Kỳ lạ thật, - Phil Decker nói, - cái cách mà con người ta phản ứng khi có ai cận kề bên họ tự tử hoặc khi họ phải cho rằng anh ta đã tự tử.
- Trong chuyện này bao giờ cũng phảng phất những cảm giác tội lỗi ngấm ngầm, - tôi đoán chừng. - Hoặc người ta nhớ lại những thiếu sót đã mắc phải đối với người đã chết.
- Có thể. – Phil nheo mắt nhìn vào ánh đèn và tinh nghịch xoay xoay cây bút chì trong tay. – Hai cậu con trai nhà ông Rank ít nhất cũng tỏ ra nhẹ nhõm kể từ khi biết chắc chắn là cha họ bị giết.
- Họ là những người như thế nào?
- Mình nghĩ họ thuộc dạng người bảo thủ. Trong nghĩa tốt của từ này. Nghiêm chỉnh, chăm chỉ, có chí tiến thủ, nhưng không cay cú háo danh bằng mọi giá. Cả hai đi chung một chiếc ô tô và sống chung trong một căn hộ ở Cambridge. Mặc dù họ biết là cha họ không thể có nổi những món tiền lớn như thế, nhưng vì người cha cứ gửi đến và thúc ép, nên hộ đã nhận tiền. Họ nghĩ rằng ông ta đã biết đầu tư một cách khôn ngoan những khoản tiền tiết kiệm từ thời gian trước.
- Họ ở đây có lâu không?
- Ít nhất là tới đám tang. Bây giờ họ ở trong một khách sạn, vì ủy viên công tố chỉ cho phép bỏ dấu niêm phong nhà khi các chuyên gia điều tra dấu vết đã tìm ra phương cách đột nhập của thủ phạm. Giờ họ đã biết gã vào nhà như thế nào. Có một con đường đi bộ rất hẹp nằm giữa hai dãy nhà. Bên hàng rào phía sau nhà người ta tìm thấy một vài sợi len, có cùng cấu trúc với những mảnh sợi tìm thấy trong kẽ móng tay của ông rank. Một điều chắc chắn là tất cả các ổ khóa và tất cả các móc chắn cửa sổ đều nguyên vẹn. Nếu ông Rank để mở khuôn cửa sổ trong phòng ngủ phía trên garage thì các chuyên gia dĩ nhiên còn phải tìm lâu hơn nữa mà cũng chẳng thấy gì. Mình có một lý thuyết khác.
- Cụ thể ra sao?
Gã đã đeo lên mái nhà, dỡ ra vài viên ngói và chui theo đường trần nhà xuống dưới, đi qua phòng ngủ, rồi lại theo đường mái garage thoát ra ngoài, leo lên mái nhà chính đậy những viên ngói kia trở lại chỗ cũ. Sau đó gã qua mái garage lọt trở lại phòng ngủ, nấp vào một góc trong nhà, chờ ông Rank về nhà và chờ thời điểm thích hợp. – Phil lắc đầu. - Một kiểu cách hèn hạ... Trời đất, nếu quả đúng có Greenfield nhúng tay trong trò chơi này thì mình phải vào phòng vệ sinh mà nôn ra mất.
Tôi đã kể cho Phil nghe về cuộc nói chuyện của mình với Kellin, và Phil đã mách cho các bạn đồng nghiệp trong ban trọng án khu Queens biết về cuộn băng ghi cuộc nói chuyện qua điện thoại. Tôi đốt cho mình một điếu thuốc và nhìn theo làn khói nhanh lẹ được hút về phía ống thông khí.
- Còn cậu thì cứ ngồi ở đấy và chả làm gì cả! – Phil giận dữ nói.
- Mình chờ, - tôi đáp. – Đó là chuyện khác hẳn. Sếp của bọn mình đã nói chuyện với ban nội vụ trong lực lượng cảnh sát thành phố. Họ tỏ ra rất thận trọng khi thấy câu chuyện xoay quanh một ủy viên công tố.
Ban nội vụ của cảnh sát thành phố luôn được mời vào cuộc khi có những lời buộc tội chống lại thành viên trong lực lượng cảnh sát hoặc các cơ quan khác thuộc bình diện thành phố.
- Nhưng ít nhất thì ban nội vụ cũng đang đi điều tra lỗ rò rỉ trong khu công tố đoàn.
- Và họ cứ điều tra rồi điều tra tiếp, và nếu họ không ta ra thành mây khói thì họ còn điều tra cho đến Ngày Tận Thế, - Phil cay đắng. - Tại sao bọn mình không vào trận chống lại gã? Hoàn toàn trực diện!
- Cậu muốn làm điều đó ra sao? Bám theo gã sao? Cậu tin rằng gã sẽ dẫn bọn mình đến một khúc rừng có chôn tiền hối lộ? – Tôi giơ tay móc ống nghe điện thoại lên, vì chuông vừa reo. – Cotton đây.
Ở phía đầu dây bên kia là Neville. - Đội quân những ông già về hưu lại một lần nữa thắng cuộc, - nhân viên lưu trữ văn thư Neville vui vẻ tuyên bố. – Anh bạn tôi và người đồng chí già của cậu vừa gọi điện tới. Cậu có biết là khi nghỉ hưu tôi sẽ xuống Las Vegas không?
- Anh hả? – Tôi cười. – Anh không bao giờ về hưu hết, Neville. Quên chuyện đó đi!
- Anh bạn tôi cứ mỗi một năm một khỏe ra. Mặt trời ấm nóng và không khí khô ráo ở bên dưới đó rất hợp với anh ấy.
- Chắc chắn là anh sẽ nhớ đến chết những trận mưa ở đây, những con tàu điện ngầm, cái đám rừng bê-tông và cái lối sống hấp tấp hốt hoảng ở trên này, nhớ và hao mòn đi vì đau buồn, Neville, - tôi nói.
- Rồi cậu sẽ mở mắt ra, Jerry! – Neville nói chắc nịch.- Chắc chắn là như thế! Một ngày kia tôi sẽ bỏ ra đi. Nhưng mà thôi, ta vào chuyện chính! Tôi có tin cho cậu đây. Anh bạn già của tôi có biết cơ sở có tiền đầu tư của Riccardi. Đó là một nhóm tài phiệt nắm trong tay hai sòng bạc, bốn khách sạn và vài doanh nghiệp phụ khác. Trước đây một thời gian ngắn, nhóm tài phiệt đó xoay qua cổ phiếu hóa. Đó là một cái mánh rất được ưa thích, người ta dùng nó để tước tiền của những kẻ không thể công khai nhận phần đầu tư của mình. Thật sự là một vụ tịch thu tài sản.
- Neville cười khúc khích.
- Vậy ra bọn chúng đơn giản bỏ vào túi phần tiền của những kẻ đầu tư? – Tôi không thể tin nổi.
- Chính thế đấy! Dĩ nhiên là chỉ của những kẻ đã hết quyền lực. Những tay trùm gangster đã về hưu dạng như Riccardi. Gã ta đâu có thể lộ mặt đi tới đó mà đòi cổ phần. Lúc đó thì Sở Tài chính sẽ ngay lập tức nhảy lên đầu gã và gã ta có thể sống những ngày cuối trong tù.
- Vậy ra bây giờ gã ta nghèo như một con chuột trong nhà thờ, nếu gã không đút tiền vào những nơi khác nữa?
- Tôi không nói rõ ra như vậy đâu, - Neville thận trọng. – Theo những gì bạn tôi được biết thì có một gã trai tên là Sonny Galano đang nắm xấp cổ phiếu của Riccardi. Một dạng quản trị ủy thác, anh ấy nghe nói như vậy. Trong sáu tháng gần đây, Riccardi đã đến chỗ gã Galano kia ba lần tất cả. Cậu có biết gã Galano kia là ai không, Jerry?
- Không.
- Cậu phải dành thời gian ra mà đọc các trang báo kinh tế đi, chứ không phải lúc nào cũng chỉ chăm chăm xem tin báo tử và truyện tranh hoạt hình. Sonny Galano trong vòng sáu năm qua đã tiến lên thành con sư tử lớn nhất trong ngành xây dựng của toàn nước Mỹ. Nó đi mua các hãng xây dựng giống như người khác đi mua giày vậy.
- Và cái đó được viết trong phần báo kinh tế?
- Ừ thì, không rõ ràng như thế đâu, - Neville nhường bước. – Galano đã tạo dựng nên một mạng lưới cổ đông chằng chịt rối rắm đến mức không ai nhìn thấu. Chính thức mà nói, gã chỉ nắm trong tay duy nhất một phòng làm việc với một chiếc điện thoại và một máy viết chữ đường xa, còn tất cả những thứ khác đều chạy theo đúng quy luật của những ông bố già thuở trước, không có giấy tờ và bằng tiền mặt.
Vòng tròn có vẻ đang khép lại. Galano bóp Riccardi ngộp thở bằng cách cầm trong tay tập cổ phiếu của tay trùm gangster già nua, kẻ đang sống nhờ vào cổ tức từ chỗ cổ phiếu đó. Qua cách này, gã có thể ép cho tay cựu trùm gangster làm việc cho gã. Suy cho cùng Riccardi vẫn còn nắm trong tay những mối quan hệ và đường dây nối đến những nhóm quân cũ, những nhóm quân có thể được kích hoạt trở lại. Hôm trước Neville vừa nói gì với tôi nhỉ? Ở trên đường phố New York có đến cả hàng ngàn con người còn nợ Dom Riccardk một món nợ ân tình.
- Neville, thật bọn tôi không bao giờ thiếu nổi anh, - tôi nói trước khi đặt máy.
- Cậu định làm gì? – Phil hỏi.
- Mình đi nắn gáy một trong những tay chân cấp cao của Dom Riccardi thuở trước, - tôi nói. – Mình chỉ chưa quyết định là sẽ nắn gáy đứa nào.
- Lucky Falcone, - Phil bộc phát kêu lên.
Michael Kellin bước vào sảnh và đóng cửa căn hộ lại. Chiếc túi thể thao của Cora đứng giữa đường đi. Kellin nhăn trán. Anh bước qua chiếc túi, tiến vào phòng khách. Trong phòng nào cũng bật đèn.
- Cora! – Anh gọi. – Cora, em ở đâu?
Lúc đó anh nghe thấy tiếng nước chảy. Mỉm cười, anh mở cánh cửa dẫn sang phòng ngủ.
- Cora!
Một bộ áo liền quần màu vàng nằm trên giường. Hai ống quần dang rộng. Kellin nuốt khan. Anh bước tới bên cửa dẫn vào buồng tắm. Tiếng nước réo của vòi tắm bây giờ nghe rất lớn. Anh gõ cửa và gọi tên Cora, tránh cho cô giật mình. Rồi anh mở cửa ra.
Hơi nước phả vào mặt anh. Không khí nóng rẫy.
Có cái gì trong người anh thít chặt lại. Nóng quá, anh nghĩ. Không người nào chịu được. Anh giơ tay giật tấm màn che bồn tắm sang bên. Anh không nhìn thấy gì, bởi hơi nước ở đây còn dày hơn nữa. Anh bị bỏng nhưng ngón tay khi sờ dọc tường. Mãi rồi anh cũng tìm thấy cái quay tay pha nước đang bỏng như lửa. Anh gạt nó xuống dưới, đóng ống dẫn nước. Từ từ, tầm nhìn rõ hơn.
Cô gái nằm trong bồn tắm với nửa người trên văn vẹo một cách kỳ dị. Một chân vắt qua thành bồn. Bàn chân bị kẹp vào dưới ống dẫn nước của toilet. Cô trần truồng. Mái tóc dài bung ra, và dòng nước chảy vặn nó theo hình trôn ốc quanh lỗ thoát. Chắc là trong một cơn thịnh nộ điên khùng, tên giết người đã không tha cả gương mặt xinh đẹp của cô.
Anh nới rộng cà vạt và há mồm thở, cảm nhận rõ dạ dày đang lộn ngược lên.
Anh bụm tay bịt miệng. Rồi anh lảo đảo sang khuôn bếp. Anh nôn vào bồn rửa. Anh vặn cho nước chảy cuốn tất cả chỗ đó đi. Anh không biết anh đang làm gì. Cơn sốc nằm rất sâu. Còn sâu hơn ngày hôm qua, khi anh giết chết một người đàn ông. Anh chập chững bước đi bước lại trong căn hộ, rồi đi ra ngoài và theo thang máy xuống dưới đại sảnh. Anh đờ đẫn đi về phía cửa dẫn ra ngoài. Khi Randy, người gác cửa, cất tiếng gọi, anh giật nẩy người lên.
- Sao ông lại về ngay thế, ông Kellin? Có chuyện không ổn sao?
Kellin như vừa tỉnh dậy từ một giấc mơ. Gương mặt thân thiện của Randy lộ rõ vẻ âu lo.
- Tôi muốn gọi điện.
Randy chỉ vào hai máy điện thoại công cộng trả bằng tiền xu nằm ở mặt sau bức tường che căn phòng treo hộp thư. - Nếu ông không có tiền xu, ông có thể gọi từ máy tôi.
- Không cần, cám ơn. - Với những cử chỉ run rẩy, Kellin tìm một đồng xu trong túi. Randy dợm bước quay vào cabin của anh ta.
- Randy, anh nghe này!
- Sao kia? - Người gác xoay về. Khẩu súng lục bên cạnh anh ta gây ấn tượng quá lớn so với người đàn ông thấp nhỏ dễ mến.
- Suốt thời gian qua anh ở dưới này chứ?
- Vâng, thưa ông, dĩ nhiên. Ca của tôi bắt đầu lúc bốn giờ. Tại sao?
- Cô Dixon có khách tới thăm không?
Randy nhăn trán. – Không, không đâu.
- Anh chắc không?
- Chắc chứ! Ông thấy đấy, không ai vào nổi đây nếu không phải người trong nhà. Mà tôi chỉ cho phép khách thăm bước vào sau khi đã báo rằng điện thoại lên cho chủ nhà và khi người thuê nhà đó nói rõ ràng là tôi được phép cho vị khách đó vào trong.
Không nói một lời, Kellin xoay người đi, bước về phía hai chiếc điện thoại.
Tìm một hồi trong niên giám điện thoại khu Richmond, cuối cùng tôi cũng kiếm ra cái tên Lucius Falcon. Rất có thể Lucius ‘Lucky’ Falcone đã Mỹ hóa tên họ mình.
- Đường Grymes Hill, Richmond, - tôi nói với Phil.
- Một khu sang trọng đấy, - Phil nói. – Cậu nghĩ có phải hắn ta không?
- Mình gọi điện đây, sẽ rõ ngay thôi. – Tôi chọn số rồi lắng nghe. Khi một giọng phụ nữ lên tiếng với một chữ “Hallo” đầy thân thiện, tôi hỏi tìm gặp ông Falcon.
- Ô, ông Falcon hiện vẫn còn trong xưởng. Có thể ông muốn nói chuyện với bà Falcon chăng?
- Đây là chuyện làm ăn, thưa cô. Cô có thể cho tôi biết số máy của xưởng được không?
Tôi ghi hàng số lên một tờ giấy rồi nhấn điện thoại. Hàng số bắt đầu bằng con số 5. Vậy là nó thuộc khu Gramercy hoặc Murray Hill. Tôi chọn số rồi chờ.
Lần này chuông reo tương đối lâu ống nghe mới được nhấc lên.
- Xưởng in Camrod, xin chào quí ngài.
- Chào ông, tôi muốn nói chuyện với ông Falcon.
- Ông Falcon đang mời một khách hàng dùng bữa tối, thưa ông.
- Ông có thể cho tôi biết họ đi đâu không? Tôi phải nói chuyện gấp với ông ấy.
- Không, thưa ông, tôi không biết. Trong xưởng này cũng đã đến giờ nghỉ rồi, thưa ông. Tôi rất tiếc.
- Nhưng ông chưa nghỉ việc, ông...
- Tôi tên là Ensulo, thưa ông. Khu gói hàng và khu gửi hàng luôn làm việc đến 11 giờ đêm. Ông Falcon thỉnh thoảng còn quay trở lại một lần nữa, giữa 10 và 11 giờ. Có lẽ ông nên thử lại lần nữa vào khoảng thời gian đó.
- Vâng, cám ơn ông Ensulo.
Tôi giở niên giám điện thoại, tra địa chỉ. - Xưởng in Camrod, số 287 Đại Lộ Số 4. Luky ra đã leo lên tới một xưởng in, một người vợ, một ngôi nhà ở khu Grymes Hill và một cô giúp việc. Rồi anh ta sẽ rất ngạc nhiên khi nhìn thấy mình.
- Nếu đó chính là anh ta.
- Đồ bi quan! Còn giờ thì sao? Cậu nghỉ hả?
- Mình đấy à? Nghỉ hả? Suốt ngày hôm nay mình chạy dọc chạy ngang phụ việc cho cậu! Bao giờ thì mình có thời gian để viết báo cáo về vụ của mình đây?
- Thôi được rồi. Đừng bực! Mình sẽ phụ một tay!
- Thế mới phải chứ. – Phil hăm hở lao ngay vào phân chia tập hồ sơ trên bàn mình. Đúng lúc anh giơ tay định bê sang cho tôi một đống lớn giấy tờ thì điện thoại đổ chuông. – Mình cuộc 10 đô-la là bây giờ cậu lại lẻn đi cho mà xem! – Phil cáu kỉnh.
Tôi rút một tờ 10 đô-la ra khỏi túi và ném lên mặt bàn của anh. Sau đó tôi tóm lấy ống nghe điện thoại và xưng danh. Phil cũng ném 10 đô-la lên bàn.
- Hallo, Jerry...
Ngay lập tức tôi nhận ra giọng Mike Kellin.
- Có chuyện gì thế, Mike?
- Jerry, tôi ... xin anh làm ơn đến đây cho!
- Mike, chuyện gì thế? Anh đang ở đâu?
- Tôi ở… Trời ơi, Jerry, cô ấy chết rồi!
- Cora hả? Kellin! Nghiến răng lại! Anh vừa nói về Cora phải không!
- Vâng, vâng. Cô ấy chết rồi.
- Anh đang ở chỗ cô ấy?
- Vâng, tôi chờ ở đây.
- Được, Mike, tôi đến ngay.
Tôi ném ống nghe xuống giá và chạy thẳng ra cửa. – Jerry! – Phil gọi với theo và giơ đồng 10 đô-la lên. – Trò cá cuộc vừa rồi không công bằng.
- Cha, cậu thắng.
Tôi tìm được một chỗ đậu trống và phi xồng xộc chiếc xe công vào chỗ đó. Khi không nhìn thấy những đám người to mò dồn về và một đám nhiều loại xe cảnh sát, lòng tôi không khỏi ngạc nhiên. Bởi tôi không tin lấy một giây là Cora đã chết một cái chết tự nhiên.
Kellin chờ tôi ở ngoài cửa. Hai tay đút trong túi áo veston. Anh run toàn thân, mặt hõm sâu.
Kellin xoay người và ra hiệu cho người gác. Người này mở cửa. Kellin đi trước tôi về phía thang máy.
- Dừng lại, Mike! – Tôi nói bằng giọng ra lệnh.
- Đầu tiên tôi muốn biết chuyện gì đang chờ tôi trên đó.
- Cô ấy chết rồi.
- Chỉ thế thôi à?
- Bị đánh chết!
- Bị đánh chết! Trời đất, thế ban trọng án đâu?
- Tôi muốn có anh đầu tiên ở đây. Chuyện này chống lại tôi.
- Trời ạ, anh điên rồi hả? Anh gọi cho tôi hồi nào? Tôi phóng xe rất nhanh, nhưng ít nhất cũng nửa tiếng rồi! Ít nhất đấy! Anh tìm thấy cô ấy lúc nào?
- Lúc đó gần 7 giờ. Sau đó chuyện gì đã xảy ra thì tôi không nhớ nữa. Tôi không cảm nhận thấy gì.
Tôi đưa mắt nhìn quanh. Rồi tôi chỏ vào hai chiếc máy điện thoại. - Gọi cho ban trọng án ngay! Nhanh lên, gọi đi! – Kellin đứng không động đậy, hai cánh tay buông thõng.
- Trước khi gọi điện thoại cho họ, tôi sẽ không lên trên ấy đâu. Kellin, anh là cảnh sát viên! Anh muốn kéo tôi vào một chuyện gì đây? - Lẽ ra tôi phải xoay mình và bỏ đi mới phải. Nhưng tôi cũng thấy rõ là Kellin đang bối rối cùng cực, hầu như đã mất lý trí. Tôi đẩy anh đến bên máy điện thoại, ấn ống nghe vào tay anh và bấm hộ anh số 911, số điện khẩn của cảnh sát.
Kellin báo cáo tạm đủ dữ liệu. Tôi cầm lấy cánh tay anh rồi dẫn anh ra phía thang máy. Người gác nhìn theo hai chúng tôi bằng ánh mắt lạ lùng.
- Anh nghe tôi nói đây! – Tôi gọi về phía anh ta. -Cảnh sát sẽ đến ngay. Anh cho họ lên trên này! – Tôi nhìn Kellin. – Tôi thậm chí chưa biết cô ấy tên gì.
- Dixon. Cora Dixon.
- Anh gửi họ vào căn hộ của cô Dixon!
Lên trên, ở tầng thứ tám, Kellin dừng bước lại một cánh cửa. Anh hầu như không đút nổi chìa khóa vào ổ vì hai tay run quá. Tôi gỡ chìa khóa ra khỏi tay anh.
- Anh lấy chìa khóa này ở đâu ra? – Tôi vừa hỏi vừa mở cửa.
- Cora vừa đưa nó cho tôi hôm qua.
Trong căn hộ phòng nào cũng sáng đèn. Không khí ẩm ướt. Kellin dừng lại ở sảnh ngoài.
- Nào, động đậy lên! – Tôi gầm vào mặt anh.
- Cotton, dù anh tin hay là không, tôi chưa bao giờ… chưa bao giờ nhìn thấy một thứ như thế!
- Ngoại trừ ngày hôm qua.
- Nhưng gã đó tôi không quen. Với Cora, là chuyện khác.
- Cô ấy đâu?
- Trong nhà tắm. Anh phải đi qua phòng ngủ.
Tôi đi xuyên qua căn hộ, chú ý không chạm vào bất cứ thứ gì. Khuôn cửa sổ và mảng gương lớn bọc ngoài tủ đựng quần áo mờ hơi nước. Tôi ném một cái nhìn vào buồng tắm.
Một bức tranh quả thật chẳng hay ho. Tôi nhìn xuống cái thực thể đã xưng phồng, nhìn gương mặt bị tàn phá, một viên cảnh sát hình sự luôn ngay lập tức nẩy nỗi nghi ngờ là có kẻ muốn che giấu hay gây khó khăn cho việc nhận diện.
- Kellin! Anh lại đây! – Tôi cục cằn quát.
Anh đến và đứng sau lưng tôi.
- Anh có tin chắc đây là Cora Dixon.
- Có.
- Anh nhận ra cô ta qua điểm nào?
- Tôi thân với cô ấy mà.
- Tôi cần một đặc điểm khách quan.
Kellin nghĩ một lúc. – Cô ấy có một vết chàm. - Giọng anh nghe thê thảm cùng cực.
- Ở đâu?
- Ở đùi trên bên phải, phía trong, - anh khó nhọc thốt từng lời.
Tôi cúi xuống bên xác chết. Có vết chàm thật. Cora Dixon khi còn sống là một người phụ nữ đẹp đến dễ sợ, tôi nghĩ thầm. Tôi xoay về phía Kellin.
- Mike, sắp tới tình huống sẽ rất căng đối với anh. Người ta sẽ hỏi liệu có phải chính anh làm điều đó.
Đờ đẫn, anh đáp trả ánh mắt của tôi. Nhưng tất cả những tay giết người đều làm nổi điều này.
- Anh sẽ trả lời sao?
- Jerry, anh điên rồi.
- Đó không phải là câu trả lời, Mike.
- Tôi không giết cô ấy! Cô ấy đã chết rồi! Cô ấy gọi điện gọi tôi lại đây. Cú điện thoại được ghi vào sổ văn phòng.
- Nó sẽ không chứng minh điều gì cả, Mike. Chúng ta cần phải biết vụ giết người này nhằm vào mục đích nào. Có phải nó nhắm tới anh? Tắt công tắc anh? Hoặc nó nhắm tới Cora? Mike, anh phải soát lại từng ngày, từng giờ và từng phút trong khoảng thời gian anh đã ở chung với cô ấy. Anh quen cô ấy thế nào, trong hoàn cảnh nào. Và tất cả những gì anh biết về cô ấy.
