Thời gian gần đây chúng ta thường nghe nói nhiều tới một tổ chức mà hoạt động của nó không chỉ bó gọn trong phạm vi một quốc gia, mà đã trở thành một thực thể liên quốc gia với những đường dây liên lạc vô cùng tinh vi và chặt chẽ, với những thủ đoạn vô cùng quỷ quyệt và tàn bạo, có dư sức khuynh đảo giới cầm quyền chóp bu của chính phủ - đó là tổ chức Mafia.
* * * * *
Vậy về thực chất Mafia là gì?
Trong tay các bạn có thể có nhiều loại hình dẫn liệu để tiếp cận thực thể đó: Mafia - một tác phẩm tư liệu, Bố Già - một hình tượng văn học ở một góc độ nào đó đã được coi là cổ điển và Bạch tuộc - một tác phẩm điện ảnh vô cùng cuốn hút người xem... Các tác phẩm này đã phần nào cho chúng ta một định nghĩa cơ bản về cái tổ chức khủng khiếp đó. Mới đây Mafia ở Côlômbia ngang nhiên thách đố nhà cầm quyền nước này và trắng trợn đe doạ giới luật sư và báo chí, ở đây lại càng khẳng định tính bạo ngược, vô nhân đạo, vô đạo lý, bất chấp pháp luật của chúng.
Trong ý niệm của đông đảo mọi người trên thế giới, Mafia là một tổ chức khủng bố bí mật ở Italia mà quê hương gốc gác của nó là đảo Sicily với thủ phủ là Palermo. Các biện pháp sở trường của Mafia là đe doạ phát giác, cưỡng bức và sát hại. Chúng hoạt động chủ yếu ở các thành phố lớn với những đường dây buôn lậu ma túy, các ổ chứa gái mại dâm, các sòng bạc v.v... và điều đáng sợ hơn là hoạt động của chúng bao giờ cũng gắn liền với các mục tiêu chính trị.
Tuy nhiên, ta cũng cần hiểu thêm xuất xứ của các khái niệm Mafia. Mafia, theo Mario Puzo, tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng Bố già nguyên là một từ gốc Ả Rập, có nghĩa là “nơi tôn nghiêm”, “cung thánh”. Từ này nhập vào Sicily khi con cháu của nhà tiên tri Mahomed xâm lược đảo này vào thế kỷ 10. Nhiều thế kỷ sau, Sicily bị nhiều thế lực khác nữa giày xéo, áp bức, bóc lột. Để trả thù, người dân Sicily đã thành lập các “hội kín” dưới tên gọi Mafia. Các “hội kín” này trở thành một chính quyền trong bóng tối, và được dân chúng nghe theo, trọng nể hơn cả chính quyền công khai. Các “hội kín” này thực thi suốt nhiều thế kỷ luật omerta mà theo luật này, đối với người Sicily, tội lớn nhất là tội cung cấp cho chính quyền bất cứ tin tức gì về bất cứ hành động nào của Mafia.
Sicily vào những năm 40 của thế kỷ chúng ta với hoạt động của Mafia và một lực lượng nhất thời tự phát dám đối mặt với Mafia và cả chính quyền Roma, chính là bối cảnh cuốn tiểu thuyết giàu sức hấp dẫn của Mario Puzo - Sicily, miền đất dữ.
Giới thiệu với bạn đọc cuốn tiểu thuyết “Sicily-miền đất dữ”. Nhà xuất bản Thanh niên không chỉ muốn đưa đến bạn đọc một tác phẩm có sức cuốn hút nữa của Mario Puzo, mà điều chúng tôi muốn các bạn chú ý là hãy cảnh giác với Mafia cùng mọi quan niệm, và thủ đoạn của cái tổ chức mà có thể len lách vào mọi lĩnh vực và có thể chi phối cả đường lối của giới cầm quyền không phải chỉ của một quốc gia, hãy cảnh giác qua việc làm quen một cách có phê phán những phẩm chất và số phận cuộc đời của chàng trai Turi Guiliano - người đứng đầu lực lượng dám đối mặt với Mafia cùng luật omerta hà khắc và chính quyền Rome lúc đó.
Vốn là một chàng trai thông minh, đẹp như tượng người Hy Lạp, Guiliano cũng đồng thời là một con người tốt bụng và nghĩa hiệp. Lẽ ra chàng được sinh ra ở đất Mỹ, nơi cha chàng đã từng được giúp việc đắc lực cho Bố Già Corleone lừng danh và được Bố Già ưu ái. Nhưng do buồn nhớ quê hương Sicily, cha mẹ chàng đã quyết định về đó sinh chàng và sống nốt những năm cuối đời, cũng như nằm xuống ở nơi chôn rau cắt rốn.
Vừa đến tuổi vào đời, nhu cầu kiếm tiền để nuôi thân và để giúp đỡ gia đình của chàng trai nghĩa hiệp đó đã bị những kẻ thừa hành công vụ của chính quyền Rome chặn đứng: chàng bị bắn tưởng chết.
Viên đạn của chính quyền nhằm giết chàng đã mở ra một bước ngoặt quyết định trong đời chàng, dẫn chàng đến con đường ăn cướp và chàng đã trở thành một tướng cướp kỳ tài: cướp của nhà giàu (mà các nhà giàu ở đây phần lớn đều là những thành viên cốt lõi của Mafia) chia cho người nghèo, chứ không phải cho riêng chàng hoặc băng cướp của chàng. Do được lòng dân, do thông minh và dũng cảm nên nhiều lần Turi Guiliano đã thoát khỏi những mưu toan hãm hại của chính quyền Rome ngoặc chặt với tổ chức Mafia ở đây. Không hãm hại được chàng, nhưng chúng đã lợi dụng băng của chàng để phá vỡ sự ủng hộ của dân nghèo đối với những người cộng sản và những người xã hội cánh tả ở Sicily. Và vô tình chàng đã bị tiếng oan trong công luận.
Lòng căm thù của chàng đối với Mafia, chính quyền Rome và những kẻ phản bội chàng càng tăng và được thể hiện bằng những sự trừng phạt để cảnh cáo và để trả thù. Tác giả có ý nhắc và bạn đọc chúng ta cũng nên tỉnh táo trước những “đam mê” trả thù bằng bạo lực của Guiliano và băng của chàng, để giữ cho những nét nhân bản luôn luôn là những nét riêng cao đẹp của mỗi con người và của cả loài người.
Nhưng Turi Guiliano cũng đã nắm được khá nhiều tư liệu của chính phủ, của giáo hội và của tổ chức Mafia về những hoạt động xấu xa, hèn hạ của họ. Những tư liệu này được gọi là “chúc thư” của Guiliano, mà mỗi trang của nó, kỳ lạ thay, là có chữ ký xác nhận của chính Hồng y giáo chủ Palermo. Nếu “chúc thư” được tung ra trước công luận, thì ngay cả chính quyền Rome và đảng Dân chủ Thiên chúa giáo đang cầm quyền sẽ có nguy cơ bị sụp đổ. Việc thanh toán Guiliano càng trở nên cấp thiết đối với chính quyền Rome và tổ chức Mafia ở Sicily.
Bố già Corleone từ Mỹ nghĩ tình bạn với cha mẹ Guiliano, đã liên lạc với trùm Mafia ở Sicily để tìm mọi cách cứu Guiliano và đưa chàng sang Mỹ. Cả con trai của Bố Già cũng trực tiếp tham gia vụ ứng cứu này, vì càng ngày anh ta càng thấy quý mến Guiliano cùng với nhân cách của chàng đã trở thành huyền thoại trong đời sống tình cảm và tinh thần của dân đảo Sicily này.
Nhưng thế lực Mafia vẫn còn lớn, và mưu đồ của chúng hết sức xảo quyệt. Mafia phản bội Guiliano và tạo mầm phản bội ngay trong lòng tên phó tướng thân cận đồng thời là con bà dì ruột của Guiliano.
Guiliano bị giết chết, cái chết của chàng chấm dứt một băng cướp “từ thiện” nhưng tự phát, tuy nó “vì dân” (chia của cho dân nghèo), nhưng không biết dựa vào dân, không biết tổ chức, tập hợp và phát huy sức mạnh của nhân dân, không biết liên kết với các tổ chức cách mạng do những người cộng sản lãnh đạo.
Guiliano đã chết, dù có sự can thiệp, giúp đỡ của Bố Già Corleone lừng danh từ Mỹ. Vì dù rất thương yêu huyền thoại Guiliano, nhưng khi phải cân nhắc giữa mạng sống của “huyền thoại” và của đứa con trai cưng kế vị của mình, Bố già không mảy may đắn đo nghiêng về phía con mình... Bài học mà Bố Già muốn con phải ghi lòng tạc dạ, đó là: “Sống là để khỏi chết, chứ không phải là để trở thành anh hùng”.
Với nội dung trên, Sicily - miền đất dữ đã được thể hiện qua nhiều loại nhân vật: từ các trùm Mafia đủ cấp bậc đến các đầu lĩnh của băng cướp, từ thủ tướng, bộ trưởng của chính quyền Rome đến Hồng y giáo chủ Palermo và các kiểu thầy tu khác, từ các cỡ chỉ huy cảnh sát đến đại diện cho các đảng phái chính trị... nhưng mỗi nhân vật đều không thể trộn lẫn với người khác được.
Các mưu đồ thanh toán nhau, các cuộc mưu phản thừa bẫy hiểm kế độc và cả các cuộc tình không kém phần lãng mạn và dữ dội... đều được gắn kết với tính cách của từng nhân vật, tạo nên một mạch đọc khó dứt trong bạn đọc.
Tuy khó dứt, nhưng mong bạn đọc lưu ý tinh thần mà chúng tôi giới thiệu ở những phần trên khi đọc cuốn sách này.
1950
Michael Corleone: người kế vị “Bố Già”
Chương 1
Đứng trên cầu tàu bằng gỗ bến cảng Palermo, Michael Corleone nhìn con tàu xuyên đại dương đang sửa soạn nhổ neo đi Mỹ. Lẽ ra hắn đã phải đáp chuyến tàu đó. Nhưng Bố Già đã chỉ thị cho hắn phải ở lại, đợi.
Hắn đưa tay vẫy chào từ biệt những người đã đưa hắn đến đây và còn đang ngồi trên chiếc thuyền đánh cá. Cũng chính những người này đã bảo vệ hắn trong suốt thời gian sống lưu vong tại Sicily. Chiếc thuyền đánh cá chờn vờn bên hông chiếc tàu biển nom như một con vịt con bì bõm bên vịt mẹ. Những người ngồi trên thuyền đánh cá vẫy tay chào lại hắn. Rồi họ lại bơi thuyền đi mất hút.
Trên bến tàu, những người bốc vác, đầu đội mũ lưỡi trai, mặc những bộ quần áo rộng thùng thình, đang tới tấp dỡ hàng từ trên tàu và chất lên những chiếc xe vận tải dậu thành hàng dọc theo cầu tầu. Nom họ thoăn thoắt và có vẻ là người A Rập hơn là người Ý. Cái mũ lưỡi trai kéo sụp xuống gần như là che kín cả khuôn mặt. Trong đám ấy, chắc chắn là có những vệ sĩ ngầm bảo vệ hắn cho đến khi hắn gặp được ông Trùm Croce Malo, “Chúa Trùm” của tổ chức “Người anh em” ở xứ Sicily này. Chỉ có báo chí và mấy “người ngoài” mới gọi tổ chức ấy là Mafia, chứ tại chính trên xứ Sicily thì chẳng có ai sử dụng tên gọi ấy. Ngay cả thường dân Sicilian cũng vậy. Cũng như không bao giờ họ gọi Ông Trùm Croce Malo là Chúa Trùm cả, mà gọi là Ông Địa.
Trong hai năm sống lưu vong trên xứ Sicily này Michael đã được nghe nói nhiều về lão Croce này. Có những chuyện tưởng như hoang đường đến mức khiến cho hắn đã không còn tin là có thể có một con người như vậy. Nhưng chỉ thị của Bố Già gửi đến cho hắn thì ghi rõ là ngay chính ngày hôm nay, hắn sẽ phải dùng cơm trưa với Ông Trùm Groce Malo. Và cả hai trong số tay chân bộ hạ của lão sẽ bố trí để một tay anh chị lừng danh nhất của xứ Sicily - tức là Salvatore Guiliano - thoát khỏi vòng vây để cùng đi Mỹ với hắn. Michael Corleone được lệnh không được rời khỏi Sicily mà không có Guiliano đi theo.
Phía cuối cầu tàu, cách chỗ hắn đang đứng khoảng năm chục mét, có một chiếc xe hơi to sơn màu đậm đang đậu lù lù trên một đường phố nhỏ. Trước xe có ba người đàn ông đang đứng. Michael đi về phía họ. Đang đi, hắn bỗng dừng lại, giả bộ châm điếu thuốc để đưa mắt quan sát.
Thành phố Palermo nằm gọn trong thung lũng lòng chảo do núi lửa đã tắt tạo nên. Ba phía bị núi bao bọc, còn một phía thì chập chờn trong màu xanh lấp loáng của Địa Trung Hải. Thành phố lung linh trong ánh nắng chói chang của mặt trời ban trưa trên xứ Sicily. Những con đường đất đỏ ngoằn nghèo, nom như những dòng máu đã đổ ra trên đất Sicily từ bao thế kỷ nay. Nắng chói chang, rực rỡ chan hòa trên hàng cột cẩm thạch trắng toát của ngôi đền Hy Lạp, trên các ngọn tháp dăng đầy mạng nhện của các đền thờ Hồi giáo, trên các mặt tiền nhà thờ có những hoa văn rắc rối kiểu Tây Ban Nha. Và ở cả sườn núi phía kia, thấp thoáng bóng một pháo đài cổ, lỗ chỗ những lỗ châu mai của người phương Bắc. Tất cả những cái đó là di tích của nhiều đạo quân hung bạo kể từ trước cả thời công nguyên đã từng xâm lăng và cai trị xứ Sicily khốn khổ này. Phía bên bức tường pháo đài là dãy núi với những đỉnh nhọn hoắt, ôm choàng lấy thành phố Palermo như đôi tay của tình lang ghì siết tấm thân kiều nữ, cả hai như trong tư thế đắm say và đầu gối cũng từ từ khuỵu xuống, hoặc nom như một chuỗi ngọc đeo chểnh mảng trên vòng cổ người đẹp. Xa hơn nữa, tít trên cao trên thinh không, bầy diều hâu đỏ vun vút bay ngang nền trời trong xanh.
Michael đi về phía ba người đang đợi hắn ở cuối cầu tàu. Nét mặt và thân hình của họ nổi bật trong bóng nắng. Mỗi bước hắn lại nhìn thấy họ rõ hơn. Và, đang đứng chụm lại, họ như bỗng tách rời nhau ra, để quây lại đặng ôm hôn hắn.
Cả ba đều biết rất rõ lai lịch của Michael. Chẳng hạn, họ biết rằng hắn là con trai út của “Ông Trùm” Corleone, tiếng tăm lừng lẫy chẳng những trên khắp nước Mỹ, mà cánh tay quyền lực của lão còn vươn tới tận xứ Sicily này. Rằng, trong lúc thanh toán một kẻ thù của “Đế quốc Corleone” thì hắn cũng đã “lật gọng” một tay “cớm gộc” của thành phố New York. Rằng, chính vì cái thành tích động trời ấy mà hắn phải ẩn mặt, sống lưu vong tại Sicily này. Nay thì sự việc đã được “thu xếp” ổn thỏa, nên hắn đang trên đường trở về quê nhà để đảm nhiệm ngôi vị “đông cung thái tử” trong “Đế quốc Corleone”. Họ chăm chú nhìn Michael, cái cách di chuyển mau lẹ, nhẹ nhàng của hắn, cái bộ mặt nhăm nhúm, rúm ró của hắn khiến cho hắn có cái vẻ của một người đã từng trải nhiều đau khổ và hiểm nguy. Hiển nhiên, hắn là một tay tổ đáng gờm chớ không phải tay mơ, tài tử.
Khi Michael đi đến cuối cầu tàu thì người đầu tiên đến chào đón hắn là một “giáo sĩ”. Ông ta mặc áo thầy tu, đầu đội chiếc nón đen bạc phếch dính đầy bụi bặm và cáu bẩn. Chiếc cổ “cồn” trắng của giáo sĩ đã đổi màu vì bụi đất đỏ của xứ Sicily. Cái mặt ngồn ngộn thịt của ông ta nom rất chi là trần tục, chẳng có vẻ gì là thầy tu. Đó là cha Benjamino, em trai của Ông Trùm Croce Malo. Điệu bộ của cha Benjamino thì đạo hạnh như thể nhút nhát. Nhưng thật ra ông rất táo tợn và rất nhiệt tình trong cái sự nghiệp đâm chém, dao búa của ông anh tăm tiếng lẫy lừng nọ. Và ông chẳng bao giờ ngần ngại khi phải tiếp xúc với quỷ dữ lúc nào cũng hờm sẵn trong lòng ông. Những đứa “thối mồm” còn dám kháo với nhau là ông đã dám tiết lộ cho ông anh của ông ta những điều mà con chiên bổn đạo đã xưng tội với ông trong tòa giải tội. [1]
Cha Benjamino mỉm cười và nồng nhiệt bắt tay Michael. Ông ta dường như ngạc nhiên và bớt căng thẳng khi thấy nụ cười có vẻ hồn nhiên, cởi mở và thân thiện của Michael thật trái ngược với cái tiếng tăm giết người không chùn tay của hắn.
Người thứ hai đón Michael là một người lịch sự có thừa, nhưng không có vẻ thân thiện bằng cha Benjamino. Đó là ngài thanh tra Velardi, “sếp sòng” đám cớm trên toàn cõi Sicily. Ông ta là người duy nhất trong số ba người ra đón Michael đã không có được lấy một nụ cười xã giao trên môi. Vóc người mảnh khảnh, ăn mặc cực bảnh so với dân “cạo giấy” ăn lương nhà nước “ba cọc ba đồng”. Đôi mắt xanh, lạnh của những người lai dòng máu Viking phương Bắc từ thời xa xưa đã từng xâm chiếm, cướp bóc xứ này. Thanh tra Velardi có lý để không khoái thằng “mẽo” này, vì nó đã “lật gọng” một “cớm gộc” nếu không hơn thì cũng ngang tầm cỡ ông ta chớ không ít. Hắn đến xứ Sicily chẳng qua là để đợi thời chớ đâu phải là mai danh ẩn tích để đi tu. Bắt tay Michael mà Velardi làm như đưa tay sờ vào lưỡi gươm bén không bằng.
Người thứ ba ra đón Michael là một gã có khổ người to lớn dềnh dàng hơn hai người kia. Đứng bên cạnh hai người vừa nói, nom gã như một ông khổng lồ. Gã siết chặt tay Michael, buông ra, rồi thân mật ôm chầm lấy hắn.
- Chú em - Gã nói - thật là mừng khi được gặp lại chú tại Palermo này.
Rồi đẩy Michael xích ra, nhìn vào mặt Michael vừa âu yếm, vừa e dè :
- Tôi là Stefan Andolini. Ông già của chú và tôi cùng lớn lên tại làng Corleone. Tôi đã gặp chú ở bên Mỹ, lúc đó chú còn nhỏ xíu xiu. Chú có nhận ra tôi không?
Thật là kỳ diệu, Michael nhận ra gã. Có gì đâu, dân Sicilian rất hiếm người có râu tóc đỏ như râu bắp của gã. Và đó là điểm độc đáo của gã, và dân Sicilian cứ nhất định tin rằng Judas bán Chúa phản thầy xưa kia cũng có mái tóc đỏ như vậy. Và người nào đã nhìn thấy lão dù chỉ một lần thì cũng khó mà quên được. Cái miệng rộng toác hoác, lại bị méo, cặp môi trông như con đỉa trâu và đỏ lói như miếng thịt ngựa, bên trên cặp môi ấy là hai lỗ mũi có lông rậm rì thò dài ra, đôi mắt trũng sâu ẩn dưới hàng lông mày chổi xể rậm rì như hai con sâu róm. Ngay cả cái cười của gã cũng khiến người ta thấy rờn rợn và bắt người ta phải nghĩ đến chết chóc.
Với vị giáo sĩ, Michael còn hiểu được mối liên hệ, chứ với “cớm gộc” Velardi thì mắc mớ gì mà cũng có mặt ở đây? Andolini, người có trách nhiệm liên lạc, đã vội vã và cẩn thận giải thích cho Michael về tư cách của “cớm gộc” trong vụ này. Dù vậy, Michael vẫn cứ cảnh giác. Ngài thanh tra đã chẳng nổi tiếng là một tay săn đuổi gắt gao anh chàng Guiliano đó sao? Và rõ ràng là ngài thanh tra và cái gã Stefan Andolini chẳng ưa gì nhau. Cái lịch sự họ đối đãi với nhau là cái lịch sự của hai đối thủ sẵn sàng giao đấu chí tử một mất một còn.
Anh tài xế mở cửa xe cho họ. Cha Benjamino và Andolini vỗ vai trịnh trọng mời Michael ngồi vào ghế sau. Bằng cái giọng khiêm nhường của một con chiên của Chúa, cha Benjamino nhấn mạnh là cha ngồi vào giữa để Michael ngồi cạnh cửa “đặng ngắm phong cảnh thành phố Palermo cho tiện”. Andolini ngồi phía cửa bên kia. Còn ông thanh tra thì ngồi ghế trước với tài xế. Michael để ý thấy ông thanh tra lúc nào cũng lăm lăm cầm cái núm cửa đặng có thể mở thật nhanh bất cứ lúc nào. Michael chợt thoáng nghĩ là cha Benjamino cố ý ngồi vào giữa để che bớt đạn cho hắn, nếu bất ngờ bị bắn lén.
Giống như một con hắc long, chiếc xe từ từ chuyển mình qua các phố xá của thành phố Palermo. Hai bên phố là nhà cửa xây theo kiểu Maure [2], những tòa công thự với hàng cột kiểu Hy Lạp và nhà thờ kiểu Tây Ban Nha. Những ngôi nhà thường dân sơn vôi màu lục, màu trắng, màu vàng. Tất cả đều có ban công trồng các dây hoa leo, làm cho người đi dưới đường có cảm tưởng như đang đi luồn dưới gầm một giàn hoa. Phố xá có thể nói là đẹp, nếu đừng có những đội bảo an, những đội cảnh sát quốc gia Ý đang đi tuần trên từng góc phố. Và trên các ban công cũng có lính nữa. Những chiếc xe khác chạy bên xe của họ nom hóa ra lùn hẳn đi, nhất là những chiếc xe do lừa kéo của nông dân chở rau quả tươi từ quê ra tỉnh. Những chiếc xe này phết sơn sặc sỡ từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ cái càng xe cho đến cả những cây căm xe bằng gỗ. Phía hai bên xe thường vẽ cảnh một hiệp sĩ mặc áo giáp và ông vua đội vương miện. Ấy là tranh kể lại tích vua Charlemagne và hiệp sĩ Roland, vị anh hùng trong các truyện cổ tích dân gian Sicily. Nhưng ở một vài xe, Michael lại thấy vẽ nguệch ngoạc hình một anh chàng trông tuấn tú, mặc quần da, áo sơ-mi cụt tay, thắt lưng sề sệ hai cây súng lục và vai đeo lủng lẳng khẩu tiểu liên. Nhưng dù đó là cổ hay kim thì các bức tranh đó bao giờ cũng có một hàng chữ đỏ kính cẩn ghi tên “Guiliano”.
Trong thời gian sống lưu vong ở Sicily, Michael đã được nghe kể nhiều điều về cái anh chàng Salvatore Guiliano này. Ngày nào trên báo chí cũng thấy có tên anh ta. Khắp cả cái xứ Sicily này, ai ai cũng nói về anh ta. Ngay cả Apollonia, cô bồ của Michael cũng thú nhận rằng hằng đêm, cô - cũng như hầu hết mọi đứa con nít và đám thanh thiếu niên choai choai của cái đảo Sicily này - vẫn cầu nguyện cho Guiliano được bình an. Chúng tôn thờ chàng ta và ngày đêm mơ ước được trở nên người như chàng. Còn trẻ mới ngoài hai mươi chứ mấy chàng đã được đám bình dân tôn phong là “tướng”, vì đã đương cự nổi cả một đạo binh được chính phủ phái tới để tiêu diệt chàng. Đã đẹp trai thì chớ, tánh nết chàng lại còn hào hiệp, vì chàng đã đem phân phát lại cho đám dân nghèo gần hết những gì mà chàng đã kiếm được bằng tội ác của mình. Ngoài ra chàng còn tỏ ra đạo hạnh, đàng hoàng. Cánh đàn em của chàng, đứa nào dám làm phiền đến các giáo sĩ và các phụ nữ là biết tay chàng liền. Độc đáo hơn hết là mỗi khi chàng “hóa kiếp” cho một tên mật báo viên hoặc một tên phản bội, chàng đều dành cho bọn này ít phút để ăn năn tội lỗi và cầu nguyện đặng làm hòa với các vị cai quản thế giới bên kia. Tất cả những điều này, Michael đã nghe hết, nhưng không rõ chi tiết cụ thể.
Khi họ đã rời đại lộ về hướng khác, thì thấy một tờ áp - phích đã đập vào mắt Michael. Nhưng hắn cũng chỉ nhìn thoáng thấy chữ Guiliano ở phía trên. Cha Benjamino nghiêng mình tựa vào cửa nhìn ra xa và nói :
- Đó là một trong những bản tuyên cáo của Guiliano đấy. Nhà nước đã làm đủ cách rồi mà, ban đêm, Palermo vẫn dưới quyền kiểm soát của anh ta.
- Tuyên cáo ấy nói gì vậy? - Michael hỏi.
- Anh ta cho phép dân chúng lại được sử dụng xe điện. - Cha Benjamino đáp.
- Cho phép? - Michael mỉm cười hỏi tiếp - Một tên sống ngoài vòng pháp luật mà lại cho phép?
Ngồi phía bên kia, Stefan Andolini bật cười lớn :
- Mấy cha cảnh vệ lái xe điện thì Guiliano đặt mìn. Nhưng trước đó, dân chúng cũng được cảnh cáo trước chớ có đi xe điện. Bây giờ thì hứa không đặt mìn nữa, thế thôi.
Michael hỏi cộc lốc :
- Xe điện đầy “cớm” như vậy thì làm thế nào anh chàng Guiliano ấy đặt mìn được?
Ngài thanh tra quay đầu lại, đôi mắt xanh rờn chiếu thẳng vào Michael :
- Bởi vì, trong cơn xuẩn ngốc của mình, Rome (tức chánh phủ trung ương của Ý - ND) đã tống giam ông già, bà già nó vì cái tội “kết giao với đại trọng phạm” - tức là kết giao với ông con trai của họ. Chính quyền cộng hòa rồi mà vẫn chưa huỷ bỏ đạo luật phát-xít ấy.
Cha Benjamino nói với giọng ngầm kiêu hãnh :
- Ấy, cũng vì cái vụ ấy mà ông anh tôi, ông Croce ấy mà, trách Rome hết sức vậy đó.
- Trời đất! - Michael thầm nghĩ - Trùm Croce mà lại dám trách Rome? Trùm Croce là cái quái quỷ gì, ngoài cái gọi là “điều hợp viên” trong đám Mafia với nhau?
