“Tên anh là gì?”
“Abraham Wilson”.
“Anh có thể nói to hơn được không?”
“Abraham Wilson”.
“Anh Wilson, có phải anh đã giết Raymond Thorpe không?”
“Có, thưa cô”.
“Anh có thể nói cho tòa biết lý do được không?”
“Nó định giết tôi”.
“Raymond Thorpe nhỏ con hơn anh nhiều. Anh có thật sự tin rằng anh ta có thể giết được anh không?”
“Hắn ta cầm trong tay một con dao và vì thế cũng cao chả kém gì tôi”.
Jennifer đã giữ lại hai vật trong hộp đựng vũ khí. Một con dao nhọn và một chiếc kéo lưỡi dài. Cô giơ con dao lên: “Có phải đây là con dao mà Raymond Thorpe định dùng để giết anh không?”
“Phản đối. Bị cáo làm sao mà biết được...”
“Tôi xin đặt lại câu hỏi. Con dao này có giống với con dao mà Raymond Thorpe dùng để dọa anh không?”
“Có, thưa cô”.
“Anh có xích mích gì với Thorpe trước đó không?”
“Có thưa cô”.
“Và khi anh ta tiến đến chỗ anh với con dao trên tay, anh buộc phải giết anh ta để tự vệ phải không?”
“Vâng, thưa cô”.
“Cám ơn anh”.
Jennifer quay sang Di Silva: “Ngài có thể hỏi”.
Robert Di Silva từ từ đứng dậy.
“Anh Wilson, trước kia anh đã từng giết người phải không? Tôi muốn hỏi đây không phải là lần đầu tiên anh giết người chứ?”
“Tôi đã phạm tội và tôi đang phải trả giá đây. Tôi...”
“Xin anh đừng sám hối ở đây. Anh trả lời có hay không nào?”
“Có”.
“Có nghĩa là một mạng người không có nghĩa lý gì đối với anh phải không?”
“Không phải thế. Tôi...”
“Anh có định coi việc giết hại người là quý trọng sinh mạng con người không? Anh thích giết bao nhiêu nếu anh không còn coi mạng người ra gì nữa? Năm, mươi hay hai mươi?”
Ông ta đặt bẫy Abraham Wilson và anh ta mắc ngay vào đó. Anh ta nghiến chặt hàm răng, mắt long lên vì giận dữ.
“Tôi chỉ giết có hai người”.
“Chỉ có? Anh chỉ giết có hai người?” Chưởng lý lắc đầu tỏ vẻ kinh sợ. Ông ta tiến đến gần bị cáo và nhìn anh ta chằm chằm. “Tôi cuộc là anh luôn có cảm giác là người mạnh vì thân thể to lớn của mình. Có lẽ anh thấy mình giống như một chúa trời bé nhỏ. Khi nào anh thích, anh có thể lấy đi một mạng sống ở nơi này nơi khác”.
Abraham Wilson vươn thẳng người lên: “Ông là đồ chó đẻ”.
“Đừng!” Jennifer cầu nguyện. “Đừng làm như vậy!”
“Ngồi xuống”. Di Silva quát lên. “Có phải đó là kiểu tức giận mà vì thế anh đã giết Raymond Thorpe không?”
“Thorpe định giết tôi”.
“Với con dao này à?” Di Silva giơ con dao lên. “Tôi tin chắc là anh có thể đoạt được nó từ tay anh ta dễ dàng”.
Abraham Wilson nhỏ nhẹ đáp: “Vậy ông đi mà thử đi?”
Phiên tòa nghỉ trong 8 tiếng trước khi kết án.
Robert Di Silva và các cộng sự của mình rời phòng xử án để nghỉ, nhưng Jennifer vẫn ngồi nguyên tại chỗ, không đủ sức đứng dậy nữa.
Khi đoàn hội thẩm đã rời ra ngoài hết, Ken Bailey đi đến chỗ Jennifer.
“Uống chút cà phê nhé?”
“Tôi không thể nuốt được bất cứ cái gì lúc này đâu”.
Cô ngồi lặng trong phòng, đắm chìm trong suy nghĩ và hầu như không để ý đến những người xung quanh.Mọi chuyện đã kết thúc. Cô đã làm hết sức mình. Cô cố cầu nguyện nhưng trong lòng vẫn rất lo lắng. Cô có cảm tưởng như mình và Abraham Wilson sắp bị kết án tử hình.
Đoàn hội thẩm đã quay trở lại, mặt đầy vẻ trầm trọng và suy tư. Tim Jennifer bắt đầu đập nhanh hơn. Cô có thể thấy trên nét mặt họ ý định sẽ tuyên án tử hình. Cô sợ mình sẽ ngất đi mất. Chỉ vì cô mà một người sắp bị giết. Đáng ra cô không được tham gia vào vụ này mới phải. Cô có quyền gì quyết định sinh mạng của một người. Cô thật là điên rồ khi nghĩ rằng có thể thắng được một người đầy kinh nghiệm như Robert Di Silva. Cô muốn xông lên chỗ đoàn hội thẩm và nói trước khi họ kết án. Hãy đợi đã! Abraham Wilson không được xử một cách công bằng. Hãy để một trạng sư khác cãi cho anh ta. Một người nào đó giỏi hơn tôi ấy.
Nhưng đã quá muộn rồi, Jennifer nhìn trộm khuôn mặt Abraham Wilson. Anh ta ngồi bất động như một pho tượng. Cô không còn thấy vẻ thù hận của anh nữa, chỉ còn lại vẻ tuyệt vọng sâu xa. Cô muốn nói vài lời để an ủỉ anh, nhưng không tìm ra được.
Chánh án Waldman bắt đầu: “Đoàn hội thẩm đã đưa ra lời phán quyết cuối cùng chưa?”
“Đã, thưa chánh án”.
Chánh án gật đầu và viên thư lại của tòa đi đến chỗ người đứng đầu của đoàn hội thẩm, lấy từ ông ta một tờ giấy và trao lại cho ông. Jennifer thấy tim mình như sắp nhảy ra ngoài lồng ngực. Cô không thở được nữa. Cô chỉ muốn giờ phút này kéo dài mãi mãi, để khỏi phải nghe lời tuyên án.
Chánh án Waldman đọc kỹ tờ giấy trong tay; sau đó ông chậm rãi nhìn quanh phòng xử án. Ông dừng lại ở đoàn hội thẩm, ở Robert Di Silva, Jennifer và cuối cùng là Abraham Wilson.
“Xin mời bị cáo đứng dậy”.
Abraham Wilson chậm rãi đứng lên, mệt mỏi và uể oải như thể anh ta không còn chút năng lượng nào trong người nữa.
Chánh án Waldman bắt đầu đọc: “Phiên tòa này cho rằng bị cáo Abraham Wilson không phạm tội như bị buộc tội”.
Cả phòng xử án lặng đi một lúc và những câu nói tiếp sau của chánh án bị chìm đi trong tiếng ồn ào của mọi người.
Jennifer đứng đó, choáng váng và không tin vào tai mình nữa. Cô quay sang Abraham Wilson, giọng nghẹn lại. Anh ta nhìn cô một lát với cặp mắt ti hí xấu xí. Và rồi khuôn mặt sứt sẹo đó nở một nụ cười thoải mái mà Jennifer chưa từng thấy. Anh ta cúi xuống ôm lấy Jennifer và cô phải cố lắm mới cầm được nước mắt.
Giới phóng viên lập tức vây quanh Jennifer, yêu cầu cô tuyên bố và đặt hàng loạt câu hỏi.
“Cô thấy thế nào khi thắng được ngài chưởng lý?”
“Cô có nghĩ là cô sẽ thắng vụ này không”.
“Cô sẽ làm gì nếu họ đưa Wilson lên ghế điện?”
Jennifer chỉ lắc đầu. Cô không thể nói chuyện với họ lúc này được. Họ đến đây để xem một vở kịch, xem cảnh một con người bị dồn đến chỗ chết như thế nào. Nếu lời phán quyết khác đi... Cô không dám nghĩ đến chuyện đó. Jennifer bắt đầu thu xếp giấy tờ và nhét chúng vào cặp.
Một viên mõ tòa đi đến chỗ cô: “Chánh án Waldman muốn gặp cô tại phòng của ngài, thưa cô Parker”.
Cô đã quên mất rằng mình có thể bị phạt vì tội lăng mạ tòa, nhưng bây giờ ngay cả chuyện đó cũng chẳng có gì là quan trọng nữa. Vấn đề chủ yếu là cô đã cứu được mạng sống của Abraham Wilson.
Jennifer liếc sang bên nguyên cáo. Chưởng lý Di Silva đang cáu kỉnh nhét giấy tờ vào cặp và quát mang một trợ lý của mình. Ông ta bắt gặp cái nhìn của cô và hiểu tất cả.
Chánh án Lawrence Waldman đang ngồi bên bàn khi Jennifer bước vào. Ông nói cụt lủn. “Ngồi xuống cô, Parker”.
Cô ngồi xuống chiếc ghế đối diện với ông.
“Tôi không cho phép cô hoặc bất kỳ một ai biến phòng xử án của tôi thành một rạp hát”.
Jennifer đỏ mặt: “Tôi có lỗi. Tôi đã không kìm được”. Chánh án Waldman giơ một tay lên: “Thôi, xin đủ!” Jennifer lập tức cắn chặt môi.
Chánh án Waldman ngồi ngả về phía trước: “Một điều nữa tôi không thể dung thứ là sự thô lỗ trước tòa”. Jennifer uể oải nhìn ông, không nói không rằng. “Cô đã vượt quá giới hạn trong buổi chiều hôm nay. Tôi nhận thức rằng nhiệt tình quá đáng của cô xuất phát từ lòng mong muốn cứu vớt sinh mạng một con người. Vì thế, tôi quyết định không kiện cô về tội lang mạ tòa”.
“Xin cám ơn ngài chánh án!” Jennifer miễn cưỡng nói. Khuôn mặt ông ta vẫn kín như bưng khi ông tiếp tục nói: “Thường thường, khi một vụ án kết thúc tôi luôn có cảm giác là công lý có được thực hiện hay không. Trong vụ này, thành thật mà nói, tôi không chắc về điều đó”. Jennifer chờ ông nói tiếp.
“Đó là tất cả những gì tôi muốn nói, cô Parker”.
Trên báo chí và ti vi tối hôm đó, Jennifer lại xuất hiện trở lại, nhưng lần này cô là nhân vật anh hùng. Cô là David của giới luật đã quật ngã gã khổng lồ Goliath. Hình của cô cùng với Abraham Wilson và chưởng lý Di Silva được đăng trên trang nhất. Jennifer đọc ngấu nghiến tin tức về mình, nhấm nháp chúng một cách thú vị. Đó quả là một chiến thắng ngọt ngào sau bao nhiêu tủi nhục mà cô phải trải qua.
* * * * *
Ken Bailey dẫn cô đến nhà hàng Luchon để ăn mừng. Ở đó ông chủ quán và nhiều khách hàng đã nhận ra cô. Nhiều người lạ gọi tên cô và đến chúc mừng. Thật là một buổi tối hạnh phúc.
“Cô thấy vui sướng chứ?” Ken cười hỏi.
“Tôi chả cảm thấy gì hết”.
Có ai đó gửi một chai vang đến bàn hai người.
“Tôi chả cần uống gì nữa đâu”, Jennifer nói “Tôi thấy như đã say rồi đấy”.
Nhưng thực ra cô đang khát và uống cạn ba cốc rượu, trong khi kể lại diễn biến ở phiên tòa cho Ken.
“Tôi thật sợ quá. Anh có biết tôi cảm thấy gì khi nắm trong tay tính mạng của một người không? Giống như là đóng vai trò của Đức Chúa trời ấy. Anh có thể nghĩ ra điều gì dễ sợ hơn thế không? Ta uống một chai nữa chứ Ken?”
“Cô muốn gì cũng được”.
Ken gọi một bữa thịnh soạn cho cả hai, nhưng Jennifer quá phấn khích đến độ chẳng ăn chút nào cả.