Kellin gật đầu. Chúng tôi đi ra hành lang của tầng nhà, nơi thanh tra thiếu úy Carl Hobson cùng nhóm đầu tiên của ban trọng án Bắc Manhattan đang bước tới. Hobson bắt tay tôi và Kellin, người anh vừa làm quen trong buổi tối hôm trước.
Vì chiến trường bây giờ thuộc về ban trọng án, nên tôi không thể giúp nhiều cho họ. Vậy là tôi ra về, sau khi đã nhắc nhở và tin chắc là Hobson sẽ quan tâm đến Kellin.
Tôi đang có việc phải làm.
Đậu chiếc xe công bên Phố Số 23, tôi đi bộ đoạn đường ngắn đến Đại Lộ Số 4. Vào một quán rượu nhỏ, tôi uống một cốc bia và cân nhắc. Giờ đã quá 10 giờ tối, và tôi quyết định đi tắt ngang qua con phố.
Xưởng in Camrod chiếm tầng trệt và lầu một của một ngôi nhà bốn tầng xây bằng gạch trần với những khuôn cửa sổ cao và rộng, cánh cửa được chia ra làm nhiều ô nhỏ. Một cánh cửa cuốn đang được kéo cao. Trước đoạn dốc dẫn lên nhà đang có một xe tải chờ sẵn. Một công nhân điều khiển một xe nâng nho nhỏ, chuyển những gói ấn phẩm lớn lên khoang đựng hàng.
Tôi nhảy lên đoạn dốc và gật đầu với người đàn ông đang điều khiển xe nâng. Anh có làn da thẫm màu và đôi mắt nâu to tròn.
- Ông Ensulo phải không ạ? – Tôi hỏi, và khi người đàn ông ngạc nhiên gật đầu, tôi nói: - Ban nãy tôi đã gọi tới đây. Ông Falcon giờ có ở đây không?
- Ông ấy đang ở khu gói hàng, thưa ông. Ở phía sau kia, mé bên trái, cửa mở đấy.
Trong khu gói hàng đang có khoảng bảy, tám phụ nữ gói ghém những sập ấn phẩm quảng cáo còn phải được phân phát trong đêm nay. Đứng bên một chiếc bàn nhỏ là một người đàn ông to béo. Cặp kính đồi mồi có gọng rất dày tụt xuống chỏm mũi nần nẫn thịt. Vầng trán nhăn tít lại khi anh ta cố gắng ghi những dãy số vào giấy giao hàng.
- Lucky Falcon, - tôi nói khi đã lại đủ gần.
Anh ta giật đầu lên rồi xoay phắt về. Anh ta đẩy cặp kính lên cao và sắc mắt nhìn tôi, không nhận ra tôi ngay.
- Cuộc sống yên tĩnh này không thích hợp với anh, Lucky, - tôi nói. - Lần cuối chúng ta gặp nhau, anh nhẹ hơn bây giờ tới 10 ký lô.
- Cotton? Phải ông chứ, Cotton?
- Đúng, Lucky.
- Ông muốn gì?
- Người ta đâu có thể quên được khách hàng cũ. Tôi bao giờ cũng rất vui mừng khi nhìn thấy một người thành công.
- Được, ông đã nhìn thấy những gì ông muốn nhìn. Giờ thì ông lại đi đi cho!
- Anh đã lấy vợ, tôi nghe nói thế. Lâu chưa?
- Bốn năm.
- Vợ anh vốn mang họ Camrod.
- Có gì phản đối không?
- Anh hiện thời là thành viên của câu lạc bộ nhạc đồng quê Grymes Hill, có chân trong ban đại diện khu phố, ngồi trong ban hành chính nhà trẻ…
- Nếu đúng như thế thì sao? Ở ngoài đó chúng tôi không có câu lạc bộ thuyền buồm. Tôi không để người khác làm hỏng đời mình, Cotton. Ông không, mà bất cứ kẻ nào khác cũng không! Bụng tôi giờ đã phệ ra thật đấy, nhưng máu chiến đấu thì vẫn y như cũ. Tôi đã đếm đủ lịch. Bây giờ tôi có quyền của tôi.
- Tôi chẳng muốn điều gì ở anh cả. – Tôi nhấn mạnh từ tôi.
- Thế tại sao ông tới đây?
- Gần đây anh có nghe ai nói đến Dom Riccardi không?
- Có. Tôi đã ném nó ra ngoài.
Tôi gật đầu. Tôi đã đoán như vậy. Lucky Falcone là một trong số rất ít những người không nợ nần gì Riccardi. Trước đây 10 năm, Lucky là một gã trai có ngoại hình rất quyến rũ và đã yêu con gái của Dom Riccardi. Cô ấy cũng yêu Lucky. Riccardi cho người xé đôi cặp nam nữ trước khi họ thật sự thân nhau.
Ông ta cử ba cận vệ và hai bà bảo mẫu kèm cô con gái về Italia, rồi gả cô ấy cho một tay nam tước đã thất thế và nghèo túng. Chắc chắn Falcone đã tìm cách giết ông trùm của mình, nếu chúng tôi không kịp thời tống anh ta vào lỗ vì một loạt các tội phạm trầm trọng khác.
Falcone căm thù Riccardi. Nhưng nếu không bị ép buộc, anh ta sẽ không bao giờ tự nguyện cộng tác với FBI. Anh ta thà bôi dâu súng lục thêm một lần nữa và ra đứng chắn đường Riccardi. Mặt đối mặt.
- Cánh Las Vegas đã lừa Riccardi, - tôi nói, và hài lòng nhận thấy vẻ quan tâm lóe lên trong mắt Falcone. – Cánh Las Vegas bây giờ nắm Riccardi trong tay. Gã phải làm những gì gì bọn kia yêu cầu. Nếu không gã sẽ thành người nghèo túng. Đây là một trò chơi lớn. Những người đàn ông dạng như anh rất có thể nhanh chóng bị cuốn xuống đáy đấy.
- Tôi không biết ông nói chuyện gì, ông Cotton. Ông đi đi! Tôi còn phải làm việc.
- Được thôi, Lucky, vậy thì ngày mai tôi sẽ đến Grymes Hill. Ví dụ vào lúc chín giờ sáng nhé? Anh không cần phải mời tôi ăn điểm tâm đâu. - Mười năm trước đây, vẻ căm thù điên cuồng đang hiện lên trong con mắt Falcone lúc này có lẽ sẽ khiến tôi kinh hãi và trở nên cảnh giác. Ngày hôm nay, nó hầu như chẳng khiến tôi bận tâm. Falcone bây giờ có rất nhiều thứ để mất, anh ta không để thật sự nghĩ đến chuyện hại tôi.
- Ông muốn gì, Cotton? Nhổ nó ra đi! Và để gia đình tôi được yên! Đó là điểm nhạy cảm của tôi, Cotton, tôi công nhận như vậy, và tôi thề rằng…
- Giờ anh đừng có phóng đại, Lucky. Trong cuộc chơi mà tôi vừa nhắc tới đã có bốn người chết. - Thật ra là tám người, nếu tôi kể thêm cả những công nhân đã gặp tai nạn tại ngã tư Major-Deegan. - Người chết bao giờ cũng tạo nên những điểm rất nhạy cảm trong tôi. Lucky. Lúc bấy giờ thì tôi không biết nể ai nữa đâu.
Falcone ném cây bút bi xuống bàn, gỡ kính và tựa người vào tường. – Tôi không thể giúp ông, Cotton, vì tôi không biết điều gì.
- Riccardi muốn anh làm gì?
Falcone chần chừ. – Tôi không thèm nghe lời của gã ta, - rồi anh ta nói. – Gã cũng muốn những thứ như mọi khi thôi. Phục vụ chỗ này một chút, chỗ kia một chút. Lúc thì là một cái xe, lần thì tôi lại phải cầm đầu một nhóm quân. Giống như ngày trước. Đe dọa ai đó…
- Đánh đập, Giết người.
- Tôi chưa bao giờ giết ai.
Đối với lời khẳng định này, tôi có những nỗi nghi ngờ chính đáng của mình. Nhưng tôi quyết định không xét thêm yếu tố đó.
- Riccardi bây giờ đang làm chuyện bẩn tay hộ bọn Vegas. Ngoài Labonte chắc gã ta phải có một tay sát thủ nữa, giờ đang được đẩy vào trận. Tôi tìm tay sát thủ đó.
- Thế thì lẽ ra ông không được giết Pat Labonte. – Falcone căng môi trong một nụ cười thâm độc. – Nhưng mà ông đang nắm Lou Stearns, tôi có nghe kể như thế. - Vẫn còn cười, anh ta nhìn tôi. Anh ta biết chính xác là Stearns sẽ không bao giờ mở mồm ra.
- Chắc anh không thể nào quen Pat Labonte, nếu anh quả có ý lánh xa các trò náo nhiệt.
- Không, tôi không quen nó. – Falcone châm một điếu thuốc. Anh ta không mời tôi. Chầm chậm, anh ta thở khói ra, trong khi ánh mắt như đang trầm ngâm đi ngược vào trong.
Tôi để cho anh ta yên. Falcone đang vật lộn để đi đến một quyết định. Tôi để cho anh ta có thời gian cân nhắc. Chưa bao giờ anh ta đưa ra cho cảnh sát một lời mách bạo. Nhưng bản thân anh ta chắc phải nhận thấy là giờ anh ta đang ngồi trong thế kẹt. Tôi có thể dễ dàng quét phăng đi cái mặt tiền đứng đắn đáng kính mà anh ta vất vả bao công mới dựng nên, chỉ cần tôi tới Grymes Hill tìm anh ta và sục sạo trong khu vực đó.
Bởi suy cho cùng, tôi hoàn toàn có cớ để xăm xoi lý do vắng mặt của Falcone. Cho tới nay, tôi chỉ mới được nghe chính anh t khẳng định rằng anh ta không còn làm việc chung với Riccardi nữa. Mặt khác, anh ta cũng phải sợ rằng Riccardi sẽ không buông tha và tới một lúc nào đó sẽ sử dụng sức ép lớn hơn, đòi Falcone phục vụ.
- Tôi sẽ không bao giờ ra mặt công nhận những thông tin này, - cuối cùng anh ta nói. – Không bao giờ, ông hiểu không?
- Chừng nào bản thân anh không dính vào chuyện, anh có thể đặt điều kiện đó, - tôi khẳng định.
- Ông hãy thử quan tâm đến người thân của Pat Labonte, - Falcone nói. Anh ta lại đeo kính lên và vẫy một trong những công nhân của bộ phận gửi hàng lại bên, ấn một vài tờ giấy đã được điền đủ vào tay anh kia và giải thích một vài lời.
Người thân của Labonte? Sáng hôm nay tôi đã xem xét kỹ tập hồ sơ của Labonte, với hy vọng sẽ va phải những cái tên khác, có thể dẫn chúng tôi đi xa hơn.
Trong hồ sơ không hề nhắc đến gia đình của Labonte. Gã không có vợ. Trong thời gian cuối này, gã sống trong một nhà trọ tại Phố Số 66 khu Tây, sống một mình. Khi khám xét đồ đạc, các thành viên của ban trọng án không hề tìm thấy một lời mách bảo chỏ đến người thân của gã. Labonte người xứ Baltimore, và theo đúng quy định, người ta đã báo tin đến lực lượng cảnh sát nơi đó. Nếu Patrizio Labonte có người thân sống ở Baltimore, chắc chắn cảnh sát sẽ tìm ra họ và báo tin về cái chết của Labonte. Cho tới nay chưa có ai lên tiếng, dù là cha mẹ hay anh chị em.
- Còn gì nữa hả? – Lucky sừng sộ với tôi khi người công nhân đã đi đủ xa. Ở phía đầu của đường dốc, có tiếng môtơ được bật lên. Falcone nhìn tôi trân trân. Thế rồi anh ta giơ hai tay lên trời. – Thôi được rồi, được rồi, Cottton. Pat không phải vô tình mà về New York đâu. Anh trai của nó đã lôi nó về đây. Anh trai của Pat lớn hơn nó tới 10 tuổi, và thỉnh thoảng lại làm việc cho Dom Riccardi. Dĩ nhiên là gã ta cũng đã rút lui khỏi trò làm ăn từ lâu rồi. theo những gì tôi được biết, gã đang có một khu vườn ở South Orantge, bên New Jersey. Nhưng tôi nghĩ cũng có khả năng Riccardi đã thuyết phục được gã ta làm thêm cho lão một vụ. Hoặc là cũng có thể hai.
Là một vụ. Điều đó có nghĩa là anh trai của Pat Labonte là một sát thủ. Một tên giết người chuyên nghiệp, kẻ chưa bao giờ bị điều tra, bởi chưa bao giờ bị nghi ngờ. nhưng tại sao trong hồ sơ của Labonte lại không có một lời mách bảo về tay đó?
Gã tên là Mario, - Lucky Falcone sủa lên. – tôi không biết họ gã. Tôi chỉ biết đó là người anh cùng cha khác mẹ của Pat. tất cả chỉ có thế thôi, cotton.
Cảm ơn, Lucky, - tôi nói. Anh vừa ghi sổ được một món ở một chỗ tôi.
Hầu như mỗi khi chuông điện thoại reo khi tôi có mặt ở nhà là hồi chuông đó bao giờ cũng giật tôi ra khỏi một giấc ngủ rất ngon hoặc nó tóm phải tôi đúng lúc tôi đang đứng trong bồn tắm. Buổi sáng hôm đó cũng vậy, lúc 7 giờ 55 phút.
Tôi tắt nước, quấn mình vào một chiếc khăn tắm dày rồi chập chững bước đến bên máy. – Hello? – Tôi hỏi.
- Cậu nghe tin thời sự chưa? – Phil hỏi ngay lập tức.
- Chưa. Mình đang tắm. Vào giờ này cũng không có tin thời sự. Nhưng mình dám cuộc là cậu muốn cho mình nghe tin mới.
- Ủy viên công tố vừa đòi cho bắt giam Kellin, và ngài chánh án chắc sẽ ký thôi. Bây giờ cậu nói gì?
Mặc dù hầu như đã đoán trước được điều đó, cái tin mới này vẫn giáng vào tôi nặng nề như một cú sốc.
- Kể đi, - tôi nói. – Nhưng mà kể nhanh lên. Nước đọng lại dưới chân mình thành vũng rồi.
- Anh ta bị buộc tội đã giết chết cô gái, - Phil nói.
- Cái đó mình cũng đã nghĩ tới. Tại sao anh ta phải giết cô ta mới được chứ? Anh ấy mê cô ta lắm!
- Bác sĩ tâm thần của cảnh sát đã ám chỉ đến một động cơ. Ông ta cho rằng viên đạn giết chết Labonte đã làm tín hiệu giải tỏa một làn sóng hiếu chiến bị kìm nén bấy lâu nay, nó có thể dẫn tới một hành động bạo lực vô lý. Một triệu chứng đặc trưng cho dạng hành động đó, theo bác sĩ tâm lý, là trạng thái đờ đẫn của Kellin sau khi ra tay.
- Đơn giản đến mức tuyệt vời, đúng không? Người ta không cần giết anh ấy, người ta tuyên bố anh ấy là đồ điên và có hại cho xã hội, và thế là anh ấy biến mất.
- Nếu có, thì đó chỉ là một động cơ, - Phil điềm đạm nói tiếp. - Rất có thể còn một động cơ nữa, mình sẽ nói đến ngay. Đầu tiên mình muốn điểm lại cho cậu tất cả các tang chứng gián tiếp. Anh ấy không có lý do vắng mặt...
- Đó là một tang chứng gián tiếp mỏng manh. Tên giết người đã vặn nước nóng để nhiệt độ của xác chết không cho phép người ta rút ra kết luận.
- Nếu cậu không luôn mồm ngắt lời mình như thế thì mình đã nói được vào dữ liệu chính từ lâu rồi, - Phil nói. – Nhân chứng quan trọng nhất là người gác nhà. Anh ta thề rằng không có người lạ nào vào được trong nhà và đến thăm bạn gái của Kellin. Anh ta được coi là tuyệt đối đáng tin cậy. Ngay cả khi anh ta ngủ gục trong cabin hoặc lẻn xuống tầng hầm uống một ngụm rượu nhỏ, cũng không một ai vào được trong nhà. Nhân viên của Hobson đã hỏi han tất cả những người thuê nhà mà họ gặp được. Không một ai cho một người lạ vào trong. Và nhà không có cửa khác, Jerry. Không có garage ngầm, và những cầu thang cứu hỏa thì không hề được sử dụng kể từ lần thanh tra gần đây nhất của lực lượng phòng hỏa. Gã chỉ có thể đậu bằng máy bay trực thăng lên mái nhà thôi.
Tôi biết, lời khai của gã gác cửa là hầu như không ai có thể lay lắc nổi. – Nhưng chính anh ta đã cho Kellin vào trong nhà. Anh ta không hề gọi điện cho cô Dixon và báo trước là Kellin sẽ lên đó.
- Đáng tiếc là không. Kể từ ngày hôm kia, Kellin có chìa khóa riêng của anh ấy. Những ai có chìa khóa, cũng đồng thời cầm trong tay một thứ như là vé vào cửa. Hãng bất động sản chủ nhà đã đưa cho mỗi người thuê nhà của họ hai chìa khóa cho cửa ra vào chính và hai chìa khóa cho cửa vào căn hộ. Họ khai là không có nhiều chìa khóa hơn. Chiếc chìa khóa kia được tìm thấy trong túi bộ áo liền quần của cô Dixon. Người gác cửa đã nhìn thấy Kellin bước vào đại sảnh sau lúc 7 giờ 30. Kellin đã đi lên trên bằng thang máy. Sau khoảng chừng 20 phút, Kellin xuống dưới. Anh ta gây ấn tượng hoàn toàn đờ đẫn. Người gác cửa cho rằng Kellin đã tìm cách bỏ trốn. Chỉ sau khi người gác cửa hỏi anh ta, Kellin mới gọi điện cho cậu.
Về chuyện bỏ trốn, chắc là một luật sư bào chữa sẽ đủ sức tấn công lại lời khai đó, nhưng vẫn còn lại quá đủ. Nhìn tổng thể, khó có thể đục phá hay lung lay những dữ liệu đó ở bất cứ điểm nào.
- Trong thời gian đó có những người khác đi xuống dưới không?
- Không có người lạ, Jerry, - Phil im lặng một thoáng. Khi không thấy tôi lên tiếng, anh nói tiếp.
- Nhưng bây giờ mới đến điều tệ hại nhất. Người đã chết hoàn toàn chẳng phải Cora Dixon.
- Vậy thì đúng là ... – tôi nói.
- Nhưng chẳng phải thứ mà cậu nghĩ đâu, Jerry. Đó là người phụ nữ mà Kellin cứ tưởng là Cora Dixon xứ Flagstaff. Nhưng ban trọng án đã gọi điện cho cảnh sát trưởng Flagstaff, và chỉ một tiếng đồng hồ sau anh ta đã gọi điện trở lại, khẳng định chắc chắn là cô Cora Dixon kia đang còn sống và rất khỏe mạnh.
Nếu người đã chết không phải là Cora Dixon, vậy cô ta là ai? Giờ tôi mới hiểu Phil muốn ám chỉ điều gì ngay từ đầu, khi anh nói là có thể còn một động cơ nữa cho hành động. Kellin rất có thể đã phát hiện ra Cora là ai. Yếu tố bất ngờ có thể đã thúc cho tính hiếu chiến bị dồn nén bùng nổ, thứ mà bác sĩ tâm lý đã nói tới.
Ôi cha, tình hình quả thật rất u ám đối với Mike Kellin, rất rất u ám.
Mặc dù vậy tôi vẫn không tin là anh đã đập chết người phụ nữ đó. Kể cả trong một cơn cuồng nộ bất lường.
Đối thủ của anh lần này đã nghĩ ra một chuyện hoàn toàn mới...
- Ủy viên công tố có tuyên bố sẽ họp báo vào lúc 10 giờ. Cậu có tới đó không?
- Mình đến đó làm gì? Chỉ phí thời gian. – Tôi giải thích với bạn tôi dự định của mình, rồi yêu cầu anh: - Cậu bám theo đi! Bọn mình cần cái tên đích thực của người đã chết. Mà phải thật nhanh.
- Mình sẽ làm hết sức.
- Cậu có biết cô ta sống trong căn hộ đó bao lâu rồi không?
- Mình có ghi lại. Đây rồi. Ba tuần. Không, tổng số chính xác bốn tuần.
- Hãy gắng tìm cho ra liệu trước đó cô ta có ở một nơi nào khác tại New York không. Nếu cô ta mới tới Manhattan từ bốn tuần nay và cô ta đến bằng máy bay, có thể lúc đó cô ta đã sử dụng cái tên Dixon. Hãy hỏi các hãng hàng không! Và gửi lời mô tả nhận dạng cũng như dấu vân tay của cô ta về Flagstaff cũng như tới Washington!
- Không thành vấn đề. Hobson cũng đang làm chuyện đó.
- Thế thì hãy nói chuyện với đám người ở văn phòng giới thiệu nhà đất! Hỏi họ xem cái cô Cora Dixon đó có tự thân đến thuê căn hộ, liệu cô ta có đi một mình khi ký hợp đồng. Sau đó đòi họ trao cho cậu danh sách tất cả những người thuê nhà ở đó! Kiểm tra lại tất cả những người chuyển vào hay chuyển ra khỏi ngôi nhà đó trong vòng sáu tuần lễ qua, à mà không, tám tuần lễ vừa qua.
- Cậu đi tìm một người đã quên nộp chìa khóa hay sao? – Đâu có thể giải quyết vấn đề dễ dàng như thế được. Có những cơ sở bất động sản đổi khóa mỗi lần có người thuê nhà chuyển đi. Khi một chiếc chìa khóa không được trao trả hoặc bị mất, ổ khóa cũng sẽ được thay ngay lập tức.
- Cứ làm những gì mình nói đi, - tôi nói với hơi một chút bực bội, vì tôi đang ướt và bắt đầu thấy rét. – Và cậu cũng nên quan tâm đến cả những căn hộ dù đã có người thuê, nhưng không được sử dụng thường xuyên.
- Mình đi đây. Cũng may mà cái nhà đó chỉ có 120 căn hộ.
- Thì xưa nay cậu vốn là tay may mắn mà. – Tôi nói và đặt máy.
Mùi hương và màu sắc khiến khách thăm muốn đê mê. Đằng sau những mảng tường kính rất rộng là vô vàn những cụm phong lan đang nở hoa trong không khí nóng ẩm miền xích đạo.
Tôi quan sát những loài hoa xa lạ đang đua nhau khoe màu sắc và đường nét dưới thứ ánh sáng nhân tạo được điều chỉnh cho thích hợp tốt nhất với sự phát triển của chúng. Ở đây rõ ràng đã có một người có kiến thức chuyên ngành và lòng đam mê tạo dựng nên một thiên đường nho nhỏ.
Mario Aldina không đơn giản chỉ là một người thợ làm vườn như Lucky Falcone đã nói. Hoa phong lan của Mario Aldina nổi danh khắp xa gần. Trước khi lên đường sang New Jersey, tôi đã bỏ công thu thập thông tin. Aldina cung cấp hàng cho những cửa hiệu hoa đắt tiền nhất từ Atlantic City tới Manhattan. Mỗi tuần hai lần, gã tự tay lái chiếc xe có gắn mad1y điều hòa nhiệt độ đến chợ hoa Manhattan bên Phố Số 28 và Đại Lộ Số 6, nơi cung cấp hàng đêm của những người bán sỉ.
Tôi đã biết được đôi điều về Mario Aldina. Gã ta 46 tuổi, cha gã đã bỏ mạng trước đây 40 năm trong một trận đọ súng giữa hai băng đảng gangster cạnh tranh. Mẹ gã lấy chồng lần thứ hai, một người có tên là Ernest Labonte. Một người do chính “gia tộc” cũ của cha Mario chọn lựa. Ernest Labonte chết trong nhà tù tiểu bang Maryland. Không một ai đó có thể nhanh chóng nói cho tôi biết bà mẹ giờ ở đâu.
Kể từ 10 phút nay, tôi biết điều đó ...
Sau khi được chỉ hướng, tôi đã nhanh chóng nắm được khá nhiều thông tin về gia đình của gã anh trai cùng cha khác mẹ của kẻ đã chết. Tôi cũng được biết rằng suốt quãng đời cho tới nay Mario Aldina chưa hề gặp khó khăn với cảnh sát, ngoại trừ những lỗi lầm nho nhỏ trong giao thông. Nhân thân của gã có thể coi là hoàn toàn sạch sẽ.
