Nghèo như chiếc lá rụng xuống dòng sông, nước đưa tới đâu mình theo tới đó! Huống chi bây giờ lại gặp lúc giặc đánh lung tung...
Hôm chúng tôi gặp phường săn cá sấu ở quán rượu ông già lùn, nghe tía nuôi tôi nói như vậy, tôi cứ tưởng là ông nói cho có nói vậy thôi. Đâu ngờ ông nói vậy mà có vậy thật.
Giạt vào xóm chài chưa đầy ba tháng, ngôi lều mới dựng lên chưa ấm chỗ, má nuôi tôi chưa thuộc khắp mặt những người đàn bà quanh quẩn ở khúc sông này, thì chúng tôi lại trở về cuộc sống lênh đênh.
Mấy hôm nay, dân đánh lưới hàng [1] về cứ nhao lên là Tây sắp tiến vào vùng U Minh hạ, theo đường con sông này. Ca-nô do thám của nó đã thập thò ngoài vàm sông Cán Cạy. Những buổi trời lặng gió, tiếng tàu giặc chạy xình xịch tận ngoài vịnh biển vọng thấu tận đây, nghe rõ mồn một. Buổi chiều hôm kia, ca-nô xích hầu của nó tắt máy thả trôi theo nước vào tới vịnh Bần Cùi, bắt mất hai người câu tôm. Sáng hôm sau, hơn tiểu đội giặc cải trang giả làm thường dân, bơi xuồng thọc sâu vào đầm Le Le, đã bị dân quân tự vệ phục kích bắn chết mấy thằng. “Con đầm già” ngày nào cũng vè vè lượn sát xuống ngọn cây và bữa nay nó dắt hai chiếc tàu há mồm vào sắp tới đây rồi. Khói nhà cháy đã dựng lên từng bựng ở mạn Bần Cùi. Thiên hạ đã nhốn nháo tản cư.
Tía nuôi tôi đã quyết định ở lại đây. Giặc tới thì theo anh em dân quân tự vệ, du kích đánh lại nó. Không lẽ cứ chạy măi. Ai cũng chạy thì thà dâng đất này cho nó, bày chuyện đánh chác làm gì?
Giặc sắp tới bên nách. Lại không may cho gia đình chúng tôi là việc thằng Cò bị đau chân, còn rên la nằm đấy. Nó theo đám trẻ phường chài lội dọc theo bãi đi thụt bắt cá bồng trong bẹ dừa nước, không may đạp nhằm cá mặt quỷ. Nọc độc của con cá quái ác đã hành nó sốt mê man, bàn chân phù lên như chân voi.
Má nuôi tôi cuống lên, cứ khóc giục tía nuôi tôi phải đi.
- Đi đâu bây giờ? - Tía nuôi tôi cau mày, nói bằng một giọng giận dữ bất lực.
Má nuôi tôi chùi nước mắt, lạnh lùng buông thõng một câu :
- Hừ! Ông mê ba con cá sấu của ông thì ông cứ ở đây. Tôi đóng bè chuối tôi chở hai thằng nhỏ đi!
Gương mặt buồn não của má nuôi tôi dần dần tái nhợt, đôi môi bà run run mấp máy như muốn nói gì mà không nói ra được.
Tía nuôi tôi ngồi xệp xuống chõng, thở ra một hơi dài. Ông đăm đăm nhìn thằng Cò đang đắp chiếu nằm thiêm thiếp hồi lâu, rồi lặng lẽ đứng dậy bịt khăn lên đầu, xách mác đi lột bẹ dừa nước chẻ lại quai chèo.
Vào lúc xế chiều thì chiếc thuyền nhỏ của chúng tôi rời bến. Xóm chài lạnh ngắt. Bầy ruồi xanh bâu vào mấy con cá chết nằm dọc theo bãi, thấy động bay kêu vu vu. Tía nuôi tôi chèo lái. Tôi chèo mũi. Thuyền đi đã xa mà tôi cứ ngoái nhìn về những bóng nhà quạnh quẽ chơ vơ nơi đầu xóm cũ. Hàng cột phơi lưới mỗi lúc một mờ dần trong khói sóng chiều hôm...
Cũng như chuyến nổi trôi ngày trước, chúng tôi cứ thay nhau chèo ròng rã mấy ngày mấy đêm liền không nghỉ. Lắm lúc tôi có cảm giác như chèo mãi mà thuyền vẫn còn đứng y nguyên một chỗ. Trông chỗ nào cũng không khác chỗ nào. Hai bên bờ, dừa nước mọc san sát. Gió thổi khua động tiếng lá rì rào và tiếng sóng lách chách vỗ vào mạn thuyền cùng tiếng chèo đưa kĩu kịt tạo thành một nhịp điệu buồn triền miên, một thứ hòa thanh rũ rượi khiến tôi nghe vừa nhớ nhà mà cũng vừa buồn ngủ.
Nhiều lúc nhớ tới anh Ba thủy thủ, tôi tự hỏi: “Không biết trên bước đường phiêu lãng, anh có trải qua những ngày buồn bã thế này không?”
Rày đây mai đó... Trên rừng, dưới biển, đồng ruộng, núi cao, bất cứ chỗ nào mình cũng đi tới. Càng đi thì càng gặp nhiều chuyện lạ, khiến cho mình say mê.
Xưa kia có một con tàu nhỏ
Nó chưa hề lướt sóng ra khơi...
Này hỡi những chàng thủy thủ
Đang xông pha trên ngọn sóng cao vời!
Giọng nam trầm của anh Ba thủy thủ như cứ dập dềnh trôi theo chiếc thuyền nhỏ của tôi. Tôi mơ màng thấy những ốc đảo xanh rờn giữa sa mạc, mênh mông một màu cát vàng rừng rực, có mấy người lái buôn ngồi bên những con lạc đà, mệt mỏi nhìn bóng Kim Tự Tháp nhô vút lên ở chân trời..., những hải cảng tấp nập hành khách với đủ các kiểu y phục và màu da khác nhau, từ trên những con tàu khổng lồ xuyên đại dương chen chúc nhau theo bậc cầu thang xách va-li xuống bến... Những biển băng lạnh cóng trắng xóa một màu tuyết, không còn phân biệt đâu là mặt đất đâu là chân trời, có những người Et-xki-mô mặc áo lông gấu sù sụ ngồi trên xe trượt tuyết do hươu kéo chạy như bay... Phải rồi, tất cả những quang cảnh chói lòa màu sắc rực rỡ in trong xấp bưu ảnh của anh Ba thủy thủ đã cho tôi ngày trước đó, đều đẹp và có một sức hấp dẫn, khiến cho mình càng muốn đi tới. Nhưng nó xa xôi quá, biết bao giờ mình có thể tới được. Trên dòng sông mênh mang giờ đây, chỉ có nỗi buồn khiến tôi thiếu nhiều lúc cứ muốn biến thành con panh-goanh thôi...
Thuyền chúng tôi cứ xuôi theo dòng nước. Hai bên bờ sông, hết lá dừa nước thì đến gai chà là. Rừng cây chà là với những ngọn san sát giao nhau, mặt trời phải khổ sở lắm mới chiếu xuyên qua được những tàu gai dày đặc, để lọt một vài đốm sáng xuống mặt đất sình lầy đen kịt. Nhiều con rắn mai gầm khoang đen khoang vàng nằm khoanh như những đống dây thừng, nghếch mồm lên gốc cây chà là mọc sát mé nước đã bị sét đánh cháy thành than. Đôi khi tôi quơ mái chèo gạt lên mình rắn mà nó cũng không thèm chạy. Hết rừng chà là lại đến đồng cỏ. Bốn mặt chân trời, sắc cỏ nối liền với sắc trời xanh biếc. Loài cỏ cao xứ nhiệt đới cao lấp mất đầu người, mọc lưu niên trên những đầm lầy, bất cứ mùa nào cũng vươn thẳng ngọn xanh reo hát dưới mặt trời. Lâu lâu, gió từ hướng biển thổi vào lướt chạy vi vu trên đầm cỏ; gió chạy đến đâu, cỏ rạp mình cúi xuống đến đó, làm cho cánh đồng cứ gợn lên như sóng nổi.
Trên mặt biển cỏ xanh rờn ấy, những đàn cò trắng chấp chới bay, không biết cơ man nào mà kể xiết. Tôi dừng chèo, quay vào khoang thuyền :
- Cò ơi! Mày gắng ngồi dậy coi. Cò bay trên đồng cỏ nhiều lắm đây, Cò này!
Thằng Cò biết tôi trêu nó, nhưng cũng tốc chiếu ra, xoay người nằm sấp trong mui nhìn lên cánh đồng. Nó nhoẻn miệng cười không thành tiếng.
- Chưa ăn thua gì đâu! Còn nhiều hơn thế nữa...
Rồi nó lại xoay người nằm co lại, kéo chiếu đắp lên. Tôi nghe nó rên ư... ư... dưới lớp chiếu tùm hum, thương nó không để đâu cho hết. Má nuôi tôi thở dài :
- Không biết chừng nào mới tới sróc Miên để kiếm thuốc cho thằng bé.
Tía nuôi tôi đưa tay lên che mắt nhìn vào chân trời, nơi có những đầu cây thốt nốt vươn thẳng lên mờ mờ xa tít, trông chỉ to hơn cái nấm.
- Chèo một mạch hết con nước này thì đến thôi. Gắng lên, nghe An!
Tôi không còn điều khiển được hai cánh tay nữa. Nó cứ nặng trình trịch và cứng như hai khúc gỗ lắp vào đôi vai đã mỏi dừ của tôi. Nhưng khi nghe tía nuôi tôi hồ hởi nói thế, tôi cũng cười :
- Con còn chèo được mà. Chưa mỏi lắm đâu, tía ạ!
Má nuôi tôi từ trong mui lom khom bước ra, bảo tôi :
- Vào nghỉ tay đi. Để đó cho má!
Và bà cầm lấy guốc chèo, đẩy tôi vào mui. Tôi nằm xuống bên thằng Cò, chưa kịp xoay trở lấy thế nằm cho ổn thì cơn buồn ngủ đã kéo tới khép chặt đôi mi mắt nặng trịch của tôi lại rồi...
Quá trưa hôm đó, chúng tôi vào đến sróc Miên.
Những giồng cát liên tiếp nối nhau chạy dọc theo hai bờ con sông nhỏ mà chúng tôi đang rẽ vào. Hơi nóng rừng rực từ giồng cát bốc lên làm hoa cả mắt. Nắng đốt vàng ngọn cỏ, thiêu vàng lá tre. Lâu lâu có một luồng gió từ xa chạy tới, cuốn từng vầng cát lớn bay mù mịt, phủ mất bóng những đàn bò uể oải đứng gặm cỏ khô dưới những tầng cây thốt nốt, khiến cho tôi có cảm giác những con bò mộng to tướng ấy đã bị cuốn theo vầng cát, bay lên biến mất giữa trời.
Bọn trẻ chăn bò trần truồng tắm dưới mé sông, lặn ngụp, té nước vào nhau, reo hò inh ỏi. Đứa nào đứa nấy da cứ đen bóng như bôi nhọ mỡ. Một thằng bé tóc xoăn như bụt ốc, cầm roi bò đứng trên bờ, không tắm nhưng cũng cứ trần như nhộng. Giữa cái bụng tròn như quả bóng bơm căng của nó, một sợi dây nịt [2] mới toanh thắt ngang. Tự nhiên, tôi cũng cảm thấy bụng mình như đau đau tức tức. Thấy tôi liếc mắt ngó, nó nhe răng ra cười. Hàm răng trắng nőn của nó đều tăm tắp như hạt ngô rất đẹp.
Trên con đường mòn như rắn lượn dắt vào xóm, có chiếc xe trâu bánh gỗ kéo lúa đi cót... két... cót... két... Một người đàn ông cởi trần, đầu không đội mũ, vận chiếc xà-rông đỏ đi trước xe lúa, tay cầm sợi thừng dắt theo con trâu. Hai người đàn bà còn trẻ, dong dỏng cao, đều mặc một kiểu áo bít bùng may hở cổ xuống gần giữa ngực, mỗi người đội trên đầu một vò nước bằng đất sét nung, chậm răi bước sau xe. Hai cái bóng phụ nữ cổ thon thon hình cổ lọ, dường như lúc nào cổ họ cũng rướn lên để giữ thăng bằng cho hai chiếc vò đất, nổi bật lên đẹp như những tượng phù điêu bằng đá khắc hình các vũ nữ Khơ-me mà tôi đã từng thấy trong ảnh ở một quyển du ký nói về đất Cao Miên. Cảnh vậy chung quanh đều chìm trong một màu vàng buồn bã, rừng rực hơi nắng; chỉ có ngọn những cây thốt nốt cao lêu nghêu là còn giữ được sắc lá màu xanh.
Thuyền chúng tôi đi qua một dãy nhà vách phên trống hoác. Một con chim chài chài sắc lông xanh có bộ ức đỏ tuyệt đẹp đậu trên cái giàn cúng ma cất dựa bờ sông, nghe động tiếng mái chèo, giật mình bay vụt lên, mất hút giữa nền trời xanh.
Chúng tôi đậu thuyền lại bên một doi cát, sửa soạn bữa cơm chiều.
Tía nuôi tôi thay áo, bịt khăn mới, dắt tôi lên chùa xin thuốc cho thằng Cò. Chúng tôi đi được một quăng thì con Luốc phóng lên bờ chạy theo. Đuổi mãi nó cũng không quay lại, tôi đành phải cho nó đi theo bên tôi. Tới ngôi nhà sàn đầu xóm nằm thấp thoáng trong một lũy tre, tía nuôi tôi đứng ở cửa gọi vọng vào hỏi thăm lối lên chùa. Người chủ nhà mặc may-ô trắng, vận xà-rông tơ kẻ ca-rô đen, đứng trên sàn chỉ trỏ về phía những cây xoài cổ thụ, nói lăng líu một hồi. Hai người nói với nhau bằng tiếng Miên, tôi không biết họ nói gì, phần thì bị những con chó từ dưới sàn nhà chạy túa ra sủa vang, nên cứ tưởng như hai người đang cãi nhau chuyện gì.
Chúng tôi đi tới đâu, chó sủa rộ lên tới đó. Không biết bao nhiêu là chó, con nào con nấy dữ như quỷ sứ, cứ chồm chồm ra, cậy gần nhà chực xông vào cắn con Luốc.
- Sao họ nuôi chó làm gì mà nuôi lắm vậy, hở tía? - Tôi phát bực, hỏi tía nuôi tôi.
- Ờ, nuôi mà như không nuôi... Người Miên theo đạo Phật, không ai ăn thịt chó. Cũng không bán. Ai xin thì họ cho không vậy thôi. Chó đẻ ra bao nhiêu cũng nuôi mặc cho nó lớn, sống thế nào cũng mặc.
Con Luốc đi bên tôi, đuôi nó không cụp xuống tỏ vẻ sợ hăi, lại còn cứ ve vẩy, tuồng như không màng đến bọn nhãi nhép tong teo kia. Chỉ cần tôi ra lệnh một tiếng, là nó xông ra cho bọn chó kia một bài học nên thân ngay. Ngôi chùa sáu mái lợp ngói đỏ uốn cong vút, xây trên nền đá như kiểu kiến trúc chùa chiền ấn Độ, sừng sững đứng trên một ngọn đồi cát, chung quanh mọc toàn những cây xoài cổ thụ to có đến ba bốn người ôm. Chúng tôi lần theo những bậc thang xây bằng đá tổ ong, đi lên chùa. Hai bên bậc thang, ở mỗi quãng mặt bằng phải đi bình thường một lúc trước khi bước lên một tầng thang cao hơn, có bệ xây hình rắn bảy đầu xòe ra như cái quạt khổng lồ. Ngọn đồi cũng thấp thôi, nhưng cách kiến trúc đường lên bậc thang khiến tôi khi bước đi cứ có cảm giác là chùa ở trên chỗ cao lắm, vì luôn luôn phải ngửa cổ lên mới nhìn thấu được bên trên.