Chiếc xe ngừng lại trước một tòa nhà đồ sộ sơn vôi màu hồng. Mỗi góc đều có tháp kiểu Hồi giáo sơn xanh nhô cao lên. Trước lối vào, một tấm vải bạt lớn, sọc xanh viết chữ “Khách sạn Umberto”, có cả hai tên gác cửa mặc gia phục có cài nút đồng sáng loáng. Tuy nhiên, Michael đâu có “ngợp” trước cái vẻ đồ sộ, huy hoàng, lộng lẫy và oai nghiêm ấy. Hắn đưa mắt “chụp” nhanh quang cảnh, đường phố phía trước khách sạn. Hắn nhận ra ngay có ít nhất một chục vệ sĩ, từng cặp đi đi lại lại dọc theo phía ngoài hàng rào song sắt. Bọn này chẳng thèm giấu giếm nhiệm vụ của mình, mở banh nút áo vét để lộ vũ khí lủng lẳng bên hông. Hai người hút thuốc lá đã chặn lối Michael khi hắn rời khỏi xe. Họ nhìn hắn, xoi mói như thể coi hắn là một nhân vật đáng lo ngại. Họ cũng tỏ ra chẳng cần biết Andolini và ngài thanh tra là ai.
Khi ba người đã đi vào bên trong thì lập tức, cửa đóng sập ngay lại phía sau lưng họ. Trên hành lang, bốn vệ sĩ khác xuất hiện và dẫn họ đến một hành lang khác. Bọn vệ sĩ này có điệu bộ vênh váo kiểu như bọn đầy tớ trong cung hoàng đế. Cuối dãy hành lang lại một cánh cửa gỗ sồi nặng nề chặn ngang, đóng kín. Một người ngồi trên cái ghế cao nom như cái ngai vội đứng dậy và rút chiếc chìa khóa bằng đồng sáng loang ra, mở cửa. Hắn cúi đầu cười và mỉm cười, cái cười ra vẻ ăn ý - với cha Benjamino. Ông này cũng mỉm cười chào lại.
Cánh cửa mở dẫn vào một dãy phòng lộng lẫy. Những cửa sổ kiểu Pháp mở trông ra vườn. Ngoài vườn, hoa chanh tỏa hương thơm ngào ngạt. Khi họ vào dãy phòng ấy, Michael thấy hai người ngồi sẵn phía trong. Michael tự hỏi tại sao Ông Trùm lại phải canh gác kỹ đến thế. Lão là bạn của Guiliano, đồng thời cũng là thủ túc thân tín của ngài bộ trưởng Bộ Tư Pháp ở Rome. Vả lại, chính cảnh vệ dăng dăng phủ kín đường phố Palermo. Vậy thì ai, cái gì đã khiến cho Ông Trùm phải “rét” đến thế? Kẻ thù của lão là ai vậy?
Đồ đạc trong phòng khách được chế tạo đặc biệt cho phù hợp với tòa lâu đài kiểu Ý. Ghế bành lớn, ghế tràng kỷ dài và sâu như một chiếc tàu nhỏ, bàn cẩm thạch lớn như thể nó vừa được “rinh” từ viện bảo tàng về. Tất cả những thứ ấy đều ứng với khuôn khổ của một con người vừa từ ngoài vườn đi vào để chào đón họ.
Hai tay lão dang rộng, ôm chầm lấy Michael. Lúc đứng, Ông Trùm Croce Malo nom có chiều ngang hơn là chiều cao. Mái tóc rậm ngả màu và xoắn tít như tóc mấy anh “nhọ” nhưng được cắt tỉa cẩn thận. Mái tóc ấy phủ lên cái đầu to và tròn như đầu sư tử. Đôi mắt lão toát ra vẻ nham hiểm. Hai con mắt như hai trái nho gắn trên cặp má nung núc những thịt nom như hai mảnh gỗ gụ ốp vào mặt. Má bên phải thì nhẵn nhụi nhưng má bên trái thì hằn lên mấy vết thẹo. Nhưng cái miệng thì lại duyên không ngờ. Môi trên có một hàng ria con kiến. Dưới cằm một chòm râu rậm như để gắn chặt các bộ phận trên mặt của lão lại làm một.
Nhưng ngoại trừ cái đầu có vẻ vương giả ấy ra, từ cổ lão trở xuống thì đúng là nông dân “rặt nòi”. Cái quần rộng thùng thình, mặc dù đã cố hết sức để ôm lấy cái bụng “bự” như cái thùng nước lèo của lão, nhưng vẫn cứ chực bung ra nếu không có hai sợi dây đeo choàng vắt lên vai. Cái áo sơ-mi cũng rộng thùng thình, tuy giặt sạch sẽ trắng bốc, nhưng nhàu nát như vừa lấy ở thùng đồ giặt ra và cứ thế mặc vào, chứ chẳng có ủi gì ráo. Lão không thắt cà-vạt, mà cũng chẳng mặc áo vét. Lại còn đi chân đất nữa chứ.
Cứ nhìn hình dạng bên ngoài, thì lão ta chẳng có cái vẻ gì của một người đã “nhúng mỏ” vào đủ mọi chuyện làm ăn lớn nhỏ, thượng vàng hạ cám, chợ đen chợ đỏ từ trên các đường phố cho đến các quảng trường của thành phố Palermo. Cứ nhìn điệu bộ của lão, thì khó mà tin rằng lão có trách nhiệm về cả ngàn cái chết, rằng lão lại có thể cai trị miền tây Sicily còn ngon lành hơn cả chính phủ trung ương tại Rome, rằng lão giàu có hơn cả mấy ngài quận công, bá tước chủ nhân các lãnh địa mênh mông ở Sicily.
Lão ôm hôn sơ qua Michael, rồi vội vã nói :
- Chú và ba của cháu quen nhau từ hồi hai người còn để chỏm. Chú thật vui khi thấy ba cháu có cậu con trai bảnh thế này.
Rồi ông ta quay ra hỏi han về những khổ cực mà Michael vừa trải qua trong chuyến đi ngày hôm ấy. Và hỏi xem hắn có cần gì không... Michael mỉm cười đáp mình đã lót dạ bằng khúc bánh mì và nhâm nhi lai rai vài ly rượu nho rồi. Lập tức sau đó, Ông Trùm dẫn hắn ra vườn. Cũng như mọi người dân Sicily, lão thích ăn ngoài trời mỗi khi có thể.
Bàn ăn được dọn ra gần một gốc cây chanh. Ly tách pha-lê sáng lấp lánh, khăn ăn, khăn trải bàn trắng muốt. Những chiếc ghế lớn bằng tre được các đầy tớ đem lại. Đích thân Ông Trùm kiểm tra lại cánh bày biện bàn ăn một cách lịch sự. Lão nom trẻ hơn cái tuổi ngoài lục tuần của lão. Lão kéo Michael ngồi xuống bên phải và ông em “giáo sĩ” ngồi phía bên trái lão. Ngài thanh tra và Stefan Andolini ngồi đối diện. Lão nhìn hai người này bằng đôi mắt lạnh nhạt.
Mọi người dân Sicilian đều là những tay ăn nhậu khoẻ, nếu họ có đủ thực phẩm. Và một trong những chuyện khôi hài về Ông Trùm mà người ta dám kể trước mặt lão là lão thích ăn hơn là thích giết kẻ thù. Lão ngồi vào bàn ăn, nụ cười đôn hậu nở trên khuôn mặt mãn nguyện, tay cầm thìa dĩa chờ đầy tớ đem thức ăn đến. Michael đưa mắt liếc nhanh khắp khu vườn. Khu vườn có tường đá cao bao kín và có ít nhất cũng một chục vệ sĩ rải rác trên khắp bàn ăn khác đặt quanh vườn, nhưng không bàn nào có quá hai tên và cách khá xa bàn ăn của Ông Trùm và các vị khách của lão. Khu vườn ngào ngạt hương hoa chanh và ô-liu.
Đích thân Ông Trùm sẻ thức ăn cho Michael. Món gà quay với khoai tây chiên bơ. Lão nếm thử món phó-mát nghiền, rồi mới sới vào đĩa mì Spaghetti, rót rượu nho “đặc sản địa phương” vào ly của Michael... Lão làm tất cả các động tác đó một cách hết sức thích thú và chân thành, cứ như thể điều quan trọng nhất của lão trong lúc này là làm sao để người bạn mới của lão cảm thấy thoải mái, ăn uống ngon lành. Michael cảm thấy đói, vì từ lúc rạng đông đến giờ hắn đã có cái gì nhét vào bụng đâu. Ông Trùm cứ rót thêm rượu, tiếp thêm thức ăn cho hắn. Lão cũng không quên đưa mắt nhìn đĩa của mấy người kia, để nếu cần thì đưa mắt ra hiệu cho đầy tớ tiếp thêm thức ăn hoặc tiếp thêm rượu cho họ.
Khi đã ăn xong, lúc ngồi nhâm nhi rượu tiêu thực, thì cũng là lúc Ông Trùm sẵn sàng để bắt tay vào việc. Lão nói với Michael :
- Vậy là cháu đến giúp Guiliano rời Sicily để đi Mỹ?
- Cháu đã nhận được chỉ thị như vậy. - Michael đáp - Cháu phải làm thế nào để đảm bảo an toàn cho anh ta đi đến Hoa Kỳ, không được để cho có một sơ sẩy nào.
Lão Croce gục gặc đầu. Bộ mặt nung núc những thịt của lão bỗng ỉu xìu, chảy dài ra. Giọng nói ồm ồm của lão bỗng cất lên :
- Mọi sự đã được ba cháu và chú sắp xếp đâu đó xong xuôi rồi chớ. Chú sẽ giao Salvatore Guiliano cho cháu. Nhưng... Ở đời đâu có phải lúc nào mọi sự cũng xuôi chèo mát mái, không có những trục trặc bất ngờ, trái ý xảy ra. Bởi vậy, về phái chú bây giờ có phần khó thực hiện được giao ước với ba cháu.
Lão đưa tay ngăn Michael đang định ngắt lời lão, và tiếp :
- Lỗi không phải tại chú mà cũng chẳng phải tại ba cháu. Qua cũng như ba cháu thì vẫn chẳng có gì thay đổi. Nhưng, Guiliano chẳng chịu tin ai, ngay cả chú đây nó cũng không tin. Từ mấy năm qua, nhất là cái thời gian đầu cuộc sống giang hồ, ngoài vòng pháp luật của nó, nhờ có chú mà nó thoát chết nhiều phen. Nó với chú có lúc kể như đồng hành, đồng sự đấy. Cũng nhờ có chú mà ngày nay, mới chưa đầy ba chục tuổi đầu, nó đã trở thành một tay giang hồ lừng danh vào bậc nhất của cái xứ Sicily này. Nhưng, lúc này nó cũng hết thời rồi. Năm ngàn lính bảo an và cảnh sát dã chiến đang ngày đêm lùng sục trên núi. Đến nước ấy, mà nó vẫn không chịu để cho chú đỡ nó một tay...
- Nếu vậy thì cháu cũng vô phương giúp đỡ gì cho anh ta, - Michael nói - cháu được lệnh đợi hắn trong vòng không quá một tuần. Sau đó, được hay chăng, cháu cũng phải bay về Mỹ.
Tuy nói vậy, nhưng Michael vẫn thắc mắc tự hỏi không hiểu việc đào thoát của thằng cha Guiliano này có gì quan trọng đối với ông già hắn, mà đến nỗi... Sau mấy năm sống lưu vong, hắn nóng lòng mốn trở về nhà. Hắn rất e ngại tình hình sức khoẻ của ông già hắn. Lúc hắn rời Hoa Kỳ đi lưu vong thì ông già hắn bị lãnh một vố nặng, bị trọng thương phải nằm chết gí ở bệnh viện. Ít lâu sau thì ông anh thứ hai của hắn - Sonny - bị bọn kia ria cho một tràng, “đi tong” luôn. “Gia đình Corleone” bị bắt buộc phải lao vào cuộc chiến sinh tử và tuyệt vọng: chống lại cả năm “gia đình” khác ở New York. Cuộc chiến ấy không chỉ thu gọn trên đất Mỹ mà còn lan tới tận cái xó Sicily này bằng cuộc mưu sát chính cô vợ trẻ của hắn. Theo tin tức từ ông già cho biết, thì lúc này vết thương của ông đã lành và ông cũng đã làm hòa được với năm “gia đình” kia rồi. Và những rắc rối của hắn cũng đã được thu xếp êm xuôi bằng cách ém nhẹm nội vụ, rồi cho “chìm xuồng” luôn. Nhưng, Michael cũng biết là ông già hắn đang nóng lòng chờ hắn về để đặng làm cánh tay mặt của ông. Mọi người trong nhà - từ cô em gái, thằng em trai và ông anh rể Tom Hagen, và nhất là bà già hắn vẫn còn đứt từng khúc ruột vì cái chết của Sonny - đều nôn nóng chờ hắn về. Michael thoáng nghĩ tới Kay. Không hiểu sao hai năm trời cách mặt hắn, cô nàng có “xa lòng” không, có lúc nào nghĩ tới hắn không. Nhưng điều làm cho hắn thắc mắc nhất vẫn là tại sao ông già trì hoãn ngày trở về của hắn. Nhất định là phải có cái gì đó hết sức quan trọng và có liên quan đến Guiliano.
Bỗng hắn thấy cặp mắt xanh rờn của “cớm gộc” Velardi đang chòng chọc nhìn vào hắn. Cái mặt xương xương có vẻ quí phái của ông ta khinh khỉnh nhìn Michael như thể nhìn một thằng “thỏ đế nhút nhát”.
- Ấy, bình tĩnh, - lão Croce nói - ông bạn Andolini đây chính là sợi dây liên lạc giữa chú và ông già của Guiliano và chính nó. Và, đâu phải là mọi người đã hóa điên cả. Khi rời khỏi đây, cháu sẽ đến gặp ông bà già nó hiện đang ở tại Montelepre. Cũng tiện, Montelepre nằm trên lộ trình của cháu đi Trapani. - Lão ngừng nói và mỉm cười. Nhưng nụ cười vẫn chưa đủ sức để lay động hai tảng thịt ú nú trên hai gò má của lão - Chú đã được cho biết kế hoạch của cháu. Toàn bộ kế hoạch! - Lão nhấn mạnh vào chữ “toàn bộ”. Nhưng, Michael nghĩ bụng: - “Dóc, biết thế đếch nào được toàn bộ kế hoạch của người ta.” Vì, hắn luôn luôn hành động theo đúng phương châm hành động của “Bố Già” là trong mọi trường hợp không vì bất cứ lý do gì mà tiết lộ toàn bộ ý đồ, kế hoạch của mình cho bất cứ ai.
Ông Trùm Croce lại rỉ rả nói tiếp :
- Ở đây, ai thương Guiliano thì cũng thấy rằng một là nó không còn có thể dung thân tại Sicily này nữa, hai là nó phải di cư sang Mỹ “làm ăn” thôi. Ngài thanh tra đây cũng nhất trí như vậy!
- Cái xứ Sicily này thật lạ lùng. - Michael mỉm cười đáp - Chính ngài thanh tra, đầu ngành cảnh sát an ninh của Sicily, đã thề bắt Guiliano cho bằng được. Thế mà bây giờ lại...
Ông Trùm bất giác cười lớn :
- Ai dám tự hào hiểu được cái xứ Sicily này chứ? Nhưng trong vụ này thì hoàn toàn đơn giản, chẳng có gì rắc rối, phức tạp cả. Rome muốn cho Guiliano sống “êm êm” ở bên Mỹ hơn là đưa nó ra làm ồn ào trước tòa án ở Palermo trong tư cách... nhân chứng, để Rome khỏi bị đem ra làm trò cười cho thiên hạ. Cũng là chính trị cả đấy thôi!
Michael nghe mà ngớ ra. Chính trị? Hắn cảm thấy lúng túng, khó xử. Điều này thật là ngoài dự liệu, kế hoạch của hắn. “Tại sao thằng cha “cớm gộc” Velardi kia lại chịu để cho Guiliano “vọt” qua Mỹ? Cái chết của Guiliano có gì là nguy hiểm?”
Giọng khinh khỉnh, ngài thanh tra nói :
- Có thể đó là một giải pháp của tôi. Nhưng chính ông Croce đây thương cái thằng ấy như con trai cưng của ông vậy.
Stefan Andolini ném cái nhìn hằn học, đầy ác cảm của mình vào ngài thanh tra. Còn cha Benjamino thì giả bộ cầm ly rượu lên “nốc”, đặng né cái nhìn ấy. Nhưng Ông Trùm đã vội nghiêm giọng nói với ngài thanh tra :
- Ngồi lại đây bây giờ đều là bạn bè, anh em cả. Do đó, chẳng có gì cần phải giấu giếm chú em Michael đây. Thế này, số là thằng Guiliano nó nắm được “cái tẩy” của ông nhà nước. Đại khái, nó có một tập “nhật ký”, “nhật trình” gì đó mà nó phóng đại ra nào là “chúc thư” nào là “bảo bối” của nó, trong đó nó trưng ra được bằng chứng mấy ông bự trong chính phủ đã có sự “giúp đỡ” nào đó, đặng lợi dụng nó vào mục tiêu “chính chị chính em” riêng tư của mấy cha. Nếu tài liệu này mà được tung ra thì không những chính phủ hiện đương quyền của Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo “đi tong”, mà ngay cả cái đảng ấy cũng “thân bại danh liệt” luôn. Và, thế là Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản Ý sẽ lên nắm quyền, chắc ngài thanh tra cũng đồng ý với tôi là phải làm tất cả những gì có thể làm được, đặng ngăn tình hình ấy xảy ra. Bởi vậy, ngài thanh tra đây mới thuận để giúp cho Guiliano “vọt” qua Mỹ, với sự hiểu ngầm là cái tài liệu chết tiệt kia phải được ém nhẹm.
- Thế chú đã nhìn thấy “chúc thư” ấy chưa? - Michael hỏi. Đồng thời trong lòng hắn cũng tự hỏi là không hiểu ông già hắn ở bên Mỹ có biết cái chỗ lắt léo này không? Trong chỉ thị gửi cho hắn, không thấy ông đả động gì đến “chúc thư” hay “bảo bối” gì cả.
- Chú đã biết nội dung của chúc thư ấy. - Ông Trùm Croce đáp.
Lúc đó, ngài thanh tra cũng chen vào nói một cách cay cú :
- Nếu tôi mà toàn quyền quyết định, thì tôi cứ cho lệnh giết chết thằng Guiliano, rồi nó bị “chết chỉm” vì cái “chúc thư” của nó cũng cam.
Stefan nhìn chòng chọc vào ngài thanh tra với một sự căm thù không cần giấu giếm và một sự hằn học đến nỗi lần đầu tiên, Michael nhận chân được Andolini thật là một tay hiểm độc, bất nhân chẳng thua gì lão Croce. Andolini nói :
- Dứt khoát là Guiliano chẳng bao giờ chịu đầu hàng. Còn tài trí và tầm cỡ của ông, xin lỗi ông thanh tra, còn khuya mới đủ sức đưa hắn vào quan tài. Khôn ngoan ra thì chính ngài nên liệu cái phần hồn của ngài ấy thì hơn.
Lão Croce từ từ đưa tay lên ra hiệu yêu cầu mọi người im lặng. Và ai nấy quanh bàn đều nín bặt. Rồi, như không cần biết những người khác đang có mặt tại đó, lão quay ra nói với Michael :
- Có thể là chú không thể giữ lời hứa với ba của cháu là giao Guiliano cho cháu. Tại sao lão Croce này lại dính dáng vào vụ này làm gì, thì điều này chú chưa thể trả lời cháu bây giờ. Nhưng cháu cứ yên trí rằng lão Croce hành động như vậy là có lý do và lý do ấy là chính đáng, là tốt. Bây giờ thì chú có thể làm gì nhỉ? Chiều nay cháu sẽ đi gặp ông bà già của Guiliano. Cháu ráng thuyết phục họ khuyên con trai của họ nên tin chú. Và, nhắc cho họ nhớ là chính chú đã lôi họ ra khỏi nhà tù, chứ không phải ai khác. - Lão ngưng một chút, rồi lại nói tiếp - Và nếu họ khuyên con trai của họ tin chú thì đó cũng là cách họ giúp đỡ chính con họ vậy.
Trong những năm sống lưu vong, lén lút, Michael đã tập và phát triển được cái bản năng của một con thú trước những cạm bẫy nguy hiểm. Hắn không ưa gì cha “cớm gộc” kia đã đành, mà cái lão Andolini hiểm độc này cũng chẳng phải là người mà hắn có thể tin cậy. Nhưng trong số những người đang có mặt tại bàn này thì Ông Trùm Croce vẫn là tay cần phải tỉnh táo đề phòng cẩn mật hơn hết. Khi nói với Croce, mọi người có mặt tại đây - kể cả cha Benjamino, em trai của lão - đều phải nói nhỏ nhẹ, đều phải quay mặt về phía lão mà nói, mà đầu phải hơi cúi xuống mà chờ đợi lão phán, thậm chí đang nhai thức ăn mà thấy lão nói thì cũng phải ngưng nhai. Đầy tớ vây quanh lão như hành tinh quay quanh mặt trời. Các vệ sĩ tản mát trong vườn, nhưng mắt vẫn lấm lét nhìn về phía lão và sẵn sàng nhảy bật lên như cái lò xo để xé xác bất cứ kẻ nào, theo lệnh của lão. Michael dè dặt nói :
- Chú Croce, cháu ở đây để sẵn sàng theo sự chỉ dạy của chú.
Ông Trùm gục gặc cái đầu tròn lu và đồ sộ ra điều mãn ý. Lão đan hai bàn tay và đặt lên cái bụng phệ, rồi nói bằng giọng kẻ cả :
- Mình phải tuyệt đối thành thật với nhau. Cháu cứ cho chú biết rõ cháu định sắp đặt cho Guiliano “vọt” như thế nào? Cháu cứ nói với chú như nói với ba cháu, vì chú với ba cháu thì...
Michael đưa mắt liếc nhanh ngài thanh tra. Đời nào hắn chịu nói thật trước mặt một thằng “cớm gộc”, xếp sòng ngành cảnh sát an ninh của xứ Sicily. Ông Trùm hiểu ngay vấn đề.
- Ngài thanh tra đây cũng là người nhà thôi, - Lão nói - cháu cứ tự nhiên như nói với chú vậy, không sao.
Michael đưa ly rượu lên môi đặng tính kế. Qua ly rượu, hắn thấy đám vệ sĩ đang chòng chọc nhìn họ như đám khán giả dán mắt nhìn các diễn viên trên sân khấu. Hắn cũng thấy ngài thanh tra khẽ cau mặt coi bộ không khoái cái lối thân mật kiểu xỏ lá của Ông Trùm. Như vậy, rõ ràng là chính Ông Trùm đã lãnh đạo ngài thanh tra và lãnh đạo luôn cả cái cơ quan của ông ta nữa. Hắn cũng thấy cái vẻ khó chịu trên khuôn mặt có đôi môi như hai con đỉa trâu của gã Andolini hiểm độc. Chỉ có cha Benjamino là cúi đầu xuống tránh tia nhìn của hắn. Michael nốc cạn ly rượu nho trắng đục lờ đờ. Và đám đầy tớ rót tiếp đầy ly khác. Thoắt chốc, khu vườn bỗng trở thành khu hiểm địa đối với hắn.
Hắn thừa biết Ông Trùm mở miệng ra là “nói thật, thành thật...”, chứ trong bụng ông nghĩ khác. Tại sao mọi người có mặt tại bàn ăn này chẳng ai tin cha cớm gộc kia, mà gã vẫn có mặt ở đây? Guiliano thì sao?
Lịch sử của Sicily dày đặc những vụ lừa lọc, phản trắc. Michael chua chát nhớ tới cái chết của cô vợ trẻ của hắn. Thì cũng chính tại cái xứ Sicily, chứ đâu phải nơi nào xa xôi. Vậy, tại sao “Ông Trùm” lại có vẻ thành thật như vậy? Lão là “Chúa Trùm” Mafia. Lão có những liên hệ chặt chẽ và đầy thế lực với các tay “bự” ở rome. Và thực tế, lão đã hành động như một đại biểu bán chính thức của Rome tại Sicily. Vậy, Ông Trùm Croce sợ cái gì? Nhất định chỉ có thể là lão sợ chính Guiliano.
Ông Trùm nhìn xoáy vào Michael, chờ đợi. Michael cũng ráng nói với cả vẻ hết sức chân thành :
- Kế hoạch của cháu cũng đơn giản thôi. Cháu sẽ chờ ở Trapani cho đến khi nào Salvatore Guiliano được chính chú hoặc người của chú trao lại. Một chiếc tàu tốc hành sẽ chở tụi cháu đi châu Phi, tụi cháu sẽ được một máy bay riêng “bốc” đi Mỹ. Tụi cháu sẽ được thu xếp để nhập cảnh Hoa Kỳ mà không cần phải qua những thủ tục thông thường. Cháu hy vọng là mọi sự trôi chảy êm xuôi... - Hắn ngừng một chút, rồi lại tiếp - Ngoại trừ chú có lời chỉ dạy khác.
Ông Trùm thở dài hắt ra, và cầm lấy cái ly, uống. Rồi lão lại nhìn xoáy vào Michael. Lão chậm rãi và có vẻ tâm tình :
- Sicily là một vùng đất bi thảm, không bao giờ có sự tin cậy! Không bao giờ có trật tự. Chỉ có bạo lực, lừa lọc và phản trắc. Cháu dè dặt, cảnh giác là phải. Và cháu có quyền như vậy. Và Guiliano cũng vậy. Nhưng, để chú nói điều này cho cháu nghe: nếu đã không có sự che chở của chú thì chưa chắc gì Guiliano còn sống sót cho đến giờ này. Nó và chú đây như hai ngón tay trên một bàn tay. Thế mà bây giờ nó coi chú như kẻ thù của nó. Chà, cháu không thể nào biết thằng nhỏ này đã gây cho chú biết bao bực bội. Ước mơ của chú là một ngày nào đó, Turi Guiliano có thể ung dung quay trở về và được tung hô như một tay vô địch của xứ Sicily này. Thật ra, nó là một con chiên bổn đạo thuần hành và là một con người đảm lược với một trái tim dịu dàng khiến mọi người dân Sicilian quý mến.
Lão ngừng lại, tợp thêm một ly rượu nho nữa, rồi lại tiếp tục nói :
- Nhưng bây giờ thì gió đã xoay chiều bất lợi cho nó. Một mình ở trên núi với một dúm tay chân bộ hạ mà phải đương cự với cả một đạo quân được chính phủ phái tới để tiêu diệt: chịu gì thấu? Trong khi đó, mỗi bước nó đi là một cạm bẫy, mỗi lừa lọc, mỗi phản trắc. Vậy mà nó vẫn không chịu tin vào một ai, kể cả vào chính nó.
Trong giây lat, Ông Trùm lạnh lùng nhìn thẳng vào mặt Michael, rồi nói :
- Thật tình, giá như chú đã không quá thương xót cái thằng Ruri liều lĩnh dại dột ấy thì có lẽ chú đã phải nói thẳng cho cháu hay là cháu hãy về Mỹ đi, không có Guiliano đi theo đâu. Ở đây, tấn bi kịch đã kết thúc, nên chẳng dám làm phiền đến cháu nữa.
Ông Trùm lại ngừng nói, thở dài, rồi lại tiếp :
- Nhưng, dĩ nhiên, cháu là hy vọng độc nhất của chú, và chú nài nỉ cháu hãy ở lại, giúp chú một tay. Chú sẽ hỗ trợ cháu bằng mọi cách. Chú sẽ chẳng bao giờ bỏ rơi Guiliano.
Ông Trùm lại nâng ly rượu nói :
- Ước gì nó sống đến ngàn tuổi.
Mọi người đều uống. Và Michael suy tính. Thực sự Ông Trùm muốn hắn ở lại hay bỏ rơi Guiliano? Stefan Andolini lên tiếng :
- Nên nhớ là tụi mình đã hứa với ông già Guiliano là mình sẽ đến thăm họ tại Montelepre.