Nhưng không một ai biết gã lấy đâu ra tiền để tạo dựng nên trang trại trồng hoa phong lan bên rìa khu South Orange. Người ta nói là gã tạo dựng từng bước một, từ nhỏ lên lớn. Đầu tiên gã chỉ trồng hoa như một thú vui. Gã xây ngôi nhà kính đầu tiên hồi nào? Chắc khoảng 10, 12 năm về trước. Giờ có tới một tá nhà kính duỗi dài bên dưới bầu trời thu dịu dàng.
Tôi đi giữa những hộp gỗ chứa những thông bông hoa đẹp nhất. Ngay trong phòng tiếp khách ở phía trước là bà mẹ Labonte, đã rất già và hầu như mù. Bà ta ngồi đằng sau bàn. Không khí ấm và ẩm thấp rất tốt cho những khúc xương già nua. Khi tôi bước vào trong và yêu cầu được xem hoa mẫu, bà ta nghiêng đầu sang bên và trân trân nhìn tôi từ hai con mắt đục lờ.
Như thể bản năng vừa cho bà ta biết điều gì đó.
- Hoa đẹp lắm, đúng không? - Một giọng trầm trầm cất lên đằng sau tôi.
Tôi không giật mình, mặc dù tôi không hề nghe thấy tiếng bước chân người đàn ông đó. Chỉ có duy nhất một vệt nắng phản chiếu nhỏ li ti trên một tấm kính nằm nghiêng thầm cảnh báo trước.
Tôi chầm chậm xoay về. Tôi nhìn vào gương mặt có những đường nét rất sắc sảo của một người đàn ông có làn da thẫm màu và mái tóc xoăn màu đen. Ông ta mặc một chiếc áo tạp dề màu xám, che một thân hình mảnh dẻ săn chắc.
- Rất đẹp, - tôi đồng tình.
- Ông là người yêu hoa phong lan? Hay là một nhà buôn? Hoặc cả hai?
- Tôi thích tất cả những gì đẹp đẽ, - tôi nói. – Có phải ngày hôm qua là ngày họp chợ của ông ở New York?
Mario Aldina không rung động lấy một sợi lông mi. – Đêm thì phải. Và phần sáng sớm.
- Vậy thì ông cũng biết là vào buổi tối hôm trước đó em trai ông đã bị bắn chết.
- Tôi có đọc chuyện đó. Ông là ai? - Giọng Aldina nghe nông, vô cảm. Chỉ có hai cánh mũi phập phồng cho biết sự bối rối bên trong.
- Tôi là Jerry Cotton, FBI, - tôi nói.
- Có phải ông là người...
- Một bạn đồng nghiệp. Mechael Kellin. Chắc ông đã đọc báo.
- Đúng, nhưng tôi không quan tâm đến em trai tôi.
- Không hả? Mặc dù chính ông đã đưa anh ta về New York?
- Ai nói điều đó? - Giọng Aldina bây giờ nghe có phần mất bình tĩnh.
Tôi nhún vai. – Thì tôi nghe chỗ này chỗ kia. Nhưng chắc chắn ông đã chia tay với em trai ông rồi. Chắc là ông đã cư xử đúng, bởi vì anh ta là một tội phạm. Anh ta đã chủ tâm thực hiện một vụ giết người có chủ đích. Giết một cảnh sát viên.
- Tôi có đọc đó là chuyện nhầm lẫn.
- Cái gì là chuyện nhầm lẫn?
- Rằng chuyện viên cảnh sát đó là nhầm người.
- Không, ông Aldina, đó không phải chuyện nhầm lẫn, bởi vì người mà ông muốn nói tới là Elmar Rank, vào thời điểm đó ông ta đã chết rồi. Tên giết người đã để lại dấu vết.
Hai chúng tôi nhìn nhau. Ánh mắt vặn xoắn vào nhau.
- Tôi thậm chí còn nghi rằng, - tôi tiếp tục, - chính kẻ giết Rank đã lừa em trai ông vào tròng.
- Tại sao? Cái đó tôi không hiểu.
- Tôi nghĩ có khả năng em trai ông hoàn toàn không biết gã sẽ chĩa súng vào ai. Nếu gã biết đó là một cảnh sát viên, chắc chắn gã sẽ không nhận làm thuê. Ông nghĩ sao?
- Làm sao mà tôi biết được chuyện đó? Chúng tôi sống trong hai thế giới khác nhau.
- Chỉ cách nhau có một tiếng đồng hồ đi ô tô thôi. Tôi sẽ đi hỏi Riccardi xem ai đã đưa em trai ông đến gặp gã.
- Riccardi là ai?
Tôi cười chế giễu. – Cho tới cách đây 10 năm, ông ta là một con thú dữ. Giờ ông ta là con số không. Người ta đã lừa ông ta và nẫng mất toàn bộ số tiền của ông ta, giờ ông ta cuốn bạn bè xưa cùng sa vào thảm họa.
Aldina đã bình tĩnh lại. Gã im lặng, mà vẫn không gây ấn tượnhg ngượng ngùng hay để lộ điều gì khác. Tôi chầm chầm quay trở lại phía cửa ra.
- Mẹ ông có biết là Pat chết rồi không?
- Bà ấy biết.
- Có phải vì thế mà ông tới đây? Để nhục mạ tôi? Hay là ông muốn tiết kiệm cho nhà nước khoản tiền đám tang? Cái đó ông có thể làm qua điện thoại.
- Tôi muốn làm quen với ông, ông Aldina. Rất có thể chúng ta còn gặp lại nhau.
- Về phía tôi chắc chắn không.
- Cái đó tôi tin, tin từng lời là đằng khác, ông Aldina. À mà suýt chút nữa tôi quên – tôi muốn gửi tới ông lời chia buồn sâu sắc về cái chết của người em trai cùng cha khác mẹ!
Khuôn mặt Mario Aldina nhăn lại thành một cái mặt nạ của sự căm thù. Dù chỉ thoáng qua thôi, nhưng khiến tôi rởn người.
- Cuộc họp báo thế nào? – Tôi hỏi Phil?
Tôi hầu như không hiểu được câu hỏi trả lời của anh. Tôi đang đứng trong một quán cà phê ở Pulaski Skyway và ép chặt ống nghe vào tai. Đằng sau con đường dẫn vào bếp đang có một máy rửa bát kêu ầm ầm, và những người đầu bếp cùng cánh bồi bàn đang sa vào một trận chiến ngôn từ ồn ã.
- Lệnh bắt giam vẫn còn, nhưng quan tòa tạm hoãn, Kellin tạm thời bị cho nghỉ việc. Anh ấy bây giờ được tự do. Không cần tiền chuộc, nhưng thay vào đó là một loạt các quy định.
- Vậy ra quan tòa coi những bằng chứng đó là chưa mang tính quyết định, - tôi nói đầy hy vọng.
- Có thể, - Phil đồng tình. – Nhưng nếu ông ấy biết những gì mà mình vừa biết được...
- Cái gì? – Tôi thét lên.
Mình vừa đưa dấu vân tay của cô bạn gái đã chết của Kellin về Washington. Cô ta được ghi danh ở đó. Cô ta đang bị truy nã trong mối liên quan tới cái chết của chồng cô ta, một người tên là David G. Hayes, người đã bị giết cách đây sáu tuần tại Los Angeles. Tên thật sự của cô ta là Donna Hayes, họ cha sinh mẹ đẻ là van Pelt. Đầu tiên cô ta đã bị tống giam được người tình của cô ta, gã tên là Brad Nelford, và gã này thú nhận đã giết chết David Hayes, thì lời buộc tội Donna được chuyển thành tội xúi giục giết người. Cho một khoản tiền chuộc rất lớn, cô ta được thả ra ngoài. Ngay lập tức cô ta trốn đi. Người ta bảo món tiền chuộc đó là do một người tình cũ khác đưa ra. Cô nàng Donna xinh đẹp có một quá khứ đầy ắp sự kiện. Trong cái thời huy hoàng trẻ trung, cô ta đã nhảy thoát y tại Las Vegas. Bây giờ cậu nói gì?
Tất cả các dấu vết đều dẫn từ Las Vegas về New York. Đã có kẻ sử dụng một cô gái điếm để tiện vu vạ trong một giây phút thích hợp cho một người đàn ông ngang bướng. Mọi dữ liệu đều rất thích hợp với nhau.
- Nhưng Brad Nelford còn ngồi tù chứ? – Tôi hỏi lại.
- Không. Gã đã đột ngột đổi luật sư và rút lại lời nhận tội của mình. Vĩ nữ nhân chứng buộc tội duy nhất, tức là cô nàng Donna xinh đẹp, không còn hiện diện nữa, nên buổi tối ngày hôm kia gã đã được thả ra khỏi nhà tù. Luật sư mới của gã bây giờ là một tay luật sư gangster nổi tiếng. Món tiền chuộc cho thân chủ được gã trả bằng tiền mặt.
- Và bây giờ đến Nelford cũng trốn đi rồi, - tôi đoán.
- Này, làm sao mà cậu đoán được? – Phil chế giễu. – Mình vừa mới nhận được một bức ảnh của gã qua đường truyền dữ liệu. Mình cũng đã cho đòi cả ảnh của cô nàng
Donna xinh đẹp. Mình hy vọng, làm như thế là vừa ý cậu, bởi vì người ta không thể mang ảnh của cô Donna đã chết mà đi trình khắp nơi.
- Một sáng kiến hay, - tôi nói. - Cậu nghĩ sao, Brad nelford ở New York chăng?
- Có thể lắm. Gã đã giết chết Elmar Rank, gã có bằng chứng vắng mặt tốt nhất trên thế giới, - tôi nói. – Lúc đó gã vẫn còn ngồi trong nhà ngục điều tra.
Tôi nghĩ đến Mario Aldina. Tôi đã đặt toàn bộ quân bài vào gã. Thế rồi bây giờ, như từ cái mũ của một ảo thuật gia, bất thình lình xuất hiện một ứng cử viên mới.
Một ứng cử viên khác? Hay là ứng cử viên thứ hai?
- Ai nói đến chuyện ông Rank đâu! – Phil hăm hở nói. – Không hiểu sao mình không tin là vụ giết cô ả Donna xinh đẹp đã được lên kế hoạch trước. Nó mới chỉ trở thành cần thiết khi vụ giả giết nhầm Kellin thất bại. Lúc bấy giờ thì có kẻ đã dán người vào máy telephone và rung chuông báo động, mà là rung chuông rất nhanh. Mình thật là muốn biết, Riccadi làm thế nào mà hẩy được cô nàng Donna vào tay Kellin.
- Vụ đó không phải do Riccardi, - tôi nói chầm chậm.- Có một đường dây khác, một đường dây trực tiếp chạy trên đầu Riccardi.
- Mà ngoài ra, - Phil nói. – Các bạn đồng nghiệp ở khu Queens đã khẳng định lý thuyết của mình là đúng! Kẻ giết ông Rank đã trèo qua mái nhà để xe! Họ tìm thấy dấu vết ở đó. Và tìm thấy thêm cả một vài sợi len màu xanh dương trên mái nhà. Thế còn cuộc trò chuyện của cậu với Aldina ra sao?
- Rất khó nói. Phải chờ chút mới biết liệu mình có gây được chút hiệu ứng nào không. Giờ mình muốn đến thăm Riccardi và Greenfield.
- Trời đất, Jerry, nếu cậu muốn nắm áo Greenfield, cậu phải có một cái gì đó chắc chắn trong tay đã!
- Mình cũng không muốn bị bỏng tay đâu. Trước khi nói chuyện với ông ta, mình sẽ nói chuyện thêm một lần nữa với Kellin. Cậu có sắp xếp được không?
- Mình cũng muốn hỏi anh ấy vài câu đây. Bao giờ thì cậu về tới đây?
- Khoản năm giờ. Cho mình biết địa điểm.
- Được thôi. Nhưng mà cẩn thận đấy!
- Cho tới lúc đó mình sẽ làm việc với Dom Riccardi, - tôi nói. Trong khuôn bếp của quán cà phê có ai đó vừa đập cặp khay nướng bánh làm bằng nhôm xuống nền đất.
- Ai kia? – Phil thét lên.
- Riccardi. Riccardi! – Tôi gầm trở lại.
Lần này tôi nói quá to, vì cái tiếng loảng xoảng kia đã bất chợt ngưng lại. Bất giác, tôi giật mình nhìn quanh. Nhưng chẳng một ai nhận thấy tôi vừa nói ra cái tên của một tay trùm gangster ngày xưa thét ra lửa, kẻ đã từ ngôi nhà dưỡng lão quay trở lại đường phố và thêm một lần nữa đem theo cái chết.
Demenico Riccardi ngồi trong ban công của tòa biệt thự cao, người quấn chăn, giơ gương mặt già nua hướng về phía vầng mặt trời mùa thu nhợt nhạt.
Riccardi yêu bức tranh đang trải ra trước mặt mình, từ tầm cao của căn hộ sang trọng này. Những mái nhà bằng kính của tòa nhà Liên Hiệp Quốc óng ánh màu xanh lục như thành của một bể cá khổng lồ. Làn nước của dòng East River lóng lánh lạnh lùng như băng giá. Nếu đưa ánh mắt dõi dọc theo những khoảng hở của các đại lộ về hướng Nam, Riccardi nhiều khi có thể nhìn thấy cả khu Staten Island.
Ngày trước, khi chưa bị những tòa tháp óng ánh màu bạc của Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế che mất tầm nhìn, người ngồi ở đây thậm chí có thể nhìn thấy cả bức tượng Thần Tự Do. Dù là rất nhỏ, nhưng hình ảnh đó đã chưa bao giờ ra khỏi trí não Riccardi, kể từ khi nhìn thấy bức tượng đó lần đầu tiên, cách đây đã trên 60 năm, từ boong một con tàu chở dân nhập cư. Ngày đó cha ông ta đã cầm trong tay ông ta, và hai cha con bồi hồi đứng ngắm biểu tượng của tự do và tinh thần hành động.
Người đàn ông không quay về khi đằng sau ông ta vang lên tiếng bước chân khe khẽ. Đó là Sal, người đang bước ra ban công và đặt máy điện thoại lên đùi Riccardi. Sal Bartoli, giờ cũng đã trên 50 tuổi, không hề rời Riccardi nửa bước kể từ 30 năm nay.
- Las Vegas, thưa ông Riccardi, - Sal nói. Không một tiếng động, người hầu thân tín lại rút lui.
Dom Riccardi rút một cánh tay ra khỏi lần chăn đắp, cầm lấy ống nghe điện thoại. Làm da phủ giống như một lớp giấy dó trên khúc xương tay gầy guộc.
- Hallo, - người đàn ông nói khe khẽ, giọng nông.
- Ông khỏe không, Dom? - Một giọng nói xa xôi hỏi thăm.
- Phải anh không, Sonny?
- Dĩ nhiên rồi, Dom. Trong tuần tới, ủy ban xây dựng sẽ cho đấu thầu hợp đồng của đoạn đường thứ hai thuộc xa lộ Bay-Ridge. Theo những nguồn thông tin tin cẩn của tôi thì người thắng cuộc trong vụ này sẽ là một liên doanh của ba hãng nằm trong quyền kiểm soát của tôi. Như thế có nghĩ là có việc phải làm, Dom! Trong những ngày tới, tôi sẽ nhận được tên của các thanh tra được cơ quan kiểm soát ngành xây dựng chỉ định. Ta phải kéo họ đứng về phía ta.
Tôi không tham gia, - Riccardi nói.
Sonny Galano cười. – Thôi nào, Dom, bọn ta là một cặp bài trùng ăn ý mà.
- Anh là một thằng lưu manh cò con khốn nạn, Galano. Vào thời trước, người của tôi sẽ treo anh lên bằng hai ngón tay cái, cho tới khi bê-tông cứng lại dưới chân anh….
- Tôi sẽ gửi một chuyển thư. Sáng sớm ngày mai anh ta sẽ đến chỗ ông. Với năm ngàn. Tạm thế cũng đủ rồi.
- Tôi không muốn nhận của bố thí, Galano. Tôi rút tất cả người của tôi về. Chuyện kết thúc rồi. Để đám chính trị gia hay những thứ người khác của anh thử làm việc bẩn thỉu đi!
- Ông đâu có thể đột nhiên xuống tàu, Dom!
Tôi có thể, Galano. Và còn điều nữa, đồ ăn mày bẩn thỉu. Từ bây giờ thì anh nên cẩn thận! Một ngày nọ tôi sẽ gửi một người liên lạc đến chỗ anh. Không phải hôm nay hay ngày mai, nhưng nhanh thôi. Anh biết là tôi có một người liên lạc rất tốt.
Sonny Galano cười vô tư. – Ông đâu còn tiền để thuê sát thủ, Dom.
- Anh sẽ không bao giờ biết là lòng chung thủy, nghĩa tình và tình bạn có ý nghĩa gì. Tôi đã biến anh ta thành người giàu có. Anh ta biết anh ta nợ tôi những gì.
- Đây không thể là kết luận cuối cùng của ông được, Dom! Ông nghe này! Ta hãy bàn bạc về chuyện đó!
- Muộn rồi, Galano.
- Tự tôi sẽ đến.Với toàn bộ số cổ phiếu.
Dom Riccardi chần chừ. Ánh mắt của ông ta vuốt về hướng Nam. Chưa bao giờ ông ta thấy Manhattan đẹp như bây giờ. Tòa biệt thự trên cao này, Sal, cô y tá và vị bác sĩ, một vài cận vệ, chiếc xe hạng sang và ngôi nhà ven biển ở Long Island, tất cả tốn chừng 200 ngàn đô – la mỗi năm. Nếu bây giờ có rút ra toàn bộ số tiền còn rút được, ông ta cũng chỉ nhận được tròn 150 ngàn. Tất cả những thứ khác đã bị nạn lạm phát ngốn sạch. Ông ta đã đặt tất cả niềm tin vào đồng đô – la và đã mất tất cả. Chỉ còn lại phần đầu tư ở Las Vegas, mà số tiền đó lại bị một con chó cong đuôi đểu giả như Galano lấy mất.
150 ngàn đô – la. Chẳng đủ cho một năm tồi tệ. Người đàn ông già nua hoàn toàn không có ý định bỏ tòa biệt thự trên cao này mà vào sống trong một nhà dưỡng lão. Hoặc là còn tệ hơn nữa; sống bám vào cô con gái ở Italia. Thà chết đi còn hơn. Suy nghĩ đến cái chết đã từ lâu không còn khiến cho ông ta sợ hãi. Một thằng lưu manh nhãi ranh như Sonny Galano chắc chắn không thể tưởng tượng ra chuyện đó.
- Bây giờ sao rồi, Dom? Ta tiếp tục thương thuyết nhé? Tôi sẽ đến chỗ ông. Trưa ngày mai nhé? Tôi sẽ mang cổ phiếu đi theo. Ta tạm thời như thế này, ngày mai một nửa, còn một nửa sau khi dự án Bay – Ridge được thực hiện.
Dom Riccardi thoáng nhắm mắt. Người đàn ông hiểu ra rằng Galano rồi sẽ tiếp tục nhũng nhẵng bắt ông chờ đợi như một thằng tống tiền cỏn con nhờn nhụa.
- Anh mang cho tôi số cổ phiếu! Sau đó chúng ta nói chuyện. – Dom Riccardi đặt máy.
Sal bước ra ban công rồi cầm máy điện thoại lên. – Ông Cotton muốn nói chuyện với ngài, ông Riccardi. Ông ấy đợi bên dưới sảnh.
- Cotton? Cotton? Tôi có quen không?
- Ông ấy là một sĩ quan đặc nhiệm.
- Anh ta đến một mình sao? – Riccardi hỏi. Khi Sal gật đầu, người đàn ông ra lệnh: - Gửi anh ta lên đây và ở gần bên tôi.
Dom Riccardi đã lùn đi khá nhiều kể từ lần gặp cuối, nhưng vẻ cứng rắn và nét tinh ranh thì không hề giảm sút, tôi nhận ngay ra điều đó.
Tại sao tôi lại đến gặp gã? Tôi không có trong tay bất cứ một thứ gì chống lại gã, và tôi cũng sẽ không xoay ra được bất cứ thứ gì. Nhưng đã nhiều lần tôi hích được cho một sự kiện nổ ra, sau khi trực diện đến khuấy đảo những kẻ tham gia và nói thẳng cho chúng biết là tôi đang bám theo chúng, rằng tôi đang nghi ngờ điều gì đó.
Thỉnh thoảng, những kẻ trong cuộc trở nên thận trọng hơn.
Một lần khác, chúng lại coi hành động của tôi là một lời khiêu khích và ra tay phản ứng tùy theo tính khí bản thân, nhiều khi phản ứng với bạo lực. Đã nhiều lần tôi dùng cách này đẩy cho tốc độ một vụ án tăng lên. Phía đối diện phạm sai lầm khi chúng bất ngờ bị đẩy đến những hành động không lên kế hoạch trước.
- Tôi biết người ta đang chơi một trò đểu giả đến mức nào với ông, ông Riccardi, - tôi nói sau một vài câu chào hỏi vô nghĩa. – Tìm ra chuyện đó chẳng khó đâu.
Trên gương mặt đã quắt queo, những nếp nhăn lại chuyển động khi người đàn ông già nua mỉm cười. – Anh biết gì không, anh biết tại sao không bao giờ anh đưa được vào lỗ, Mr. Cotton? Không biết hả? Vì tôi chưa một lần trong đời bị mắt lòe. Vì thế.
- Nhưng thay vào đó thì ông đã mắc bẫy một tên lừa đảo, ông Riccardi. Tình hình bây giờ đã thay đổi. Ngày hôm nay bọn lưu manh làm việc với cuốn sách luật trong một tay và bàn phím máy tính trong tay kia. Và chỉ những khi bắt buộc phải mó tay vào những chuyện bẩn thỉu, người ta mới đi kiếm một vài gã ngốc không thức thời.
- Tôi cũng chẳng bao giờ để người khác khiêu khích mình, - Riccardi thân thiện mỉm cười. – Nhưng dù sao anh cũng đã khiến cho tôi tò mò đấy.
- Tôi chỉ muốn khuyên ông xuống tàu đi, ông Riccardi. Ông không nhìn thấy lại được xấp cổ phiếu của ông đâu. Chắc là ông cũng đã rõ như thế, ông vốn là một con cáo già.
Hai làn môi của người đàn ông đối diện với tôi đột ngột đổi màu xám như giấy. Đúng thế, tôi đã bắn trúng hồng tâm, nhờ tin tức từ người bạn tuyệt vời xứ Las Vegas của anh bạn già Neville.
- Trong một chừng mực nhất định, tôi đến gặp ông hôm nay trong tư cách cá nhân, ông Riccardi, - tôi nói tiếp, tự tin hơn một chút, bởi tôi cảm giác mình đang bước trên đất chắc. – Tôi không có quyền đưa ra một lời đề nghị hoặc hứa hẹn điều gì với ông. Nhưng tôi sẽ sẵn sàng đóng vai người môi giới cho ông, nếu ông muốn nói điều gì với ủy viên công tố liên bang. Vì lý do tuổi tác, tôi đoán thế, chắc sẽ không bao giờ người ta đưa ông vào tù nữa đâu. Mà chúng tôi cũng không nhắm tới ông, chúng tôi nhắm tới gã đàn ông ở Las Vegas.
Cặp môi người đàn ông bây giờ đã bớt nhợt nhạt, và những nếp nhăn trên gương mặt quắt queo kia lại chuyển động. – Ngày trước anh đã dùng chính cách này để thúc ép đám người của tôi, đúng không? Đã tìm cách khích cho họ chống lại tôi, đã hứa hẹn với họ là sẽ không phải ngồi tù, hứa hẹn với họ một sự tồn tại mới mẻ và chắc chắn. Toàn trò dớ dẩn. Người của tôi luôn luôn trung thành với tôi. Hôm nay vẫn thế.
Ông ta nói đúng. Chỉ riêng Lucky Falcone đã buông ra vài lời bóng gió. Mà chẳng phải bởi anh ta căm thù người đàn ông cao tuổi này, mà bởi anh ta bây giờ có quá nhiều thứ để mà mất.
