Thưa độc giả đáng kính, đây là câu chuyện chiếc bình thiêng có tên là Graal trong đó đã chứa những giọt máu quý giá của Đấng Cứu Thế vào ngày Chúa tử nạn trên cây thánh giá để cứu vãn những nỗi khổ của loài người.
Một thiên thần đã đọc cho Joséphé viết nên câu chuyện này. Đến lượt tôi, tôi lại kể các bạn nghe để các bạn biết sự thật về những hiệp sĩ và những con người thần thánh qua các cuộc phiêu lưu kỳ lạ đầy nguy hiểm của mình đã làm thế nào để cuối cùng chinh phục được chiếc bình Graal.
Vào thời kỳ Chúa tử nạn trên cây thánh giá, ở Jérusalem có một người tốt bụng và chính trực tên là Joséphé d’ Arimathie, ông đã đi theo Chúa trên tất cả các chặng đường đau khổ của Người.
Nghe nói chính Joséphé đã hứng những giọt máu chảy ra từ những vết thương của Chúa vào trong chiếc bình Graal, chiếc bình thiêng này được giữ và lưu truyền trong gia đình Joséphé từ đời cha sang đời con trong thời gian rất dài.
Rồi một hôm, chiếc bình Graal, sau khi đã chu du qua nhiều đại dương, được mang tới nước Anh do một người cháu họ lâu đời của Joséphé, mà người ta chỉ biết dưới tên gọi "Vua Câu Cá".
Vị vua này không trị vì như các vị vua khác trên trái đất mà cho xây tại một nơi bí mật một lâu đài rộng mênh mông xứng đáng lưu giữ chiếc bình thiêng, sau đó giam mình trong lâu đài để cầu nguyện.
ít lâu sau một vị vua mới lên ngai vàng vương quốc Anh, tức là vua Arthur.
Mười năm đầu dưới thời vua Arthur trị vì là những năm thịnh vượng chưa từng thấy của vương quốc. Nhà vua vừa mạnh mẽ hiệu quả lại vừa khôn ngoan, triều đình của ngài là triều đình cực kỳ hùng cường. Phải nói rằng theo lời khuyên của thuật sĩ Merlin, vua Arthur đã chiêu dụ được các hiệp sĩ chọn lựa nhất, có tới ba trăm bảy mươi hiệp sĩ quây quần quanh ngài.
Các hiệp sĩ này thường lui tới triều đình để tiệc tùng và kể lại các cuộc phiêu lưu kỳ thú nhất của mình trong những ngày tung hoành ngang.dọc khắp vương quốc. Họ ngồi quanh một chiếc bàn vô cùng lớn, một chiếc bàn tròn để vị thế ai cũng như ai, tránh sự cãi cọ tranh giành nhau chỗ ngồi.
Đây lại thêm một ý nghĩ khôn khéo của Mer-lin.
Chính vì lý do đó mà các hiệp sĩ có vinh dự ngồi ở đây được mệnh danh là "Hiệp sĩ của Chiếc Bàn Tròn".
Nhà vua thì đức độ và công minh, các hiệp sĩ của ngài thì vua ra sao quần thần thế ấy, vương quốc ngày càng có uy thế. Nhưng đến năm thứ mười của triều đại bỗng xảy ra một sự kiện khủng khiếp.
Một hôm, nhà vua tỉnh dậy thấy mình buồn vô hạn. Tất cả những đức tính làm cho Ngài nổi tiếng biến mất hết. Ngài không muốn thiết triều, bỏ bễ mọi công việc của vương quốc, suốt ngày lang thang trong các hành lang của cung điện như một tâm hồn đau khổ.
Các bác sĩ, các thuật sĩ sáng suốt nhất đều ra mắt triều đình mong chữa khỏi chứng u uất cho quân vương mình. Nhưng không kết quả:
chứng sầu muộn của nhà vua vẫn hoàn toàn bí ẩn.
Vua thế nào triều đình thế ấy. Việc thiện hiếm có dịp thực hiện do đó các hiệp sĩ Bàn Tròn dần dần bỏ triều đình phân tán đi mọi nơi mong tìm những cuộc phiêu lưu kỳ diệu mà cũng ngày càng trở nên hiếm hoi chứ không nhiều như trước. Chỉ còn lại hai mươi nhăm hiệp sĩ trung thành với triều đình mà thôi.
Người vợ dịu dàng của vua Arthur, hoàng hậu Guinevière, dĩ nhiên là người đầu tiên bị tình trạng này tác động. Nhưng cũng như mọi người, bà chịu không biết làm thế nào...
Một hôm, vua lại đi lang thang trong cung điện. Thấy hoàng hậu ngồi bên cửa sổ đầm đìa nước mắt, Ngài thở dài tiến lại gần bà.
- Hoàng hậu, Trẫm biết vì sao hoàng hậu buồn. Khổ thay, chính là vì Trẫm đó mà.
- Thưa Đức Vua, ngài nói đúng! Em đã biết một thời, cũng vào một ngày như ngày hôm nay, biết bao nhiêu hiệp sĩ chen chúc ở nơi đây, đông đến nỗi không đếm được. Thế mà ngày nay thật tủi, chẳng còn lại mấy người! Nói thực ra, em sợ rằng Thượng Đế đã quên mất Đức Vua rồi.
- Trẫm biết nói gì với nàng bây giờ, người vợ dịu hiền của Trẫm... Trẫm có cảm giác tất cả nghị lực của mình đều đã tiêu tan. Trẫm biết,.chính vì vậy mà Trẫm mất đi các hiệp sĩ, mất đi lòng thương mến của bạn bè. ôi, nếu như Trẫm biết được căn nguyên bệnh tật hiểm nghèo này!
Bỗng hoàng hậu Guinevière nảy ra một ý nghĩ:
- Thưa Đức Vua, hay là ngài tới ngôi nhà thờ nhỏ Saint-Augustin trong Khu Rừng Trắng?
Nghe nói người ta đến được đó chỉ nhờ may mắn run rủi bước chân. Nơi ấy rất nguy hiểm nhưng cũng đầy những điều kỳ diệu. Người ta còn nói cần gì được nấy miễn là chân thành. Biết đâu ngài sẽ tìm được ở đó lời giải cho những vấn đề của mình.
ý nghĩ này khiến nhà vua lấy lại được chút nghị lực. Đôi mắt ngài lấp lánh một thứ ánh sáng mà lâu nay không ai nhìn thấy:
- Quả vậy, Trẫm phải đi tìm ngôi nhà thờ nhỏ ấy mới được! Khó khăn mấy cũng không nguy hiểm bằng cứ ngồi đây với nỗi nguy hiểm rình rập Trẫm để Trẫm chết đi còn bị nguyền rủa và bị mọi người xa lánh.
Nhà vua vội tới căn phòng nơi tụ tập các bộ hạ thân cận của mình sai đem vũ khí tới ngay và thắng cho Ngài con ngựa tốt nhất.
Kẻ hầu người hạ quá sung sướng thấy chủ mình lại có đôi chút nghị lực, vội vàng vâng lời và chỉ một lát sau vua Arthur đã rời lâu đài lên đường đi tới Rừng Trắng.
Ngài cưỡi ngựa suốt đêm và một phần của ngày hôm sau nên thấy thấm mệt khi tới một khu rừng thưa xinh xắn, lối vào được ngăn bởi một hàng rào.
Nhà vua sắp sửa bước vào thì nhìn thấy dưới bóng một cây to có một cô gái tay dắt dây cương buộc con la.
- Cô gái, - Ngài nói, - cầu Trời mang lại cho cô niềm vui và hạnh phúc! Cô làm ơn cho biết có ai ở trong khu rừng thưa này không?
- Thưa ngài, đó là nơi ở của một tu sĩ và bên cạnh có một nhà thờ nhỏ.
- Có phải nhà thờ vị thánh đáng kính Augustin không? - Nhà vua hỏi.
- Đúng như vậy, xin khẳng định với ngài là như vậy nhưng cũng xin báo trước với ngài khu rừng thưa này đầy nguy hiểm, chưa hiệp sĩ nào an toàn qua được hàng rào trước mặt ngài.
- Thưa cô, - vua Arthur trả lời, - điều đó đối với tôi chẳng quan trọng gì bởi vì tôi sắp.bước qua bây giờ đây. Trời mà muốn thì chẳng mấy chốc cô sẽ lại gặp tôi.
Nhà vua thúc con ngựa nhảy phắt qua hàng rào và tiến về phía ngôi nhà thờ nhỏ, nơi có tiếng hát cất lên. Ngài xuống ngựa định bước vào nhưng một sức mạnh kỳ lạ giữ chân ngài lại.
Vua Arthur hổ thẹn hiểu rằng nếu như mình muốn biết ai đang hát trong nhà thờ này thì chỉ có cách nhìn qua cửa sổ như một tên kẻ cắp.
Nhà vua đành làm vậy.
Dưới ánh sáng mờ của mấy ngọn nến, vị thầy tu ở ẩn đang hành lễ. Quỳ trước bàn thờ là một người đàn bà và đứa con, cả hai đẹp không gì trên thế giới này sánh nổi. Người mẹ mặc chiếc áo đơn giản màu xanh. Đứa trẻ khoác chiếc áo măng-tô tím, trên đầu đội một vòng miện bằng thứ vàng nguyên chất tinh khiết nhất.
Bỗng nhiên một luồng ánh sáng chói lọi rực chiếu trong nhà thờ làm nhà vua nhắm mắt lại.
Mở mắt ra ngài thấy vị tu sĩ quỳ trước mặt đứa trẻ, hai bàn tay và hai bàn chân đứa trẻ nhỏ máu, chiếc vòng miện bằng vàng biến thành một chiếc vòng gai.
Nhà vua hiểu ngay trước mặt mình là Đức Chúa Giê-su. Ngài vội quỳ sụp xuống áp mặt xuống đất.
Vài giây sau, cũng có thể là vài tiếng đồng hồ sau, nhà vua cảm thấy một bàn tay đặt lên vai mình. Bên cạnh ngài là vị tu sĩ ở ẩn...