Ông Trùm dịu dàng đáp :
- Dĩ nhiên là thế rồi, bằng mọi giá, mình phải cho ông già bà già nó một hy vọng gì đó chứ.
Cha Benjamino rụt rè góp ý :
- Và có lẽ họ cũng sẽ biết phần nào về cái “chúc thư” ấy chứ?
Ông Trùm thở dài :
- Phải, cái “chúc thư” của Guiliano. Nó cứ nghĩ là cái đó có thể cứu mạng nó, hay ít ra cũng báo thù được cho cái chết của nó. - Lão quay sang nói thẳng với Michael - Cháu nên nhớ điều này, Rome có sợ bản chúc thư ấy thì sợ, chớ còn qua thì không. Cứ nói với ông già bà già nó là những gì viết trong “chúc thư” ấy có thể ảnh hưởng đến lịch sử, chứ có ăn nhằm gì đến cuộc đời này hay không lại là một chuyện khác.
Quãng đường từ Palermo đến Montelepre không quá một giờ lái xe. Nhưng chỉ trong khoảng thời gian ấy, Michael và Stefan Andolini đã từ thế giới văn minh hiện đại mà lùi về một nền văn hóa sơ khai của Sicily. Hai gò má cạo nhẵn nhụi, nhưng cái cằm thì đầy những chân râu đỏ rậm rì, nom như một đám lửa bám vào đấy, Andolini lái chiếc xe Fiat nhỏ một cách cẩn thận và chầm chậm như một người vừa học lái xe. Chiếc Fiat rì rầm như muốn hụt hơi khi bò ngoằn ngoèo qua những rặng núi lớn.
Dọc đường, họ bị năm chốt của cảnh sát chặn lại. Ở mỗi chốt như vậy có ít ra cũng một tiểu đội mười hai người, có cả xe thiết giáp bố trí súng đại liên yểm trợ. Nhưng giấy tờ của Andolini giúp họ qua trót lọt cả năm chốt.
Đối với Michael, cái xứ sở này thật là lạ lùng. Một vùng hoang sơ, bán khai như vậy lại chỉ ở cách một thành phố lớn như thành phố Palermo có một quãng đường ngắn. Họ đi qua những ngôi làng nhỏ với những căn nhà tường bằng đá đẽo sơ sài, nằm chênh vênh trên triền núi. Và, ngay cả những triền núi cũng được cẩn thận chia manh chia mún thành những mảnh vườn với những luống rau sít chặt vào nhau. Những ngọn đồi nhỏ thì lố nhố những tảng đá vôi ẩn hiện trong các bụi tre hoặc lấp lửng rêu phong. Xa xa, nom những tảng đá ấy chẳng khác gì những ngôi mộ không được đẽo gọt sửa sang. Và toàn cảnh thì nom như một cái nghĩa địa lộn xộn chẳng ra hàng lối gì cả.
Dọc đường, từng quãng lại có một cái miếu, hoặc một cái “trang thờ” bằng gỗ có khóa cẩn thận, bên trong là bức tượng Thánh Nữ Đồng Trinh Mary hoặc tượng một vị thánh nào đó. Ở mỗi miếu thờ như vậy, Michael đều thấy thấp thoáng một bóng người đàn bà quì cầu nguyện, trong khi đó ông chồng ngất ngưởng ngồi chờ trên một chiếc xe do lừa kéo chất đầy chai rượu óng ánh. Đầu con lừa rũ xuống như đầu vị thánh tuẫn đạo.
Stefan Andolini đưa tay thân mật vuốt tay Michael và nói :
- Tôi thật sự sung sướng được gặp lại chú em. Chú em có biết là gia đình nhà Guiliano với anh em mình có họ hàng bà con với nhau đấy.
Michael biết là nói xạo. Nụ cười toát ra từ đôi môi dày và đỏ lói như miếng thịt ngựa kia nom có vẻ láu vặt và đểu làm sao ấy. Michael đáp :
- Không, tôi chỉ biết là hồi còn bên Mỹ thì ông già của Guiliano có làm việc cho ông già tôi.
- Thì chính tôi cũng vậy, - Andolini nói - tụi này đã giúp ông già của chú làm cái nhà ở Long Island đó. Lão Guiliano coi vậy chứ, một tay thợ nề ngon lành đó, nghen. Mặc dù ông già của chú có cho lão một chân làm ăn trong cái vụ dầu ô-liu, nhưng lão cứ bám chặt vào cái nghề thợ nề của lão, chứ không chịu nhận đề nghị của ông già chú. Lão làm hùng hục như trâu trong suốt mười tám năm trời và bóp mồm bóp miệng, dè sẻn từng đồng xu. Rồi lão quay về Sicily tính chuyện dưỡng già. Ai dè chiến tranh và Mussolini làm cho đồng tiền lạm phát. Thế là số tiền dành dụm của lão trở thành mớ giấy lộn. Hiện giờ lão chỉ còn có mỗi căn nhà nhỏ và vài mảnh ruộng nhỏ. Bây giờ, ngày ngày lão cứ ngồi tặc lưỡi, hít hà hối tiếc vì đã ngu dại rời bỏ nước Mỹ để quay về cái xứ “chó ăn đá, gà ăn sỏi” này. Lão cứ nghĩ thằng con trai của lão lớn lên sẽ làm vương làm tướng gì chứ, ấy thế mà bây giờ lại thành thằng ăn cướp.
Chiếc Fiat tung bụi mịt mù. Dọc đường, qua lớp bụi, những cây lê dại và những bụi tre chập chờn, mờ tỏ nom như những bóng ma. Và những chùm trái lê dại nom như những bàn tay người. Dưới thung lũng là những cây ô-liu hoặc nho. Bỗng, Andolini nói :
- Bà già thằng Turi có thai nó từ ở bên Mỹ, rồi về bên Sicily này mới sinh ra nó đấy chứ. Giá cứ đợi vài tháng nữa thì có phải bây giờ Turi đã là công dân Mỹ rồi không. - Gã ngập ngừng một lát, rồi lại nói tiếp - Turi cứ nhắc vụ này hoài. Thật sự, chú có nghĩ là chú có thể giúp nó thoát không?
- Tôi cũng không rõ nữa. - Michael đáp - Sau bữa ăn trưa với Ông Trùm Croce và thằng cha xếp cớm kia, tôi chẳng hiểu đầu đuôi ra làm sao nữa. Có thật là họ muốn tôi giúp họ không? Ông già tôi thì nói là lão Croce quả có muốn vậy đó. Nhưng ông già tôi không hề đả động gì đến lão thanh tra cả.
Andolini hất ngược mái tóc ra đằng sau. Bất giác, gã đạp mạnh cần ga, chiếc Fiát chồm lên. Gã nói :
- Guiliano và Croce bây giờ là hai kẻ tử thù của nhau. Nhưng, tụi này đã có một kế hoạch để qua mặt lão Croce. Turi và ông già của nó thì tin vào chú. Họ biết là ông già chú không bao giờ chơi xấu bạn bè.
Michael chợt hỏi :
- Thực ra, bây giờ anh đứng về phía nào?
- Tôi chiến đấu cho Guiliano., - Andolini thở dài, nói - Từ năm năm nay, tụi này là chiến hữu của nhau. Trước đó, chính Turi đã tha mạng cho tôi. Nhưng vì sống ở Sicily, tôi đâu có thể ra mặt công khai thách thức lão Croce được. Tôi phải chơi trò đu dây giữa hai bên. Nhưng, trong thâm tâm, tôi nghiêng về phía Guiliano.
Michael trầm ngâm. Cha này nói cái quỷ gì đây? Tại sao gã dám trả lời trực tiếp một câu hỏi liên quan đến bọn kia. Michael suy nghĩ. Đây là Sicily. Và dân Sicilian vốn ghê sợ sự thật. Qua mấy ngàn năm bị hết bọn bạo chúa đến bọn phán quan pháp đình tôn giáo dùng nhục hình tra tấn, hành hạ vì sự thật. Chính quyền ở Rome, với tất cả bền ngoài hợp pháp của nó, cũng muốn sự thật. Mấy ông cha ông cố cũng đem hình phạt hỏa ngục ra hù dọa đề đòi sự thật. Nhưng sự thật là nguồn cội của sức mạnh, là đòn bẩy của quyền lực. Nếu vậy thì ai điên gì mà thổ lộ sự thật ra?
Michael nghĩ: hoặc hắn phải tìm ra con đường riêng, hoặc hắn phải bỏ qua cái sứ mạng của hắn và bán xới gấp khỏi cái xứ này, bay về Hoa Kỳ cho sớm. Vì, tại đây, hắn đang đứng trên một vùng đất hung hiểm. Như vậy là rõ ràng giữa Croce và Guiliano có một thứ nợ máu nào đó. Và để cho mình bị lôi cuốn vào cơn gió xoáy huyết thù của Sicily thì chẳng khác gì tự sát. Bởi vì trong tiềm thức của dân Sicilian thì chỉ có cách trả nợ máu mới thật sự là công lý. Và cuộc đòi nợ máu nào cũng luôn luôn tàn nhẫn. Trên hòn đảo công giáo toàn tòng này, nhà nhà đều có ảnh, tượng Chúa Jesus Christ đang than khóc. Nhưng sự khoan dung tha thứ kiểu Ki-tô giáo vẫn bị coi là kiểu cách đáng khinh bỉ của một tên hèn nhát.
Michael hỏi :
- Tại sao Guiliano và lão Croce lại trở thành hai kẻ tử thù của nhau vậy?
- Bởi tấn thảm kịch xảy ra cách đây hai năm ở Portella Ginestra. - Andolini đáp - Từ đó đến nay không xảy ra vụ nào như vậy, nhưng Guiliano vẫn trách cứ lão Croce.
Bỗng thình lình chiếc xe như đâm đầu dựng ngược lên, vì con đường đổ dốc từ trên núi xuống thung lũng. Họ đi ngang cái pháo đài đổ nát xây từ thời những người Viking phương Bắc xâm lược vùng này. Họ xây pháo đài này làm cứ điểm xuất phát cho các cuộc chinh phạt, khủng bố người dân trong vùng. Ngày nay, pháo đài chỉ là nơi cho rắn rết bò ngổn ngang và lũ dê rừng lang thang. Nhìn xuống, Michael thấy thành phố Montelepre.
Nằm chìm sâu dưới đáy thung lũng và tứ phía bị núi cao bọc quanh, thành phố nom như một chiếc gàu múc nước nằm dưới đáy giếng. Khắp thành phố, không có một ngôi nhà nào nhô cao hẳn lên. Ánh hoàng hôn rọi lên những bức tường xây bằng đá nom đỏ rực như lửa. Chiếc Fiat men theo con đường nhỏ hẹp đi vào thành phố. Bỗng Andolini thắng gấp chiếc xe ngừng lại trước một thanh xà ngang do đám cảnh sát dựng lên làm chốt kiểm soát. Một chú cớm con dùng mũi súng ra hiệu cho họ xuống xe.
Michael quan sát Andolini trình giấy tờ cho cảnh sát. Hắn nhìn thấy trên giấy của gã có một sọc đỏ chạy vắt xéo. Hắn hiểu đó là thứ giấy đặc biệt do chính ông bộ trưởng tư pháp ở Rome cấp phát một cách rất hạn chế, vì chính hắn cũng có một tấm. Nhưng hắn được chỉ thị chỉ trình ra trong những trường hợp chẳng đặng đừng mà thôi. Tại sao một người như Andolini mà cũng có được thứ giấy “nặng ký” này nhỉ?
Sau khi trình giấy, họ quay trở lại chiếc xe và chiếc xe chầm chậm bò qua phố xá nhỏ hẹp của thành phố Montelepre. Đường phố nhỏ đến nỗi nếu có hai chiếc xe chạy ngược chiều nhau thì bắt buộc phải có một xe chạy giật lùi trở lại, nếu không thì cứ đứng đó mà nhìn nhau. Nhà nào cũng có bao lơn và quét vôi đủ thứ màu. Phần đông sơn màu xanh da trời, một số ít sơn màu trắng, nhưng cũng có một số màu hồng. Vào giờ này thì đàn bà đang lúi húi trong bếp làm cơm chiều. Không có bóng của một đứa con nít nào ngoài đường. Góc phố nào cũng lúc nhúc những cớm và lính. Cứ từng cặp, từng cặp đi tới đi lui. Montelepre trông như một thành phố bị chiếm đóng trong giờ thiết quân luật. Chỉ có vài ông già nét mặt ngơ ngác đứng trên ban-công nhìn xuống.
Chiếc Fiat ngừng lại trước một trong những ngôi nhà trong dãy nhà dài. Căn nhà ấy sơn vôi màu xanh nhạt. Trên cổng sắt có thanh sắt uốn hình chữ G. Một người đàn ông nhỏ thó, quắt queo, tuổi trạc sáu mươi ra mở cổng. Lão mặc quần áo kiểu Mỹ: chiếc quần màu đậm có sọc, áo sơ-mi trắng và thắt cà-vạt đen. Đó là ông bố của Guiliano. Lão ôm hôn Andolini thật nhanh, nhưng rất âu yếm. Lão thân mật vỗ vai Michael ra hiệu mời vào trong nhà
Ông già của Guiliano có nét mặt đau khổ của một người chờ đợi cái chết của một người thân đang bệnh nặng, sắp “tịch”. Hiển nhiên là lão vẫn còn kiềm chế được cảm xúc của mình. Nhưng lão đưa tay lên vuốt mặt như thể cố giữ cho các cử động của mình không bị chới với. Thân thể lão khô đét, cử động hơi lờ đờ và hơi run run.
Họ bước vào phòng khách được coi là sang trọng đối với dân Sicilian ở cái tỉnh lẻ này. Một tấm ảnh phóng lớn lồng trong khung gỗ hình bầu dục, màu kem, treo sừng sững như muốn lấn át hết cả căn phòng. Bức ảnh đã nhàu nát và mờ khiến cho khó nhận rõ hình người. Nhưng Michael biết ngay đó không thể là hình ai khác ngoài hình của Salvatore Guiliano. Phía dưới tấm ảnh, trên chiếc bàn tròn nhỏ, màu đen có một ngọn đèn thờ cháy leo lét. Ở một chiếc bàn khác, có một tấm hình, cũng lồng khung cẩn thận. Tấm hình này rõ hơn và gồm có một ông, một bà và một cậu con trai đang ôm choàng lấy vai mẹ. Salvatore Guiliano nhìn thẳng vào máy ảnh như muốn thách thức cái máy. Guiliano đẹp trai cứ như tượng Hy Lạp, tuy diện mạo nom hơi “nặng” một chút: đôi môi hơi dày và gợi dục, đôi mắt bồ câu mở lớn. Đó là khuôn mặt của một người đầy tự tin và cương nghị và quyết tâm giành cho mình một vị trí cao trong xã hội. Nhưng cái mà chưa ai cho Michael biết là sự vui tính, sự dịu dàng trên khuôn mặt đẹp trai ấy. Còn một tấm hình nữa trong đó Guiliano chụp chung với vợ chồng cô em gái. Nhưng bức hình này để khuất trong góc bàn.
Ông già của Guiliano dẫn hai vị khách vào bếp. Bà già của Guiliano đang lúi húi nấu nướng. Bà quay ra chào họ. Bà Maria Lombardo Guiliano nom già hơn nhiều so với bức ảnh của bà treo trong một căn phòng khách. So hình ấy với bà bây giờ thì phải nói đó là hai người hoàn toàn khác nhau. Nụ cười lễ độ của bà như một kẽ nứt trên khuôn mặt khô héo, đờ đẫn, bạc nhược. Làn da nhăn nheo, nứt nẻ. Tóc dài phủ kín vai được hờ hững cột lại bằng một sợ dây thô, màu xám. Cái làm cho người ta phải sửng sốt chính là đôi mắt của bà. Từ đôi mắt ấy, bật ra những tia lửa căm hờn cái thế giới đang nghiền nát bà và con trai bà.
Như không cần biết đến sự hiện diện của chồng và của Andolini, bà nói thẳng với Michael :
- Có phải ông đây là người đến để giúp đỡ thằng nhỏ nhà tôi không đấy?
Hai người kia có vẻ bối rối vì câu hỏi bất ngờ và hơi cứng cỏi của bà. Nhưng Michael đã mỉm cười và nghiêm trang trả lời :
- Dạ phải, tôi đến đây với ý định đó.
Nghe vậy, vẻ căng thẳng nơi bà bớt đi thấy rõ. Bà cúi đầu, úp mặt vào hai bàn tay như thể muốn thở phào một cái thật mạnh. Andolini nhỏ nhẹ nói :
- Cha Benjamino nói là ông ấy cũng muốn đến. Nhưng tôi biểu là chị không muốn vậy.
Maria Lombardo ngẩng đầu lên. Michael kinh ngạc nhận thấy nét mặt của bà bộc lộ tất cả mọi cảm xúc đang chất chứa trong lòng: khinh bỉ, thù hận, sợ hãi. Rồi, bằng giọng mỉa mai kết hợp với tiếng cười nhạt và cái nhíu mày mà bà đã không thể kiềm chế được, bà nói :
- Ồ, cha Benjamino thật tốt bụng, đúng thế! Và, với cái tâm địa tốt lành ấy, ông ta như quan ôn quan dịch, cô hồn các đảng gì đâu ấy. Ông ta làm cho cả một làng chết ráo. Ông ta giống như cái cây gai ấy, cứ đụng vào là mình đổ máu. Ông ta tiết lộ cho ông anh những điều mà con chiên bổn đạo xưng tội trong tòa giải tội. Ông ta bán linh hồn cho quỷ dữ.
Ông già của Guiliano nói một cách bình tĩnh và có vẻ biết điều hơn là để trấn an một người đang cơn xúc động :
- Ông Croce là bạn của gia đình mình. Chính ông đã cứu mình ra khỏi nhà tù đấy thôi.
Cơn tam bành lục tặc của bà già Guiliano nổi lên :
- A, Croce hả, “Ông Địa” hả, tốt gớm đi ấy chứ! Nhưng này, để tôi nói cho mà nghe, cái lão Croce ấy là một con rắn độc. Lão làm bộ chĩa súng phía trước nhưng bắn lén vào bên sườn mình. Lão ấy đang cùng với thằng con mình thống ngự xứ Sicily này, mà nay thì con mình phải trốn chui trốn lủi trong núi, còn lão thì thong dong, tự tại, thảnh thơi ngay tại Palermo với bầy ** điếm của lão. “Ông Địa” chỉ huýt gió một cái là Rome liếm gót lão liền. Tội ác của lão lút đầu lút cổ, còn bằng mấy con mình. Lão mới là thứ hung thần ác sát, chứ thằng Ruri nhà mình ấy hả, là phúc thần. Con mình mới là “Ông Địa”. A, giá tôi mà là ông ấy hả, tôi đã chơi cho lão vài dao từ lâu rồi, tôi đã cho lão đi theo ông bà ông vải nó từ lâu rồi!
Bà phác một cử chỉ ghê tởm, rồi tiếp :
- Đàn ông đàn ang như ông, chẳng biết cái đếch gì!
Ông già của Guiliano nhẫn nhục chịu đựng bằng cách đánh trống lảng :
- Tôi đoán là các vị khách của mình vừa phải đi đường mấy giờ đồng hồ liền nên chắc phải có cái gì dằn bụng đã, rồi có chuyện trò gì thì chuyện trò!
Thoắt một cái, bà già của Guiliano thay đổi hẳn. Bà bỗng trở nên ân cần, vồn vã với Michael :
- Tội nghiệp, ông đã mất cả ngày để đi đến đây thăm chúng tôi. Ông đã phải rác tai vì những lời dối trá, láo toét, giả nhân giả nghĩa của lão Croce. Bây giờ lại phải nghe những lời quàng xiên của tôi. Xin lỗi ông nhé. Sau đây rồi ông lại đi đâu.
Trong phòng bỗng lặng như tờ. Michael cảm thấy mọi người trong nhà này đều đã biết rõ lai lịch của hắn rồi. Họ đã biết cái nỗi hận mà hắn đã phải chịu trong hai năm trời này, cũng như vết thẹo trên mặt hắn. Bà già của Guiliano bước lại gần và ôm choàng lấy hắn, nói :
- Ông dùng chút rượu nhé. Rồi, các ông rủ nhau đi dạo ngoài phố, chờ tôi chút. Chừng một giờ đồng hồ là có cơm thôi. Chắc lát nữa thì bạn của Turi cũng sẽ đến, rồi mình sẽ tâm tình...
Andolini và ông già của Guiliano để cho Michael đi giữa và cùng nhau bước xuống đường phố trải sỏi, nhỏ hẹp của thành phố Montelepre. Mặt trời đã lặn khiến cho những bức tường xây bằng đá lúc nãy đỏ rực như lửa bây giờ ngả màu xám đậm. Trong bầu không khí lam nhạt, mù hơi sương lúc chạng vạng tối, quanh họ, trên đường phố chỉ thấy những khuôn mặt cớm và vệ binh đi tới đi lui. Phố xá vắng tanh vắng ngắt.
- Ngày xưa, đã có thời thành phố này đông vui náo nhiệt lắm đấy chứ, - Ông già Guiliano nói - tuy luôn luôn, mãi mãi nghèo đói. Cũng như toàn thể cái xứ Sicily này chỉ là một khối nghèo mạt, nhưng luôn luôn sống động. Hiện nay có hơn bảy trăm dân của thành phố này bị tống giam vì bị nghi là tòng mưu, tòng đảng với thằng con tôi. Thật ra hầu hết trong đám này đều vô tôi. Nhưng cớm cứ bắt. Để dằn mặt những người khác, để hòng bắt họ cung cấp tin tức chống lại thằng Turi nhà tôi. Có hơn hai ngàn vệ binh quốc gia và cảnh sát sục sạo trong thành phố này và hơn hai ngàn khác lùng sục trong núi để săn đuổi thằng Turi. Bởi vậy, ngày nay chẳng còn ai dám ăn uống ngoài trời. Đến con nít cũng không dám chơi đùa ngoài phố. Mấy cha cảnh sát cũng dễ “giật mình” đến nỗi thấy bóng con thỏ chạy qua đường cũng xả súng xối xả. Mới chạng vạng tối là đã giới nghiêm. Và nếu một mụ đàn bà trong thành phố muốn đến thăm một người bạn nào đó có mà bị cớm vồ là cam đoan bị làm nhục, bị làm khó dễ đủ thứ. Còn đàn ông mà bị bắt hả, a lê hấp, cùm liền, đem tống lao ở Palermo tẩm quất cho giãn gân giãn cốt liền.
Lão thở dài rồi nói tiếp :
- Ở bên Mỹ, chưa bao giờ có chuyện như vậy được. Tôi thật hết sức ân hận vì đã bỏ đấy mà về đây!
Andolini ngừng lại, đốt điếu thuốc khiến cho hai người kia cũng phải ngừng lại theo. Gã thở khói ra, mỉm cười nói :
- Nói thật ra thì người dân Sicilian nào cũng vậy. Họ vẫn thích cái mùi khai thối trong làng họ hơn là cái mùi dầu thơm của thủ đô Paris. Tôi đây này, tôi làm cái giống gì ở đây chứ? Tôi thừa sức bay đi Brazil như chán vạn người khác. Kẹt cái mình là dân Sicilian, trót yêu cái nơi chôn rau cắt rốn của mình. Ấy vậy mà chính cái xứ Sicily này lại đếch thương mình.
Ông già của Guiliano nhún vai nói :
- Tôi thật điên mới đâm đầu quay về đây. Nếu chỉ ở lại ít tháng nữa thôi thì có phải bây giờ thằng Turi nhà tôi đã có quốc tịch Mỹ rồi. Ấy, cũng chính bởi cái không khí của cái xứ sở Sicily khốn khổ này đã thấm sâu vào tận xương tuỷ của má nó. - Lão lắc lắc cái đầu, như thể bối rối - Không hiểu sao thằng nhỏ nhà tôi lại cứ luôn luôn để cho nó mắc mớ vào những chuyện vu vơ của thiên hạ, ngay cả những chuyện chả có dính líu gì đến đổ máu... Để làm gì không biết. Làm như, luôn luôn lúc nào nó cũng có những ý nghĩ cao cả, lúc nào cũng nói đến công bằng với chả công lý. Dân Sicilian thứ thiệt chỉ có nói đến bánh mì mà thôi.
Khi họ đi qua đường Via Bellla, Michael thấy là cấu trúc của thành phố thật là lý tưởng cho những trận phục kích và du kích chiến. Đường phố gì mà chật hẹp đến nỗi chỉ một cái xe hơi nhỏ đi cũng đã thấy khó lọt. Và nhiều đường khác hẹp đến nỗi chỉ đủ cho một chiếc xe nhỏ đi. Mà dân Sicilian vẫn còn dùng xe lừa kéo để chuyên trở hàng hóa. Chỉ cần một ít người cũng đủ để cầm chân cả một lực lượng xâm lược lớn, rồi sau đó dễ dàng thoát ra những dãy núi đá vôi bao quanh thành phố.
Họ đi tới quảng trường trung tâm. Andolini chỉ vào một ngôi nhà thờ nhỏ đứng án ngữ trên quảng trường, và nói :
- Turi đã lẩn trốn trong chính ngôi nhà thờ này, khi lực lượng cảnh vệ vây bắt nó lần đầu tiên. Từ đó đến nay, nó cứ như bóng ma ấy thôi!
Ba người đứng ngắm cánh cửa nhà thờ như thể Salvatore có thể xuất kỳ bất ý hiện ra trước mặt họ. Mặt trời đã khuất sau rặng núi và họ trở về nhà trước giờ giới nghiêm. Có hai người lạ đang chờ họ ở nhà. Lạ là đối với Michael thôi, vì họ ôm hôn ông già của Guiliano và bắt tay Andolini.
Một trong hai người lạ là một thanh niên, dáng mảnh khảnh, nước da mét mét và đôi mắt to, đen, cuồng nhiệt. Y có bộ ria mép rất “trai lơ” và vẻ đẹp có vẻ hơi mái. Nhưng, tuyệt nhiên y không có vẻ yểu điệu tí nào. Trái lại, y có cái vẻ tàn bạo, lạnh lùng, ngang tàng, ngạo nghễ của một con người quyết tâm giành cho bằng được cái quyền sai khiến người khác.
Khi y được giới thiệu là Gaspare Pisciotta thì Michael hết sức kinh ngạc. Pisciotta vừa là một “phó tướng”, vừa là em con dì con già và bạn chí cốt của Turi Guiliano. Vì kề cận với Guiliano, nên y cũng là một tay “đáng giá” lắm. Cái đầu của y cũng được ra giá năm triệu bạc chứ đâu phải ít. Qua những huyền thoại Michael nghe được, tên của Gaspare Pisciotta đã gợi lên hình ảnh của một con người nguy hiểm, tàn độc. Thế mà lúc này đây, nom thật chán! Y lẻo khoẻo, ốm nhách, với triệu chứng lao phổi hiện rõ trên nét mặt. Y có mặt nơi đây ngay tại thành phố đang có trên hai ngàn cảnh vệ và cớm quây kín để truy lùng y.
Một người khác cũng ngạc nhiên không kém, nhưng với lý do khác. Thoạt nhìn ông ta, Michael đã khựng lại. Khổ người ông ta thấp bé đến nỗi suýt nữa Michael tưởng ông là một thằng lùn. Nhưng với cung cách đàng hoàng của ông ta khiến cho Michael cảm thấy ngay là khi khựng lại, có lẽ Michael đã làm cho ông ta chạm tự ái ghê gơm. Ông ta vận đồ người lớn, rất trang nhã, may cắt rất khéo. Chiếc cà-vạt rộng bản, ánh lên màu bạc buông thõng trên chiếc sơ mi màu kem. Mái tóc rậm và hầu như đã ngả màu bạc. Nhưng ông ta không thể quá năm mươi. Ăn mặc rất thanh lịch, có phần chải chuốt như mọi người có vóc dáng nhỏ nhắn vẫn thường như vậy. Da mặt không mịn nhưng trông vẫn điển trai. Cái miệng thanh tú, hơi trề ra một cách khêu gợi. Ông ta nhận ra ngay vẻ lúng túng của Michael, nên đã chào hắn bằng nụ cười thân mật pha chút giễu cợt. Ông ta được giới thiệu là giáo sư Hector Adonis.
