì tình trạng sức khoẻ, bệnh lai, cần không khí miền núi... Một hôm chúng tôi không nghe nói về anh nữa. Anh biến mất, chúng tôi nghĩ đã về với mẹ. Mấy năm sau chúng tôi gặp anh, đã trở thành đại diện thương mại, bảo vẫn khoẻ. Anh lại biến mất trong hai năm... và khi chúng tôi gặp lại, anh đã thay đổi ghê ghớm. Khoảng ba mươi lăm tuổi mà có vẻ như đã năm mươi. Gầy còm, thất vọng, cô đơn... bà mẹ chết rồi. Như chúng tôi hiểu, bà ấy bị người chồng thứ hai lột sạch, chàng trai không còn một xu. Chúng tôi muốn giúp đỡ anh ta từ chối. Chúng tôi vẫn yêu mến anh ấy, việc từ chối đó làm chúng tôi ngạc nhiên. Rồi anh bỏ đi, chúng tôi không bao giờ gặp lại anh ta nữa.
Tuy vậy, có đấy, họ vẫn gặp lại nhưng không biết thôi.
Mấy ngày sau báo chí đăng những lời khai của Êđua Giăcxơn với cảnh sát. Anh ta được mệnh danh "Người trên tầng cao". "Người trên tầng cao" ghét ông bà Baoman vì họ sống hạnh phúc. Chỉ có thế. Anh ta có định kiến về hạnh phúc không chịu nổi ấy, nghĩ mình là một con người bị đày đoạ, không yêu thương, bị mọi người bỏ rơi. Một tình trạng điên cuồng thực sự. Nếu người ta nói nhỏ gần anh, anh cho là nói xấu anh, nhìn anh cười là người ta chế nhạo anh. Người ta quên chào anh vì anh đáng ghét; nếu bắt tay anh thì chỉ vì thương hại.
Thể bệnh tâm thần này thật đáng sợ. Vì chủ thể nghĩ mình sáng suốt, có ý thức, chủ động. Hơi có một cử chỉ hoặc lời nói của người khác thì cho là công kích mình.
Êđua Giăcxơn bị hấp dẫn bởi hạnh phúc của ông bà Baoman và ngôi nhà xanh đồng thời căm ghét hạnh phúc đó. Đấy là một loại tự kỷ ám sự suy sụp. Nguồn gốc ám ảnh bị đầy đoạ từ chỗ đó.
Lần cuối cùng đến thăm ông bà Baoman, anh ta nhận thấy nguồn dự trữ thực phẩm bao giờ cũng đầy đủ. Về hưu, đã có tuổi, Giulíut và Macta rất ít đi mua bán. Trong bếp, chiếc tủ lạnh luôn đầy cũng dễ lấy để dùng, cũng như chiếc bàn của ông Baoman bao giờ cũng có một ít tiền mặt.
Êđua bèn quyết định lẩn tránh mọi người, đến sống ở nhà họ, bí mật, trong gác xép.
Anh ta sống ở đó nhiều tuần, nhiều tháng trong góc nhỏ kín đáo dưới mái nhà mặc nắng hạ rét đông. Từng lúc anh ta đi ăn, lấy trộm thức ăn trong tủ lạnh, mượn một cuốn sách, ngọn đèn chạy pin. Cũng từng lúc, nhất là sau cái chết của Giulíut, anh nhìn qua cửa sổ trong ngôi nhà trống vắng... với khuôn mặt ma, trong một giây rồi chẳng làm gì nữa.
Một hôm căm ghét bệnh hoạn anh tuồn một chiếc gậy vào giữa chân bà Baoman và bậc thang gác.
Khi bà đi bệnh viện, ở nhà một mình với Giulíut trong ngôi nhà hạnh phúc, anh ta bỗng nhận ra mình có thể phá tan hạnh phúc đó. Anh theo Giulíut, im lặng như chiếc bóng, từ phòng này đến phòng kia, tạm thời rời bỏ cảnh cô đơn. Nhưng như vậy, một hôm anh gặp nguy hiểm. Giulíut thấy anh, không nhận ra anh, rất sợ chạy đi lấy súng.
Êđua đánh ông bằng que sắt thông lò. Ông chết ngay.
Rồi anh tiếp tục sống như một con chuột trong ngôi nhà hạnh phúc, bà Baoman trở về, lòng căm ghét lại dấy lên, càng độc địa hơn. Người đàn bà này muốn tiếp tục sống, can đảm vượt lên sự goá bụa, vẫn luôn nghe nhạc, đọc sách, thêu đan, cười nói... Thật không thể chịu được. Bà ta không có quyền chế nhạo anh. Bà vẫn đầy đoạ anh vì hạnh phúc tìm lại đó.
Thế là anh lại chơi trò ngáng ở cầu thang. Nhưng lần này... chiếc gậy dấu không kỹ lắm. Bà Baoman cảm thấy con ma làm hại mình...
Giới báo chí say sưa về "Người trên tầng cao" được toà án xem là tỉnh táo... Có nghĩa là ý thức được hành động của mình khi thực hiện. Nhưng khái niệm tỉnh táo có thể đến bất chợt, lúc có lúc không.
Dù sao thì anh ta cũng bị tù chung thân, trở thành người thủ thư của nhà tù và sống cuộc đời còn lại ở đấy.
Bao giờ cũng như một con chuột.
Tài sản của ruarua88