- Thưa ngài, bây giờ ngài có thể vào trong nhà thờ được, lúc nãy ngài chưa đủ tư cách dự lễ thánh ấy. Sự hổ thẹn của ngài đã cứu ngài.
- Thưa tu sĩ đáng kính, - nhà vua nói, - sở dĩ tôi đến đây là vì muốn tu tỉnh, muốn được khuyên bảo và được giúp đỡ. Tôi nghe nói chẳng ai đến đây cầu nguyện mà không được giúp đỡ cả. Xin tu sĩ hãy cho tôi biết vì đâu tôi mắc căn bệnh hiểm nghèo này!
- ôi Đức Vua! - Vị tu sĩ nói sau một lát im lặng. - Sở dĩ những năm trị vì đầu tiên của ngài vinh quang rực rỡ là vì vua Câu Cá đến vương quốc ngài với chiếc bình thiêng Graal. Nay xảy ra một bất hạnh lớn. Một hôm, một hiệp sĩ của ngài trú chân trong lâu đài vua Câu Cá đã nhìn thấy chiếc bình Graal hiện ra cùng với mũi thương nhỏ máu..Tu sĩ im lặng thêm một lát rồi nói tiếp:
- Hiệp sĩ này tên là Perceval. Chính bản thân chàng ta cũng không biết mình là cháu đích thực của vua Câu Cá. Nhìn thấy bình Graal cùng mũi thương, chàng sững sờ cả người, không đưa ra một câu hỏi nào để biết bình Graal là cái gì và người ta sử dụng nó để làm gì. Ngay lập tức chiếc bình Graal cùng với mũi thương biến mất.
Vì lỗi của hiệp sĩ đó mà ngài bị chứng u sầu.
Các vương quốc của ngài đánh lẫn nhau, các hiệp sĩ của ngài chẳng còn cuộc phiêu lưu nào nữa cũng đâm ra chém giết lẫn nhau. Chính vì thế đưa đến bệnh tật của ngài.
Nhà vua ngẫm nghĩ về những lời nói trên và cuối cùng đặt câu hỏi mà ngài thiết tha nhất:
- Vậy thế bao giờ vương quốc tôi lấy lại được những thứ đã mất? Bản thân tôi làm được gì?
- Thưa ngài, - vị tu sĩ trả lời. - Việc đầu tiên là ngài hãy trở về lâu đài. Lòng ăn năn của ngài cũng đã làm được nhiều rồi. Sau đó ngài phải tìm ra một hiệp sĩ xứng đáng vào tòa lâu đài của vua Câu Cá và chiếm lại chiếc bình Graal. Xin tạm biệt Đức Vua.
- Tạm biệt tu sĩ, - vua Arthur nói, vẫn chìm lắng trong những suy nghĩ của mình.
Ngài bước nhanh về phía con ngựa và quay về nhà không chậm trễ. Nhưng mới đi được một đoạn ngắn ngài gặp ngay một kỵ sĩ cưỡi con ngựa đen phi tới chỗ ngài.
- Hiệp sĩ, chàng là ai vậy? - Vua Arthur hỏi, tay nắm chắc mũi thương.
- Tôi là người chỉ một lòng căm ghét ông.
- Chàng hiệp sĩ xa lạ trả lời.
Và chẳng nói gì thêm hắn ta lao vào nhà vua. Vua cũng nhào tới. Cú sốc mạnh đến nỗi chiếc khiên của nhà vua bị đâm vào vang to lên.
- Một trong hai chúng ta phải chết. - Hiệp sĩ đen vừa kêu vừa lao lên lần nữa.
Lần này mũi thương của nhà vua đâm trúng ngực hiệp sĩ đen khiến hắn ta lăn xuống chân ngựa. Vua yêu cầu đầu hàng nhưng hiệp sĩ đen không chịu. Bằng một nhát gươm, Arthur xẻ đôi lồng ngực hắn rồi chặt đứt đầu hắn.
Thấy hắn đã chết hẳn, nhà vua chuẩn bị rời khu rừng thưa, vừa lúc xuất hiện sau ngài cả một đội quân sẵn sàng đưa ngài đến chỗ chết. Ngài sững lại không biết làm gì thì bỗng trước mặt ngài xuất hiện cô gái lúc nãy ngài gặp ở trước khu rừng thưa..- Lạy Trời, thưa ngài, xin ngài đừng rời bãi chiến trường trước khi mang cho tôi cái đầu ngài vừa chặt của chàng hiệp sĩ!
Vua Arthur quay lại nhận thấy các kỵ sĩ đằng sau đang lao tới giết mình:
- Được thôi, thưa người đẹp, nhưng cô muốn tôi chết chắc khi đòi hỏi tôi một điều như vậy?
- Không đâu, ngài cứ đem lại cho tôi thứ mà tôi yêu cầu rồi tôi sẽ cho ngài biết tại sao tôi đòi hỏi ngài điều lạ lùng ấy!
Vua không hỏi thêm gì nữa, thúc ngựa tới chỗ thây hiệp sĩ đen. Nhưng trước mặt ngài đã có một hiệp sĩ tay cầm cây thương đầu có cắm thủ ấp của hiệp sĩ đen mà vua đã vì lý do...
- Xin cho lại tôi chiếc đầu ấy! - Arthur thốt ra. - Nó thuộc về tôi, tôi là người đã giết con người mang chiếc đầu ấy trong một cuộc chiến đấu công bằng.
- Vâng, dĩ nhiên tôi sẽ trao lại cho ông nếu ông cho tôi biết tên người đã giết hiệp sĩ đen.
- Tôi là Arthur, vua nước Anh. Đó, tôi đã nói ra tên tôi, giờ thì cho tôi xin chiếc đầu ấy.
Người kia không phản đối gì nữa. Arthur trở lại chỗ cô gái, đầu mũi thương của mình cắm chiếc đầu hiệp sĩ đen.
- Nào bây giờ thì cô cho biết tại sao cô muốn có chiếc đầu này.
Cô gái đưa hai tay lên ôm đầu:
- Thưa ngài, nhờ chiếc đầu bị chặt này mà tôi lấy lại được lâu đài của tôi vốn bị người ta chiếm mất. Nó cũng cho phép tôi nhận ra người hiệp sĩ sẽ trả lại tài sản cho tôi: chàng ta tên là Perceval.
- Perceval! Chưa hết một ngày mà tôi đã nghe cái tên đó hai lần. Tôi cảm thấy có một số điều phải chờ thời gian mới giải thích được.
Tuy nhiên nhà vua vội trở về để mặc sức suy nghĩ về những lời nhà tu sĩ ở ẩn kia đã nói. Ngài cảm thấy như có một dòng máu mới đang chảy trong huyết quản. Chắc hẳn cuộc phiêu lưu kỳ diệu nhất sắp sửa bắt đầu, người phải chiêu tập ngay các hiệp sĩ của mình lại.
- Thôi xin tạm biệt cô! Vậy là cô đã tìm được thứ cô muốn. Và cả tôi nữa, thực vậy, có lẽ tôi cũng như cô.
Và giật dây cương, quay ngựa, vua Arthur phóng thật nhanh về lâu đài mình..
Trong tất cả những gì người ta nhớ lại được về các hiệp sĩ, chưa bao giờ triều đình vua Ar-thur có một ngày chói lọi rực rỡ đến thế. Phải nói thêm ngày hôm nay là đêm trước của lễ Đức Chúa Hạ Trần, nhân dịp này cũng như mọi năm, nhà vua mời giới hiệp sĩ tinh túy nhất tới dự tiệc trong lâu đài hùng mạnh của mình là lâu đài Camelot.
Lễ hội này được mọi người vô cùng mong đợi, người ta cũng thì thầm với nhau trong khắp vương quốc là nhà vua đã tìm lại được niềm vui sống và quyền lực xứng đáng với cấp bậc mình.
Người ta cũng nói đó là nhờ những lời khuyên khôn ngoan của vị tu sĩ ở ẩn nơi nhà thờ Saint-Augustin đã có tác dụng tuyệt vời lên nhà vua.
Vào đêm trước lễ hội, các hiệp sĩ chọn lọc nhất vui mừng ngồi quanh chiếc Bàn Tròn. Có nhà thông thái Bohor, dũng sĩ Yvain con của vua Urien và nhiều hiệp sĩ khác nữa. Ai cũng sung sướng gặp những người đã lâu mình không nhìn thấy. Nhưng trước hết họ thầm hoan hỉ vì nhà vua đã lấy lại được tư thế oai nghiêm của mình.
Người ta cũng báo tin có mặt hiệp sĩ Gauvain cháu vua, hiệp sĩ Lancelot du Lac, người hùng dũng cảm nhất. Chỉ còn phải chờ một số người đến chậm sẽ đến vào ngày hôm sau dự lễ Đức Chúa Hạ Trần.
Làm gì thì làm, chẳng bằng chờ đợi bữa cơm ngon tuyệt...
Cơm sắp dọn ra thì một người hầu tới gần nhà vua:
- Thưa ngài có một cô gái tướng mạo rất kiêu kỳ xin được vinh dự gặp ngài.
- Được, - nhà vua trả lời, - đưa cô ấy vào đây.
- Thưa ngài, - người hầu nói tiếp, - tuy thế thần xin báo trước với ngài một sự kiện rất lạ.
Đó là mặc dầu cô ấy đẹp lắm, ăn mặc và trang sức rất sang trọng giàu có và có vẻ con nhà quý phái, nhưng cô ấy không có một sợi tóc trên đầu.
Nhưng ngài đã muốn, thần xin đưa cô ta vào ngay...
Dĩ nhiên ai nấy đều lấy làm lạ khi trông thấy con người này xuất hiện trong gian phòng lớn.nơi kê chiếc Bàn Tròn. Đúng như người hầu nói không thêm bớt: thật đẹp... thật lạ kỳ...
Đó là cô gái gây cho người ta một sự ngạc nhiên vô hạn khi xuất hiện, bởi vì cô cưỡi thẳng ngựa vào trong phòng, con ngựa có bộ yên cương bằng vàng chạm những viên đá quý của châu á.