Ông Lục cụ [3] chưa già lắm, khoảng ngoài năm mươi tuổi thôi. Ông không mặc quần áo kiểu sư ta mà choàng quanh người bằng cả một súc lụa vàng, lẹp xẹp đôi hài cỏ, tươi cười bước ra tiếp tía nuôi tôi. Tía nuôi tôi chắp hai tay vái Lục rất kính cẩn. Thấy tía nuôi tôi làm gì, tôi cũng bắt chước làm theo như vậy. Hai người lại nói chuyện với nhau bằng tiếng Miên, làm tôi đứng ngớ ra nhìn. Tía nuôi tôi theo Lục vào chùa. Tôi vừa toan bước theo thì tía nuôi tôi quay lại, bảo :
- Không được dắt chó vào chùa. Con muốn vào thì phải bắt nó nằm ngoài sân kia!
Tôi không thể nào bảo được con Luốc cho nó chịu nằm yên. Hễ tôi quay lưng đi thì nó lóc cóc chạy theo, nên tôi đành phải đứng ngoài cửa ngóng vào. Tía nuôi tôi đập đập chân giũ bụi trên góc phản, rồi lên ngồi xếp bằng tròn trên chiếc chiếu hoa rất đẹp, đối diện với Lục. Tôi thấy ông Lục ân cần rót nước mời tía nuôi tôi, rồi hai người lại tiếp tục nói lăng líu gì với nhau. Tôi đưa mắt nhìn sâu vào trong, thấy trên bàn thờ là những ông bụt cũng gần giống như bụt ở các chùa Việt Nam vậy thôi. Duy chỉ có điều khác là dưới bàn thờ nào cũng chất lổm nhổm những chiếc nồi đất mới, đựng xương người đã hỏa thiêu, trên nắp buộc vuông vải trắng, và bên hông nồi có dán mảnh giấy nhỏ đề tên họ ngày mất của người đó.
Từ một ngôi nhà nhỏ bên phải, bọn trẻ con đang líu ríu cúi đầu vái một ông Lục trẻ, rồi chúng cắp sách xô ra, tranh nhau bước xuống bậc thang chạy về.
Tía nuôi tôi cầm gói giấy vàng bước ra, còn ngoái lại vái ông Lục cụ một lần nữa. Ông bước ra theo tiễn chân khách, hình như toan nói điều gì rồi lại thôi. Khi tía con chúng tôi ra đến đầu bậc thang ông “dớ!” lên một tiếng, khiến tía nuôi tôi giật mình quay lại. Ông Lục cụ điểm ngón tay trỏ vào khoảng không, nói thật chậm nghe rõ từng tiếng một :
- Rừ xây choòng cáp, boòng lá trrâu xca! [4]
Tía nuôi tôi “pát! pát!” [5] luôn mồm và vái ông Lục cụ một cái thật dài trước khi nắm tay tôi dắt đi.
- Nói chuyện gì trong ấy mà lâu vậy tía? - Tôi hỏi.
- Đủ mọi thứ chuyện. Lục hỏi thăm Tây đánh vào tới đâu rồi, hỏi chúng ta từ đâu tới. - Tía nuôi tôi đáp cách vui vẻ.
- Có thuốc cho thằng Cò không tía?
Tía nuôi tôi chìa gói giấy vàng ra :
- Thuốc đây. Hay lắm! Làm bằng một trăm thứ *** chim và xương rắn độc. Trong uống ngoài xoa, khỏi ngay thôi. Lục không lấy tiền, chỉ biếu thôi.
- Lúc nãy ổng nói gì với tía đấy?
Tía nuôi tôi ngó tôi một lúc rồi mới đáp :
- Con thì cái gì cũng hỏi. Ừ, Lục bảo: “Tre muốn chặt thì gai phải đốn!” Không nói thẳng đâu, mình phải suy ngẫm ra mà hiểu lấy... Tức là muốn đánh được thằng Tây, thì phải trừ bọn tay chân của nó trước!
- Hay quá tía nhỉ! Ờ, tụi nhỏ nhỏ đi học kinh ở chùa vừa ra lúc nãy phải không hở tía?
- Học chữ đấy. Các sróc Miên đều không có trường học. Trẻ con đến học ở chùa thôi. Ông Lục cụ là người oai quyền nhất sróc đấy!
- Gặp được ông Lục cụ tốt thì may, tía nhỉ!
Tía nuôi tôi chỉ “ừ” rồi cười cười nhìn tôi bằng cặp mắt khó hiểu. Chúng tôi lặng lẽ trở về thuyền, mặc cho những bầy chó đuổi theo vờn chung quanh con Luốc sủa đến váng óc.
Sau khi uống thuốc và bôi thuốc được một lúc, thằng Cò đã ngồi dậy, tỉnh như không. Quả là món thuốc thần diệu thật! Tía nuôi tôi liền bọc một gói nanh cá sấu trở lên chùa đền ơn Lục cụ, bảo là để Lục tiện nó làm quân cờ...
Má nuôi tôi thì cứ bảo nên ở nán lại một ngày nữa hãy đi để hôm sau bà lên chùa lạy Phật đã, nhưng đang gặp lúc thuận nước thuận gió, nên tía nuôi tôi không thể chiều bà được. Thế là vào khoảng đầu canh một đêm đó, chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình mà tôi chưa biết sẽ về đâu.
[1] Lưới to để đánh cá ngoài khơi và các cửa biển.
[2] Thắt lưng da.
[3] Sãi cả (tiếng Miên). Danh từ “Lục” cũng còn để chỉ những người có tuổi hoặc có uy tín mà mọi người kính trọng.
[4] Tre muốn chặt thì gai phải đốn.
[5] Vâng! Vâng!
Ở vùng này, những chiếc thuyền nhỏ cỡ thuyền chúng tôi, chẳng ai làm buồm. Có lẽ để tránh bớt sự cồng kềnh, choán chỗ, và để cho thuyền được nhẹ. Khi cần, cứ chặt một tầu lá dừa nước mọc theo bờ sông cắm lên thuyền là đã có ngay một chiếc thuyền buồm rồi.
Thuyền chúng tôi đổ ra dòng một con sông lớn, với bốn cánh buồm thiên nhiên kiểu đó, cắm trong bốn lỗ cột chèo. Má nuôi tôi ngồi giữ lái. Gió đưa chiếc thuyền buồm xanh của chúng tôi lướt chạy ào ào như chiếc ca-nô. Chạy một mạch hai ngày hai đêm như vậy, đến ngang một cái chợ, tía nuôi tôi mới “hạ buồm” vứt xuống lòng sông trả lại cho bà Thủy.
Người ta gọi chợ này là chợ Mặt Trời. Có lẽ vì chợ nhóm tại doi đất ngã ba vàm một con kênh có tên là kênh Mặt Trời. Còn thằng Cò thì cứ bảo tôi đây là chợ chim. Hôm qua, chợ chưa nhóm. Tía nuôi tôi còn cắm sào ở bên chợ, hy vọng có thể bán nốt mấy tấm da cá sấu còn vướng chỗ trong thuyền. Suốt ngày, ánh nắng rừng rực đổ lửa xuống mặt đất. Bốn phía chân trời trống huếch trống hoác. Từ lúc mặt trời mọc cho tới khi mặt trời lặn, không kiếm đâu ra một bóng cây để tránh nắng. Con kênh Mặt Trời còn phơn phớt màu đào buổi sáng, giữa trưa bỗng hóa ra một dòng thủy ngân cuồn cuộn lóa mắt, rồi dần dần biến thành một con suối lửa lúc trời chiều. Năm ba ngôi quán lèo tèo ngó cửa ra một khoảng đất rộng. Trên mặt đất nứt nẻ, vết *** chim khô trắng khắp nơi, lông chim theo gió cuốn lên xoáy tít trong nắng như những cánh bông gòn rụng bay lấp lóa.
Từ sáng sớm, ghe xuồng đã vào cập bến chợ, đậu san sát như lá tre. Mũi xuồng này buộc nối vào lái thuyền kia, đen kín mặt nước. Tiếng chim kêu râm ran trong đám ghe xuồng và trên sân chợ.
Tía nuôi tôi ngồi uống rượu một mình trong ngôi quán ồn ào, toàn những đàn bà và trẻ con đang húp cháo chim xì xà xì xụp. Mấy tấm da cá sấu hoa cà dựng trên ngạch cửa, bên lối ra vào. Mùi chim nướng từ trong những ngôi quán bay ra thơm phức. Tiếng dao thớt khua lộp cộp trong tiếng chim kêu xé màng tai, làm cho cái chợ nhỏ lạ lùng này thêm phần náo nhiệt.
Má nuôi tôi xách rổ lên chợ mua chim non và trứng để làm thức ăn dự trữ mang theo thuyền. Thằng Cò, vì bàn chân hãy còn sưng, không được phép lên bờ, phải ngồi lại trong mui ôm con Luốc ngó lên chợ, coi bộ thèm thuồng lắm. Tôi cầm bát lên mua một tô cháo chim băm hành củ rắc hạt tiêu bưng xuống cho nó, rồi quày quả nhảy lên chợ ngay. Con Luốc cũng muốn theo tôi. Nó cứ vẫy đuôi kêu ử... ử... Nhưng thằng Cò cứ ôm cổ giữ nó lại. Nó tức mình, quay ra mấy xuồng chim đậu chung quanh gắt ngậu xị. Chim nhốt trong các giỏ tre nghe tiếng chó sủa, hoảng hốt đập cánh kêu loạn lên.
Tôi đi một mình, luẩn quẩn theo những người bán chim trên chợ. Ngay dưới bờ sông chỗ tôi đứng, có mấy người đàn bà đang mặc cả, cãi nhau trên một chiếc thuyền to. Giỏ cần xé chất ngổn ngang, đựng đầy các thứ trứng chim. Từng xâu chim trắng, chim đen buộc chân, dồn chật trong khoang: những con chim bị trói chen nhau ngóc cổ lên, con này mổ vào lưng con kia, đập cánh phành phạch.
Một thằng bé gánh tòn ten hai con chim gì lạ quá, cổ dài như cổ rắn, to gấp rưỡi con vịt bầu, sắc lông màu vàng xám.
- Ê, bán chim gì đó, mậy? - Tôi men theo, tay chắp đít hất hàm hỏi nó.
- Con điêng điểng mà cũng không biết!
Cặp môi nó trể ra, cái mặt vênh vênh nhưng bộ tướng nhỏ thó và đôi mắt chân thật của nó nhìn lâu cũng rất dễ mến.
- Bộ mày ở đâu mới tới hả? - Nó hỏi tôi.
- Ờ, mới tới. Xứ tao cũng... vô khối chim. Nhưng không giống như chim ở đây, thành ra tao mới hỏi mày chứ! - Tôi nói phét với nó như vậy, để nó đừng chê tôi là “quê”.
Coi ra nó cũng khoái. Nó trỏ từng con chim, gọi tên cắt nghĩa cho tôi nghe, ý như muốn khoe với tôi rằng nó là “tổ sư Bồ Đề” ở đây...
Những con chàng bè đồ sộ như con ngỗng, mỏ to bằng cổ tay cứ gõ vào nhau lộp cộp, làm rung rung mảnh da mềm thòng xuống tận cổ như cái diềm lụa mỡ gà. Những con giang sen cẳng cao lêu nghêu, nặng hàng năm bảy cân thịt, bị khớp mỏ, tréo cánh đứng giữa đám sếu đen sếu xám mào đỏ, đầu không ngớt nghiêng qua nghiêng lại ngó theo mấy con ó biển đang lượn vòng trên kênh.
Cò thì không biết bao nhiêu mà kể. Cò ngà, cò trắng, cò xanh, cò ma... buộc từng xâu, chất nằm hàng đống. Một đám đàn bà trẻ con đang ngồi lúi húi vặt lông chim cồng cộc gần đấy.
- Mày muốn kiếm tiền xài không? - Thằng bé kéo tay tôi, bảo nhỏ - Nhổ lông chim mướn đấy. Mày muốn làm thì lại nói với cái thím đội nón lông chim ó rằn đang đứng chống nạnh hai quai trước quán kia kìa!
Thấy tôi lắc đầu, nó hích khuỷu tay vào hông tôi :
- Chê à? Làm một ngày, kiếm bộn tiền. Mày không lấy tiền thì lấy thịt chim về ăn. Lông chim bán riêng, thịt bán riêng mà!
Chỗ này mươi giỏ le đặt bên cạnh một đống lồng nhốt đầy chim trích. Những con trích lông xanh, mỏ đỏ như quả ớt ngắn, cặp chân hồng như đôi đũa sơn, coi bộ tốt mă nhất. Con nào con nấy lộng lẫy như con gà tre, cứ ngước cổ kêu trích... trích... ché... nghe đến nhức màng tai. Chỗ kia lổm ngổm hàng sọt chim cồng cộc lông đen như nhọ chảo, không ngớt cựa quậy, mổ vào nhau kêu léc chéc.
- Chim ở đâu mà họ bắt nhiều vậy? - Bấy giờ tôi mới đành chịu hỏi thằng bé ấy.
- Chim bắt ở sân chim chứ đâu, mậy!
- Sân chim ở đâu?
- Ở chỗ nó ở chứ còn ở đâu!
Thằng bé cười cười, ra vẻ thích thú lắm. Dường như nó chỉ chờ nghe tôi hỏi để được trả lời, nhưng vẫn còn làm bộ làm tịch, chưa vội bảo ngay. Hồi lâu, nó mới nói :
- Mấy người đàn bà mặc áo cộc tay đứng dưới tam bản chở trứng chim kia, là dân hốt [1] trứng chim đồng. Trứng le le, trứng trích, trứng cò... đẻ rơi trong đồng cỏ, không có chủ. Ai gặp nấy hốt. Hốt trứng tự do mà! Còn cái ông ngồi bán quạt, tết bằng lông ó rằn, lông chim già đãy ở chỗ mấy con sếu kia, là chủ vườn cò. Mày biết vườn cò hả? Ừ, vườn cò... thì chỉ có cò ở thôi. Không nhiều bằng sân chim đâu. Sân chim thì vô phương nói được. Đủ các thứ chim. Mày thấy mới biết!
Mặt trời đã lên cao. Nắng bắt đầu gay gắt. Cái chợ chim nhóm giữa trời đã có phần bớt huyên náo. Bỗng nghe tiếng hu... hu... từ đâu vẳng tới. Mọi người còn đang ngơ ngác ngóng lên trời thì từ dưới đám thuyền có tiếng thét vang dội :
- Máy bay giặc, bà con ơi!
Chợ nhốn nháo như vỡ đám làm chay. Người ta quýnh quáng chạy tới chạy lui lộn xộn trên khoảng đất trống. Không một lùm cây, bụi cỏ để lấy chỗ nấp tạm. Nhiều người đàn bà hãi quá, nhảy bừa xuống kênh tìm một chỗ ẩn mình dưới các gò đất dựa bờ.
“Con đầm già đi guốc” bay là là trên mặt sông, vút qua ngang chợ. Nó cất lên cao, rồi từ từ quay lại lượn trên chợ một vòng, thả ra những cục gì đen đen. Tôi nằm úp mặt xuống đất, nín thở chờ nghe tiếng nổ.
- Giặc thả truyền đơn, bà con ơi!
- Đừng sợ, nó không bắn đâu!
- Ai dám nói nó không bắn đó!
Tiếng kêu thét, cãi nhau nghe ran chung quanh. Tôi nghiêng đầu ngó lên. Những cục đen đen từ trong chiếc thủy phi cơ [2] thả ra ban năy đã tan trong gió, bay trắng trời, lấp lánh trong nắng như vảy cá. Gió thổi giạt những tờ truyền đơn bay đi xa lắc. Ghe xuồng vội vă chèo đi. Giầm chèo va vào nhau, khua lốp cốp. Chim kêu điếc tai. Tiếng hú, tiếng ì, tiếng gọi nhau ran mặt nước.