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #4  
Old 20-07-2008, 12:14 AM
ruarua88 ruarua88 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 26
Thời gian online: 0 giây
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Có thể nào một bài hát làm cho người nghe nó phải chết không? Nghe có vẻ phi lý, nhưng đó là sự thật đối với một bài hát mang tên Gloomy Sunday.

"Gloomy Sunday" là tên của một bài hát kể về 1 tình yêu đã mất. Thật đúng như tựa đề của nó, bài hát được viết vào một ngày Chúa Nhật thật ảm đạm của tháng 12 năm 1932 bởi 1 nhà soạn nhạc tên là Reszo Seress.

Reszo thường nằm nguyên ngày trong căn phòng của mình ở thủ đô Paris. Người phụ nữ anh yêu vừa cự tuyệt tình yêu cao thượng của anh. Reszo luôn luôn tôn thờ tình yêu của mình, nên vì vậy anh đã phải đau khổ thật nhiều khi tình yêu của anh bị từ chối. Trong nỗi thất vọng, anh đã sáng tác ra bài hát sầu thảm nhất trong đời. Khi bài nhạc được hoàn thành, Reszo cảm thấy nhẹ nhàng hơn đôi chút trong lòng. Tuy nó không bù vào nỗi mất mát tình yêu to lớn kia, nhưng bài hát của anh ta thật hay - đủ hay để được đưa vào dĩa nhạc thời bấy giờ.

Khi Reszo cố gắng bán "Gloomy Sunday", thoạt đầu anh đã gặp nhiều khó khăn khi tìm người tiêu thụ. Các nhà sản xuất dĩa nhạc cho rằng bài hát nghe rất lạ và quá buồn thảm để trở thành 1 dĩa nhạc có giá trị.

Một nhà sản xuất đã viết rằng: " Có cả một mối tuyệt vọng bị cưỡng ép thật kinh khủng trong bài hát ấy. Tôi không nghĩ rằng nó sẽ đem lại điều gì hay ho cho người nào nghe bài hát ấy."

Nhưng không vì thế mà Reszo ngừng cố gắng để tìm mối tiêu thụ. Cuối cùng, anh ta đã tìm được một nhà sản xuất chịu phát hành nhạc của anh. Khi bài hát được tung ra thị trường cũng là lúc nhiều sự việc lạ lùng bắt đầu xảy ra.

Một người đàn ông đang ngồi trong 1 quán café đông đúc tại Budapest đòi ban nhạc chơi bản "Gloomy Sundaỵ" Người đàn ông ngồi tại bàn ông ta vừa nhấp rượu champagne vừa lắng nghe bài nhạc. Khi bản nhạc chấm dứt, người đàn ông trả tiền, rời khỏi quán, và vẫy 1 chiếc xe taxi. Vừa ngồi vào trong xe, ông ta liền lôi ra 1 khẩu súng và tự kết liễu đời mình.

Vài ngày sau đó, một cô gái bán hàng thật trẻ đã tự treo cổ tại Berlin. Nằm phía dưới chân của cô gái là tờ nhạc của bài "Gloomy Sunday".