Cô gái cũng chẳng thua kém gì con ngựa:
quần áo cô mặc bằng loại lụa hiếm nhất, một vòng miện rực rỡ đội trên đầu tuy nhiên không che mắt nổi các vị khách cái sọ trơ ra không một sợi tóc. Trên mình cô treo một chiếc khiên màu trắng bạc xen màu xanh da trời, ở giữa trang trí một chữ thập màu đỏ chót.
- Cô gái dễ thương, - nhà vua nói, - cô làm ơn xuống ngựa cho và xin cô cho biết ai cử cô đến đây và cô muốn gì.
- Thưa ngài, - con người kỳ lạ nói, - tôi xin trả lời ba câu hỏi của ngài. Tôi từ lâu đài Graal, do vua Câu Cá cử đến, để cho ngài biết là do lỗi một hiệp sĩ của ngài tên là Perceval mà xảy ra những nỗi bất hạnh.
Tiếng rì rào lan từ chỗ nọ sang chỗ kia...
chiếc bình Graal!
- Chàng hiệp sĩ này, - cô gái nói tiếp, - là khách của vua Câu Cá một thời gian, nhưng khi thấy chiếc bình thiêng xuất hiện, chàng không còn sức mà hỏi xem chiếc bình Graal là cái gì và dùng để làm gì. Từ đó đi đến bao nhiêu tai hại. Ngay bản thân tôi, như các vị thấy đấy, tôi mất sạch bộ tóc vàng tuyệt vời mà bấy lâu tôi vẫn hãnh diện vì nó.
Cả triều đình buồn lòng vì tin tức này. Nhất là nhà vua, ngài nhớ lại những lời nhà tu sĩ ở ẩn đã nói với mình.
- Còn việc đặt chân xuống đất theo lời các vị, tôi không thể nghĩ tới được. Tôi không thể làm được việc đó chừng nào chưa có một hiệp sĩ đến được lâu đài vua Câu Cá để đặt ra câu hỏi cần hỏi, nói cách khác, chừng nào có một hiệp sĩ xứng đáng chinh phục lại được chiếc bình thiêng Graal.
Đức ông Yvain đứng lên và hỏi cô gái một câu mà tất cả mọi người đều muốn biết:
- Làm sao chúng tôi biết được ai là người hiệp sĩ xứng đáng với trọng trách ấy? Có dấu hiệu nào chỉ ra chàng đúng là người ấy? Cô bảo cho chúng tôi biết!
Cô gái bèn gỡ tấm khiên khỏi thân mình đưa cho Yvain:
- Tôi xin để lại cho ngài tấm khiên màu bạc và màu xanh này để ngài treo lên cột trụ lớn.nhất trong gian phòng này. Chỉ người được chỉ định đi chinh phục chiếc bình Graal mới có thể lấy nó xuống được. Qua đó ngài biết là ai.
Nhà vua ra hiệu, đức ông Yvain đem cái khiên treo lên cột trụ to nhất.
Cô gái mở ngực chiếc áo thêu lấy ra một con chó bé xíu đưa cho Yvain và nói thêm:
- Ngoài tấm khiên, tôi giao cho ngài con chó con này. Khi hiệp sĩ xứng đáng với chiếc bình Graal đến đây nó sẽ tỏ ra mừng rỡ. Nhưng tôi đã nói nhiều quá rồi! Tôi phải trở lại chỗ vua Câu Cá. Xin chúc cho bước chân các hiệp sĩ cao quý đi theo được đúng hướng!
Nói đến đây cô gái kỳ lạ giật ngựa quay ngược lại và biến mất như trong một giấc mơ.
Cô gái trọc đầu ra khỏi lâu đài rất nhanh và phóng ngựa cũng rất nhanh suốt dọc đường qua rừng thẳm cho đến khi bắt gặp một kỵ sĩ võ trang đầy đủ ở một góc đường.
- Thưa cô, - chàng kỵ sĩ chào cô gái, - cầu Trời mang lại cho cô niềm vui và hạnh phúc.
Nhưng cô hãy nói cho tôi nghe: một cô gái như cô làm gì ở khu rừng đầy nguy hiểm trong giờ giấc khuya khoắt này?
- Thưa hiệp sĩ, - cô gái trả lời, - tôi vừa từ triều đình vua Arthur trở về.
- ủa! - Chàng hiệp sĩ thốt lên vui sướng. -Tôi thì đang trên đường tới đó đây, bởi vì hình như vua lại có niềm vui thiết triều và các hiệp sĩ lại quây quần quanh chiếc Bàn Tròn.
- Đúng thế, thật may mà điều đó lại tái diễn, vì lúc này đây đang có cơ hội cho một cuộc phiêu lưu rất lớn, vấn đề là hiệp sĩ nào xứng đáng nắm lấy cơ hội đó...
Vừa nghe thấy hai tiếng phiêu lưu tai chàng hiệp sĩ đã dỏng lên. Chàng tiến đến gần cô gái, cô bèn kể chàng nghe chuyến viếng thăm của cô tới Đức Vua.
Chàng hiệp sĩ trầm ngâm một lát rồi reo lên:
- Giờ đây tôi về lâu đài của nhà vua dự cuộc vui ở đó làm gì nữa? Quả thật nếu có hiệp sĩ nào xứng đáng đi tìm chiếc bình Graal thì đó chỉ là chàng hiệp sĩ, cháu vua mà thôi!
- Vậy ra chàng là...
- ... Tôi là anh chàng Gauvain đây, và nếu như cô tin được, tôi quay ngựa ngay đi tìm lâu đài của vua Câu Cá đây.
- Tôi cũng đi về đó vì tôi ở đó mà, - cô gái nói. - Nhưng tự ngài phải một mình tìm đường, nếu như quả thật ngài xứng đáng....Cô gái thoắt biến mất để lại chàng Gauvain tự hỏi có phải mình mơ không.
Nhìn quanh chàng thấy chỉ còn một mình.
Chàng phải quyết định.
- Đường ta đi dẫn ta về triều đình vua Arthur.
- Chàng tự bảo. - Nhưng Đức Vua của ta hình như muốn tất cả các hiệp sĩ của ngài đều đi tìm chiếc bình Graal; vào giờ này, tất cả các hiệp sĩ của chiếc Bàn Tròn hẳn đã lên đường. Ta cũng làm vậy thôi và sẽ chỉ trở về triều trường hợp ta thành công!
Khua gươm lên gắn chặt lời thề chàng Gau-vain đi ngược lại con đường đang đi và lại lao mình vào khu rừng Gaste.
Chàng đi ngựa suốt ngày cho tới lúc mặt trời lặn và thấy trước mặt mình nơi ở của một tu sĩ và một nhà thờ nhỏ. Một dòng suối từ đó chảy ra, tươi mát và trong vắt nhờ một cây to cành lá rậm rạp che khuất ánh mặt trời. Dưới gốc cây có một cô gái đang ngồi tay cầm cái đầu lâu của một hiệp sĩ nào đó.
Cô gái này chính là người vua Arthur đã gặp lúc trước. Và cái đầu cô cầm chẳng qua chỉ là đầu hiệp sĩ đen mà vua Arthur đem cho cô.
Nhưng chàng Gauvain không hề biết.
- Chào cô gái xinh tươi, cô cầm một vật kỳ lạ thật đấy.
- Chào chàng hiệp sĩ. Tôi đang cầm chiếc đầu của một hiệp sĩ do vua Arthur đem lại cho tôi.
- Chỉ cần biết nó bị chặt bởi quốc vương tôi đủ để tôi không cần hỏi thêm câu gì nữa, - Gau-vain nói.
Lúc này vị tu sĩ xuất hiện. Gauvain phóng ngựa cả ngày, nay xin được vào nghỉ nhờ. Tu sĩ bằng lòng.
- Chàng đi đâu vậy hỡi chàng hiệp sĩ? - Tu sĩ hỏi khi hai người yên vị trước ngọn lửa ấm áp.
Gauvain kể mục đích chuyến đi của mình.
- Thưa cha, cha có thể hướng dẫn tôi đi đến lâu đài vua Câu Cá được không?
Tu sĩ thở dài bỏ thêm một thanh củi vào ngọn lửa và quay về phía Gauvain:
- Chà, thưa ngài hiệp sĩ, sung sướng thay cho những người phục vụ Đức Vua bởi vì họ xứng đáng được ban thưởng. Được ở dưới mái nhà của Người thật êm đẹp, sống một năm tưởng như mới một tháng! Sở dĩ có hạnh phúc nói trên là.nhờ ở như chiếc bình Graal thiêng liêng, cứ mỗi khi làm lễ thánh trong nhà thờ của lâu đài ấy nó lại hiện ra một lần.
Gọi đến chiếc bình Graal, vị tu sĩ làm dấu thánh giá và nói thêm:
- Tôi phải báo trước để ngài biết: sẽ không có ai chỉ đường cho ngài đến lâu đài của vua Câu Cá cả đâu, chỉ có ý muốn của Chúa Trời chỉ lối đưa đường cho ngài mà thôi.
Nghe thấy vậy Gauvain lấy làm bực mình nhưng hiểu thế nào là sự khôn ngoan, chàng đi ngủ.
Trời vừa sáng chàng đã dậy, vũ trang từ đầu đến chân. Cả cô gái và chàng cùng dự lễ nhà thờ theo lời đề nghị của tu sĩ. Mỗi người cầu nguyện cho công việc riêng của mình.
- Hai vị đi đâu bây giờ? - Tu sĩ hỏi, đưa họ ra tận bìa rừng.
- Về phần tôi, - cô gái nói, - tôi đi đến lâu đài của ẩn sĩ đen để cất cái đầu này. Nhờ đó có thể tôi lấy lại được của cải mà tôi đã bị vũ lực cướp mất.
Cô gái đi ngay, không nói thêm gì nữa.
- Còn con đường của tôi, tuy không may không được vạch ra trên mặt đất nhưng đã được vạch ra trong trí tôi. Con đường đó sẽ đưa tôi đến lâu đài của vua Câu Cá và chiếc bình Graal chứ không đâu khác.