Khi tôi chạy xuống bến, trèo lên thuyền thì đã thấy bộ da cá sấu vắt nằm trước mũi. Tía nuôi tôi cũng vừa quay xong quai chèo lái. Tôi chụp lấy guốc chèo mũi, quạt mạnh mấy cái, đưa thuyền quay ra cho trôi xuôi theo dòng.
Trong chốc lát, ngoảnh lại thì cái chợ chim đã biến mất chỉ còn trơ khoảng đất trống và dãy quán lụp xụp đứng buồn thiu.
- Không biết giặc rải truyền đơn nói cái gì?
- Mươi hôm trước, nó cũng rải trên chợ Cái Rắn. Nó gọi mình đầu hàng!
- Bộ đội mình đâu, sao không đánh nó?
- Chỗ nào cũng chờ bộ đội à? Vậy chứ bà con mình cụt tay hết rồi sao? Nó vô đây, vác dao vác rựa chém nó ra từng khúc như khúc chuối, cho bỏ cái thói cướp nước người ta.
- Nghe có lính Bắc bộ ngoài Cụ Hồ đưa vô rồi mà!
- Ờ, cũng có nghe đấy!
- Sao lại cũng có nghe? Vô nhiều lắm rồi. Tướng Vũ Đức chỉ huy. Đâu còn ở mạn trên Phước Long.
Mặt sông vang dậy tiếng người tranh nhau nói. Ai cũng muốn tỏ ra thông thạo. Ai cũng nói, thành ra không ai nghe ai...
Thuyền chúng tôi cứ xuôi theo dòng nước chèo đi. Tía nuôi tôi định đi về hướng Năm Căn. Ông bàn với má nuôi tôi :
- Năm Căn là xứ tiền rừng bạc biển. Sông rạch hiểm trở. Ở đó toàn là rừng. Rừng đước, rừng mắm, rừng bần... Tây khó bề tới. Về đó, ta có thể đi đốn củi mướn cho các lò than...
Má nuôi tôi nói xuôi lơ :
- Cái đó tùy ông. Ở đâu thì ở, miễn được yên nơi yên chỗ mà làm ăn. Chứ lênh đênh mãi thế này, tôi e có ngày hai đứa nhỏ chết lép xác thôi!
Mờ sáng hôm sau, tôi còn đang ngủ trong mui bỗng nghe thằng Cò gọi giật tôi dậy :
- Mau ra coi, An ơi! Gần tới sân chim rồi. Đã sáng bét mà mày còn ngủ à?
Tôi giụi mắt bò ra khoang trước, vốc nước dưới sông lên rửa mặt. Trên vệt rừng đen ở chỗ con sông ngoặt như lưỡi cưa cá mập chơm chởm dựng đầu răng nhọn đã ửng lên màu mây hồng phơn phớt. Từ chỗ vệt rừng đen xa tít đó, chim cất cánh tua tủa bay lên, giống hệt đàn kiến từ lòng quả đất chui ra, bò li ti đen ngòm lên da trời. Càng đến gần, khi bóng chim chưa hiện rõ hình đôi cánh, thì quang cảnh đàn chim bay lên giống như đám gió bốc tro tiền, tàn bay liên tri hồ điệp.
Những bầy chim đen bay kín trời, vươn cổ dài như tàu bay cổ ngỗng lướt qua trên sông, cuốn theo sau những luồng gió vút cứ làm tai tôi rối lên, hoa cả mắt.
Mỗi lúc tôi càng nghe rõ tiếng chim kêu náo động như tiếng xóc những rổ tiền đồng. Và gió đưa đến một mùi tanh lợm giọng, khiến tôi chỉ chực nôn ọe.
Chim đậu chen nhau trắng xóa trên những đầu cây mắm, cây chà là, cây vẹt rụng trụi gần hết lá. Cồng cộc đứng trong tổ vươn cánh như tượng những người vũ nữ bằng đồng đen đang vươn tay múa. Chim già đăy, đầu hói như những ông thầy tu mặc áo xám, trầm tư rụt cổ nhìn xuống chân. Nhiều con chim rất lạ, to như con ngỗng đậu đến quằn nhánh cây.
Một con điêng điểng ngóc cổ lên mặt nước, thoạt trông tôi tưởng là một con rắn từ dưới nước cất đầu lên. Khi thuyền chúng tôi chèo đến gần, nó bèn ngụp xuống lặn mất. Chốc sau đã lại thấy nó nổi lên gần bờ, mỏ ngậm con tôm xanh gần bằng cổ tay còn đang vung râu cựa quậy.
Tôi mê quá! Mà thằng Cò cũng mê như tôi. Hai đứa cùng ước: phải chi mình được dừng thuyền lại đây vài hôm để bắt chim thì phải biết!
Chim từ những đâu tập trung về ở đây, nhiều không thể nói được!
Ở đây, còn có rất nhiều giống chim lạ, không thấy bày bán ở chợ Mặt Trời. Chúng đậu thấp lắm, đứng dưới gốc cây có thể thò tay lên tổ nhặt trứng một cách dễ dàng.
Tôi chồm người ra be thuyền, kêu to :
- Dừng lại đây bắt một mớ chim đi, tía!
- Sân chim có chủ, không bắt của người ta được đâu! - Tía nuôi tôi bảo.
- Bộ họ nuôi nó sao? Chim trời cá nước, ai bắt được nấy ăn chứ!
- Đúng là không ai nuôi. Nhưng chim về ở trên vùng đất của ai thì nó thuộc về tài sản của người đó. Họ phải đóng thuế hằng năm như đóng thuế ruộng đấy, con ạ. [3]
Thấp thoáng trong xa, bốn năm người quảy giỏ, cầm sào trúc có ngoéo sắt đang ngoéo cổ chim non xuống bắt. Coi bộ dễ hơn bắt gà nhốt trong chuồng.
Tiếng chim kêu vang động bên tai, nói chuyện không nghe nhau được nữa. Thuyền chúng tôi chèo đi hơn ba nghìn thước rồi mà hãy còn thấy chim đậu trắng xóa trên những cành cây gie sát ra sông.
[1] Nhặt.
[2] Máy bay đậu được trên nước.
[3] Ở Nam bộ, thời Pháp thuộc, thuế đánh vào các sân chim rất nặng, gấp bốn lần thuế ruộng. Trong kháng chiến, ta cũng có thu thuế sân chim, nhưng thu nhẹ thôi. Sân chim (danh từ địa phương) nghĩa như đảo chim, cồn chim.
Nếu như có ai bảo tôi quay trở lại một nơi nào đó - một bến chợ hoặc một xóm làng chẳng hạn, nơi mà tôi đã rời đi cách đó chừng dăm ngày - trở lại bằng đúng con đường cũ mà không được hỏi ai đường đi, thì tôi sẽ chịu thôi. Chỉ mới đi qua một lần thì dứt khoát là không thể nhớ và không dễ dàng nhận ra con đường cũ.
Trông chỗ nào cũng như chỗ nào. Càng đổ gần về hướng mũi Cà Mau thì sông ngòi, kênh rạch càng bủa giăng chi chít như mạng nhện. Trên thì trời xanh dưới thì nước xanh, chung quanh mình cũng chỉ toàn một sắc xanh cây lá. Tiếng rì rào bất tận của những khu rừng xanh bốn mùa, cùng tiếng sóng rì rào từ biển Đông và vịnh Thái Lan ngày đêm không ngớt vọng về trong hơi gió muối - thứ âm thanh đơn điệu triền miên ấy ru ngủ thính giác, càng làm mòn mỏi và đuối dần đi tác dụng phân biệt của thị giác con người trước cái quang cảnh chỉ lặng lẽ một màu xanh đơn điệu.
Từ khi qua Chà Là, Cái Keo... rồi bỏ con sông Bảy Háp xuôi thuyền trôi theo dòng, thì tôi bắt đầu có cảm giác trên đây... Ở đây, người ta gọi tên đất tên sông không phải bằng những danh từ mỹ lệ, mà cứ theo đặc điểm riêng biệt của nó mà gọi thành tên. Chẳng hạn như gọi rạch Mái Giầm, vì hai bên bờ rạch mọc toàn những cây mái giầm cọng tròn xốp nhẹ, trên chỉ xòa ra độc một cái lá xanh hình chiếc bơi chèo nhỏ; gọi kênh Bọ Mắt vì ở đó tụ tập không biết cơ man nào là bọ mắt đen như hạt vừng, chúng cứ bay theo thuyền từng bầy như những đám mây nhỏ, ta bị nó đốt vào da thịt chỗ nào là chỗ đó ngứa ngáy nổi mẩn đỏ tấy lên; gọi kênh Ba Khía vì ở đó hai bên bờ tập trung toàn những con ba khía, chúng bám đặc sệt quanh các gốc cây. (Ba khía là một loại còng biển lai cua, càng sắc tím đỏ, làm mắm xé ra trộn tỏi ớt ăn rất ngon). Còn như xã Năm Căn thì nghe nói ngày xưa trên bờ sông chỉ độc có một cái lán năm gian của những người tới đốn củi hầm than dựng nên, cũng như Cà Mau là nói trại đi theo chữ Tức khơ mâu tiếng Miên nghĩa là “nước đen”.
Thuyền chúng tôi chèo thoát qua kênh Bọ Mắt, đổ ra con sông Cửa Lớn, xuôi về Năm Căn. Dòng sông Năm Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng. Thuyền xuôi giữa dòng con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng được dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận. Cây đước mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn bằng tăm tắp, lớp này chồng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp từng bậc màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ... lòa nhòa ẩn hiện trong sương mù và khói sóng ban mai.
Chợ Năm Căn nằm sát bên bờ sông, ồn ào, đông vui tấp nập. Vẫn là cái quang cảnh quen thuộc của một xóm chợ vùng rừng cận biển thuộc tỉnh Bạc Liêu, với những túp lều lá thô sơ kiểu cổ xưa nằm bên cạnh những ngôi nhà gạch văn minh hai tầng, những đống gỗ cao như núi chất dựa bờ, những cột đáy, thuyền chài, thuyền lưới, thuyền buôn dập dềnh trên sóng... Nhưng Năm Căn còn có cái bề thế của một trấn “anh chị rừng xanh” đứng kiêu hãnh phô phang sự trù phú của nó trên vùng đất cuối cùng của Tổ quốc. Những bến vận hà nhộn nhịp dọc dài theo sông; những lò than hầm gỗ đước sản xuất loại than củi nổi tiếng nhất của miền Nam; những ngôi nhà bè ban đêm ánh đèn măng-sông chiếu rực trên mặt nước như những khu phố nổi, và nơi đây người ta có thể cập thuyền lại, bước sang gọi một món xào, món nấu Trung Quốc hoặc một đĩa thịt rừng nướng ướp kiểu địa phương kèm theo vài cút rượu, ngoài ra còn có thể mua từ cây kim cuộn chỉ, những vật dụng cần thiết, một bộ quần áo may sẵn hay một món nữ trang đắt giá chẳng hạn, mà không cần phải bước ra khỏi thuyền. Những người con gái Hoa kiều bán hàng lởi xởi, những người Chà Châu Giang [1] bán vải, những bà cụ già người Miên bán rượu, với đủ các giọng nói líu lô, đủ kiểu ăn vận sặc sỡ, đã điểm tô cho Năm Căn một màu sắc độc đáo, hơn tất cả các xóm chợ vùng rừng Cà Mau.
- Ở lại đây thôi, ông ạ! - Má nuôi tôi vừa đưa mắt nhìn lên bờ vừa bảo tía nuôi tôi.
Tía nuôi tôi ngồi trước mũi thuyền thong thả nhồi thuốc vào nõ tẩu, nheo mắt cười với tôi và thằng Cò :
- Hai đứa bay muốn ở đây hay đi nữa?
Giọng đùa vui hiền lành dễ dãi của tía nuôi, nhất là nét cười bên hai khóe mắt của ông cứ mở ra, khiến tôi và thằng Cò cũng cười theo mà không đứa nào trả lời.
- Không nên ở đây! - Tía nuôi tôi buông lửng một câu ngắn cộc bất ngờ, rồi dặng hắng ngước lên nhìn má nuôi tôi dò hỏi.
- Ông tính ra ngoài biển ở hay sao?
Dường như không chú ý tới sự phản ứng của má nuôi tôi, và cũng không buồn nhìn bốn con mắt thô lố đầy ngạc nhiên của hai thằng nhỏ con mà ông thừa biết rằng qua bao nhiêu chặng đường dài mệt mỏi, đều đang chờ đợi phút dừng chèo, cắm thuyền là nhảy lên mảnh đất định cư hằng mong ngóng, tía nuôi tôi cứ thong thả bật lửa lên đốt thuốc, bập bập hít mấy hơi dài.
- Ở lại đây, nhưng không ở tại đây!
- Ở chợ vui hơn chứ, tía? - Thằng Cò hong hóng ngó lên bờ, buột miệng kêu lên - Người ta đông như thế này mà... mình còn đi đâu nữa, hở tía?
Tía nuôi tôi như cười mà như không cười, sẽ sàng nói :
- Mình có phải là dân buôn bán đâu mà cần ở chợ!
- Ông có cần mua sắm gì không? - Má nuôi tôi hỏi.
- Chưa vội. Để lo tìm chỗ cất nhà trước đã. Bà có muốn cho hai đứa nhỏ lên chợ chơi thì ghé lại một chốc cũng được.
- Thôi, để lúc khác!
Bao giờ đang lúc căi nhau vì sự bất đồng ý kiến trên một vấn đề nào đó với tía nuôi tôi, mà má nuôi tôi bỗng dưng quay ra nói một câu chuyện gì khác, thì tôi hiểu ngay rằng bà đã chịu cái lý lẽ của tía nuôi tôi là đúng.
Thuyền chúng tôi không đỗ lại chợ. Chúng tôi còn đi non một buổi nữa mới cập bến. Đây là một xóm nghèo, nhà cất lưa thưa trên bờ một con rạch nhỏ dựa lưng vào rừng.
Những người thợ đốt than đã tiếp tay đốn cây, chặt lá dựng cho chúng tôi một ngôi lều nhỏ. Ngày ngày tía nuôi tôi vác rìu theo thợ rừng đốn củi mướn cho các lò hầm than. Má nuôi tôi thì xách giỏ đi bắt ba khía về làm mắm. Thằng Cò và tôi bữa nào cũng rủ bọn trẻ trong xóm dắt con Luốc sục sạo vào rừng săn chồn, săn kỳ đà. Cũng có khi chúng tôi mò ra tận sông cái lội xuống bãi bắt cua, bắt vọp.
Chúng tôi thường men theo con đường mòn của thợ đốn củi dắt nhau ra chơi dọc bờ sông. Nơi nào cũng vậy, bọn trẻ nhỏ chúng tôi bao giờ cũng tìm ra được nhiều trò chơi trên các bờ sông, cho đến lúc chán thì nhảy ngay xuống nước tha hồ bơi tắm. Ở đấy khi nước triều xuống, còn có những con cá biển đủ các loại màu sắc và hình thù khác nhau, mắc cạn nằm trong những vũng nước trong veo. Con nào bé thì sau khi đã nghịch chán, chúng tôi bụm nó trong tay mang ra thả xuống mé nước. Con nào kha khá, ăn được thì chúng tôi xâu mang xách về. Ở vùng rừng ngập nước của xứ Cà Mau này, sông ngòi kênh rạch là đường giao thông chính. Hầu như ngày nào tôi cũng mò ra đứng trên bờ sông hưởng cái thú xem đủ các kiểu thuyền sông thuyền biển dong buồm cánh én chạy phăng phăng rẽ nước trắng xóa như tàu thủy - từ chiếc xuồng vỏ gòn nhỏ, như con cá thòi lòi nhảy sóng rất tinh, cho đến chiếc ghe chài đồ sộ như một quả đồi ì ạch, nặng nề, chỉ có thể nhờ tàu kéo dắt đi. Nơi bờ sông, người ta chờ gọi thuyền mua thuyền bán, và lúc nào cũng có thể nghe được tin tức chiến sự nhiều nơi của khách tứ phương trên những con thuyền từ khắp chốn đi qua. Và ở bờ sông, không những đôi lúc tình cờ có thể vớ được con rùa con rắn một cách dễ dàng, tôi còn tìm gặp nhiều cây cỏ lạ không thấy có ở mọi vùng chung quanh. Có nhiều thứ cây mỗi cái lá đẹp như một cái hoa, do dòng nước mang hạt giống từ những vùng đất xa xôi nào đưa về tận đây nhờ bọt sóng đánh giạt lên bờ.