Một cô thư ký xinh đẹp tại New York tự tử trong căn apartment bằng hơi ga đã để lại một mẩu giấy nhỏ xin yêu cầu bản nhạc "Gloomy Sunday" được chơi vào buổi lễ an táng cô.

Khắp thế giới, có nhiều bài tường trình về những cái chết liên quan đến bài hát ấỵ Ca sĩ chết trong lúc hát. Người ta chết trong lúc nghe.

Cuối cùng thì công ty truyền thông Anh Quốc phải cấm hẳn bài "Gloomy Sunday" vào những buổi phát thanh thường lệ trên làn sóng. Công ty này không thể làm ngơ trước những lời phiền hà đến từ bài hát ấy.

Nhiều hệ thống viễn thông Hoa Kỳ cũng nhanh chóng làm giống vậỵ Mười lăm quốc gia khác đã đâm đơn kiện bài hát. Các luật sư quanh thế giới đã tranh luận
rằng người soạn nhạc của bài hát có nên chịu trách nhiệm cho hàng loạt cái chết là hậu quả của sự sáng tạo của anh ta hay không. Nhưng khi các đài radio cố gắng hủy bỏ bài hát thì nó càng trở nên phổ biến hơn. Người ta còn cản thấy hào hứng hơn khi nghe bài hát "tự tử" này (suicide song).

Bài hát dường như ảnh hưởng mọi người không phân biệt gì đến tuổi tác hay tầng lớp. Một người đàn ông 80 tuổi tự hủy diệt đời mình bằng cách nhảy từ cánh cửa sổ lầu bảy xuống trong khi bài nhạc đang hát. Một cô gái 14 tuổi chết đuối khi trong tay còn cầm một bản copy của bài "Gloomy Sunday".

Một nạn nhân trẻ tuổi khác, một cậu bé sai vặt người Ý, đang đi ngang một người ăn xin trên lề đường đang hát bản nhạc "Gloomy Sunday" đột nhiên dừng lại, để chiếc xe đạp của cậu sang một bên, tiến dần đến chỗ người ăn xin và cho ông ta hết số tiền mà cậu đang có. Sau đó chẳng một lời nào, cậu bé đi đến một cây cầu gần đấy và tự nhảy xuống tìm lấy cái chết.

Báo chí lượm lặt hết tất cả những câu chuyện và gửi phóng viên đến phỏng vấn Reszo và hỏi anh ta nghĩ gì về điều ấỵ Nhưng Reszo cũng bàng hoàng như bao người khác. Anh ta cũng chẳng hiểu vì sao bài hát của mình đã gây ra nhiều điều bất thường đến vậy.
Pegasus
02-22-2005, 10:21 AM
Từ đó, người soạn nhạc dường như bị truyền nhiễm những điều bất lành theo sau bài nhạc bất cứ khi nào và nơi đâu khi bản nhạc được chơi lên. Khi bài "Gloomy Sunday" trở thành một "top hit" trong tuần, Reszo đã viết một lá thư gửi cho người yêu cũ của chàng và xin thêm một cơ hội nữa để nối lại mối duyên xưa.

Ngày hôm sau, người ta tìm thấy thi hài của cô gái trẻ đã chết vì uống thuốc quá liều lượng. Bên cạnh cô ta là một tờ giấy với nét chữ nghệch ngoạc trên ấy nhưng còn có thể đọc được. Đó là tên của bài nhạc "Gloomy Sunday".

Đến lúc này thì Reszo chẳng còn nghi ngờ gì về bài hát mang đầy tính nguyền rủa của chính mình. Lần đầu tiên trong đời, Reszo cố gắng thu hồi lại bài nhạc để nó khỏi bị lan ra nhiều thêm. Nhưng tất cả mọi nổ lực của anh đều không thành. Bài hát càng bị cấm, nó lại càng trở nên phổ biến hơn. Những bản copy lậu được bày bán trên đường phố như một loại trái cấm.

Trong mỗi quốc gia, số người chết lại càng gia tăng. Bài hát đã đem lại nhiều lời đồn đãi chết người đến nỗi các nhạc sĩ không dám chơi bài ấy hay thậm chí các ca sĩ cũng sợ không dám hát.

Thời gian trôi quạ Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ và người ta cũng bắt đầu quên đi bài hát ấỵ Dần dần, cơn sốt bài hát được lắng dịu xuống.