Và Gauvain chào tu sĩ lên đường.
Chàng đi rất lâu, băng qua những khóm cây rậm, cầu Trời dắt dẫn chàng theo đúng hướng.
Bóng tối bắt đầu bao trùm Khu Rừng Gaste thì chàng chạm trán với một người trẻ tuổi tay nắm hàm thiếc của một con tuấn mã.
- Chào chàng trai, - Gauvain nói. - Chàng có biết gần đây có nơi nào nghỉ chân không? Suốt ngày nay tôi băng qua khu rừng này và rất mong tìm được nơi nào nghỉ ngơi một chút.
- Xin chào hiệp sĩ, - chàng trẻ tuổi duyên dáng đáp. - Theo hướng ngài đi thì tôi chỉ biết mỗi lâu đài của Bà Góa Phụ. Nhưng ngài phải gấp lên, còn hai mươi dặm nữa mà trời thì đã tối rồi.
- Cậu cũng đến đó chăng? - Gauvain hỏi. -Tôi sẽ vui lòng cùng đi với cậu.
- Tiếc thay thưa ngài, - chàng trẻ tuổi thở dài. - Trong khi trả thù cho cha tôi đâu được nghỉ ngơi. Cha tôi bị một tên hiệp sĩ hèn hạ giết chết, tên này không hề thách đấu với cha tôi..- Tất nhiên đó là nghĩa vụ của tất cả những người con trai hiếu hạnh và tên hiệp sĩ kia xử sự thật đê tiện. Nhưng cậu có biết hắn ta không?
- Tôi không thấy mặt hắn nhưng tôi biết hắn có một cái khiên màu trắng bạc và màu xanh ở giữa có chữ thập đỏ chót.
Có thể đó là chiếc khiên cô gái trọc đầu vừa cho treo trong lâu đài vua Arthur, nhưng Gauvain chàng không đến đó nên không biết.
Chàng chào người trẻ tuổi theo con đường anh ta chỉ để tới lâu đài Bà Góa Phụ.
Tận tối mịt chàng mới đến bìa rừng và đâm ra một cánh đồng cỏ vô cùng xanh tươi. Chàng phóng ngựa thêm chút nữa, một tòa lâu đài tráng lệ nằm chót vót trên một ngọn đồi hiện ra trước mặt chàng.
Tới chiếc cầu cất chàng nhận ra các cửa lâu đài đều đóng chặt. Chàng ra sức gọi thật to, một lần, hai lần. Cuối cùng một người coi ngựa xuất hiện trên chiếc giá gỗ chìa khỏi lâu đài.
- Ai mà gọi ầm lên thế hả? - ông ta bực tức kêu.
- Tôi là một hiệp sĩ của nhà vua muốn nghỉ nhờ qua đêm. Đón tiếp gì mà kỳ lạ thế! - Gauvain trả lời.
Người coi ngựa thấy Gauvain quần áo sang trọng lại đeo cái khiên trên có gia huy, nhận ra vẻ khinh bỉ của chàng nên vội lúng túng:
- Trời tru đất diệt tôi! Xin ngài thứ lỗi.
Nhưng ngài sẽ hiểu thái độ chúng tôi một khi ở bên trong những bức tường này. Nếu như ngài cho biết quý danh, tôi sẽ xin hạ cầu ngay để mời ngài vào làm khách của chúng tôi.
- Cảm ơn nhiều! - Gauvain nói, nổi giận. -Cứ để tôi vào đã, còn tên tôi, khi nào tôi ra khỏi lâu đài này các người khắc biết.
- Thưa ngài, xin lỗi ngài, nhưng hiện thời chúng tôi đang giao chiến với Đức ông Đầm Lầy, láng giềng của chúng tôi, ông ta muốn xâm chiếm đất đai của Bà Góa Phụ. Con người quỷ quyệt này đã dùng nhiều thủ đoạn vì vậy chúng tôi phải cảnh giác với kẻ ăn xin thảm thương nhất cũng như ngài hiệp sĩ đẹp trai nhất. Quả là một bất hạnh lớn cho chúng tôi, nhưng chúng tôi phải thận trọng.
Gauvain định đi ngược lại con đường đã đi để tìm chỗ nghỉ chân khác thì người coi ngựa giữ chàng lại:
- Xin ngài đừng đi vội! Để tôi vào xin ý kiến Bà Góa Phụ. Chắc bà sẽ mời ngài vào nghỉ thôi..Nhưng để bà ấy tự nói với ngài... Ngài hãy ở lại, tôi xin ra ngay!
Gauvain đang tự hỏi liệu có thể chờ đợi mà không phải xâm phạm tới danh dự mình không thì chàng nhìn thấy một ngôi mộ cực kỳ nguy nga nằm trong khu rừng thưa...
Ta có thể hình dung nỗi lúng túng của anh chàng coi ngựa khi đi tìm bà chủ. Bà đang ở trong một căn buồng, bên lò sưởi, cạnh cô con gái.
- Kẻ hầu hạ thân tín của ta, ngươi muốn gì vậy? - Bà chủ hỏi, ngước lên bộ mặt đầm đìa nước mắt.
- Thưa phu nhân bên ngoài chiếc cầu cất có một trang hiệp sĩ muốn vào trú chân tại nhà ta đêm nay.
- Lại thêm một kẻ mà Đức ông Đầm Lầy đưa đến do mưu toan đen tối. Ngươi còn muốn làm ta đau khổ thêm vì những tin tức như vậy làm gì?
- Thưa bà chủ, hãy cho phép tôi được nghĩ rằng trang hiệp sĩ đó quá quý phái và ăn mặc quá sang trọng để có thể là quân của kẻ tử thù của chúng ta.
Nghe tới đây bà phu nhân cùng cô con gái đứng vụt dậy:
- Hãy nói ta nghe! Chàng có cho biết tên không?
- Thưa bà, chàng không muốn nói tên nhưng bảo với tôi rằng khi chàng đi khỏi lâu đài, ta sẽ biết tên chàng.
Không cần nói thêm vì hai mẹ con bà đã lao vào vòng tay nhau.
- Có nghe thấy không con gái? Không biết chừng con trai ta, anh con cũng nên! Có một người bảo vệ như thế thì chẳng kẻ nào còn có gan thèm muốn lâu đài của ta nữa! Mau mau đưa chàng tới đây!
Ngài Gauvain đang mải ngắm nghía ngôi mộ ở khu rừng trống nên không nghe thấy hai người đàn bà đến gần phía sau chàng.
Nhưng khi người đàn bà xô tới công trình kiến trúc tang tóc kia, bà bỗng thốt lên một lời than vãn não nuột và ngã ngất dưới chân Gauvain đứng sững sờ.
Gauvain vội nâng bà dậy cùng cô con gái và người coi ngựa, cả bốn người theo đường về lâu đài.
- Xin chào mừng ngài đến đây thưa ngài hiệp sĩ, - cô con gái nói, - và xin hãy tha thứ cho mẹ.tôi vì bà cứ tưởng con trai đã trở về. Bởi vậy khi nhìn thấy ngôi mộ vẫn đóng nỗi đau đớn của bà thật là lớn lao. Một vị thánh ở ẩn đã cho chúng tôi biết ngày anh tôi trở về ngôi mộ sẽ mở ra.
Trong lúc đó Bà Góa Phụ đã tỉnh lại vui mừng xiết tay chàng hiệp sĩ.
- Thưa ngài đáng kính, tuy không phải con trai tôi trở về nhưng ít nhất ngài có thể cho tôi biết tin tức con tôi được không?
- Anh ấy tên gì ạ? - Gauvain hỏi.
- Perceval là tên con trai tôi nhận được vào ngày lễ rửa tội của nó. Nó rời lâu đài ra đi từ lúc còn là một thanh niên trẻ măng. Nó cũng đã trở thành một trong các hiệp sĩ dũng cảm nhất.
- Lạy Chúa! - Chàng hiệp sĩ của chúng ta kêu lên. - Không biết sự bất ngờ kỳ lạ nào đã đưa tôi đến nơi này! Hóa ra bà là mẹ của Perceval!
Tôi có được nghe người ta kể về Perceval. Chàng lưu lại triều đình của vua Câu Cá và khi thấy chiếc bình thiêng Graal xuất hiện không mở miệng được, do đó biết bao bất hạnh đã xảy tới cho vua Câu Cá và cho cả vương quốc này.
- Chưa bao giờ có ai xử sự hơn được Perceval đâu! - Bà phu nhân kêu lên bênh vực con.
- Nói thực ra, - Gauvain mạnh mẽ nói, -chính vì vậy mà tôi lên đường, đó là việc mà ai đã là một hiệp sĩ can trường đều phải làm. Cậu thiếu niên chỉ cho tôi đến chỗ bà hẳn có linh cảm. Bởi vì có lẽ chính bà mẹ của Perceval có thể chỉ đường cho tôi đến lâu đài Graal...
Nhưng Bà Góa Phụ làm như không nghe thấy những lời hiệp sĩ nói, vả lại ngay lúc đó đầy tớ bưng ra thịt các thú vật săn được như hươu, dê, lợn lòi, mọi người ngồi vào bàn trước một bữa tiệc linh đình.
Tiệc sắp tàn thì người coi ngựa, kẻ đã đón tiếp Gauvain theo cái cách mà chúng ta vừa thấy, hổn hển bước ra.
- Xin lỗi đã quấy rầy bữa ăn của phu nhân nhưng kẻ thù của chúng ta không chịu ngồi yên.
Tôi vừa được biết sắp có cuộc đấu thương trên mình ngựa diễn ra trên khu đất chúng chiếm của phu nhân. Bọn phản nghịch nói rằng ai thắng trong cuộc đua sẽ được giữ lâu đài của phu nhân trong vòng một năm.
- Nguy cho ta rồi, - bà chủ lâu đài nói. -Các vị có nghe thấy không? Lâu đài này không còn là của tôi nữa rồi, quân phản tặc làm như đây là nhà chúng!.Người đàn bà tội nghiệp ngã vào vòng tay cô con gái và cả hai khóc lóc ầm lên. Cô thiếu nữ quỳ xuống chân Gauvain.