Bà Maria Lombardo dọn cơm trên chiếc bàn đặt trong bếp. Họ ngồi ăn bên cạnh một bao lơn, từ đó có thể nhìn thấy bầu trời hoàng hôn với những tia nắng dẻ quạt đỏ như máu chiếu ngang trời và màn đêm lam nhạt, xám mờ đang phủ trên các ngọn núi bao quanh thành phố. Michael ăn chầm chậm vì biết mọi con mắt đang nhìn vào mình, đánh giá mình. Thức ăn tuy đơn giản nhưng nấu khéo: mì Spaghetti xào với mực ống, thịt thỏ hầm với nước sốt cà chua và ớt đỏ tươi... Cuối cùng, Gaspare Pisciotta nói bằng thổ ngữ Sicilian :
- Vậy, người anh em đây là con trai ông Vito Corleone, như người ta đã nói với tôi, một Ông Trùm còn bự hơn cả Ông Trùm Croce của tụi này. Và người anh em là người sẽ cứu Turi của tụi này?
Giọng nói của y có vẻ lạnh lùng pha lẫn sự chế nhạo khiến cho người nghe muốn nổi xung. Nụ cười mỉm của y dường như chỉ là một lời tra hỏi về cái động lực ẩn tàng trong mỗi hành động của người khác, như thể muốn nói: “Phải, đúng là người anh em đang làm một việc coi được đấy, khá đấy. Nhưng, người anh em hành động như vậy với ý đồ gì, động lực gì?” . Tất nhiên, không phải y có ý xấc xược, khiêu khích gì. Vì y cũng dư biết lại lịch và thành tích của Michael. Họ đều là những sát thủ có hạng chứ đâu phải vừa. Michael đáp :
- Tôi theo lệnh của ông già tôi, tôi phải chờ tại Trapani cho đến khi nào Guiliano tới, và sau đó tôi sẽ đưa anh ta về Mỹ.
Pisciotta nói một cách nghiêm chỉnh hơn :
- Thế một khi Turi đã ở trong tay ông anh liệu ông anh có đảm bảo an toàn cho hắn được không? Ông anh có thể bảo vệ hắn chống lại Rome được không?
Michael biết là bà già của Guiliano đang chăm chăm nhìn mình. Nét mặt của bà hằn lên nỗi lo âu. Hắn nói một cách thận trọng :
- Tôi có thể đảm bảo đến cái mức một con người có thể làm và làm hết sức để chống lại số mệnh. Phải, tôi là người có thể tin cậy được.
Hắn thấy nét mặt của bà già giãn ra. Nhưng Pisciotta đã lại dằn giọng, nói :
- Tôi đếch tin. Hồi trưa này ông anh đã ngây thơ tin vào lão Croce, đã cho lão biết kế hoạch giải vây rồi.
- Tại sao lại không nhỉ? - Michael hơi xẵng giọng hỏi vặn lại.
Quái quỷ làm sao mà cái thằng Pisciotta chết tiệt này lại biết được các chi tiết trong bữa cơm trưa của hắn với lão Croce nhanh như vậy được nhỉ? Michael trầm giọng lại, nói :
- Chỉ thị của ông già tôi cho biết là Ông Trùm Croce sẽ thu xếp để trao Guiliano cho tôi. Vả lại, tôi cũng mới chỉ cho ông ta biết có một kế hoạch mà thôi.
- Thế ông anh còn những kế hoạch nào khác nữa? - Pisciotta hỏi. Y thấy Michael có vẻ ngần ngại, nên nói tiếp luôn - Ông anh cứ nói tự nhiên. Nếu ngay cả những người trong phòng này cũng không dám để ông anh tin nữa, thì ông anh chẳng hy vọng gì có được Turi đâu.
Cái ông người nhỏ thó, ông giáo sư Hector Adonis, bấy giờ mới lên tiếng. Giọng nói của ông ta âm vang, đúng là giọng nói của một người bẩm sinh là nhà hùng biện, của một người bẩm sinh là một “thuyết khách” rồi :
- Anh bạn Michael thân mến này, anh bạn nên hiểu rằng lão Croce này là kẻ thù không đội trời chung của Turi Guiliano. Chỉ thị của ông cụ thân sinh của anh bạn không hợp thời nữa rồi. Tất nhiên là chúng tôi không thể trao Turi cho anh bạn mà không có những đề phòng, dè dặt và đảm bảo cần thiết.
Ông ta nói bằng thứ tiếng Ý của dân học thức chính cống ở Rome chớ không phải bằng thổ ngữ Sicilian. Ông già của Guiliano nói chen vào :
- Tôi tin vào lời của Ông Trùm Croce hứa giúp thằng con tôi. Bởi vậy, không có vấn đề nghi ngờ Ông Trùm ở đây.
- Tôi xin nhấn mạnh, - Hector Adonis nói - chúng tôi cần biết kế hoạch của anh bạn.
- Tôi chỉ có thể nói với các vị những gì tôi đã nói với lão Croce. - Michael nói - Tại sao tôi lại cứ phải nói cho bất cứ ai biết dự kiến, kế hoạch của tôi nhỉ? Nếu bây giờ tôi hỏi các vị hiện giờ Turi Guiliano đang lẩn trốn ở đâu thì, thử hỏi, các vị có cho tôi biết không nào?
Michael thấy Pisciotta mỉm cười như hoan hô câu trả lời của Michael mà y rất đắc ý. Nhưng Hector Adonis lại nói tiếp :
- Ấy, hai trường hợp này đâu có giống nhau. Anh bạn không có lý do gì để biết Turi đang lẩn trốn ở đâu. Nhưng chúng tôi, chúng tôi cần phải biết kế hoạch của anh bạn, để ... yểm trợ!
- Tôi chưa hề biết gì về các vị. - Michael bình tĩnh đáp.
Nụ cười rạng rỡ bỗng nở ra trên khuôn mặt đẹp trai của Adonis. Con người nhỏ bé ấy đứng bật dậy, nghiêng mình.
- Xin thứ lỗi, tôi thật quá sơ suất, - Ông nói bằng một giọng hết sức chân thành - tôi là thầy dạy Turi từ lúc nó còn nhỏ xíu. Chẳng những thế, ông bà thân sinh ra nó đây lại còn dành cho tôi cái vinh dự làm ‘ bố đỡ đầu” của nó. Hiện nay tôi là giáo sư sử học và văn chương tại đại học Palermo. Tuy vậy, cái lý lịch tốt nhất, đảm bảo nhất của tôi là sự xác nhận của tất cả mọi người có mặt ở đây. Tôi đã, đang và sẽ mãi mãi là một thành viên trong băng Turi.
Stefan Andolini cũng thản nhiên nói :
- Tôi cũng ở trong băng của Guiliano. Anh bạn đã biết tên của tôi, và còn biết tôi là anh em bà con của anh bạn. Nhưng chắc anh bạn không biết cái biệt danh “thầy dòng Diadavo” của tôi.
Đây cũng là một biệt danh đã trở thành thần thoại của Sicily mà Michael đã từng nghe. Andolini có bộ mặt cô hồn dễ sợ. Gã cũng là tay giang hồ có hạng đang phải lẩn trốn và cái đầu cũng được treo giá không phải nhỏ. Vậy mà lúc trưa này gã ngồi dùng cơm trưa ngay bên cạnh thanh tra Velardi.
Tất cả đang hau háu chờ câu trả lời của Michael. Hắn không có ý định nói ra cho họ biết kế hoạch cuối cùng của hắn, nhưng hắn hiểu rằng không thể không nói cho họ một cái gì đó. Bà già của Guiliano đang chòng chọc nhìn hắn. Hắn quay qua nói thẳng với bà ta :
- Cũng đơn giản thôi. Trước hết tôi xin cho các vị hay là tôi chỉ có thể chờ đợi ở đây không quá một tuần lễ. Tôi xa nhà đã quá lâu. Và hiện nay, ở nhà tôi cũng đang có nhiều chuyện rối rắm mà ông già tôi cần có tôi để đỡ đần một tay. Dĩ nhiên, bà hiểu vì sao tôi lại nôn nóng trở về nhà đến thế. Nhưng chính ông già tôi muốn tôi phải giúp đỡ anh con trai của bà. Chính ông chỉ thị cho tôi phải đến gặp lão Croce, sau đó đi Trapani những người của tôi ở bên ấy qua mà tôi tuyệt đối tin cậy. Toàn là những tay “có nghề” cả.
Hắn ngừng lại một chút. Ở Sicily, chữ “có nghề” mang một ý nghĩa đặc biệt và thường chỉ áp dụng cho những cao thủ đâm chém của Mafia mà thôi. Rồi hắn nói tiếp :
- Một khi Turi đã đến chỗ tôi rồi, thì anh ta sẽ hoàn toàn được an toàn. Ngôi biệt thự này đúng là một pháo đài. Và chỉ ở đó trong vài giờ. Vì sau đó sẽ có một chiếc khinh tốc đỉnh chở chúng tôi đi Châu Phi. Tại đó sẽ có một máy bay đặc biệt bốc chúng tôi đi Mỹ ngay lập tức. Và ở bên Mỹ, dưới sự bảo trợ của ông già tôi, thì bà khỏi lo gì nữa hết.
Hector Adonis hỏi :
- Khi nào thì anh bạn có thể sẵn sàng tiếp nhận Turi Guiliano?
- Sáng sớm mai tôi sẽ có mặt ở Trapani. - Michael đáp - Cho tôi hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau đó.
Bỗng nhiên bà già của Guiliano bật khóc :
- Tội nghiệp! Thằng Turi nhà tôi không còn tin ai nữa. Nó sẽ không chịu đi Trapani đâu.
Dường như bà cố giấu nỗi thất vọng. Và bất ngờ chính Pisciotta đã đến an ủi bà. Y hôn và ôm lấy bà.
- Dì đừng lo. - Y nói - Turi hãy còn nghe lời con. Con sẽ nói lại với nó là mọi người ở đây đều tin vào anh bạn Mỹ này, phải vậy không? - Y quay ra nhìn những người kia như dò hỏi. Và những người này gật đầu đồng ý - Chính cháu sẽ dẫn Turi đi Trapani.
Mọi người có vẻ hài lòng. Michael hiểu rằng chính câu trả lời tỉnh bơ và lạnh lùng của hắn đã khiến mọi người tin hắn. Tất cả đều là dân Sicilian chính cống, nên họ rất nghi ngờ những gì có vẻ quá hào hiệp, vồ vập và nhiệt thành của người khác. Về phần mình, Michael cũng cảm thấy lo lo vì sự cẩn trọng của họ và sự đảo lộn kế hoạch của ông già hắn. Lão Croce này là kẻ thù. Rất có thể Guiliano sẽ không đến với hắn sớm. Và không chừng sẽ không đến nữa là khác. Nhưng, suy cho cùng, Turi Guiliano là cái gì đối với hắn, đối với ông già hắn? Về vấn đề này, Michael cứ tự lục vấn mình hoài.
Sau đó, họ mời Michael vào một căn phòng nhỏ khác, ở đó bà già của Guiliano đã dọn sẵn cà-phê và rượu hồi. Bà cứ xoắn xuýt xin lỗi vì rượu không được ngọt lắm. Họ nói cà-phê sẽ giúp cho Michael tỉnh táo và rượu hồi sẽ giúp cho ấm bụng trong cuộc hành trình dài hạn ban đêm để tới Trapani.
Hector Adonis rút từ túi áo may cắt rất khéo của ông ra một hộp thuốc lá mạ vàng và chìa ra mời mọi người. Rồi ông tự rút một điếu gắn lên môi. Cho đến lúc đó, ông ta quên hẳn rằng mình đã ngồi tựa vào lưng ghế hai chân bỏ thõng lửng lơ, không chấm đất. Lúc đó, trông ông ta như một con búp bê treo lủng lẳng ở một đầu dây, đong đưa, lúc lắc. Bà Maria Lombardo chỉ một tấm hình lớn treo trên tường và nói :
- Nom nó điển trai đấy chớ? Vừa đẹp trai lại vừa tốt bụng. Quả thật, lòng tôi tan nát khi nó bất ngờ bị hóa ra một người sống ngoài vòng pháp luật. Thầy Adonis, thầy nhớ cái ngày khủng khiếp ấy chứ. Và thầy cũng nhớ những điều bịa đặt láo toét mà bọn chúng gán cho thằng nhỏ nhà tôi trong vụ Portella della Ginestra chớ? Con tôi đâu có làm cái chuyện bất nhân, ác đức ấy bao giờ.
Mọi người có vẻ bối rối. Đây là lần thứ hai trong ngày Michael nghe nói đến Portella della Ginestra mà không hiểu cái gì xảy ra ở đó. Thắc mắc nhưng Michael thấy không tiện hỏi. Hector Adonis nói :
- Hồi Turi còn là học trò của tôi, nó ham đọc sách lắm. Nó thuộc lòng câu chuyện bằng thơ về vua Charlemagne và hiệp sĩ Roland. Và bây giờ chính nó cũng trở thành một thứ huyền thoại. Tôi cũng vậy, lòng tôi cũng tan nát, khi nó thành một tên sống ngoài vòng pháp luật.
Bà già Guiliano cay đắng nói :
- Nó sẽ gặp may nếu nó còn sống. Trời ơi, không hiểu sao lúc đó tôi lại cứ muốn sinh nó ra ở đây, ở Sicily này cơ chứ? À, phải, vì tôi cứ muốn nó là một người dân Sicilian chính cống, Sicilian thứ thiệt. - Rồi bà cười man dại và chua chát - Và nó đã thật sự trở thành một Sicilian thứ thiệt! Mỗi bước nó đi là mỗi bước đáng lo sợ cho chính mạng sống của nó, với cái đầu bị đặt giá! - Bà ngưng một chút rồi lại sôi nổi nói tiếp. - Nhưng con tôi là một ông thánh!
Michael nhận thấy Pisciotta tủm tỉm cười hóm hỉnh, như một người nghe thấy bà mẹ theo dòng tình cảm tuôn trào mà “bốc thơm” con mình, tán tụng đức hạnh con mình. Ngay cả ông già của Guiliano cũng phải có những cử chỉ có vẻ bực bội. Andolini thì mỉm cười ranh mãnh. Pisciotta nói một cách dịu dàng, nhưng lạnh lùng với bà :
- Dì à, đừng có làm như tủi đã hết đường xoay trở vậy. Nó đã cho nhiều hơn là nó đã nhận. Chính vì vậy mà kẻ thù của nó ớn nó.
Bà già của Guiliano nói một cách bình tĩnh bơ :
- Tôi biết là nó đã giết nhiều người. Nhưng không bao giờ nó làm một điều gì bất công. Và nó luôn luôn dành cho kẻ thù của nó một giờ đặng ăn năn tội lỗi, cầu nguyện và làm lành với Chúa trước khi nó ra tay.
Và thình lình bà cầm tay Michael, dắt qua bếp đi qua phía ban công :
- Chẳng có một ai thật sự hiểu được thằng Turi nhà tôi cho bằng tôi. - Bà nói với Michael - Họ không hiểu được nó tốt lành và dễ thương đến thế nào. Có lẽ đối với người ta thì có thể nó thế này thế kia, chứ với tôi thì nó thật cứ như đếm ấy thôi. Nó không có giấu giếm tôi điều gì hết. Tôi nói gì nó nghe nấy. Không bao giờ nó dám nói xẵng với tôi chớ đứng nói là lỗ mãng, hỗn hào. Nó thật là đứa con hiếu thảo. Những ngày đầu tiên sống ngoài vòng pháp luật, nó ở trên núi nhìn xuống mà chẳng thấy gì. Tôi ở dưới này nhìn lên, cũng chẳng thấy gì. Nhưng, tôi vẫn cảm thấy sự có mặt của nó, cũng như nó vẫn cảm thấy sự có mặt của tôi. Tôi thương nó, nó thương tôi. Ngay lúc này đây, tôi cũng cảm thấy nó. Cứ nghĩ đến nó trơ trọi mọt mình trên núi, trong khi cả ngàn lính tráng đang sục sạo, săn lùng, mà lòng tôi cứ như lửa đốt, cứ như bị vò xé, tim tôi cứ như lăn lộn trong đám chông gai. Và chỉ có ông là cứu được cháu nhà tôi. Ông cứ hứa với tôi là ông sẽ chờ nó.
Bà siết chặt tay Michael trong hai bàn tay bà và hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi. Michael nhìn mênh mông vào bóng đêm. Thành phố Montelepre nép mình vào lòng rặng núi hùng vĩ. Chỉ tại quảng trường trung tâm mới thấy thấp thoáng ánh đèn vàng vọt. Bầu trời lấm tấm những vì sao. Ngoài phố thỉnh thoảng lại vọng lên tiếng vũ khí va chạm nhau lách cách và tiếng khàn khàn của đám lính cảnh vệ đi tuần. Thành phố chập chờn đầy những bóng ma quái. Bà Maria Lombardo và Michael bước nhẹ như lướt đi. Đêm mùa hè đượm hương thơm hoa chanh. Tiếng côn trùng rên rỉ. Thình lình lại có tiếng hô lớn của các toán cảnh vệ nổi lên rồi tắt ngúm.
- Tôi sẽ hết sức ráng chờ, được lâu bằng nào hay bằng nấy, - Michael nhỏ nhẹ nói với bà - nhưng bên nhà, ông già tôi cũng cần tôi lắm. Bà phải bảo anh ấy đến gặp tôi gấp gấp.
Bà già của Guiliano gật đầu và dẫn hắn trở lại với mấy người kia. Piscitotta đi đi lại lại trong phòng. Y có vẻ bực bội.
- Tụi này quyết định là mình phải ở lại đây, đợi cho đến rạng sáng và hết giờ giới nghiêm, - Y nói. - Ngoài kia, trong bóng tối, có nhiều tên lính ưa bắn sảng lắm, và do đó, rất dễ bị tai nạn không đâu. - Y quay về phía Michael và hỏi: - Người anh em không phản đối chứ?
Michael đáp :
- Ồ, không, miễn là đừng có quá phiền ông bà chủ đây.
Họ gạt bỏ ý kiến này và cho là không thích đáng. Họ thường ngủ đêm ở đây nhiều lần rồi, mỗi khi Turi Guiliano lẻn về thăm nhà. Vả lại, họ cũng còn có nhiều điều phải bàn tính, nhiều chi tiết phải sắp đặt. Dù có thức suốt đêm họ vẫn cứ tỉnh như sáo.
Dù đã cởi áo vét, tháo cà vạt ra rồi, trông ông Hector Adonis vẫn bảnh bao, thanh lịch. Bà già của Guiliano pha thêm cà phê, Michael yêu cầu họ cho hắn biết những gì mà họ xét ra có thể cho biết về Turi Guiliano. Hắn cảm thấy cần phải tìm hiểu về anh chàng này. Ông bà già của Guiliano thì nói về cái vẻ thần kỳ của ông con trai họ. Andolini thì nói về chuyện Turi đã tha mạng cho mình. Pisciotta thì nói về những hành vi vừa hào hùng, táo bạo, vừa ranh mãnh, láu lỉnh của Turi, cũng như “Turi giết người thì giết chớ không có ác độc, tàn bạo, bất nhân. Mặc dù không một chút xót thương kẻ thù và những tên phản bội, nhưng không bao giờ Turi xúc phạm đến phẩm giá, sỉ nhục, tra tấn bọn này”. Y đã kể lại tấn thảm kịch ở Portella della Ginestra và kết luận: - Hôm đó, nó khóc ngay trước mặt đám anh em trong băng.
Bà Maria Lombardo nói chen vào :
- Tôi đã nói là chính tay nó chẳng có giết ai ở Portella cả mà.
Ông Hector Adonis vỗ về bà ta :
- Anh em chúng tôi ai cũng biết vậy rồi. Turi vậy đó mà tâm địa nó hiền khô à. - Ông quay sang nói vơi Michael - Nó ham sách lắm. Tôi nghĩ là nó có thể trở nên một thi sĩ hoặc một học giả kia đấy. Có thể là tính nó hơi nóng nẩy. Nhưng không bao giờ tàn bạo. Cái nóng của nó là thứ lửa rơm, bùng lên một cái là hết liền, và vô hại. Nó ghét những gì bất công. Nó ghét bọn cớm, bọn cảnh vệ. Vì đối với người nghèo thì bọn này tàn bạo, hống hách, còn đối với bọn giàu thì quỵ luỵ, khúm núm.
Pisciotta cười lớn, nói :
- Bây giờ thì Turi chẳng “thánh” vậy đâu. Còn phần ông, ông thầy, đừng có lên lớp anh em! Ông mà như tụi này thì ông cũng chẳng thua tụi này đâu, sợ còn hơn!
Hector Adonis nghiêm sắc mặt nhìn hắn.
- Aspanu, - Ông nói - chỗ này không phải là chỗ anh giỡn đâu!
Pisciotta sửng cồ liền :
- Này, - Hắn nói - bộ ông tưởng thằng này sợ ông đấy hẳn?
Thế là Michael biết cái hỗn danh của Pisciotta là “Aspanu”. Pisciotta cứ xoáy vào cái chỗ “nhỏ con” của ông kia, còn Hector Adonis thì cứ cái giọng bề trên để nói với Pisciotta. Thật ra, đám này cũng không hoàn toàn tin cậy nhau. Đối với Andolini thì mọi người “kính như viễn chi”. Bà già của Guiliano dường như chẳng tin ai hoàn toàn. Nhưng càng về khuya thì càng rõ là họ rất giống nhau ở một điểm: cả đám ai nấy đều rất thương Turi Guiliano.
Michael dò hỏi :
- Turi Guiliano có viết một bản chúc thư. Cái ấy bây giờ đâu rồi?
Mấy người kia nín thinh một lúc thật lâu và soi mói nhìn hắn. Và bất thình lình mọi người đâm ra nghi ngại chính hắn. Sau cùng, ông Hector Adonis lên tiếng :
- Nó mới khởi sự viết theo sự gợi ý của tôi. Và tôi cũng giúp đỡ nó trong việc ấy: mỗi trang đều có chữ ký của Turi. Tất cả mối liên hệ bí mật giữa lão Croce với chánh phủ ở Rome và những sự thật về vụ Portella della Ginestra. Nếu những cái đó được tung ra công luận thì chính phủ và cả Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo “dẹp tiệm” là cái chắc. Đó là con chủ bài cuối cùng của Guiliano, nếu sự thể xoay chiều tệ hại nhất.
- Tôi hy vọng là ông đã cất nó ở một nơi an toàn. - Michael nói.
- Phải, - Pisciotta nói chen vào - chính thằng cha Croce rất muốn vồ được cái chúc thư ấy.
- Vào lúc thuận tiện, - Bà già của Guiliano bỗng lên tiếng - chúng tôi sẽ thu xếp để có cái chúc thư ấy trao cho ông. Có lẽ ông sẽ gửi cái ấy đi cùng với con nhỏ.
- Michael nhìn họ, ngạc nhiên: “Con nhỏ nào?”
Họ quay nhìn chỗ khác như thể bối rối hoặc e ngại. Họ hiểu đây là sự ngạc nhiên không lấy gì làm thích thú cho Michael và sợ phản ứng của hắn. Bà già của Guiliano thủng thỉnh nói :
- Con nhỏ đó là vợ của thằng Turi nhà tôi. Nó đang có bầu.
Rồi, bà quay về phía mấy người kia, nói :
- Bộ con nhỏ tan vào không khí được chắc? Liệu ông đây có chịu cho nó đi theo không đã? Cứ nói để ông đây biết, đặng ông nói xem sao.
Mặc dầu cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ là bà ta đang lo sợ phản ứng bất lợi của Michael. Bà quay sang phía Michael và nói :
- Con nhỏ ấy sẽ đến Trapani với ông trước. Turi nhờ ông cho con nhỏ ấy đi Mỹ trước nó. Khi con nhỏ đến nơi và có thư về là đã đến nơi bình an thì Turi sẽ đến gặp ông.
Michael nói một cách dè dặt :
- Tôi không được chỉ thị gì về việc này. Có lẽ tôi phải bàn với người của tôi ở Trapani về yếu tố thời gian. Tôi biết là bà và ông nhà chắc sẽ có lúc phải theo anh con trai của ông bà sang bên ấy. Thế thì sao không để cho cô này đợi để đi với ông bà?
Pisciotta nói một cách sỗ sàng :
- Chẳng nói giấu gì người anh em: con nhỏ này là một trắc nghiệm của tụi này đối với ông bạn. Nó sẽ gửi mật hiệu về và rồi qua đó Turi sẽ phán đoán có phải mình đang chơi với một người không những vừa lương thiện mà còn khôn ngoan nữa hay không? Chỉ đến lúc đó nó mới có thể quyết định mình có thể an toàn rời khỏi Sicily hay không.
Ông già của Guiliano giận dữ nói :
- Aspanu, tao đã nói với mày và thằng Turi rồi, là Ông Trùm Croce đã hứa giúp mình kia mà.
Pisciotta nhỏ nhẹ đáp lại :
- Đó là lệnh của Turi.
Michael suy nghĩ thật nhanh. Sau cùng hắn nói :
- Tôi nghĩ đó là điều rất hay. Ta có thể dùng con đường đào thoát này để trắc nghiệm xem nó có bị trục trặc gì không.
Thật ra chính hắn cũng không có ý định dùng con đường này để giúp chính Guiliano đào thoát. Trong thâm tâm, hắn đã hình dung một con đường khác. Hắn nói với ông bà già của Guiliano :
- Ngay trong chuyến này, tôi có thể gởi cả bà và ông nhà cùng cô gái đó đi.
Hắn nhìn họ, dò hỏi. Nhưng cả hai ông bà già của Guiliano đều lắc đầu. Hector Adonis nhẹ nhàng nói với họ :
- Đó không phải là một ý kiến dở đâu.
Nhưng bà già của Guiliano nói :
- Chúng tôi đâu có lòng dạ nào để rời khỏi Sicily trong lúc con chúng tôi thập tử nhất sinh ở đây.
Ông chồng cũng gật đầu đồng ý. Michael hiểu là họ nghĩ gì. Nếu Turi Guiliano chết ở Sicily này thì họ cũng chẳng muốn đi Mỹ làm gì. Họ phải ở đây để chôn cất, để đem hoa đến viếng mộ và để khóc than, tiếc thương nó. Thảm kịch cuối cùng phải và chỉ là của họ, thuộc về họ. Đứa con gái kia có thể đi vì sự ràng buộc giữa nó với Turi là ràng buộc bằng tình yêu, chứ không phải là máu mủ ruột rà.
Đêm hôm đó, thỉnh thoảng bà lại đưa cho Michael coi một tập dán những bài cắt ra từ các báo, những tấm áp - phích của chính phủ công bố giải thưởng cho ai lấy được đầu của Guiliano. Bà cũng cho coi một truyện bằng tranh in trên tờ báo “Life” của Mỹ năm 1948. Câu chuyện mô tả Guiliano như một tướng cướp lớn nhất thời đại, một thứ “anh hùng Lương Sơn Bạc”, [3] một tướng cướp nghĩa hiệp đã cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo. Tờ báo cũng in một bức thư nổi tiếng của Guiliano gửi cho báo chí, trong đó có đoạn như sau :
“Từ năm năm nay, tôi chiến đấu cho nền tự do của Sicily. Tôi đã chia cho người nghèo những gì tôi đã tước đoạt của bọn nhà giàu, cứ hỏi những người bình dân Sicilian xem họ coi tôi là một tên cướp hay coi tôi là một chiến sĩ đấu tranh cho tự do? Nếu họ nói chống lại tôi, tôi xin sẵn sàng nạp mình cho các vị xét xử. Chừng nào họ còn nói tốt về tôi, chừng ấy tôi còn tiếp tục chiến đấu”.