Vào thời điểm này Cơ Quan Truyền Thông Anh Quốc quyết định nới lỏng lệnh cấm bài hát. Đài BBC cho phát thanh "Gloomy Sunday" trên làn sóng điện, nhưng bấy giờ bài nhạc chỉ còn là một hợp tấu khúc (orchestral piece). Từ ấy bài hát được sửa lại theo lối hoà âm hợp khúc này.

Cũng bài nhạc được sửa lại theo kiểu version mới này được phát ra và cứ lập đi lập lại hàng giờ trong một căn apartment nhỏ. Người cảnh sát đi tuần gần đấy cứ phải nghe mãi một bài hát và lấy làm lạ. Tiếng âm nhạc phát ra từ cánh cửa sổ của một hộ apartment trên con phố mà người cảnh sát tuần tiểu. Cảm thấy lạ vì người nào có thể nghe mãi một bài hát cứ hát đi hát lại mãi thật nhiều lần mà không ngừng nghỉ, người cảnh sát cuối cùng quyết định điều tra.

Khi viên cảnh sát bước vào căn nhà, "Gloomy Sunday" đang được hát trên dàn máy hát xoay tròn tự động. Thân thể của một thiếu phụ đang nằm cạnh chiếc bàn nơi để chiếc máy hát đang chạỵ Người thiếu phụ đã chết với một liều thuốc ngủ cực mạnh.

Đây mới chỉ là một bắt đầu của hàng loạt cuộc tự tử khác nối tiếp. Một lần nữa, Cơ Quan Truyền Thông Anh Quốc phải ra cấm lệnh đối với bài hát.

Giờ đây thì Reszo Seress đã trở thành một người luôn bị ám ảnh bởi những cái chết do bài hát của anh ta gây nên.

Có hơn 100 người chết sau khi nghe bài hát "Gloomy Sunday". Bài hát vẫn có thể được nghe từ thời này sang thời khác. Gần đây, số tường trình về những cái chết liên quan đến bài hát ấy không còn nữạ Có lẽ lời nguyền năm xưa đã hết linh nghiệm chăng? Có thể là vậỵ Nhưng nếu bạn đang ở trong một quán bar nào đó và khi nghe người disc jockey bảo rằng bài nhạc cũ kỳ lạ "Gloomy Sunday" sắp được chơi, tôi thành thật khuyên bạn nên bước ra ngoài và tham gia những trò chơi khác thì tốt hơn.
Tài sản của ruarua88

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #5  
Old 20-07-2008, 05:37 PM
ruarua88 ruarua88 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 26
Thời gian online: 0 giây
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Bác sĩ Mac Lane đặt tay lên điện thoại. Tôi nheo mắt:

- Ông định làm trò dại dột gì thế?

- Gọi cảnh sát. Tôi không muốn bị tống tiền!

- Ông cuồng trí hay sao thế, bác sĩ. Một trong những chuyên gia về tim giỏi nhất nước như ông lại hủy hoại sự nghiệp vì món tiền cỏn con năm nghìn đô-la. Thật dại quá!

- Tôi chẳng ngu đến nỗi tin rằng đưa tiền cho ông là xong đâu. Ông còn trở lại hạch sách nữa đấy.

- Ừ nhỉ, đúng thật. Thế mà mình không nghĩ ra - tôi đáp - Tôi đâu phải hạng tham lam. Năm nghìn đô-la với tôi là quá đủ.

Ông ta nhìn tôi lúc lâu:

- Làm thế nào mà ông lại biết được về tôi?

Tôi mỉm cười :

- Trong ngành chúng tôi, ai cũng là chuyên viên cả, bác sĩ ạ. Ông đã nghe hàng nghìn quả tim đập rồi và chắc chắn chúng cũng nói với ông nhiều điều. Tôi cũng thế, cũng lắng nghe, nghiên cứu và ghi nhớ. Một luật sư tốt phải biết lắng nghe, nghiên cứu và ghi nhớ. Để giữ thể diện, tôi cũng có văn phòng trong thành phố.

Tôi tự cho phép mình mơ mộng đôi chút, nhưng chỉ đôi chút thôi và lại hỏi:

- Ông đã ngồi tù ba năm, đúng không? Ở Larency thì phải?

Ông ta đỏ mặt:

- Chuyện xảy ra hơn ba mươi năm rồi. Tôi vô tội!