- Thưa ngài, phải chăng quy tắc tuyệt đối của hiệp sĩ đạo là giúp đỡ phụ nữ trong lúc khốn khó? Một hiệp sĩ xứng đáng như ngài, xin hãy bảo vệ chúng tôi làm người anh hùng trong trận đấu thương này, chúng tôi cầu xin ngài!
Gauvain rất bối rối. Chàng không quên lời thề khi vua Arthur phong hiệp sĩ cho chàng, lời thề đó buộc chàng phải bảo vệ người đàn bà góa đang khóc sướt mướt kia cùng với cô con gái.
Nhưng trong lòng chàng một giọng nói bảo chàng phải đi tìm ngay không chậm trễ lâu đài của vua Câu Cá để chiếm lại chiếc bình Graal.
Chàng cảm thấy dù cho mình làm gì thì cũng đều đáng trách cả...
- Thưa ngài, - Bà Góa Phụ nói, đến lượt mình van xin chàng hiệp sĩ. - Ngài hãy là đấu sĩ thắng cuộc, rồi tôi sẽ xin chỉ đường cho ngài tới lâu đài của vua Câu Cá.
Lời hứa này làm chàng hiệp sĩ hết bối rối.
Chàng đồng ý làm hiệp sĩ của hai mẹ con phu nhân, cúi đầu trước họ rồi đi tới nhà thờ dự lễ thánh để tâm hồn mình trong sạch trước khi lên mình ngựa đấu thương.
Trời vừa hửng sáng, hai thằng hầu đánh thức Gauvain dậy, mang vũ khí đến cho chàng, giúp chàng mặc quần áo và dẫn chàng ra đấu trường.
ở đây đã có rất nhiều cờ đuôi nheo cắm trên đầu ngọn giáo và rất nhiều tấm khiên. Bọn hiệp sĩ phản tặc đã có mặt, tung tăng trên mình ngựa, sốt ruột mong tới lúc đánh nhau và dễ dàng xâm chiếm đất đai của người khác...
- Thưa ngài, xin hãy nhìn Đức ông Đầm Lầy, kẻ tử thù của phu nhân chúng tôi. Bên phải hắn là Cahot Tóc Hung, so với các tay vô địch khác thì hắn còn vượt xa.
Chàng hiệp sĩ của chúng ta bèn ném ra mấy lời sau đây:
- Hắn có giỏi đánh kiếm mấy mà phục vụ một mục đích bất lương thì hắn sẽ phải chết, xin cứ tin tôi như vậy...
Không chờ đợi gì nữa, vị cháu vua Arthur lao vào trận đấu, chàng thông báo to lên tên mình và ý chí mình quyết bảo vệ Bà Góa Phụ và con gái bà.
Chàng vừa xông ra thì năm tay hiệp sĩ xúm lại quanh chàng. Gauvain bắt đầu trận chiến. Cú sốc khá mạnh, trường đấu chẳng mấy chốc vang ầm ầm tiếng những ngọn thương bị gãy. Các đấu sĩ xuống ngựa, tuốt gươm trần. Chỉ một đợt tấn công của Gauvain khiến ba cái đầu lăn lông lốc trên mặt đất. Hai kẻ thù còn lại một tay bị loại khỏi vòng chiến đấu còn tay kia, bị mũi kiếm của Gauvain kề cổ, xin hàng.
Lúc này chàng hiệp sĩ của chúng ta xông tới Cahot Tóc Hung. Nhưng địch thủ này rất đáng gờm, ngày đã tàn mà trận đấu vẫn bất phân thắng bại. Tuy nhiên lòng dũng cảm của Gauvain đã thắng, chàng phi ngựa một vòng quanh trường đấu đến trước mặt Quả Phụ phu nhân, ném chiếc đầu tên cao lớn tóc hung xuống chân bà.
- Thực ra cái được thua của trận chiến đã quá rõ. - Bà phu nhân nói. - Tôi không thấy ai ở đây có thể nghi ngờ chiến thắng này! Thế là tôi được làm chủ lâu đài này trong một năm!
Đức ông Đầm Lầy đâu có chờ đợi chuyện này. Thấy các nhà vô địch của mình bị đánh bại bởi một hiệp sĩ không ai thắng nổi mà lại không ai biết tới như thế, hắn trở về vùng đất của mình và không chịu sớm rời bỏ đất đai ấy.
Còn Gauvain, phu nhân Góa Bụa và con gái thì trở về lâu đài, họ được đón tiếp nồng nhiệt.
Lễ hội, tiệc tùng kéo dài nhiều ngày để ăn mừng vinh dự của con người bằng lưỡi kiếm và mũi thương của mình đã đánh lui được hiểm nguy.
Nhưng trong những ngày lành tháng tốt ấy, Gauvain không lúc nào yên lòng. Chàng cảm thấy mình quá chậm trễ, cần phải lên đường đi tìm chiếc bình Graal ngay. Vì vậy vào một ngày đẹp trời chàng vũ trang đầy đủ ra mắt phu nhân Góa Bụa:
- Thưa bà kính mến, việc đi tìm chiếc bình thiêng liêng đòi hỏi tôi phải ra đi. Tôi đến bà để xin bà giữ lời hứa, vui lòng chỉ đường cho tôi tới lâu đài của vua Câu Cá.
Phu nhân và con gái rất buồn trước sự ra đi của chàng, nước mắt họ tuôn rơi mong giữ được chàng lại. Nhưng họ cũng biết chàng đã quyết tâm. Vì vậy họ tiễn chàng ra cổng lâu đài. ở đây phu nhân chỉ cho chàng hướng con đường đi.
- Xin tạm biệt ngài hiệp sĩ, mong Trời phù hộ cho ngài. Mong ngài thành công trong sự nghiệp mà bao con người dũng cảm đã thất bại!
Người anh hùng của chúng ta quay lại từ biệt một lần nữa. Rồi chàng thúc ngựa lao về phía chân trời..Sau khi phóng ngựa nhiều ngày, qua nhiều thung lũng và rừng sâu, Gauvain tới một lâu đài lộng lẫy. Một hiệp sĩ đã già từ đó đi ra ngoài để tiêu khiển, trên nắm tay đậu một con chim cắt. Hai người chào hỏi nhau, Gauvain hỏi thăm ông chủ lâu đài nơi ấy là nơi nào.
- Lâu đài này thuộc về cô chủ tôi, nàng Trinh Nữ Kiêu Ngạo. Không bao giờ nàng thèm hỏi tên ai, cũng không bao giờ bằng lòng lấy ai. Các hiệp sĩ xuất thân từ gia đình danh giá nhất hỏi nàng nàng đều gạt đi hết, khẳng định chỉ hiệp sĩ dũng cảm nhất trên đời này mới xứng với nàng.
Cho đến giờ này nàng vẫn chờ...
- Thật là một cô gái đòi hỏi quá nhiều. -Gauvain mỉm cười nói có chút nhạo báng.
- Nếu ngài muốn, thưa hiệp sĩ, tôi sẽ đưa ngài tới cô chủ tôi và đêm nay ngài sẽ là khách của chúng tôi. - ông già nói.
Gauvain bằng lòng. Chàng được đưa đến một gian phòng trên mặt sàn rải rác những tấm lông thú dày và trên tường treo những tấm vải dày màu tím.
Gauvain vừa ngồi xuống đã vội đứng lên vì Nàng Trinh Nữ Kiêu Ngạo bước ra đi tới chỗ chàng. Nàng đẹp đến nỗi Gauvain hiểu ngay là chỉ hiệp sĩ xuất sắc nhất mới xứng đôi vừa lứa với nàng.
- Thưa phu nhân, cầu chúc nàng chỉ gặp những điều tốt đẹp!
- Thưa ngài hiệp sĩ, xin chào đón ngài. - Cô gái đáp lại. - Tôi xin đưa ngài tới phòng ngài.
Nhưng trước hết ngài có muốn thăm nhà thờ của tôi không?
- Còn gì sung sướng hơn. - Gauvain lịch sự trả lời.
Cô gái vạch một tấm trướng phủ tường để lộ ra lối vào một hành lang dài. Gauvain đi theo nàng. Một cửa... rồi hai cửa... lại một cánh cửa nữa, họ vào đến nhà thờ, một nhà thờ khiến Gau-vain phải tự nhủ sự huy hoàng của nó làm lu mờ hoàn toàn nhà thờ lâu đài Camelot của Đức Vua.
Chàng nhận thấy ở giữa có bốn ngôi mộ xây bằng đá hoa cương tinh xảo nhất. Bên phải có ba hốc tường nổi bật lên nhờ những viên ngọc và những chiếc lá bằng vàng. Một mùi hương ngào ngạt tỏa ra.
- Hiệp sĩ, ngài thấy chăng ba ngôi mộ?
- Nhất định rồi, vẻ lộng lẫy của chúng không thể làm ai bỏ qua được..- Ba ngôi mộ là dành cho ba hiệp sĩ xuất sắc hơn hết ở trên đời này, - nàng Trinh Nữ nói, -ngôi mộ thứ tư là của tôi. Một trong ba hiệp sĩ ấy tên là Gauvain, người thứ hai là Lancelot du Lac, còn người thứ ba có tên Perceval.
Nghe nói đến tên mình và tên hai người bạn quý yêu của mình, chàng Perceval khó lòng nén nổi một cử chỉ sửng sốt.
- Và bây giờ, - cô gái nói, - xin ngài hãy xem tôi sẽ làm thế nào với họ một khi họ ở trong nhà này.
Nàng đưa tay với một cái chốt trên tường nơi có đục mấy cái hốc, kéo một cái, thế là một lưỡi dao sắc như lưỡi dao cạo rơi xuống kêu loảng xoảng, đồng thời ba hốc tường đóng lại.