“Anh có biết Abraham Wilson nói gì với tôi, khi tôi gặp anh ta lần đầu tiên không? Anh ta nói: “Chúng ta hãy thay đổi màu da cho nhau đi, rồi hãy nói chuyện yêu ghét”. Ken, ngày hôm nay, tôi đã mang cùng màu da với anh ta, và anh có biết không? Tôi nghĩ rằng đoàn hội thẩm sẽ xét xử tôi. Tôi cảm thấy như mình sắp bị xử tử. Tôi yêu Abraham Wilson. Ta uống nữa chứ nhỉ?”
“Cô đã đụng tí thức ăn nào đâu?”
“Tôi chỉ khát thôi”.
Ken lo ngại nhìn Jennifer tiếp tục rót đầy rượu vào cốc. “Cẩn thận đấy nhé”.
Cô phẩy tay: “Đó là rượu vang California đấy mà. Uống như nước lã thôi”. Cô uống một hớp nữa. “Anh là người bạn tốt nhất của tôi. Thế anh có biết ai không phải là bạn tốt nhất của tôi không? Ngài Robert Di Silva đáng kính đấy”.
“Di Silva à?”
“Đúng vậy. Ông ta ghét tôi ghê lắm. Anh có để ý khuôn mặt ông ta ngày hôm nay không. Ô, ông ta đã phát điên lên đấy. Ông ta dọa sẽ đuổi tôi ra khỏi tòa nhưng ông ta không làm được điều đó, phải không nhỉ?”
“Không, ông ta...”
“Anh có biết tôi nghĩ gì? Anh có biết tôi thật sự nghĩ gì không?”
“Tôi...”
“Di Silva nghĩ rằng tôi là Ahab và ông ta là con cá voi trắng”.
“Nhưng thực ra không phải thế”.
“Cám ơn, Ken. Tôi lúc nào cũng có thể dựa vào anh”.
“Làm chai nữa nhỉ?”
“Cô vẫn chưa thấy đủ hay sao?”
“Cá voi hay khát nước lắm”. Jennifer khúc khích cười.
“Đó chính là tôi, chú cá voi trắng khổng lồ. Tôi đã nói với anh là tôi yêu Abraham Wilson chưa nhỉ. Anh ấy là người đàn ông đẹp nhất mà tôi từng gặp. Tôi nhìn vào mắt anh ấy, Ken ạ, anh ấy tuyệt vời. Anh đã bao giờ nhìn vào mặt Di Silva chưa? Ô hô, lạnh lẽo lắm. Ông ấy như là một tảng băng ý. Nhưng ông ấy không phải là người xấu đâu. Tôi yêu tất cả mọi người. Anh có biết tại sao không Ken. Vì Abraham Wilson còn sống tối nay. Anh ta không bị giết. Hãy uống một chai nữa để mừng anh ta nhé?”
Khi Ken Bailey đưa Jennifer về nhà đã là hai giờ sáng. Anh giúp cô leo lên bốn tầng gác tới căn phòng nhỏ bé của cô.
Tới nơi, anh thở hổn hển vì mệt.
“Cô biết không”, Ken nói “Tôi đã thấy hậu quả của bữa rượu rồi đấy”.
Jennifer nhìn anh thương hại: “Ai không uống được thì đừng có cố”.
Nói xong, cô xỉu luôn.
* * * * *
Cô thức dậy vì tiếng điện thoại réo gay gắt. Cô cẩn thận nhấc ống nghe lên và cử động đó làm cô đau hết mình mẩy.
“A lô”
“Jennifer đấy à? Ken đây”.
“A, chào Ken”.
“Nghe giọng cô ghê quá. Cô không làm sao chứ?”
Cô nghĩ một chút. “Tôi mệt quá. Mấy giờ rồi nhỉ?”
“Gần trưa rồi đấy. Tốt nhất cô hãy đến sở đi”.
“Ken. Tôi sợ tôi sắp chết mất”.
“Hãy nghe đây. Hãy ra khỏi giường, từ từ thôi, uống hai viên aspirin, tắm nước lạnh và uống một cốc cà phê nóng. Sau đó chắc cô sẽ sống lại ngay”.
Một tiếng sau, khi Jennifer đến văn phòng, cô thấy đỡ hơn. Chưa khỏe hắn, nhưng đỡ hơn, cô nghĩ.
Hai máy điện thoại đều đổ chuông khi cô bước vào phòng.
“Tất cả đều gọi cô đấy”, Ken cười. “Họ gọi liên tục. Cô cần có một tổng đài riêng mất”.
Báo chí, tivi và đài phát thanh đều gọi điện đến yêu cầu được viết bài về cuộc đời cô. Chỉ qua một đêm cô đã trở nên nổi tiếng. Có những cú điện thoại khác nữa, những cú mà cô đã mơ ước được nhận. Các công ty luật đã từ lâu từ chối cô, nay hỏi xem khi nào cô có thể gặp họ được.
* * * * *
Tại văn phòng của mình ở trung tâm thành phố, Robert Di Silva rên rỉ với trợ lý thứ nhất của mình: “Tôi yêu cầu anh bí mật theo dõi Jennifer Parker. Tôi muốn được biết về các khách hàng của cô ta. Hiểu chứ?”
“Vâng, thưa ngài”.
“Hành động đi”.
Trong nhà bếp của một trang trại kiểu Hà Lan ở bang New Jersey có ba người đàn ông đang nói chuyện: Nick Vito, Joseph Colella và Salvatore Fiore “Bông hoa nhỏ”.
Có người đã từng gọi Colella là vườn rau: “Colella có mũi hình củ khoai tây, đôi tai như xúp-lơ và óc bã đậu”. Colella nói giọng cao, nhỏ nhẹ và tính cách tưởng như là hào hoa. Hắn có vợ và 6 con. Chuyên nghề của hắn là dùng súng, axít và dây xích. Vợ hắn, Carmelina, là một người thiên chúa sùng đạo và vào chủ nhật hàng tuần, khi Colella không hoạt động, hắn thường đưa vợ con đến nhà thờ.
Người thứ ba, Salvatore Fiore, khá nhỏ bé. Hắn cao 1,57m và nặng 52kg. Hắn có khuôn mặt ngây thơ như cậu lễ sinh tại giáo đường và cũng quen dùng súng hoặc dao. Phụ nữ rất thích gã đàn ông bé nhỏ đó và hắn có một vợ, nửa tá bồ bịch và một cô tình nhân xinh đẹp. Fiore đã từng tham gia đua ngựa trên chặng đường từ Pimlico đến Tijuana. Khi một uỷ viên hội đồng đua ngựa tại công viên Hollywood đuổi Fiore vì đã dùng chất kích thích cho ngựa, một tuần sau xác của ông ta được tìm thấy đang trôi nổi trên hồ Tahoe.
Cả ba tên đều là quân trong gia đình Antonio Granelli, nhưng chính Michael Moretti đã mua chúng và chúng đã thuộc về y, cả linh hồn cũng như thể xác.
Cuộc họp của gia đình đang diễn ra trong phòng ăn. Ngồi chủ tọa bàn họp là Antonio Granelli, ca-phô [1] của gia đình mafia mạnh nhất ở bờ biển phía đông. Ở tuổi 72, ông ta vẫn là người trông còn tráng kịên với đôi vai và bộ ngực rộng của một người lao động, cùng mớ tóc trắng bù xù. Sinh trưởng tại Palermo ở đảo Sicily. Năm 15 tuổi, Antonio Granelli đến Mỹ và làm việc tại bến cảng phía tây thuộc khu dưới Manhattan. Đến 21 tuổi, anh ta đã là người thay thế ông chủ cầu cảng. Hai người đã tranh cãi nhau và khi ông chủ bí ẩn biến mất, Antonio Granelli thay thế. Bất cứ ai muốn làm việc ở cầu cảng đều phải trả tiền cho anh ta. Anh ta đã dùng tiền để leo dần lên bậc thang quyền lực và đã mở rộng nhanh chóng vào các ngành như lừa gạt nợ, tống tiền, mãi dâm, cờ bạc, thuốc phiện và giết người. Trong những năm qua, Granelli đã bị truy tố 32 lần và chỉ bị kết án nhẹ một lần về tội hành hung. Granelli là kẻ nhẫn tâm, hoàn toàn phi đạo lý với tính xảo quyệt thực tế của một người nông dân.
Ngồi bên trái Granelli là Thomas Colfax, cố vấn của gia đình. Trước đây 25 năm, tương lai Colfax đầy xán lạn khi làm luật sư cho một tổ hợp, nhưng ông ta đã bảo vệ cho một công ty nhỏ kinh doanh dầu ôliu mà sau hóa ra là do mafia kiểm soát, và dần dần ông đã bị dẳn dắt vào giải quyết các vụ việc khác cho mafia, đến khi cuối cùng qua nhiều năm, gia đình Granelli trở thành khách hàng riêng của ông ta. Đó là một khách hàng rất có lợi và Thomas Colfax đã trở nên một kẻ giàu có với số bất động sản ngày càng nhiều và tài khoản ngân hàng trên khắp thế giới.
Phía bên phải Antonio Granelli là Michael Moretti, con rể ông ta: Michael đầy tham vọng, đó là điểm làm cho Granelli lo lắng. Michael không hợp với mẫu người trong gia đình. Cha y, Giovanni, có họ xa với Antonio Granelli, không phải sinh ở Sicily mà ở Florence. Chỉ riêng điều đó đã làm cho gia đình Granelli phải nghi ngờ, vì mọi người đều biết rằng người Florence không đáng tin cậy.
Giovanni Moretti đến Mỹ và mở một cửa hàng làm giày kinh doanh rất trung thực và thậm chí không hề có phòng hậu dành cho đánh bạc, lừa gạt nợ hoặc gái. Điếu đó khiến mọi người coi ông ta như kẻ ngớ ngẩn.
Con trai Giovanni là Michael lại hoàn toàn khác. Y có chí vào học tại trường kinh doanh Wharton và Yale. Khi tốt nghiệp, Michael đến gặp bố với một yêu cầu được gặp Antonio Granelli và họ hàng xa của y. Người làm giày già nua đến gặp họ hàng ông ta và đã sắp xếp được cuộc gặp gỡ. Granelli chắc rằng Michael sẽ hỏi vay tiền để kinh doanh một công việc nào đó, có thể như mở một cửa hàng giày giống như người cha lầm lì của y. Nhưng cuộc gặp gỡ mang đầy ngạc nhiên.
“Tôi biết cách làm cho ông giàu có” Michael Moretti bắt đầu câu chuyện.
Antonio Granelli nhìn vào gã trai trẻ lấc cấc và cười mỉm độ lượng.
“Tôi giàu rồi”.
“Không. Đó là ông nghĩ vậy thôi”.
Nụ cười chợt biến mất. “Mày đang nói cái gì vậy, nhóc?”
Và Michael Moretti đã mách bảo cho ông ta.
Đầu tiên, Antonio Granelli hành động rất thận trọng, thử kỹ từng phần lời khuyên của Michael. Mọi việc đều đã thành công rực rỡ. Trước đây, gia đình Granelli chỉ quan tâm đến những hoạt động bất hợp pháp mang lại lợi nhuận, thì nay dưới sự giám sát của Michael Moretti, công việc được mở rộng ra các ngành khác. Trong vòng 5 năm, gia đình Granelli đã lao vào nhiều công việc kinh doanh hợp pháp, bao gồm việc đóng hộp thịt, cung cấp vải lãnh, mở các cửa hàng ăn, các công ty vận tải và các hiệu được phẩm. Michael đã tìm ra các công ty gặp khó khăn về tài chính và gia đình đầu tư vào với tư cách là bên góp cổ phần thứ yếu và dần dần kiểm soát, tước đoạt hết mọi tài sản hiện có tại công ty. Các công ty lâu năm có danh tiếng hoàn hảo bỗng nhiên tự thấy bị phá sản. Các công việc kinh doanh đó đã đưa đến một lợi nhuận khá thỏa mãn và Michael tiếp tục duy trì, nâng lợi nhuận lên rất cao, bởi vì các công nhân làm việc tại đó bị công đoàn của y chi phối và công ty lại mua bảo hiểm thông qua một trong những công ty bảo hiểm của gia đình, đồng thời họ lại mua ôtô từ một trong những hãng buôn bán ôtô của gia đình. Michael đã tạo ra một hệ thống khổng lồ gồm một loạt công việc kinh doanh, qua đó người tiêu dùng luôn bị bòn rút và số tiền đó chảy vào túi của gia đình.