Một buổi sáng sớm, tôi và thằng Cò xách chai ra bờ sông chờ thuyền trả vải [2] đón mua dầu lửa. Bỗng nghe đằng xa có tiếng bọn trẻ con gọi nhau í ơi. Trong ánh nắng nhẹ chưa xua tan hết lớp mù kéo lê trên đầu ngọn cỏ ướt đẫm sương, bóng những người đàn ông xách xà beng, cầm chĩa, xách phảng chạy hộc tốc về hướng đồng mả [3].
Bao giờ có một điều bất thường, một biến cố gì vừa xảy ra thì tức khắc bọn trẻ con kéo đến đó ngay. Tôi lôi thằng Cò ba chân bốn cẳng chạy theo bọn nhỏ. Đám người cởi trần, lăm lăm dao mác trong tay, đang quây thành một vòng tròn chung quanh một ngôi mả trên gò đất cao hiện ra trước mắt chúng tôi.
- Bọn con nít lui ra! Nó chưa chết đâu. Coi chừng cái đuôi... Cái đuôi nó còn cựa quậy đấy! - Tiếng một người nào đó hét oang oang.
Vòng người giãn ra rồi lại thít lại như cũ. Bọn nhỏ vừa chạy giạt ra xa đã thoăn thoắt quay lại. Tôi chắc mẻm rằng người ta vừa hạ một con beo con cọp gì đây, nhưng chưa kịp hỏi ai thì nghe có tiếng một người nào đó trong đám đông kêu lên :
- Đúng là con kỳ đà rồi!
“Con kỳ đà thì một mình mình cũng đập chết được, làm gì mà xôn xao dữ vậy?” Tôi vừa thầm nghĩ như thế, vừa chen lách đám người đang thở hổn hển, nét mặt đầy kinh dị đứng ngáng trước mặt tôi, kiếm một chỗ trống ghé nhìn. Vừa nhìn vào, tự nhiên người tôi bỗng bật lùi ra sau. Trời ơi, một con kỳ đà kinh khủng, tôi chưa từng thấy và chưa từng nghe tía má nuôi tôi nói đến bao giờ!
Con vật bò sát to lớn vừa bị đâm chết, những vết thương toang hoác trên lưng, bên bụng, giữa đầu tóe máu, máu còn chảy ròng ròng. Ngôi mả ai mới chôn, nấm đất đắp chưa khô đã không may bị nó moi vào lưng gò ngang chân mộ. Và từ cái hang rộng đào bằng hai chân trước ấy, con vật đã chui vào, cạy bật nắp áo quan lên, thò đầu vào ăn thịt cái thây ma. Vết đất bị móng chân con vật cào sâu lúc giẫy chết, bới tung lên, cùng những lùm cây bụi cỏ gãy rạp, nhàu nát, nhốm đầy máu chung quanh, chứng tỏ rằng một cuộc chiến đấu ác liệt diễn ra nơi đây giữa con vật kinh khủng với đám người chiến thắng cởi trần, mồ hôi mồ kê nhễ nhại còn đang cầm xà-beng, cầm chĩa đứng vây quanh.
Một ông cụ già nghiêng đầu ngắm nghía con vật đã bị đâm chết, thở phào ra :
- Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, tôi chưa gặp con nào lạ lùng khủng khiếp như con này. Không phải cá sấu, mà cũng không phải là kỳ đà. Kỳ đà thì mõm nhọn chứ! Cái mõm con này lại bằng, không ra hình đầu kỳ nhông mà cũng không ra hình đầu rắn mối. Chắc nó là một con lai... gì đó!
- Nom như một con rồng. Nhất là khi nó cất đầu lên, cái lưỡi dài đỏ hỏn le ra thụt vào nhanh như chớp, chẳng khác gì một con rồng đang phun lửa. May mà tôi né kịp, không thì tôi đã chầu Diêm Vương rồi!
- Ờ... Khi nó táp hụt thằng này, hai hàm răng chơm chởm của nó bập vào nhau nghe một tiếng “cảng” rợn người.
Một người đàn ông bạo dạn thò tay vào nắn nắn những mụn gai trên lớp da lưng rất dày đóng đầy bùn khô mốc của con vật lâu lâu còn giật giật co co mấy cái, cũng lắc đầu bảo :
- Hồi nhỏ tôi có nghe ông nội tôi nói, nhưng tôi không tin, nghĩ có lẽ là các ông già xưa hay vẽ ra bằng tưởng tượng... Không biết có chắc là giống này chăng?
Con vật kinh khủng nằm đấy, không động cựa gì nữa. Mình nó dài và to cỡ một chiếc xuồng ba lá, chỗ vòng bụng thòi ruột còn đỏ vì máu chảy ri rỉ kia, phải đến hai vòng tay người to lớn ôm mới giáp.
- Chạy đi mời thầy giáo đi. Chắc ổng biết đấy!
Trong đám đông, sáng kiến của một người nào đó vừa gợi lên, lập tức được hưởng ứng ngay: “Phải rồi! Phải rồi! Chạy đi tìm thầy giáo Bảy mau lên”.
Ở vùng rừng xa xôi này, thầy giáo Bảy là người trí thức duy nhất của xã, am tường mọi việc. Lại nghe nói thầy là người có cảm tình với cộng sản, bị bọn thực dân luôn luôn làm khó dễ, và chúng “đày thầy về tận cái xứ khỉ ho cò gáy này cho muỗi đốt”, nên thầy càng được phụ huynh học sinh nể trọng. Giỗ chạp, cưới gả gì người ta cũng mời thầy giáo Bảy. Thậm chí những việc kiện tụng, tranh chấp nhau mà làng xã không phân xử nổi, một ý kiến của thầy đưa ra có thể giảng hòa được đôi bên. Cho nên trong trường hợp đứng trước con vật quái lạ không ai rõ tông tích nó là con gì này, người ta chỉ còn đợi chờ ở sự hiểu biết có tính cách quyết định của thầy giáo Bảy thôi.
- Ai lại để cái mùi người chết xông ra mà đứng quanh hít thở mãi như vầy được! Thời bây giờ chứ có phải ngày xưa đâu mà để vậy chờ tề tổng tới làm biên bản!
- Nào, bà con ta mỗi người một tay... nhanh lên!
- Chao ui! Kinh khủng quá!
Trong lúc thầy giáo Bảy chưa đến, người ta gấp rút đóng lại nắp áo quan, lấp cái hang ăn thông vào huyệt mả, và không ngớt xôn xao bàn tán về sự xuất hiện bất thường của con vật quái lạ này...
- Thầy Bảy tới rồi!
Tiếng bọn trẻ reo lên trước tiên. Mọi người tránh giạt ra, nhường lối vào cho một người đàn ông trạc ngoài bốn mươi tuổi, mặc áo sơ-mi cộc tay, quần bà ba đen xắn cao ngang ống chân, vừa từ dưới một chiếc tam bản cập bờ, gấp bước đi lên.
- Thầy coi giùm nó là con gì, thầy Bảy? - Ông cụ già ban nãy đã ước đoán nó là “con lai”, bước tới gật đầu chào thầy giáo, vừa hỏi vừa nhìn vào mặt thầy rồi lại đưa mắt nhìn con vật.
Mọi người chung quanh ồn lên một thoáng rồi bắt đầu im phăng phắc. Thầy giáo Bảy lần túi lấy mục kỉnh ra lau vào vạt áo, đoạn thong thả đeo lên mắt, đầu khẽ nghiêng qua nghiêng lại ngắm nghía con vật. Những nếp nhăn trên trán thầy cứ giãn ra co vào, càng làm tăng thêm vẻ quan trọng trên gương mặt xương xương mà ai nấy đều kính nể, và càng làm cho mọi người thêm háo hức đợi chờ lời phán của “con người thông tường mọi lẽ, nhất xứ làng quê” này.
- Nó là một con kỳ đà thôi! Đúng như vậy, một con kỳ đà. - Thầy giáo Bảy chép miệng nói, đầu gật gù như khẳng định thêm cho câu mình vừa thốt ra.
Tiếng xôn xao lại bắt đầu dậy lên. Một người nào đó trong đám đông cười hô hố: “Hồi nãy, tôi đã bảo nó là con kỳ đà mà không ai chịu nghe!” Có tiếng người cãi lại: “Hứ! Kỳ đà thì to hơn bắp vế là cùng, chứ kỳ đà gì mà to bằng con cá sấu vậy?” Không biết đó là lời phản đối lại người vừa cất tiếng cười, hay lời phản đối lại ý kiến của thầy giáo Bảy.
Thầy giáo Bảy mỉm cười. Nụ cười độ lượng không tỏ ra có chút gì khó chịu, mà còn làm tăng thêm vẻ đôn hậu trên gương mặt hiền lành. Thầy ngắm nghía con vật một lúc nữa, rồi thong thả nói :
- Con kỳ đà này to thật! Hồi năm 1942, lúc tôi còn dạy học ở xã Đốc Vàng thuộc Đồng Tháp Mười, bà con cũng có đâm chết một con, đo dài ba mét sáu. Con này là con thứ hai mà tôi được thấy tận mắt đấy...
- Ăn thịt được chứ, thầy Bảy? - Một người đứng phía sau hỏi với vào.
- Ăn thịt được. Giống kỳ đà thôi! - Thầy giáo Bảy lại gật gù, nhấc mục kỉnh lên - Con này là con thứ hai mà tôi được thấy đấy. Như vậy là hiếm lắm. Có thể nó sinh sống ở một vùng nào khác, nhờ một điều kiện ngẫu nhiên nào đó, bị bão tố giạt đi, bám trên một khúc gỗ trôi qua biển chẳng hạn, mà nó lạc tới đây [4].
- Im để nghe thầy Bảy nói, làm gì mà ồn ào vậy?
- Nói tiếp đi, thầy Bảy!
Chờ cho mọi người lắng xuống, thầy giáo Bảy mới nghiêm sắc mặt, bảo :
- Thời tiền sử, có những con vật to lớn khủng khiếp, có loại có sức nặng đến bốn năm mươi tấn, nhưng ngày nay đều đã bị hủy diệt cả. Trong điều kiện thích nghi nào đó thì chúng mới có thể sống được. Sự thay đổi khí hậu trên vỏ quả đất nguội dần đã làm biến mất nhiều loại sinh vật và thực vật mà ngày nay người ta chỉ còn tìm ra được những bộ xương hay dấu vết đã hóa thạch đào được dưới nhiều tầng đất sâu...
Nhiều tiếng xì xào bắt đầu nghe lâm râm chung quanh. Dường như những danh từ xa lạ từ miệng thầy giáo Bảy nói ra, những chuyện vỏ quả đất, xương hóa thạch xa xôi mà sự hiểu biết của họ còn lâu lắm mới có thể với tới, khiến họ không còn tập trung chú ý nghe thầy nói nữa. Nhưng chắc chắn là mọi người đều thán phục thầy giáo Bảy, và nhiều người bắt đầu chêm vào đôi ba câu gì đó, tỏ ra mình cũng có ít nhiều chỗ lĩnh hội được ý nghĩa của lời thầy giáo nói, gây nên một sự mất trật tự rất thỏa thuê, không người nào phản đối người nào cả.
Khi mọi người sắp sửa xả thịt con kỳ đà khổng lồ, thầy giáo Bảy tháo mục kỉnh ra, mặt đăm chiêu hồi lâu, nói với những người còn ngong ngóng đứng chung quanh :
- Bất cứ chúng nó từ đâu tới, hung hăn đến thế nào, nếu bà con ta đều đồng tâm nhất trí thì chúng ta có thể diệt trừ được chúng cả. Sá gì con quái vật này!
Tôi biết thầy giáo Bảy muốn ám chỉ đế quốc xâm lược. Hình như thầy còn toan nói điều gì nữa thì phải. Nhưng mấy tiếng kêu bất thình lình từ chỗ bờ sông vọng tới khiến thầy quay mặt trông ra và thôi không nói nữa. “Tiếng ai mà the thé như tiếng dì Tư Béo?” Tôi vội ngóng cổ lên nhìn. Quả đúng là dì Tư Béo thật!
- Một trăm đồng cái mật con kỳ đà, tôi mua đây. Hai trăm đồng cái mật, tôi mua đây. Để cái mật cho tôi!
Dì Tư Béo vẫn béo tròn béo trục như trước, tay trái cầm tờ giấy bạc con voi đỏ [5] giơ cao lên, miệng vừa gào, chân vừa lạch bà lạch bạch chạy về phía chúng tôi, tay phải vừa lần túi mở kim băng rút ra một tờ giấy bạc nữa, hai tay xòe cao hai tờ giấy bạc phẩy lia phẩy lịa như sợ ai mua cướp cái mật trước. Tôi vội chạy ra, kêu lên :
- Dì Tư mới tới đó hả? Dì ở đâu tới đây?
Dì Tư Béo “ơ” một tiếng, toét mồm cười, bàn tay cầm tờ giấy bạc bóng mỡ đập vào vai tôi một cái khiến tôi suýt ngã. Bà ta gật đầu lia lịa, như ra ý bảo: “Chờ đấy, chốc sau hẵng nói chuyện”, rồi vội vă chen lách mọi người bước vào trong. Thằng Cò nãy giờ vẫn theo dõi tôi, nó kéo tay tôi hỏi :
- Dì mày đó hả?
- Ờ... Nhưng mà không phải dì. Bà chủ quán rượu ở chợ Ngã Ba Kênh, mày không nhớ à? Hồi trước tao làm hầu bàn ở đấy mà!
Thằng Cò ngó chằm chằm vào mặt tôi, buông thõng một câu :
- Thôi, về. Có ghe vải đậu đằng kia. Mình đi lại đó mua dầu lửa rồi về. Má trông lắm đấy!
Tôi ngần ngừ :
- Mày không ở coi xả thịt con kỳ đà à?
- Coi làm quái gì! Về ăn cơm, trưa này còn đi rừng cho kịp.
Dì Tư Béo quay ra tìm tôi, mặt tiu nghỉu :
- An, cháu có quen ai trong này không?
- Làm chi vậy, dì?
- Hỏi mua giùm tao cái mật đi. Tao nói mãi mà họ không chịu bán!
- Như vậy là họ không bán đâu!
Bà chủ quán rượu thở ra một hơi dài nặng nề, chậc lưỡi tiếc mãi. Thảo nào ngày trước có lần lão Ba Ngù bảo tôi: “Bà phệ của mày lưng mật [6] đấy. Lúc nào cũng tìm mật tọng vào bụng. Bả là bà chúa nhát sợ tàu bay mà!”.
Tôi hỏi thăm dì có khỏe không, lâu nay dì ở đâu... Nhưng bà ta chỉ ừ ào đáp qua loa. Thất vọng vì không mua được cái mật con kỳ đà hiếm có này đã làm rơi rụng hết mọi tươi vui của bà ta khi gặp lại tôi ban nãy.
- Bây giờ mày ở đây à? Có khá không? - Giọng xởi lởi của bà ta bỗng trở lại nhanh chóng, và trên gương mặt phì phị buồn thiu hé mở một nét cười - Thôi, đi với dì đi, An ạ! Ở với dì, cháu sẽ chẳng đến nỗi nào đâu...
- Cháu có ba má ở đây rồi! - Tôi cười cười, đáp.
- Ủa, mày gặp ba má mày rồi sao?
- Gặp rồi!
Thằng Cò cũng cười theo tôi. Tôi chợt hiểu ngay vì sao lúc nãy nó cứ giục tôi đi về gấp.