Chắc là quỷ dữ trong địa ngục cũng không thể huênh hoang, lớn tiếng bằng cái thằng ăn cướp đang bị cớm truy lùng này. Michael nghĩ vậy khi thấy nét mặt hãnh diện của bà Maria Lombardo đang nhìn hắn. Nhưng hắn cảm thấy có sự gắn bó chặt chẽ với bà ta vì bà ta nom rất giống bà mẹ hắn. Những nỗi lo buồn đã để lại những dấu tích rất rõ nét trên khuôn mặt của bà. Nhưng đôi mắt của bà vẫn hừng hực phản ánh lòng quyết tâm chống lại số mệnh của mình.
Trời đã rạng đông. Michael đứng dậy bắt tay từ biệt. Hắn ngạc nhiên khi thấy bà già của Guiliano đã ôm hôn hắn trong vòng tay nồng nhiệt của bà.
- Nhìn ông, tôi nhớ đến con tôi. - Bà nói - Tôi tin ông. Bà đi về phía kệ thờ và lấy xuống bức tượng Thánh Nữ Đồng Trinh Mary tạc bằng gỗ mun. Màu gỗ đen đã đành mà dáng dấp bức tượng ấy cũng là dáng dấp của một người da đen.
Trao cho Michael bức tượng, bà nói :
- Ông giữ lấy tượng này làm quà. Đó là vật độc nhất đáng già mà tôi có thể biếu ông.
Michael ráng từ chối, nhưng bà cứ ấn bức tượng vào tay hắn. Ông Hector Adonisnois :
- Cả đảo Sicily này chỉ có vài bức tượng như vậy thôi. Nom kỳ khôi thật đấy. Nhưng cũng chẳng lạ gì, vì chúng tôi chẳng ở rất gần Châu Phi đó sao?
Bà già của Guiliano nói :
- Vấn đề không phải là nom tượng ấy giống cái gì, mà là ông có thể cầu xin ơn thiêng của bức tượng ấy.
- Phải. - Pisciotta nói chen vào - Bức tượng này có thể ban nhiều ơn lành hơn những bức tượng khác.
Cái giọng của y vừa có vẻ khinh thường vừa có vẻ giễu cợt. Michael nhìn Pisciotta chào từ biệt bà mẹ của Turi. Hắn thấy rõ mức độ tình cảm giữa hai người. Pisciotta hôn cả hai bên má của bà và vỗ nhè nhẹ chào bà để bà yên lòng. Bà tựa đầu vào vai hắn và nói :
- Aspanu, Aspanu, dì thương con như chính con đẻ của dì. Con đừng để tụi nó sát hại Turi nhé. - Và, bà khóc.
Pisciotaa bỗng mất hết cả vẻ lạnh lùng. Toàn thân y bỗng nhũn ra. Cái mặt xương xương, lầm lì của y bỗng dịu đi.
- Dì dượng và nó sẽ sống đến già ở bên Mỹ ấy chớ. - Y nói, rồi y quay ra nói với Michael - Trong vòng một tuần lễ tôi sẽ dẫn Turi đến chỗ người anh em.
Hắn lặng lẽ bước lẹ ra khỏi cửa. Hắn có giấy thông hành đặc biệt có vạch chéo đỏ và lỉnh lẹ vào núi. Hector ở lại nhà của gia đình Guiliano, mặc dù ông ta có nhà riêng tại thành phố.
Michael và Andolini lại chui vào chiếc Fiat và lái qua quảng trường trung tâm để đi vào con đường dẫn đến Castelvetrano, và sau đó tới thành phố ven biển Trapani. Vì Andolini cố ý cho xe chạy chậm và vì có nhiều chốt của cảnh sát nên mãi đến trưa họ mới tới thành phố Trapani.
[1] Theo luật giáo hội thì nghe người ta xưng tội, linh mục không được tiết lộ - dù gián tiếp - cho bất cứ ai những điều mà người ta đã thú tội, ngay cả trong trường hợp bị tra tấn cũng không được tiết lộ “Ấn tòa giải tội”. Nếu tiết lộ thì ông cha đó bị tội trọng (ND).
[2] Maure: tiếng dùng để gọi người Hồi giáo Bắc Phi thời đó. (ND)
[3] Nguyên văn “một Robin Hood”.
Tháng 9 năm 1943, lúc đó, Hector Adonis đang làm giáo sư sử học tại đại học Palermo. Tài năng của ông thì quá xứng đáng với địa vị ấy. Tuy nhiên, ngay cả các vị khoa bảng đồng sự với ông cũng có ý kém trọng nể, chỉ vì cái vóc dáng “nhỏ con” của ông. Nhưng, âu đó cũng là định mệnh! Vì, cả cái xứ Sicily khốn khổ này, sự thích thú khốn nạn và độc ác của thiên hạ vẫn là chế giễu, nhạo báng những người chẳng may thấp, nhỏ bằng những hỗn danh châm chọc, đểu cáng. Chỉ có một người, - đó là ngài viện trưởng viện đại học - nhận ra cái giá trị thực của ông.
Cũng trong tháng 9 năm 1943, cuộc đời của giáo sư Hector Adonis cũng sắp sửa thay đổi. Vì, ở miền Nam nước Ý, chiến tranh đã chấm dứt. Quân đội Mỹ đã chiếm được đảo Sicily và sửa soạn đổ bộ lên lục địa. Chủ nghĩa phát xít đã chết. Nước Ý hồi sinh. Lần đầu tiên từ bốn mươi năm qua, đảo Sicily trên thực tế là vô chủ. Nhưng, nhận thức được những trớ trêu của lịch sử, giáo sư Adonis cũng chẳng hy vọng gì nhiều. Tổ chức Mafia đã bắt đầu nắm lấy quyền cai trị xứ Sicily. Cái quyền lực thối tha ấy cũng tàn hại chẳng kém gì cái quyền lực của bất cứ chế độ độc tài nào.
Từ trên cửa sổ văn phòng của mình, giáo sư Adonis nhìn xuống sân trường đại học, nhìn tới những toàn nhà gọi là ký túc xá sinh viên. Khác với truyền thống đại học Anh, Mỹ, đại học của Ý không có chế độ nội trú (trong khi chế độ này gần như bắt buộc ở các đại học Anh, Mỹ). Do đó, gọi là ký túc xá đại học, nhưng không có nhà ở tập thể. Ở đây, hầu hết mọi sinh viên đều học tập ở nhà và chỉ đến trường để thảo luận và tham vấn với giáo sư của mình vào những khoảng thời gian ấn định. Sinh viên không đi nghe giáo sư giảng bài cũng không sao. Chỉ cần họ quan tâm và tham dự các kỳ thi là đủ. Theo ý giáo sư Adonis thì chế độ đại học đó là không hay, và đối với riêng xứ Scily này thì đó là một chế độ tệ hại và ngu xuẩn. Bởi vì đối với sinh viên người Sicilian thì cần phải có một chế độ đại học chặt chẽ hơn nữa.
Từ trên cửa sổ văn phòng, giáo sư Adonis thấy các xếp sòng Mafia từ khắp các thành phố, các tỉnh trên đảo Sicily nườm nượp kéo tới viện đại học để vận động, chạy chọt. Dưới chế độ phát xít, các xếp sòng này không chết, nhưng cũng phải e dè, nhũn hơn. Nhưng nay, dưới sự cai trị ềm dẻo của nền dân chủ tập sự theo kiểu Mỹ, bọn này ngóc đầu dậy như giòi bọ dưới lỗ nẻ chui lên lúc trời mưa. Và bọn chúng lại ngang nhiên không cần e dè, giấu giếm bắt tay vào những việc mà dưới chế độ phát xít chúng phải tiến hành hết sức lén lút.
Ăn vận những bộ đồ xịn nhất của chúng, các xếp lớn, xếp bé của Mafia, từ tên đầu sỏ cỡ tỉnh cho đến những tên làng nhàng cỡ xã của các tổ chức “Người anh em” này, lũ lượt kéo đến viện đại học để xin xỏ cũng có, hù dọa làm áp lực cũng có cho bọn con, cháu xa gần của chúng, hoặc của bạn bè chúng và thậm chí của các chủ đất giàu có được chúng bảo trợ. Bọn này thi rớt vì lý do này hay lý do khác. Đối với bọn này, chữ nghĩa là đồ bỏ, nhưng bằng cấp thì cực kỳ quan trọng. Các gia đình đâu có cách nào để loại bỏ những đứa con bất tài vô tướng, ngu độn và tầm thường. Chẳng lẽ cột đá vào cổ chúng rồi đem buông sông hay đem câu cá sấu? Nuôi báo cô chúng suốt đời hay sao? Mà để chúng sống nghèo khổ tầm thường thì mất mặt quá. Nhưng, với bằng cấp - cái mảnh vứt đi của viện đại học chứ gì - bọn côn đồ lục lâm này cũng thành thầy giáo, bác sĩ, dân biểu, nghệ sĩ, hoặc tệ lắm thì cũng thành một anh công chức cọ giấy ở các công sở nhà nước. Cũng “oách” chán.
Giáo sư Adonis nhún vai. Nghĩ đi thì như thế, nghĩ lại thì... lịch sử đã an ủi ông. Cái nước Anh mà ông hằng nể phục kia - trong những ngày huy hoàng nhất của đế quốc - đã đặt quân đội của nó vào tay con cháu bọn nhà giàu, trong số đó có chán vạn đứa bất tài, nhưng đã được ông bô bà bô nó “chạy” cho những chức vụ chỉ huy trong quân đội hay hải quân. Ấy thế mà đế quốc Anh vẫn cứ cường thịnh. Đúng, rất nhiều khi các vị chỉ huy ấy đã “nướng” lính tráng của họ một cách ngu xuẩn, phí phạm và vô ích. Nhưng bọn chỉ huy ấy đã được tâng bốc và huấn dụ rằng: can đảm, cùng vào sinh ra tử với lính là tác phong phải có của các cấp lãnh đạo, chỉ huy. Bằng cách ấy, quốc gia đã thanh toán được một cách khá mau lẹ cái gánh nặng bọn con cháu nhà giàu bất tài, vô tích sự ấy mà vẫn chẳng mất mát thiệt hại gì bao nhiêu và dân Ý đâu có cái truyền thống hiệp sĩ kiểu đó, đâu có lối giải quyết thực tiễn và lạnh lùng kiểu đó. Dân Ý thương con, thương cháu mình lắm - tình cảm ấy quả là đáng quí - nên đã tìm mọi cách vun quén, thu lợi cho con cho cháu. Và, chẳng may vì cái tình cảm cao quí ấy mà tổn hại đến quốc gia thì mặc kệ quốc gia.
Từ trên cửa sổ văn phòng, giáo sư Adonis điểm mặt được ít ra cũng ba “ông kẹ” Mafia địa phương đang nhớn nhác, dáo dác đi tìm “nạn nhân” của họ, tức là các giáo sư dạy các môn mà con cháu họ thi rớt. Thời tiết hãy còn nóng mà họ đã bận áo vét bằng nhung, rồi lại còn áo khoác... trông quỷnh không chịu được. Nhưng họ cứ tưởng vậy là sang. Khệ nệ sách giỏ trái cây từ “vườn nhà” hoặc kè kè vò rượu “nhà nấu”, họ ngơ ngác, chẳng bù cho họ lúc kè kè chiếc mã tấu, hoặc lăm lăm khẩu súng máy. Chẳng phải họ cần đút lót gì, nhưng ít ra thì vò rượu cũng giúp cho các giáo sư bớt kinh hãi khi thoạt trông thấy bộ mặt ác ôn, ma cô của chúng. Hầu hết các giáo sư đại học ở đây là người địa phương. Do đó, các vị hiểu rằng bản thân và vợ con các vị muốn sống yên ổn thì chớ có dại dột mà từ chối lời yêu cầu được đưa ra một cách lễ độ như thế.
Một trong những “ông kẹ” Mafia mà giáo sư trông thấy - mặc bộ đồ kiểu “cao bồi vườn” - bước vào tòa nhà và đi lên thang. Với sự thích thú ranh mãnh - vì biết rằng không thể tránh được - giáo sư Adonis sửa soạn để đóng vở kịch sắp tới. Giáo sư có biết “ông kẹ” kia. Tên y là Bucilla. Y có một trang trại và một bầy cừu ở cái tỉnh gọi là Partinico, cách Montelepre không xa.
Họ bắt tay nhau. Bucilla đặt giỏ trái cây xuống và nói
- Cây trong vườn nhà tôi năm nay sai trái quá. Để nó chín, thối rụng xuống đất thì uổng. Bởi vậy, hái một chút đem cho ông giáo.
Trông y quê mùa, nhưng là thứ quê mùa thô lỗ, chứ không phải thứ quê mùa chất phác. Y không cao nhưng có bề ngang, có sức mạnh nhờ cả đời làm lụng hùng hục. Adonis biết y cũng được tiếng là lương thiện. Và nói chung thì y cũng là người có máu mặt ở địa phương, nhưng chưa thuộc loại “cọp” và có cái vẻ bề ngoài nhũn nhặn. Y có láu lỉnh thì cũng chỉ là láu lỉnh theo kiểu văn minh miệt vườn. Nhưng không phải vì thế mà y không biết lợi dụng cái sức khoẻ và sự tàn bạo ngầm của y để làm giàu. Y là một trong những kiểu mẫu thoái hóa của các sếp Mafia cựu trào. Bởi vì các vị này xưa kia dao búa không hẳn chỉ vì tiền mà còn vì lòng tôn kính và danh dự.
Giáo sư Adonis mỉm cười nhận giỏ trái cây. Ông thừa hiểu là đời nào có một anh nhà quê Sicilian lại để cho một cái gì hư, uổng. Chỉ một trái ô-liu rụng thì đã có cả trăm đứa trẻ tranh nhau làm thành một đám giặc non rồi. Lũ trẻ ấy đông như châu chấu. Bicilla thở dài. Y có vẻ nhũn nhặn đến độ ảo não. Nhưng Adonis cũng biết là chỉ trong một giây cũng đủ để sự nhũn nhặn ấy biến mất để nhường chỗ cho sự hầm hè, dọa nạt. Bởi vậy, ông cố nặn cho ra một nụ cười có vẻ tình cảm khi Bucilla mở miệng nói :
- Cuộc đời này thật phiền quá đi. Ấy, tôi đang làm vườn. Đã bận bỏ mẹ đi, thì cái ông hàng xóm lại đến nhờ một việc. Chả có cách nào từ chối. Ông già tôi với ông già hắn là chỗ quen biết. Ông nội tôi với ông nội hắn cũng vậy nữa. Vả lại cái tính tôi kỳ lắm, hay đó là cái rủi của tôi không chừng, là hễ cứ bạn bè nào, dù thân hay sơ, nhờ cái gì dù lớn hay nhỏ, thì mình cũng không có lòng dạ nào mà từ chối cho được. Nói cho cùng ra thì mình cũng đều là con cái Chúa cả.
- Thì người dân Sicilian mình ai mà chẳng vậy. - Hector Adonis nhẹ nhàng đáp - Đã thế, ông anh lại còn quá hào hiệp nữa. Chính vì vậy mà bọn người Bắc ở Rome ấy nó cứ lợi dụng mình hoài.
Bucilla đắc ý, nhìn chòng chọc vào ông ta và thầm nghĩ “Vậy là không có chuyện làm khó, làm dễ rồi. Vả lại, nghe đâu ông thầy này cũng “phe ta”. Có điều chắc chắn là ông ta chẳng có vẻ gì đáng ngại. Nếu ông ta cũng “phe ta”, cũng là “người anh em”, thì một người như Bucilla sao lại không biết nhỉ? Nhưng, tuy cũng là “người anh em” thì cũng có năm bảy hạng “người anh em”. Có điều chắc chắn đây là một người biết tới biết lui, biết người biết của lắm.
- Tôi có chút việc nhỏ đến nhờ thầy giúp. - Bucilla nói - Cũng như mọi người Sicillian khác, ông bạn lối xóm của tôi có thằng con trai năm nay thi rớt, và rớt ở môn của thầy. Ông bạn lối xóm của tôi cứ buồn mãi, cứ rên rỉ phàn nàn với tôi. Nhưng khi nghe thấy tên thầy, tôi đã nói với hắn thế này: “Cái gì? Thầy Adonis hả? Sao? Ông thầy này có từ tâm, nhân hậu, thương người nhất thế giới. Nếu biết rõ việc này thì không khi nào ông ấy lại nhẫn tâm. Không bao giờ!” Bởi vậy hắn khóc lóc nài nỉ tôi đến thưa với thầy sự thể đầu đuôi. Và xin thầy mở lượng hải hà cho con hắn đậu, đặng sau này nó ra đời nó có phương kế sanh nhai lương thiện, nuôi vợ nuôi con.
Hector Adonis đâu có bị phỉnh gạt vì cái sự quá ư lễ độ này. Ông lại nhớ đến dân “Hồng Mao” - mà ông rất nể phục - một dân tộc dù có chơi xỏ lá thì cũng tế nhị đến nỗi cả tháng sau mới hiểu là họ chửi cha của mình. Cách nói của Bucilla là một kiểu mẫu cho cách nói lịch sự kiểu người Anh. Nhưng khác ở chỗ nếu từ chối lời yêu cầu của y thì coi chừng, y lụi cho một vài nhát dao là rồi đời. Adonis chỉ giỏ trái cây, ậm a ậm ừ.
- A, tất nhiên là ai lại có thể đang tâm để cho đám trẻ này phải đói rét trong cái thế giới khốn khổ này được. Thế anh bạn trẻ ấy tên là gì?
Trong khi Bucilla nói, thì ông ta lôi từ dưới đáy ngăn kéo ra một cuốn sổ và giả bộ lật lật, chứ ông thừa biết cái tên rồi. Thằng nhóc ấy là một thằng cù lần, đần độn còn thua cả con lừa trong trại của lão Bucilla. Bẽn lẽn như con gái, mà lại huênh hoang khoác lác một cách ngu xuẩn. Một thằng dốt đặc cán mai không phân biệt nổi con ếch với con nhái. Dầu vậy, Hector Adonis vẫn mỉm cười dịu dàng với Bucilla. Và, bằng một giọng giả bộ ngạc nhiên, ông nói :
- A, cậu này có một vài trục trặc nhỏ ở một trong những bài thi vừa rồi đây. Nhưng cũng dễ thu xếp thôi. Ông bảo cậu ta đến đây. Tôi sẽ ôn tập cho cậu ta ngay tại phòng này, rồi sau đó thi lại, ngoại lệ. Và sẽ không rớt nữa đâu.
Họ bắt tay nhau. Ông kẹ ra về. Adonis nghĩ bụng: “Cũng là một cách thêm bạn, bớt thù. Cho dù tất cả những ông con vô tích sự ấy đậu những bằng cấp đại học mà chúng nó không đáng đậu thì đã sao? Ở cái nước Ý năm 1943 này, chúng dùng bằng cấp ấy để vênh vang, để “tráng men học thức” cho cái gia tài bất chính của ông bà già chúng. Vì chẳng lẽ giàu sụ mà trong nhà không có ai có “mác” đại học thì coi bộ “sệ” quá và mang tiếng là trọc phú. Hoặc chúng dùng bằng cấp ấy để kiếm một địa vị lèng xèng nào đấy.
Chuông điện thoại cắt đứt ngang ý nghĩ lan man của ông và đem đến cho ông nỗi bực dọc khác nữa. Một hồi chuông ngắn, rồi ngưng, tiếp theo là ba hồi chuông ngắn, gay gắt. Cô điện thoại viên đang nói chuyện tào lao với ai đó vẫn chưa chịu cắt đứt câu chuyện của cô. Cái đó càng làm ông bực. Đến nỗi ông ta “a lô” như hét vào máy. Rủi thay, đó lại là cú điện thoại của ngài viện trưởng viện Đại học. Ngài viện trưởng - một người nổi tiếng khắt khe về những nghi thức giao tế lịch sự - hiển nhiên là đang gặp cái gì đó quan trọng lắm, nên đã không chú ý đến sự gay gắt của ông giáo sư. Giọng ngài run run - có vẻ sợ hãi - như sắp khóc đến nơi :
- Giáo sư Adonis, - Ông nói - phiền ngài đến văn phòng tôi ngay bây giờ, được không? Viện đại học đang gặp một rắc rối nghiêm trọng mà chỉ có ông mới giải quyết được. Hết sức quan trọng. Tin tôi đi, giáo sư, tôi sẽ nhớ ơn ông.
Cái giọng cầu cạnh này càng làm cho ông thêm bực. Ông nghĩ bụng: “Lão già ngốc này muốn nhờ mình cái gì? Bộ nhảy qua nhà thờ chánh tòa Palermo chắc? Nếu vậy thì lão ta nhảy chắc ngon lành hơn, - Adonis chợt chua chát nhớ tới cặp giò của mình - vì lão cao lớn như tượng. Thì lão cứ nhảy, mắc mớ gì mà lại bắt một thuộc cấp có giò ngắn nhất xứ Sicily này nhảy thay lão ta!” - Hình ảnh ví von chợt thoáng trong óc khiến cho Adonis bật cười và vui vui. Ông dịu dàng nói vào máy :
- Nếu có thể được, có lẽ ngài viện trưởng nói sơ qua cho tôi biết đặng tôi vừa đi lên gặp ngài vừa suy nghĩ được không?
Tiếng ngài viện trưởng trầm đi, chỉ thấy thì thào :
- Ông Trùm Croce hạ cố đến thăm viện. Thằng cháu ông ta học y khoa bị rớt. Ông ta đã đến xin tôi chiếu cố, xét lại. Nhưng ông giáo sư y khoa nhất định không chịu!
- Ai mà điên khùng vậy? - Adonis hỏi.
- Ấy, ngài tiến sĩ trẻ Nattore. Thực ra thì đó là một giáo sư y khoa khá đấy. Phải cái hơi lý tưởng.
- Năm phút nữa tôi xin có mặt tại văn phòng của ngài.
Khi vội vã đi ngang cái sân rộng mênh mông của viện để tới tòa viện trưởng, Hector Adonis suy nghĩ cân nhắc xem phải hành động giải quyết thế nào cho ổn thoả. Cái khó tất nhiên không phải do ngài viện trưởng. Bởi vì ông vẫn thường được ngài triệu đến để giúp giải quyết những việc tương tự. Cái khó là bác sĩ Nattore kia. Ông biết Nattore quá mà. Một giáo sư y khoa kiệt xuất mà cái chết của ông ta sẽ là một mất mát lớn cho cái xứ Sicily này. Mà ngay cả sự từ chức của ông ta sẽ là một mất mát lớn cho viện Đại học Palermo. Tuy có huênh hoang, phù phiếm một chút, nhưng nói chung, ông ta là một người trọng nguyên tắc - trọng đến mức cứng nhắc - và trọng danh dự. Nhưng dù sao ông ta cũng đã phải nghe nói đến Ông Trùm Croce là ai và là người như thế nào chứ. Ông ta cũng phải có một chút lương tri trong cái bộ óc sáng láng của ông ta mới phải chứ? Phải có một cái gì khác, một chút linh động trong vụ này chứ?
Một chiếc xe hơi lớn màu đen đậu trước tòa viện trưởng. Và đứng bên xe là hai tên cốt đột mặc đồ bảo hộ lao động, cho nên trông chúng cũng không đến nỗi cô hồn lắm. Chắc hẳn đó là tài xế và vệ sĩ của Ông Trùm. Để bọn này đứng ở đây, đối với Ông Trùm đã là một cách tỏ lòng trọng nể viện rồi đấy. Adonis cũng đọc được sự ngạc nhiên và sau đó là sự thích thú của hai tên cốt đột này khi chúng thấy vóc dáng nhỏ thó của ông. Ông đưa mắt nhìn lạnh lùng khiến chúng giật mình. Có thể nào một người nhỏ thó như vậy mà cũng là “Người anh em” được nhỉ?
Văn phòng viện trưởng trông có dáng như một thư viện hơn là một trung tâm điều hành công việc. Ngài viện trưởng là một học giả đúng hơn là một người quản lý. Các kệ sách kê kín các bức tường. Đồ đạc tuy có tiện nghi đấy, nhưng thô. Ông Trùm Croce ngồi trong một chiếc ghế bành lớn và đang nhâm nhi ly rượu. Cái mặt của lão gợi cho Adonis hình ảnh của cái mũi tàu bị vênh, méo vì những năm tháng chiến đấu và vì sóng biển dập vùi. Ông Trùm và Adonis đều làm bộ chưa quen biết, chưa gặp nhau bao giờ. Và Adonis cũng để cho người ta giới thiệu với Ông Trùm. Ngài viện trưởng thì biết cái trò giả bộ này, nhưng bác sĩ Nattore thì tưởng thật. Ngài viện trưởng là người cao lớn nhất viện. Giáo sư Adonis là người thấp nhỏ nhất viện. Không giữ lễ nữa, ngài viện trưởng ngồi ngay xuống, lọt thỏm trong chiếc ghế bành, rồi nói :
- Chúng tôi có một sự bất đồng nho nhỏ.
Nghe nói thế, bác sĩ Nattore khịt khịt mũi tỏ vẻ bực bội, trong khi lão Croce nhè nhẹ gật gật cái đầu tỏ vẻ đồng ý. Ngài viện trưởng nói tiếp :
- Ông Croce đây có đứa cháu cứ ao ước làm bác sĩ. Giáo sư Nattore đây thì bảo là nó không có đủ các chứng chỉ cần thiết để có thể cho tốt nghiệp được. Thế mới khổ! Thế mới rắc rối! Bởi vậy, ông Croce mới cất công đến đây và tình bày trường hợp của thằng cháu. Vì ông Croce đây đã từng giúp đỡ nhiều cho viện ta, nên tôi nghĩ rằng ta thử xem lại, xem có thể châm chước cho thằng cháu ông ta một chút được chăng?
Lão Croce lên tiếng. Lão nói có vẻ chân thành, chứ không có vẻ gì là xỏ xiên, châm chọc :
- Thú thật, tôi là người vô học. Ấy thế mà chẳng ai có thể nói là tôi lại không thành công trong việc kinh doanh.
Giáo sư Adonis nghĩ bụng: “Đúng, đâu có cần phải biết đọc, biết viết mới hối lộ, mua chuộc được các bộ trưởng, ra lệnh cho những tên sát nhân, hăm dọa được các chủ tiệm, chủ nhà máy...”. Lão Croce trầm ngâm, thân mật nói, như thể lão đang tâm sự với người tình của lão, đồng thời có pha chút tự hào :
- Chỉ bằng kinh nghiệm, tôi đã tìm ra con đường riêng của tôi. Tại sao thằng cháu tôi lại không làm như vậy được nhỉ? Tại sao lại phải cứ làm bác sĩ mới được? Bộ không làm bác sĩ, thiên hạ chết ráo hay sao? Khổ nỗi, bà chị tội nghiệp của tôi cứ héo hắt, buồn khổ vì cái chuyện thằng con trai bà không có cái “mác” bác sĩ để in trên danh thiếp. Bà là con chiên ngoan đạo, bả cứ muốn giúp đời!
Như bất cứ ai cũng tin tưởng sắt đá rằng mình có lý, bác sĩ Nattore nói :
- Tôi không thể thay đổi lập trường được!