- Ai biết được! - Tôi đánh lưỡi - Thôi, trở lại chuyện cũ nào. Điều quan trọng là ông đã nằm khám. Tôi nghĩ rằng khách của ông chẳng thích chuyện ấy đâu.

Ông ta nhìn tôi và chợt thổn thức:

- Ông nói phải. Sự vô tội và những gì còn lại, ích lợi gì đâu cơ chứ... Tôi là người sưu tập tiếng tim đập. Như ông đã nói, tôi đã nghe hàng nghìn lần... Cả tiếng tim tôi nữa. Bây giờ, ai nghĩ gì, mặc kệ. Tôi chỉ còn hai tháng để mà sống.

Và ông lại nhắc ống nghe ra khỏi giá đỡ:

- Tôi muốn cứu những nạn nhân bất hạnh khác của ông.

Mạch máu thái dương của tôi đập mạnh. Lão già ngu dại này sắp làm hư bột hư đường hết. Bao nhiêu năm trời miệt mài. Tay tôi lần chiếc gạt tàn lớn... Khi tôi đánh Mac Lane, ông ta vừa quay được một con số. Ống nghe rơi xuống. Tôi đập nữa, đến khi ông ta đổ vật ra đất.

Lúc hiểu ra mình vừa làm gì, cơn giận tan biến đâu mất, chỉ còn nỗi sợ cứng người. Ngồi sụp xuống cạnh vị bác sĩ, tôi sờ tay lên ngực ông ta: không một tiếng đập. Mac Lane đã chết. Ống nghe lơ lửng đầu dây. Tôi gác nó vào giá đỡ và bước ra cửa, nhưng chợt dừng lại. Còn Collins, tay thư ký riêng của bác sĩ Mac Lane. Ban nãy, khi tôi bấm chuông cửa, Collins đã đi ra. Anh ta vừa hết việc.

Tôi lục khăn tay và lau trán. Không thể chạy trốn ngay được. Phải cân nhắc. Tôi bước qua phòng khách ngổn ngang. Một cánh cửa mở vào phòng làm việc. Đấy là căn phòng có kích thước trung bình. Chiếc bàn giấy lớn. Hai dãy kệ đựng hồ sơ đóng liền tường. Chiếc máy hát có nắp đậy... Tôi liếc bức tường và chợt nảy ra một ý. Thực hiện thì khó thật, nhưng chẳng còn lối thoát nào nữa. Tôi gọi điện cho Walt Matson và cho ông ta địa chỉ bác sĩ Mac Lane :

- Ông phải đến gặp tôi ngay. Đừng có xin lỗi gì hết...

- Tôi không thể gặp ông ngay được. Chiều nay, có phiên họp...

Tôi cấu mạnh ống nghe:

- Tôi không xin xỏ, Walt, tôi ra lệnh đấy!

- Nhưng phiên họp này quan trọng lắm và ...

- Này, - tôi cất giọng lạnh lùng - nếu thế thì cả lô người sẽ vô cùng sung sướng khi biết Walt Matson, Chủ tịch Hội đồng Thị chính đã ăn tiền hoa hồng mỗi lần thành phố tìm được thị trường đấy.

Im lặng thật lâu. Và tiếng Matson:

- Tôi sẽ đến.

Tôi gác máy và gọi luôn cho Mona Saunders. Cô ta cũng không muốn gặp tôi ngay, nhưng tôi đã làm cô ta phải đổi ý. Hai mươi phút chờ đợi lê thê. Tôi liếc đồng hồ không ngớt. Cuối cùng, tám giờ rưởi, tiếng chuông cửa vang lên.

Chưa mở cửa, tôi đã biết ngay là Mona Saunders. Ánh mắt cô ta đầy vẻ thù hận, giận dữ:

- Ông quấy rầy tôi vì cái gì thế? Tôi báo trước, đừng hòng xoay ở chồng tôi một xu nào!

Ngay lúc khép cửa, tôi đã thấy xe của Walt Matson đậu ngay trước xe Mona. Chẳng buồn trả lời cô ta, tôi hé cửa đợi. Walt là người phục phịch, mặt đỏ ửng:

- Khổ quá! Sao lại phải đến ngay thế? Tôi đã bảo đừng có dồn tôi đến chân tường, và...

- Vào đi - tôi cắt ngang.