Dì Tư Béo phàn nàn cuộc sống khó khăn, giặc giã đánh lung tung làm cho bà ta không ở yên nơi yên chỗ làm ăn buôn bán. Bà ta còn nấn ná đứng lại một lúc nữa, đến khi đã biết chắc rằng không thể mua được cái mật con kỳ đà, bà ta mới chịu xuống thuyền chèo đi.
Lần gặp gỡ đầu tiên và buổi chia tay cuối cùng của tôi với dì Tư Béo đều bắt đầu và kết thúc bằng câu “ngã giá” của bà ta. Nhưng dẫu sao cũng có lúc tôi đã chịu hàm ân bà ta trong những ngày đầu lưu lạc, nên lòng không khỏi có đôi chút ngậm ngùi.
Chúng tôi mua dầu lửa xong, lo muộn, bèn lội tắt qua rừng mà không về theo lối cũ.
Hai đứa xắn quần lên đến bẹn, vừa đi vừa khảo chuyện về con kỳ đà khủng khiếp. Bỗng dưng thằng Cò tặc lưỡi, kêu lên :
- Phải chi hồi sáng mình dắt con Luốc theo, An nhỉ!
- Ờ!
- Mày liệu con Luốc có chống cự nổi với con kỳ đà ấy không?
- Biết đâu được!
- Sao lại biết đâu được? Cọp nó còn không sợ mà!
- Ờ!
- Tao chắc chỉ còn lại mỗi con này và nó đã bị đâm chết, chứ ở đây không còn con nào nữa đâu!
- Con gì cũng sống có đôi. Biết đâu lại không còn một con đang chờ mình trong này...
- Đừng có nói bậy!
Thằng Cò bỗng quát tôi, rồi nó vênh vênh bộ mặt làm ra vẻ cứng cỏi, vung vẩy chai dầu lửa trong tay, lội bươn tới trước đi một mình.
Rừng đước mênh mông. Cây đước mọc dài tăm tắp, cây nào cây nấy thẳng như cây nến khổng lồ. Rễ cao từ ba bốn thước tua tủa giương ra chung quanh như những cánh tay từ trong thân cây thò ra bám đất. Mặt đất lầy nhẵn thín, không một cọng cỏ mọc. Chỉ có vài chiếc lá rụng mà nước triều chưa lên kịp để cuốn đi, và bóng nắng chiếu xuyên qua những tầng lá dày xanh biếc, soi lỗ chỗ trên lượt bùn mượt mà vàng song li ti vết chân của những con dã tràng bé tẹo. Những buổi triều lên, nước chỉ ngập quá gối thôi, chúng tôi năm bảy đứa rủ nhau đi bắt vọp, bắt cua, trên đường về thường đuổi nhau chui qua những “cánh tay đước”, móc bùn ném nhau, té nước và reo đùa ầm ĩ - những lúc đang vui vẻ chung quanh có đông bạn bè ấy thì tôi có cảm giác như rừng đước đang xôn xao từ dưới biển mọc lên. Nhưng hôm nào đi một mình, chung quanh vắng lặng, nhìn làn nước đục ngầu xô nhau tràn qua cội đước xù xì, thì tôi lại thấy như khu rừng cứ lặng lẽ chìm dần xuống biển, và một nỗi lo sợ không đâu, bất thần ập tới, khiến đôi lúc tôi phải hét to lên để tự trấn tĩnh và ba chân bốn cẳng hộc tốc chạy về hướng một ngôi lều nào đó, mà tôi biết là gần nhất.
Thằng Cò vẫn mải miết ộp oạp lội bùn đi trước tôi. Giữa vắng lặng xanh nhờ của rừng đước âm u, từng bước di động của chúng tôi mồn một vọng vào tĩnh mịch. Tự nhiên, tôi ngoái nhìn ra phía sau lưng và dặng hắng một tiếng, gấp bước đuổi theo thằng Cò, nghĩ lan man rằng nguy hiểm xảy ra trong rừng hầu như bao giờ cũng đến với kẻ do dự, nhút nhát đi sau.
[1] Gốc người Chiêm Thành, bị các vua đầu triều Nguyễn đưa xuống định cư và đồn trấn ở hai nơi: Châu Giang và Hồng Ngự, để dùng họ chống lại người Miên hay sang cướp phá biên giới bấy giờ. Gọi Chà-và vì nước da họ đen nâu như người Gia-va (Chà-và). Cũng có thuyết nói đó là người Chiêm, lai người Gia-va, sang ở buôn bán đã lâu đời. Vùng Châu Giang dệt lụa, lãnh đen nhuộm mặc nưa nổi tiếng.
[2] Thuyền bán tạp hóa lưu động trên sông.
[3] Cánh đồng hoang, ai muốn chôn người chỗ nào thì chôn không phải là nghĩa trang.
[4] Ở đảo Cô-mô-đô thuộc In-đô-nê-xi-a có rất nhiều loại bò sát lưỡng cư này. Tên nó là kỳ đà, cũng còn gọi là cự đà. Có con mình dài tới 4 mét, có thể nuốt chửng một con nai to cả móng lẫn sừng, và quật ngã người để ăn thịt. To lớn thế, nhưng trứng nó chỉ bé bằng trứng ngỗng. Vài tháng sau khi nở ra, kỳ đà con đã có sức mạnh để tự kiếm ăn lấy, và chừng 4 - 5 tuổi, chỉ một cái vẩy đuôi, nó dễ dàng đập chết một con heo rừng hay quật ngã một con nai to. Giới khoa học phương Tây gọi là rồng Cô-mô-đô. (Tài liệu này, tình cờ chúng tôi đọc được ở báo Trung Lập xuất bản ở Cam-pu-chia đầu năm 1964. Nay xin chú thích bổ sung vào đây).
Các nhà bác học Liên Xô đã đến nơi bẫy bắt được một số con vật này. Dân đảo rất sợ, gọi giồng kỳ đà này là những con “rồng phun lửa”. Bộ máy tiêu hóa của chúng cấu tạo giản đơn như bộ máy tiêu hóa của những con vật thời tiền sử. Chúng có nguồn gốc từ châu Úc rồi vượt biển sang Cô-mô-đô. Những con còn nhỏ đã bơi nhanh hơn ca-nô, hơn tàu chạy hết tốc lực.
[5] Bạc giấy của Đông Dương ngân hàng, được in thêm, lạm phát rất nhiều sau khi Nhật đảo chính Pháp. Trong kháng chiến ta vẫn còn dùng tạm loại giấy bạc này, đóng thêm con dấu của kinh tế tài chính để phân biệt với loại bạc xanh ở vùng địch tạm chiếm.
[6] Mật kém, ý nói những người nhát gan.
Dòng sông Năm Căn hơn hai tháng trước còn ồn ã khua động tiếng mái chèo xuôi ngược, giờ đã trở nên lạnh ngắt, vắng teo. Thuyền bè rút mãi theo các đường kênh rạch nhỏ, chạy sâu vào rừng cho dễ đánh du kích, tiêu hao sinh lực địch. Quán lều dỡ đi theo, lùi vào tận trong “dớn” [1]. Lò than bỏ cho các loại dây rừng bò kín nóc. Cáo cầy tha hồ dắt nhau làm tổ trong những đống củi gỗ đước cao như núi chất ngoài sân lò, mọc đầy nấm dại.
- Hừ! Thằng Tây mới tới Năm Căn hơn hai tháng thôi. Vậy mà gần chục mạng người đã hy sinh! Hai anh du kích diệt được khá nhiều Tây và lính ngụy vừa bị nó bắt và bắn chết, buộc xác phơi ở chỗ gốc cây mắm gần bờ sông chiều hôm qua... Bà con trong chợ đến cướp xác hai anh em về chôn, bị nó bắt đánh một trận gần chết, bữa nay còn giam trong đồn! - Ông già thợ đốn củi nói đến đây ngập ngừng cúi xuống cời lại đống hun. Khói cay nồng, đặc sệt từ đống hun ngùn ngụt bốc lên, tỏa trắng khắp gian lều. Bầu không khí ẩm ướt từ trong ngôi lều của chúng tôi như quánh lại, ngột ngạt đến tức thở. Ông lại ngẩng nhìn tía nuôi tôi, nói tiếp. - Như vậy là hết đất rồi. Chỗ nào cũng có thằng giặc. Chí như cái Hòn Khoai ngoài biển kia mà nó còn mò tới đóng đồn! Vậy thì mình cũng phải làm thế nào chứ, anh Hai?
Tía nuôi tôi cứ gật gù im lặng ngồi nghe. Khi ông già đốn củi ngừng nói, với tay rứt một dúm thuốc trong cái ống bơ nhồi vào tẩu, tía nuôi tôi bèn cầm chai rót thêm rượu vào bát :
- Uống đi, ông bạn!
- Trời ơi, bộ anh Hai muốn tôi “mượn tửu binh giải phá thành sầu à?” - Ông già nhếch nụ cười móm mém, đưa tay đỡ bát rượu.
- Chẳng qua đó là cái thói tật không bỏ được của anh em bọn mình đấy thôi! Chỉ có chúng ta mới giải phá được thành sầu này, chứ cái thứ tửu binh... thì nó chỉ quật cho mình say mèm, nằm đó đợi giặc đến trói cổ dắt về đồn thôi!
Đôi bạn già ngồi xếp bằng trên một tấm đăng trải giữa nhà cùng cười lên mấy tiếng và chuyển bát rượu cho nhau mỗi người tợp một ngụm. Tiếng cười khành khạch gượng gạo của ông già đốn củi có lẽ cũng làm lây đôi chút buồn sang cho tía nuôi tôi. Cả hai người cùng im lặng, đưa mắt ngó ra ngoài. Ánh nắng trời chiều xuyên qua những tầng lá đước rậm rạp, chiếu xuống mặt đất lầy ngoài bờ bên kia con rạch nhỏ một màu xanh tai tái. Gió từ biển khơi thổi tới, hun hút lùa qua những vòm lá đước tối om, thốc mạnh vào lều làm cho mái lá rung lên và ngọn lửa cháy lép bép trong đống củi hun bỗng phụt sáng đỏ ngòm...
Cứ vài hôm lại có một ông khách tạt vào lều uống vài chén rượu với tía nuôi tôi. Có người tôi quen, có người tôi chỉ biết mặt chứ không rõ tên. Đôi khi cũng có một vài người lạ mà tôi đoán chừng là bị giặc càn chạy tới đây. Những lần đầu, tôi còn thường la cà bên tía nuôi tôi, lắng nghe câu chuyện giữa những ông già trao đổi với nhau qua chén rượu suông, nhưng mãi rồi tôi cũng không chú ý nữa. Quanh đi quẩn lại, vẫn là chuyện bọn giặc ruồng bố, càn quét. Họ rất căm thù bọn giặc ở đồn Năm Căn, nhưng nghe cái giọng rượu lè nhè của họ, tôi biết rằng họ chỉ có thể mượn rượu để nói ra cho hả một lúc vậy thôi. Thậm chí có một ông nom còn trẻ tráng, gọi tâng tía nuôi tôi là bác, mà cũng thở ra cái giọng bạc nhược của những lão già cổ hủ, một hai tin rằng sự xuất hiện con kỳ đà kinh khủng nơi đồng mả mấy tháng trước là điềm trời giáng tai họa cho dân xứ này.
Sau những bữa rượu như vậy, tiễn khách đi rồi, tía nuôi tôi thường đứng rất lâu một mình ngoài bờ cỏ. Ông lắng nghe tiếng ca-nô giặc chạy tận ngoài sông Cửa Lớn, hay nghĩ gì về những câu chuyện của các ông bạn già thì không rõ, nhưng tôi thường thấy ông khoát khoát tay làm những cử chỉ bực tức khó chịu. Mỗi ngày tía nuôi tôi lại một thêm lầm lì, ít nói. Có khi ông ngồi lặng lẽ hàng giờ bên đống củi hun, như một gốc cây khô giữa rừng, đến nỗi tôi và thằng Cò đứa nào cũng len lét không dám đi mạnh chân.
Ông thường bỏ nhà đi luôn. Chẳng rõ đi đâu. Nhiều lúc đi hai ba hôm mới về. Má nuôi tôi rất lo. Cơ sự này thì ông lão đến quẫn chí mất. Nhưng mỗi lần tía nuôi tôi trở về, tôi lại thấy ông tỉnh táo và vui vẻ hơn trước. Có khi ông còn cầm về cho tôi và thằng Cò một vài thứ quả lạ, màu đỏ óng, có những chấm li ti xam xám rất đẹp mà ông bảo là chỉ để cầm chơi chứ không ăn được. Chà, có thứ quả rừng nào mọc ngoài bờ sông và trong những khu rừng chung quanh đây lại có thể lọt khỏi con mắt của tôi và thằng Cò? Thế mà cả hai đứa chúng tôi đều chưa hề trông thấy những thứ quả tía nuôi tôi cầm về.
- Tía lấy quả này ở đâu vậy, tía?
- Ngoài xóm kia thôi...
- Xóm nào vậy tía?
- Xóm ngoài chứ xóm nào. Con sao cứ lục vấn mãi...
Tôi lặng im không hỏi nữa. Thằng Cò tưởng ông mệt mà tôi cứ đeo hỏi mãi làm ông bực, nó bèn lôi tôi đi bắt mồi câu cá. Ở nhà được vài hôm, tía nuôi tôi lại sắm sửa đi. Ông soạn mấy bao diêm, một cái xoong nhôm và hơn chục lít gạo bỏ trong bao cà-roòng. Điều đó càng khêu gợi thêm sự tò mò trong tôi bấy nay một cách mãnh liệt, khiến tôi không nén được ý định: phải dò xem tía nuôi tôi đi đâu và làm gì?
Cũng như mấy bận vừa rồi, tía nuôi tôi lấy xích buộc con Luốc vào chân cột cẩn thận, rồi sai bảo tôi và thằng Cò đi làm một công việc gì đó, hoặc chờ đúng lúc chúng tôi vắng mặt, ông mới đi.
Tía nuôi tôi đã sắm sửa xong rồi. Chẳng đợi ông bảo, tôi cầm con dao bước ra cửa, còn quay lại nói vọng vào bếp :
- Má ơi, con ra ngoài bờ sông chẻ mớ lạt dừa nghe má!
Tía nuôi tôi “ừ” đáp thay cho má nuôi tôi, ông còn cười cười nhìn tôi bằng con mắt khuyến khích. Tôi cầm dao men theo bờ rạch, đi tới một chỗ ngoặt bèn chui ngay vào núp trong một bụi sậy um tùm. Từ nơi trú ẩn này, tôi có thể nhìn rõ mọi hướng chung quanh. Ngồi chưa yên chỗ, tôi đã thấy tía nuôi tôi quẩy bao cà-roòng lên vai lững thững bước ra sân. Ông còn đứng giữa sân giũ chiếc khăn rằn bịt lên đầu, quay qua quay lại chung quanh rồi mới lẩn ra bờ rạch. Tôi nén thở, cúi thấp đầu xuống gối, không dám động cựa. Lâu lắm mà vẫn không thấy ông đi qua chỗ tôi. Như thế này thì dứt khoát là tía nuôi tôi đi vào hướng rừng trong kia rồi. Tôi nhảy ra khỏi bụi, chạy về. Chưa vào tới cửa, tôi đã hỏi giật giọng :
- Má ơi, tía con đâu? Ông đi rồi hở má?
Má nuôi tôi bước ra, “ừ” một tiếng :
- Mày hỏi ổng có việc gì? Sao hồi ổng còn ở nhà mày không hỏi, để cho ổng đi rồi mới chạy tìm cuống lên vậy?
- Tía có nói đi đâu không, má?
- Không. Mày còn lạ gì tính của tía mày nữa. Ổng đã không muốn nói thì hỏi ổng làm gì, hở con?
Má nuôi tôi nói giọng buồn buồn, có hơi giận dỗi. Tôi chạy vào mở xích thả con Luốc ra sân. Rồi tôi bước đến, cầm tay má nuôi tôi :
- Con đi theo tía đây. Theo coi tía đi đâu.