Mặc dù đạt được nhiều thành công nhưng Michael Moretti luôn biết rằng y luôn có vấn đề. Một khi y đã chỉ cho Antonio Granelli thấy sự giàu có, đó là chân trời xán lạn của các xí nghiệp hợp pháp thì Granelli không còn cần y nữa. Y cũng giàu có bởi ngay từ ban đầu y đã thuyết phục được Antonio Granelli dành cho y một số phần trăm lợi nhuận và người ta tưởng là không đáng kể. Nhưng khi các ý kiến của Michael bắt đầu mang lại kết quả và lợi nhuận đổ vào, Granelli đã suy nghĩ lại. Tình cờ Michael được biết là Granelli đã tổ chức một cuộc họp để thảo luận vấn đề liệu gia đình nên làm gì đối với y.
“Tôi không muốn thấy toàn bộ số tiền đó rơi vào tay thằng nhóc” - Granelli nói - “Chúng ta phải loại trừ hắn”.
Michael đã làm hỏng kế hoạch đó bằng cách cưới xin để lọt vào gia đình. Rosa, con gái duy nhất của Antonio Granelli đã 19 tuổi. Mẹ cô chết trong khi sinh cô. Rosa được nuôi dưỡng trong tu viện và chỉ được phép về thăm nhà vào ngày lễ. Bố cô rất yêu quý cô, ông luôn chăm lo đến việc cô được bảo vệ và che chở. Rosa đã gặp Michael Moretti vào kỳ nghỉ lễ phục sinh. Đến khi trở lại tu viện, cô đã yêu y say đắm. Ký ức về khuôn mặt đẹp trai hơi ngăm ngăm của y đã khiến cô, khi ở một mình, làm những điều mà các nữ tu sĩ đã bảo cô là tội lỗi phỉ báng chúa.
Antonio Granelli đã tưởng rằng con gái ông coi ông chỉ là một nhà kinh doanh có tài, nhưng năm tháng qua, bạn bè cùng lớp Rosa đã cho cô xem những bài báo và tạp chí về bố cô, và công việc thực sự của ông, và bất cứ khi nào chính phủ định truy tố hay kết án ai trong gia đình Granelli, Rosa đều biết được. Cô không hề bàn cãi điều này với bố, bởi vậy ông vẫn vui mừng tin rằng con gái còn thơ ngây, và cô sẽ tránh được con sốc của sự thật.
Nếu như ông biết, sự thực có lẽ làm Granelli ngạc nhiên, bởi vì Rosa thấy công việc của bố cực kỳ thú vị. Cô căm ghét kỷ luật của các tu sĩ tại tu viện và điều đó dẫn đến việc cô ghét tất cả mọi chính quyền. Cô luôn mơ mộng về bố cô như là Robin Hood, thách thức mọi cường quyền, chống lại chính phủ. Việc Michael Moretti là một nhân vật quan trọng trong tổ chức của bố cô, đã khiến y hấp dẫn hơn nhiều đối với cô.
Ngay từ đầu, Michael đã rất thận trọng trong việc đối xử với Rosa. Khi y ở một mình với cô, họ thường ôm hôn nhau thắm thiết nhưng Michael không bao giờ để việc đó đi quá xa. Rosa đang còn con gái nhưng cô sẵn sàng, thậm chí nóng lòng trao cuộc đời của cô cho người mà cô yêu. Michael là người đã kiềm chế được.
“Anh quá tôn trọng em, Rosa, nên không thể ăn nằm cùng em trước khi cưới”.
Thực sự người mà y quá tôn trọng lại là Antomo Granelli. Hắn sẽ thiến ta mất, Michael nghĩ. Và sự việc đó xảy ra vào lúc Antomo Granelli đang bàn cách tốt nhất để loại bỏ Michael Moretti. Michael và Rosa đã đến gặp ông, nói rằng họ yêu nhau, và dự định sẽ cưới. Ông già tức giận hét lên và đưa ra hàng trăm lý do rằng điều đó chỉ có thể xảy ra khi một trong hai người chết. Nhưng cuối cùng, tình yêu chân chính đã chiến thắng, Michael và Rosa đã tổ chức cưới với nghi lễ trọng thể.
Sau đám cưới, ông già gọi Michael đến bên.
“Rosa là tất cả những gì tao có, rõ chưa, Michael. Mày sẽ chăm sóc nó chu đáo chứ?”
“Vâng, thưa bố!”
“Tao sẽ phải theo sát mày. Mày nên làm cho nó hạnh phúc. Mày biết tao muốn gì chứ, Mike?”
“Con biết ạ”.
“Không được chơi gái, hiểu chưa? Rosa rất thích nấu nướng. Mày nhớ phải ở nhà ăn tối thường xuyên. Mày phải là một đứa con rể đáng được tự hào”.
“Con sẽ cố gắng nhiều, thưa bố”.
Antonio Granelli nói thản nhiên: “Này, Michael, bây giờ mày đã là một thành viên của gia đình, nên những thỏa thuận về số tiền lợi nhuận cho mày có lẽ cần phải thay đổi”.
Michael vỗ nhẹ lên tay ông: “Con cám ơn bố, nhưng số đó cũng đủ cho chúng con rồi. Con sẽ có thể mua cho Rosa mọi thứ mà cô ấy muốn”.
Sau đó y bỏ đi, để mặc ông già nhìn theo.
Điều đó đã xảy ra cách đây 7 năm và những năm tiếp theo rất tuyệt vời đối với Michael. Rosa rất thoải mái, dễ sống cùng và cô ngưỡng mộ y nhưng Michael biết rằng, nếu như cô ta chết, hoặc bỏ đi, y có thể tiếp tục sống mà không cần có cô. Y có thể tìm dễ dàng một người khác làm mọi điều mà cô ta đã làm cho y không yêu Rosa. Michael không hề nghĩ rằng y có thể yêu một con người khác. Điều đó như là không tồn tại trong y.
Y không hề có tình cảm đối với mọi người, ngoài các con thú. Khi tròn 10 tuổi, Michael đã được tặng một con chó chăn cừu nhỏ. Từ đó cả hai luôn gắn liền với nhau. Sáu tuần sau, con chó đã bị chết trong một tai nạn mà người lái xe bỏ chạy mất. Khi bố Michael định mua cho y một con chó khác, y đã từ chối. Y không bao giờ có một con chó khác kể từ khi đó.
Khi trưởng thành, Michael đã chứng kiến bố y phải làm nô lệ cả cuộc đời vì những đồng xu, và Michael đã quyết tâm để điều đó không bao giờ xảy ra đối với y. Y đã biết những gì y muốn, kể từ lần đầu được nghe thấy người họ hàng xa nổi tiếng của y là Antonio Granelli. Có 26 gia đình mafia ở Mỹ, trong đó có 5 gia đình ở thành phố New York mà gia đình Antonio mạnh nhất. Từ thuở thơ ấu, Michael đã rất thích thú những câu chuyện về mafia. Bố y đã kể cho y nghe về đêm ngày 10-9-1931 ở vùng Vespers của người gốc Sicily khi cán cân quyền lực được chuyển giao. Chỉ trong tối hôm đó, những người trẻ tuổi gốc Thổ của tổ chức mafia đã gây ra cuộc lật đổ đẫm máu, giết chết hơn 40 người thuộc thế hệ già có gốc từ Ý và đảo Sicily.
Michael là người thuộc thế hệ mới. Y đã từ bỏ những suy nghĩ cũ và đã đưa ra những ý kiến đầy mới mẻ. Một Ủy ban quốc gia gồm 9 người, hiện nay đã kiểm soát tất cả các gia đình và Michael biết rằng một ngày nào đó, y sẽ chỉ đạo Ủy ban này.
Lúc này, Michael quay ra quan sát hai người đàn ông ngồi tại bàn trong phòng ăn ở trang trại New Jersey. Antomo Granelli còn sống được một vài nắm nữa, nhưng thật may mắn là không quá lâu.
Thomas Colfax là địch thủ. Gã luật sư này đã chống Michael ngay từ đầu. Khi ảnh hưởng của Michael đối với ông già tăng lên, thì ảnh hưởng của Colfax bị giảm đi.
Michael đã đưa ngày càng nhiều người của y vào trong tổ chức, những người như Nick Vito, Salvatore Fiore và Joseph Colella, tuyệt đối trung thành với y. Thomas Colfax không thích điều này.
Khi Michael bị truy tố về tội đã giết anh em gia đình Ramos, và Camillo Stela đồng ý làm chứng chống lại y tại tòa án, gã luật sư già tin rằng cuối cùng gã sẽ loại trừ được Michael, bởi vì viên chưởng lý khu vực rất nghiêm khắc.
Michael đã nghĩ được kế thoát ra khỏi vụ án vào giữa đêm hôm đó. Lúc bốn giờ sáng, y đã đi đến trạm điện thoại tự động và gọi Joseph Colella.
“Tuần sau có vài luật sư mới sẽ tuyên thệ nhậm chức trong văn phòng viên chưởng lý quận. Mày có thể cho tao biết tên của chúng được không?”
“Tất nhiên! Mike. Dễ thôi”.
“Còn điều này nữa. Hãy gọi cho nhóm ở Detroit và thu xếp chuyến bay cho chúng. Bố trí một tên chưa từng bị theo dõi”.
Sau đó Michael gác máy.
Hai tuần sau, Michael Moretti ngồi trong phòng xét xử quan sát những người trợ lý của viên chưởng lý quận y xem xét họ một cách kỹ lưỡng, đảo mắt tới từng khuôn mặt vừa tìm kiếm, vừa tỉnh táo. Điều mà y dự định làm rất nguy hiểm, nhưng can đảm thì có thể làm được. Y đang phải đương đầu với những người tập sự trẻ tuổi, mà họ thường lo lắng không dám đưa ra quá nhiều câu hỏi, nhưng rất sẵn lòng giúp đỡ và muốn được nổi tiếng. Tất nhiên sẽ phải làm cho ai đó trở nên nổi tiếng.
Cuối cùng Michael đã lựa chọn Jennifer Parker. Y rất thích thú trước việc cô ta chưa từng trải, luôn tỏ ra căng thẳng và đang cố gắng che giấu điều đó. Y cũng cho rằng đàn bà thường bị nhiều sức ép hơn đàn ông. Khi Michael hài lòng với quyết định của mình, y quay sang gã đàn ông mặc bộ đồ màu xám ngồi giữa những người tham dự phiên tòa và gật đầu về phía Jennifer. Tất cả chỉ có vậy!
Michael đã quan sát viên chưởng lý quận kết thúc việc kiểm tra chứng cứ đối với tên chó đẻ Camillo Stela. Ông ta quay sang Thomas Colfax và nói: “Xin mời người đối chất của ông”.
Thomas Colfax đứng dậy. “Nếu như ngài cho phép, tôi không muốn cuộc đối chất của tôi bị ngắt quãng vì giờ đã gần trưa rồi. Tôi có thể yêu cầu tòa tạm dừng để nghỉ trưa và tôi sẽ đối chất vào buổi chiều được không?”
Sau đó tòa “tạm nghỉ”. Và bây giờ đã đến lúc hành động! Michael trông thấy người của y thản nhiên trôi vào dòng người vây quanh viên chưởng lý quận, gã đó đã nhập vào một nhóm người. Một lúc sau gã đi về phía Jennifer và đưa cho cô ta một phong bì lớn. Michael vẫn ngồi đó, nín thở, thầm cầu mong Jennifer cầm lấy phong bì đi về phía phòng nhân chứng. Cô ta đã làm đúng như vậy. Mãi đến khi Michael trông thấy cô ta quay lại tay không, thì y mới cảm thấy nhẹ nhõm.