- Ông biết là ở Las Vegas có một gã đàn ông, gã ta chẳn thèm quan tâm liệu các công trình xây dựng ở đây có bị sụp đổ và đè chết người! Hậu quả chỉ xuất hiện sau một quãng thời gian dài. Riccardi, Ông cũng là người New York! Chẳng lẽ ông cứ ngồi yên nhìn bọn Las Vegas cướp bóc thành phố này và thậm chí đóng góp vào sự hủy diệt nó? – Tôi trỏ tay qua khoảng không gian phía bên ngoài lan can về phía Nam, nơi những tòa nhà chọc trời của khu Downtown đang vươn cao dưới bầu trời mùa thu trong sáng. – Đây cũng là thành phố của ông!
- Thành phố điên khùng này rồi sẽ tự hủy diệt nó, - Riccardi lẩm bẩm. – Nhưng mà anh có lý. Nếu nói về New York, thì tôi là kẻ đa cảm. Mặc dầu vậy, anh không bao giờ có thể đẩy tôi đến nói chuyện với một ủy viên công tố liêng bang. Trong bất cứ trường hợp nào, không, ông Cotton, không, tôi rất tiếc.
Lời khuyên bố mang màu sắc chung cuộc. Tôi biết thế. Từ hai con mắt trống rỗng, người đàn ông già nua nhìn ngang qua mặt tôi. Đúng lúc tôi muốn xoay người và bước đi, thì ông gật đầu gọi tôi lại gần.
- Ông đưa tôi vào trong! – Ông ta ra lệnh.
Cái ghế ông ta ngồi có bánh xe. Sal, cận vệ của Riccardi, mở cánh cửa kéo.
Thế rồi tay trùm gangster già nua nói ra một điều bất ngờ:
- Anh có lý... Người ta đã lừa dối, người ta muốn lấy hết của tôi, nhưng không kẻ nào có thể lừa đảo một người như Domenico Riccardi rồi tiếp tục làm ăn mà không bị trừng phạt. Tôi già rồi, nhưng tôi chưa thối rữa. Rất có thể tôi sẽ cho anh một cơ hội, anh bạn trẻ, có thể. Nếu sáng mai tôi gọi cho anh, thì anh phải tới đây ngay, không đặt câu hỏi nào. Giờ anh đi đi, anh đi đi ...
Khi hai chuỗi ảnh cảnh sát ghi hình Donna Hayes, tên khai sinh là Donna Van Pelt, bí danh là Cora Dixon, cùng tay người tình cũ Brad Nelford của cô ta xuất hiện trên màn hình của máy nhận ảnh đường dài, Phil đã ngay lập tức chuyển chúng vào phòng thí nghiệm, yêu cầu nhân bản và đưa hai tá ảnh vào cuộc điều tra. Các cảnh sát viên, các thanh tra và các sĩ quan đặc nhiệm sẽ mang ảnh nay đi hỏi tất cả những người có khả năng nắm thông tin trong các hãng hàng không, các khách sạn và tất cả những nơi nào hứa hẹn.
Dĩ nhiên, phần quan trọng nhất được Phil dành cho bản thân mình. Đầu tiên, anh đến Gotham Apartment Service, chính cái cơ sở bất động sản đang cho thuê những căn hộ ở Phố Số 79 khu Đông. Phil đã hẹn trước với một nhân viên tên là O’ Malley. Cái tên O’Malley được viết trong bản hợp đồng thuê nhà mà ban trọng án đã tìm thấy trong căn hộ của Cora Dixon, tức Donna Hayes. O’Malley đã hứa sẽ giúp đỡ Phil trong mọi phương diện và tập hợp một danh sách tất cả những người thuê nhà đã chuyển vào hay chuyển ra trong tám tuần vừa qua.
O’Malley là một chàng trai còn trẻ, nét mặt thân thiện nhưng nhợt nhạt. Mất bình tĩnh, anh ta cứ đưa tay sờ nắn cặp kính đeo trong khi đưa Phil vào phòng khách.
- Tôi có thể mời ông uống được gì không? Cà phê?
- Không, cám ơn, ông O’Malley, tôi muốn chúng ta vào việc ngay.
O’Malley gật đầu và mở ra một cặp hồ sơ. – Đây là bản sao các hợp đồng thuê nhà mà ông đã yêu cầu tôi lọc ra, ông Decker, - anh nói. - Tổng số có 34 hợp đồng. Nhưng để bảo vệ quyền lợi cho hãng chúng tôi, Gotham Apartment Service, cũng như để bảo vệ quyền lợi cho những người thuê nhà, chắc tôi có thể yêu cầu ông đảm bảo tính kín đáo khi điều tra.
- Dĩ nhiên, ông O’Malley. – Phil nói và đút tập hồ sơ vào cặp mình. Sau đó, anh đặt ảnh Donna Hayes lên bàn. Những tấm ảnh này mới được chụp cách đây chừng bốn tuần, và mặc dù đã được chuyển qua đường số hóa, trông chúng vẫn rất rõ nét.
- Đây có phải là người đàn bà đã xưng danh Cora Dixon và mướn căn hộ ở tầng tám? – Phil hỏi.
Anh cho câu hỏi của mình chỉ là động tác bắt buộc theo thủ tục, chẳng mấy hứa hẹn. O’Malley cúi người xuống bên những tấm ảnh, đưa tay sửa kính, rồi ngồi thẳng lên và bối rối nhìn Phil.
- Không, thưa ông, tôi chưa bao giờ nhìn thấy người đàn bà này, - anh quả quyết. – Tôi xin lỗi!
- Anh không cần phải xin lỗi đâu, - Phil đáp như tự động, khẽ nghiến răng. Vụ án này rõ ràng đang chậm nhưng mà chắc trở thành một trò chơi hóa trang không thể giải đáp. O’Malley khăng khăng bảo vệ lời khai của anh. Cả khi Phil đặt lên bàn ảnh của Brad Nelford, chàng nhân viên cũng khẳng định chưa bao giờ nhìn thấy người đó trong đời.
Còn lời miêu tả của O’Malley về người phụ nữ đã ký bản hợp đồng thuê nhà kia lại rất mù mờ, chung chung. Điều này không nhất thiết chứng tỏ O’Malley thiếu khả năng quan sát, mà đúng hơn là kết quả của sự tinh ranh mà phía đối diện lộ rõ trong mọi bước hành động.
Phil ghi lại rằng người đàn bà đó có mái tóc thẫm màu, để xõa, rằng chị ta khoảng ngoài 30 tuổi và ăn mặc tương đối bảo thủ. À phải, chị ta có đeo kính nữa. Đấy là tất cả những gì mà nhân viên của hãng Gotham nhớ được. Một hình ảnh phụ nữ hết sức bình thường, có thể nhầm lẫn với hàng trăm ngàn người khác...
- Người đàn bà đó khai tên tuổi ra sao? – Phil hỏi.
O’Malley đỏ mặt. – Tôi đã e ngại sẽ có câu hỏi này, - anh ta đau buồn thú nhận. – Cô ta đặt lên bàn một tấm thẻ lái xe miền Arizona. Thẻ lái xe xứ Arizone không có dán ảnh, chắc là ông cũng biết. Cô ta cũng có cầm trong tay một thẻ tín dụng có tên Cora Dixon. Nhưng cô ta nói là cô ta muốn trả tiền nhà bằng séc.
- Vậy ra cô ta đã điền vào tấm séc? – Phil hỏi, đầy hy vọng.
- Không, thưa ông, cho tháng đầu cô ấy muốn trả bằng tiền mặt, vì cô ấy tiện thể đang ở chỗ tôi. Tôi thấy không có lý do gì để khăng khăng bắt cô ấy trả bằng séc hoặc bằng thẻ tín dụng, thưa ông.
- Thế còn tiền nhà cho tháng này, - Phil hỏi.
O’Malley đỏ mặt lần nữa. – Nó chưa được trả, thưa ông. Hôm nay mới là ngày mồng 8. Chúng tôi chỉ gửi giấy cảnh báo vào khoảng giữa ngày mồng 9 và ngày 11 trong mỗi tháng.
Vậy là không thể mong đợi gì hơn ở đây. Phil được biết là trong trò chơi này có một người phụ nữ thứ ba. Vậy người đã chết trong căn hộ bên Phố Số 79 thật sự là ai? Người duy nhất có thể trả lời câu hỏi này một cách trôi chảy có lẽ chỉ là Brad Nelford. Và Phil thầm nghĩ trong bụng, anh cũng đã biết cần phải bắt đầu từ đâu nếu muốn tìm gã đàn ông đó.
Brad Nelford giật mình khỏi giấc ngủ chập chờn khi chuông điện thoại kêu. Gã vẫn chưa làm quen được với căn hộ xa lạ này. Gã đã kéo mành mành xuống, vì khó ngủ nêế có ánh nắng hắt vào trong. Chỉ thời gian ngồi ở nhà ngục điều tra vừa rồi mới bắt được gã quen với chuyện ngủ dưới đèn điện.
Gã lăn người ra khỏi chiếc ghế sofa và bước trên nền thảm trải rất dày, rất mềm mại. Toàn bộ căn hộ này sao được trang trí theo kiểu ẩm ướt, ấm áp. Giống như một cái tổ uyên đương ngấm ngầm, ngay từ đầu gã đã nghĩ như vậy.
Gã cầm ống nghe lên, không hoàn toàn ý thức là gã đang đeo găng tay. Gã không được phép để ở lại đây một dấu tay nào.
- Hallo? – Gã hỏi thận trọng.
- Anh thấy trong người thế nào, anh Ndlford? - Giọng phía bên kia hỏi thăm.
Nelford tin chắc là gã chưa bao giờ nghe thấy giọng người này. Đó không phải gã đàn ông xứ Las Vegas đã đẩy gã đi tìm dấu vết Donna.
- Tôi thấy trong người thế nào hả? Giống như một con chuột biết chắc chắn là con mèo đang chở ngoài lỗ.
- Không có lý do gì để phải lo lắng như thế đâu, Ndlford, - Kẻ gọi tới sẵng giọng. – Tôi đâu thể đoán trước được bước phát triển này, đúng không?
- Trời đất ơi, ông nghe chứ! Anh ta là thanh tra! Anh ta có súng!
- Súng anh ta phải nộp rồi. Và anh ta không hề biết là có người muốn lấy mạng anh ta. Ngoài ra, anh ta không quen chiến đấu.
- Thế làm sao mà tôi có thể… có thể…
- Giết anh ta?
- Đúng, làm cách nào? Bằng tay trần chắc? Mà là một thanh tra? Tôi đâu có súng, và tôi không biết phải xoay làm sao ra một khẩu súng trong cái thành phố khốn nạn này!
- Anh có nhìn thấy lò sưởi không? Có nhìn thấy tấm đậy bên trên.
Nelford đưa mắt nhìn quanh. Lò sưởi to rộng, và người ta không thể không nhìn thấy tấm đậy bằng sắt đúc. – Có, - gã nói.
- Rất dễ đẩy tấm đậy đó lên. Bên dưới có một hộc rỗng. Trong hộc rỗng có một chiếc két sắt nhỏ. Két sắt không bị khóa. Trong đó anh sẽ tìm thấy một khẩu súng lục. Anh biết sử dụng súng chứ?
- Dĩ nhiên.
- Hãy rút súng ra và đặt vào đó chìa khóa căn hộ cùng chìa khóa cửa nhà! Anh sẽ không cần tới chúng nữa. Khi Kellin đã bị xử lý xong, một tiếng đồng hồ sau đó anh sẽ nhận được một bì thư bên quầy thông tin của hãng Hàng không Quốc Tế tại sda6n bay Kennedy, dưới yên Bradley. Trong bì thư anh sẽ tìm thấy một hộ chiếu thật và đủ tiền. Bây giờ thế nào, Ndlford?
Gã biết rằng gã đã thua cuộc, đã mất hết. Họ nắm gã trong tay. Gã chẳng có tiền mà cũng không có giấy tờ, và bởi gã không quen bất kỳ một người nào trong đám họ, họ có thể lật mặt gã bất cứ lúc nào. Gã đàn ông cắn chặt xuống môi. Gã không muốn giết người nữa.
Gã đã biết chồng của Donna vì bị con đàn bà đó bỏ bùa mê, bị nó thúc cho phát điên lên. Sau đó gã giết Donna, vì ả đã bỏ rơi gã và muốn hủy diệt gã. Chính ả đã biến gã thành một con thú hoang.
Gã cố nén tiếng thở dài khi nghĩ lại cảnh gã kéo con đàn bà đó vào phòng tắm rồi ra tay đánh đập trong một cơn thịnh nộ bệnh hoạn…
- Tôi không biết liệu tôi có tìm được anh ta không, - gã nghe thấy bản thân mình lên tiếng. Qua đó gã đã phát tín hiệu, cho biết gã sẵn sàng nhượng bộ.
Nhưng thật ra gã đâu có muốn…
- Tôi thấy rồi, anh là người khôn ngoan, Nelford. Anh nghe cho thật kỹ đây, mọi chuyện rất đơn giản…
Đúng lúc tôi ngồi vào xe thì ngọn đèn của dàn máy điện đàm bắt đầu nhấp nháy. Tôi xưng danh bằng mã số.
- Kênh 4, - Phil nói ngắn.
Tôi chuyển kênh. - Cậu có kết quả gì không? – Tôi hỏi.
- Mình nghĩ là có. Chúng ta gặp nhau như đã hẹn trước vào lúc năm giờ. Mình không muốn đưa địa chỉ này qua điện đàm. Hoặc gọi cho trung tâm trực đi, hoặc gọi trực tiếp cho anh bạn của chúng ta!
- Rõ.
- Có thể mình đến muộn một chút. Trung tâm biết hoạt động của mình.
- Hiểu, hết. – Tôi lại bước xuống xe và quay trở lại phần đại sảnh của ngôi nhà có biệt thự trên cao của Dom Riccardi ở tầng sát mái. Bên dưới đại sảnh có tới hai tá máy điện thoại công cộng. Tôi gọi cho trung tâm trực FBI và gặp được George Baker.
- Phil có để lại tin cho mình, - tôi nói.
- Đúng thế. Các cậu gặp nhau vào lúc năm giờ trong căn hộ của Michael Kellin ở Phố Số 7, khu Đông, sát quảng trường Tompkins.
- Tốt, Phil bây giờ ở đâu?
- Số 388 Phố Số 79, khu Đông. Hỏi chuyện người gác cửa.
Vậy ra Phil muốn cho Randy xem ảnh Donna Hayes và Brad Ndlford.
Tôi nhìn xuống đồng hồ. Bây giờ là 4 giờ kém 9 phút. Thời gian quá ngắn, chẳng bõ công cho tôi quay trở lại văn phòng. Những gì tôi định làm ở đó, có thể nhở George Baker thực hiện.
- Mình đã nói chuyện với Aldina và Riccardi, - tôi nói. – Mình muốn Aldina từ bây giờ trở đi phải được canh chừng suốt ngày đêm.
George Baker thở dài. – Cho việc này mình cần ít nhất ba nhóm mỗi ca! Lấy đâu ra người đây hả?
- Rồi cậu sẽ xoay xở được mà, - tôi quả quyết. - Giờ mình đi ngay đến quảng trường Tompkins đây.
- Ghi nhận. Xong việc thì nghỉ ngơi lấy chút đi!
Randy Edwards, người gác của ngôi nhà 388 Phố Số 79 khu Đông, nhanh nhảu chạy ra ngoài khi Phil cho chiếc xe công vụ dừng bánh và bước xuống xe.
- Ông không được đỗ ở đây! – Anh ta kêu lên.
Phil chìa thẻ. – Ta đi vào trong một chút chứ?
- Kể từ khi vụ việc với cô Dixon xảy ra, tôi không còn được yên lấy một phút, - Randy than thở. - Mời ông!
Anh ta mở cửa ngoài ra rồi mở đến cửa trong, dẫn Phil vào một căn phòng nhỏ, được dùng làm cabin gác. Trên một bàn điều khiển có để hai máy điện thoại cùng nhiều hàng số và hàng đèn nhỏ li ti, một trong những hàng đèn đó chỉ vị trí hiện thời của thang máy.
Đầu tiên, Phil chỉ cho anh ta xem ảnh của Donna Hayes, tức Cora Dixon. – Anh biết người phụ nữ này không? – Anh quan sát thật chăm chú gương mặt người gác cửa.
- Đó là cô Dixon. Rõ ràng là như thế, thưa ông.
Phil không biết liệu anh có nên cảm thấy nhẹ nhàng hay không sau khi đã được O’Malley cho biết về sự tồn tại của một người đàn bà thứ ba. Tên sát nhân đã hủy hoại gương mặt của nạn nhân đến hầu như không thể nhận ra, chắc chắn điều này phải có lý do. Có thể là sự căm hận và cơn thịnh nộ điên khùng. Hoặc thủ phạm hy vọng sẽ trì hoãn được một khoảng thời gian nhỏ, bằng cách ngáng trở tiến trình nhận diện. Cả hai khả năng này đểu trỏ tới Brad Ndlford. Nhưng động cơ chính của gã là việc loại trừ nữ nhân chứng buộc tội duy nhất, người có thể đưa gã vào nhà tù. Giờ Nelford chắc chắn đã trốn đi. Hoặc gã đã kịp kiếm cho mình một lý do vắng mặt.
Phil đặt xấp ảnh Nelford lên trên bàn.
- Anh đã bao giờ nhìn thấy người đàn ông này chưa?
Randy Edwards chỉ cần nhìn những tấm ảnh một thoáng.
- Có chứ, dĩ nhiên. Quý ông này sống trong nhà này. – Randy ngẩng lên, và bởi Phil không thể che giấu được sự ngạc nhiên của mình, người gác thêm vào, hơi có chút thiếu tự tin: - Tôi tin là thế, thưa ông.
- Chính xác là gì? Anh ta sống ở đây? Hay anh ta không sống ở đây?
- Tôi không biết tên tất cả những người thuê nhà, thưa ông, thậm chí kể cả nét mặt cũng không. Có những người thuê nhà không sống thường xuyên ở đây. Ví dụ chúng tôi có một người bán hàng xứ Milwaukee, cứ hai tuần anh ta mới về New York. Đối với anh ta thì thuê một căn hộ ở đây rẻ tiền hơn là…
- Được rồi, ông Edwards. Vậy ra ông không biết người đàn ông này tên thế nào. Tôi đoán là ông cũng không biết anh ta sống ở căn hộ nào. Lần cuối ông nhìn thấy anh ta là lúc nào?
- Cách đây 15 phút…
Bất giác, Phil đưa mắt nhìn quanh, thang máy vừa đậu xuống đại sảnh và có ba người đàn ông trẻ tuổi bước ra ngoài.
- Ông ấy bỏ đi rồi, thưa ông. Ông ấy thậm chí cầm theo cả túi du lịch.
Xui quá, Phil nghĩ thầm. 15 phút đồng hồ cho một tay giết người.
- Giờ ta bắt đầu lại từ đầu. Ông nhìn thấy người đàn ông này lần đầu tiên là vào lúc nào? Ông có nói chuyện với anh ta không? Anh ta có xe ô tô không?
- Không, thưa ông, Ông ấy đi taxi. Tôi nhìn thấy ông lần đầu tiên vào buổi trưa ngày hôm qua. Ông ấy đi thẳng vào trong đại sảnh này. Ông ấy dĩ nhiên có chìa khóa và ngay lập tức bước về phía thang máy. Vì tôi chưa nhìn thấy ông ấy bao giờ, nên tôi đã chạy ra khỏi phòng. Tôi chỉ chào ông ấy thôi, vì không muốn ra mặt hỏi han thô lỗ, ông hiểu không? Có thể ông ấy đã sống ở đây lâu rồi và tôi chưa gặp vì ông ấy đến và đi vào những lúc tôi không trực. Nhưng mà ông ấy chỉ chào lại một câu và không nói thêm chút nào. Lúc đó tôi đã nhìn lên bảng điện.
Brandy Edwards chỉ vào hàng đèn nhỏ nhỏ, mỗi ngọn đèn tượng trưng cho một tầng nhà. – Ông ấy đi lên tầng sáu. Ban nãy trước khi ông ấy xuống, tôi cũng nhìn thấy thang máy đầu tiên được gọi lên tầng sáu.
Phil đang để danh sách bản sao các hợp đồng thuê nhà trong xe. Anh chạy ra ngoài và cầm cặp hồ sơ vào. Cùng với Randy Edward, anh soát lại từng hợp đồng.
Trong tầng sáu có 9 căn hộ, tất cả đều có người thuê. Hai trong số đó vừa được thuê trong vòng 8 tuần gần đây. Một căn được thuê cách đây hai tuần, một căn cách đây 7 tuần. Tên người thuê nhà chẳng gợi cho Edward nhớ tới điều gì.
- Ông có nhìn thấy anh ta vào ngày hôm qua hay hôm nay một lần nữa không? Dĩ nhiên là trừ lần vừa rồi?
- Không, - Randy trả lời chắc chắn.
Ra gã đàn ông đó đã tìm cách lọt vào một căn hộ khác, và ngồi ở đó chờ cơ hội. Sau khi phạm tội, gã lại trốn vào trong đó. Khi các thành viên ban trọng án đi từ căn hộ này sàng căn hộ khác để hỏi han những người thuê nhà, gã đã để yên cho họ bấm chuông mà không mở cửa.
Phil sẽ phải trao đổi thêm với Hobson. Nhưng chuyện này có thể xếp lại sau. Việc quan trọng hơn cả là yêu cầu truy nã Brad Nelford. Rất có thể gã đang trên đường đến một sân bay. Hoặc đến một bến xe buýt. Nhờ vào tấm ảnh của cảnh sát Los Angeles, giờ họ đã có một cơ hội để tóm gã trai. Hiện gã vẫn còn cảm thấy an toàn, bởi báo chí và đài truyền hình chưa hề để lộ tiếng rằng cảnh sát đã nhận diện được người bị giết.
- Tôi gọi điện được không? – Phil hỏi.
- Được chứ. Đây, ông sử dụng máy này! Vừa chọn số của trung tâm trực FBI, Phil vừa hỏi Randy: - Ông có gọi hộ Taxi cho người đàn ông đó không?
- Không. Ngay ở góc phố kia có một bến đậu taxi. Chỉ cần vẫy tay là xe lại. Ông ta chẳng nhở và gì tôi cả.
- Tại bến đỗ đằng kia luôn là một nhóm taxi cố định chứ?
- Vào ban ngày thì đa phần là cùng một nhóm. Tôi có quen một số người. – Randy cười. – Có cần tôi đi nghe ngóng không?
Phil mỉm cười. – Không, cám ơn. - Rất có thể Nelford đang trên đường đi. Rất có thể một bạn đồng nghiệp quá sốt sắng sẽ gọi cho gã qua máy điện đàm, cho gã biết là FBI muốn nói chuyện với gã.
Qua điện thoại, Phil yêu cầu trung tâm ra lệnh truy nã Nelford. – Mình sẽ gọi lại ngay và báo chi tiết cụ thể, - anh nói với George Baker.
- Được, mình cho chiến dịch bắt đầu ngay, - George đáp.
Phil đi tới bến đỗ taxi, trong bến giờ chỉ còn hai xe. Anh chìa thẻ và hỏi hai người lái xem họ có nhìn thấy một bạn đồng nghiệp của họ nhận một người khách từ ngôi nhà nằm chênh chếch bên kia phố. Cả hai người lái taxi, một người da trắng béo phị và một người da đen trẻ tuổi hơn, đưa mắt nhìn nhau.
- Cách đây khoảng 20 phút, ông nói thế phải không? - Người béo phị nhún vai. – Lúc đó tôi chưa có ở đây.
- Còn ông? – Phil nhìn người da màu. Chiếc taxi của anh ta đang đứng ở vị trí đầu.
- Có thể tôi đã nhìn thấy một người. Lúc đó tôi vừa tới đây. Nhưng tôi không biết đó là ai. Tôi không biết cái xe taxi đó. Nó không thuộc nhóm bọn tôi ở đây. Có thể ông nên hỏi Đại úy Velasquez. Lúc đó anh ta cũng đứng ở đây. Đại úy biết mặt tất cả những tay lái taxi trong vùng.
- Ông có thể gọi cho anh ấy qua máy điện đàm không?
- Để tôi làm, - người béo phị sốt sắng nhận lời, vì anh da màu vừa nhận khách. Người đàn ông tên là Engelbert Hansen.
Hansen tìm cách gọi điện cho Đại úy. Chuyện không dễ dàng, vì hai người thuộc hai hãng taxi khác nhau. Nhưng một lúc, Hansen cười rộng miệng.
- Nếu ông đi vào trong quán rượu kia, thưa ông, Đại úy sẽ gọi điện cho ông. Được không?