- Ổng đập mày chết đấy. Ổng đi đâu mặc ổng, theo làm gì? Đến như tao mà ổng còn giấu, không nói thay...
- Đúng rồi! Như vậy là đúng rồi. Con đã biết đúng là tía con đi đâu rồi!
- Ổng đi đâu?
Tôi ghé vào tai má nuôi tôi, thấp giọng :
- Ổng đi vô chơi với mấy anh du kích trong rừng! Má không thấy tía con mang theo nào diêm, nào gạo, cả cái nồi nữa đấy sao?
Má nuôi tôi lùi lại một bước, tròn xoe mắt nhìn tôi :
- Ai nói với mày vậy?
- Con đoán vậy thì biết chớ đợi gì phải nghe ai nói!
- Ờ, mày nói không chừng phải đấy. Tao cũng nghĩ mang máng như vậy. Từ hôm ổng nhặt cái quả gì ở đâu về cho chúng mày đấy. Bà Tám ngoài xóm có bảo nhỏ với tao rằng: nghe đâu anh em bộ đội đằng mình còn ẩn trong rừng. Bả còn nói họ rách lắm. Nghe vậy, thì để bụng thôi, đừng có hở ra cho ai nghe con!
- Má còn phải dặn! Thôi, để con vào gọi thằng Cò dậy đi với con.
Má nuôi tôi nắm tay tôi, lôi lại :
- Không được! Không được đâu. Con đi một mình thôi. Có con Luốc theo con là đủ rồi. Cái miệng thằng Cò hay bép xép lắm!
Má nuôi tôi vội vã quay vào, soạn trong rổ may lấy một ống kim khâu và mấy cuộn chỉ, gói vào mảnh giấy nhật trình cũ, nhét vào túi áo tôi :
- Nhà nghèo chẳng có gì... Con vào gặp các ảnh, nói là của má gởi biếu... Đi cẩn thận nghe con.
Tôi gật đầu, huýt sáo một tiếng. Con Luốc nhảy phóc theo chân tôi, chạy dọc theo bờ rạch ăn sâu vào rừng. Cứ men theo dấu chân tía nuôi tôi, tôi vừa đi vừa dắt con Luốc chạy ộp oạp trên bờ đất sình lút ngang ống chân. Đi độ hai ngàn thước thì mất dấu. Ở đây, hãy còn có nhiều vết chân của những người lội vào rừng bắt cua, bắt vọp. Những vết cũ lội từ trên bờ xuống rạch đã được phủ một lượt phù sa mỏng khi triều xuống rất dễ phân biệt với dấu chân mới của tía nuôi tôi. Tôi lội ngay xuống rạch, ngược theo dòng nước gợn bùn vẩn đục ngầu từ trong rừng chảy ra, mải miết bươn ra. Con Luốc cứ kêu ư... ử... trong cổ, dường như muốn gọi tôi lên mà mãi không thấy tôi lên, nó bèn co giò phóng tùm xuống nước, lội xộn xộn sát theo tôi. Càng đi sâu vào rừng, lòng rạch càng hẹp lại. Nhiều quãng bị cành lá rậm rạp trên cây che phủ, bóng nắng không lọt xuống tới, khiến cho dòng nước tối om om, trông rất dễ sợ. Tôi vẫn mải miết đi tới. Chừng nửa giờ sau thì thấy mất những gợn nước vẩn bùn, mà trông hai bên bờ lại chẳng có một vết chân nào lội lên. Nhìn những cánh tay đước từ trên bờ tua tủa thò xuống lòng rạch, tôi nghĩ có lẽ tía nuôi tôi đã lợi dụng những cái rễ to lớn này làm cầu trèo lên cây, đi lên bờ rồi. Quả nhiên con Luốc vẫy đuôi lia lịa, làm bùn và nước bắn tung tóe vào mặt tôi. Lập tức tôi bám theo cái rễ ấy, trèo ngay lên cây. Nhìn xuống phía dưới chân, chỉ thấy những cọng rễ đước xám ngắt chung quanh tua tủa cắm xuống mặt bùn phẳng lì. Con Luốc cứ đứng dưới gốc cây ngửa cổ lên chực sủa. Tôi phải suỵt suỵt luôn mồm, nó mới chịu im. Không lẽ tía nuôi tôi đến đây biến thành chim bay mất hay sao? Mà lại không có vết chân tụt xuống chung quanh gốc. Vậy thì dứt khoát là ông đã lần theo những cái rễ đước to lớn, xỏ rễ vào nhau này mà lần đi trên cao thôi. Sau khi đã đoán vậy, tôi bèn đưa mắt quan sát từng cái rễ một, và chỉ một chốc sau, khi đã tìm thấy một cái rễ có lớp da bên ngoài bị đạp tróc xước những mảnh vỏ con để lộ ra một vết xanh còn mới, thế là tôi đã nắm được đầu mối con đường bí mật đã đưa tía nuôi tôi đi về hướng nào rồi.
Trên khoảng tầm cao quá đầu người, tôi như con vượn, cứ dò theo dấu vỏ rễ xước, chuyển từ cây này sang cây khác đi tới mãi. Con Luốc trung thành vẫn bám theo sát phía dưới chân tôi. Chiều ở rừng bao giờ cũng xuống rất mau, chẳng mấy chốc mà trời đã gần tối. Vết vỏ cây tróc dẫn đường còn tìm thấy lờ mờ được một lúc, rồi sau đó tôi không còn nhìn ra được một dấu nào nữa. Ngồi trên một cái rễ cao, tựa người vào thân cây, ngơ ngẩn nhìn ra màu xanh trùng điệp quanh mình đang chìm dần vào bóng tối, tôi cảm thấy tay chân mình bủn rủn, nhấc không muốn nổi.
Một con chim hồng hoàng to như con ngỗng, sắc lông đen, vỗ cánh phành phạch bay vút qua bên trên đầu tôi. Chiếc mỏ cong to tướng và những rìa lông màu trắng ở chót cánh mất hút trong bóng tối lờ mờ. Tiếng “các các” kêu vang rừng của con chim đen to tướng tan dần trong mênh mang vắng lặng, khiến tôi rùng mình nhớ tới con kỳ đà kinh khủng đã đào mộ người chết nơi đồng mả.
Tôi phải tự động viên mình luôn và chật vật lắm mới trèo lên tận ngọn một cây đước cao. Nguồn hy vọng tìm thấy vệt khói bốc ở một nơi nào đó giờ đây hoàn toàn tan rã trong tôi. Mặt trời đã xuống khuất mất rồi. Và bây giờ màn đêm cũng đã bao trùm mỗi lúc một dày đặc trên những ngọn cây. “Trời tối thì tối chứ sợ gì? Mình sẽ dễ dàng nhận ra ánh lửa của họ. Có ai ở thầm giữa rừng đâu mà lo”. Nghĩ như vậy, tôi lại phấn khởi mừng thầm. Nguồn hy vọng mới làm tôi phấn chấn trở lại rất mau. Tôi kiên nhẫn ngồi trên một nhánh cây, phóng tầm mắt nhìn xuyên qua màn đêm, mặc kệ cho bầy muỗi đói vo ve kêu dậy bên tai và không ngớt đáp vào đốt khắp mặt mũi chân tay. Tôi không biết mình ngồi như vậy đã bao lâu. Nhiều lúc tôi có cảm giác như mắt mình bị mù, vì nhìn vào màu đen lâu quá. Con Luốc cũng kiên nhẫn đứng dưới gốc cây chờ tôi, thỉnh thoảng lại hực lên một tiếng. Không biết là nó muốn báo cho tôi biết rằng nó hãy còn đứng đấy, hay nó dọa một con chồn con cáo nào đang mon men tới gần.
Gió bắt đầu nổi lên. Rừng đêm khua xào xạc. Mùi bùn lạnh và mùi rêu đóng trên vỏ cây nhạt nhạt mốc mốc xộc đầy vào mũi tôi. Giữa lúc không còn trông cậy vào tai, vào mắt mình nữa thì khứu giác lại báo ngay cho tôi biết rằng tôi đã đi đến gần một chỗ có người. Trong những luồng gió từ màn đêm thăm thẳm thổi tới, lâu lâu tôi lại ngửi thấy có mùi khói và mùi cá kho, cháy nồi... Bấy giờ, tôi mới nhớ ra là mình chưa có gì cho vào bụng, và bắt đầu thấy đói cồn cào. Tôi tụt ngay xuống gốc cây, đạp trúng lên lưng con Luốc. Lần theo mùi cá kho cháy, tôi dắt con Luốc càn rừng, đi tới. Nói cho đúng, thì chính con Luốc dắt tôi đi. Nhiều lúc tôi loạng choạng vấp vào những rễ cây, ngã sóng soài vào bùn, con Luốc đã nhanh nhẹn, cắn áo tôi lôi dậy và nó luôn luôn đi trước chân tôi chừng một bước.
Tôi và con Luốc mò mẫm dắt nhau lội đi từng bước như vậy rất lâu. Kia rồi! Ánh lửa tôi đang tìm bỗng hiện ra thấp thoáng sau những thân cây, như một vầng mặt trời nhỏ từ dưới mọc lên. Tôi phải túm chặt chòm lông gáy trên cổ con Luốc, giữ nó lại và khẽ suỵt mấy tiếng, không thì nó sủa váng lên và bỏ tôi chạy vụt tới đấy ngay. Tim tôi đập rộn lên. Ánh lửa mỗi lúc một gần. Đã trông thấy rõ hình một cái bếp cháy trong gian chòi nhỏ, dưới một gốc cây rậm. Bùn ngập ngang ống chân tôi cứ tụt xuống dần. Bàn chân tôi giẫm lần lần lên mặt đất rắn hơn và đạp phải một bụi cỏ. Bỗng nhiên, con Luốc vùng ra khỏi tay tôi và chồm lên sủa oang oang. Đồng thời, một tiếng quát “Ai?” vang lên rùng rợn trong tối, rất gần: tiếng lên cò súng đánh rốp và tiếng quát liền theo, nghe càng dữ dội hơn trước: “Đứng lại! Ai? Đứng lại”.
- Đằng mình! Người đằng mình! - Tôi cuống quít kêu lên. Rồi tôi tuôn luôn một hơi - Tôi là thằng An, con ông Hai ngoài xóm Lá. Tôi đi vô tìm tía tôi!
Tiếng chân nhiều người chạy thình thịch trên gò đất. Luồng ánh sáng từ một chiếc đèn pin chiếu thẳng vào mặt tôi khiến tôi bị lóa mắt, phải quay nghiêng mặt tránh ra một bên.
- Còn có đi với ai nữa không? - Tiếng một người nào từ trong tối, sau một gốc cây hỏi vọng ra.
Tôi chưa kịp đáp, bỗng nghe tía nuôi tôi kêu “Trời!” một tiếng. Hình như ông đang nói với người cầm chiếc đèn pin chiếu vào tôi. Ông nói: “Đúng nó là con tôi. Nó mò theo tôi đấy. Thật là hết chỗ nói cho cái thằng bé này!”.
- Thôi, vào đây chú em! - Người cầm đèn pin vừa nói vừa hạ luồng sáng thấp xuống ngọn cỏ, cho tôi thấy lối đi vào.
Tiếng người vừa nói đó, sao nghe quen quen. Hình như tôi đã có gặp người đó và nghe cái giọng nói ấy ở đâu một lần rồi thì phải? Tía nuôi tôi cầm khúc đèn chai bước ra đón, cốc vào đầu tôi một cái đau điếng.
- Ai bảo mày lội vô đây? Rồi tao sẽ bảo cho má mày biết để bả dần cho mày một trận. Thôi, bước xuống cái vũng bên phía trái ấy, rửa mình ngay đi. Y như là thằng mò bùn bắt cá cạn.
Tôi cởi quần áo giặt giũ qua loa rồi máng lên nhánh đước, tắm vội tắm vàng một chốc là xong ngay. Con Luốc cũng nhảy phốc xuống vũng nước, bì bõm sán vào bên tôi, đòi tôi cọ bùn tắm cho nó. Một anh đứng bên mé vũng nước với tía nuôi tôi, giọng nói nghe còn trẻ lắm, hỏi tía nuôi tôi tới bằng lối nào mà để tôi dò theo vào được. Tía nuôi tôi không đáp, chỉ lắc đầu nói :
- Thật là hết biết! Tôi cũng chịu cái thằng bé này!
Anh đứng bên mé vũng nước trao cho tôi một bộ quần áo, bảo tôi mặc tạm vào cho ấm, chứ nó “không được vừa và đẹp lắm đâu”...
Tôi như bơi trong bộ quần áo rộng thùng thình, dày cộp vì muối nhiều nước mặn và vá không biết bao nhiêu là mụn vải.
Khi tôi bước vào lều của những người du kích, người đầu tiên tôi nhận ra ngay là thầy giáo Bảy, kế đó là ông già đốn củi. Còn người cầm chiếc đèn pin, mặc bộ quần áo bà ba rách nhiều chỗ, mặt xương xương, râu mọc tua tủa xung quanh cằm vì lâu ngày không cạo, đang ngồi trên bộ vạt lót bằng cọng sống lá kia thì tôi trông quen lắm. Tôi đã gặp ông ấy ở đâu một lần rồi. Chắc chắn là tôi không nhầm, từ khi nghe giọng nói nhanh nhảu của ông ban nãy. Trong thoáng chớp, có rất nhiều gương mặt quen quen hiện nhanh ra trong đầu tôi. Vừa ở ngã ba sông này có một gương mặt người dân quân tự vệ hiện ra cười với tôi, thì trong ngôi miếu tận một nơi xa kia, gương mặt những người thương binh lặng lẽ cúi xuống nhìn tôi chợt hiện lên và biến đi. Một bộ mặt xương xương toét miệng cười bỗng hiện ra giữa quán rượu dì Tư Béo... cái bóng người cao lêu nghêu, mặc bộ quân phục màu rêu, thắt lưng da rộng bản, khẩu súng poọc hoọc đeo trễ bên đùi... Đúng là ông ấy rồi! Tôi vụt kêu lên :
- Chú Huỳnh Tấn!
Người ấy buông chiếc đèn pin ra, nhổm lên, nhảy xuống khỏi bộ vạt, đứng sững nhìn vào mắt tôi. Tất cả những người chung quanh đều trố mắt ngạc nhiên. Ông ta nghiêng đầu, nheo mắt :
- Trời ơi! Chú em này sao lại biết mà gọi đúng tên cúng cơm của mỗ vậy kìa?
- Đêm đó, chú đi với anh Sáu tuyên truyền ghé quán dì Tư Béo, chú có gặp anh phân đội trưởng... Cháu làm hầu bàn ở đó mà!
Cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa tôi và người chỉ huy du kích đã làm tiêu tan bầu không khí im lặng trong ngôi lều khi tôi mới bước vào...
Các anh du kích bỏ củi vào đống hun quạt lên, bảo tôi ngồi xuống hong cho ấm. Tôi vừa ngồi xuống một khúc gỗ, chưa kịp xòe bàn tay móp cóng ra hong trên lửa thì đã có anh bưng vào cho tôi một tô cơm kèm hai khúc cá kho khô và một đôi đũa. Đúng là mùi cá kho cháy nồi mà tôi đã bắt gặp lúc nãy đây! Tôi chẳng khách sáo gì cả, cũng chẳng kịp nói hai tiếng “cám ơn” cho phải phép, đỡ ngay lấy tô cơm, và ngốn và ngấu gần như không kịp nhai. Con Luốc cũng có phần một miếng cháy, ve vẩy đuôi ngồi nhá tóp tép bên đống hun cạnh tôi.