Chuyện đó đã xảy ra cách đây một năm. Báo chí đã làm ầm ỹ về cô gái, nhưng đó là việc của cô ta. Michael không hề nghĩ gì nữa về Jennifer Parker. Cho đến khi gần đây báo chí lại bắt đầu viết về phiên tòa Abraham Wilson. Báo chí đưa lại trường hợp cũ của vụ Michael Moretti và vai trò của Jennifer Parker, trong đó họ chụp cả ảnh của cô. Cô ta trông rất hấp dẫn, nhưng còn một điều nữa là cảm giác về tính tự chủ của cô đã gây được ấn tượng đối với y. Y đã nhìn ảnh đó rất lâu.
Michael bắt đầu theo dõi phiên tòa Abraham Wilson với một sự thích thú ngày càng tăng. Khi chúng kỷ niệm thắng lợi tại bữa ăn sau khi Michael được tuyên bố trắng án, Salvatore Fiore đã nâng cốc chúc mừng: “Thế giới này đã loại trừ được một tên luật sư chết tiệt nữa”. Nhưng thực sự thế giới này không thể loại trừ được cô ta, Michael nghĩ. Jennifer Parker đã lại sức và vẫn còn ở đó để chống chọi. Michael rất thích thú điều đó.
Y đã xem cô ta trên vô tuyến vào tối hôm trước, thảo luận việc cô ta thắng Robert Di Silva và thật kỳ cục là Michael đã rất hài lòng.
Antomo Granelli đã hỏi: “Thế cô ta không phải do mày dựng lên để nói lại những điều mày muốn à, Michael?”
“Ô, nhưng cô ta cũng có suy nghĩ riêng, bố ạ. Có thể chúng ta sẽ sử dụng cô ấy vào một ngày gần đây”.
Một ngày sau khi tuyên án vụ Abraham Wilson, Adam Warner đã gọi điện đến. “Tôi chỉ muốn điện thoại để chúc mừng cô”.
Jennifer đã nhận ra ngay giọng anh và nó đã gây ấn tượng hơn là cô tưởng.
“Tôi là...”
“Tôi biết rồi”. Lạy chúa, Jennifer nghĩ “Mình đã nói gì vậy? Không có lý gì để cho Adam biết là trong những tháng qua cô đã từng nghĩ đến anh như thế nào”.
“Tôi muốn nói rằng tôi nghĩ cô đã giải quyết vụ Abraham Wilson rất tuyệt. Cô thật xứng đáng đạt được điều đó”.
“Cảm ơn anh”. Anh ấy sắp gác máy mất. Jennifer thầm nghĩ. Mình sẽ không bao giờ được gặp lại anh ấy mất. Có lẽ anh ấy quá bận rộn với gia đình.
Nhưng Adam Warner nói tiếp: “Tôi đang tự hỏi liệu cô có thể đi ăn tối với tôi vào một hôm nào đó được không?”
Đàn ông thường không thích những cô gái quá dễ dãi. Jennifer nghĩ nhưng vẫn nói: “Tối nay, thì sao?”
Jennifer nghe thấy tiếng cười trong giọng nói của anh ta. “Tôi e rằng tối rỗi rãi đầu tiên của tôi lại là thứ sáu. Cô có bận không?”
“Không”. Suýt nữa thì cô nói thêm “tất nhiên là không”.
“Tôi sẽ đón cô tại nhà chứ?”
Jennifer nghĩ đến căn hộ nhỏ bé tối tăm của mình với chiếc ghế dài lồi lõm và chiếc bàn để là đặt ở một góc.
“Tốt hơn là chúng ta nên hẹn nhau ở đâu đó”.
“Cô có thích đồ án ở tiệm Lutece không?”
“Tôi có thể nói cho anh biết sau khi tôi đã ăn ở đó được không?”
Anh ta phá lên cười. “Tám giờ tối nhé?”
“Tốt thôi”.
Tốt thôi. Jennifer gác ông nghe và ngồi yên với vẻ mặt đỏ ửng thẹn thùng. Thật nực cười, cô nghĩ. Có thể anh ta đã có vợ và vài tá con ấy chứ. Điều gần như đầu tiên mà Jennifer chú ý về Adam khi họ ăn tối trước đây là anh ta không đeo nhẫn cưới. Chứng cứ đó chưa thể kết luận được, cô nghĩ gượng gạo. Chắc cần phải có một bộ luật buộc mọi người chồng phải đeo nhẫn cưới.
Ken Bailey chợt bước vào phòng. “Cô luật sư có khỏe không?” Anh ta nhìn kỹ cô hơn. “Trông cô như vừa bị khách hàng quấy rầy ấy”.
Jennifer ngập ngừng giây lát, rồi nói: “Ken này, anh có thể giúp kiểm tra một người cho tôi được không?”
Anh bước lại bàn cô, lấy tập giấy và cái bút chì. “Cô nói đi. Ai vậy?”
Cô định nói tên của Adam, sau đó lại dừng lại và cảm thấy mình như bị khùng. Mình chõ mũi vào đời sống riêng tư của Adam Warner làm gì cơ chứ? Lạy chúa, cô tự nhủ, anh ấy chỉ mời mình ăn tối thôi mà, chứ có phải cưới anh ấy đâu. “À, không có gì đâu”.
Ken đặt bút chì xuống. “Thì cô nói gì cũng được”.
“Ken này...”
“Gì cơ?”
“Adam Warner. Tên anh ta là Adam Warner”.
Ken nhìn cô đầy vẻ ngạc nhiên. “Trời đất ơi, cô không cần tôi kiểm tra anh ta làm gì. Chỉ cần đọc báo là rõ thôi”.
“Anh biết gì về anh ta?”
Ken Bailey ngồì phịch xuống ghế đối diện Jennifer và lồng các ngón tay vào nhau.
Để tôi xem xem. Anh ta có cổ phần trong công ty Needham, Finch, Pierce và Warner; tốt nghiệp đại học Luật ở Harvard; xuất thân từ gia đình nổi tiếng giàu có; ở giữa quãng tuổi từ 30 đến 40...
Jennifer tò mò nhìn anh. “Làm sao anh biết về anh ta nhiều vậy”.
Ken nhấp nháy mắt: “Tôi có bạn bè giữ cương vị khá cao. Nghe nói là họ định đưa ông Warner ra tranh cử vào thượng nghị viện. Thậm chí họ còn có lúc muốn anh ta ra tranh cử tổng thống. Anh ta có mọi đức tính có thể thu hút được cử tri”.
Anh ấy chắc chắn có, Jennifer thầm nghĩ. Cô cố gắng đặt câu hỏi tiếp theo tự nhiên hơn. “Thế cuộc sống riêng tư của anh ta ra sao?”
Ken Bailey nhìn cô một cách kỳ quặc. “Anh ta lấy con gái một viên cựu Bộ trưởng hải quân. Cô vợ là cháu gái của Steward Needham, bạn cùng hành nghề luật với Warner”.
Trái tim Jennifer như tan vỡ. Vậy ra là thế đó.
Ken quan sát cô, lo lắng. “Vì sao bỗng nhiên cô lại quan tâm đến Adam Warner thế?”
“Tôi chỉ tò mò một chút thôi”.
Sau khi Ken Bailey đi khỏi, Jennifer ngồi lại nghĩ về Adam. Anh ấy mời mình ăn tối với tác phong nhã nhặn chuyên nghiệp. Anh ấy chỉ muốn chúc mừng mình thôi. Nhưng anh ấy đã làm như vậy qua điện thoại rồi mà. Không rõ vì sao lại thế nhỉ? Mình sẽ gặp lại anh ấy, không hiểu anh ấy liệu có nhắc đến việc anh ấy có vợ rồi không? Tất nhiên là không rồi. Thôi được mình sẽ đi ăn tối với Adam vào thứ sáu và sẽ chỉ có vậy thôi.
Cuối chiều hôm đó, Jennifer đã nhận được điện thoại gọi từ công ty “Peabody và Peabody”. Người gọi điện chính là ông chủ cao cấp của hãng.
“Tôi định gọi cho cô từ lâu rồi”. Ông ta nói “Tôi tự hỏi liệu cô có thể ăn trưa với tôi vào ngày gần đây được không?”
Giọng nói bình thản của ông ta không lừa được Jennifer. Cô tin rằng ý nghĩ ăn trưa với cô không hề có trong ông ta, đến tận khi ông ta đã đọc được về quyết định vụ án Abraham Wilson. Chắc chắn không phải ông muốn gặp cô để thảo luận việc đưa các trát hầu tòa.
“Ngày mai nhé”, Ông ta mời “Tại câu lạc bộ của tôi”.
Họ gặp nhau vào bữa cơm trưa hôm sau. Người cha thuộc hãng Peabody là một ông già xanh xao, giống như con trai ông nhưng có già hơn. Chiếc áo gi-lê không che giấu được cái bụng lép kẹp của ông ta.
Jennifer không hề cảm thấy thích ông già này cũng như đứa con trai của ông.
“Công ty của chúng tôi đang thiếu chỗ cho một luật sư trẻ, tài ba trong các vụ xét xử, thưa cô Parker. Chúng tôi có thể trả cho cô lương khởi điểm là 15 nghìn đô la một năm”.
Jennifer ngồi đó lắng nghe ông ta, thầm nghĩ rằng một năm trước đây lời đề nghị đó thật đáng giá biết bao đối với cô, khi mà cô đang tuyệt vọng đi tìm việc và cần được ai đó đặt lòng tin vào khả năng của cô.
Ông ta nói tiếp: “Tôi chắc trong một vài năm nữa sẽ có cổ phần cho cô trong hãng chúng tôi”.
15 nghìn đô la một năm và được góp cổ phần.
Jennifer nghĩ về văn phòng nhỏ của cô chung với Ken và căn hộ phải leo bộ bốn tầng tồi tàn, chật chội của cô với bệ lò sưởi giả.
Ông Peabody cho sự im lặng của cô có nghĩa là đồng ý.
“Rất tốt. Chúng tôi muốn cô bắt đầu công việc càng sớm càng tốt. Có thể cô làm việc vào thứ hai. Tôi...”
“Tôi không muốn”.
“Ồ. Nếu như thứ hai không thuận tiện cho cô...”
“Không, tôi muốn nói là tôi không thể chấp nhận đề nghị của ông, ông Peabody ạ”. Jennifer nói, và tự cô cũng thấy ngạc nhiên.
“Ra thế”. Ông ta im lặng một chút “Có thể chúng tôi sẽ trả cô hai mươi nghìn đô la một năm vậy”. Ông ta thấy nét mặt cô thay đổi. “Hay 25 nghìn? Tại sao cô không cân nhắc việc này nhỉ?”
“Tôi đã cân nhắc rồi. Tôi sẽ tự mình tiếp tục công việc”.
Khách hàng bắt đầu tìm đến. Tuy không được dồi dào nhưng vẫn có khách hàng. Văn phòng của cô trở nên quá nhỏ bé.
Vào một buổi sáng lúc Jennifer để hai khách hàng đợi bên ngoài ở lối vào, trong khi cô đang giải quyết công việc với người khách thứ ba, Ken đã bảo: “Thế này không được rồi! Cô phải chuyển khỏi đây và kiếm một văn phòng tươm tất khác ở phố trên”.
Jennifer gật đầu đồng ý.
“Tôi biết vậy. Tôi cũng đang nghĩ về việc đó”.
Ken đang bận đọc một số giấy tờ, bởi vậy anh đã tránh được phải nhìn thẳng vào mắt cô. “Tôi sẽ rất nhớ cô”.
“Anh nói gì vậy? Anh phải chuyển cùng tôi chứ”.
Những lời đó chìm đi trong một lúc. Anh ngước lên và nụ cười sảng khoái đã làm nhăn nhó khuôn mặt đầy tàn nhang của anh.
“Chuyển cùng cô ấy à?” Anh nhìn quanh căn phòng không cửa sổ chật hẹp. “Và bỏ tất cả những thứ này đi chứ?”
Tuần tiếp theo, Jennifer và Ken Bailey rời đến văn phòng lớn hơn ở khu nhà 500 buồng ở đại lộ số Năm.
Khu nhà mới chỉ được trang bị đồ đạc sơ sài và có ba phòng nhỏ: một phòng cho Jennifer, một phòng cho Ken và một phòng cho người thư ký.