Lão Croce thở dài ra cái vẻ nhẫn nhục. Lão nói, giọng phỉnh phờ :
- Thì thằng cháu tôi cũng có làm thiệt hại gì ai đâu. Cho nó đậu, các ông cũng có mất mát, thiệt thòi gì đâu. Tôi sẽ thu xếp để nó có một chân trong quân đội, hoặc trong một nhà dưỡng lão. Ở đó nó không phải sờ đến cái ống chích, công việc của nó chỉ là cười, bắt tay và lắng nghe những lời than phiền của họ. Nó dễ thương và cũng khéo mồm khéo miệng lắm, chắc chắn nó sẽ chinh phục được lòng cảm mến của mấy người già tàn phế ấy. Tôi có mong gì hơn đâu? Một mảnh giấy bỏ đi mà ở đây các ông có vô số.
Lão đưa mắt khinh khỉnh nhìn những kệ sách kê kín bức tường. Giáo sư Hector Adonis bối rối trước cái vẻ hiền lành, chất phác lúc này của lão. Trung tâm bão lại là nơi êm ả nhất, và lặng gió.
Cái vẻ hiền lành chính là dấu hiệu nguy hiểm nhất của con người này. Lão trở mặt lẹ lắm. Bởi vậy, Adonis biết rằng ông phải tìm cách để gỡ cái thế bí này.
- Bác sĩ Nattore này, - Hector Adonis nói - chắc là ông có thể giúp được việc này đấy. Chẳng hạn, kèm cặp nó thêm chút đỉnh, hay là bắt nó thực tập thêm ở một bệnh viện miễn phí nào chẳng hạn.
Mặc dầu sinh ra tại Palermo, nhưng bác sĩ Nattore lại chẳng có vẻ Sicilian chút nào. Ngay thẳng, bộc trực và tỏ ra giận dữ. Đó là điều mà không một người Sicilian chính hiệu nào làm trong những trường hợp tế nhị này. Có lẽ đó là một “gen” di truyền từ tổ tiên xa xăm người phương Bắc của ông.
- Giáo sư Adonis, - Bác sĩ Nattore nói - ông không hiểu, ngặt một cái là thằng khốn kiếp ấy lại cứ đòi làm bác sĩ phẫu thuật kia!
- “Giêsu, Maria Giuse [1], lạy Chúa tôi, - Hector Adonis than thầm, - thế này thì rắc rối to rồi!”. Lợi dụng lúc đồng nghiệp choáng váng vì sự tiết lộ của mình, bác sĩ Nattore nói tiếp :
- Đòi làm bác sĩ phẫu thuật mà thằng cháu của ông mù tịt, không biết tí gì về cơ thể học. Nó mổ cơ thể người ta mà cứ như thằng đồ tể mổ bò, mổ heo ấy. Nó có chịu nghe giảng bài, thực tập bao giờ đâu. Mà có đi thì cũng chẳng bao giờ trên tay có lấy một mảnh giấy để ghi chép hay làm bài phúc trình thu hoạch. Nó đi vào phòng giải phẫu mà cứ nhở nhơ còn hơn là đi vào tiệm nhảy đầm không bằng. Tôi công nhận là nó dễ thương. Ông không thể kiếm được một thằng nhỏ kháu hơn thế đâu. Nhưng, ở đây ta đang nói về một người ước mong một ngày nào đó cầm lưỡi dao mổ mà phải giải phẫu cơ thể người ta.
Hector Adonis biết rõ Ông Trùm đang nghĩ gì trong đầu. Đại khái là thằng nhỏ ấy có là bác sĩ phẫu thuật tồi đi chăng nữa thì cũng đếch cần. Vấn đề là thể diện gia đình. Thằng nhỏ mà thi rớt thì gia đình hết vênh vang. Nó có giải phẫu tồi đi nữa thì cũng đã sao. Nó có cần sống bằng cái nghề ấy đâu. Mà, cho dù có sống bằng cái nghề ấy thì nó cũng chẳng thể giết nhiều người hơn một tay em cỡ kha khá của lão. Thằng cháu của lão có là bác sĩ phẫu thuật hay là bác sĩ gì gì đi nữa, cũng được. Cứ bác sĩ là được. Có thế thôi mà cái ông bác sĩ giáo sư Nattore - tuy còn trẻ mà lẩn thẩn này - không hiểu được cái ý của người ta để chiều lòng người ta một chút.
Bây giờ đã đến lúc ông Hector phải “tháo ngòi” để gỡ cái thế bí này trước khi tình hình trở nên căng thẳng một cách nguy hiểm.
- Ông Croce quý mến, - Adonis nói - tôi chắc là giáo sư Nattorre đây cũng chẳng ngại gì mà không chiều theo ý ông, nếu ta tiếp tục thuyết phục giáo sư thêm chút nữa. Nhưng, tại sao thằng cháu ông lại cứ mơ mông, đòi làm bác sĩ phẫu thuật làm gì? Cứ như lời ông thì thằng nhỏ này vốn dĩ hiền lành, dễ thương. Mà cái nghề phẫu thuật, - xin lỗi giáo sư Nattore, - không ít thì nhiều, phải nói là “tàn bạo”. Vì mổ xẻ thế nào cũng dính máu dính me. Vả lại, ở Sicily này, có mấy ai sẵn lòng đưa thân cho người khác mổ xẻ đâu? - Ngừng một chút giáo sư Adonis nói tiếp - Nếu ở đây chúng tôi cho nó đi qua chăng nữa, thì nó vẫn phải đi Rome thực tập tiếp. Ông còn lạ gì bọn người Bắc? Lúc nào cũng chẳng tìm đủ mọi cách để gạt người Sicilian mình ra rìa. Như thế là chính ông đã làm hại thằng nhỏ. Vậy tôi đề nghị một sự dung hòa như thế này.
Bác sĩ Nattore lẩm bẩm trong miệng: “Dung hòa thế quái nào được”. Lần đầu tiên, đôi mắt rắn mối của lão Croce léo sáng lên một cái, như tia chớp. Giáo sư Adonis nói tiếp :
- Thằng cháu của ông vẫn được cấp bằng bác sĩ chứ không phải không. Điều trị hay phẫu thuật, nội khoa hay ngoại khoa thì cũng là bác sĩ cả, chớ đâu có kém cạnh gì. Chúng tôi sẽ nói là tâm địa thằng này dịu dàng quá đi, nên không làm bác sĩ phẫu thuật được.
Môi nở nụ cười, hai tay dang rộng, Ông Trùm hớn hở nói với Adonis :
- Thế là lòng tốt và lý sự của ông đã đánh bại tôi rồi. Thế là đủ. Khỏi cần phẫu thuật phẫu thiếc gì ráo. Bấy nhiêu đó cũng đủ để bà chị tôi yên lòng rồi.
Lão vội vã cáo từ. Vì mục tiêu thật sự của lão đã đạt, lão chẳng mong gì hơn. Ngài viện trưởng ra tận xe tiễn lão. Nhưng mọi người trong phòng đều thấy trước khi rời phòng, lão đã lườm bác sĩ Nattore một cái thật nhanh. Thật nhanh nhưng đó là một cái nhìn chăm chú, soi mói như cố ghi sâu vào ký ức để chắc chắn không thể quên được cái bản mặt của một thằng to gan đã dám trái ý lão.
Khi lão Croce và ngài viện trưởng ra khỏi phòng, giáo sư Adonis quay ra nói với bác sĩ Nattore :
- Ông bạn đồng nghiệp quí mến, ông bạn nên xin từ chức giáo sư và về Rome mà hành nghề. Đó là một lời khuyên - xin lỗi vì đó là từ đúng nhất trong trường hợp này - một lời khuyên đáng được ông bạn nghe theo nhất đời ông bạn.
Bác sĩ Nattore giận dữ nói :
- Ông có điên không đấy?
- Chắc chắn là điên hơn ông. - Adonis chậm rãi đáp - Tối nay, tôi nhất định mời ông dùng cơm tối với tôi. Và tôi sẽ giải thích cho ông tại sao đảo Sicily không phải là đảo Thần Tiên, là chốn Bồng Lai.
- Nhưng tại sao tôi lại phải rời khỏi nơi đây kia chứ? - Bác sĩ Nattore phản đối.
- Bởi vì ông đã dám nói “không” với Croce Malo. Cũng một lúc, Sicily không đủ chỗ cho cả hai người.
- Nhưng ông ta đã được toại nguyện, chứ đâu phải không. - Bác sĩ Nattore la lên, giọng thất vọng - Cháu của ông ta sẽ thành bác sĩ. Ông và ngài viện trưởng đã chuẩn y điều đó mà.
- Nhưng ông thì không. - Hector Adonis nói - Chúng tôi đã phải chuẩn y điều đó chính là để cứu mạng ông. Nhưng dù vậy, ông đã là người bị Croce Malo để ý.
Chiều hôm đó, giáo sư Hector Adonis chủ trì bữa tiệc gồm sáu giáo sư, trong đó có bác sĩ Nattore. Bữa tiệc đặt tại một nhà hàng sang nhất Palermo. Cũng ngày hôm đó, những vị giáo sư kia cũng được một người “đàng hoàng” đến thăm. Và tất cả các vị này cùng đồng ý sửa điểm cho mấy ông sinh viên thi rớt. Bác sĩ Nattore nghe câu chuyện của họ mà phát hoảng và ớn lạnh xương sống. Nhưng ông ta vẫn cứ gân cổ lên cãi, khiến cho các vị giáo sư khác phải nổi xung.
- Nhưng điều đó không thể để cho nó xảy ra ở một bác sĩ. - Nattore nói.
Giáo sư dạy triết đề nghị giáo sư Nattore cho biết :
- Tại sao chỉ trường y khoa mới không nên để cho điều đó xảy ra, còn các trường khác thì sao? Phải chăng sự thực hành y khoa lại quan trọng cho loài người hơn là tiến trình tư tưởng rất phức tạp của tinh thần con người và tính thiêng liêng bất tử của con người. Về mặt lý thuyết - dejure [2] - thì không một trường đại học nào được phép để cho điều đó xảy ra. Nhưng - de facto [3] trên thực tế... nhất là thực tế của Sicily...
Sau cùng, họ cũng thuyết phục được bác sĩ Nattore rời nhiệm sở để di cư sang Brazil, ở đó, theo sự đảm bảo của đồng nghiệp, một bác sĩ giải phẫu có cỡ thì có thể kiếm ra tiền.
Đêm đó, giáo sư Hector Adonis đã ngủ một giấc ngủ của một người vừa làm được điều thiện. Nhưng đến gần sáng, ông bị đánh thức bởi một cú điện thoại từ Montelepre gọi tới. Turi Guiliano, thằng con đỡ đầu của ông mà trí thông minh của nó đã được ông dưỡng dục, bản tính tốt lành của nó đã được ông cảm mến và quí hóa, tương lai của nó đã được ông sắp đặt - vừa mới hạ một tên cớm.
[1] Tên của các vị thánh mà người theo đạo Thiên Chúa vẫn kêu cầu mỗi khi gặp khổ sở, khó khăn, nghịch cảnh, nguy hiểm
[2] [3] Dejure, de facto: tiếng La - tinh (đôi khi có phần làm dáng của giới khoa bảng) - có nghĩa là trên lý thuyết, trên thực tế.
Montelepre là một thị trấn gồm bảy ngàn dân nằm chìm sâu dưới đáy thung lũng của dãy núi Gammarata, cũng như chìm sâu trong nghèo đói.
Ngày 2 tháng 10 năm 1943, dân thị trấn đang tưng bừng chuẩn bị lễ Kính Thánh Bổn Mạng [1] của thị trấn sẽ khởi đầu ngày hôm sau và kéo dài ba ngày.
Lễ Kính Thánh Bổn Mạng là một biến cố lớn nhất trong năm của toàn thị trấn, lớn còn hơn cả lễ Phục Sinh hay lễ Giáng Sinh, lớn còn hơn cả ngày kỷ niệm kết thúc cuộc đại chiến hay kỷ niệm ngày sinh của một vị anh hùng dân tộc. Lễ Kính Thánh Bổn Mạng của mỗi vùng một khác, tuỳ vùng đó chọn vị thánh nào đỡ đầu cho mình. Đó là một trong những tập tục lâu đời và mạnh mẽ mà ngay cả chính quyền phát-xít cũng không dám đụng đến, chứ đừng nói gì đến cấm cản.
Để tổ chức lễ Kính Thánh Bổn Mạng, mỗi năm người ta bầu ra một ủy ban gồm ba vị thân hào danh sĩ có uy tín nhất trong thị trấn. Ba vị này sẽ chỉ định các ủy viên lo quyên góp tiền bạc và hiện vật. Mỗi gia đình đóng góp tùy khả năng. Ngoài ra, còn có các ủy viên đi quyên góp ngoài đường phố.
Gần đến ngày trọng đại ấy, ủy ban “tam vị” bắt đầu xuất chi cái quỹ còn tồn tại từ những năm về trước. Họ thuê một phường kèn, một anh hề, treo những giải thưởng lớn cho các cuộc đua ngựa đủ kiểu, diễn ra trong suốt ba ngày, mướn những chuyên viên trang trí nhà thờ và đường phố. Dưới bàn tay của những chuyên viên này, thị trấn Montelepre tồi tàn, nghèo nàn, u ám thoắt chốc biến thành một thành trì thời Trung cổ. Một đoàn múa rối cũng được gọi tới. Những người bán hàng quà rong dựng lều, dựng quán... tấp nập.
Nhiều gia đình ở Montelepre có con gái đến tuổi cập kê cũng nhân ngày lễ này để kén rể hoặc cho làm lễ đính hôn. Quần áo mới, khăn choàng mới. Diêm dúa. Đám con gái điếm từ Palermo dựng lều ngay ngoài rìa thị trấn. Giấy phép hành nghề, chứng chỉ y khoa của đám con gái “Bạch Mi sư tổ” được treo ngoài vách lều bằng vải bố sọc trắng đỏ hoặc trắng xanh. Một vị thầy dòng nổi tiếng là thánh thiện cũng được mời tới để thuyết những bài giảng có tính cách lễ nghi chính thức. Sau cùng, vào ngày thứ ba cũng là ngày kết thúc dịp lễ, có cuộc rước kiệu di cốt của Thánh Bổn Mạng qua các thành phố. Toàn thể dân thị trấn - kể cả những người chỉ đến nhà thờ một lần duy nhất lúc mới lọt lòng được gia đình ẵm tới để làm phép rửa tội - đi theo hầu kiệu và dắt theo nào bò, nào ngựa, nào lừa, nào heo... để bán khoán cho thánh, đặng thánh ban phước cho ăn no chóng lớn, mạnh khoẻ dài dài để kéo xe, kéo cày cho khoẻ. Trên kiệu, chỗ để di cốt của Thánh, người ta tranh nhau chất lên đó nào là tiền, nào heo, nào bánh kẹo và cả những vò rượu nữa.
Những ngày này là những ngày ăn chơi xả láng của toàn dân thị trấn, để rồi cả năm có phải đói dài dài cũng mặc kệ, để rồi ngày ngày có phải đổ mồ hôi sôi nước mắt, làm hùng hục như lừa trên đất của các quận công, bá tước, đặng đổi lấy một vài đồng bạc cũng “chấp”. Chơi đã, mọi sự hậu xét.
Ngày đầu tiên trong dịp lễ Kính Thánh Bổn Mạng của thị trấn Montelepre năm đó, Turi Guiliano được chỉ định tham gia nghi thức khai mạc: đó là cuộc “thả nọc” giữa con la “mầu nhiệm” của thị trấn Montelepre với một con lừa đực to nhất và khoẻ nhất của thị xã. Thật ra, rất hiếm khi - có thể nói là không bao giờ - một con la cái có thể thụ tinh. Giống la được liệt vào loài thú không có khả năng sinh sản. Nhưng ở Montelepre đã có một con la cái ngoại lệ và do đó “mầu nhiệm” vì nó đã đẻ con. Trước đó hai năm, nó đã đẻ ra một con lừa. Chủ nhân của con la ấy đồng ý - coi như phần đóng góp của gia đình cho buổi lễ - dâng con la ấy để làm nghi lễ khai mạc. Và nếu sự lạ xảy ra lần nữa, thì con của nó sẽ được dùng vào dịp lễ này năm sau. Trong nghi thức này có một sự chế nhạo thâm thúy, chua cay và độc địa. Vì nghi thức “thả nọc” chỉ biểu hiện cái ý thức, ý nghĩa mà nông dân Montelepre nói lên.
Nông dân Sicilian cảm nhận sâu sắc sự tương đồng giữa mình và con la, con lừa. Hai con vật này luôn luôn phải làm lụng cực kỳ vất vả, mệt nhọc mà vẫn bị đánh đập tàn nhẫn và ăn uống thì đạm bạc mà vẫn thiếu thốn. Giống y như nông dân, hai con vật ấy có thể lầm lũi làm việc suốt mấy giờ đồng hồ mà vẫn dẻo dai. Thật khác với giống ngựa đỏm dáng, kênh kiệu nhưng mau xuống sức. Hai con vật ấy vững chân, có thể lẽo đẽo leo núi đá lởm chởm mà không bị té, bị gãy cẳng. Chẳng bù cho mấy con ngựa cái, chỉ được cái tốt mã, nhưng leo núi dở ẹc. Cũng vậy, nông dân giống lừa là ăn uống kham khổ, thiếu thốn mà vẫn sống, vẫn làm việc hùng hục, trong khi đó, loài vật khác và bọn nhà giầu mà như vậy thì chết nhăn răng từ lâu rồi. Nhưng sự tương đồng rõ nét nhất giữa nông dân Sicilian và con lừa, con la là: Phải đối đãi với nông dân, con lừa, con la một cách thân ái và trọng nể. Nếu không chúng sẽ trở thành nguy hiểm chết người, hay chí ít thì cũng lì ra, cứng đầu, bướng bỉnh.
Tinh thần của các ngày lễ của đạo Thiên Chúa - ít ra là ở Sicilian - có nguồn gốc từ các lễ của đa thần giáo thời rất cổ xưa, nhằm cầu khẩn phép mầu nhiệm của các thần. Chính vào ngày lễ Kinh Thánh Bổn Mạng của mình, thị trấn Montelepre cũng đã xảy ra một phép mầu nhiệm làm thay đổi số phận của bảy ngàn cư dân thị trấn này.
Dù mới hai mươi tuổi Turi Guiliano đã được coi như một người trưởng thành hay ít nhất cũng là một thanh niên đàng hoàng nhất, khoẻ mạnh nhất, chính trực nhất và được trọng nể nhất. Hắn là một người - dù mới hai mươi - nhưng rất trọng chữ tín. Nói tóm lại, đó là một người đối xử rất bặt thiệp với bạn bè, kính trên, nhường dưới. Nhưng không vì thế mà hắn chịu ngồi yên, chịu để cho người khác - dù quyền thế đến mức nào mặc kệ - nhục mạ.
Vụ gặt năm rồi, hắn nổi tiếng vì đã từ chối không chịu làm mướn với tiền công rẻ mạt do một tên cặp-rằng ấn định. Hắn còn xúi các người khác đừng thèm làm để cho vụ mùa của các quận công, bá tước, đại điền chủ thối luôn cho bõ ghét. Cảnh sát đã bắt giam hắn theo lệnh khởi tố của ngài nam tước. Những người kia - vì sợ cũng có, vì đói cũng có - đã quay trở lại làm việc. Hắn chẳng trách gì mấy người kia và cũng chẳng trách gì cảnh sát vì theo ý hắn cảnh sát dù sao cũng chỉ là tay sai. Khi hắn được giáo sư Hector Adonis - bố đỡ đầu của hắn - can thiệp và được thả ra, hắn chẳng hận thù gì ai. Bản thân hắn kiên quyết tuân thủ nguyên tắc của hắn và cho rằng thế là đủ.
Trong một dịp khác, hắn đã can ngăn được một cuộc “dao” chiến giữa Aspanu Pisciotta và một thanh niên khác chỉ bằng cách tay không đứng giữa hai con cọp đang nổi giận và bằng lời lẽ vừa hợp lý vừa khôi hài khiến cho cả hai dằn được cơn giận. Điều bất thường trong vụ này là không ai dám coi đó là dấu hiệu của trò lừa bịp hèn nhát, hoặc giả nhân, giả nghĩa vì ở Turi Guiliano có một cái gì đó khiến cho người ta không thể hiểu như vậy được.
Ngày thứ hai trong ba ngày lễ Kính Thánh Bổn Mạng, Salvatore Guiliano - gia đình và bè bạn vẫn thân mật gọi tắt là Turi - đã phải nghiền ngẫm về cái mà đối với hắn - với tư cách là một thằng con trai - là một sự mất thể diện mất nhân cách.
Nguyên nhân thì cũng nhỏ và thường thôi. Thị trấn Montelepre không có rạp chiếu phim, cũng không có rạp hát và các phương tiện giải trí khác. Chỉ có một quán cà-phê nhỏ có một bàn bi-a. Tối hôm trước, Turi cùng với thằng em họ là Gaspare “Aspanu” Pisciotta và vài thằng bạn khác chơi bi a trong quán. Lúc đó trong quán cũng có một vài người lớn vừa nhâm nhi ly rượu, vừa xem chúng chơi bi-a. Một người trong số đó tên là Quintana lúc đó đang hơi ngà ngà say. Đó là một tay anh chị cũng khá nổi tiếng. Gã bị Mussolini “cùm” một thời gian vì tình nghi là Mafia. Trong cuộc đổ bộ của quân đội Mỹ lên đảo Sicily gã được thả ra với tư cách là nạn nhân của chế độ phát-xít. Và có tin đồn là gã sắp được bổ nhiệm làm thị trưởng Moneleprre. Khiếp thế đấy!
Như bất cứ một người dân Sicily nào, Turi Guiliano còn lạ gì cái quyền lực đã thành thần thoại của Mafia. Vừa được tự do dưới sự cai trị của Mỹ, con rắn độc ấy - bị ngắc ngứ dưới chế độ phát-xít của Mussolini - bắt đầu ngo ngoe trên đảo như thể được chính quyền dân chủ kiểu Mỹ hà hơi tiếp sức cho. Đám chủ tiệm lớn, nhỏ trong thị xã được “người anh em” rỉ tai nhắc nhở đóng thuế. Dĩ nhiên, Turi biết chuyện đó, cũng như chuyện vô số nông dân bị cắt họng chỉ vì mỗi một tội là đã ráng đổ mồ hôi nước mắt trên ruộng đồng của các chủ đất và của các thân hào đầy thế lực để đổi lấy đồng lương chết đói, nên không có tiền đóng thuế “bảo vệ an ninh” cho “người anh em”, cũng như chuyện Mafia tha hồ tác oai tác quái trên đảo Sicily khốn khổ trước khi bị Mussolini - “mo - phú” luật pháp - siết họng hết ráo, như cái kiểu một con rắn cực độc cắn cổ một con rắn độc khác yếu thế hơn. Bởi vậy, Turi cũng như vô số người dân thị xã Montelepre cảm thấy sự đe dọa của “người anh em” cứ lởn vởn trên đỉnh đầu.
Guido Quintana quay ra khinh khỉnh nhìn Guiliano và các bạn đang thụt bi-a. Có lẽ ma men đã làm cho gã ngứa ngáy. Gã cảm thấy đã đến lúc “phải bắt tay vào làm việc” sau khi bị chính quyền của Mussolini đày ra đảo hoang. Nay gã đã trở về quê nhà. Mục tiêu của gã trong mấy tháng gần đây là nhắc nhở cho bà con thị trấn nhớ gã là ai và thiên hạ phải nhìn gã bằng con mắt nể phục. Cũng có thể vì cái đẹp trai của Guiliano đã làm cho gã gai mắt. Vì mặt của Guido vốn cực kỳ xấu xí. Cái bề ngoài ma quái của gã không phải chỉ do bộ mặt quỷ dạ xoa tạo ra mà có lẽ còn do cái mặc cảm cứ phải cả đời chường cái mặt dễ sợ ấy cho thiên hạ quan chiêm. Cũng có thể đó là do sự tương phản tự nhiên giữa một thằng bẩm sinh đê tiện và một người bẩm sinh anh hùng.
Dù gì đi nữa, gã cũng thình lình đứng lên, giả bộ đi qua phía bên kia bàn bi-a nhằm đúng lúc húc vào Guiliano một cái. Vốn lịch sự một cách tự nhiên đối với người lớn tuổi hơn, Turi lễ phép và thành thật xin lỗi Guido Quintana cố ý gây sự, đã khinh khỉnh nhìn Turi từ đầu đến chân, rồi nói, giọng cha chú :
- Sao giờ này mà tụi bay không về nhà ngủ để mai chạy gạo. Đói dã họng ra không lo, mà cứ ham chơi. Mấy ông bạn tao chờ chơi bi-a cả tiếng đồng hồ rồi!
Nói rồi gã giật lấy cây “cơ” [2] trong tay Guiliano và mỉm cười chế giễu, thách thức và ra lệnh cho Guiliano - “Lui!”.
Ai nấy đều nhìn sững, lối chơi trịnh thượng này xem ra cũng chưa đến nỗi nặng lắm vì dù sao y cũng lớn tuổi hơn. Nếu là một người nhỏ tuổi hơn hoặc lối sỉ nhục nặng nề hơn, thì có lẽ đã bắt buộc Turi phải ra tay đặng bảo vệ sĩ diện và nhân phẩm của mình. Lúc nào Aspanu Pisciotta cũng thủ sẵn con dao trong người. Thấy sự thể đó, y đã đứng sẵn vào vị trí thuận lợi để có thể ngăn chặn mấy ông bạn của Quitana có thể ra tay can thiệp, tiếp sức. Pisciotta không có thói quen kính nể người lớn tuổi hơn. Nhưng y cũng không muốn cánh bạn bè và thằng anh họ huyết chiến trong tình huống bất lợi này.
Nhưng, đúng lúc đó, Guiliano cảm thấy trong cơ thể hắn một sự khó chịu lạ thường. Quintana nom hùng hổ và sẵn sàng gây hậu quả nghiêm trọng, nếu Guiliano cưỡng lại. Mấy ông bạn của gã ngồi gần đó - cũng là những người lớn tuổi - mỉm cười thích thú như thể họ biết chắc hậu quả. Một trong số những người ấy mặc đồ đi săn và có một khẩu súng, Guiliano tay không. Và, khốn nạn, chính trong lúc bị nhục ấy thì hắn lại cảm thấy sợ. Hắn không sợ bị thương, bị no đòn hoặc sợ vì thằng cha kia khoẻ bằng hai, mà hắn sợ vì mấy người kia biết họ sắp làm gì, vì họ nắm thế thượng phong, còn hắn thì không. Rằng một đêm tối trời nào đó, trong phố vắng trên đường trở về nhà, hắn có thể bị họ “đế” cho một phát, gục và ngày hôm sau, xác hắn nằm phơi bên đường như xác một thằng điên. Chính cái bản năng của một người bẩm sinh đã là bậc thầy của du kích chiến khiến cho hắn nuốt hận rút lui.
Turi nắm cánh tay kéo ra ngoài quán cà-phê. Pisciotta cũng ra theo mà không gây gổ gì. Nó ngạc nhiên vì thằng anh họ nó hôm nay lại chịu lui một cách dễ dàng thế, chứ không ngờ rằng thằng anh nó sợ. Nó cho rằng Turi tốt bụng và không muốn gây gổ với mấy thằng cha kia vì cái chuyện vặt ấy. Khi đi ngược đường Via Bella để trở về nhà, chúng còn nghe thấy tiếng bi - a lách cách sau lưng.