Qua làn khói củi hun bọ mắt tỏa trắng, tôi biết có những đôi mắt cười nheo nheo trong ánh lửa của những người du kích ngồi tựa lưng vào vách đang nhìn tôi. “Chà, gói giấy nhật trình của má gói đã ướt sũng cả rồi... Lúc nãy mình dại quá. Sao không dám cầm vào đây mà hong cho khô, cứ giấu nó trong cái túi áo ướt”. Tôi và nốt miếng cơm trong tô, rồi đứng dậy cầm tô đi ra rửa ngoài vũng nước. Lúc vào, tôi không quên cầm vào gói quà của má nuôi gởi cho các anh du kích :
- Cái này... là cái má tôi gởi cho các chú, các anh đấy!
Nói xong, tôi mở năm đầu ngón tay xòe đưa gói giấy ướt sũng ra, trao cho chú Huỳnh Tấn.
Tía nuôi tôi đang đứng xem một anh du kích lau khẩu súng trường ở chỗ góc lều, vội ngẩng lên :
- Hóa ra má mày bảo mày vô đây à? - Rồi tía nuôi tôi dang cánh tay ra, nói như phân bua - Lạ quá! Tôi có hề nói với bả lần nào đâu? Sao mà hai mẹ con bả thính đến vậy!
Chú Huỳnh Tấn không cần biết có lời phân trần của tía nuôi tôi. Chú cứ thận trọng bóc từng mảnh giấy ướt nhàu ra, cầm nắm chỉ và ống kim giơ lên :
- Quà của chúng ta đây rồi!
Tiếng cười vui vẻ của nhiều người dậy lên. Chú Huỳnh Tấn quay sang bảo tía nuôi tôi :
- Bà già tâm lý lắm! Biết anh em rách, gởi cho ngay cái thứ mình cần mới thích chứ!
Thầy giáo Bảy ngồi cầm cái cuống quài dừa nước đã đập tơi dùng làm phất trần xua muỗi quơ qua quơ lại, mỉm cười nói thong thả :
- Đồng bào đều biết chúng ta ở đây mà anh em chúng ta có người nào hở môi chỉ chỗ cho họ biết đâu! Như vậy thì... khu rừng này đâu có thể chắc chắn bảo đảm che giấu được những cái lều này...
Chú Huỳnh Tấn nhướng mắt cười hì... hì...
- Che mắt địch thôi! Chúng ta làm sao che giấu được với đồng bào!
- Anh nói có lý! - Thầy giáo Bảy gật gù tiếp - Mọi người đều biết hoặc có thể biết có du kích ở đây, nhưng bọn địch thì hoàn toàn không hay biết... Như vậy thì... chỉ có rừng nhân dân mới bảo đảm che giấu được mọi hoạt động của chúng ta thôi!
Nhiều tiếng cười tán thưởng từ chỗ góc lều tối vọng ra :
- Đồng chí Bảy nói nghe sâu sắc lắm!
Thầy giáo Bảy sửa giọng nghiêm trang, nói :
- Không phải là ý kiến của tôi đâu. Vừa rồi, được đồng chí Hoài dắt vào gặp anh Tư Thượng Vũ [2], tôi đã nghe anh Tư bảo như thế đấy!
Một anh nào đó đang đi qua đi lại ngoài sân, hát se sẽ giọng trầm buồn: “Thần dân nghe chăng... sơn hà nguy biến! Hận thù đằng đằng... biên thùy rung chuyển...”. Tiếng hát nhỏ dần, tắt mất trong bóng đêm. Rồi một lúc sau, cái giọng trầm buồn ban nãy bỗng bật lên sang sảng: “Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến?”. [3]
Ông già đốn củi nói tướng lên, cắt ngang :
- “Chiến” chứ “hòa” là hòa làm sao? Đất của mình nó tới nó đánh chiếm, mà còn vớ vẩn hỏi “chiến” hay “hòa”! Còn người nào, đánh người ấy. Tới người cuối cùng cũng đánh mà!
Tôi cúi xuống nhìn vào ngọn lửa cháy rực trong đống củi. Nhưng tôi biết rõ là ông già đốn củi đang rướn người lên đằng sau các anh du kích, và ông đang vung tay, xúc động đến rung rung cả chòm râu. Giọng sôi nổi đầy nhiệt tình vừa thốt ra của ông làm tôi không muốn nhớ tới tiếng cười khành khạch đầy gượng gạo của ông và cái dáng người còm cõi, rầu rĩ cầm bát rượu thở dài nơi nhà chúng tôi chiều nọ.
[1] Loại dây leo rất chắc, rễ giữ đất ẩm, chứa nước ngọt lúc trời mưa. Vùng rừng đước mặn, nói “dớn” là chỉ nơi có nước ngọt, thường ở tít sâu giữa rừng.
[2] Đồng chí duy nhất trong xứ ủy Nam bộ còn ở lại bám cơ sở giữ điện đài liên lạc với Trung ương sau khi Nam bộ hoàn toàn bị giặc Pháp chiếm đóng.
[3] Bài hát “Hội nghị Diên Hồng” của Lưu Hữu Phước.
“Nam bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy vẫn không bao giờ thay đổi”. Hồ chủ tịch đã trịnh trọng tuyên bố trước năm châu thế giới những lời đanh thép ấy. Mà đó cũng là tình cảm của đồng bào Nam bộ chúng ta. Thầy giáo Bảy nói đến đây bỗng dừng lại chớp chớp mi mắt ngước nhìn lên lá cờ.
Chung quanh im phăng phắc. Trong sự im lặng có thể nghe rõ cả tiếng đập trong tim người bên cạnh ấy, bất thình lình tiếng nức nở của một người đàn bà nào đó bỗng bật ra. Giọng nghẹn ngào cố nén trong cổ họng không thoát ra thành tiếng được nữa cứ ấm ức bên trong lồng ngực. Mấy bà cụ già bên cạnh như bị lây theo, sụt sịt mũi và nép sau lưng người khác, đưa ống tay áo lên quệt nước mắt. Ngọn cờ đỏ sao vàng đã bạc, cháy xám ở một chéo góc và rách thủng lỗ chỗ vì vết đạn, rung rung phập phồng trong ánh lửa.
Anh chiến sĩ vạm vỡ nhất được chọn trong đơn vị đứng thẳng người, hai bàn tay to lớn cầm chặt cán cờ, giương lá quốc kỳ nghiêng về phía trước. Tôi đứng một bên, một cậu nữa cũng trạc tuổi tôi đứng một bên. Hai chú liên lạc mới sung vào đơn vị đều cao chưa tới vai anh du kích cầm cờ đứng giữa. Sau lưng chúng tôi, các anh lớn dàn đội hình trung đội hàng ngang, hướng mặt theo lá cờ. Đồng bào đến dự buổi lễ tuyên thệ của trung đội du kích địa phương đứng thành một vòng bán nguyệt, trên bãi cỏ rộng giữa một khu rừng gần bờ sông. Tía nuôi tôi và một số người có con em trong hàng được xếp đứng ở một chỗ danh dự: cạnh đống lửa đốt giữa sân, bên chiếc bàn thờ Tổ quốc kết bằng những bông hoa rừng đỏ, giữa đặt khung ảnh Hồ chủ tịch... Buổi lễ bắt đầu từ chập tối. Sau khi chào cờ, hát quốc ca, đồng chí ủy viên quân sự huyện Cà Mau thay mặt huyện ủy nói về sự quan trọng cấp bách phải thành lập trung đội du kích địa phương, rồi đại biểu các đoàn thể nhân dân đứng ra phát biểu ý kiến xong, thầy giáo Bảy nhân danh là người trong ban đỡ đầu du kích của xă đứng ra có mấy lời chung với anh em trong đơn vị và đồng bào.
Thầy nói về tội ác của thực dân xâm lược Pháp, cụ thể là bọn giặc chiếm đóng Năm Căn đã giết chóc, bắt bớ và gây nên bao nhiêu tai họa cho đồng bào... Giọng rõ ràng, khúc chiết, thầy nói đến đâu dẫn ra sự việc chứng minh đến đấy. Vì sao ta phải kháng chiến chống Pháp? Lực lượng quân đội chúng mạnh hơn ta, nhưng ta nhất định đánh thắng chúng. Vì sao? Sự có mặt và hoạt động của anh em du kích trong xã này là một cái tát vả vào mặt tên tướng Lơ-cờ-lét [1] huênh hoang khoác lác... Thầy nói không vội vàng hấp tấp, không la ó gào thét; đó là thái độ trầm tĩnh và cương nghị của người tự tin vào lời mình nói, tin ở sự tất thắng của chính nghĩa. Nhờ vậy mà thầy đã hoàn toàn thuyết phục tất cả quần chúng đứng nghe. Thầy nói về mưu mô thâm độc của đế quốc Pháp: chúng đã phản bội hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3, phản bội tạm ước tháng 9, đã nổ súng bắn vào quân đội ta ở Bắc Bộ như thế nào; thầy nói về bọn tay sai thành lập Nam Kỳ tự trị, chủ trương thuyết phân ly, đã thất bại thảm hại như thế nào, và giờ đây chúng đang khua chiêng gióng trống rùm beng, bày trò độc lập thống nhất giả hiệu như thế nào... Bao nhiêu người chết, nhà cháy, bao nhiêu xương máu đồng bào ta đã đổ ra! Quyết không thể để bọn chúng đặt lại ách thống trị lên đầu lên cổ dân tộc ta một lần nữa... Ngọn lửa căm thù trong lòng người nghe được lần lần khơi dậy, mỗi lúc một thêm bùng cháy mãnh liệt. Nhiều lúc tiếng vỗ tay, tiếng hò hét, tiếng nguyền rủa bọn giặc Pháp và tay sai cứ vang lên rất lâu. Nhưng khi thầy nói về tấm lòng Hồ chủ tịch, tấm lòng nhân dân miền Bắc hằng ngày hướng về Nam bộ, thì bầu không khí chung quanh bỗng trở nên nghiêm trang lạ lùng. Ánh lửa rừng rực soi sáng một vùng sân cỏ rộng. Cả trung đội du kích chúng tôi đứng nghiêm dưới cờ, hướng về chân dung Hồ chủ tịch, và đồng bào cũng đứng thẳng người, tất cả như nín thở hướng về Cha già dân tộc kính yêu. Tiếng nức nở bật lên đột ngột vừa rồi đã làm cho bầu không khí thiêng liêng lập tức bị xáo động.
Tôi đứng nghiêm, nén thở nghe tim đập rộn rã trong lồng ngực bé nhỏ của mình đang ưỡn tới. Tất cả chung quanh tôi như chìm vào trong ánh sáng đỏ của ngọn lửa cháy rừng rực. Chỉ còn nghe tiếng củi nổ lép bép, và xa lắm tiếng sóng trùng dương dào dạt xô bờ vọng qua những khu rừng rậm. Dòng sông Cửa Lớn ầm ầm cuộn sóng và rừng đêm như cựa mình nhổm dậy khi nghe tiếng nức nở bật lên. Không biết có phải là hồn dân tộc đang hiện về trong lá cờ ám khói lửa đạn chiến trường và trong đôi mắt Bác Hồ đăm đăm nhìn đàn con đang tập họp trên mảnh đất xa xôi cuối cùng Tổ quốc đây chăng? Tôi đưa cánh tay lên chùi nước mắt, hình ảnh đồng bào hướng về lá quốc kỳ và bức chân dung Hồ chủ tịch lòa nhòa trước mắt tôi. Những giọt lệ tủi thân đôi chút, nhưng xiết bao ấm áp sướng vui của đàn con khi gặp lại Mẹ yêu vời vợi cách xa, làm cho những bóng người vây quanh ngọn lửa như bé lại, mềm đi trong giây phút và sau đó tức khắc vụt cao lớn lên và cứng rắn hẳn ra.
Giữa lúc mọi người đang đứng trầm ngâm yên lặng, bỗng tía nuôi tôi dặng hắng một tiếng lớn. Tôi khẽ liếc mắt nhìn ông. Bàn tay tía nuôi tôi đang run run vuốt lại nếp áo, và đôi mắt ông cũng vừa liếc nhìn sang tôi. Vụt một cái, ông đã bước ra giữa sân cỏ. Ai nấy đều ngạc nhiên, hướng mắt nhìn theo tía nuôi tôi. Ông như không biết có mọi người chung quanh, đường hoàng bước đến trước bàn thờ Tổ quốc đứng nghiêm người, chắp tay cúi đầu xá ba xá. Ông lại dặng hắng một tiếng lớn, ngước lên nói to :
- Kính thưa ban chỉ huy cùng tất cả bà con đồng bào! Tôi là Nguyễn văn Hai, năm nay sáu mươi mốt tuổi... tuy quê mùa dốt nát, nhưng cũng mạo muội xin phép được tỏ bày chút ý kiến mọn...
“Trời ơi, ông già mình ổng làm gì vậy kìa?” Tôi cảm thấy hơi bực mình và lo lắng nhìn theo tía nuôi tôi... Ông ủy viên quân sự thay mặt huyện ủy đến dự buổi lễ tuyên thệ, các ông ủy ban xã và thầy giáo Bảy đều sửa bộ nghiêm trang, cùng quay về phía tía nuôi tôi. Còn chú Huỳnh Tấn, trung đội trưởng chỉ huy đơn vị đang đứng bên đội hình trung đội dàn ngang, cũng giật mình vội vã chạy ra đứng nghiêm trước mặt tía nuôi tôi.
- Cháu Nguyễn văn An năm nay mười lăm tuổi, được vinh dự đứng dưới cờ hôm nay... Tuy nó là con nuôi tôi... - Tía nuôi tôi vừa nói vừa ngập ngừng đưa tay trỏ vào tôi.
“Trời đất quỷ thần ơi, ông già mình hồi chiều đưa mình đến đơn vị, ổng có uống chén rượu nào đâu! Ổng ngẫu hứng kiểu gì lạ vậy? Có ai tra khảo đâu mà ổng khai ra những chuyện con đẻ con nuôi làm chi hỡi trời?” Tôi tự nghĩ như vậy. Tía nuôi tôi vừa trỏ vào tôi, vừa nhìn vào mắt tôi cách rất tự hào. Rõ ràng đôi mắt ông như muốn hỏi: “Sao, tía mở đầu như vậy con nghe có được không?” Tôi đứng nghiêm người, không nhúc nhích. Bộ quần áo bà ba đen má nuôi tôi vừa khâu cho tôi lại rộng quá khổ, cứ lùng nhà lùng nhùng, làm tôi càng thẹn thùng khó chịu. Một con muỗi lá to tướng cứ vo ve bay vờn trước mắt tôi và đáp vào bên má trái đốt đau nhói. Tôi nheo mắt mấy cái, động đậy bắp thịt má để đuổi nó nhưng nó vẫn không chịu bay. Tôi cảm thấy một cách rất rő rệt rằng con muỗi chết tiệt đang vo vo chân trước thỏa thuê cong đít lên chọc sâu cái kim vào gò má tôi. “Được, cứ cho mày tha hồ đốt. Mày cứ bám đấy cho đến khi xong phần kết thúc buổi lễ nhá!” Mồ hôi trên trán tôi rịn ra và từ từ lăn xuống, các bắp thịt ở má đang bắt đầu phản ứng, rung rung giật lia lịa mấy cái.
Nghe có tiếng thì thào của vài người trong đám đồng bào đứng bên phía trái tôi. Một người nói nho nhỏ :
- Coi thằng bé sắp khóc rồi đấy!
- Khóc đâu mà khóc! Con muỗi đốt má nó đấy! - Rõ ràng là tiếng ông già đốn củi cãi lại.
Tía nuôi tôi cứ nhìn vào mặt tôi. Có lẽ ông đã trông thấy con muỗi lá quái quỷ này rồi. Và hình như những tiếng thì thào vừa rồi cũng đã lọt vào tai ông, động viên ông thêm hay sao ấy! Tía nuôi tôi liếc nhanh về chỗ vừa phát ra tiếng cãi nhau, và không nói không rằng gì, cứ tự nhiên như ở nhà, ông bước đến đưa bàn tay vỗ “chách” lên gò má tôi, rồi bóc con muỗi ra cầm nó vo vo vào hai đầu ngón tay, đoạn búng xuống đất.