Người thư ký họ thuê là một là cô gái trẻ tên là Cynthia Eliman, vừa tốt nghiệp Đại học Tổng hợp New York.
“Thời gian đầu cô không có nhiều việc đâu”, Jennifer xin lỗi “nhưng mọi việc sẽ khá hơn”.
“Ồ em tin như vậy, thưa chị Parker”. Giọng cô gái đầy vẻ tôn sùng.
Cô ta muốn trở thành người như mình, Jennifer thầm nghĩ. Lạy chúa, đừng để như vậy!
Ken Bailey bước vào phòng và nói: “Này, tôi cảm thấy cô quạnh khi ở một mình trong văn phòng lớn như thế này. Ta có thể ăn tối và đi xem kịch được không?”
“Tôi e rằng tôi..”. Cô hơi mệt mỏi và còn phải đọc một số bản tóm tắt vụ án, nhưng Ken là bạn thân nhất của cô, nên cô không thể từ chối anh được.
“Tôi rất muốn đi”.
* * * * *
Họ đi xem vở Tràng vỗ tay hoan nghênh, và Jennifer rất thích vở đó. Diễn viên Lauren Bacal cực kỳ hấp dẫn. Sau đó Jennifer và Ken đã ăn tối ở nhà hàng Sardi.
Khi họ đã gọi món ăn, Ken nói: “Tôi có hai vé xem ba lê vào tối thứ sáu. Tôi nghĩ rằng có thể...”
Jennifer ngắt lời: “Tôi xin lỗi, Ken ạ. Tối thứ sáu tôi lại bận mất rồi”.
“Ồ!” Giọng anh hơi chán nản.
Nhiều lần, Jennifer thấy Ken nhìn chằm chằm cô khi anh tưởng rằng không bị ai chú ý, và khuôn mặt anh biểu lộ một tình cảm mà Jennifer cảm thấy khó có thể định nghĩa được. Cô biết rằng Ken cô độc, mặc dù anh không bao giờ nói chuyện về bạn bè và cuộc sống riêng tư của anh. Cô không thể quên được những điều Otto đã nói với cô và cô tự hỏi là liệu bản thân Ken có biết anh muốn gì ở cuộc sống này hay không. Cô luôn mong muốn có thể giúp được anh bằng cách nào đấy.
Jennifer cảm thấy ngày thứ sáu đó như không bao giờ đến. Khi buổi hẹn ăn tối cùng Adam Warner đến gần, Jennifer càng thấy khó tập trung hơn vào công việc. Cô luôn thấy mình nghĩ về Adam. Cô biết rằng mình thật buồn cười. Cô chỉ gặp người đàn ông đó có một lần trong cuộc đời, vậy mà cô không thể xóa nhòa hình ảnh anh trong suy nghĩ của mình. Cô đã cố tự bào chữa bằng cách tự nhủ rằng đó là vì anh đã cứu cô, khi cô phải đương đầu với việc bị khai trừ khỏi đoàn luật sư sau đó lại gửi các khách hàng đến cho cô. Đó là sự thực nhưng Jennifer biết rằng còn hơn thế. Đó là điều mà cô không thể giải thích được, thậm chí đối với bản thân cô. Cảm giác cô chưa hề có trước đây, đó là sự quyến rũ mà cô chưa từng cảm thấy đối với bất kỳ người đàn ông nào khác. Cô tự hỏi vợ Adam Warner như thế nào nhi. Cô ta chắc là một trong những người đàn bà đã được chọn lựa sẵn, và thứ tư hàng tuần thường qua cánh cửa ở hiệu Elizabeth Arden, để được trang điểm tỉa tót từ đầu tới chân trong một ngày. Cô ta có lẽ rất bóng bẩy và thạo đời, với tinh hoa chói lọi của một người giàu có giao thiệp rộng.
Vào mười giờ buổi sáng thứ sáu thần kỳ đó, Jennifer có hẹn đến làm đầu tại tiệm người Ý mà theo cô thư ký Cynthia thì tất cả những người mẫu đều đến làm đầu ở đây. Nhưng lúc mười giờ rưỡi cô lại gọi điện đến hủy bỏ. Vào lúc mười một giờ, cô lại hẹn lại.
Ken Bailey mời Jennifer đi ăn trưa, nhưng cô hồi hộp quá nên không thể ăn được gì. Thay vào đó, cô đi mua sắm ở cửa hàng Bendel. Cô đã mua một cái váy the ngắn màu xanh sẫm phù hợp với đôi mắt của cô, một đôi giày khiêu vũ thon thon màu nâu và một chiếc ví tương xứng. Cô biết rằng cô đã tiêu quá nhiều so với ngân quỹ của mình, nhưng cô không thể tự buộc mình ngừng lại được.
Cô đi ngang qua gian hàng nước hoa ở lối ra và một bản năng cuồng nhiệt đã khiến cô mua một lọ nước hoa Joy. Đó là sự cuồng nhiệt bởi vì anh ấy đã có vợ rồi.
Jennifer rời văn phòng lúc năm giờ và về nhà thay quần áo Cô tắm và ăn bận trong hai giờ liền chỉ vì Adam, và khi xong xuôi cô ngắm nghía mình trong gương. Sau đó cô giận dữ chải tung mớ tóc đã được cắt cẩn thận và buộc lại bằng dải băng màu xanh. Như vậy tốt hơn, cô thầm nghĩ. Mình là một luật sư đi ăn tối với một luật sư khác. Nhưng khi đóng cửa lại, cô đã để phảng phất một mùi thơm hoa nhài và hoa hồng trong phòng.
Tiệm ăn Lutece không hề giống như Jennifer tưởng. Cờ ba màu của Pháp tung bay trên lối ra vào của ngôi nhà nhỏ ở thị trấn. Phía bên trong có căn phòng chật hẹp dẫn đến một quán bar nhỏ, và phía ngoài là buồng khách nhiều cửa sổ sáng sủa có các khăn trải bàn bằng gai kẻ sọc vuông. Jennifer được ông chủ tiệm André Soltner đón tại cửa.
“Tôi có thể giúp gì cô?”
“Tôi hẹn gặp ông Adam Warner. Tôi cho rằng tôi đến hơi sớm một chút”.
Ông ta vẫy tay chỉ cho Jennifer về phía quán bar nhỏ. “Cô có muốn uống một chút trong khi chờ đợi không, cô Parker?”
“Thật tuyệt” Jennifer nói “Xin cảm ơn ông”.
“Tôi sẽ bảo người hầu bàn đến”.
Jennifer tìm chỗ ngồi và tự tiêu khiển bằng cách quan sát những phụ nữ đeo đầy nữ trang, ăn mặc áo lông thú đến tiệm cùng bạn đồng hành. Jennifer đã đọc và nghe nhiều về tiệm Lutece. Người ta đồn rằng đó là tiệm ưa thích nhất của bà tổng thống Jacqueline Kennedy và có đồ ăn tuyệt vời.
Một người tóc bạc trông khá bảnh bao bước đến gần Jennifer và nói: “Tôi ngồi với cô một chút không phiền chứ”.
Jennifer ngồi thẳng người dậy.
“Tôi đang đợi một người”. Cô bắt đầu nói “Anh ấy sẽ đến đây...”
Ông già mỉm cười và ngồi xuống ghế.
“Tôi không phải là người tình cờ đâu, thưa cô Parker”. Jennifer nhìn ông một cách ngạc nhiên nhưng không thể nghĩ ra ông ta là ai. “Tôi là Lee Browning, thuộc công ty Hà Lan và Browning”. Đó là một trong những công ty luật có uy tín nhất ở New York. “Tôi chỉ muốn chúc mừng cô về cách cô đã làm trong vụ xét xử Wilson”.
“Cảm ơn ông Browning”.
“Cô gặp dịp may lớn. Đó là trường hợp không thể thắng được - Ông già xem xét cô trong giây lát. - Luật lệ thường là khi cô ở bên bị trong trường hợp bất phân thắng bại, phải đảm bảo rằng công luận không được dính líu tới. Mánh khoé là làm nổi bật những kẻ thắng cuộc và đá bỏ những kẻ thua cuộc. Cô đã làm điên đầu nhiều kẻ trong chúng tôi. Cô đã gọi đồ uống chưa?”
“Chưa...”
“Tôi có thể gọi...?” Ông vẫy tay ra hiệu cho người hầu bàn.
“Anh Victor này, hãy mang cho chúng tôi một chai sâm banh nhãn Do Perignon nhé”.
“Có ngay, thưa ông Browning”.
Jennifer mỉm cười: “Ông không định gây ấn tượng với tôi đấy chứ?”
Ông ta cười phá lên. “Tôi đang cố để thuê cô làm. Tôi hình dung là cô đang được nhiều nơi mời”.
“Cũng có vài nơi”.
“Công ty chúng tôi làm hầu hết công việc của các tập đoàn cô Parker ạ, nhưng một vài khách hàng giàu có thường mất tự chủ và cần một luật sư bảo vệ đối với các vụ tội phạm. Tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể đưa ra một để nghị khá hấp dẫn đối với cô. Cô có muốn đến văn phòng tôi thảo luận vấn đề đó không?”
“Cảm ơn ông Browning. Tôi thật sự cảm kích, nhưng tôi vừa mới dọn đến văn phòng riêng. Tôi đang hy vọng là mọi việc đều thuận lợi”.
Ông già nhìn cô một lúc lâu. “Mọi việc sẽ tốt cả”.
Ông ngước mắt lên nhìn một người đang đến gần, rồi đứng dậy và chìa tay ra: “Chào Adam, anh khỏe chứ!”
Jennifer ngước lên và thấy Adam Warner đang đứng đó bắt tay Lee Browning. Tim cô đập nhanh hơn và cô như cảm thấy má đỏ bừng. Mình thật là cô nữ sinh ngốc nghếch?
Adam Warner nhìn Jennifer và Browning rồi nói:
“Hai người biết nhau à?”
“Chúng tôi vừa mới bắt đầu làm quen nhau”, Lee Browning nói nhẹ nhàng. “Anh đến hơi sớm đấy”.
“Đúng lúc chứ”. Anh cầm tay Jennifer. “Chúc ông may mắn hon trong dịp khác nhé, ông Lee ạ”.
Người hầu bàn chính đến gần Adam. “Ông muốn đặt bàn ăn ngay hay muốn uống một chút ở quầy bar trước, thưa ông Warner?”
“Chúng tôi muốn đặt bàn ăn ngay, Henri ạ”.
Sau khi họ ngồi xuống cạnh bàn ăn, Jennifer nhìn quanh phòng và nhận ra đến nửa tá nhân vật có tiếng tăm.
“Chỗ này như chỗ cho các danh nhân ấy?” Cô nói.
Adam nhìn cô. Hiện giờ thì đúng như vậy đó!
Jennifer cảm thấy lại đỏ bừng mặt. Hãy dừng lại nào, đồ ngốc nghếch ạ. Cô tự hỏi rằng Adam Warner đã đưa bao nhiêu cô gái đến đây rồi trong khi vợ anh ở nhà ngóng đợi. Cô cũng không biết liệu ai trong số đó biết rằng anh đã có vợ, hay là anh luôn giữ được bí mật đó đối với họ. À vậy là cô có một lợi thế hơn. Ngài sẽ phải ngạc nhiên lắm, ngài Warner ạ, Jennifer thầm nghĩ.
Họ gọi đồ uống và thức ắn, sau đó bận rộn nói chuyện. Jennifer để Adam nói hầu hết câu chuyện. Anh tinh nhanh và quyến rũ nên cô tự cố phòng thủ trước sự hấp dẫn đó. Điều này không dễ chút nào. Cô thấy mình mỉm cười khi nghe những câu chuyện vui anh kể.
Chắc chẳng mang lại gì tốt lành cho anh ấy đâu, Jennifer tự nhủ. Cô không tìm kiếm một quan hệ nhanh chóng. Bóng ma của mẹ cô vẫn còn ám ảnh. Cảm giác nồng nàn sâu sắc trong Jennifer làm cho cô e ngại nó bùng nổ và mọi người sẽ thấy.