Vừa vào đến phòng khách, họ đã sững người vì thấy xác bác sĩ Mac Lane. Trong khi Walt tái mặt, Mona chẳng hề sửng sốt. Đây không phải lần đầu cô ta trông thấy người chết. Mona nhìn thẳng vào mắt tôi:

- Thế là sao?

- Hai người sẽ làm chứng cho tôi: Trong lúc xảy ra vụ án, tôi không có mặt ở đây.

Walt mở to đôi mắt kinh hoàng:

- Tôi không thể làm gì cho cậu được đâu. Rất tiếc... làm sao bao che tội giết người được...

- Ông còn đường nào lựa chọn nữa không? Nghĩ kỹ đi, ông hưởng thụ quen rồi.

- ...

- Tôi nghĩ, ông chẳng muốn nằm tù đâu, nếu tôi có bề gì, tôi sẽ kéo theo cả hai vị đấy.

Mona nhìn xác chết lúc lâu. Gần ba mươi tuổi, cô vẫn còn đẹp. Điều ấy làm tôi tin cô ta rất có quyền lực với chồng - ông già Wayne. Mona hỏi:

- Làm gì đây?

Tôi bước về cuối phòng khách và mở cửa phòng làm việc của vị bác sĩ:

- Lúc bác sĩ bị giết, cả ba chúng ta đang ở trong này.

Mona gượng cười:

- Sao lại trong ấy? Tôi biết cảnh sát sẽ thắc mắc đấy.

Tôi sờ lên cổ để tin rằng đầu mình vẫn còn trên ấy. Tôi không thích nghe ai nhắc đến hai chữ "cảnh sát" trước mặt mình. Tôi đáp:

- Báo đã đưa tin: Mac Lane đang vận động chiến dịch xây dựng một bệnh viện ở phía Nam thành phố. Nhưng ông ta không đủ tiền... Kết luận: Mona và tôi đến trấn an ông ta. Mona sẽ góp phần vào việc xây dựng ấy.

Nụ cười của Mona trở nên cay đắng và nghẹn ngào:

- Thật là oái oăm. Dễ gì Wayne chịu bỏ tiền ra, dù đây là việc từ thiện.

- Tôi cóc cần biết lão ta có xùy tiền ra hay không. Quan trọng là ở chỗ cô đã thuyết phục được lão cởi hầu bao bởi vì đấy là con người hào hiệp, sẵn sàng giúp người khác bằng tiền của mình.

Tôi lần lượt nhìn họ và tiếp:

- Tôi là luật sư, chính vì vậy mà các vị yêu cầu tôi mọi chi tiết. Tôi đã gặp bác sĩ Mac Lane và cho một cuộc hẹn, vì các vị muốn gặp riêng ông ta. Còn ông, Walt ạ, tôi đã yêu cầu ông đến đây, vì ông là một nhân viên nhà nước. Tôi đã gợi ý với bác sĩ rằng: Nên hỏi ý kiến ông về chỗ xây bệnh viện...

Tôi lục lại trong óc, xem còn gì nói với họ nữa không. Chợt nhớ đến Collins, tay thư ký của bác sĩ, tôi nghĩ ra: anh ta luôn ghi những cuộc hẹn vào sổ tay, tôi nói ngay:

- Không ai trong hai vị có hẹn trước. Tôi đã gọi điện cho hai người sau khi nói chuyện với bác sĩ.

Walt ưng thuận, nhưng đôi má phị vẫn run bần bật. Mắt Mona lấp lánh. Cô ta lên tiếng trước, giọng hài lòng:

- Tôi nghĩ rằng chúng ta %C 4�óng kịch khéo đấy. Bây giờ đến lượt ông luồn lụy mua vui cho bọn này.

Tôi mỉm cười:

- Tôi chẳng luồn lụy bao giờ, Mona ạ! Sao cô lại nghĩ thế nhỉ? Lúc nào tôi cũng có thể báo cảnh sát. Họ sẽ đào thấy xác ông chồng trước nghèo kiết xác và từ chối ly dị khi cô gặp Wayne...

Có lẽ cô ta đã nhớ, vì đã gật đầu:

- Chúng tôi sẽ nghe lời ông.