Suốt đêm đó, Turi Guiliano không sao nhắm mắt lại được. Có đúng là hắn sợ thằng cha có bộ mặt quái đản, xấu xí và cái thân xác bặm trợn hùng hổ, dọa nạt ấy không? Có phải hắn đã run không? Bọn kia có cười hắn không? Thằng bạn thân nhất và cũng là em họ hắn Aspanu - và những thằng bạn kia nghĩ sao về hắn. Hắn có phải là thằng “thỏ đế” không? Hắn, Turi Guiliano thủ lĩnh đám thanh niên ở Montelepre, được kính nể nhất, được tiếng là khoẻ nhất, không biết sợ hãi là gì... thế mà bây giờ vừa mới bị thằng cha kia “hù” cho có một tí mà đã “co vòi”. Nhưng rồi hắn lại tự nhủ: dại gì mà đi gây thù chuốc oán - có thể đưa đến cái chết vô nghĩa - chỉ vì cái chuyện vặt vãnh ấy? Đây khác với cuộc cãi cọ với bọn trẻ. Nếu là với bọn trẻ mà như vậy, thì có chuyện là cái chắc. Hắn biết thằng cha già đó - Quintana là “Người anh em” hay ít nhất cũng liên hệ chặt chẽ với cái tổ chức giết người đó. Hắn sợ là sợ cái đó.
Guiliano cứ trằn trọc mãi và có lúc chợp mắt đi được thì cũng chỉ là ngủ chập chờn. Hắn thức dậy trong một trạng thái bần thần rất nguy hiểm đối với một thằng thanh niên. Hắn thấy mình kỳ cục. Cũng như hầu hết mọi chàng trai trẻ khác, lúc nào hắn cũng muốn làm anh hùng. Nếu sống ở một vùng khác trong nước Ý thì hắn đã đăng lính rồi. Nhưng không có một Sicilian “chính cống” nào lại tình nguyện vào lính bao giờ. Và, ông bố đỡ đầu của hắn, giáo sư Hector Adonis, đã thu xếp để hắn khỏi bị gọi đi lính. Sau cùng, mặc dù nước Ý bao gồm cả đảo Sicily, nhưng không một Sicilian chính cống nào lại cảm thấy mình là người Ý. Và, nếu đúng như người ta nói, chính quyền ở Rome cũng chẳng quan tâm đến việc gọi người Sicilian nhập ngũ, nhất là vào những năm cuối của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Lý do là thế này: Người dân Sicilian có nhiều bà con thân thuộc bên Mỹ (lúc đó thù nghịch với Mussolini), người Sicilian bẩm sinh đã là những tên trọng phạm, tráo trở, phản bội, người Sicilian quá ngu đần, có đem huấn luyện cũng phí công vì không thể huấn luyện họ để có thể dùng trong chiến tranh kiểu hiện đại được, người Sicilian ưa lộn xộn, đi đến đâu là gây rối đến đó.
Ra ngoài đường, Turi Guiliano cảm thấy cái tâm trạng buồn rầu đã đè nặng trong lòng hắn suốt đêm qua, sáng nay cũng tan theo bóng đêm, khi mặt trời le lói xuất hiện. Ánh mặt trời rực rỡ. Không khí ngạt ngào mùi hương hoa chanh và ô-liu. Guiliano yêu thị trấn Montelepre với những đường phố quanh co, nhưng ngôi nhà có tường xây bằng đá, những ban-công rực rỡ dây hoa leo. Ở Sicily cằn cỗi này, mặc dù chẳng được chăm sóc, tưới bón, những dây hoa leo này vẫn cứ tươi tốt, vẫn cứ nở hoa rực rỡ. Guiliano yêu những mái ngói đỏ chạy dài tới cuối thị trấn chìm trong thung lũng là nơi mặt trời đang đổ ánh sáng, như đổ xuống một chất lòng bằng vàng xuống vậy.
Những đồ trang trí tỉ mỉ và rực rỡ của ngày lễ Kính Thánh Bổn Mạng - phố xá treo đầy những bức ảnh tô màu sặc sỡ vẽ hình Thánh Bổn Mạng hom hem, hốc hác, xanh xao, xác xơ, những căn nhà trang trí bằng những bông hoa to tướng đan bằng tre - tất cả đều nhằm che giấu sự nghèo mạt cố hữu của một thị trấn điển hình trên đảo Sicily. Dù vắt vẻo sườn non hay co quắp ẩn mình trong khe núi hoặc lụp xụp trong thị trấn thì nhà nào cũng giống nhau ở chỗ rực rỡ dây hoa leo và chật ních những người. Vợ chồng cùng cả bầy con cái và gia súc chia nhau ba, bốn gian nhỏ xíu. Nhiều nhà không có tiện nghi vệ sinh, cho nên dù có tràn ngập hoa, ngào ngạt hương và không khí trong lành, mát mẻ của gió núi, thì cũng vẫn không đủ sức để át cái mùi hôi thối của phân, rác, nước đái của người và gia súc thi nhau bốc lên cùng với ánh mặt trời.
Vào những ngày đẹp trời, thiên hạ kéo nhau ra ở ngoài trời. Đàn bà thì ngồi trên những chiếc ghế gỗ đặt trên sân lót đá sỏi để sửa soạn bữa ăn. Con nít tung tăng ngoài phố đuổi gà, lùa dê... Ở cuối đường Via Beclla, trước khi đổ vào quảng trường có một cái vòi nước hình mặt quỷ - do người Hy Lạp làm từ hơn hai ngàn năm trước - miệng đang đổ nước ra òng ọc. Bên sườn rặng núi bao quanh thị trấn, những mảnh vườn bậc thang xơ xác, tiêu điều. Trên đồng bằng nhỏ xíu dưới chân rặng núi ấy là các thị trấn Partinico, xây bằng đá đỏ nằm heo hút ở tít cuối chân trời.
Từ phía cuối đường Via Beclla, phía cuối phố, chỗ đưa đến con đường đi Castellammare, Turi nhìn thấy Aspanu. Bạn hắn sẽ đối xử với hắn như thế nào sau lần bị sỉ nhục tối hôm trước? Thằng bạn được Guiliano để ý vì cái trí khôn sắc sảo của nó. Y có dấu hiệu khinh thường không? Guiliano bỗng cảm thấy giận sôi lên và thề sẽ không bao giờ để cho một sự thể như thế tái diễn nữa. Hắn có thể bất chấp hậu quả để chứng tỏ cho bè bạn thấy hắn không phải là thằng “thỏ đế”. Ở một xó xỉnh nào đó trong trí nhớ của hắn, hắn còn thấy rõ mồn một cái cảnh chiều tối hôm qua. Một trong số những ông bạn của Quitana ngồi uống rượu, ở đằng sau hắn có một khẩu súng. Bọn chúng là “Người anh em” và bọn chúng có thể trả thù tàn nhẫn. Guiliano không sợ chúng, mà chỉ sợ thua chúng. Và thua là cái chắc. Không phải chỉ vì chúng mạnh hơn mà chỉ vì chúng tàn bạo hơn.
Thấy hắn, Pisciotta nhăn nhở cười :
- Turi, - Pisciotta nói - tự mình thấy, con lừa này không “mần” nổi con la đâu. Mình phải giúp nó một tay.
Guiliano chẳng buồn trả lời. Hắn tin rằng thằng bạn và cũng là em họ nó đã quên chuyện nhục nhã đêm rồi. Điều làm cho hắn cảm động nhất là Pisciotta ăn nói “xóc óc” với ai kia, châm chọc chế nhạo những lỗi lầm của ai kia, chứ với hắn thì lúc nào Pisciotta cũng tỏ ra trọng nể, quí mến. Hai đứa dắt con lừa đi về phía quảng trường. Lũ con nít rần rần bu quanh, chạy theo. Đối với chúng, đây là một trò chơi thú vị nhất, một biến cố kích thích nhất sau những ngày hè tẻ ngắt.
Ở quảng trường có một cái sân khấu lộ thiên xây bằng đá, cao khoảng 1,2m. Turi và Aspanu đẩy con lừa lên cái sân khấu đầy rác đó, rồi cột con lừa vào một thanh chấn song của sân khấu. Con lừa nằm xuống. Trên mí mắt và mõm của nó có miếng da màu trắng bịt kín khiến cho nó trông thật tức cười. Lũ trẻ bu quanh sân khấu, la hét, cười đùa chế nhạo.
Turi Guiliano đâu biết rằng hôm nay là ngày cuối cùng, hắn được sống như một anh trai làng vô danh tiểu tốt. Tuy vậy, hắn đưa mắt nhìn quan sân khấu với sự mãn nguyện của một kẻ cảm thấy mình được đặt đúng địa vị mong muốn. Nơi hắn sinh ra và lớn lên chỉ là một điểm nhỏ xíu trên mặt địa cầu. Thế giới bên ngoài chẳng bao giờ làm hại hắn. Ngay cả cái cảm thức nhục nhã đêm rồi cũng đã tan biến. Hắn biết rõ rặng núi đá vôi ẩn hiện lờ mờ bao quanh thị trấn như một đứa trẻ biết rõ món đồ chơi trong túi của nó. Trên núi có những cái hang lớn đủ cho cả một đạo quân trú ẩn. Turi biết rõ từng căn nhà, từng trang trại, từng nông dân trên núi đó. Hắn cũng biết rõ cái pháo đài đổ nát xây từ thời người phương Bắc và người Maure (Bắc Phi) xâm lược xứ này cũng như ngôi đền hoang phế người Hy Lạp đã xây dựng trên núi đó cách nay hơn hai ngàn năm. Người nông dân chủ nhân con la “mầu nhiệm” xuất hiện từ một lối khác dẫn đến quảng trường. Đó là người đã mướn Guiliano và Pisciotta vào việc đó sáng nay. Lão tên là Papera, được dân trong thị trấn nể gờm, chỉ vì lão đã thành công trong việc đòi nợ máu một người lối xóm. Họ cãi nhau chỉ vì tranh giành cây ô-liu mọc ở chỗ giáp ranh hai mảnh đất của họ. Cuộc tranh giành cãi cọ kéo dài suốt mười năm trời - còn lâu hơn cả cuộc chiến tranh do Musolini gây ra trên đất Ý. Thế rồi, chỉ ít lâu sau ngày quân đội Mỹ chiếm được đảo Sicily từ tay quân phát-xít và thiết lập chính quyền “dân chủ” - một đêm kia, người ta thấy xác anh hàng xóm bị chặt làm hai khúc. Mã tấu và súng săn - rất phổ biến ở Sicily - thường được dùng vào việc này. Người ta lập tức nghi ngờ Papera. Nhưng lão ta chỉ cãi qua loa với cảnh sát, sau đó thản nhiên để cho bọn này bắt và chỉ phải qua một đêm bình an trong xà lim tử tội của nhà tù Bellampo Baruks. Có tiếng xì xầm đồn rằng đó là dấu hiệu sự hồi sinh của tổ chức Mafia, rằng Papera có liên hệ hôn phối với Guido Quintana - đã giành được sự hộ trợ của “Người anh em” trong việc giải quyết sự tranh chấp này.
Khi Papera dắt con la đến trước sân khấu, lũ trẻ bu đen xung quanh, đến nỗi lão phải lấy roi quơ quơ trước mặt để lũ trẻ giạt ra lấy lối đi. Lũ trẻ dễ dàng nể cây roi của lão vừa cười vừa dứ dứ trên đầu chúng.
Dù bị bịt mắt bịt mũi, nhưng thấy mùi con la cái phía dưới sân khấu, con lừa cố bứt sợi dây cột nó vào sân khấu. Turi và Aspanu nhấc bổng con lừa lên cho nó chồm qua hàng rào chấn song và lão Papera cho con la ghé đít vào mép sân khấu. Lũ trẻ cười ré lên, reo hò.
Lúc đó, Frisella - thợ hớt tóc bước ra khỏi tiệm và đi đến chỗ sân khấu. Sau gã là Maressciallo, vẻ bộ khệnh khạng làm ra vẻ ta đây quan trọng, vừa đi vừa chà chà cái mặt nhẵn thín và đỏ ké vì mới cạo râu xong. Y là người độc nhất ở Montelepre này cạo râu hàng ngày. Đứng tít trên sân khấu mà Guiliano còn ngửi thấy mùi dầu thơm rẻ tiền toát ra từ thằng cha thợ cạo.
Maressciallo Roccofino đưa con mắt “nghề nghiệp” nhìn đám đông đang tụ tập ở quảng trường. Với tư cách là chỉ huy trưởng tiểu đội cảnh sát quốc gia gồm mười hai tên “cớm tép”, y có trách nhiệm về luật pháp, an ninh, trật tự trong thị trấn. Thời gian lễ Kính Thánh Bổn Mạng luôn luôn là một thời gian có nhiều lộn xộn. Vì vậy, y đã ra lệnh cho một phân đội gồm bốn người đi tuần ở quảng trường. Nhưng bọn này vẫn chưa tới. Y nhìn lão Papera, người được coi là “ân nhân” của thị trấn, vì con la của lão được dùng làm lễ ngày hôm nay. Y cũng tin chắc là chính Papera đã hạ sát anh chàng hàng xóm. Mới được quân đội Mỹ “giải phóng” được ít này, bọn “dã thú” Sicilian đã vội vã lợi dụng tự do thiêng liêng của chúng. Maressciallo thầm nghĩ: Tất cả bọn dân đen Sicilian chắc là thương tiếc Mussolini lắm. Vì so với “Người anh em” thì nhà độc tài phát-xít chỉ là một người hiền lành, nhân hậu như thánh Phranxixco.
Tên thợ cạo Frisella là người ưa nói bông phèng. Mấy anh thất nghiệp ưa la cà trong tiệm của gã đặng nghe những câu nói giễu cợt rẻ tiền, những chuyện tào lao, ba xạo hoặc tiếu lâm tục tĩu của gã. Về khoản này, gã là người thợ cạo phục vụ khách hàng tận tình. Gã có bộ ria mép tỉa rất kỹ, rất công phu và mái tóc bết bi-dăng-tin láng bóng. Nhưng cái mặt của gã như một thằng hề trình diễn múa rối. Cái mũi củ hành, miệng rộng toang hoác và cái hàng dưới ngắn đến nỗi tưởng đầu gã không có cằm. Gã la lớn lên :
- Turi, dắt con lừa của mày vào tiệm, tao xức dầu thơm cho nó, đặng nó làm tình với bà quận chúa.
Turin, làm thinh như không quen biết gã Frisella cắt tóc cho nó hồi nó còn nhỏ. Gã cắt tồi đến nỗi bà già nó phải dắt nó đi cắt tóc chỗ khác. Nhưng ông già của Guiliano vẫn tìm đến tiệm của gã đặng hóng chuyện và kể về cái “thời huy hoàng” của lão hồi còn ở bên Mỹ đặng loè mấy anh cù lần. Turi không ưa anh thợ cạo vì gã là một tên phát-xít thứ thiệt, đồng thời là một tay sai tâm phúc của đám “Người anh em”.
Maressciallo đốt điếu thuốc là và khệnh khạng đi ngược đường Via Bella, không thèm nhìn Guiliano. Đó là một lỗi lầm mà vài tuần sau, y sẽ phải hối tiếc không biết bao nhiêu mà kể.
Con lừa ráng nhảy qua khỏi hàng chấn song của sân khấu. Turi nới lỏng sợi dây cột nó, đặng kéo nó ra mé bìa sân khấu chỗ con la đang ghé đít vào đó. Đít con la nhô lên cao khỏi bìa sân khấu. Guiliano nới lỏng dây thêm chút nữa. Con la khịt khịt mấy cái. Lũ trẻ cười la, reo hò rầm rầm. Papera và Pisciotta cười bò ra trong khi Guiliano cố lôi con lừa xuống khỏi lưng con la. Papera ngừng cười và nói :
- Ê bay, sống mà được như con lừa thì mới nên sống!
Pisciotta nói đâm hông giọng xấc xược :
- Ông Papera à, để tôi chất lên lưng ông hai cái giỏ chứa đầy trái ô-liu, rồi quất vào mông đít, bắt đi quanh co trên núi một ngày tám tiếng đồng hồ, thì lúc đó ông mới thấy sống như con lừa ấy “đã” như thế nào.
Lão lườm nó và kìm lại, chứ nếu không thì Pisciotta đã vuốt mặt không kịp vì những tràng chửi thề của lão. Lão trả công hai đứa quá rẻ. Lão không ưa thằng Pisciotta. Và thực ra lão chỉ giao việc này cho Guiliano. Cả thị xã ai cũng khoái Guiliano. Nhưng rồi Pisciotta thì lại làm khác. Cái miệng tía lia, hễ động nói là nói độc, nói hỗn, nói đâm hông, nói xóc óc châm chọc... Trong khi đó thì dáng điệu lại lử đử lừ đừ, làm biếng. Cái bệnh phổi của y không đủ để bào chữa cho cái thói làm biếng ấy, y vẫn hút thuốc lá và chơi gái như ranh. Ăn mặc thì cứ như công tử bột. Lại còn để ria mép theo kiểu Pháp nữa chớ. Y sẽ chết vì ho và xuống địa ngục với cái bệnh phổi của y. Lão Papera nghĩ thế. Lão trả cho hai đứa có hai trăm bạc. Guiliano lịch sự cảm ơn. Và lão dắt con la về nhà lão. Hai đứa dắt con lừa về nhà Guiliano. Công việc thật sự của con lừa bây giờ mới bắt đầu. Và công việc ấy chẳng vui sướng thú vị gì.
Bà mẹ của Guiliano làm cơm trưa sớm, đợi hai đứa. Hai chị gái của Turi: Mariannina và Giuseppina đang giúp mẹ nhồi bột cho bữa chiều. Trứng và bột trộn thành đống lù lù trên chiếc khay bằng gỗ lớn. Ông bố Guiliano đang làm việc ngoài đồng. Hôm nay ông chỉ làm việc buổi sáng để buổi chiều dự lễ. Hôm nay là ngày đính hôn cua Mariannina, cho nên, sẽ có một bữa tiệc đặc biệt tại nhà Guiliano.
Turi luôn luôn là một đứa con cưng nhất của bà Maria Lombardo Guiliano. Hai chị hắn cứ nhớ hắn qua cái hình ảnh ngày hắn còn bé được mẹ tắm cho. Thùng nước nóng đặt cạnh lò được mẹ cẩn thận nhúng tay vào để thử. Xà bông thơm mua tại Palermo. Lúc đầu, các chị hắn còn ganh. Nhưng rồi thấy mê thích sự dịu dàng của bà mẹ tắm cho thằng bé đang trần truồng. Hắn không bao giờ khóc nhề nhệ như những đứa trẻ khác. Trái lại, hắn cười sằng sặc khi má kì cọ cho. Và thân thể hắn thật là tuyệt. Hắn nhỏ nhất trong gia đình nhưng lớn lên lại mạnh khỏe nhất. Đối với các chị hắn luôn luôn là một sự lạ lùng. Hắn đọc sách nhiều và khoái nói đến chính trị. Nhưng hắn vẫn được các chị quí yêu vì tính nết tốt và lòng vị tha của hắn.
Sáng hôm đó, má và các chị bận tíu ít vì hắn. Và họ âu yếm nhìn hắn ăn bánh mỳ với phó-mát làm bằng sữa dê, nhấm nháp trái ô-liu, uống cà-phê... ăn trưa xong là hắn và Aspanu sẽ dắt lừa đi Corleone và buôn “chui” một ít pho-mát, ít thịt heo và dồi nướng. Hắn phải bỏ không tham gia một phần trò chơi trong ngày lễ để làm việc đó, đặng làm vui lòng bà mẹ và kiếm thêm chút đỉnh về làm bữa tiệc đính hôn của chị hắn ngày mai cho thêm phần long trọng, linh đình và vui vẻ.
Ba người đàn bà - mẹ và hai chị - cùng âu yếm nhìn hai cậu con trai. Chúng là bạn với nhau từ khi còn nhỏ xíu. Mặc dù khác nhau đến thế nhưng hai đứa lại thân nhau còn hơn anh em ruột. Aspanu Pisciotta, nước da hơi xanh một chút, vẻ mặt hết sức láu lỉnh, hàng ria mép lưa thưa, đôi mắt sáng và những lọn tóc nâu đen loăn xoăn trên cái sọ nho nhỏ. Sự hóm hỉnh của y luôn làm cho các bà, các cô vui thích, cười rúc rích. Vậy mà tất cả những cái đó vẫn bị vẻ đẹp trầm lặng kiểu Hy Lạp của Guiliano đánh bạt đi. Guiliano cao lớn và đẹp như một bức tượng Hy Lạp dựng rải rác trên khắp các quảng trường trên đảo Sicily. Nước da của hắn hơi nâu, sáng, mái tóc hung hung đen. Hắn luôn có vẻ trầm tĩnh, nhưng cử chỉ, đi đứng linh hoạt, nhanh nhẹn. Nổi bật hơn hết vẫn là đôi mắt. Trong mắt nâu vàng. Khi đôi mắt ấy nhìn chỗ khác thì trông bình thường, nhưng nếu nhìn thẳng vào bạn thì đôi mắt ấy thường lim dim như đôi mắt của các bức tượng. Và lúc đó toàn thể khuôn mặt hắn toát ra vẻ trầm tĩnh bình thản và oai nghi.
Trong khi Aspanu Pisciotta cố làm cho bà Maria Lombardo vui thì Guiliano chạy lên lầu sửa soạn chuyến đi mần ăn mà hắn thực hiện. Đặc biệt, hắn thủ theo khẩu súng lục. Nhớ tới sự sỉ nhục hôm trước, hắn quyết định phải võ trang khi đi làm công việc này. Hắn biết sử dụng võ khí vì khi đi săn, ông bố thường cho hắn đi theo. Trong bếp, bà mẹ đang đứng một mình đợi để giã từ hắn. Bà ôm hôn và cảm thấy khẩu súng lục hắn giắt ở lưng. Bà nói :
- Turi, cẩn thận nghe con. Đừng có cãi mấy người cảnh sát. Nếu bị họ “chộp” con cứ để cho họ muốn lấy gì thì lấy.
- Chúng có thể lấy hàng hóa - Turi trấn an bà - nhưng con sẽ không để cho chúng “uýnh” con hoặc tống con vô tù. Mẹ yên trí, đừng có lo.
Bà thông cảm điều đó. Trong niềm kiêu hãnh của một người Sicilian chính cống, bà tự hào về hắn. Từ bao năm rồi, niềm kiêu hãnh của riêng bà, sự giận dữ vì cảnh túng thiếu, quẫn bách của bà đã khiến bà xúi chồng đi Mỹ làm ăn chuyến nữa. Là một người mơ mộng, bà tin vào sự công bằng và địa vị xã hội mà bà tin mình xứng đáng và có quyền được hưởng. Lúc ở bên Mỹ, bà dè sẻn chắt bóp tằn tiện. Chính niềm kiêu hãnh đó đã khiến cho bà quay trở về Sicily với hy vọng sẽ sống như một bà hoàng. Thế rồi mọi sự đã tan thành mây khói. Bà phó thác cho số mệnh. Nhưng bà vẫn hy vọng ở đám con của bà. Và bà sung sướng khi thấy Turi biểu hiện chính cái tinh thần bà đã có. Nhưng bà kinh sợ cho cái ngày mà hắn phải lao vào đấu tranh với cái thực tế tàn nhẫn phũ phàng của cuộc đời trên cái xứ Sicily khốn cùng và khô cằn này.
Bà ngầm nhìn theo thằng con đang bước ra con đường Via Bella trải sỏi để đi với Aspanu Pisciotta đang chờ nó ở đó. Con trai bà có dáng đi của một con mèo khổng lồ. Ngực nở, tay chân rắn chắc, bắp thịt nở nang cuồn cuộn. Đứng bên hắn Aspanu trông càng thảm hại, chẳng khác gì một cọng cỏ. Aspanu có cái láu cá, quỷ quyệt mà con bà không có. Trong sự can đảm của Aspanu có sự liều lĩnh, độc ác, tàn bạo. Aspanu sẽ bảo vệ Turi chống lại cái thế giới lừa lọc, gian dối trong đó chúng phải sống. Bà cũng chuộng cái nước da màu vỏ trái ô-liu của Pisiciotta. Nhưng bà thấy Turi của bà đẹp trai hơn.
Bà nhìn chúng đi ngược đường Via Bella để đến chỗ dẫn tới con đường đi Castellammare. Con trai bà - Turi cùng với đứa con trai của người em gái - Gasparre Pisciotta, cả hai đứa mới chỉ vừa đôi mươi và nom trẻ hơn so với tuổi của chúng. Bà yêu hết cả hai và lo sợ cho cả hai.
Sau cùng, hai đứa cùng với con lừa đến cuối phố thì khuất đi, nhưng bà vẫn tiếp tục nhìn. Rồi chúng lại hiện ra trên dốc cao và đang đi vào rặng núi bao quanh thị trấn. Bà vẫn tiếp tục dõi con mắt nhìn theo chúng, như thể bà sẽ chẳng còn bao giờ gặp lại chúng nữa cho đến khi chúng biến mất trong đám sương mù buổi sáng vẫn còn đang phủ trên núi.
Chúng đang tan biến vào đoạn mở đầu của những huyền thoại về chính chúng.
Tại Sicily, tháng 9 năm 1943, người ta không thể sống được nếu không “chạy chợ”. Những qui định chặt chẽ về khẩu phần lương thực trong thời chiến vẫn còn áp dụng. Và nông dân vẫn phải bán sản phẩm cho các kho của nhà nước theo giá nhà nước ấn định và nhận lấy đồng tiền hầu như vô giá trị. Ngược lại, nhà nước có nhiệm vụ phải bán lại cho người dân lương thực với giá rẻ. Với chế độ “bao cấp” ấy, tất nhiên chẳng thể sống phè phỡn, nhưng cũng còn “ngáp ngáp” được. Thực ra, hễ giấu được cái gì là nông dân giấu cái đó. Bởi vì những gì họ bán được cho nhà nước thì trên thực tế lại chui vào kho của Ông Trùm Croce, và sau đó tuồn ra chợ đen với giá cắt cổ. Vì vậy, nếu họ có buôn chui thì cũng chỉ để sinh tồn, chứ chẳng phải làm giàu làm có gì. Nhưng nếu bị bắt quả tang buôn chui thì bị bắt, bị tống giam, bị đưa ra tòa. Vậy thì cái chính quyền dân chủ được dựng lên ở Rome kia để làm gì? Dân chúng đi bỏ phiếu để được chết đói à?
Turi Guiliano và Aspanu đi buôn chui với tấm lòng phơi phới. Chính Pisciotta đã có những mối chợ đen - mua cũng như bán, và chính hắn đã tổ chức cuộc buôn chui hôm nay. Hắn đã tiếp xúc với một nông dân ở Castellammare, mua một tảng phó-mát để “đẩy” ra chợ đen ở Montelepre. Nếu trót lọt thì tiền lời sẽ đủ để mua bốn cái chân giò lợn hun khói và một ký lạp xường. Bấy nhiêu đó cũng tạm đủ để làm một bữa tiệc linh đình cho buổi lễ đính hôn của chị hắn. Và làm như vậy thì cùng một lúc chúng vi phạm hai đạo luật: một, cấm chợ đen, chợ đỏ, hai, cấm buôn lậu từ nơi này sang nơi khác. Không đủ nhân viên nhà nước để thực thi hữu hiệu đạo luật cấm chợ đen chợ đỏ. Nhưng buôn lậu thì lại là chuyện khác. Nhân viên nhà nước có quyền tống giam bất cứ người nào ở Sicily. Những toán cảnh sát dã chiến, cảnh vệ lang thang tuần tiễu khắp hang cùng ngõ hẻm, thị xã cũng như vùng quê. Chúng tung chỉ điểm viên, mật thám và đặt các chốt kiểm soát cố định và lưu động. Tất nhiên bọn này đâu có dám động đến các đoàn xe chở hàng lậu của Ông Trùm Croce Malo. Lão dùng xe tải của quân đội Mỹ có quân cảnh hộ tống. Nhưng cảnh vệ giăng lưới bắt được khá nhiều những tay buôn chui “tép riu”. Bọn cảnh vệ rất nhiệt tình sục sạo, ngày cũng như đêm, vì những hàng lậu bắt được chúng được xài, nếu xài không hết, chính chúng lại tung ra chợ đen.