Họ đang ăn tráng miệng và Adam vẫn chưa hề nói một câu nào để bị hiểu sai. Jennifer đã vô ích dựng lên bức tường bảo vệ để chống lại một sự tấn công không hề có, và cô cảm thấy mình như một kẻ ngốc nghếch. Cô tự hỏi liệu Adam sẽ nói gì nếu như anh biết điều cô đang suy nghĩ cả tối nay. Jennifer cười nhạo sự hư cấu của mình.
“Tôi không thể có dịp cảm ơn anh về các khách hàng mà anh đã đưa đến cho tôi”, Jennifer nói “Tôi đã gọi điện cho anh vài lần, nhưng...”
“Tôi biết cả rồi”. Adam ngập ngừng và ngượng nghịu nói thêm. “Tôi không muốn gọi trả lời lại cô”. Jennifer nhìn anh đầy vẻ ngạc nhiên. “Tôi ngại lắm”, Anh nói rất giản dị.
Chỉ có vậy thôi. Anh đã đột nhiên bắt được cô, phá tan mọi hàng rào bảo vệ, và ý nghĩa lời nói của anh không thể nhầm lẫn được. Jennifer biết những gì sẽ đến tiếp và cô không muốn anh nói điều đó. Cô không muốn anh giống như những kẻ khác, có vợ con rồi mà còn giả vờ độc thân. Cô coi khinh họ và cũng không muốn khinh thường người đàn ông này.
Adam lặng lẽ nói: “Jennifer, anh muốn em biết rằng anh đã có vợ”.
Cô ngồi đó nhìn chằm chằm vào anh, miệng hơi hé mở. “Anh xin lỗi, lẽ ra anh phải nói với em sớm hơn”. Anh cười gượng. “Ờ mà có lúc nào sớm hơn được đâu, phải vậy không em?”
Jennifer tràn ngập nỗi bối rối lạ lùng. “Nhưng, sao, sao anh lại mời em đi ăn tối nay, hả Adam?”
“Vì anh muốn được gặp lại em”.
Mọi việc bắt đầu như hư ảo đối với Jennifer. Cô như thể bị những ngọn sóng thủy triều lớn lôi cuốn đi. Cô ngồi đó lắng nghe Adam nói về tình cảm của anh đối với cô và cô biết rằng mọi lời đó đều là sự thật. Cô biết thế bởi vì cô cũng cảm thấy như vậy. Cô nửa muốn anh ngừng lại đừng nói quá nhiều, nhưng cùng nửa muốn anh tiếp tục nói thêm nữa.
“Anh hy vọng là không xúc phạm em chứ?” Adam nói.
Sự ngượng ngùng đột nhiên của anh đã làm xáo trộn Jennifer.
“Adam, em... em...”
Anh ngắm cô và mặc dầu họ chưa chạm vào nhau, cô như thể đã nằm trong đôi cánh tay anh.
Jennifer nói run rẩy: “Anh hãy kể cho em về vợ anh”.
“Mary Beth và anh lấy nhau từ 15 năm nay. Vợ chồng anh không có con cái”.
“Ra vậy”.
“Cô ấy, à chúng tôi quyết định không có con. Chúng tôi lấy nhau khi còn rất trẻ. Anh biết cô ấy khá lâu. Gia đình chúng tôi là hàng xóm của nhau tại khu nghỉ mát ở Maine. Cha mẹ cô ấy bị chết trong một tai nạn máy bay khi cô ấy 18 tuổi. Nỗi đau đớn làm cho Mary Beth như phát điên. Cô ấy rất là cô độc. Anh, à, sau đó chúng tôi lấy nhau”.
Anh đã cưới cô ấy vì thương xót, anh ấy thật xứng đáng là một người quân tử, Jennifer thầm nghĩ.
“Cô ấy là một phụ nữ tuyệt vời. Chúng tôi luôn quan hệ tốt với nhau”.
Anh nói với Jennifer nhiều hơn cô mong muốn, nhiều hơn điều cô có thể hiểu được. Mọi bản năng trong cô bảo cho cô phải bỏ đi, phải chạy trốn. Trước đây cô có thể dễ dàng đương đầu với những người có vợ đã cố gắng quyến rũ cô, nhưng Jennifer như cảm thấy được rằng lần này hoàn toàn khác. Nếu như cô để mình rơi vào tình yêu của người đàn ông này, có lẽ sẽ không có lối thoát ra. Cô sẽ phát điên phát cuồng nếu dính líu với anh.
Jennifer cẩn thận nói: “Adam, em rất quý anh. Em không muốn dính líu vào những người có vợ”.
Anh mỉm cười, đôi mắt sau cặp kính chứa đầy trung thực và rất ấm áp. “Anh không tìm kiếm một tình yêu vụng trộm. Anh thích được bên em. Anh rất tự hào về em. Anh muốn chúng ta thỉnh thoảng gặp nhau”.
Jennifer suýt nữa nói: “Điều đó có ích gì đâu” nhưng những lời khác tự bật ra. “Điều đó thật tuyệt”.
Vậy chúng ta sẽ cùng ăn trưa mỗi tháng một lần. Jennifer nghĩ. Điều đó sẽ không hề hại gì đến ai cả.
Xem tiếp chương 11
----------------- Bài viết của đc ghép lại-----------------------
Chương 11
Một trong những khách đến văn phòng mới của cô là đức cha Ryan. Ông dạo quanh ba căn phòng nhỏ và nói: “Thật là đẹp. Chúng ta sẽ vươn dần lên trong thế giới này, Jennifer ạ”.
Jennifer cười phá lên. “Thực sự không phải là đang vươn lên trên thế giới đâu, thưa Đức cha. Con còn đường xa mới tới”.
Ông nhìn cô rất thích thú. “Con sẽ làm được điều đó. À này, tuần trước cha đến thăm Abraham Wilson đấy!”
“Anh ấy khỏe chứ ạ?”
“Khỏe. Anh ta đang phải làm việc trong cửa hàng máy của nhà tù. Anh ta nhờ cha chuyển lời chào tới con”.
“Con sẽ phải tự mình đến thăm anh ấy trong một ngày gần đây”.
Cha Ryan ngồi vào ghế của ông, nhìn cô chằm chằm cho tới khi Jennifer nói: “Con có thể làm điều gì cho cha, thưa cha”.
Mặt ông rạng rỡ lên: “À, thôi được, cha biết con có lẽ bận lắm nhưng bây giờ con hỏi, cha muốn nói là một người bạn cha có chút vấn đề. Cô ta bị tai nạn. Cha nghĩ rằng con là người có thể giúp đỡ cô ta”.
Jennifer trả lời như máy: “Bảo cô ấy đến gặp con, thưa cha”.
“Cha nghĩ con phải đi đến đó. Cô ấy bị cụt cả chân tay”.
* * * * *
Connie Garrett sống ở một căn hộ nhỏ và sạch sẽ tại phố Houston. Một bà già tóc bạc trắng đeo tạp dề ra mở cửa cho Jennifer.
“Tôi là Martha Steele, dì của Connie. Tôi sống cùng Connie. Xin mời cô vào. Cháu tôi đang đợi cô đấy”.
Jennifer bước vào căn phòng khách có đồ đạc khá sơ sài Connie Garrett tựa vào gối đỡ bên trong một chiếc ghế bành rộng. Jennifer bị sốc bởi sự trẻ trung của cô ta. Cô cứ tưởng là sẽ gặp một phụ nữ già hơn.
Connie Garrett khoảng 24 tuổi, bằng tuổi Jennifer. Ánh hào quang tuyệt vời hiện ra trên khuôn mặt cô ta và Jennifer cảm thấy kinh sợ vì đó chỉ như là một bức tượng bán thân không hề có chân tay gắn vào. Cô phải cố tránh không rùng mình.
Connie Garrett cười thân mật với cô và nói: “Ngồi xuống đi, Jennifer. Tôi có thể gọi cô là Jennifer được chứ? Cha Ryan đã nói nhiều với tôi về cô. Và tất nhiên là tôi đã thấy cô trên vô tuyến. Tôi rất vui mừng là cô có thể đến”.
Jennifer định nói: “Tôi rất vui lòng”, nhưng chợt nhận ra điều đó dường như vô nghĩa biết bao. Cô ngồi xuống một chiếc ghé mềm, dể chịu, đối diện với cô gái trẻ.
“Cha Ryan nói rằng cô bị tai nạn vài năm trước. Cô có muốn nóí với tôi chuyện đã xảy ra thế nào không?”
“Tôi e rằng đó là lỗi do tôi. Tôi đang sang đường. Tôi bước khỏi vỉa hè, trượt và ngã xuống trước một chiếc xe tải”.
“Chuyện đó xảy ra bao lâu rồi?”
“Vào tháng 12 ba năm trước. Tôi đang trên đường đến cửa hàng Bloomingdale để mua hàng nhân dịp Nôen”.
“Chuyện gì đã xảy ra sau khi xe tải cán phải cô?”
“Tôi chẳng nhớ gì cả. Tôi thức giấc tại bệnh viện. Họ nói với tôi là xe cấp cứu đã chở tôi đến đó. Xương sống tôi bị thương. Sau đó, họ phát hiện ra xương bị hoại và nó lan rộng ra mãi đến khi...” Cô ta ngừng lại và cố nhún vai. Đó là một cử chỉ rất đáng thương. “Họ cố lắp chân tay giả cho tôi nhưng không được”.
“Cô đã kiện chưa?”
Cô ta nhìn Jennifer bối rối: “Cha Ryan không nói cho cô biết à?”
“Nói gì với tôi cơ?”
“Luật sư của tôi kiện công ty giao thông công chính có xe đâm tôi, nhưng chúng tôi đã thua kiện. Chúng tôi kháng án và lại thất bại nốt”.
Jennifer nói: “Cha lẽ ra phải nói điều đó. Nếu như tòa thượng thẩm đã bác đơn của cô, tôi e rằng không thể làm gì được nữa”.
Connie Garrett gật đầu. “Tôi thực sự không tin như vậy. Tôi chỉ nghĩ... à mà cha Ryan nói cô có thể làm được những việc thần kỳ”.
“Đó là việc của cha, còn tôi chỉ là một luật sư thôi”.
Cô thấy bực với cha Ryan vì đã để Connie Garrett hy vọng hão huyền. Jennifer quyết định chắc chắn sẽ nói chuyện lại với đức cha.
Bà già vẫn đang hút bụi ở phía sau phòng. “Tôi có thể mời cô một chút gì không, thưa cô Palker? Trà và bánh được chứ?”
Jennifer đột nhiên thấy mình rất đói vì cô đã không có thời giờ để ăn trưa. Nhưng khi nghĩ rằng mình ngồi đối diện với Conme Garrett, trong khi cô ta phải chịu bón ăn thì không thể chịu được.
“Thôi, cám ơn bà”, Jennifer nói dối “Tôi vừa ăn trưa xong”.
Jennifer chỉ muốn rời khỏi đây càng sớm càng tốt.
Cô cố nói vài lời vui vẻ trước khi đi, nhưng không nghĩ được gì hết. Đức cha Ryan chết tiệt này?
“Tôi... tôi thực sự xin lỗi. Tôi mong rằng tôi...”
Connie Garrett mỉm cười và nói: “Xin cô không phải bận tâm về việc đó”.
Chính nụ cười đó đã làm thay đổi mọi sự. Jennifer chắc rằng nếu như cô ở địa vị Connie Garrett, cô sẽ không thể bao giờ còn mỉm cười được.
“Luật sư của cô là ai?” Jennifer bỗng nghe thấy giọng mình.
“Melvin Hutcherson. Cô biết ông ấy không?”
“Không, nhưng tôi sẽ thử tìm xem”. Mặc dù không định thế nhưng cô vẫn nói tiếp “Tôi sẽ nói chuyện với ông ta”.
“Cô thật là tuyệt vời”. Giọng nói Connie Garrett đầy ngưỡng mộ.
Jennifer nghĩ rằng cuộc sống của cô gái là như thế đó ngồi suốt ngày, suốt tháng, suốt năm hoàn toàn không có ích gì, không thể làm gì ngay cả cho bản thân cô.