- Đó, tôi sẽ cắt thủ cấp họ bằng lưỡi dao đó trong khi họ quỳ trước các thánh tích đặt trong hốc tường. Thây họ thì tôi chôn dưới mấy ngôi mộ này. Bởi vì tôi không thể có hạnh phúc với họ khi họ sống - cả ba đều bận đi tìm chiếc bình Graal mà - thì tôi hạnh phúc với cái chết của họ vậy. Rồi đến lúc Trời đã định, tôi sẽ theo họ nằm trong cái quách thứ tư.
Những lời nói trên làm Gauvain rơi vào nỗi lúng túng không tả xiết. Chàng như đi trong mộng khi theo nàng Trinh Nữ trở vào phòng tiệc.
Cô gái đối xử với Gauvain vô cùng trân trọng, đặt chàng ngồi giữa rất nhiều hiệp sĩ có mặt bên bàn tiệc. Giống như cô chủ mình chẳng ai hỏi tên chàng cả... Và thật là may mắn, vì chuyện trò với họ Gauvain hiểu ngay họ chỉ có mỗi một nhiệm vụ là coi sóc khu vườn sao cho một trong ba hiệp sĩ ám ảnh tâm trí nàng Trinh Nữ đi qua thì bắt lấy và giao cho nàng.
Gauvain qua đêm trong lâu đài nàng Trinh Nữ Kiêu Ngạo. Sáng sau nai nịt xong chàng chia tay nàng cùng các hiệp sĩ của nàng và ra khỏi lâu đài không bao giờ muốn trở lại nữa.
Một giờ trôi qua. Tới góc một con đường nhỏ chàng chạm trán với hai chàng hiệp sĩ xông ngựa ra ngăn chàng lại.
Cả hai kêu lên:
- Xin ngài hãy dừng lại và cho chúng tôi biết tên không được dối trá.
- Tôi không bao giờ giấu tên khi người ta hỏi mình. Tôi là Gauvain, cháu Đức vua Arthur.
- Thưa ngài Gauvain, - hai hiệp sĩ kia reo to, - nếu đúng như vậy xin ngài hãy theo chúng tôi.về với cô gái tha thiết được gặp ngài nhất! Lâu đài của cô ở gần ngay đây thôi.
- Xin cảm ơn các vị nhiều, - Gauvain trả lời.
- Tôi vừa ở đó ra và biết quá rõ về số phận mà cô trinh nữ đó đã dành cho con người có tên Gauvain. Xin các vị hãy tránh ra để tôi đi theo con đường của tôi.
- Vậy thì thưa ngài, chúng tôi sẽ buộc ngài phải đi theo chúng tôi.
Hai hiệp sĩ lao vào Gauvain và nắm lấy cương con ngựa của chàng. Chàng hiệp sĩ của chúng ta rút kiếm chém đứt ngay cánh tay một trong hai người vì chàng quá tức giận. Thấy bạn mình như vậy tên hèn thứ hai vội buông tay ra chạy trốn về phía lâu đài nàng Trinh Nữ Kiêu Ngạo. Chắc hẳn nàng sẽ căm tức đến uất nghẹn khi biết rằng một trong những hiệp sĩ mà nàng định cho an nghỉ giữa những bức tường của nhà nàng...
Được mở mắt sau cuộc gặp gỡ vừa rồi, Gauvain thúc ngựa phóng nhanh mau mau xa lâu đài nàng Trinh Nữ Kiêu Ngạo cùng các hiệp sĩ của nàng. Chàng không sợ, các hiệp sĩ Bàn Tròn không bao giờ sợ cả nhưng chàng đã ngán các cuộc phiêu lưu làm chàng xa rời cuộc tìm kiếm chính của chàng: lâu đài vua Câu Cá, nơi có chiếc bình thiêng Graal.
Chỉ dẫn của Phu nhân Góa Bụa rất mơ hồ...
mơ hồ như vương quốc này mênh mông vậy.
Sau cuộc đi ngựa mệt nhoài suốt ba ngày ròng rã Gauvain bắt đầu cảm thấy nản lòng.
Nhảy xuống đất quỳ chân trên cỏ chàng cầu nguyện thiết tha:
- Lạy Chúa, hãy thương lấy kẻ hiệp sĩ tội nghiệp dang cầu xin Người! Xin Người hãy dắt dẫn tôi tới Chiếc Bình thiêng mà vào ngày Người.chịu nỗi khổ hình nó đã chứa đựng những giọt máu quý giá của Người!
Chàng đắm chìm trong lời cầu khấn không để ý tới một con chó săn non đang lại gần chàng qua khu rừng trống. Con chó săn nằm xuống bên cạnh chàng và rên lên khe khẽ.
- ồ, gặp nhau kỳ lạ quá! Hỡi chó săn, xin hãy bảo cho tôi biết có phải ngươi cũng như ta, đang lạc bước không biết về đâu? Có lẽ ngươi có thể chỉ đường cho ta đến lâu đài vua Câu Cá chăng? - Gauvain nói và mỉm cười.
Như để trả lời, con chó săn chạy về một cái cây to gần đó rồi dừng lại sủa ầm lên.
Mẹo này của con vật làm trí tò mò của Gau-vain bị kích thích... Chàng tiến lại phía con chó lúc này càng sủa mạnh hơn, chân cào đất.
Cúi nhìn xuống, Gauvain nhận thấy dưới gốc cây có vết máu.
- Lạy Chúa thiêng liêng! - Chàng kêu lên. -Hẳ n vừa có một trận quyết đấu ở đây. Và mới đây thôi, vì vết máu còn tươi! Tiếc thay con chó không biết nói để bảo tôi xem ai đã hy sinh thân mình ở chốn này!
Như để đáp lại, con chó đứng thẳng mình lên tiến tới một chỗ khác rồi lại nằm xuống sủa ầm ĩ.
Gauvain theo tới chỗ đó... Lại thấy một vết máu nữa!
Nhưng lúc này con chó đã lao tới một chỗ khác... và một vũng máu đỏ tươi nằm ngay đó!
- Không nghi ngờ gì nữa, - Gauvain nghĩ, -con chó này đề nghị ta theo dõi dấu vết này đây, mà cũng kỳ lạ làm sao! Để xem xem nó dẫn ta đến đâu.
Đoàn người, vật kỳ lạ, một hiệp sĩ vũ trang đầy đủ theo sau một con chó sủa hết vết máu này đến vết máu khác, cứ thế tiến đi.
Trong suốt một tiếng đồng hồ Gauvain cứ đi theo con chó, cuối cùng đến một lâu đài nhỏ điêu tàn. Con chó chạy vào qua một cánh cổng gá hờ hững trên bản lề, sủa vang lừng.
Đến lượt Gauvain đi vào nơi đổ nát. Khi mắt chàng phân biệt được trong bóng tối, chàng đứng trước một cảnh thương tâm chưa từng thấy.
Trong góc phòng tối tăm nhất, một hiệp sĩ vũ trang đầy đủ, nằm trên một tấm nệm rơm, hai tay nắm thanh kiếm, chỗ trái tim là một vết thương máu nhuộm đỏ cả chiếc áo chẽn. Bên cạnh, một cô gái đang thổn thức thỉnh thoảng lại lấy tay vuốt trán người hấp hối..- A! Anh trai ơi! Nếu tấm thân sắp lìa khỏi cõi đời của anh không còn sợ gì hết nữa thì danh dự anh chỉ sẽ nghỉ ngơi khi nào em tìm thấy kẻ đã buộc em phải sống thiếu anh! Đúng thế, thực tế em sẽ tìm được hắn và làm hắn tàn lụi!
Như một tiếng vang của những lời tang tóc ấy, con chó tru lên một tiếng thảm thiết.
Đột nhiên nhận thấy sự có mặt của Gauvain, cô gái đứng phắt dậy.
- Trông ngươi như thế này, - cô gái rít lên, - ta nhận ra ngươi ngay. Ngươi là một trong số những tên hiệp sĩ không còn danh dự, chỉ để lại đằng sau mình chết chóc và đau khổ. Chính một tên trong số các ngươi đã giết anh ta. Ngươi đến đây để đưa ta theo anh ta chắc?
- Xin cô đừng sợ, - Gauvain nói và lại gần nàng. - Cái mà tôi đi tìm không phải là những người đàn ông. Cô tin cho là tôi chia sẻ nỗi đau đớn của cô bởi vì anh cô, trông bề ngoài thì biết, là một hiệp sĩ can trường đáng tự hào, chỉ chiến đấu chứ không chịu đầu hàng. Cô có thể cho tôi biết tên người đã đánh gục anh cô không?
- Lancelot là tên hắn. Tôi chỉ muốn trông thấy hắn chết! Hiệp sĩ cứ tin rằng bạn bè của anh tôi cũng đang tìm kiếm hắn gắt gao. Họ mà tìm được hắn thì hắn chỉ có chết.
- Lời cô nói làm tôi sầu não quá không biết nói thế nào, - Gauvain kêu lên, - bởi vì tôi rất quen biết Lancelot Du Lac. Đó là hiệp sĩ cao quý nhất của chiếc Bàn Tròn, không bao giờ chàng có thể phạm một tội ác tày trời như thế.
Chắc chắn nếu như chàng giết chết anh cô thì là vì một lý do chính đáng nào đấy đã thúc đẩy chàng...
- Ngươi nói sao? Ngươi là bạn của tên phản nghịch đó ư? - Cô gái kêu lên, sắc mặt đầy giận dữ. - Ngươi đến đây làm bẩn cả nơi lâm chung của anh ta! Cút ngay, đi theo bọn xảo quyệt đã giết anh ta!
Gauvain biết không thể nào đưa cô gái trở về lẽ phải được, chàng có muốn giúp đỡ, cô cũng sẽ khinh bỉ gạt đi. Chàng buồn rầu đi lấy ngựa và rời khỏi lâu đài.
Sau khi cưỡi ngựa rất nhiều ngày qua hết khu rừng đó, chàng tới một vùng đẹp vô tận. Những cánh đồng cỏ mầu mỡ bát ngát trải dài đến mười dặm trước mặt chàng, hàng đàn súc vật béo mập đang gặm cỏ..Chàng hiệp sĩ lâng lâng sung sướng trước quang cảnh đẹp đẽ, vừa lúc đó một người trẻ tuổi trông hết sức tuyệt vọng tiến đến trước chàng.