Turi Guiliano và Gaspare Pisciotta phải mất bốn tiếng đồng hồ mới đi đến chỗ mua hàng. Hai đứa mua được một bánh pho-mát trắng và mấy thứ lặt vặt khác chất lên lưng con lừa. Chúng lấy cỏ khô phủ lên đặng nguỵ trang để nếu bọn cớm có nhìn thấy thì tưởng chúng chở cỏ khô cho súc vật chứa trong kho đặt rải rác ở các làng. Chúng vừa có cái hớ hênh của một tụi mớivào nghề lại vừa có sự ngây ngô của bọn trẻ - thật đúng là con nít - chôm đồ của chính bố mẹ chúng. Làm như thế chỉ nguyên cái ý định đánh lừa là đủ. Có vẻ lại chắc ăn hơn nữa, vì chúng tìm ra con đường mòn kín đáo khuất nẻo, len lỏi qua khe núi.
Trên đường về, Pisciotta đi trước dò đường, hễ thấy bóng bọn cảnh vệ thì báo cho Turi dắt lừa chở hàng đi xa xa đằng sau. Chúng đặt ra những qui ước huýt gió làm mật hiệu đàng hoàng. Con lừa chở hàng cũng đi dễ dàng vì món hàng trên lưng nhẹ bỗng, nó cũng tỏ ra ngoan ngoãn vì trước khi lên đường trở về, nó đã được cho ăn uống đầy đủ. Chúng đi được hai giờ đồng hồ, ngon lành, an toàn! Chúng chầm chậm xuống núi và phía trước không có dấu hiệu gì nguy hiểm. Thế rồi bỗng phía sau, cũng trên con đường đó và đi về phía hắn, Turi Guiliano thấy một đoàn sáu con la và một người cưỡi ngựa ở cách hắn khoảng ba dặm. Hắn nghĩ bụng: nếu bọn buôn chui khác cũng biết con đường mòn này, thì thể nào bọn cảnh vệ xũng biết và sẽ đặt chốt chặn. Cẩn thận, hắn cho Piscotta đi trước thật xa để thám thính.
Một giờ sau hắn bắt kịp Aspanu Pisciotta đang ngồi trên một tảng đá và ho rũ tượi. Aspanu nom xanh mét. Lẽ ra y không được hút thuốc nữa mới phải. Turi lại gần, ngồi xuống nghỉ chân bên cạnh Aspanu. Một trong những cam kết chặt chẽ nhất giữa chúng với nhau ngay từ lúc còn nhỏ là không có đứa nào chỉ huy đứa nào. Bởi vậy, dù muốn Aspanu đừng hút thuốc nữa, Guiliano vẫn không nói gì. Sau cũng, Aspanu giụi tắt điếu thuốc và cất mẩu thuốc đang hút dở vào túi. Chúng lại bắt đầu đi. Turi dắt con lừa. Pisciotta đi bên cạnh.
Chúng đang đi theo một đường mòn trên núi cắt ngang qua một con lộ lớn và một thôn ấp nhỏ. Con đường quanh co. Do đó chúng thấy khi ẩn, khi hiện cái giếng nước của người Hy Lạp cổ có nước chảy tuôn ra từ cái miệng nhăn nhúm của bức tượng, hoặc phế tích một pháo đài cổ của người phương Bắc xây từ bao thế kỷ trước để chặn đường quân xâm lược. Nhìn những phế tích đó, Turi nhớ tới quá khứ của Sicily và nghĩ tới tương lai của mình. Hắn nhớ tới việc ông bố đỡ đầu - giáo sư Hector Adonis - hứa sau lễ Kính Thánh Bổn Mạng sẽ về Montelepre để chuẩn bị cho hắn vào đại học. Nghĩ tới ông, Turi cảm thấy buồn. Không bao giờ giáo sư Adonis về Montelepre dự lễ Kính Thánh Bổn Mạng vì ngày đó, nhiều thằng say rượu cứ nhè cái vóc dáng thấp bé của ông mà châm chọc, chế nhạo. Con nít - có nhiều đứa còn cao lớn hơn ông - cũng giễu cợt, làm nhục ông. Turi tự hỏi làm sao mà Chúa oái oăm, đã cho ông một cái đầu óc thông minh, sáng láng như vậy, thì còn tiếc gì một vài tấc xương, thịt mà không cho ông đủ, để đến nỗi thân xác của ông còi cọc, thấp bé như vậy? Đối với Turi thì ông Hector Adonis là một người thông thái nhất thế giới. Và hắn thương ông vì ông đã tỏ ra tử tế, ân cần chăm lo cho hắn và gia đình hắn.
Hắn nghĩ tới ông bố hắn phải làm việc cực nhọc vất vả như một con lừa trên một mảnh đất nhỏ xíu mà lại cằn cỗi, tới các chị hắn tới tuổi cập kê rồi mà quần áo tả tơi. May mà Mariannina xinh đẹp nên dù nghèo kiết xác và không có thì giờ để chải chuốt, làm dáng mà vẫn kiếm được tấm chồng. Nhưng, buồn khổ nhất vẫn là lúc hắn nghĩ đến mẹ hắn. Ngay từ lúc còn nhỏ, hắn đã nhận thức được nỗi chua chát và sự bất hạnh của bà. Bà đã được nếm trải cái ngọt bùi lúc còn ở bên Mỹ, và nay thì phải chịu cảnh nghèo khổ ở cái xứ Sicily khổn khổ này. Mỗi khi nghe ông bố hắn nhắc lại cái ngày xưa huy hoàng thì mẹ hắn lại rấm rứt khóc. Nhưng, Turi suy nghĩ, hắn có thể xoay chuyển được số phận của gia đình hắn. Hắn sẽ làm việc cật lực, học hành “chết bỏ”, để trở nên một nhân vật tài ba không thua gì ông bố đỡ đầu của hắn.
Bỗng chốc, chúng đi qua một đám cây - một khoảng rừng nhỏ - một trong số rất ít đám cây còn lại ở Sicily và dường như chỉ mọc trên những núi đá vôi và thạch cao. Qua bên kia sườn núi, chúng sẽ bắt đầu đổ dốc đi xuống Montelepre và phải cẩn thận cảnh giác vì những toán tuần tiễu của bọn cảnh vệ ăn cướp. Và, chúng đã đi bình an đến chỗ ngã tư. Lòng khấp khởi mừng vì sắp về tới đích an toàn, nhưng cũng vẫn phải cảnh giác. Guiliano kéo con lừa và ra hiệu cho Aspanu ngừng lại. Chúng lặng lẽ, nghe ngóng. Không nghe thấy tiếng động gì lạ. Chỉ có tiếng côn trùng rù rì trên mặt đất, tiếng đập cánh vo vo và soàn soạt như tiếng cưa gỗ xa xa. Chúng tiến lên, vượt qua ngã tư và lại khuất an toàn trong lùm cây của một cụm rừng khác. Turi lại nối tiếp lại giấc mộng tưởng tượng của mình.
Rừng cây đã thưa hẳn đi như thể nó bị đẩy lùi lại, vì chúng bắt đầu đi vào cụm rừng thưa chỉ có những bụi tre lơ thơ và những đám cỏ lèo tèo, xơ xác mọc trên nền đá vụn. Phía xa xa, mặt trời đã ngả bóng nom nhợt nhạt, lạnh lẽo và treo lơ lửng phía trên đỉnh núi. Qua khỏi khoảnh rừng thưa này, con đường mòn sẽ ngoằn nghèo đổ dốc đi xuống thung lũng Montelepre. Thình lình, Turi Guiliano tỉnh giấc mơ. Một tia sáng loé lên như người ta quẹt một que diêm. Tia sáng loé lên, rồi vụt tắt, nhưng cũng đủ đập vào mắt hắn. Hắn thình lình giật mạnh để con lừa ngừng lại và giơ cao tay ra hiệu cho Aspanu.
Chỉ cách đó khoảng ba chục mét, mấy người lạ bước ra khỏi bụi rậm. Bọn đó gồm ba tên. Và Turi nhìn thấy cái mũ đen cứng nhắc có viền trắng và bộ đồng phục màu đen. Hắn cảm thấy thất vọng và mắc cỡ muốn phát bệnh luôn. Thế là hắn bị cớm “vồ” rồi. Hai trong số ba tên cớm đó mặt non choẹt, búng ra sữa. Và hồng hào mũm mĩm. Cái mũ nhà binh lật ngược ra phía sau, để lộ gần hết mái tóc. Cớm oắt coi bộ sốt sắng đến độ khoái chí, khi chĩa khẩu súng lục vào Guiliano và Pisciotta. Tên cớm đứng giữa tuổi đã trung niên, tay lăm lăm khẩu tiểu liên, cái mũ kéo sụp xuống che gần kín cái mặt rỗ huê có vẻ hơi hoảng hốt hay ngỡ ngàng như một kẻ lượm được món tiền giữa đường. Phía ống tay áo gần chỗ cầu vai có phù hiệu và cái lon trung sĩ. ánh sáng loé lên mà Guiliano thấy ban nãy chỉ là ánh mặt trời phản chiếu trên các băng đạn của hắn.
- Thầy đội. - Trung sĩ mỉm cười vừa có vẻ nham hiểm vừa có vẻ chế giễu, khẩu tiểu liên chĩa thẳng vào Guiliano và Pisciotta. Nụ cười mỉm cười lặng lẽ và nham hiểu của gã đã biến nỗi thất vọng của Guiliano thành nỗi tức giận.
Vẫn khẩu tiểu liên chĩa thẳng vào hai đứa, thầy đội cớm bước lại gần Guiliano, hai cớm oắt hai bên. Bây giờ Guiliano đã hết choáng. Đối với Guiliano thì hai tên cớm oắt với hai khẩu súng lục không có gì đáng sợ lắm. Chúng xớn xơ xớn xác bước lại gần con lừa và chẳng mấy quan tâm đến hai “thằng tù” của chúng. Chẳng nói chẳng rằng, chúng lấy mũi súng ra hiệu cho Guiliano và Aspanu đứng cách xa con lừa. Một trong hai cớm oắt nhét khẩu súng vào bao đeo tòn teng trên thắt lưng, bước đến khui bó cỏ khô nguỵ trang trên lưng con lừa. Khi thấy “hàng” nó khoái chí huýt gió lên một tiếng, không để ý Pisciotta đang len lén lại gần nó. Nhưng thầy đội đã thấy và la lên :
- Cái thằng có râu mép kia, đứng ra xa!
Aspanu lùi lại gần Turi. Tên đội cớm tiến lại gần chúng thêm một chút nữa. Guiliano nhìn gã như dò xét và ước lượng khoảng cách. Cái mặt rỗ huê của gã coi bộ mệt mỏi, nhưng đôi mắt gã long lên sòng sọc khi gã nói :
- Rồi, mấy anh bạn trẻ, bánh phó-mát trắng ngon lành quá héng? Để tụi này đem về trại xài với mì ống thì ngon tuyệt. Cứ nói tên thằng “nhà quê” nào đã bán cho tụi bay là tao sẽ cho tụi bay dắt lừa về, khỏi làm khó dễ, lôi thôi gì!
Guiliano và Pisciotta nín thinh, và thầy đội cũng nín thinh. Chờ. Hai đứa vẫn chẳng nói chẳng rằng. Sau cùng, Turi rụt rè khẽ nói :
- Ông để cho tụi tôi đi, tụi tôi biếu ông một ngàn lire xài chơi.
Thầy đội cười khẩy, rồi nói :
- Tao đâu cần giấy chùi đít, mày? Đâu, giấy tờ đâu, đưa coi? Nếu giấy tờ tụi bay không hợp lệ, thì tao sẽ cho tụi bay té *** luôn. Rồi tao lấy giấy tờ đó mà chùi.
Câu nói đểu cáng, mất dạy kèm theo cử chỉ xấc xược phách lối của mấy tên cớm đã làm cơn giận ngầm của Turi bốc lên. Lúc đó, hắn biết là hắn không được phép để cho mình bị bắt, đồng thời cũng không được phép để cho bọn chó đẻ này cướp cơm của gia đình mình.
Turi chìa căn cước và tiến lại gần thầy đội. Hắn tự biết là hiếm có ai cử động linh hoạt và lẹ làng bằng hắn. Và hắn tính liều. Nhưng họng súng ra lệnh cho hắn lùi. Thầy đội nói :
- Mày cứ ném căn cước xuống đất.
Guiliano làm theo.
Pisciotta đứng phía trái cách Guiliano khoảng năm mét. Y biết thằng bạn đang toan tính gì trong đầu và biết rằng bạn giắt khẩu súng lục ở thắt lưng, nên y tìm cách đánh lạc hướng sự chú ý của tên đội cớm. Tay luồn sau lưng, nắm lấy cán dao cài ở đó, Pisciotta tiến lên, miệng nói giọng cố ý châm chọc, xấc láo :
- Ê, sếp, nãy sếp bảo tụi này cứ nói tên thằng “nhà quê” đã bán phó-mát thì sếp thả, cho dắt lừa về. Vậy thì mắc mớ đếch gì mà lại đòi coi giấy tờ. Sao lại ăn đằng sóng, nói đằng gió vậy, sếp?
Ngưng một lúc rồi hắn lại nói móc họng tiếp :
- Ai mà chả biết bọn cớm nhà các anh lúc nào cũng giữ lời.
Nói tiếng cớm, y phun nước miếng cái “tẹc” một cái.
Không nổi đoá, sếp cớm thủng thỉnh bước về phía y vài bước, rồi ngừng lại mỉm cười chĩa súng vào y, nói :
- Còn mày, thằng điếm đực, căn cước đâu? Hay là mày cũng như con lừa này, đếch có giấy tờ? À, ít ai có bộ ria mép đẹp như của mày, lơ thơ ba sợi như lông chó ghẻ.
Hai cớm oắt cười hô hố. Mắt Pisciotta toé lửa. Y bước lại gần đội cớm, nói :
- Ồ, tôi đếch có giấy tờ gì hết, mà tôi cũng đếch biết thằng “nhà quê” nào cả. Tôi lượm được bánh phó-mát ai đánh rớt giữa đường, vậy thôi.
Nhưng, câu nói chọc tức đã làm hỏng ý đồ của y. Y muốn thầy đội bước lại gần trong tầm tay. Nhưng thầy đội lại lùi mấy bước, cười khẩy và nói :
- Chắc là mày chưa được nếm món bastinado [1] bao giờ phải không? Cho mày hay, nhiều thằng Sicily yêng hùng còn hơn mày nhiều mà cũng nuốt không vô cái món này. Tuy nhiên món bastinado này sẽ chữa cho mày khỏi cái bệnh ăn nói xấc xược, hỗn láo kiểu Sicilian tụi bay.
Gã ngưng một chút, rồi hét lên :
- Cả hai thằng nằm úp mặt xuống đất!
Guiliano biết nhiều người dân ở Montelepre đã bị tra tấn bằng đòn bastinado trong trai giam Bellampo Barracks. Trở về nhà, những người này bị gãy đầu gối, đầu bị sưng phình ra to bằng trái dưa hấu, nội tạng bị chấn thương, khiến cho họ từ đó đến chết không có thể đi đứng, làm ăn gì được. Nó biết mấy anh cớm chỉ lùi chứ không dám chơi đòn này với chúng nó, vì buôn chui cò con không phải là một tội chính trị mưu phản. Guiliano khuỵ gối, tay trái chống xuống đất giả bộ nằm xuống, tay phải luồn vào thắt lưng đặng rút khẩu súng lục nó giấu dưới áo.
Lúc đó, khoảng rừng thưa chơi vơi trong ánh sáng lờ mờ của bình minh vừa chớm. Mặt trời còn chìm sâu dưới rặng cây và dãy núi phía xa xa. Hắn thấy Pisciotta vẫn còn đứng sững, hiên ngang, không tuân lệnh đội cớm nằm sấp xuống. Chắc chắn bọn kia không dám xả súng bắn chúng chỉ vì buôn lậu một bánh nhỏ phó-mát. Hắn trong thấy khẩu súng lục rung rung trong tay chú cớm oắt.
Đúng lúc đó có những tiếng la kêu be be và tiếng vó ngựa kêu lộp cộp vang lên từ phía sau khoảng rừng thưa. Tiếp đó là đoàn la và tên cưỡi ngựa mà hắn thấy đi phía sau hắn lúc chiều tối. Tên cưỡi ngựa dẫn đoàn la vai đeo khẩu súng lủng lẳng. Chiếc áo khoác bằng da trùm bên ngoài làm cho người gã phình ra. Gã nhảy xuống ngựa, rút từ trong túi ra một cọc tiền và nói với thầy đội.
- Lần này ông chỉ hốt được một ít cá sộp.
Rõ ràng là bọn này đã từng “ăn chịu” với nhau nhiều lần rồi. Từ lúc đầu đến giờ, đây là lần đầu tiên, đội cớm mắc bận nhận tiền nên đã lơ là, không cảnh giác đối với chúng nó. Hai thằng tù coi bộ bị bỏ quên. Turi len lén lại gần chỗ tên cớm oắt đứng gần nhất. Pisciotta len lén lại gần bụi tre gần nhất. Bọn kia hớ hênh không để ý. Guiliano xô mạnh tên cớm oắt đứng gần hắn khiến cho tên này té lăn ù. Hắn hét to cho Pisciotta: “Vọt!” Tên cớm oắt không bị té thì quá bất ngờ, đứng ngây ra không kịp đưa khẩu súng lục lên. Lúc lao vào chỗ nấp trong rừng, Guiliano bỗng thấy một thoáng hân hoan nhẹ nhõm, thơ thới. Hắn nhẩy cẫng lân, lao vào giữa hai cây có thể che đạn cho hắn, khẩu súng lục suýt bị rớt. Thầy đội buông bó tiền rớt xuống đất, chĩa khẩu súng tiểu liên về phía hắn, lạnh lùng ria một tràng. Gã không phải là một tay súng tồi.
Guiliano nghe tiếng nổ, đồng thời cảm thấy đau nhói như thể bị đập một gậy thiệt mạnh. Hắn lăn ra đất chỗ có hai cái cây và gượng đứng, nhưng không được. Cẳng hắn tê dại đi và không cử động được nữa. Khẩu súng lục trong tay, hắn nhằm vào thầy đội đang quơ quơ khẩu tiểu liên lên trời, dáng điệu bất đắc chí. Guiliano cảm thấy quần hắn ướt ướt, ẩm ẩm, dính dính.
Trong khoảnh khắc chưa tới một giây đồng hồ trước khi lảy cò, Turi chỉ cảm thấy ngạc nhiên. Vậy là bọn kia đã bắn hắn chỉ vì một cái bánh phó-mát nhỏ. Vậy là bọn kia đã đánh sụm cả gia đình nó một cách thản nhiên như giỡn chơi, nhưng tàn bạo như vậy chỉ vì hắn đã bỏ chạy khi bị bắt quả tang vì phạm sơ sơ đạo luật mà mọi người đều vi phạm. Mạng nó rẻ đến thế sao? Mẹ hắn chắc sẽ khóc cho đến mãn đời. Lúc này thân thể hắn máu me đầm đìa. Hắn chưa từng làm điều gì hại ai.
Hắn lẩy cò và nhìn thấy khẩu tiểu liên trong tay thầy đội rớt xuống đất, cái mũ viền trắng trên đầu bị hất tung lên trong không khí, trong khi thân thể gã với cái đầu nát bấy té lăn xuống đất, tay chân quờ quào trên mặt đất như thể đang bơi. Một phát súng lục không thể đạt kết quả đó. Nhưng, đối với Turi Guiliano dường như chính tay của hắn đã bay theo viên đạn và “bủa” vào đầu gã nên đầu gã mới bấy bá ra như vậy. Tiếng súng lục nổ đì đẹt nhưng đạn bay bổng, vô hại. Rồi im lặng! Ngay cả côn trùng cũng im tiếng rù rì.
Guiliano lăn vào bụi cây. Nhìn thấy mặt kẻ thù bê bết máu, hắn hy vọng. Hắn đã chứng tỏ được hắn đâu phải là thằng “gà chết” bất lực. Hắn gượng đứng dậy, nhưng lúc này chiếc cẳng không còn theo lệnh điều khiển của óc hắn nữa. Hắn bắt đầu chạy, nhưng chỉ một cẳng đưa về phía trước, còn cẳng kia cứ lết trên mặt đất khiến hắn ngạc nhiên. Hắn cảm thấy ấm ấm, dính dính ở háng, quần ướt đầm, mắt mờ đi. Khi chạy qua một chỗ quang đãng, hắn sợ là lại chạy ra chỗ rừng thưa trống trải, bởi vậy hắn quay trở lại. Hắn cảm thấy thân thể như bắt đầu rớt không phải là xuống mặt đất, mà là xuống khoảng không thăm thẳm không có đáy, màu đỏ đậm pha lẫn màu đen và rớt, rớt xuống hoài.
Chỗ khoảng rừng thưa, chú oắt con rời tay khỏi cò súng. Và tiếng đì đẹt ngưng hẳn. Thấy súng nổ, tên buôn lậu sợ cớm oắt lóng ngóng, có thể lạc đạn trúng gã nên hắn nằm mọp xuống đất. Thấy ngưng bắn, gã nhỏm dậy, lượm cọc tiền, đưa cho hai tên cớm oắt. Nhưng hai tên cớm oắt ấy chĩa mũi súng vào hắn và nói: “Anh bị bắt!”. Tên buôn lậu nói: “Bây giờ chỉ còn hai chú, vậy hai chú cứ cưa đôi và để tôi đi”.
Cớm oắt nhìn xác thầy đội nằm thẳng cẳng trên mặt đất. Chắc chắn là gã đã tịch rồi. Viên đạn xuyên qua tròng mắt, trổ lên đầu, bể sọ và óc bắn tung toé. Tên buôn lậu nói giọng bợ đỡ :
- Để tôi chạy đuổi theo nó. Nếu nó không chết thì cũng bị thương nặng rồi. Để tôi lôi xác nó lại đây và hai chú sẽ là anh hùng. Rồi, để tôi đi!
Một trong hai cớm oắt lượm tấm căn cước Turi liệng xuống đất theo lệnh của thầy đội lúc nãy, lớn tiếng đọc Salvatore Guiliano, thị trấn Montelepre, rồi bỏ vào túi.
- Không cần chú ý vào nó nữa. - Cớm oắt nói - Mình sẽ báo cáo lại sau, cái đó quan trọng hơn.
Tên buôn lậu buột miệng bực tức nói: “Đồ thỏ đế”. Gã chợt định tháo khẩu súng đeo trên vai ra. Nhưng gã thấy hai cớm oắt nhìn gã trừng trừng. Gã vừa nhục mạ chúng. Vì vậy, chúng bắt gã đỡ xác thầy đội lên lưng ngựa và đi theo chúng về trại. Để ngừa hậu họa, chúng tước khẩu súng của gã. Chúng rất nhát, vì thế tên buôn lậu mong chúng đừng bắn sảng, lỡ đạn trúng gã. Ngoài ra gã chẳng liên can gì đến cái chết của đội cớm. Gã cũng rất quen biết Maressciallo Rocofino ở Montelepre. Trước đây, họ đã từng làm ăn với nhau và sau này sẽ còn dài dài.
Trong suốt thời gian đó, cả ba chẳng ai nghĩ tới Aspanu. Nhưng y đã nghe thấy tất cả những câu chúng trao đổi với nhau. Y nằm im re, ép sát dưới hố cỏ mọc um tùm, con dao đã rút ra khỏi bao. Y đợi bọn kia chia nhau săn tìm Turi, và y đã phác họa một kế hoạch phục kích một trong ba tên, cắt họng nó rồi tước súng. Tâm địa độc ác đã át cả nỗi sợ hãi, đến nỗi y chẳng biết sợ chết là gì nữa. Khi nghe thấy tên buôn lậu đề nghị để hắn đi lôi xác Turi về, y cố ghi sâu vào trí não, để không thể quên được bản mặt thằng khốn nạn đó. Y lấy làm tiếc vì bọn kia đã bỏ đi, để y ở lại.
Y cảm thấy đau nhói khi bọn kia cột con lừa của y vào bầy la và dắt đi.
Nhưng y biết Turi bị thương nặng và cần sự giúp đỡ của y. Y đi vòng khoảng rừng thưa và chạy đến chỗ đám cây mà ông anh họ đã nhảy vào lúc nãy. Không thấy xác Turi nằm đó. Y chạy trở lại con đường mòn chúng đã đi trước đấy. Cũng không thấy dấu tích gì. Y trèo lên mỏm đá cao nhô ra ngoài một chỗ trũng. Dưới đáy chỗ trũng có một vũng máu đọng và phía bên kia có những giọt máu chảy thành hàng còn tươi. Chạy theo vết máu đó, thình lình y thấy Turi nằm vắt ngang đường mòn, bất tỉnh nhân sự, tay vẫn còn nắm khẩu súng lục.
Y quỳ xuống, lượm khẩu súng cài vào thắt lưng. Lúc đó Turi mở mắt ra, đôi mắt còn hừng hực căm hờn, nhưng tránh không nhìn y. Y sụt sịt khóc và ráng nhấc không nổi. “Turi, Turi, ráng đứng dậy, tao sẽ đỡ cho!” Aspanu Pisciota nói. Turi tay chống đất, ráng nhấc thân thể của mình lên. Aspanu choàng tay mặt qua thắt lưng Turi và cảm thấy tay ấm ấm và ướt đẫm. Y rụt tay lại và lật áo sơ-mi của Turi lên. Y kinh hoàng thấy một vết thương hoác miệng chỗ mạng sườn Turi. Y đặt Turi dựa vào gốc cây, xé toạc áo của hắn nhét vào vết thương để cầm máu và cột hai tay áo vào thắt lưng Turi. Tay phải ôm ngang lưng Turi, tay trái nắm tay tay trái Turi vắt ngang vai y và cứ thế cẩn thận kè Turi loạng choạng bước theo đường mòn đi xuống. Đứng ở xa nom như ai đứa đang vừa đi vừa khiêu vũ.
Và, thế là Turi hụt mất hai ngày lễ Kính Thánh Bổn Mạng - Thánh Rosalie - mà nhân dân thị xã Montelepre cầu mong Thánh sẽ làm phép mầu cho thị xã.
Hắn cũng hụt mất cuộc thi đi săn mà chắc chắn hắn sẽ thắng. Hắn cũng hụt mất cuộc đua ngựa, không được xem đốt pháo bông, không được nếm miếng bánh ngon ngọt mà các chị hắn đã làm, cũng không được dự bữa tiệc đính hôn của chị hắn.
Cuộc “thả nọc” giữa con lừa và con la đã không có kết quả. Dân trong thị trấn thất vọng. Nhưng họ đâu biết rằng cũng chính ngày lễ Kính Thánh Bổn Mạng năm sau đã có một phép lạ bằng xương bằng thịt của chàng thanh niên năm trước đã nhấc bổng con lừa lên cho nó “thả nọc” vào con la.
[1] Nguyên văn viết bằng tiếng Ý, bastinado là đòn tra tấn đánh vào gót và gan bàn chân làm cho người bị đòn lúc đó đau thốn, buốt đến tận óc, sau đó bị gãy đầu gối, sưng đầu, chấn thương nội tạng.