“Tôi e rằng, tôi không thể hứa gì cả”.
“Tất nhiên là không rồi. Nhưng cô cũng phải biết một điều gì đó, phải không thưa cô Jennifer? Tôi cảm thấy vui hơn chỉ vì là cô đã đến”.
Jennifer từ từ đứng dậy. Đã đến lúc phải bắt tay chào, nhưng tay đâu để mà bắt chứ. Cô nói ngượng ngập: “Rất vui được gặp cô, cô Connie ạ. Tôi sẽ có trả lời cho cô”.
Trên đường về văn phòng, Jennifer nghĩ về cha Ryan và quyết tâm rằng cô sẽ không bao giờ nhượng bộ trước sự lấy lòng của ông ta nữa. Bất kỳ ai cũng không thể làm gì cho cô gái tàn phế tội nghiệp đó, và làm cho cô ấy nuôi đôi chút hy vọng nào đó thì thật là không tốt. Nhưng cô phải giữ lời hứa. Cô sẽ nói chuyện với Melvin Hutcherson.
Khi Jennifer trở lại văn phòng, có một loạt thư nhắn gửi cô. Cô nhìn nhanh qua chúng, tìm kiếm xem Adam Warner có nhắn gì không, nhưng không hề có.
Xem tiếp chương 12
Last edited by Memory; 11-08-2008 at 08:52 PM.
Lý do: Hệ thống tự ghép bài chống spam
Melvin Hutcherson là một người thấp bé, hói trán, có mũi tẹt nhỏ và đôi mắt xanh nhạt. Ông ta có một loạt văn phòng ở khu Bờ Tây nghèo nàn. Bàn của cô thư ký trống trải.
“Cô ấy đi ăn trưa rồi” - Melvin Hutcherson giải thích.
Jennifer tự hỏi liệu ông ta có thư ký riêng không? Ông ta đưa cô vào phòng riêng, không rộng hơn phòng đón khách là mấy.
“Cô nói với tôi qua điện thoại là cô muốn nói chuyện về vấn đề của Connie Garrett”.
“Đúng vậy, thưa ông”.
Ông ta nhún vai: “Cũng không có gì đáng nói cả. Chúng tôi đã kiện và thua cuộc. Hãy tin tôi đi, tôi đã làm việc hết mình cho cô ta đấy”.
“Ông cũng lo việc chống án à?”
“Vâng. Chúng tôi cũng thất bại trong vụ đó. Tôi e rằng cô không làm gì được hơn đâu”. Ông ta nhìn cô trong giây lát. “Vì sao cô muốn lãng phí thời gian vào những chuyện như thế này. Cô đang nổi tiếng. Cô có thể làm những vụ kiện được nhiều tiền đấy”.
“Tôi đang muốn giúp một người bạn. Tôi muốn xem biên bản vụ án thì không phiền gì ông chứ?”
“Cô cứ tự nhiên”, Hutcherson nhún vai “Đó là tài sản chung mà”.
Jennifer dành cả tối để xem hết giấy tờ vụ kiện Connie Garett. Điều làm cho cô kinh ngạc là Melvin Hutcherson đã nói lên sự thật: ông ta đã làm việc hết sức ông ta đã buộc cả công ty ô tô quốc gia và thành phố là bên bị cáo, và yêu cầu có hội đồng xét xử. Hội đồng đã miễn tội cho cả hai bị cáo.
Sở vệ sinh thành phố đã làm hết sức để đốì phó với cơn bão tuyết tràn qua thành phố tháng Chạp năm đó; mọi trang thiết bị đã được sử dụng. Thành phố cũng lập luận rằng cơn bão là do Chúa trời gây nên, và nếu như có sao nhãng điều gì là do lỗi của Connie Garrett.
Jennifer đọc sang những lời buộc tội công ty vận tải. Ba nhân chứng đã khẳng định rằng người lái xe đã cố dừng chiếc xe tải lại để tránh đâm nạn nhân, nhưng xe đã bị quay tròn và đâm phải cô ta. Bản án có lợi cho bên bị cáo được ban xét chống án tán thành và vụ việc đó coi như đã xong.
Jennifer đọc xong biên bản vụ án lúc 3 giờ sáng. Cô tắt đèn nhưng không thể ngủ được. Trên giấy tờ thì công lý được thực hiện. Nhưng hình ảnh của Connie Garrett luôn hiện lên trong đầu cô. Một cô gái ở tuổi 20, cụt cả chân tay. Jennifer hình dung ra chiếc xe tải đâm vào cô gái trẻ, về sự tức giận ghê gớm mà cô gái phải chịu đựng, hàng loạt cuộc giải phẫu kinh khủng đã được thực hiện để cắt dần tay chân cô gái. Jennifer bật đèn lên và ngồi dậy trên giường. Cô quay số điện thoại nhà ở của Melvin Hutcherson.
“Trong biên bản không nói gì về các bác sĩ cả”, Jennifer nói vào điện thoại. “Ông đã xem xét khả năng sơ suất về y tế không?”
Một giọng thiếu ngủ đáp: “Đồ mất dạy nào đó?”
“Tôi là Jennifer Parker đây, ông đã...”
“Lạy Chúa tôi! Bây giờ là... là 4 giờ sáng đấy! Cô không có đồng hồ à!”
“Điều này rất quan trọng. Trong đơn kiện không nhắc tới tên bệnh viện. Thế những ca giải phẫu của Connie Garrett thì sao? Ông đã kiểm tra lại chúng chưa?”
Melvin Hutcherson im lặng một chút trước khi cố gắng tập hợp lại suy nghĩ của mình. “Tôi đã nói chuyện với trưởng các khoa thần kinh và chỉnh hình ở bệnh viện đã chăm sóc cô ấy. Việc phẫu thuật là cần thiết để cứu sống cô. Các cuộc phẫu thuật được các chuyên gia giỏi nhất ở đó thực hiện và đã hoàn hảo. Bởi vậy trong đơn kiện không nhắc tới tên bệnh viện”.
Jennifer bỗng nhiên cảm thấy bực tức. “Ra vậy đấy!”
“Thôi này, tôi đã nói trước với cô rồi, cô lãng phí thời giờ về vụ này đấy. Tại sao chúng ta không ngủ một chút đi?”
Sau đó tiếng đặt máy đập vào tai Jennifer. Cô tắt đèn và nằm lại. Nhưng giấc ngủ còn xa vời hơn bất cứ lúc nào. Sau một lúc Jennifer phải từ bỏ cố gắng, nhỏm dậy và pha một ấm cà phê. Cô ngồi trên ghế dài uống cà phê, ngắm nhìn mặt trời mọc trên đường chân trời Manhattan, một màu hồng nhạt dần dần trở thành khối đỏ ối rực rỡ.
Jennifer thấy bực dọc. Mọi sự bất công đều có phương cách đền bù theo luật. Có công bằng không trong vụ Connie Garrett? Cô liếc nhìn đồng hồ trên tường. Đã 6 giờ rưỡi rồi. Jennifer nhấc lại điện thoại và gọi số của Melvin Hutcherson.
“Ông đã kiểm tra hồ sơ của người lái xe tải chưa?” Jennifer hỏi.
Một giọng ngái ngủ cất lên: “Giê-su-ma, lạy Chúa tôi! Cô không thuộc loại người bị điên đấy chứ? Cô ngủ khi nào vậy?”
“Người lái xe tải công cộng ấy. Ông đã kiểm tra hồ sơ của anh ta chưa?”
“Thưa quý cô, quý cô bắt đầu xúc phạm tôi rồi đó”.
“Xin lỗi ông” Jennifer năn nỉ “Nhưng tôi phải biết”.
“Câu trả lời là có ạ. Anh ta có lý lịch tốt. Đây là tai nạn đầu tiên anh ta gây ra”.
Lối đó đã bị đóng kín rồi. Jennifer suy nghĩ mông lung. “Ra thế đó”.
“Cô Parker ạ”, Melvin Hutcherson nói “cô hãy gia ơn cho tôi nhé được không? Nếu như cô muốn hỏi nữa, hãy gọi tôi vào giờ làm việc”.
“Xin lỗi ông”, Jennifer nói lơ đãng. “Ông ngủ lại đi”.
“Cám ơn cô lắm”.
Jennifer đặt máy. Đã đến giờ mặc quần áo đi làm rồi.
Đã ba tuần qua kể từ khi Jennifer ăn tối với Adam tại nhà hàng Lutece. Cô cố gắng không nghĩ về anh nhưng mọi việc đều làm cho cô nhớ đến Adam: những câu nói tình cờ, gáy của một người lạ hoặc một cái cravát giống như cái anh đã từng đeo. Có nhiều người đang cố hẹn hò với cô. Những khách hàng, những luật sư mà cô đã từng phản bác tại tòa án và cả viên chánh án của phiên tòa, buổi tối đã mời cô nhưng Jennifer không muốn ai cả. Các luật sư đã mời cô đi dự các buổi mà được người ta gọi mỉa mai là “ăn ngủ”, nhưng cô không hề thích thú. Sự độc lập của cô là sự thách đố đối với đàn ông.
Ken Bailey luôn ở đó nhưng điều này không làm cho Jennifer bớt cô đơn. Chỉ có một người có thể làm được điều đó thật đáng nguyền rủa anh ta!
Anh ta đã gọi điện tới vào một buổi sáng thứ hai. “Anh nghĩ rằng, anh cần thử liệu xem em có thời gian rỗi để đi ăn trưa hôm nay không?”
Cô không rỗi rãi nhưng cô nói: “Tất nhiên em rỗi”.
Jennifer đã tự thề rằng nếu Adam điện thoại lại cô sẽ tỏ ra thân mật nhưng có khoảng cách, nhã nhặn nhưng chắc chắn sẽ không sẵn lòng.
Nhưng lúc nghe giọng nói của Adam, cô đã quên hết mọi điều và nói tất nhiên là em rỗi.
Đó là từ cuối cùng trên thế giới này mà lẽ ra cô không nên nói.
Họ ăn trưa tại một quán ăn nhỏ ở khu Hoa kiều, và họ nói chuyện liên tục hai giờ mà tưởng chừng như mới có hai phút. Họ nói chuyện về luật, về chính trị, về sân khấu và đã giải quyết tất cả những vấn đề phức tạp trên thế giới. Adam rất thông minh, hiểu biết và tinh nhanh. Anh thực sự rất quan tâm đến việc Jennifer đang làm và đã sung sướng tự hào trước những thành công của cô. Anh ấy có quyền như vậy, Jennifer thầm nghĩ. Nếu không có anh ấy thì mình đã về Kelso, bang Washington rồi.
Khi Jennifer trở lại văn phòng, Ken Bailey đang đợi cô.
“Ăn trưa ngon chứ?”
“Vâng cảm ơn anh”.
“Adam Warner sẽ là một khách hàng phải không?” Giọng của anh cố thản nhiên.
“Không, Ken ạ Chúng tôi chỉ là bạn thôi”. Đó là sự thực.
Tuần tiếp theo Adam mời Jennifer ăn trưa tại phòng ăn riêng của Công ty luật của anh. Jennifer có ấn tượng trước khu nhà văn phòng hiện đại và đồ sộ.
Adam đã giới thiệu cô với những thanh niên khác của công ty, và Jennifer cảm thấy đôi chút tự hào vì dường như họ đã biết mọi điều về cô. Cô đã gặp Steward Needham một người góp cổ phần lâu năm. Ông ta có thái độ lịch thiệp xa cách với Jennifer và cô nhớ ra rằng Adam đã lấy cháu gái ông ta.
Adam và Jennifer ăn trưa trong phòng ăn được đóng panô bằng gỗ, do một đầu bếp và hai người hầu bàn phụ trách.
“Đây là nơi các bên góp cổ phần đã đưa ra các vấn đề khó khăn của họ”.
Jennifer tự hỏi liệu có phải anh đang nói đến cô không. Cô thật khó lòng tập trung vào bữa ăn được.
Jennifer nghĩ về Adam cả buổi chiều hôm đó. Cô biết rằng cô phải quên anh đi và không được gặp anh nữa. Anh đã thuộc về một người đàn bà khác.