- Thế chứ! Bây giờ nghe đây. Cả ba chúng ta đang bước vào phòng làm việc thì chuông cửa reo. Bác sĩ xin lỗi, vì tay thư ký đã về, ông ta phải đích thân ra mở cửa. Ông ta mời chúng ta vào đợi trong phòng làm việc. Cả ba bước vào và khép cửa lại...

Tôi thở dồn dập, câu chuyện không đến nỗi nào...

- Đương nhiên, chúng ta không biết ai đã nhấn chuông - Tôi tiếp - Và cũng chẳng thấy gì. Chúng ta nói chuyện với nhau khoảng hai mươi lăm phút và bắt đầu thắc mắc: Bác sĩ làm gì lâu thế? Chính ông, Walt ạ, ông đã mở cửa vào phòng khách... Và cả ba đều thấy xác chết. Trong chúng ta, không ai ở một mình cạnh bác sĩ bao giờ. Đấy. Nhớ kỹ vào và đừng chua thêm một lời nào nữa. Càng kín tiếng, càng ít hớ.

Khuôn mặt chảy xệ của Walt đẫm mồ hôi:

- Thế ông không nghĩ rằng chúng ta phải nghe thấy tiếng động sao? Tiếng xác chết ngã xuống chẳng hạn?

Tôi suy nghĩ như chớp :

- Không. Chúng ta đang trong làm việc mà cửa lại đóng. Căn phòng hầu như cách âm tuyệt đối. Nếu chúng ta nghe được bất cứ tiếng gì, cảnh sát sẽ thắc mắc: Tại sao chúng ta không ra ngay và cố nhận mặt kẻ giết người?

Họ đã hết câu hỏi. Cũng chẳng còn gì gợi ý. Tôi nhấc ống nghe và xin tổng đài được nói chuyện với cảnh sát.

- Tối khẩn đấy! - Tôi lấy giọng thảng thốt.



***


Trung sĩ Harrison nhìn tử thi được đem đến trong chiếc giỏ mây:

- Lạ nhỉ. Chẳng ai trong số các vị nghe thấy tiếng động nào... Lẽ ra phải nghe tiếng kêu, hay tiếng xác chết đổ vật xuống chứ?

Mona lắc đầu:

- Không, chúng tôi có nghe thấy gì đâu.

Harrison quay lại Collins - thư ký của bác sĩ:

- Ông chắc rằng bác sĩ đây không có kẻ thù chứ?

Collins là một người nhỏ thó, rụt rè. Sau khi được tin, cảnh sát đã đến nhà anh ta ngay. Collins lắc đầu:

- Ai đã quen biết bác sĩ Mac Lane đều yêu mến ông ấy.

Harrison gật gù:

- Phải gan cóc lắm mới dám giết người trong khi ở phòng bên, còn những ba người nữa.

Tôi cố giữ giọng bình thản:

- Nếu chúng tôi không nghe thấy gì, tức là kẻ giết người cũng chẳng biết có chúng tôi ở bên. Chắc hắn cho rằng bác sĩ ở nhà một mình.

Đôi mắt xanh của Harrison thoáng vẻ mơ hồ, ông ta bước đến phòng làm việc và mở cửa:

- Các vị thử vào xem... (Ông ta quay sang một cảnh sát viên mặc đồng pohục) - Khi cửa đã đóng, cậu hãy thử quăng vài quyển sách nhé...

Chúng tôi vào, Harrison khép cửa lại. Lát sau, một tiếng động lớn vang lên từ phòng khách.

- Căn phòng này không hoàn toàn cách âm như ông nghĩ đâu - Viên trung sĩ nhìn tôi.

Tôi gượng cười:

- Trung sĩ ạ, ông quên rồi. Chúng tôi đang nói chuyện mà. Bởi thế, có nghe ra gì đâu.

Tiếng động đinh tai lại vang lên. Lần này càng nghe rõ mồn một. Tôi nói:

- Trung sĩ, ông giả sử rằng: Bác sĩ đã kêu lên và ngã xuống nền nhà. Nhưng biết đâu mọi việc xảy ra hoàn toàn khác.

Tôi chợt nghĩ: Câu nói này có thể làm ông ta nghi ngờ thêm. Walt chợt mất bình tĩnh và lắp bắp:

- Máy... máy hát đang chạy... Vì thế mà không nghe thấy gì cả.