- Cám ơn nhiều, - Phil nói và cất bước. Bây giờ đã là 4 giờ 30. Nếu muốn đến quảng trường Tompkins đúng giờ, anh sắp phải lên xe rồi.
Đúng lúc anh bước tới cũng là lúc chuông điện thoại treo bên cửa ra vào đổ chuông. Phil cầm ống nghe lên.
- Ông có phải là viên sĩ quan đặc nhiệm? - Đại úy velasquez hỏi.
- Tôi đây, ông Velasquez. Trước đây khoảng chừng 20 hoặc 25 phút, ông có nhìn thấy một bạn đồng nghiệp trong bến đỗ taxi ở đây nhận một vị khách từ Phố Số 79?
- Một gã tóc đỏ với cái mặt ác ác?
- Tóc đỏ thì đúng. Nhưng mà mặt góc cạnh thì đúng hơn. Nhưng tôi đoán là hai chúng ta cùng nói một ý.
- Tôi có nhìn thấy. Chris Storey chở gã ta. Nhưng ông đừng hỏi tôi là chở đi đâu. Chris lái xe cho Garage Brown’s. Số của doanh nghiệp này có trong niên giám.
- Cám ơn, - Phil nói. – Ông vừa giúp tôi nhiều lắm. – Anh tìm số của Garage Brown’s và gặp được một người trực điện thoại có giọng nói rất hốt hoảng ở đầu dây bên kia, người đầu tiên không thể tin nổi là anh ta đang phải nói chuyện với một viên sĩ quan đặc nhiệm và khăng khăng đòi gọi điện cho văn phòng FBI. Vất vả lắm Phil mới thuyết phục được người đàn ông nghe cho hết lời đề nghị của anh, trước khi gọi điện tới văn phòng.
- Các ông vẫn giữ liên hệ với những người lái taxi qua điện đàm, đúng không?
- Dĩ nhiên là chúng tôi giữ liên hệ.
- Những người lái có báo cáo về trung tâm khi nhận khách?
- Thỉnh thoảng họ mới làm điều đó. Ví dụ như ban đêm, khi họ đi trong những khu phố vắng. Giờ này thì không.
- Ông có một người lái tên là Chris Storey?
- Dĩ nhiên là chúng tôi có. Ông muốn gì ở anh ta?
- Ông có thể dùng điện đàm yêu cầu anh ta gọi về chỗ ông, nếu hiện thời anh ta không chở khách?
- Dĩ nhiên là tôi có thể… nhưng mà tôi không biết…
- Ông đừng nói cho anh ta biết là FBI muốn nói chuyện với anh ta. Chuyện này quan trọng, ông hiểu không? Hãy yêu cầu anh ta gọi đến văn phòng FBI và hỏi sĩ quan đặc nhiệm George Baker. Liệu ông có thể làm được điều đó không?
- Tôi cứ nghĩ ông tên là Decker?
- Dĩ nhiên là tôi tên thế, - Phil nhại lại người đàn ông, ca1iti1nh thận trọng của anh ta thật ra rất đáng khen, mặc dù vậy bây giờ nó khiến Phil muốn nổi điên. Dấu vết Brad Nelford hiện thời vẫn còn nóng, và cứ mỗi một phút trôi qua là nó lại nguội đi thêm một chút. – Làm ơn vội lên cho! – Anh thúc hối. – Nhưng ông đứng nói gì qua điện đàm cả!
- Tôi hiểu rồi. Chris đang chở một tay khách nặng ký.
- Tôi thấy rồi, ông đoán ra mọi việc nhanh lắm, - Phil nói. Anh dập máy xuống rồi thả nó ra ngay lập tức và gọi về trung tâm FBI. Chào George! Sắp tới đây sẽ có một chàng trai tên là Chris Storey gọi tới. Storey là lái xe taxi. Trước đây khoảng 20 phút anh ta đã nhận tay Brad Nelford lên xe tại Phố Số 79 khu Đông. Hãy thúc người lái xe nói ra anh ta đã đưa vị khách đó xuống đâu, rồi sau đó chuyền thông tin sang cho chiến dịch truy nã!
- Được, - George nói. – Mình đoán là bây giờ cậu sẽ đến quảng trường Tomhkins ngay.
- Dĩ nhiên là mình làm điều đó, - Phil nói. Anh đặt máy, chạy ra ngoài tới chiếc xe công vụ và ngay lập tức lăn bánh về hướng nam.
Khi anh còn cách đích chẳng mấy xa thì máy điện đàm lên tiếng. Giọng George Baker thật ra nghe vẫn bình thường như mọi khi. Chỉ những ai thân với anh thật lâu như Phil mới có thể nhận ra nét thúc hối.
- Gọi cho mình qua điện thoại! – George Baker nói.
Phil lúc đó đang đứng trong một hàng chờ dài ngoằng ngoẵng trước đèn giao thông bên Đại Lộ Số Một. Cách đấy vài bước chân có một cabin điện thoại công cộng đứng bên một điểm đậu xe buýt. Phil ập ngọn đèn cảnh sát cùng chân hút của nó lên nóc ô tô rồi bạo liệt thúc cái xe chồm lên vỉa hè. Chỉ vài tích tắc sau anh đã nói chuyện với George Baker qua đường dây.
- Người lái taxi vừa gọi tới, - George nói. – Anh ta đưa vị khách đó xuống quảng trường Tompkins.
Michael Kellin vẫn để nguyên lần xích bảo an bên trong khi mở hé cửa ra. – Ô, ra là anh, Jerry. Mời anh vào đây! – Anh tháo xích sắt.
- Tôi đến hơi sớm chút, - tôi nói. – Tôi hy vọng không làm phiền anh. Phil Decker có thể đến muộn hơn.
- Tôi rất mừng là anh đến đây, - Kellin nói, giọng của người vừa trút được một gánh nặng. – Anh ngồi xuống đi! Tôi chỉ đi pha cà phê chút thôi. Hay anh muốn uống thứ gì khác?
- Cà-phê là ổn rồi, - tôi nói và tìm một chỗ ngồi bên cửa sổ. Căn hộ được bày biện theo hướng nhấn mạnh tính đàn ông, không có những đồ trang trí rườm rà bình thường. Dưới nền phòng đặt vài tấm thảm nhỏ bằng lông thú. Trên tường treo những tấm ảnh phóng to, tôi biết đây là anh Kellin tự chụp. Đa phần ảnh chụp máy bay và người đang nhảy dù. Một vài bức ảnh chắc mới được chụp gần đây. Chúng chỉ ra một chàng Kellin trên tấm ván trượt sóng, giữa mặt biển đang nổi bão. Vậy là anh lại vừa có thêm một nỗi ham mê mới, kể từ đợt công tác trước của hai chúng tôi.
Khi có tiếng chuông reo bên cửa, tôi nhìn xuyên qua khoảng tường hở về phía căn bếp, nơi Kellin đang loay hoay với nước sôi.
- Chắc là Phil Decker, - anh nói. – Anh làm ơn mở cửa cho anh ấy vào nhé?
Mặc dù có thoáng chút ngạc nhiên sao Phil lại có thể đến nhanh tới thế, nhưng tôi cũng chẳng suy nghĩ nhiều. Chắc là anh không gặp được anh gác Randy và đã quay xe trở về Midtown ngay lập tức.
Tôi đứng dậy, bước ra phía cửa. Tôi cũng đoán là Phil đã lên thẳng trên này, giống như tôi. Vậy là tôi mở cửa căn hộ.
Tôi nhìn vào một gương mặt lạ, không phải mặt Phil. Thế rồi từ khoảng sáng mờ mờ của hành lang có một nắm đấm lao vọt tới. Tôi chỉ kịp giật đầu sang trái vài centimet. Như thế chưa đủ. Những khúc xương rất cứng đâm sượt quanh cằm tôi và như muốn dứt tai tôi ra. Thế rồi mép cửa đập thẳng vào đầu tôi, và tôi lảo đảo va vào tường.
Ngay trong tích tắc sau đó kẻ lạ mặt đã nhao vào căn hộ của Kellin. Cửa sập vào ổ. Tôi cảm nhận rõ một cánh tay xiết ngang cổ họng và một nòng súng lục thúc mạnh vào thái dương tôi.
- Tôi rất tiếc, anh bạn, tiếc thật đấy. Nhưng Donna không mang lại may mắn cho cả hai chúng ta… Quên nó đi…
Quên nó đi! Một lời dối lừa trắng trợn. Bởi chính trong phút đó, Brad Nelford kéo cần khóa của khẩu súng lục ra phía sau.
Phil có cảm giác lạnh đến từng đầu ngón tay. Tai anh chợt ù đi khi anh hiểu ra ý nghĩa của thông tin mà George Baker vừa chuyển tới.
Brad Nelford đi về phía quảng trường Tompkins. Đã rõ là gã muốn tới thăm ai, và cũng đã rõ là gã sẽ thêm vào vệt đi đẫm máu của gã một dấu chân đẫm máu nữa.
Bởi Chris Storey, người lái xe taxi, đã đưa vị khách của anh ta xuống đúng góc công viên bên Phố Số 7. Chỉ một vài bước chân thôi là đến ngôi nhà nơi Michael Kellin đang sống.
- Mình sẽ gửi một nhóm đến, - George Baker nói, người dĩ nhiên cũng rút ra một kết luận như Phil.
- Tốt, -Phil nói. – Nhưng mình vào trước.
- Phil …
- Đừng nói nữa, khốn kiếp! Thằng đó không chần chừ chút nào đâu. Chần chừ làm gì? Kellin không có vũ khí và hoàn toàn không ngờ đến điều gì. Jerry hoặc đã có mặt rồi, hoặc sẽ tới mà không hề đề phòng gì cả. Người duy nhất có thể làm được chút gì bây giờ là tôi!
- Mình có thể gọi cho Kellin dưới một cái cớ nào đó.
- Dưới cớ nào?
- Bất kỳ thứ gì. Một câu hỏi để thẫm tra. Mình có thể tự xưng là bạn hay là phóng viên. Chỉ nhằm mục đích khuấy đảo tên sát thủ, cầm tay nó lại Nhưng đó là quyết định của cậu.
- Được. Hãy xưng là nhân viên của cơ quan anh ấy và nói rằng sẽ có ngay một người mang thư tới.
Phil ném ống nghe xuống giá. Rồi anh co cẳng chạy hết tốc lực, để xe đứng tại chỗ. Từ đây cho tới góc phố Số 7 bên quảng trường Tompkins chỉ có duy nhất một dãy nhà. Dù có bật cả đèn đỏ lẫn còi hú lên, ô tô cũng không thể đưa anh tiến nhanh hơn chạy bộ.
Tiếng Click sắc sói khi khóa an toàn được giật về vang lên thật to trong tai tôi. Nhưng không thể để kẻ khác găm một viên chì vào não bộ tôi dễ dàng tới thế. Thời gian quá gấp. Tên sát thủ có vẻ cương quyết không chịu sa vào bất kỳ cuộc tranh luận nào.
Tôi gắng buông người rơi xuống, nhưng cánh tay của gã kia siết ngang cần cổ tôi như một vành đai sắt. Bàn tay phải của tôi lúc đó đã đặt trên báng súng, nhưng cơ thể Nelford áp sát phía sau và tôi không xoay người được. Những gì được viết lại ở đây gây ấn tượng như những cân nhắc lâu dài, trong sự thật chỉ là những suy nghĩ xuyên qua não bộ nhanh như chớp.
Không thể buông người rơi xuống.
La hét cũng không được ích gì, vì gã trai kia đang xiết cho tôi muốn ngộp thở.
Chỉ còn lại khuỷu tay.
Tôi thúc khuỷu tay về phía sau và đồng thời cong gập lưng xuống. Người Nelford dài hơn tôi tưởng. Chân gã vẫn bám đất. Nhưng dù sao tôi cũng nghe thấy một hơi thở rít ngang tai mình. Tôi vừa làm gã đau.
Nhưng đầu nòng súng lục chỉ rời ra khỏi thái dương tôi một thoáng.
Giờ nó lại thúc vào chỗ cũ.
Chính trong lúc đó, chuông điện thoại reo lên.
Nó kêu tương đối to. Kellin là người ngủ say, đã có lần anh kể cho tôi nghe như thế. Vì thế mà anh đặt nấc chuông to hơn người khác.
Tiếng chuông kêu có lẽ chẳng đủ sức đánh lạc hướng tên sát thủ khỏi mục đích của gã. Nhưng mà Kellin, người hoàn toàn chưa biết tới sự kiện bên cánh cửa, từ trong bếp gọi vọng ra thật lớn: - Để tôi nhấc máy, Jerry!
Tôi cảm nhận rõ gã đàn ông sau lưng tôi hơi đờ người ra vì bất ngờ.
Bởi gã đang xiết chặt cần cổ và qua đó ngăn không cho tôi trụt người xuống, nên tôi tung một cú đá hậu mạnh hết sức mình.
Một cú đá trời giáng, được sinh ra từ cơn tự vệ thuần túy.
Cảm giác đau đột ngột khiến tên giết người đờ đẫn mất một phần giây đồng hồ. Tôi thúc khuỷu tay lần nữa vào bụng hắn. Giờ thì tôi có thể buông người thụt xuống.
Từng tế bào trên cơ thể tôi như cảm nhận được tiếng nổ khi Nelford cong ngón tay theo phản xạ và lửa cùng đạn chì vọt ra từ nòng súng. Viên đạn cùng khối thuốc nổ bị cháy khiến tóc tôi kêu lách tách. Viên đạn đập vào một mảng kim loại đứng chênh chếch, biến dạng, trở thành mảng xuyên ngang vào một khuôn giá gỗ để mở, đập nát một loạt cốc cổ vô giá, vốn do một người tình cũ tặng cho Michael Kellin.
Kellin, người vừa bước từ trong bếp ra với một bình cà phê nóng trong tay, xoay phắt về. Chuông điện thoại vẫn reo.
Tôi đập mình xuống nền phòng. Tư thế của tôi bây giờ chẳng lấy gì làm hào hùng, nhưng tôi vẫn sống.
Brad Nelford nhảy qua người tôi về phía Kellin. Gã giơ súng. Kellin phản xạ tuyệt vời. Anh ném ngay bình cà phê vào tên sát nhân.
Chuyển động đó phải được gọi là tuyệt vời từ hướng nhìn của Kellin, vì bình cà phê bằng thủy tinh đập đúng vào đầu Nelford. Nhưng rồi nó rơi xuống đất. Lúc đó nó mới võ ra, và cà-phê nóng rẫy bắn tóe ra bốn hướng. Tôi chỉ kịp đưa hai cánh tay lên che đầu thì thứ nước bỏng rẫy đã xuyên qua lần áo veston.
Hai tiếng súng trầm đục trong căn phòng thúc cho tôi nhảy dậy. Nelford bắn về phía Kellin, anh lúc này đã lao là là bay trở lại căn bếp, tìm nơi ẩn nấp.
Nelford nhảy theo. Chắc gã tin đã xử lý xong tôi, bởi tôi thật sự đã thỉu xuống nền đất trong cánh tay hắn đúng vào thời điểm gã bóp cò.
Không một tiếng động, tôi đứng dậy. Chỉ sau một bước dài tôi đã đến sát lưng Nelford. Tôi nhìn thấy gã giơ súng lên ngắm vào Kellin, anh lúc này không còn chỗ trú nữa. Chỉ còn khả năng phanh cấp tốc. Nelford cảm nhận sự có mặt của tôi. Nhưng khi gã xoay về thì đã quá muộn, tôi không kịp giảm bớt lực của bàn tay đang đập xuống.
Báng súng lục của tôi đập trúng thái dương gã. Brad Nelford gục xuống như một con bò mộng bị chặt ngang chân. Tôi đá vào khẩu súng vừa rơi khỏi tay gã. Khẩu súng tròng trành trượt về phía Kellin, anh nhặt nó lên.
Chuông điện thoại vẫn tiếp tục reo. Vì nó đang ở trong vòng tay với của tôi, nên tôi nhấc ống nghe lên.
- Ông Kellin, - một giọng nói vang lên trong ống nghe, - tôi gọi tới theo lệnh của ủy viên công tố…
Tôi nhăn trán. Rồi tôi nói: - George, đồ lưu manh cáo già nhà cậu, cậu giở trò giả nghề giả nghiệp từ bao giờ thế hả?
- Jerry? Jerry, phải cậu không? Cậu nói được không?
- Được chứ!
- Nghe ngày! Brad Nelford vừa cho xe đưa tới quảng trường Tompkins. Có thể gã muốn giết Kellin. Phil cũng đang trên đường…
- Im đã nào! – Tôi cắt lời bạn tôi, người đang hối hả chuyển thông tin. - Lẽ ra cậu phải gọi sớm hơn hai phút mới phải.
- Như thế có nghĩa là gì? – George hỏi.
- Nelford đang nằm dưới chân bọn mình đây. Mike Kellin đang quan tâm tới gã và sẽ có thể nói ngay liệu gã có cần bác sĩ hay không.
Kellin nhìn tôi. - Bị rách da, nhưng vết thương không sâu, gã sẽ tỉnh lại thôi. Tôi nghĩ là bác sĩ có thể chạy chữa cho gã sau, lúc đã vào phòng giam.
- Cậu nghe rõ chưa, George? Bọn mình sẽ đưa nó vào lỗ.
- Bao giờ các cậu cũng tiến trước mình một nửa bước. À mà phải, suýt nữa mình quên tin tốt – Phil sẽ tới ngay đấy.
- Cái đó cậu nói rồi.
- Thế hả? Mình thậm chí còn cử cả một nhóm tác chiến lên đường rồi.
- Gọi họ trở lại đi, và ra lệnh ngưng truy nã Nelford. Người dân trả thuế sẽ cám ơn cậu vì phong cách tiết kiệm đấy. Mình sẽ gọi lại sau.
Kellin dựng thân hình của gã Brad Nelford đang còn đờ đẫn lên cao rồi khuân gã vào một chiếc ghế bành. Tôi ném còng tay của mình về phía anh rồi đi ra cửa, vì chuông vừa reo.
Khi cơn sốc sau vụ đánh úp của Nelford đã có phần dịu xuống, tôi không đành lòng bỏ lỡ một trò vui.
- Ai thế? – Tôi giả giọng hỏi qua cánh cửa đóng kín.
- Tên tôi là Decker! – Phil nói lớn. – Tôi là người đưa thư của văn phòng ủy viên công tố. Tôi phải đưa một lá thư cho ông.
Tôi mở cửa và cười với Phil, anh đang đứng bên ngoài trong tư thế rất căng thẳng, sẵn sàng nhao vào một cuộc vật lộn.
Tôi bước sang bên, cho Phil nhìn thấy cái thân người đang lả xuống trong ghế bành.
Phil thở phì ra. - Cậu chả bao giờ để lại cho người khác một chút gì, - anh than vãn.
Chúng tôi còn kịp nghỉ ngơi một chút. Kellin băng bó sơ sài cho Nelford và đun một bình cà phê mới. Thậm chí trên bàn có cả bánh Sandwich. Tôi dán xuống sau tai mình một tiếng băng mới. Cái áo veston thấm đẫm cà phê của tôi được treo trên tay ghế. Tôi quan sát Brad Nelford, gã bây giờ đang ngồi chồm hổm trong ghế bành và nức nở không biết ngượng.
Khi gã tỉnh lại, tôi đã nói cho gã biết về quyền lợi của gã. Tôi nhắc cho gã biết là gã bị nghi đã giết chết Donna Hayes và bị bắt giam. Rồi tôi mời gã khả năng được đưa ngay lập tức vào nhà tù điều tra của liêng bang, để cho bác sĩ nơi đó khám xét kỹ lưỡng hơn.
Mike Kellin đã chăm sóc đôi chút cho vết thương trên đầu tên sát thủ, nhưng Nelford tỏ ý đồng tình với mọi đề nghị mà chúng tôi đưa ra.
Kể từ đó, gã cứ ngồi nức nở một mình mãi không thôi.
Gã nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần câu thề thốt rằng gã không muốn giết ai. Gã không muốn giết chồng của Donna. Gã không muốn đánh chết Donna. Và Kellin, người gã không hề quen biết, gã lại càng không muốn giết.
Gã đàn ông bây giờ quả thật là một tấn tuồng thảm thiết.
Dĩ nhiên, chúng tôi tận dụng cơ hội để lọc ra mọi thứ thông tin mà gã biết, sau khi gã đã khẳng định là gã không yêu cầu phải có luật sư.
Gã kể về chuyến viếng thăm bất ngờ của tay luật sư Frank Sorino, kẻ đã đưa gã ra nhà tù điều tra chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ với một món tiền chuộc lớn. Sorino đã thúc hối rằng gã chỉ được an toàn nếu Donna không bao giờ còn ló mặt ra. Sau một hồi chần chừ giả bộ, gã luật sư sau đó đã để lộ cho gã biết địa điểm dừng chân hiện thời của Donna cùng cái tên giả của cô ta và trao cho gã một vé máy bay về New York cùng một sấp tiền.
- Và anh không hề hỏi tiền đó ở đâu mà ra? – Mike Kellin hỏi với vẻ ngạc nhiên
- Có, dĩ nhiên tôi muốn biết. Ông ta nói, tôi có bạn bè ở Las Vegas, nhưng họ không muốn lộ danh.
Brad Nelford quả thật có quan hệ với Las Vegas. Nelford tự xưng là diễn viên, chắc chắn đó là một lời phóng đại. Gã đã có thời gian làm công nhân cho một trường quay ở Hollywood, và đã tham gia trong một vài bộ phim trong tư cách diễn viên quần chúng, sau đó thậm chí trong tư cách người đóng thế trong những pha mạo hiểm. Vì không có cơ hội nhận được những vai diễn ra hồn mặc dù đã có học chút ít về diễn xuất và thanh nhạc, sau đó gã bỏ về Las Vegas. Người ở đó cũng không coi gã là một diễn viên tài năng, vậy là gã hát và làm trò trong những bar rượu hạng ba. Chính trong thời gian đó gã đã gặp lại tại Los Angeles.
Nelford cố gắng tìm từ ngữ, nhưng không biết phải miêu tả mối liên quan ra sao.
- Vậy là anh bay về New York, - Phil giúp hắn.
- Vâng, vâng.
- Anh đã dừng chân trong một căn hộ khác, - Phil nói. – Làm thế nào anh có được căn hộ đó?
- Cái đó là do Sorino sắp xếp, - Nelford nói lý nhí, hầu như không hiểu nổi.
- Sao kia? Gã bay cùng anh hả?
- Không, không. Ngay sau khi máy bay hạ cánh tại New York, tôi được loa gọi tên. Có một cú điện thoại chờ sẵn.
- Có phải đó là một cú điện thoại địa phương?
- Không. Chúng tôi bị trung tâm nối máy ngắt hai lần.
- Tiếp tục! – Phil thúc hối.
- Người đàn ông đó nói là tôi sẽ tìm thấy một bì thư bên quầy của Hãng Hàng Không Quốc Tế, trong bì thư có chứa ba chìa khóa. Sau đó ông ta dặn dò tôi rất kỹ, chìa khóa đó dành cho ngôi nhà nào và những căn hộ nào.
- Nói ra đi, mấy chiếc chìa khóa đó là của những ổ khóa nào? – Phil hỏi, tay đút vào cặp rút ra một danh sách.
- Ông biết rồi còn gì, - Nelford lý nhí.
- Chúng tôi muốn nghe anh nói. Thật chính xác.
- Một chìa khóa cho cửa vào nhà số 388 Phố Số 79 khu Đông, một căn hộ của Cora, và chiếc chìa khóa thứ ba cho căn hộ 6E.
Phil nhìn trong danh sách. – Căn hộ này đã được một cô Muriel Hull thuê từ ba năm nay. Ở đây không có dữ liệu chi tiết hơn.
- Căn hộ đó không có người ở thường trực, - Nelford trầm giọng nói.
Sau khi đã trao đổi bằng ánh mắt với Kellin, tôi gọi cho George Baker và yêu cầu anh tìm thông tin về một cô Muriel Hull. George hứa sẽ gọi trở lại, tôi đặt máy.
Brad Nelford đã bình tĩnh lại một chút. Chúng tôi hỏi gã làm thế nào mà gã nẩy ra sáng kiến muốn giết chết Mike Kellin. Gã kể về kẻ gọi điện tới, nhưng đó không phải là kẻ đã gọi tới phi trường và nói chuyện với gã ở đó.