Tối đó, Jennifer cùng Ken Bailey đi xem vở “Hai rồi lại hai” vở diễn mới của Richard Rodgers.
Khi họ bước vào khoảng hành lang rộng, đám đông đang ồn ào, náo nhiệt và Jennifer đã quay ra xem chuyện gì đang xảy ra. Một chiếc xe ôtô đen và dài tiến đến bên hè phố và một cặp bước ra khỏi ôtô.
“Chính ông ta đấy!” một người đàn bà kêu lên và mọi người bắt đầu xúm quanh ôtô. Người lái xe vạm vỡ bước sang một bên và Jennifer trông thấy Michael Moretti cùng vợ y. Chính là đám đông đang tập trung vào Michael. Y trông như một anh hùng dân gian, đẹp trai như một tài tử điện ảnh, đầy can đảm như trí tưởng tượng của mọi người. Jennifer đứng ở hành lang quan sát khi Michael Moretti cùng vợ đi qua đám đông. Michael đi sát qua cách Jennifer khoảng một mét và trong giây lát mắt họ gặp nhau. Jennifer chú ý thấy đôi mắt y đen đến nỗi cô không thể thấy con người của y. Một lúc sau y biến mất vào trong rạp hát.
Jennifer không thể thích thú ngồi xem được. Hình ảnh của Michael Moretti đã mang lại dòng ký ức bẽ bàng trước đây. Jennifer đề nghị Ken đưa cô về nhà ngay khi hết hồi thứ nhất.
Adam gọi điện cho Jennifer vào ngày hôm sau và Jennifer đã tự vạch quyết tâm phải từ chối lời mời của anh. “Cảm ơn anh Adam, nhưng em thực sự rất bận”. Cô tự nhủ.
Nhưng Adam lại nói: “Anh phải đi nước ngoài một thời gian”.
Câu nói như một cú đấm thốc vào bụng. “Anh phải đi bao... bao lâu?”
“Chỉ vài tuần thôi. Anh sẽ gọi điện cho em khi anh trở về”.
“Thế nhé!” Jennifer cố nói vui vẻ. “Chúc anh đi tốt đẹp”.
Cô cảm giác như bị chết điếng. Cô hình dung Adam đang trên bãi biển ở Rio, được các cô gái nửa trần truồng vây quanh hay ở trong nhà chòi tại thành phố Mexicô, uống nước trái cây cùng cô gái mắt đen vừa đến tuổi cập kê, hay ở nhà gỗ tại Thuỵ Sĩ đang làm tình với... Thôi đi! Jennifer tự nhủ. Lẽ ra cô phải hỏi anh sẽ đi đâu. Có thể là chuyến đi vì công việc đến một nơi gớm ghiếc nào đó, mà anh không có thời gian dành cho phụ nữ, có thể là giữa sa mạc nơi anh sẽ làm việc 24 giờ một ngày.
Lẽ ra cô nên đề cập đến vấn đề đó, tất nhiên là phải tự nhiên hơn như là anh phải đi máy bay lâu không? Anh nói được ngoại ngữ nào không? Nếu như anh đến Paris, nhớ mua cho em ít chè Verveine. Em nghĩ rằng việc săn bắn có lẽ vất vả lắm nhỉ. Anh có mang vợ cùng đi không? Ồ, mình lẩn thẩn rồi hay sao?
Ken bước vào phòng và nhìn cô chằm chằm. “Em đang nói gì với chính mình vậy. Em vẫn khỏe chứ?”
“Không!” Jennifer như muốn hét lên. “Tôi cần bác sĩ. Tôi muốn tắm nước lạnh. Tôi cần Adam Warner”. Nhưng cô nói: “Tôi vẫn khoẻ. Chỉ hơi mệt mỏi một chút thôi!”
“Sao em không đi ngủ sớm vào tối nay đi?”
Cô tự hỏi không hiểu Adam cũng sẽ đi ngủ sớm hay không.
* * * * *
Cha Ryan gọi điện tới. “Tôi vừa đến gặp Connie Ganett. Cô ấy nói với tôi là cô đã đến đó vài lần”.
“Vâng, thưa cha”. Nhưng các cuộc thăm viếng chỉ nhằm giảm bớt cảm giác tội lỗi, bởi vì cô không thể giúp gì cả. Thật là đáng bực.
Jennifer lao mình vào công việc nhưng mấy tuần lễ tưởng chừng như kéo dài lê thê. Cô hầu như ngày nào cũng ở tòa án, và hầu như mọi tối đều đọc lại các bản tóm tắt phiên tòa.
“Bớt làm đi em. Em sẽ tự giết mình đó”. Ken khuyên cô.
Nhưng Jennifer cần phải vắt kiệt sức mình cả về tinh thần và thể xác. Cô không muốn có thời gian để suy nghĩ. Mình là người điên rồi, cô thầm nghĩ. Một kẻ điên thật sự. Mãi bốn tuần sau Adam mới gọi lại.
“Anh vừa về tới nhà đây”. Anh nói. Giọng nói của anh làm cô run lên vì sung sướng. “Chúng ta có thể gặp nhau để ăn trưa ở đâu đó được không?”
“Vâng. Em mong như vậy, Adam ạ”. Cô nghĩ rằng mình đã giữ thái độ đàng hoàng. Chỉ nói đơn giản là “em mong như vậy, Adam ạ” thôi.
“Gặp ở Phòng cây sồi ở Plaza được chứ?”
“Được ạ”.
Đó là một phòng ăn giống như chỉ dành cho công chuyện và thiếu vẻ lãng mạn, chứa đầy những kẻ buôn bán đổi chác, những người môi giới chủ ngân hàng đều tuổi trung niên giầu có. Từ lâu nó đã là một trong pháo đài còn lại chỉ dành riêng cho đàn ông, và gần đây mới mở cửa cho đàn bà.
Jennifer đến sớm và kiếm chỗ ngồi. Vài phút sau, Adam xuất hiện. Jennifer ngắm nhìn vóc dáng cao gầy đó đang tiến về phía cô và bỗng nhiên mồm miệng cô như khô cứng. Anh trông rám nắng và Jennifer tự hỏi liệu những câu chuyện hoang tưởng của cô về Adam với các cô gái trên bãi biển có phải là sự thực không. Anh mỉm cười với cô và cầm tay cô. Trong giây phút đó Jennifer đã biết rằng những lập luận của cô về Adam Warner hay những người đã có vợ đều không đáng phải để ý đến. Cô không thể tự làm chủ mình. Như thể là ai đó đang dẫn dắt cô, nói với cô điều cô nên làm, nói với cô điều cô phải làm. Cô không thể giải thích chuyện gì đang xảy ra với cô bởi vì cô chưa từng trải qua những việc như vậy. Hãy gọi đó là phản ứng hóa học chẳng hạn, cô thầm nghĩ. Hoặc gọi là nghiệp chướng hay là thiên đường. Tất cả những điều Jennifer biết, là cô muốn ở trong vòng tay Adam Warner hơn bất cứ những gì cô từng muốn trong cuộc đời. Ngắm nhìn anh, cô hình dung đến lúc anh đang làm tình với cô ôm cô trong tay, cơ thể rắn chắc của anh ở trên cô, bên trong cô, và cô cảm thấy mặt mình đỏ dần lên.
Adam nói giọng xin lỗi: “Xin lỗi anh báo quá gấp. Một khách hàng vừa mới hủy bỏ bữa ăn trưa hôm nay”.
Jennifer thầm cầu nguyện cho ông khách hàng đó.
“Anh mang cho em cái này đây”, Adam nói. Đó là chiếc khăn quàng bằng lụa ánh màu vàng và xanh rất đáng yêu.
“Khăn này ở Milan”.
À đó là nơi anh ấy đã đến. Các cô gái Italia. “Đẹp quá, anh Adam ạ. Em cảm ơn anh”.
“Em đã đến Milan chưa?”
“Chưa ạ, nhưng em đã được xem các bức ảnh về nhà thờ ở đó. Thật là tuyệt vời”.
“Anh không thích xem phong cảnh lắm. Nguyên lý của anh là nếu như anh đã thấy một nhà thờ, tức là anh đã thấy mọi nhà thờ khác”.
Sau này, khi Jennifer nghĩ về bữa ăn đó, cô đã cố nhớ xem họ đã nói chuyện gì, họ đã ăn gì, ai đã dừng lại bên bàn chào Adam, nhưng những gì cô có thể nhớ là sự gần gũi bên Adam, sự đụng chạm và cái nhìn của anh. Như thể anh đã bỏ bùa mê cho cô và cô đã bị thôi miên, không thể thoát ra được. Đã có lúc Jennifer nghĩ: mình biết phải làm gì. Mình sẽ ân ái với anh ấy. Chỉ một lần thôi. Nó không thể tuyệt diệu như mình tưởng tượng. Sau đó mình sẽ có thể quên được anh ấy.
Khi tay họ chẳng may chạm vào nhau, họ cảm thấy như bị điện giật. Họ ngồi đó nói chuyện về mọi chuyện nhưng những lời nói của họ như vô nghĩa. Họ ngồi bên bàn, trói mình vào cơn ôm ấp vô hình, như đang âu yếm nhau, đang ái ân dữ dội, trần truồng và say đắm. Không ai trong họ nghĩ là họ đang ăn hay nói gì. Cơn đói khát cấp bách hơn đang giày vò họ và nó càng ngày càng tăng lên cho đến khi cả hai đều không thể chịu được nữa.
Giữa bữa ăn, Adam đặt tay mình lên trên tay Jennifer và nói hơi lạc giọng: “Jennifer này...”
Cô thầm thì: “Vâng, chúng mình hãy ra khỏi đây đi”.
Jennifer đợi trong hành lang đông đúc trong khi Adam làm thủ tục đăng ký trọ tại bàn. Người ta cho họ thuê một phòng ở khu cổ kính của khách sạn Plaza, trông ra phố 58. Họ đi bằng thang máy mặt phía sau và Jennifer tưởng chừng như dài vô tận.
Nếu Jennifer không thể nhớ gì về bữa ăn thì cô đã nhớ mọi vật trong căn phòng. Hàng năm sau, cô có thể nhớ lại được quang cảnh, màu sắc khăn trải và thảm, cũng như từng bức tranh và từng đồ vật. Cô có thể nhớ được những âm thanh của thành phố ở mãi bên dưới vang vọng vào căn phòng. Hình ảnh của buổi chiều hôm đó sẽ đọng mãi trong quãng đời còn lại của cô. Đó là một tiếng nổ chậm rãi mang nhiều màu sắc thần bí. Đó là khi Adam cởi quần áo cho cô, là thân thể thon gày nhưng khỏe mạnh của Adam, sự thô bạo và nhẹ nhàng của anh. Đó là tiếng cười và sự âu yếm. Sự thèm khát lẫn nhau đã lên đến cực điểm phải thỏa mãn. Đến khi Adam bắt đầu ân ái với cô, những từ loé lên trong suy nghĩ của Jennifer là mình thua cuộc mất rồi.
Họ lại tiếp tục âu yếm mãi và mỗi lần đều là sự sung sướng hầu như không thể chịu đựng được.
Hàng giờ sau, khi họ nằm bên nhau yên lặng, Adam nói: “Anh cảm thấy như là mới sống lần đầu trong đời”.
Jennifer vuốt ve nhẹ bộ ngực anh và bật cười lớn.
Adam nhìn cô thắc mắc: “Chuyện gì mà cười vậy?”
“Anh biết em đã tự nhủ gì không? Là nếu như em ăn nằm với anh một lần thôi thì em có thể quên được anh đi”.
Anh vặn mình lại và nhìn vào mắt cô. “Rồi sao...”
“Em đã nhầm. Em cảm thấy như thể anh là một phần của cơ thể em. Ít ra...” Cô ngập ngừng “một phần của anh là một phần cơ thể em”.
Anh biết cô đang nghĩ gì.
“Chúng mình sẽ tìm cách giải quyết việc đó”. Adam nói.
“Mary Beth thứ hai sẽ đi châu Âu cùng với dì cô ấy trong một tháng”.