- Chào anh bạn, - Gauvain dừng ngựa. - Xin lỗi hỏi anh: sao trông anh thảm hại như vậy?...
Tôi có thể giúp anh được gì không?
- Hỡi ôi! - Người trẻ tuổi mỉm cười buồn bã, chẳng ai trên thế giới này giúp tôi được gì đâu, dù cho có dũng cảm đến mấy chăng nữa.
Tôi chỉ có lại niềm vui một khi vào nhà tu để cứu rỗi linh hồn mà thôi, bởi vì tôi vừa phạm trọng tội lớn nhất chưa từng thấy.
Chàng hiệp sĩ và cậu thiếu niên đi cạnh nhau và cậu thiếu niên kể cho chàng hiệp sĩ nghe câu chuyện của mình.
- Trong một cơn nổi điên, tôi dã giết mẹ ruột tôi, người là một bà hoàng hậu, bởi vì bà đã phán rằng em tôi chứ không phải tôi sẽ thừa hưởng ngôi vua khi cha tôi mất. Vụ giết người này ghê tởm đến nỗi đã đưa đến hủy hoại những người trong gia đình tôi. Em tôi bây giờ đã chết, cha tôi, biết tội tôi, đã từ bỏ giang sơn lui vào rừng ở ẩn. Còn phần tôi, tôi ân hận đến nỗi không muốn nghe nói tới cái vương quốc đó nữa!
- Anh có vẻ như xuất thân từ gia đình vương giả thật, - Gauvain nhận xét. - Thế tên anh là gì?
- Tôi tên là Joseph, họ hàng xa với Joseph d’ Arimathie, người đã mang chiếc bình thiêng Graal từ nơi Đất Thánh tới đây, chiếc bình đó hiện được giữ trong lâu đài của vua Câu Cá.
Nhưng tôi chỉ là họ hàng quá xa của vua Câu Cá khó lòng nối ngôi ông ấy được. Với lại phạm tội như tôi làm sao còn xứng đáng! Giờ thì ngài đã biết tất cả về tôi rồi đấy. Bây giờ xin từ biệt ngài, tôi sẽ đem theo nỗi tủi hổ của mình vào bí mật của một nhà tu, một tội lỗi như tôi đã phạm phải chỉ có mỗi cách ấy để chuộc lại.
Người trẻ tuổi đột ngột lao ngựa đi để lại Gauvain trầm ngâm suy nghĩ:
- Quả là những sự việc trùng khớp với nhau!
Đường tôi đi toàn giao nhau với con đường của những người biết vua Câu Cá. Những dấu hiệu này chứng tỏ đường tôi đi là đúng và cuộc tìm kiếm của tôi sẽ có kết quả...
Vừa nghĩ ngợi như thế Gauvain vừa đi sâu vào rừng. Chàng bắt gặp một con suối chảy qua những cây cao và cứ theo dòng suối mà đi. Được hai dặm chàng trông thấy một ngôi nhà rất đẹp.bên sườn có một nhà thờ nhỏ, tất cả có hàng rào rậm rạp vây quanh.
ở cổng vào khu nhà có một ông già tóc bạc dáng uy nghiêm, thấy Gauvain ông ta đứng lên ra gặp chàng.
- Thưa ngài hiệp sĩ, - ông ta thì thầm, - xin ngài tới gần nhẹ nhàng cho, vì trong nhà có một hiệp sĩ đang ốm nặng. Tôi không muốn để chàng ta biết có một hiệp sĩ khác thâm nhập vào đây, bởi vì dù đang ốm chàng cũng sẽ dậy chiến đấu với ngài cũng như với bất cứ ai vào khu nhà này.
- Chàng hiệp sĩ tên là gì vậy? - Gauvain hỏi, linh tính báo có chuyện lạ.
- Chàng cấm chúng tôi không được cho ai biết. - Vị tu sĩ trả lời.
- Hiệp sĩ nào mà lại không muốn cho ai biết tên? - Gauvain kêu lên. - ít nhất tôi vào thăm có được không?
- Thưa ngài hiệp sĩ, chỉ tôi và các bạn tu sĩ của tôi được đến gần chàng chừng nào chàng còn chưa phục hồi được sức khỏe và hạnh phúc...
- Vậy xin cho biết ít nhất chàng thuộc dòng họ nào cũng được, - Gauvain nài nỉ.
- Thuộc dòng dõi thế phiệt trâm anh nhất, dòng họ của Joseph A’ Arimathie. - Vị tu sĩ đáp.
Đúng lúc này chợt hiện ra một cô gái, cô này tiến tới nói khẽ vào tai tu sĩ. Tu sĩ cúi đầu lẳng lặng đi theo không nói một lời, bỏ lại Gau-vain nghi nghi hoặc hoặc.
- Ai có thể là anh chàng hiệp sĩ ốm nặng được nhỉ? Biết đâu một trong số bạn bè Bàn Tròn của ta thì sao?
Trầm ngâm suy nghĩ Gauvain lại lên đường và đi như thế gần một tuần lễ qua rừng rậm chẳng thấy một ai.
Một ngày đẹp trời, mặt trời lên cao tới đỉnh đầu, Gauvain ra tới bìa rừng. Trước mặt chàng trải dài một đồng cỏ xanh tươi với những đàn cừu đang gặm cỏ. Tận chân trời là một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ.
Không những nguy nga tráng lệ còn mênh mông hùng vĩ, bởi vì thoáng nhìn tưởng là gần nhưng phóng ngựa nhanh một ngày đường mới tới.
Tới cổng lâu đài chàng xuống ngựa, thấy lâu đài được canh gác rất cẩn mật. Một con sư tử xích ngay lối vào đang nằm, nó gầm gừ giận dữ khi thấy Gauvain. Hai bên cổng là hai bộ áo giáp bằng đồng mà nhờ một cơ chế bí mật từ đó bắn.ra những mũi tên có bốn cạnh nguy hiểm chết người để cắm vào những kẻ thâm nhập không được mời.
Gauvain khôn ngoan đứng xa xa quan sát địa thế, chưa biết làm thế nào thì bỗng cánh cổng ầm ầm mở và một thầy tu đi ra.
- Thưa ngài, - vị thầy tu lịch sự hỏi, - ngài muốn gì vậy?
- Thưa tu sĩ, xin cho biết ai ở trong lâu đài này ạ?
- Ngài không biết ư? - Thầy tu ngạc nhiên.
- Đây là lối vào khu vực của vua Câu Cá giàu có.
Ta đoán được nỗi vui tràn ngập Gauvain khi chàng nghe những lời này.
- Lạy Chúa tôi, thưa tu sĩ nếu thật thế thì chiếc bình Graal nằm sau những bức tường này chăng?
- Nhất định rồi, nó được lưu giữ và tôn thờ ở đây kể từ thời xa xưa khi vua Câu Cá bắt đầu cho xây tòa lâu đài này. Ngài hãy nghe những tiếng hát đang cất lên: người ta đang làm lễ cho chiếc bình Graal thiêng liêng trong nhà thờ đấy.
- Thế là tôi đến đích cuộc tìm kiếm rồi! -Gauvain kêu lên.
Chàng thúc ngựa qua cổng lâu đài nhưng tu sĩ nắm cương ngựa lại.
- Ngài định đi đâu vậy? - Tu sĩ kêu to. -Ngà i chắc mình xứng đáng nhìn chiếc bình thiêng chưa?
- Tôi là Gauvain, cháu vua Arthur, hiệp sĩ Bàn Tròn đây! Cả đời tôi chỉ lo đi tìm chiếc bình Graal mà!
- Thưa ngài hiệp sĩ, - tu sĩ trả lời, - xin hãy tin tôi. Ngài không thể qua cổng lâu đài mà còn sống sót nếu như không sở hữu thanh kiếm đã chặt đầu tông đồ - thánh Jean.
- Tôi đã vượt qua các thử thách rồi, tu sĩ còn nói đến những chuyện gì nữa vậy?
- Ngài phải tin tôi. Thanh gươm này phản tặc và vô đạo nhất trong tay tên vua đang sở hữu nó. Ngài phải chiếm được nó đem về đây, - tu sĩ nói tiếp, - thì chúng tôi mới coi ngài là người xứng đáng nhìn thấy bình Graal... Hơn nữa, vật thiêng mà ngài tìm kiếm đòi hỏi ngài phải hạ mình hơn nữa so với những gì ngài đã chứng tỏ.
Ngài phải đi tìm thanh gươm trên con ngựa mà ngài trông thấy đây.
Theo hướng nhìn, Gauvain trông thấy một con nghẽo màu hung sắp thở hắt ra, trông nó.thảm hại không thể tưởng được. Nhưng dù sao chăng nữa trong lòng chàng vẫn chấp nhận lời tu sĩ là đúng, và tuy vô cùng thất vọng chàng vẫn lên ngựa mau chóng ra đi.
Được một dặm thì chàng tới một làng nhỏ nơi một người bán hàng đột nhiên ngăn chàng lại.
- Mong chàng được bình yên. Xin cho tôi hỏi: vì sao một hiệp sĩ phong lưu mã thượng thế này lại cưỡi một con nghẽo cà khổ như vậy?
- Đã là hiệp sĩ thì phải chấp nhận con ngựa mà Đức Chúa Trời ban cho. - Gauvain trả lời không hề cúi mặt. - Mong Trời ban cho tôi con ngựa khác khi tôi đánh nhau với tên vua phản nghịch sở hữu thanh gươm đã thắng được tông đồ Jean!
- à thế ra chàng đi tìm thanh gươm đó! -Tay nhà buôn kêu lên. - Tôi ở nơi đây nên đã thấy nhiều người ra đi trên con đường này không hề trở lại... Sự tàn ác của tên vua Gurgaran đang nắm giữ thanh gươm đã gieo rắc tai hại đến tận vùng này!