Cái đó tôi cũng không tin lấy một giây đồng hồ. Bởi Mike Kellin không phải là vấn đề của gã đàn ông Las Vegas. Nếu có chăng nữa, cũng chỉ là vấn đề hạng hai.
Tôi xem xét khẩu súng mà Nelford đã tìm thấy trong hốc giấu ngầm tại căn hộ kia. Đó là một khẩu Ruger P38 còn mới. Chúng tôi sẽ lần ngược con đường của món vũ khí này. Nhưng tôi tin chắc là con đường đó sẽ dẫn vào một ngõ cụt.
Mike Kellin rót cà phê. Bàn tay Nelford không còn run bần bật như ban nãy nữa. Tôi tháo còng cho bàn tay trái, để gã uống được đôi chút. Bàn tay phải bị tôi còng vào lưng ghế. Phil và tôi trao đổi thông tin. Rồi chúng tôi hỏi Kellin về những chi tiết còn thiếu. Nhất là anh ấy đã quen Cora Donna bằng cách nào, bao giờ và có thể là qua ai?
Giống như tất cả những người đang yêu, anh có thể miêu tả lại cuộc gặp gỡ đầu tới từng chi tiết nhỏ nhất. Nhưng vì chúng tôi chẳng mấy quan tâm đến khía cạnh lãng mạng, nên anh chỉ nêu những dữ liệu chính.
- Tôi là thành viên của một câu lạc bộ lái máy bay thể thao tại Freeport, khu Long island. Tôi cũng làm chủ một phần của một chiếc máy bay ở đó. Cách đây đúng bốn tuần, chúng tôi mở tiệc kỷ niệm hàng năm trong mùa thu. Lúc đó cô ấy…
- Cô ấy là thành viên sao?
- Không, dĩ nhiên là không. Lúc đó cô ấy mới đến New York được vài ngày. Cô ấy đến dự tiệc cùng một nhiếp ảnh gia. Ít nhất thì cô ấy cũng khẳng định như thế. Và vì cô ấy thích bữa tiệc đó, nên cô ấy đã ở lại tham dự.
- Dĩ nhiên là anh không quen nhiếp ảnh gia đó. Và anh cũng không thấy kỳ lạ trước việc cô gái đó lại sán lại gần anh?
Kellin duỗi cằm về phía trước. – Không. Tại sao ngày đó tôi phải nghi ngờ mới được chứ? Trong bữa tiệc có khoảng hai, ba phóng viên nhiếp ảnh của các tờ báo địa phương. Tôi đã mang về cho câu lạc bộ phần lớn những chiến thắng và huy chương. Suốt thời gian đó người ta thay nhau chụp ảnh tôi. Rồi đám nhà báo kéo đi, và Cora ở lại. Cora, chắc bây giờ tôi phải sửa lại là Donna, kể với tôi rằng cô ấy quan tâm đến thời trang và nhiếp ảnh, và muốn làm việc độc lập trong hai ngành đó. Chuyện có ấy quen các nhiếp ảnh gia cũng là điều dễ hiểu!
- Được, - tôi nói, bởi tôi không chờ đợi điều gì khác. – Greenfield có vô tình là thành viên trong câu lạc bộ đó không?
- Không …
- Ông ta có biết là buổi tối hôm đó anh sẽ có mặt ở chỗ đó không?
- Có. Trong thời gian đó tôi phải trực và luôn phải báo trước mỗi khi đi đâu khác.
Greenfield, Greenfield!
Chuông điện thoại réo lên. Kellin cầm ống nghe và đưa nó sang cho tôi. Đầu dây bên kia là George Baker.
- Trong kho ngân hàng dữ liệu không có thông tin nào về Muriel Hull. Tên cô ta có đứng trong ngôi nhà số 388, Phố Số 79 khu Đông trong niêm giám điện thoại. Nhưng cũng chỉ có thế thôi. Mình đã gọi điện đến hãng điện thoại hỏi xem số máy đó được trả tiền theo đường nào. Tiền được chuyển qua bưu điện. Người gửi tiền Muriel Hull.
Tôi cám ơn rồi đặt máy. Trầm ngâm, tôi tiếp tục ngắm nghía cái máy điện thoại. Máy điện thoại này có một cặp tai nghe cùng. Tôi nghĩ đến kẻ lạ mặt đã gọi điện cho Nelford, và nghĩ đến chuyện tôi muốn tới thăm Greenfield. Rất có thể giờ vẫn còn kịp cho chúng tôi thúc bách ngài ủy viên công tố thêm một chút. Tôi hỏi số của Kellin, yêu cầu anh và Phil im lặng rồi ra hiệu cho Nelford chụp tai nghe cùng lên đầu. Rồi tôi gọi số.
Đầu tiên, tôi va phải thái độ cấm cảu của Laura Oliphant. Chỉ sau khi tôi sắc giọng đòi hỏi, cô ta mới nói với ông Greenfield được miêu tả là bận bịu ngoài sức tưởng tượng.
- Vâng, ông Cotton, - cái giọng the thé của Greenfield vang lên. – Tôi đã có thể thống nhất được với sếp của anh là các anh không tiếp tục can thiệp vào chuyện riêng của tôi nữa.
- Có một vài việc thuộc diện liên bang, có phần nào liên quan đến khu vực của ông, và tôi nghĩ chỉ cần một cuộc nói chuyện ngắn cũng có thể mang lại kết luận rõ ràng, thưa ông, - tôi nói. Rồi tôi ném ra một khúc xương, một khúc xương mà chắc chắn ông ta sẽ phải ngoạm lấy, dù ông ta có là một con chó cong đuôi hay là không. – Có một vài dấu vết rõ ràng dẫn về hướng Las Vegas, và rõ ràng nằm trong lĩnh vực điều tra của FBI. Tôi thật chẳng hiểu tại sao Kellin ngày trước lại không để ý đến những dấu vết này.
Greenfield im lặng một thoáng. Chắc ông ta muốn gây ấn tượng là ông ta đang lật lật trong quyển lịch của mình. Rồi ông ta hỏi: - Bao giờ thì anh muốn tới đây?
- Tốt nhất là ngay lập tức. Điều đó có nghĩa là nửa tiếng nữa.
- Anh chờ đã, vậy thì tôi phải hoãn một cuộc hẹn khác. Đến 6 giờ 30 thì tốt hơn.
Đối với tôi như thế cũng thuận lợi, vì qua đó tôi có nhiều thời gian hơn cho một vài động tác chuẩn bị. Tôi chấp nhận thời điểm rồi đặt máy. Trong suốt cuộc nói chuyện, tôi đã gắng chủ ý không nhìn Brad Nelford. Khi bây giờ xoay về, tôi nhận được câu trả lời.
Nelford gật đầu. – Chính là ông ta, - gã nói khẽ.
- Greenfield! – Kellin nghiến răng, - Đồ chó đểu! Ra chính gã đã đẩy tay này, - anh trỏ về phía Nelford, - Đi giết Cora và tôi! Phải gã làm điều đó không?
- Đầu tiên, chắc người ta chỉ định đẩy người đàn bà đó tới bên anh để chuẩn bị sẵn một sợi dây thòng lọng, phòng dùng đến trong một thời điểm thích hợp.
Suy cho cùng, cô ta đã bị bắt giam vì tội giết người rồi sau đó bị truy nã về tội xúi giục giết người. Người ta có thể hủy hoại uy tín của anh bất cứ lúc nào. Nhưng sau đó anh đã tiến quá nhanh, và người ta quyết định chọn một giải pháp mạnh tay hơn, cụ thể là vụ tấn công ở khách sạn Atlantis. Khi vụ đó thất bại, người ta không thể ngay lập tức tổ chức một vụ thứ hai. Bọn người ở Las Vegas sau đó đã cùng Greenfield nghĩ ra câu chuyện phức tạp với Nelford và Donna. Ngay cả khi nỗi nghi ngờ chống lại anh, Mike, không thể đứng vững, thì muộn nhất là đến ngày mai tất cả mọi người cũng sẽ chính thức được biết là anh đã che giấu cho một người đàn bà bị truy nã.
Đó là những dòng suy nghĩ điên khùng, xuất phát từ nỗi tuyệt vọng. Nhưng mọi dữ liệu đều rất khớp với nhau.
Tôi nói tiếp:
- Nhưng rồi sau đó Greenfield biết là chúng ta đã hiểu sát thủ thật sự là kẻ nào và thậm chí còn đang truy nã hắn. Ở vị trí của mình, gã thừa sức biết tên những kẻ đang bị truy nã. Gã biết Nelford đang ở đâu, gã có thể ép tay này lên đường thêm một lần nữa và giết người thêm một lẩn nữa. Nếu Nelford bắn chết được anh, trông nó sẽ giống một cuộc báo thù. Dù người ta có tóm được hắn đi chăng nữa, cũng sẽ chẳng một ai tin lời khai của Nelford về những người lạ mặt đã dùng điện thoại điều khiển gã đi giết người. Rất có thể rồi đến một thời điểm thích hợp, phía bên kia sẽ cho người loại trừ hắn. Chắc là qua một vụ tai nạn được dàn dựng. Và những hồ sơ về vụ án Donna và David Hayes cũng như vụ án Mike Kellin sẽ được khóa lại.
Phil lắc đầu. – Mình hoàn toàn không nhìn thấy một bằng chứng nào đủ sức đứng vững trước tòa.
- Mình cũng chưa thấy, - tôi dịu giọng đáp. – Nhưng mà dù sao, cũng là điểm tốt nếu người ta biết chính xác đối thủ của mình là ai, đúng không? - Một sự thật quá hiển nhiên, không còn thêm thắt gì được. Phil im lặng.
Dĩ nhiên, bản thân tôi cũng nhận ra những vấn đề mà chúng tôi phải đối mặt một khi muốn chứng minh sự tham gia trầm trọng, kể cả việc xúi giục giết người. Tôi vẫn chưa quên Mario Aldina, kẻ mà tôi nghi là thủ phạm đã giết chết Elmar Rank.
Chúng tôi chỉ có thể dẫn bọn đàn ông đó ra tòa, nếu chúng tôi đẩy được bọn chúng tới bước đường cùng, thúc cho chúng hành động thiếu cân nhắc trong tuyệt vọng, hay còn tốt hơn nữa là tóm quả tang chúng tại hiện trường.
Những khả năng hiện giờ còn đang quẩn quanh trong óc não tôi vừa ngoắt ngoéo mà vừa không chắc chắn.
Tôi xoay sang phía Nelford: - Ra anh đã kể chìa khóa của căn hộ 6E và 8C vào chỗ dấu ngầm bên lò sưởi. Người ta đã ra lệnh cho anh không để lại dấu vết nào trong căn hộ. Vì thế mà anh thậm chí đã găng tay suốt thời gian đó. Tôi đoán rằng người thuê nhà có thể sợ là bọn tôi sẽ tìm được ra dấu vết của họ một khi chúng tôi bắt đầu tìm kiếm ở đó. Ý anh sao, Nelford?
- Cái đó tôi không biết. Trong căn hộ không có đồ vật gì riêng tư. Chỉ có một vài két rượu sâm banh và thức ăn trong tủ lạnh.
Chắc chắn là trong căn hộ đó bây giờ đang đầy rẫy dấu vân tay của người sử dụng. Vì thế mà kẻ thuê nhà không thể mạo hiểm để bị nhận diện, nếu không người ta sẽ suy ra mối liên quan giữa gã và tay giết người. Bởi kẻ thuê căn hộ 6E, dù là đàn ông hay đàn bà, cũng chính là kẻ đã thuê căn hộ cho Donna Hayse và cho làm thêm chìa khóa.
- Phil, hãy gọi gọi O’Malley và yêu cầu anh ta gửi chìa khóa chính lại chỗ anh gác nhà Randy Edwards.
- Cậu không muốn…
- Chắc chắn bây giờ mình đáng được nghỉ ngơi một chút rồi. Mà nghỉ ngơi trong căn hộ bí hiểm của một cô nàng bí hiểm có tên là Muriel Hull cũng hay như ở những nơi khác thôi. M.H.., như nữ điệp viên nổi tiếng Mata Hari. – Nói xong, tôi cười. Nhưng Phil không cười. – Thôi nào, làm gì mà ra mặt nghiêm trọng thế. Chắc chúng nó không ngay lập tức gửi thêm một sát thủ nữa đâu! Bọn mình sẽ giữ liên lạc thường xuyên.
- Chắc chắn rồi. Còn mình thì được hưởng cái vinh dự đưa người này ra chỗ khác hả? – Phil chỉ về Phía Brad Nelford.
- Gọi cho George đi, bảo cho người đến đón gã! Nhưng mà lo lắng sao để hôm nay gã không được tiếp khách. Nãy giờ gã đã biết quá nhiều rồi.
Chúng tôi không còn cách nào khác, bởi chúng tôi không còn thời gian để kiếm một nơi bàn bạc kín đáo hơn.
Đúng 6 giờ 30, tôi bước vào căn phòng trước văn phòng của ủy viên công tố Greenfield. Laura Oliphant lạnh lùng yêu cầu tôi chờ một chút, ông Greenfield hiện đang có một cuộc nói chuyện rất quan trọng qua điện thoại. Vậy là tôi ngồi lên một chiếc ghế cứng quèo và có cơ hội để quan sát bà Oliphant, cô nàng có cái giọng the thé được Mike Kellin gọi là phù thủy.
Laura Oliphant trẻ hơn là tôi tưởng, có thể chỉ ngoài 30, cùng nhất là 35. Cô ta đeo một cặp kính có mắt kính hình ô-van, còn nhấn mạnh hơn nữa cái vẻ ngoài công sở tẻ nhạt. Nếu thân hình cô ta có đường nét hấp dẫn nào thì chúng đều được cô ta giấu kín bên dưới một tà váy len lù đù, vô vị.
Đột ngột, cánh cửa dẫn sang phòng làm việc của Greenfield mở ra, và công tố ủy viên bước thẳng về phía tôi. Ông ta chìa cả hai bàn tay ra và mỉm cười như một chính trị gia đang tiến đến bước cuối cùng trong cuộc chiến tranh cử. Một nụ cười mở rộng và trung thực, nhưng có vẻ hơi gắng sức.
- Ông Cotton! Tôi đã nghe kể rất nhiều về ông, nhưng chưa bao giờ được hưởng thú vui làm việc cùng với ông, mời ông vào đây! Ông muốn uống gì không? Cà phê? Trà? Hay cái gì mạnh hơn?
- Cám ơn, tôi không uống gì cả.
Greenfield trở về phía một chiếc ghế bành bọc da.
Tôi ngồi xuống, ông ta ngồi đối diện với tôi. Trên một chiếc bàn thấp có để xì gà và thuốc lá. Tôi rút một điếu thuốc lá khi Greenfield mời.
- Tôi không chủ đích chống lại ông khi liên lạc với sếp của các ông và than phiền về ông cũng như đồng nghiệp của ông. Đây là chuyện rạch ròi về lãnh vực hoạt động. Nếu người ta không vạch ranh giới rõ ràng ngay từ đầu, người ta sẽ không thể làm việc một cách hiệu quả.
- Với sự đồng ý và phê duyệt của cấp trên, tôi đã quan tâm đến nhiều khía cạnh của các vụ án mà Kellin xử lý, - tôi nói thẳng vào chuyện chính, bỏ qua tất cả những lời dẫn đầu của Greenfield. – Tôi phải nói thật, tôi rất ngạc nhiên. Tôi đã rất nhanh chóng va phải một số tên người. Như đã nói qua điện thoại, tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao Kellin không phát hiện ra chúng. Có thể lý do nằm ở chỗ anh ấy không có được các bộ máy thông tin như của chúng tôi, và vụ ám sát hụt chắc chắn đã đẩy mọi việc tiến nhanh hơn.
- Tôi vẫn chưa nhìn ra lý do khiến cảnh sát liên bang phải quan tâm đến những vụ đó, ông Cotton, - Greenfield vui vẻ nói.
- Chúng tôi nghi thủ phạm đã giết chết Elmar Rank là một tay sát thủ chuyên nghiệp xứ New Jersey. Tay sát thủ này có quan hệ với một người đàn ông tên là Domenica Riccardi bây giờ lại hoạt động tích cực trở lại, cụ thể là hắn cộng tác với một số nhân vật từ Las Vegas, bọn người muốn cuỗm những món tiền rất lớn của thành New York. Mối quan hệ Riccardi với Las Vegas chưa được chúng tôi chứng minh chắc chắn, nhưng chúng tôi đang tiến bước. Chúng tôi là cảnh sát liên bang. – Tôi nhắc nhở ông ta, bằng giọng cũng rất vui vẻ và thân thiện.
- Tất cả chỉ có thế thôi sao? – Greenfield ngạc nhiên hỏi.
- Chưa, chưa hết. Cô Cora Dixon đã bị giết chết, vốn là bạn gái của Kellin, tên thật là Donna Hayes. Trước khi lấy David Hayes, cô ta đã nhảy thoát y và biểu diễn tại Las Vegas. Kẻ giết cô ta, một tay có tên là Brad Nelford, cũng có những mối quan hệ với Las Vegas. Bọn gangster xứ Las Vegas đã dụ gã lên New York để giết chết Donna Hayes và khoác tội giết người đó vào cổ Kellin.
- Tôi có nghe nói gã ta đang bị truy nã, - Greenfield vẫn bình thản.
- Chúng tôi tóm được gã rồi, - tôi nói.
Dĩ nhiên, vừa nói tôi vừa quan sát Greenfield rất chăm chú, nhưng không lộ cho đối phương được biết. Gã đàn ông kiểm chế bản thân rất tốt. Gã không hề để lộ kể cả một nét giật nhỏ nhất trên gương mặt, cho biệt liệu thông điệp vừa rồi có làm gã đau hay không.
- Gã ta muốn giết Kellin. Ông thử tưởng tượng xem! Rất may mà lúc đó tôi đang có mặt trong căn hộ của Kellin. Vì thế mà chúng tôi có thể khuất phục được gã. Gã đã bị thương.
- Kellin?
- Không, Nelford. Tới sáng mai người ta mới có thể hỏi cung gã được. Nhưng dù sao chúng tôi đã nói chuyện được với gã vài ba câu. Tôi đoán rằng gã biết chẳng nhiều. Gã không hề quen biết những người đã thúc gã đi giết Donna Hayes và Mike Kellin. Nhưng ông thử tưởng tượng xem, gã đã sống trong một căn hộ cùng tòa nhà với nạn nhân.
Greenfield lắc đầu, ra vẻ ngạc nhiên rất đạt.
- Gã không muốn công khai cho chúng tôi biết căn hộ đó là căn hộ nào. Nhưng thể nào chúng tôi sẽ tìm ra. Chắc là không khó khăn lắm đâu. Và một khi đã tìm đến đúng căn hộ rồi, chúng tôi cũng sẽ nhận diện được người đã thuê nó. Bởi chắc chắn con người đó đã có lần bị những người khác nhìn thấy. Những người gác cửa vốn là những người tinh mắt. Ngoài ra thể nào ở đó cũng có dấu vân tay.
- Chắc chắn thế. Nhưng ông muốn làm cách nào mà tìm ra nó?
- Ô, việc rất đơn giản mà. Nelford đã nhận được lệnh để lại chìa khóa trong căn hộ đó. Nhưng gã không làm. Gã muốn quay trở lại một lần nữa. Gã còn để lại túi du lịch của gã trong căn hộ. Ít nhất chúng tôi cũng đoán như vậy. Tôi nghĩ, đến sáng sớm ngày mai là chúng tôi có thể xin được giấy phép của tòa án, và dùng chiếc chìa khóa đó thử từng căn hộ trong ngôi nhà, ở tất cả những nơi khi bấm chuông không có người lên tiếng. – Tôi mỉm cười. - Rất ngu, cái nhà đó không ghi số vào chìa khóa.
Greenfield cũng mỉm cười. - Người ta đúng là không thể có được cả ông lẫn bà cùng một lúc, - gã đưa vào một câu phương ngôn chẳng mấy thông minh. - Nếu có thể giúp đỡ ông, ông Cotton, tôi rất sẵn lòng. Đã từ lâu tôi nghi rằng các doanh nghiệp xây dựng lừa đảo ở đây có quan hệ tới các tiểu bang khác. Nhưng tôi đã cố ý tìm cách đào cho tới tận gốc rễ cái ác ở đây. Nhờ vào hoạt động của Kellin, chúng tôi đã có một vài thành công. Dù chỉ là những thành công nhỏ, nhưng cũng còn hơn không. Sau này chúng tôi sẽ tiếp tục lần theo những sợi chỉ đó...
- Những sợi chỉ về Las Vegas, - tôi nói khô khan.
- Đúng, cho tới tận Las Vegas. Nhưng theo như tôi hiểu lời ông vừa nói, thì ông vẫn còn chưa nắm được trong tay những bằng chứng cần thiết.
- Một trong những lý do cho chuyện này là bởi vì trong văn phòng của ông có một lỗ rò rỉ, ông Greenfield.
Hai con mắt màu xám biến thành hai tảng băng lạnh giá. - Nếu ông đã nói với ban nội vụ, chắc ông phải biết rất rõ là người ta đang điều tra theo hướng đó, nhưng vẫn chưa có những điểm tựa cụ thể. Rất có thể Kellin đã tưởng tượng ra một chuyện không có thật.
- Có thể, - tôi đồng tình. – Nhưng chúng tôi hiện đang tiến rất nhanh. Suy cho cùng, chúng tôi đã thúc được một số người tới bước cùng đường.
Greenfield phẩy ta ra vẻ khinh thị. – Đó là những kẻ tay chân cấp dưới, những kẻ chẳng biết gì.
- Cứ mỗi đứa lại dẫn chúng tôi tìm đến đứa khác. Chúng tôi đã có thể chứng minh đó là tay chân của Riccardi. Nếu chúng tôi có thể bẻ gãy được Riccardi, thì gã đàn ông xứ Las Vegas sẽ đứng trắng tay, vô phương kháng cự. Thật ra thì tôi rất lạc quan, thưa ông, - tôi mỉm cười ấm áp với gã ta.
Hai con mắt màu xám của Greenfield xăm xoi tôi một cách lạnh lùng. Người đàn ông này lạnh như tiền. Đột ngột, tôi không tin là mình đủ sức dụ được gã vào bẫy. Bởi gã đâu có phải sợ gì? Người ta đâu có thể chứng minh được điều gì?
Không phải thế, tôi cân nhắc, có lẽ chúng tôi sẽ chứng minh được điều hơn là tôi nghĩ và nhiều hơn là gã ý thức ra. Nếu gã hoặc cô bạn gái của gã đã thuê căn hộ kia, thì gã đã phạm sai lầm nặng nề khi cho một tên sát nhân sử dụng nó. Chắc là cánh Las Vegas đã ép gã phải đưa căn hộ đó ra. Gã sử dụng nó làm tổ uyên ương. Greenfield đã có vợ. Và bởi gã rất có chí tiến thủ trong chính trường, nên chắc chắn gã phải bày được ra trước công luận một cuộc sống gia đình ấm cúng, hoàn hảo. Gã không thể xuất hiện trước công luận cùng một cô bạn gái. Tôi nẩy suy nghĩ rằng có lẽ cả bản thân gã cũng có thể đã bị thúc ép…
- Ông chờ đợi điều gì ở tôi? – Greenfield hỏi và cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi.
- Nếu ông quyết định cộng tác cùng với chúng tôi, ta có thể nhanh chóng cắt mọi mối quan hệ từ đây xuống Las Vegas, - tôi nói.
- Tôi có thể làm được gì?
- Bằng cách bị kín mọi thứ ở đây. Trong một hay hai ngày trời. – Tôi nhìn vào gương mặt vô cảm của Greenfield.
- Tôi phải hiểu điều đó ra sao?
- Tôi không nắm rõ quy trình làm việc trong văn phòng của ông. Nhưng tôi có thể tưởng tượng rằng chừng nào Kellin còn chưa quay trở lại làm việc, ông có thể tạm thời giữ im tất cả các hồ sơ, chặn lại các bước công việc. Một khi gã đàn ông ở Las Vegas không nhận được thông tin nữa và chúng tôi có thể xiết vòng vây quanh Riccardi tới một mức độ nhất định, gã ở Las Vegas sẽ nhanh chóng lộ ra một điểm yếu. Gã đang có việc nóng ở đây, ông Greenfield. Trong tuần sau, thành phố sẽ ký những hợp đồng quan trọng…
- Tôi hiểu, ông Cotton. Ông có thể tin vào tôi.
Đúng 2 giờ sáng, không khí lưu cữu trong căn hộ khiến tôi mỏi mệt.