Phải khó khăn lắm, tôi mới dằn xuống được. Đồ ngu! Càng lắm lời, người ta càng kiểm tra nhiều... Nhưng câu nói của Walt đã lôi cả lũ vào và tôi phải xác nhận thôi.

- Ồ, đúng rồi! Tôi quên khuấy đi mất. Máy hát đang chạy... Lúc chúng tôi vừa vào đây thì nó đang hát mà.

Harrison mỉm cười nghi hoặc, ngước nhìn trần nhà lẩm bẩm:

- Trong lúc máy đang chạy mà nói chuyện được thì hay thật...

Tôi cố bình thản:

- Máy chạy khẽ lắm, trung sĩ ạ. Thoang thoảng thôi...

Một ánh chớp vụt qua mắt Collins, anh ta như hé môi định nói gì và lại thôi. Harrison nhìn tôi:

- Ông có nhớ máy đang hát bài gì không?

Tôi lắc đầu. Mona tiếp tay:

- Tôi cũng không nhớ nổi, thưa trung sĩ. Tiếng nhạc nhỏ quá... Ông biết đấy, tôi chỉ có một tai mà nghe nhạc...

Tôi chợt buông một câu:

- Mà điều đó can hệ gì cơ chứ?

- Tôi nghĩ là không... Tôi chỉ thu thập và kiểm tra sự việc thôi. - Viên trung sĩ lại cười.

Walt chúm đôi môi dày và phán một câu, trong khi chẳng ai yêu cầu:

- Tôi nhớ... tôi nhớ đấy là nhạc cổ điển.

Trời ạ! Suýt chút nữa thì tôi tống một quả vào mặt gã. Collins chợt nói:

- Bác sĩ Mac Lane có cả một bộ dĩa nhạc cổ điển. Ông ấy thích loại nhạc này lắm!

Harrison bước lại chiếc máy và mở nắp. Trên đó chẳng có chiếc dĩa nào. Tôi nghẹn thở:

- Tôi đã cất hết dĩa vào tủ trong phòng khách... Lý ra, có thể làm khác... Có lẽ với ông, đây là chi tiết quan trọng... Tôi đã phạm tội sao?

- Không. - Harrison đáp.

Collins rụt rè mỉm cười:

- Đúng đấy, bác sĩ có cả bộ sưu tập dĩa hát, nhưng có thể để đâu đây...

- Thế anh bảo những cái dĩa ấy là gì? - Tôi mạnh dạn chỉ hai hộc tủ.

Collins bước về đó. Anh nhìn qua và rút ra một chiếc dĩa:

- Cái này thích hợp lắm đấy... Bác sĩ là nhà sưu tập, nhưng bộ sưu tập này cũng là nghề nghiệp của ông ấy đấy. Rất cần cho công việc... Nghe thử xem... Dĩa này có tên là Bác sĩ James Mac Lane. Anh ta lắp dĩa và cho máy chạy. Tôi lắng nghe vài giây tiếng động lạ và chợt nhảy nhổm như bị đâm vào ngực. Chết rồi... Collins chỉ cho viên trung sĩ dãy kệ:

- Bác sĩ là một chuyên gia về tim rất giỏi. Ông ấy sưu tập tiếng tim đập của bệnh nhân, tiếng tim của những người nổi tiếng, của thú vật, của cả ông ấy ...

Tôi nhìn sững Mona và Walt. Trông gã càng tiều tụy. Còn Mona, tôi đọc được trong mắt cô ta: chẳng quan tâm gì về tôi và nỗi lo sợ của tôi. Chỉ nghĩ về ông chồng trước của mình và những gì phải kể với cảnh sát về cái chết của ông ta.

Harrison nhìn tôi và mỉm cười.

Trong gian phòng, chẳng còn gì ngoài tiếng đập của một quả tim người chết!
Tài sản của ruarua88

Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời

Từ khóa được google tìm thấy
�����, ������, �����



©2008 - 2014. Bản quyền thuộc về hệ thống vui chơi giải trí 4vn.eu™
Diễn đàn phát triển dựa trên sự đóng góp của tất cả các thành viên
Tất cả các bài viết tại 4vn.eu thuộc quyền sở hữu của người đăng bài
Vui lòng ghi rõ nguồn gốc khi các bạn sử dụng thông tin tại 4vn.eu™

Tự độngTELEXVNITắtChính tảKiểu cũ