Tiếng cười nổ ra xung quanh, khiến cho tôi có cảm giác như hai chân sắp khuỵu xuống. Chú Huỳnh Tấn đường đường là một trung đội trưởng chỉ huy đơn vị, trong tư thế đứng nghiêm trước hàng quân mà cũng không nén được. Hai vai chú cứ rung rung, mặt đỏ dừ lên và cái miệng chú cố mím lại càng chằng ra động đậy hai bên khóe mép. Ông ủy viên quân sự thay mặt huyện ủy, thầy giáo Bảy cũng mỉm cười. Tai tôi váng lên vì tiếng cười, tiếng nói râm ran dậy lên chung quanh. Tôi càng cố đứng nghiêm thì tiếng cười càng lớn hơn. Cả tía nuôi tôi cũng cười cười nhìn tôi.
Trật tự của buổi lễ không còn giữ được nữa. Thầy giáo Bảy phải đưa tay lên khoát khoát ra hiệu cho đồng bào im lặng, mà vẫn còn nghe tiếng cười rúc rích mãi.
Tía nuôi tôi lại dặng hắng một tiếng lớn. Có lẽ ông lúng túng không biết nên tiếp tục nói như thế nào cho ra cung cách một người đứng phát biểu trước buổi lễ đông người.
- Kính thưa ban chỉ huy... cùng tất cả bà con đồng bào! Thằng cháu An đây, tuy nó là con nuôi... nhưng vợ chồng tôi còn quý nó hơn con ruột. Sở dĩ tôi nói thế, là vì ngẫm ra cũng có nhiều người thích bạn bè hơn thích anh em ruột. Anh em ruột có quan hệ tình cảm riêng của người cùng cha mẹ sinh ra, cùng chung một dòng máu. Nhưng tính tình không giống nhau thì quan hệ với nhau vẫn không thích bằng bạn bè.
- Đúng lắm! Ông già nói đúng lắm! Nói tiếp nghe đi, ông già! - Một người nào đó trong đám đông cổ vũ to lên.
- Con ruột cũng vậy. Sinh con ai dễ sinh lòng. Lỡ đẻ ra một thằng con ngỗ nghịch, trái khoáy, không giống mình thì sao? Thằng cháu An đây... bé thế, nhưng nó là một thằng bé thông minh, gan dạ. Trong những cơn thập tử nhất sinh, một mình tôi chiến đấu với kẻ thù, nó vẫn mò theo, không hề rời tôi một bước... Nay trước lời kêu gọi của Tổ quốc lâm nguy, nó xin theo các anh ra trận tiền giết giặc, vợ chồng tôi dù thương yêu nó đến mấy cũng phải dứt ruột để cho nó theo các anh...
Tía nuôi tôi khẽ dặng hắng mấy tiếng trong cổ. Ông đứng nuốt nước bọt một lúc rồi bước đến bên chú Huỳnh Tấn, thấp giọng :
- Chú Tư! Chú có thể tin rằng nó là một thằng bé thông minh và can đảm. Chính vì vậy mà chú đã tiến dẫn nó vào hàng ngũ. Nhưng dẫu sao thì nó cũng hãy còn ăn chưa no lo chưa tới. Vợ chồng tôi chỉ mong nó được các anh đây uốn nắn cho nó nên người, cho nó biết trung với nước hiếu với dân như lời Cụ Hồ hằng dạy bảo. Nếu như các anh có bảo ban điều gì mà nó không nghe thì xin chú cứ kỷ luật sắt giùm nó cho tôi. Sao chú Tư? Chú có thể hứa với tôi như thế được không?
Khi chú Huỳnh Tấn nghe tía nuôi tôi bảo chú “cứ kỷ luật sắt” tôi thì tôi thấy chú có hơi cười mủm mỉm, liếc nhìn tôi. Dường như chú muốn nói: “Đấy, tía mày dặn tao như thế, mày nghe chưa?” Nhưng khi tía nuôi tôi hỏi chú có hứa với ông như thế được không, giọng tía nuôi tôi nói nghe sao mà khẩn thiết, vừa xúc động mà cũng đượm đầy lo âu, thì cái cười mủm mỉm trên môi chú vụt bay mất. Chú ngẩng mặt quay nhìn vào trung đội, rồi trang trọng nhìn vào tía nuôi tôi :
- Thay mặt toàn thể anh em chiến sĩ trong đơn vị, nhân danh trung đội trưởng trung đội du kích địa phương Cà Mau, tôi xin hứa với bác như thế!
- Ờ, như vậy là vợ chồng tôi an tâm rồi! - Tía nuôi tôi khẽ nghiêng đầu, nói lắp bắp.
Đoạn ông quay lưng bước mấy bước đến bên bàn thờ Tổ quốc. Tôi tưởng ông xá ảnh Bác Hồ rồi lui ra. Không ngờ ông lại cúi chào ông ủy viên quân sự và thầy giáo Bảy cùng các đại biểu dân, quân, chính, rồi ngẩng lên nhìn ra đám đồng bào dự lễ, cất giọng run run :
- Con tôi được các đồng chí dắt dẫn đứng vào hàng ngũ, đó là điều hết sức vinh dự cho gia đình tôi. Vợ chồng tôi già rồi, không theo kịp anh em bộ đội, anh em du kích để cầm súng giết giặc. Trước giờ phút con tôi theo các anh lên đường, tôi xin gởi nó con dao này...
Tía nuôi tôi nói đến đây, bàn tay ông từ từ vén vạt áo rút con dao găm sáng quắc trong chiếc túi da beo ra, cầm con dao đưa lên.
- Hoan hô ông già! Hoan hô!
- Cha nào con nấy. Thật là xứng đáng một ông già!
- Hoan hô bác Hai!
- Hoan hô ông già đi, anh em! Một, hai, ba. Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô... ô... ô!
Tiếng vỗ tay và tiếng hoan hô vang dậy chung quanh. Các vị chủ tọa buổi lễ cũng vỗ tay và la hoan hô một lúc lâu.
Tía nuôi tôi cầm con dao soi vào ánh lửa đang rừng rực cháy đỏ, thần mặt nhìn món vũ khí tùy thân của mình một lúc, dặng hắng nói tiếp :
- Con dao này lúc nào cũng dính trong tay tôi. Lưu lạc khắp xứ, trong những cơn thập tử nhất sinh, nó đã cứu tôi bao nhiêu lần thoát chết. Gia đình, vợ con, còn có khi vì sinh kế, tôi phải tạm rời xa vài ba tháng, một đôi năm, chứ con dao này chưa hề xa tôi một chút nào.
Đôi mắt tía nuôi tôi sáng lên. Ông cầm con dao lật qua lật lại. Tất cả dĩ vãng của một cuộc đời phiêu bạt, luôn luôn phải vật lộn với cái chết để tìm lấy miếng sống, như đang bừng bừng sống dậy trên lưỡi thép sáng chói. Rồi tía nuôi tôi ngước nhìn tôi, nói bằng một giọng rắn rỏi :
- Ngày trước, tía đánh rơi nó. Con đã nhặt được. Âu cũng là “duyên nợ” của con. Số nó thuộc về con từ buổi ấy. Hôm nay tía giao nó lại cho con. Coi như lúc nào cũng có tía bên cạnh con. Khá giữ lấy!
Tía nuôi tôi cầm con dao run run đưa cho tôi. Lần đầu tiên tôi mới đứng nghiêm dưới cờ của một buổi lễ tuyên thệ có tính chất thiêng liêng như đêm nay. Sự việc diễn ra đột ngột quá, không ai lường trước được. Tôi lúng túng chưa biết phải nên như thế nào, thì chú Huỳnh Tấn đã hất hàm ra hiệu như bảo tôi: “Cầm lấy đi! Sao cứ đứng đực ra mà nhìn vậy?” Sau lưng tôi, các anh trong hàng ngũ cũng thì thào: “Bước ra đi! Bước ra! Cầm lấy!”.
Tôi bước tới ba bước, đỡ con dao trên tay tía nuôi tôi. Bỗng thấy chú Huỳnh Tấn rập chân hướng vào trung đội hô “nghiêm” một tiếng lớn. Rồi chú ngước mắt lên hô to :
- Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam! Thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, dù đầu rơi máu chảy cũng không lùi bước!
- Xin thề!
Toàn trung đội du kích chúng tôi cùng vung thẳng nắm tay lên trời và hô rập “xin thề” vang vang như một tiếng sét. Hồi âm từ những khu rừng tối mênh mông vọng lại hai tiếng “xin thề”, như tiếng hưởng ứng của hàng nghìn, hàng vạn chiến sĩ du kích đứng dày đặc trong đêm, cùng vung thẳng cánh tay lên hô theo chúng tôi.
Tai tôi ù đi, không còn nghe rõ những khẩu hiệu của người chỉ huy đơn vị mình thét lên sau đó. Mắt tôi chỉ còn thấy đầu người lô nhô và những cánh tay vung lên hạ xuống, vung lên hạ xuống cùng với những tiếng “xin thề”... “xin thề”... nổi lên. Tôi bồi hồi nhớ lại lúc má nuôi tôi trao cho tôi bộ quần áo mới, bà đợi tôi mặc xong, đứng ngắm nghía một lát, vuốt lại từng nếp áo sột soạt còn nguyên mùi hồ, mỉm cười: “Có hơi rộng đấy. Nhưng má đã ước tính sang năm con cao lớn lên, thì mặc sẽ vừa vặn lắm!” Rồi má nuôi tôi lim dim đôi mắt, quay nghiêng mặt đi... Ừ, thằng Cò ốm. Một trận sốt thương hàn đã quật nó nằm liệt giường hơn tháng nay, mới ngồi dậy ăn được bát cháo. Nó không đến tiễn chân tôi được, cũng đành. Nhưng còn má nuôi tôi? “Má mày lấy cớ phải ở nhà trông nom cho thằng Cò. Tao biết bả không chịu nổi phút bịn rịn lúc chia tay đấy thôi!” Tía nuôi tôi cười cười vỗ vào lưng tôi, thân mật nói bằng giọng đầm ấm xiết bao...
Thầy giáo Bảy và ông ủy viên quân sự thay mặt huyện ủy đã bước ra nói mấy lời kết thúc và trân trọng cám ơn đồng bào. Đã nghe lệnh cử hành quốc ca. Không biết tôi đang gào lên hay tôi đang hát nữa? Và tôi cũng không biết có phải tôi đang hát, hay những tiếng hát chung quanh tràn vào người tôi, rồi lại từ trong người tôi ngân bổng dội ra chung quanh? Tại sao chung quanh tôi bỗng dưng mờ đi như trông qua một làn kính ướt nước như thế?
- Chào cờ... ờ... ờ! Chào!
Tôi ngẩng mặt lên, nhìn thẳng vào lá cờ Tổ quốc mới tinh khôi treo trên đầu cột cao chót vót giữa sân lễ, đang được một bác già trong đơn vị trân trọng cầm mối dây đưa dần xuống. Một cảm giác lạ lùng vụt xâm chiếm đầu óc tôi: không phải lá cờ đang từ từ hạ xuống, mà chính những người đứng trên sân lễ giữa rừng đước Cà Mau đây, tất cả đang từ từ bay lên, mỗi phút một gần màu đỏ của lá cờ.
Bao nhiêu lo buồn, tủi cực, bao nhiêu căm thù, nhớ thương và hy vọng cùng dồn dập đến cả trong tôi trong giờ phút này. Tôi chớp chớp mi mắt nhìn lên lá cờ, để cho những giọt nước mắt vui sướng và nóng hôi hổi tự do lăn rơi trên đôi gò má nóng bỏng.
* * * * *
Toàn thể các chiến sĩ du kích của trung đội địa phương đã tập hợp dưới bóng những cây đước cổ thụ bên bờ sông vào lúc trời sắp rạng.
Anh em chia thành từng tổ ba người, xuống những chiếc thuyền nhẹ hai chèo, do các cụ già và các ông thợ đốn củi xung phong chèo đưa chúng tôi đến một địa điểm khác. Từ chỗ đó, trung đội du kích sẽ lên bộ đi vào vùng hoạt động mới trong huyện.
Sau buổi lễ, tía nuôi tôi đã có ý định theo thuyền đưa tôi đi. Nhưng khi ra đến bờ sông, tía nuôi tôi ngần ngừ nhìn tôi một lúc, rồi lắc đầu bảo: “Thôi, tía bận lắm. Con cứ đi với các anh các chú của con!”. Đoạn tía nuôi tôi vỗ vào vai tôi một cái thật mạnh: “Cố gắng, nghe con!”.
Tiểu đội 1 đã đi rồi. Tiểu đội 2 cũng đã xuống thuyền sắp sửa rời bến. Các anh trong tiểu đội 3 của tôi cũng đã đeo ba-lô lên vai, lích kích mang súng đứng vào hàng.
Tía nuôi tôi cài lại cúc cổ cho tôi, miệng lắp bắp :
- Cố gắng nghe con! Cố gắng nghe con!
Ông hấp tấp móc một dúm thuốc nhồi vào tẩu, xoẹt bật lửa đốt đuốc, bập bập hít măi. Bỗng nghe con Luốc sủa oang oang. Tôi vừa quay mặt lại thì con chó trung thành đã lao đến, dựng đứng hai chân sau lên, chồm chồm vào tôi, vẫy đuôi rít lên những tiếng kêu mừng rỡ.
Má nuôi tôi chạy tới, thở hổn hển :
- Thằng An đấy à? Tao chỉ lo tới đây thì mày đã đi mất rồi! Khổ quá, có mỗi cái lược chải tóc mà mày cũng quên! Thấy còn giắt bên vách, tao vội cầm chạy đem ra đây. Nghe bà Tám đi dự lễ về, bảo chúng mày còn ở đây...
- Hừ! Cứ làm như thằng bé mình nó còn con nít... Bà cầm gói gì trong tay vậy? - Tía nuôi tôi hỏi bằng giọng có hơi khó chịu.
- Gói ruốc thịt nai! - Má nuôi tôi cười, nụ cười không tự nhiên làm cho gương mặt bà như mếu - Thằng Cò nó không chịu ăn. Nó bảo đem ra cho thằng An.
Mặc kệ tía nuôi tôi nhìn bà bằng cặp mắt sốt ruột, má nuôi tôi cứ cầm lược chải chải món tóc lòa xòa trước trán tôi thành nếp xuôi ra sau, đoạn bà nhét lược vào túi áo trên ngực tôi.
Bà thong thả gỡ chiếc ba-lô trên vai tôi, tháo ra, đặt gói ruốc vào. Bàn tay gầy gò của má nuôi tôi lật lật mớ quần áo đã xếp thẳng nếp trong ba-lô, lôi ra chiếc áo cũ kẹp vào nách, rồi vội vã buộc ba-lô lại vuốt vuốt đeo lên vai cho tôi :
- Cái áo này còn sờn mấy chỗ sau lưng, để má mạng lại. Rồi có anh em nào đến chỗ con ở, má sẽ gởi theo!
Tía nuôi tôi nhấc tẩu ra khỏi miệng, thở một hơi khói thuốc lá đặc sệt, dim mắt ngó má nuôi tôi :
- Sao mấy hôm trước, bà không mạng cho nó? Mạng hay vá gì đó thì tùy bà. Nhưng đừng có học cái kiểu của các bà già xưa, mỗi lần nhớ thằng bé lại bỏ cái áo của nó vào nồi rang để nó “nóng lòng sốt ruột” mà xin về thăm nhà thì không được đâu!
- Ông cứ nói vậy...
Một luồng gió sớm từ biển thổi vào, mang theo hơi mát lạnh của đại dương và mùi thơm sực nức của những bông hoa rừng vừa nở, làm gợn lên trên mặt sông những ánh đỏ của bình minh đang nhuộm hồng mặt nước. Tôi cúi đầu chào tía nuôi tôi, chào má nuôi tôi, gởi lời chúc thằng Cò mau mạnh, rồi xốc lại con dao găm và quả lựu đạn đeo bên thắt lưng, rướn người nhảy phóc xuống thuyền.