Đã là lần thứ 20 tôi gắng gượng đứng dậy từ chiếc ghế bành thấp bè cọc vải hoa sặc sỡ và đi đi lại lại vài bước chân. Giờ thì tôi đã quen từng góc trong căn hộ. Nelford chắc chắn đã có lý khi đoán đây là một tổ uyên ương.
Căn hộ là một phòng khách và phòng ngủ kết hợp. Món đồ gỗ lớn nhất ở đây là một chiếc giường hình tròn.
Trong ánh sáng của một ngọn đèn pin được che bớt, tôi đã tìm thấy chỗ giấu ngầm bên lò sưởi và đi tìm tất cả những khả năng hộc giấu khác, có thể chứa chấp một bằng chứng về kẻ thuê nhà. Nhưng không thành công. Chỉ những chiếc chìa khóa mà Nelford đặt trong két sắt theo lệnh của kẻ gọi tới là vẫn còn đây. Giờ chúng đang kêu lanh canh khe khẽ trong túi tôi.
Tôi vươn tay vươn chân. Giá bây giờ được đốt một điếu thuốc lá. Nhưng tôi biết tôi không thể cho phép mình hưởng thụ niềm vui con con đó. Nếu không thì kẻ lạ mặt khi xuất hiện sẽ ngay lập tức phát hiện ra hiện tượng lạ và bỏ đi.
Trong phòng không tối hẳn. Qua những kẽ hở trên mành mành có một chút ánh sáng của những vòm cung đèn cao áp trên Đại Lộ Số Một hắt vào trong. Tôi bước đến bên cửa sổ và nhìn ra ngoài.
Dòng giao thông đã ngưng. Chỉ thỉnh thoảng lắm mới thấy một chiếc xe buýt đơn lẻ xọc xạch chạy qua, hay một chiếc taxi phóng vù vù dọc đại lộ.
Máy bộ đàm trong túi kêu rọt rẹt. Tôi kéo nó ra, đưa lên miệng và ấn vào phím nói.
- Sao? – Tôi hỏi.
- Mình cứ tưởng cậu ngủ, - Phil nói.
- Giá mà ngủ được. – Tôi kiễng trên đầu ngón chân, nhưng vẫn không nhận ra vòm mái của chiếc xe Mercury đang có Phil ngồi bên trong, đậu cách cửa vào chỉ vài bước.
- Vừa có một người đàn ông bước vào nhà. Giờ mình xuống xe và nói chuyện Randy.
Tôi bước đến bên cửa và ép tai vào tấm gỗ. Tôi chỉ nghe thấy tiếng rì rào như trong những lần áp tai trước đó. Lần Phil lên tiếng gần đây nhất đã cách đây 15 phút. Lúc đó có một người phụ nữ đi taxi một mình tới đây. Cô ta đã tự tay mở cửa nhà. Phil đã nói chuyện với Randy sau khi người phụ nữ đó bước vào thang máy. Randy không biết người phụ nữ đó. Dựa vào dãy đèn trên bàn điều khiển, anh ta có thể theo dõi và biết cô ta đi thang máy lên tầng 11.
Giờ đến lượt một người đàn ông xuất hiện. Trên tầng 6 này vẫn chưa có gì động đậy.
Sau một chút, máy bộ đàm lại lên tiếng.
- Báo động sai, - Phil nói. – Randy biết mặt người đàn ông đó. Cậu có thể tiếp tục ngủ.
- Tình hình ở South Organge ra sao? – Tôi hỏi. Vào khoảng giữ đêm Mario Aldina đã bắt đầu chuyển những bông hoa phong lan của gã lên chiếc xe có dàn điều hòa nhiệt độ. Vậy là gã muốn tham dự chợ hoa nửa đêm ở Manhattan. Hoặc gã còn muốn thực hiện cả những vụ làm ăn khác?
- Gã đã lăn bánh cách đây vài phút, - Phil báo cáo. – Gã không đi một mình. Gã có một tay phụ tá.
Chắc đây là chuyện hết sức bình thường. Nhưng sao tôi đột ngột có cảm giác là tất cả mọi thứ có thể sẽ diễn tiến hoàn toàn khác với kế hoạch của chúng tôi.
- Bảo họ bám sát! – Tôi thì thào vào máy.
- Rõ, - Phil khẳng định. – Mình có cần phải mang cho cậu một tách cà phê…
Tôi ấn vào phím nói, cắt ngang lời đề nghị tử tế của Phil. Bởi bên cửa vừa thoáng có tiếng cào rất nhẹ.
Với một bước nhảy câm nín, tôi lao ra phía sau chiếc giường, áp sát mình xuống nền. Có phải Phil đã bị kẻ khác qua mặt? Hay anh để sót mất ai?
Tôi nằm sấp. Nếu không chuyển động, tôi không thể rút khẩu Smith & Wesson mà cũng không thể sờ đến đèn pin. Mà tôi lại không được phép chuyển động, bởi cửa vừa được mở ra.
Một vệt ánh sáng rất nhỏ hắt xuống nền phòng. Cái vệt tối của một dáng người lướt qua một khoảng tường rồi biến mất khi cửa lại được đóng vào. Tiếng chân người rất khẽ trên nền thảm dày mềm, chuyển động xuyên qua căn phòng. Nếu bây giờ muốn nhìn về phía lò sưởi, tôi chỉ cần ngẩng đầu lên. Dù kẻ sử dụng chiếc giường tròn rộng quá khổ này có là ai chăng nữa, anh ta hay cô ta đã rất muốn thụ hưởng thứ hơi nóng địa dàng của làn lửa lách cách trong lò sưởi.
Phía trước lò sưởi hiện có để một chiếc túi du lịch. Chính tôi đã mang nó lại đây. Trong túi đựng một vài bộ quần áo của tôi. Brad Nelford trong sự thật đâu có để túi du lịch của gã ở lại đây. Tôi đã phát hiện ra túi của gã khi rời căn hộ của Mike Kellin. Nelford để túi ngay trước cửa, để có cả hai bàn tay rảnh cho vụ giết người. ..
Thật thận trọng, tôi ngẩng đầu lên. Tôi nhìn thấy một dáng người cao mảnh, mặc một áo bành-tô dài. Giờ cô ta cúi đầu xuống. Tôi nghe thấy tiếng ổ khóa bật ra, nhưng đúng vào lúc tôi muốn nhỏm lên và kết thúc tiết mục ảo thuật thì dáng người kia lại đứng thẳng dậy. Nhanh như chớp, tôi rụt đầu xuống.
Cây đèn đứng ở phía bên kia chiếc giường rộng thênh thang được bật lên. Thế rồi chiếc áo bành-tô bay lên giường. Ngay sau đó, có tiếng Click của máy điện thoại. Vành chọn số kêu rù rì.
- Làm ơn nối tôi với số 721, - một giọng phụ nữ nói. Rồi sau đó, mềm mại hẳn: - Hallo, Hugh. Đúng, cái túi ở đây.
Tôi đã từng gặp giọng nói này, nhưng the thé chói chang hơn bây giờ rất nhiều.
- Vâng, em sẽ ở đây, cho tới khi các cảnh sát viên đến. – Hugh, anh đừng lo, vâng, em làm được! Em sẽ thay một ổ khóa khác, đúng như anh nói. – Bây giờ anh làm gì? Anh có về nhà không? – Không, em hiểu rồi. Chẳng bõ công. – Em nghe lời anh mà! Em cũng đâu có nói lời nào khi anh quan hệ với con người đó? Trong nhà này nữa hả? Vâng, vâng, để giữ cô ta đi đúng đường. - Lẽ ra anh phải bỏ công giữ em đi đúng đường mới đúng hơn! – Xin lỗi, Hugh, em xin lỗi, nhưng mà em yêu anh. – Cám ơn. Ngủ ngon nhé!
Khi ống nghe điện thoại được đặt lên giá, tôi đứng thẳng dậy. Không còn cách nào khác, tôi phải đẩy cô ta vào một cú sốc.
- Chào bà Oliphant, - tôi nói.
Người phụ nữ xoay giật về. Tóc cô ta bây giờ bỏ xõa, cặp kính đã được tháo ra. Trông cô ta thật giống lời miêu tả của O’Malley về người đàn bà đi thuê căn hộ dành cho cái gọi là Cora Dixon.
Bà Oliphant há mồm ra. Rồi sau đó cô ta bắt đầu la lên chói chát như một cây còi. Tôi nhảy qua giường và tóm lấy cô ta. Lay lắc mãi mà không có tác dụng gì, tôi tát thẳng vào mặt cô ta hai lần. Tiếng la hét câm bặt, và cô ta thỉu xuống. Tôi để cô ta ngã xuống giường. Chỉ sau khi đã tin chắc là cô ta không mang súng bên mình, tôi mới rút máy bộ đàm ra.
- Ổn rồi, - tôi nói nhanh. – Lên ngay!
Một vài phút sau, khi Phil bước vào căn hộ thì tôi đang gắng đổ một chút sâm- banh ướp đá vào miệng Oliphant.
- Cho phép tôi giới thiệu, đây là bạn đồng nghiệp Phil Decker của tôi. Còn đây là bà Laura Oliphant, bàn tay phải của ngài ủy viên công tố.
Tôi giải thích cho cô ta biết là cô ta đã bị bắt, và đọc đoạn văn quy định cho cô ta biết quyền lợi của mình. Rồi tôi hỏi liệu cô ta sẵn sàng khai ra.
Cô ta không sẵn sàng. Dĩ nhiên là không. Greenfield đã đào tạo cô ta thành một chuyên viên lành nghề.
- Bà vừa gọi điện cho ông Greenfield, - tôi nhẫn nại thử lần cuối. – Ông ta bây giờ đang ngồi bình tĩnh trong một khách sạn, trong khi bà nhảy vào lửa để cứu đồ cho ông ta. Tôi dám cuộc rằng gã sẽ lạnh lùng để bà lao vào mũi giáo, nếu qua đó có thể cứu được mạng mình. Nhưng tôi cũng được phép cam đoan với bà rằng gã sẽ không làm được điều đó đâu. Greenfield là một tay tội phạm, bà Oliphant. Gã không phải chỉ kéo riêng cô vào cuộc.
- Anh ấy không làm khác được, - người phụ nữ lẩm bẩm. – Anh ấy bị lừa. Người ta đã hứa ủng hộ cho anh ấy ra tranh cử chức chủ tịch công tố đoàn tiểu bang New York. Nhưng rồi sau đó họ đã bày đặt sao để trông như thể anh ấy đã nhận tiền tư! Bắt đầu như thế, rồi từ đó trở đi chúng nó nắm anh ấy trong tay!
- Chúng nó là ai?
Oliphant im lặng. Tôi không thúc bách cô ta nữa. Giờ chúng tôi sẽ tóm được Greenfield, và gã sẽ không còn đường chối cãi.
Phil lái xe. Tôi ngồi bên bà Oliphant trên hàng ghế sau. Máy điện đàm được bật liên tục, nhưng chỉ thỉnh thoảng mới có một thông báo liên quan đến chúng tôi. Vừa nghe xong tin Mario Aldina lái xe chở hoa đến hầm ngầm Holland thì bà Oliphant đột ngột mở miệng.
- Tôi biết anh ấy đã 12 năm nay, từ khi tôi còn ở với Henry Olphant. Henry và Hugh là bạn, cho tới khi Henry và tôi ly dị. Chuyện đó xãy ra cách đây tám năm. Ngày ấy tình hình của tôi rất tồi tệ, Hugh đã quan tâm đến tôi. Anh là một người bạn thật sự. Tình yêu của chúng tôi mãi sau này mới dần dần hình thành. Mới từ ba năm nay chúng tôi mới có với nhau một … một quan hệ.
Ba năm mà còn ít sao, tôi nghĩ thầm. Rồi tôi nói thành tiếng: - Nếu bà không khai ra, người ta sẽ cáo buộc bà nội trợ giúp, hay chí ít ra cũng tội biết mà không khai báo trong vụ giết Donna Hayes. Bà rõ điều đó không, bà Oliphant? Người ta sẽ buộc tội bà đã biết tất cả mọi chuyện, tất cả những gì Greenfield đã làm hay bỏ qua không làm. Bà hãy suy nghĩ kỹ!
Cô ta là nữ nhân viên của một luật gia hạng nhất. Cô ta biết điều gì đang chờ phía trước va cô ta có được cơ hội nao, tùy theo việc cô ta khai ra hay im lặng.
Giờ người đàn bà lại im lặng. Xe của chúng tôi lăn bánh qua Manhanttan trong đêm. Đến Phố Số 34, Phil rẽ vào Đại Lộ Số Năm, con phố cắt với đường Broadway ở quảng trường Madison. Ngôi nhà Empire State Building chọc lên trên trời cao như một ngón tay sáng rỡ.
Đến quảng trường Madison, Phil rẽ theo Broadway đi về hướng Nam. Nằm bên đoạn cuối của Broadway là tòa nhà văn phòng liên bang với những phòng làm việc mới của chúng tôi và cách đó không xa là nhà ngục điều tra liên bang. BÀ Oliphant chắc sẽ được hưởng một phòng riêng. Có cả phòng tắm. Nhà ngục điều tra ở đó được trang trí nội thất rất đầy đủ.
Phil nghiêng đầu khi một giọng nói vang ra từ loa: - Chiến dịch K gọi trung tâm!
Chiến dịch K, đó là chúng tôi. Cùng với ba chiếc xe theo dõi Mario Aldina.
George Baker là người đã đưa ra mã hiệu này.
- Trung tâm nghe, - George nói.
- Đi về phía phố Canal.
- Rõ, - George trả lời.
Phil xoay đầu về.
- Bên dưới cái vỏ ngụy trang chợ hoa nửa đêm, gã có thể làm rất nhiều thứ khác, - anh nói.
- Vì thế mà mình cũng đòi cho người theo dõi gã.
Qua máy điện đàm, chúng tôi nghe giọng các bạn đồng nghiệp bàn bạc và liên tục thay đổi vị trí để không khiến kẻ bị truy đuổi nẩy nghi.
- Dừng lại ở góc Đại Lộ Số Sáu…
- Tôi tiếp nhận.
- Tiếp tục. Chú ý, gã lại dừng…
- Tại sao? Cậu có nhìn thấy đèn không?
- Không. Có thể gã hỏi đường. Khu đó tối…
- Này, cái gì kia? Có đứa xuống xe!Số 2! Nhìn thấy gì không?
- Không nhìn thấy gì. Cái xe tiếp tục đi. Bọn tôi bám theo.
Tôi chồm lên hàng ghế trước và giật lấy microphone. – Cotton đây! Khốn nạn, chuyện gì thế?
- Joe cho rằng có kẻ đã xuống xe. Chính xác ở góc cắt với đường Minetta Lane. Nhưng tôi không nhìn thấy gì cả.
- Ở đó có một đường dẫn xuống bến tàu điện ngầm?
- Bến đó vào giờ này đóng cửa. Ở quãng trường Sullivan chỉ mở những cổng chính đến Phố Số 3 và Phố Số 4. Nếu có một đứa xuống xe, chắc nó phải chạy đến quảng trường Washington.
Xe số 1 báo cáo. – Chúng tôi đã vượt qua xe chở hàng. Chỉ nhìn thấy một người trong cabin. – Tôi buột miệng chửi thầm.
- Xe số 2 đây. Chúng tôi rà khu quảng trường Washington cho tới góc phố Bleecker. Nhưng tôi dám cuộc là thằng đó biến rồi…
Tôi lại buột miệng chửi. Rồi tôi xoay sang với laura Oliphant, người đàn bà này đang căng thẳng ngồi trên mép ghế.
- Người đàn ông mà các ông nói tới là ai vậy? – Cô ta hỏi.
- Gã tên Mario Aldina. Bà đã nghe thấy cái tên này bao giờ chưa?
- Tôi … tôi nghĩ là chưa…
- Gã giết thuê. Gã làm việc cho Riccardi. Có thể gã vừa nhận được hợp đồng mới. Sau khi tôi tới đó, Greenfield có gọi điện cho Las Vegas không?
Bà Oliphant gật đầu.
- Thế thì chắc Las Vegas đã gọi điện cho Riccardi, và Riccardi giao việc cho Aldina.
Laura Oliphant thoáng nhắm mắt. Người cô ta lảo đảo khi Phil cho xe phi qua một nắp cống ngầm. Thế rồi cô ta mở lớn mắt ra.
- Ông có biết khách sạn Imperial? Nó nằm ở khu Tây Broadway, nếu tôi không lầm.
- Phố Houston khu Tây, - Phil nói.
- Tới đó bao xa?
- Kể từ đâu?
- Từ chỗ gã đàn ông đó xuống xe.
- Nhiều nhất là 10 phút. Tại sao?
- Trời đất ơi, Hugh đang ở đó. Anh ấy không muốn về nhà, vì anh ấy muốn chờ tôi gọi tới…
- Phil! Còi! Nhanh!
Phil đạp chân xuống bàn ga. Tiếng còi phát những làn sóng âm thanh chói gắt xuyên qua những con phố vắng bóng người.
- Làm sao mà chúng nó lại biết anh ấy đang ở đâu? – Oliphant hỏi.
- Chắc do ông ta tự nói cho chúng nó nghe. – Nhưng ông ta không hề tính đến khả năng Sonny Galano sẽ ngay lập tức gửi sát thủ đến. Có vẻ như Sonny có khả năng đánh giá tình hình xác thực hơn là Greenfield.
- Xe số 1 đến xe số 3! – Tôi nói vào Microphone. - Tất cả ngay lập tức đi về khách sạn Imperial, phố Houston khu Tây! Không còi! Kẻ đang bị truy lùng sẽ tìm cách lọt vào trong. Quan sát kỹ! Trung tâm nghe, trả lời!
- Có đây, Jerry.
- Gọi cho khách sạn Imperial! Nhanh! – Tôi phải bám chặt vào lưng hàng ghế trước khi chiếc xe nhảy qua một đoạn đường không bằng phẳng. Bà Oliphant bị nẩy ngả vào người tôi. – Số phòng bao nhiêu? 7-21?
- Vâng.
- George! Cho nối với phòng 7-21, rồi chuyển máy vào kênh này!
- Chờ đã… Tay gác cửa gây khó dễ. – George biến ra khỏi đường dây mốt thoáng. Rồi anh trở lại: - Ổn rồi, Jerry, cậu nói được rồi.
- Hallo, Greenfield? Phải ông không?
Im lặng ở đầu dây bên kia. Rồi sau đó: - Ai thế?
- Cotton đây. Greenfield, ông nghe tôi cho kỹ! Bây giờ mỗi phút đều có thể mang tính quyết định! Ông đã gọi điện cho Las Vegas, và Las Vegas đã quyết định xử lý ông. Tay sát thủ đã biến ra khỏi tầm kiểm soát của chúng tôi cách đây bốn phút bên quảng trường Sheridan.
- Nếu anh muốn lòe, Cotton…
- Ông quá rõ là một vụ lòe bịp sẽ có sức mạnh chứng minh tới mức nào trước tòa án. Greenfield. Bây giờ ông còn duy nhất hai khả năng. Hoặc là ông cố thủ trong phòng đó, nếu căn phòng đó chắc chắn, hoặc ông rời phòng ngay lập tức và trốn đi nơi khác. Tôi không biết tòa nhà đó…
Nhưng ông phải quyết định ngay lập tức. Chỉ vài phút nữa là người của chúng tôi tới nơi.
-Cotton, tôi không làm gì hết! Ngay từ đầu tôi đã biết là anh định nhắm vào tôi. Muốn vu vạ cho tôi. Tôi không thèm tin câu chuyện nực cười đó lấy nửa lời!
Tôi giơ microphone đến trước mặt Laura Oliphant. – Bà nói cho ông ta nghe.
- Hugh! Đúng đấy! Em ngồi ở đây và nghe thấy hết cả rồi! Nhóm sĩ quan đặc nhiệm đã để lạc mất cái xe ô tô cùng với … cùng với … gã đàn ông đó!
- Ông nghe chưa, Greenfield, nếu ông còn muốn sống…
Phil vượt đèn đỏ, lao sát sạt trước mõm một chiếc taxi. Phía trước đã hiện ra cụm đèn giao thông cắt với phố Houston. Phil giảm ga một chút. Những bánh xe rên lên não nuột khi anh đánh chiếc Mercury vào vòng cua. Vậy mà bạn tôi vẫn còn có thời gian để tắt còi.
- Greenfield, tôi không tin là ông còn nhiều thời gian đâu. Bây giờ ông muốn làm gì?
- Tôi ở trong phòng tôi! Và tôi cảnh cáo anh, nếu anh muốn dùng bạo lực!
- George! – Tôi kêu lên. - Cậu tiếp nhận điện thoại! Đừng ngắt liên lạc!
- Được, - sĩ quan trưởng ca trực khẳng định.
- Xe số 1 đến xe số 3! Báo cáo vị trí!
Tiếng báo cáo hối hả nối nhau. Các bạn đồng nghiệp đã vào những vị trí cho phép họ quan sát khách sạn từ nhiều phía. Một dáng người khả nghi chắc chắn không thể lọt khỏi tầm ngắm.
Khách sạn Imperial hiện lên trong tầm nhìn. Đầu tiên, tôi để ý đến số lượng rất nhiều những cửa sổ còn sáng đèn trong tầng trệt. Khoảng mái che uốn hình vòng cung ở phía trước cửa vào nổi lên một vẻ kỳ lạ giữa một khung cảnh tiêu điều xuống cấp với những ngôi nhà gạch trần cổ kính đã đen kịt theo thời gian. Trong tầng trệt của khách sạn có một quán rượi và một sàn nhảy. Lại còn thế nữa, tôi bực dọc nghĩ thầm, khi nhìn thấy hàng loạt những chiếc xe mô tô dựng trước cửa vào.
Phil dừng xe bên ngoài quầng sáng. Tôi gắng sức quan sát toàn bộ khung cảnh mờ tối xung quanh bằng mắt trần. Ở phía trái có một con đường hẹp, nhưng đã bị chắn ngang bằng một lần song sắt quét sơn đen. Phía ngang hông ngôi nhà có một cầu thang cứu hỏa. Mặt trước có hai. Đường nét những gọng thép nhòa vào bóng tối.
- Chỉ có mặc áo giáp chống đạn mới vào được trong đó thôi, - Phil nói.
- Anh làm cái gì đi chứ! – Bà Oliphant thúc giục.
- Được rồi, thưa bà, - tôi nói. Rồi tôi nhấn xuống phím nói của dàn máy.
- Các bạn, tôi cần từ mỗi xe một người. Gặp nhau ở góc phía Đông.
Mario Aldina nhảy qua bức tường chắn, rơi vào con dốc thấp dẫn xuống sàn nhảy. Gã khuỵu gối giảm cú xóc rồi bám chặt vào gờ tường. Hơi thở gã hơi nhanh hơn bình thường một chút. Nhưng ngoài ra, người t a không hề nhận thấy là gã vừa chạy một đoạn. Nền dất dưới chân gã đang rung trong một nhịp điệu gay gắt của những làn sóng âm thanh được phát ra từ những dàn loa Stereo cỡ đại phía bên trong tường nhà.
Gã nhìn qua mép tường, lướt về phía Tây. Cảm giác có người đuổi theo gã. Bản năng gã rất thính nhạy, gã biết điều đó. Nhưng gã không tin lại có người biết được hiện gã ở đâu hoặc gã cần phải xử lý đối tượng nào. Một vị khách của khách sạn. Đó không phải là chuyện khó khăn trong một khách sạn dạng này.
Gã cởi tấm tạp dề màu nâu ra, cuộn tròn nó lại rồi xoay người. Bất giác, gã rụt đầu về khi thấy một quầng đèn pha lướt ngang đầu. Quầng đèn pha tắt ngay trong tích tắc sau đó.
Aldina đút chiếc tạp dề ra phía sau chấn song sắt của một khuôn cửa sổ được đóng kín từ bên trong. Thế rồi gã bấm vào chuông.
Có ngọn đèn sáng lên phía trên đầu gã. Hơi mất tự tin, gã đưa mắt lên phía trên. Nếu bây giờ có ai đứng trên phố nhìn xuống dưới này, gã quả thật không có khả năng chống cự. Gã ép chặt cánh tay vào khẩu súng lục đang nằm dưới lần áo veston nhẹ mỏng. Gã đã quyết định sử dụng súng lục.
Gã mới nhận được công việc này cách đây vài tiếng đồng hồ, và điều kiện đưa ra là ngay lập tức!
Gã không có thời gian để chuẩn bị. Trong một tình huống cấp bách như thế, chắc chắn là mang súng lục. Nhưng khi vào việc thật sự, nếu có thể gã sẽ sử dụng con dao gập giờ đang đút trong tay áo bên trái. Chỉ một cú giật tay nhanh lẹ là con dao sẽ trôi thẳng ra bàn tay gã.
Cánh cửa trước mặt gã mở ra và một cô gái trẻ trung với mái tóc dài mềm như lụa quan sát gã từ hai con mắt trẻ thơ mở lớn.
- Ông có đến đúng chỗ không đấy, ôi trời! – Cô gái hỏi.
Gã bước một bước dấn thẳng về phía cô, và cô né sang bên, để trống cửa vào. Khi gã nhìn thấy những bộ quần áo óng ánh bám sát cơ thể của những người khác thì gã hiểu ý cô gái vừa muốn nói gì. Gã mặc quần đen và một chiếc veston màu xám, bên dưới là sơ mi sáng màu và cà vạt, một thứ trang phục thích hợp cho hầu như mọi nơi mọi chốn. Chỉ trừ một sàn nhảy xứ New York.
Cô gái vẫn bám sát theo khi gã chuyển động dọc quầy rượu rất dài. Những âm thanh gay gắt thúc vào tai gã, và ánh điện phản chiếu lấp lóe khiến gã hơi choáng váng. Gã bám vào thanh sắt bên quầy.
- Chắc ông là một vị khách của khách sạn phía trên kia? – Cô gái thét vào tai gã.
Gã gật đầu.
- Ông có muốn uống gì không?
Gã ép mình mỉm cười, nụ cười được cô gái đáp trả. Gã lắc đầu.
- Chắc tôi vào nhầm cửa. Người ta có thể từ đây đi lên phía trên kia không?
Cô gái chỉ vào một cánh cửa. - Ở phía hành lang kia. Ông hãy dùng cầu thang phía sau nhà.
Mario Aldina lách người qua mặt cô gái. Gã luôn gặp may. Có vẻ như hôm nay cũng thế.
Những bậc cầu thang bằng bê-tông dốc đứng lên trong một khu cầu thang riêng. Vì nó cũng đồng thời được dùng làm cầu thang thoát hiểm, nên tất cả các cánh cửa che lửa dẫn vào từng tầng nhà đều không bị khóa.
Người đàn ông ở tầng thứ 7, phòng 7-21, có thể được coi như đã chết…
Tôi không cần chờ lâu. Jimmy Stone, Nick Viola và Pit Grossow thình lình nhô lên như những bóng ma được cắt ra từ bao cảnh tốt thẫm.
- Ta đi bắt con chó lợn, - Jimmy bực bội tuyên bố. – Nó đã một lần sổng ra, giờ ta tóm nó lần nữa.
- Mình vừa tính lại xong, - Pit điềm tĩnh nói. – Nó có thể vào trong kia rồi. Xe của bọn mình đứng ở góc phố Thompson. Ở đó có một con ngõ hẹp dẫn tới phía sau lưng khách sạn này. Trong ngõ tối đen như mực. Ít nhất cũng phải điều một xe đến chiếu đèn pha vào ngõ đó. Ngoài ra, bọn mình còn có đèn pha cầm tay.
- Được, Pit, cậu sắp xếp vụ này. Nhưng đừng vào trong ngõ!
Pit chạy đi. Nick Viola hỏi: - Ta chờ gì nữa? Vào trong thôi!
- Cậu biết mặt gã không?
- Không.
- Thế thì đừng vội thế!
- Được rồi, được rồi, nếu cậu có sáng kiến hay hơn…
- Mình không có sáng kiến nào hay hơn, - tôi thú nhận. – Thôi được, Nick. Cả hai đứa ta sẽ lên tầng 7 và tìm cách đưa Greenfield ra ngoài. Còn cậu, Jimmy, nhận việc điều phối dưới này. Cậu có mang máy bộ đàm chứ?
Cả hai anh bạn đồng nghiệp của tôi đều mang bộ đàm.
- Ta đi thôi! – Tôi bước thẳng về phía mái che uốn cong ở phía cửa vào. Khi vào quầng sáng, tôi thoáng có cảm giác khó chịu. Nhưng rồi tôi bước thẳng vào đại sảnh. Ở đây rất yên lặng.
Không khí bốc lên mùi hành và mỡ rán, các cửa dẫn vào Snack-bar đang mở ngỏ. Đằng sau quầy rượu có một người đàn ông đội mũ đầu bếp đang ngồi lim dum, nhưng người gác phía sau bàn tiếp tân lại tỉnh như sáo và anh ta đang quan sát chúng tôi bằng vẻ nghi ngờ. Tôi chỉ về phía thang máy. Nick Viola gật đầu. Anh đi trước và ấn lên nút gọi, trong khi tôi chìa thẻ ra với người gác cử.
Bức tranh con đại bàng liên bang hoàn toàn chẳng gây ấn tượng gì với anh ta.
- Vào giờ này ông không có quyền…
- Chúng tôi đã báo trước. Phòng 7-21.
Anh ta ném một cái nhìn xuống bảng điều khiển. - Vị khách ở phòng 7-21 đang gọi điện, - anh ta nói.
- Nói chuyện với FBI, - tôi đáp trả. – Yên tâm đi.
Tôi bước về phía Nick, lại gần thang máy hơn.
- Bọn mình lên tầng 8 chứ? – Anh hỏi.
- Vội lắm rồi.
Vậy là Nick bấm lên nút số 7.
Cabin trôi chầm chậm. Nick sẽ ra trước và sẽ là người đầu tiên bước vào hành lang, vì Aldina biết mặt tôi. Trong một khách sạn như thế này, việc một người đàn ông rời thang máy là chuyện hết sức bình thường.
Thang máy dừng lại. Cánh cửa chuyển động. Nick bước ra ngoài và nhìn quanh. Anh giơ tay ra hiệu, cho tôi biết không thấy ai.
Hành lang dài khoảng 40 bước chân về cả hai phía. Phòng số 21 chắc phải nằm ở bên trái đối diện với nó có một cánh cửa quét sơn màu nâu. Tôi lướt lại gần và áp tai vào tấm kim loại lành lạnh.
Im lặng tuyệt đối. Thận trọng, tôi xoay nắm đấm và mở một khe nhỏ, rồi quan sát khu cầu thang chỉ được chiếu sáng bởi mấy ngọn đèn tường lờ mờ, đứng cách nhau khá xa. Tôi đóng cửa lại.
Nick đã tháo ra phần trên của một cây gạt tàn lớn. Anh cười khi đặt cái đầu hình bán nguyệt bằn kim loại đó lên trên nắm đấm cửa.
Thật nhanh, tôi di chuyển dọc hành lang. Đến trước cánh cửa số 21, tôi đứng lại. Rồi nhìn quanh lần nữa. Sau đó tôi gõ cửa. Đường dây liên lạc qua điện thoại giữa Greenfield và trung tâm FBI vẫn hoạt động. Nếu tên sát thủ trong thời gian qua đã tìm cách lọt được vào phòng của Greenfield thì George chắc chắn đã báo động tới nhóm xe và các bạn đồng nghiệp chắc chắn đã truyền tin lên đây qua máy bộ đàm.
Greenfield ! – Tôi kêu khẽ. – Tôi đây, Cotton!
Greenfield mở cửa. Tôi thấy đôi mắt gã ta đằng sau khe cửa nhỏ. Rồi gã tháo sợi xích sắt an toàn. Gã mặc đầy đủ quần áo, mặt nhợt nhạt bất thường.
- Tôi chính thức tuyên bố rằng tôi sẽ không khai bất cứ điều gì. Tôi yêu cầu phải được nói chuyện ngay lập tức với một đại diện của công tố đoàn.
- Vâng, vâng, cái đó chúng ta có thể nói chuyện sau. – Tôi đi ngang qua mặt Greenfield và cầm lên ống nghe điện thoại đang để bên cạnh máy. – Hallo, George? Jerry đây. Bọn mình bây giờ sẽ đưa Greenfield xuống dưới.
Hai chúng tôi kẹp người đàn ông vào giữa. Đúng lúc đó, tôi nghe thấy cánh cửa thang máy cọ vào khe. Khốn nạn, tôi nghĩ thầm. Chúng tôi đã quên đặt cái gì đó lên rãnh hoặc bấm công tắc giữ cửa mở.
Tôi ấn lên nút gọi.
- Có lẽ phải đợi một chút, - Nick nói.
Sốt ruột, chúng tôi khẽ nhịp nhịp chân trên nền thảm.
Kia! Một tiếng nghiến khe khẽ vang lên phía sau lưng. Chỉ mình tôi nghe thấy. Tôi xoay về, cái đầu cây gạt tàn bằng tôn chuyển động. Tôi gạt Nick và Greenfield sang bên. Chính lúc đó cái đầu bằng tôn rơi xuống. Tạo lên một tiếng kêu ầm vang, rổn rảng, nó lăn đến trước mũi chân tôi.
Chấp nhận mạo hiểm vô tình tặng cho một nhân viên khách sạn vô tội một vết sưng to tướng trên đầu, tôi đạp mạnh vào cánh cửa.
Cánh cửa đập vào vật cản, nhưng cứ theo cái tiếng kêu rất lớn của nó thì chắc tên giết người đã đoán được hành động này.
Gã bắn qua khe cửa. Đạn chì rít sát người tôi. Thế rồi tôi thúc mạnh vai vào cánh cửa, khiến nó bật ra.
Aldina đang theo cầu thang xuống dưới. Tôi chạy vọt theo, nhảy qua một đoạn tay vịn cầu thang và có được một chút lợi thế về không gian. Vừa chạy, Aldina vừa nổ súng lên hướng tôi. Những mảnh đạn rú rít trong lồng cầu thang chật hẹp.
Thêm một khúc cua nữa. Tôi lấy đà nhảy tới. Aldina đứng lại. Gương mặt u ám của gã vênh lên, hướng về phía tôi. Tay trái duỗi thẳng ra. Có ánh thép lóe.
Đã quá muộn để phanh lại cú nhảy. Tôi nhìn thấy lưỡi dao tiến sát lại phía mình. Chắc chắn nó phải đâm vào bụng tôi.
Tôi buông rơi súng lục, đập tay vào đoạn tay vịn cầu thang rồi vừa đạp hai chân về phía trước, hạ cánh xuống khoảng giữa gã đàn ông và tay vịn cầu thang. Aldina muốn bổ nhào vào tôi. Tôi rút một chân lên. Lưỡi dao rạch rách quần. Trong một thoáng, cảm giác đau bùng cháy bên bắp chân. Rồi tôi đạp tới.
Aldina bay với hai cánh tay dang rộng, bay ngược về phía sau. Vang lên một tiếng động trầm đục đáng sợ khi gã đập lưng xuống và nằm bất động.
Tôi nhặt lên hai khẩu súng lục của tôi và của gã cùng con dao gập, tập tễnh đi về phía gã đàn ông và đưa tay sờ mạch.
Mạch đập mạnh và đều. Tôi rút máy bộ đàm. – Các cậu nghe thấy không? – Tôi hỏi.
- Có, rất rõ. Cậu ở đâu thế?
- Ở đâu đó giữa thiên đường và địa ngục. Tìm mình ở khu cầu thang thoát hiểm! Và cho gọi xe cứu thương! Aldina bị dính đòn.
Vào một buổi sáng ngày hôm đấy, thật bất ngờ mà tôi có được một giấc ngủ rất sâu, kéo dài tới gần trưa. Khi chuông điện thoại reo thì tôi đã tỉnh rồi. Phía đầu dây bên kia là sếp FBI.
- Các anh đã làm được rất nhiều việc và đã đẩy một vài sự kiện phải chuyển động theo, Jerry, - vị sếp FBI New York vào thẳng vấn đề chính. - Nhưng công việc thật sự bây giờ mới bắt đầu. Những tay gangster của Riccardi đồng loạt im lặng. Bà Oliphant còn nói ít hơn chúng và Greenfield chỉ đưa ra những lời tuyên bố. Aldina bị gãy xương quai xanh và nằm trong bệnh viện Bellevue. Không thể tính đến khả năng là gã sẽ khai một nửa lời. Dù sao gã cũng sẽ bị đưa ra trước tòa, ít nhất thì cái đó cũng là chắc chắn. Sau khi khám nhà sáng hôm nay người ta đã tìm thấy ở nhà gã bộ đồ tập chạy màu xanh dương. Những khúc sợi tìm thấy ở hiện trường khu Queens chắc xuất xứ từ bộ đồ này. Chiều hôm nay ta sẽ nhận được kết quả của phòng thí nghiệm. Nhưng nếu những đoạn sợi này là bằng chứng duy nhất, thì chắc chắn chúng ta sẽ không cáo buộc được gã tội giết người. Còn lại, cao nhất là tội tàng trữ vũ khí trái phép. Và gã đàn ông giật dây ở Las Vegas, Sonny Galano, chắc vẫn có thể tiếp tục phạm tội. Giờ chỉ có duy nhất Riccardi buộc tội được gã ta.
- Sếp có thể quên Riccardi đi, thưa sếp, - tôi nói.
- Vậy tại sao ông ta lại gọi điện đến? – John D. High hỏi.
Tôi nhớ lại những lời nhận xét bí hiểm của Riccardi, những lời nhận xét mà ông ta đã đưa ra vào ngày hôm qua khi tôi đẩy xe lăn đưa ông ta từ ban công vào trong nhà. Không một kẻ nào có thể lừa đảo một người như Domenico Riccardi… Có thể tôi sẽ cho anh một cơ hội..
- Gã muốn gì? – Tôi hỏi như bị điện giật.
- Anh cần có mặt ở nhà gã đúng hai giờ chiều. Không sớm hơn.
Nếu tôi gọi cho anh, anh phải tới đây ngay, không đặt câu hỏi nào.
Tôi có cảm giác nôn nao, mặc dù tôi vừa ăn một bữa trưa nhỏ.
- Jerry, anh đừng liều lĩnh!
- Không, thưa sếp, tôi tin là yếu tố mạo hiểm lần này không nằm ở phía tôi, chắc chắn thế. Chiều nay tôi sẽ vào văn phòng. – Tôi ấn xuống giá máy và gọi ngay lập tức cho Phil. Vì bận rộn với việc cung cấp Aldina và Greenfield vào nhà tù cho tới tận mờ sáng, nên hai chúng tôi đã hẹn là sẽ gặp nhau vào khoảng trưa.
- Mình đền đón cậu lúc 1 giờ 30, - tôi nói ngắn.
- Được, - Phil đáp.
Dom Riccardi lại ngồi tắm nắng trong khoảng ban công của căn biệt thự trên cao. Người đàn ông nhắm mắt, cho tới khi cái bóng của Sal Bartolis đổ lên người ông.
Nét mặt Sal đầy lo âu.
- Có chuyện gì thế, Sal? – Riccardi khẽ hỏi.
- Nó vừa tới.
- Mấy giờ rồi?
- 2 giờ kém 15. Nó mang theo hai tên cận vệ.
- Để chúng nó đợi ở phòng khách. – Riccardi gạt chăn ra. Sal cầm lên và cẩn thận gập gọn lại.
- Ông không muốn cân nhắc thêm một lần nữa sao, ông Riccardi? – Sal buồn bã hỏi.
- Sal, tôi đã quá tuổi rồi, anh biết không? Trong thành phố này không còn chỗ cho những người như tôi. – Riccardi mỉm cười. - Rồi anh sẽ tự hào về tôi. Nếu Cotton đến, anh sẽ biết anh phải làm gì. Còn bây giờ, gửi thằng con hoang lên đây!
Dom Riccardi nhỏm dậy và bước một vài bước chân. Bệnh gút khiến việc đi lại trở thành rất vất vả. Ông ta đi vòng quanh một chậu bê-tông rất lớn, thành chậu lấp bên dưới những lớp dây leo xanh ngắt. Rồi ông ta bước đến bên lancan và nhìn xuống.
Bên dưới ông ta là 38 tầng nhà. Tít tắp dưới sâu những chiếc ô tô đang chạy ngược chạy xuôi dọc Đại Lộ Số 3. Hàng đống người tụ tập quanh các ngã tư.
- Dom! Ông ở đâu? – Sonny Galano gọi.
- Ở đây! Anh lại đây!
Sonny Galano đi vòng quanh chậu bê-tông trồng hoa. Làn da mặt Sonny rám nắng. Mái tóc xoăn đen óng ánh như được bôi dầu. Vào thời của tao, bọn con trai không bao giờ thèm chơi trò đỏm dáng như mày, Riccardi nghĩ thầm, và ông già cố nén không bật lên một tràng cười ha hả. Cái bọn Mafia nhãi ranh ngày nay ăn mặc và cư xử giống hệt những đồ nhãi ranh mà chúng nó nhìn thấy trên truyền hình.
Cuộc sống đã thay đổi nhiều biết bao! Sonny chìa tay phải tới. Tay trái của gã cầm một chiếc cặp mỏng và dẹt.
- Dom, ông khỏe chứ?
Riccardi gật đầu.
Nét vui vẻ trong người đàn ông còn tăng lên hơn khi Galano tuôn ra cái tính rẻ tiền ngu đần và khẽ cọ má gã vào má Riccardi.
Thật giống như trong phim, ông già nghĩ thầm. Galano xoay người. - Tại sao ông lại trốn ở góc này? – Gã hỏi.
- Bọn đặc nhiệm bây giờ được trang bị kỹ lắm, - người đàn ông nói. – Microphone định hướng, camera với ống kính tele. Chúng nó chẳng chừa thứ gì…
Mặt Sonny Galano sầm xuống. – Tôi đã nghe tin xấu rồi. Bọn đặc nhiệm đã bắt giam ủy viên công tố của tôi. Và một người tên là Aldina. Tôi đoán đây chính là tay chuyên gia mà ông có nói tới trong cú điện thoại hôm qua.
Riccardi gật đầu, và một nụ cười chế giễu uốn cong vành môi của Galano.
- Giờ ông không còn một tay sát thủ trung thành nào nữa, kẻ nợ ông một món nợ ân tình, Dom.
- Tôi vẫn còn khả năng đạt mục tiêu bằng chính sức mình, Galano. Anh có mang cổ phiếu theo không?
- Tôi có mang đi theo, nhưng lúc lên đường tôi chưa biết được những tin tức tồi tệ kia. – Galano ra vẻ hối tiếc, gục gặc cái đầu. – Tôi e ngại rằng, Dom, tôi cần phải tìm một mối liên hệ mới ở New York đây. Chuyện này sẽ tốn kém…
- Và chẳng còn mấy đồng sót lại cho một ông già, phải thế không?
- Ông không nên cay đắng như thế, Dom. Ông phải hiểu tôi chứ.
- Anh là một thằng lưu manh cò con. Anh tởm lắm, Galano.
Mặt Galano cứng lên, và gã bước một nửa bước về phía Riccardi. Riccardi bình tĩnh nhìn gã đàn ông trẻ tuổi.
- Nào, Galano! Anh chỉ cần đẩy một cái là tôi ngã qua lan can.
Galano cười khẩy. – Tôi không làm hộ ông chuyện đó đâu, Dom. Với ông thì chuyện đó đâu được lợi gì, ông hiểu không? Nhìn theo phương diện làm ăn, tôi sẽ lỗ to nếu giết ông và nhận tới 20 năm đằng sau chấn song sắt, trong khi bản thân ông có thể ngã lăn ra chết bất cứ lúc nào. Tôi tin rằng, nói thế là đủ rồi, Dom. Vĩnh biệt!
Galano giật người lên khi nhìn thấy Sal Bartolis rẽ vòng quanh góc nhà. Sal đến đứng bên cạnh Riccardi và thì thào điều gì đó vào tai ông già.
- Ông Cotton và ông Decker có ở đây, - người hầu trung thành nói. - Họ đang chờ…
Riccardi mỉm cười.
Sal bước một bước lùi về phía sau. Mặt ông ta đột cứng đờ ra như được tạc bằng đá.
Galano nhìn từ người này sang người khác.
- Các người đang âm mưu một trò con lợn nào đó!
Riccardi vẫn mỉm cười. Hai bàn tay ông ta bám chặt lan can.
- Galano xoay sang phía Sal, lưng quay về phía Riccardi.
- Ông nói cho tôi biết đi, ông ta muốn gì! Tôi không hiểu.
Sal nhắm mắt lại.
Galano xoay về.
Riccardi không còn ở đó nữa.
Galano rên lên khi cúi người qua mép lan can, và hai đầu gối gã mềm nhũn ra khi nhìn thấy cái thân người bay trong không khí với hai cánh tay giật giật, và khi gã nhìn thấy thân người đó đập vào khoảng ban công của tầng nhà thứ sáu, sau đó xoay về. Không điều khiển nổi giọng nói của mình nữa, gã khào khào rên lên: - Sal, chính ông đã nhìn thấy…
Sal nhếch môi lên.
- Vâng, thưa ông, tôi nhìn thấy tất cả.
Ông ta nhô người ra khỏi chậu trồng hoa bằng bê-tông và vẫy tay:
- Mời các quí ông, mời các quí ông đến nhanh lên!
Sal Bartolis hối hả vẫy tay, và chúng tôi chạy ra ngoài ban-công. Bất giác, tôi giật tay về phía súng lục, nhưng vẫn để nó nằm trong bao.
Phía sau chậu bê-tong có một gã đàn ông cao mảnh tóc xoăn. Mới ngày hôm qua tôi vừa nhìn thấy ảnh gã. Ra đây là Sonny Galano.
Nhưng Dom Riccardi ở đâu rồi?
- Jerry! – Phil mím môi nói, và tôi cúi người qua lan can.
Lúc bấy giờ tôi nhìn thấy ông ta, và tôi linh cảm được chuyện gì đã xảy ra.
- Tự ông ta lao xuống! – Galano thét lớn. – Sal, chính ông đã nhìn thấy! Ông nói đi! Ông đã nhìn thấy.
Sal nghiêm trang nhìn tôi.
- Tôi đã nhìn rất rõ, thưa ông. Khi tôi nói với ông Riccardi là các ông vừa tới, thì ông Galano đã hất ông ấy ngã qua lan can. Tôi sẵn sàng nhắc lại lời khai của mình bất cứ lúc nào và sẵn sàng thề chỉ khai sự thực.
Galano giật lùi về. Gã la thét đòi cận vệ rồi xoay qua thúc chiếc cặp đựng tài liệu vào bụng tôi.
Phil tóm tới. Anh giật tay Galano ra sau lưng gã và cho còng sập xuống.
Vào ngày thứ bảy tuần đó chúng tôi gặp nhau trong căn hộ của Kellin. Đó là ngày mà lẽ ra Cora đã muốn nấu bữa tối. Kellin tự tay chuẩn bị món rau trộn và một vài tảng thịt rán, và chúng tôi uống rượu vang cùng rượu Whisky, cứ như thể chúng tôi có cớ để mà mở tiệc.
Không ai nói một lời về những sự kiện đó, nhưng ai trong chúng tôi dĩ nhiên cũng đều nghĩ tới chúng, những gì đã xảy ra trong những ngày vừa qua.
Lệnh cho Kellin tạm ngưng việc đã ngay lập tức được xóa bỏ sau khi Greenfield bị bắt giam. Chàng thanh tra bây giờ đã được phục hồi danh dự hoàn toàn.
Và chắc chắn cánh quan tòa sẽ có cơ hội thực thi nhiệm vụ của họ. Sonny Galano, kẻ bị cáo buộc tội giết người, đang tìm cách thực hiện một cuộc thương thuyết với công tố đoàn.
Gã sẵn sàng nhận tôi đút lót cũng như những tội nhẹ nhàng tương tự, nếu thay vào đó cáo buộc giết người trong vụ án Riccardi được bỏ qua.
Trong cơn sợ hãi nhận án tù chung thân, gã đã vu tội cho Greenfield rất nhiều.
Sal Bartolis, kẻ tay chân trung thành cuối cùng của Riccardi, vẫn trơ trơ như đồng giữ lời khai đầu tiên. Nếu Sal nhắc lại lời khai đó trước tòa, Galano sẽ “bay ngay ra khỏi kệ hàng”, theo cái cách người ta thường nói.
Nếu suy cho kỹ, chúng tôi quả cũng có lý do mở tiệc: chúng tôi đã chiến thắng trên toàn cục. Nhưng chẳng ai vui được vì vụ án này.
Anh bạn đồng nghiệp Michael Kellin của chúng tôi đã phải trả giá quá nhiều cho cuộc tình cuối của anh.