Gauvain nhún vai, lấy chân gạt ông nhà buôn ra, tiếp tục lên đường. Xa ngôi làng một chút chàng dừng chân nghỉ lại bên một gốc cây.
Ngay tiếng gà gáy đầu tiên Gauvain đã dậy, nai nịt gọn gàng. Đúng lúc lên đường một sức mạnh ngoài ý chí chàng buộc chàng quay đầu lại. Đằng sau chàng, trên đỉnh các ngọn cây, vẫn sừng sững các ngọn tháp không ai xâm phạm nổi của lâu đài vua Câu Cá.
Mặc dầu không gặp cuộc phiêu lưu nào đáng kể lại, chàng tiến ngày càng sâu vào vùng hoang vu trông không có vẻ mến khách chút nào, một vùng đất chỉ bao phủ bởi các bụi cây ngấy.
Suốt vài ngày đi như thế trong đau khổ, Gau-vain gặp một người ăn mày chỉ đường cho chàng tới vương quốc của vua Gurgaran. Và vì con người quê mùa này không nói dối, chỉ hơn một ngày sau chàng hiệp sĩ đã tới vùng đất của vị vua nổi danh tàn bạo.
Qua thành phố đầu tiên Gauvain nhận thấy cư dân ở đó đang trong tình trạng vô cùng buồn.thảm. Thấy một kỵ sĩ đang phóng gấp về lâu đài gần đó Gauvain dừng ngựa giữa đường gọi to:
- Chào hiệp sĩ! Hiệp sĩ giải thích cho tôi vì sao dân cư ở đây khóc lóc gào thét như vậy được không?
- Chắc chắn là được, thưa ngài. Đức Vua của chúng tôi, Gurgaran, chỉ có mỗi một mụn con trai mà cậu con trai lại bị một tên khổng lồ cắp đi mất, tên đó còn làm đất đai của vua trở nên hoang tàn. Vua chúng tôi đau khổ lắm, tuyên bố rằng ai đem lại con trai cho Người thì sẽ được ban thưởng một thanh kiếm kỳ lạ mà Người đang sở hữu, thanh kiếm đó chỉ có một không hai ở trên đời này.
"Thanh kiếm của tông đồ Jean rồi, không nghi ngờ gì nữa!" Gauvain nghĩ. Chàng bảo người kia:
- Vậy thế ra anh cũng đang đi trừng phạt tên khổng lồ tàn ác đó ư, để chiếm lại con trai cho chủ anh?
- Cho đến giờ này chưa ai đủ can đảm lên đường làm việc điên rồ đó! Đức Vua vẫn đang chờ đợi người nào dám...
- Người sẽ không phải chờ đợi lâu đâu, cứ tin là sẽ có một hiệp sĩ Bàn Tròn đến, còn bây giờ xin chào chàng hiệp sĩ dũng cảm. - Gauvain mỉa mai. Và chàng lập tức tiến về phía lâu đài.
Nghe tiếng vó ngựa lộp cộp trong sân, nhà vua Gurgaran hỏi xem đó là cái gì và sau đó được biết có một hiệp sĩ vũ trang đầy đủ, xin vào yết kiến. Nghe thấy thế nhà vua lại hy vọng cho con trai mình và vội vàng ra gặp Gauvain.
- Người ta nói chàng là hiệp sĩ Bàn Tròn, vậy thì đúng là chàng đến từ đất nước của các hiệp sĩ anh hùng rồi. Trong cả nước ta chẳng có lấy một người nào như vậy.
- Vua Gurgaran, người ta nói về ngài khá nhiều chuyện, - Gauvain nói. - Tôi cũng được biết bất hạnh mà ngài đang gặp phải và lời hứa của ngài sẽ tặng thanh kiếm của thánh Jean cho người nào đưa được con trai ngài về.
Nhà vua không đáp chỉ ra hiệu cho hai lính gác đứng cạnh đấy. Hai người này đi ra rồi trở lại ngay mang theo một bao kiếm bằng bạc phủ đầy ngọc quý. Thò ra ngoài bao là đốc kiếm chạm trên một tảng ngọc lục bảo. Nhà vua cầm lấy đốc kiếm, vung lên ánh sáng của một thanh kiếm rất to và dài mặc dù trông cái bao tưởng kích thước nó cũng bình thường. Từ lưỡi kiếm chảy ra một dòng máu đỏ tươi..- Lưỡi kiếm này đã lấy đi mạng sống của tông đồ Jean. - Đức Vua nói. - Cứ đến giữa trưa, giờ mà đức thánh trần này đi theo Đức Chúa của Ngài, nó lại vấy máu lên. Chàng hãy đem con trai ta về đây, ta xin thề thanh kiếm này sẽ thuộc về chàng.
- Thưa Đức Vua, - Gauvain trả lời, - tôi xin giúp ngài nếu như ý Trời muốn thế.
Nhà vua bảo chàng ngồi xuống rồi kể cho chàng nghe cái tàn ác xấu xa của tên khổng lồ và chỉ chỗ để chàng đi tìm hắn. Cơm xong, Gau-vain bèn cầu Chúa phù hộ cho chàng sau đó lên đường ngay cùng với những lời cầu nguyện.
Cưỡi ngựa không nghỉ, chàng tới một ngọn núi cao nằm giữa một vùng đất đai hoang tàn do tên khổng lồ gây ra trong vòng ba dặm. Dưới chân chàng là một cái hang, nơi ở của tên chúa tể u ám của vùng này, kẻ có thân hình khổng lồ và vẻ ngoài đầy nghi ngại.
Đã từ lâu lắm chưa một hiệp sĩ nào dám đến tận nơi hắn ở để thách đấu với hắn. Nơi hắn ở lối vào rất hẹp, Gauvain buộc lòng phải bỏ ngựa, giáo và khiên ở bên ngoài.
Chàng tìm đường đi vào trong khe núi hai bên toàn vách đá lởm chởm, nơi xông ra mùi hôi thối của tên khổng lồ.
Cuối cùng ra khỏi hẻm núi. Nhìn trước mặt, chàng thấy tên khổng lồ và người con trai nhà vua đang ngồi đánh cờ ngay trên mặt đất dưới một gốc cây.
Thấy Gauvain lại gần, tên khổng lồ đứng vụt dậy, cầm lấy lưỡi rìu lớn cạnh đấy nhảy xổ vào chàng. Hắn cầm rìu cả hai tay định phang một cú bổ đôi đầu chàng hiệp sĩ nhưng Gauvain tránh được, dùng kiếm của mình chém một nhát đứt ngay cánh tay cầm rìu của tên khổng lồ.
Thấy mình bị thương, tên khổng lồ lùi lại, dùng bàn tay còn lại nắm lấy cổ áo hoàng tử trẻ tuổi và bóp cổ hoàng tử. Rồi quay lại Gauvain hắn kẹp chàng vào trong cánh tay duy nhất của mình, cứ thế cắp chàng đi vào sào huyệt.
Gần tới hang động của mình thì tên khổng lồ vấp ngã, chàng kỵ sĩ nằm đè lên trên hắn. Tận dụng cơ hội, vào đúng lúc tên khổng lồ ngồi dậy, chàng đâm hai nhát kiếm vào tim hắn. Rồi chàng cũng đứng dậy, chặt lấy cái thủ cấp kinh khủng của hắn. Thế là đúng với số phận của những tên tàn ác..Nhưng niềm vui của chàng hiệp sĩ không kéo dài được bao lâu, chàng buồn rầu nhìn tấm thân hoàng tử con vua Gurgaran nằm vật dưới đất hồn lìa khỏi xác. Nỗi buồn đã xóa hết niềm vui thắng lợi, chàng muốn rời khỏi ngay cái nơi đáng nguyền rủa này.
Gauvain vác thây hoàng tử trên vai, tay cầm cái đầu ghê tởm của tên khổng lồ, trở lại nơi chàng đã để ngựa, mũi giáo và cái khiên của mình.
Sẽ phải đi báo tin buồn này cho vua Gurgaran biết...
Khi Gauvain xuất hiện trước lâu đài, nhà vua và quần thần sung sướng hoan hỉ chạy ra đón chàng. Nhưng thấy hoàng tử đã chết ai nấy khóc sướt mướt.
- Thưa Đức Vua, - Gauvain nói, - ngài cũng biết tôi tha thiết mong hoàng tử còn sống như thế nào.
- Ta biết chứ, ta còn biết chàng đã chiến đấu vô cùng dũng cảm mới đem được dù chỉ là cái xác hoàng tử về cho ta. Ta xin giữ lời hứa.
Vua Gurgaran gỡ bao kiếm trang trí toàn ngọc quý từ thắt lưng ra.
- Từ nay nó thuộc về chàng. Ta cũng muốn nói với chàng rằng mọi việc xấu xa mà mọi người buộc tội cho ta đều là do tên khổng lồ mà chàng đã giết gây ra cả. Bây giờ, xin từ biệt chàng. Ta quay về cầu nguyện cho con trai ta.
Gauvain biết mình không còn gì để làm ở nơi này nữa. Chàng nóng lòng tìm lại lâu đài vua Câu Cá. Lòng nặng trĩu đau buồn, chàng rời lâu đài, ra khỏi thành phố, giữ chặt lấy thanh kiếm quý báu.
Dọc đường chàng nhớ lại những vùng cằn cỗi khủng khiếp đã đi qua kể từ lâu đài vua Câu Cá. Những vùng hoang vu, đất đai khô cằn chỉ toàn những bụi ngấy. Nghĩ đến cảnh phải đi qua vùng đó lần nữa chàng thấy khổ tâm vô cùng.
Tuy nhiên, dần dà, mặc dù chắc chắn đi đúng con đường cũ, chàng đi qua quang cảnh như mới trông thấy lần đầu. Không còn những bụi cây ngấy nữa mà là những đồng cỏ xanh tươi; không còn đất đai khô cằn mà chỉ thấy những thung lũng có dòng sông tươi mát chảy qua.
- Lạy các thánh, - Gauvain kêu lên, - phép thần huyền diệu gì thế này? Có phải đây là một thử thách mới của Trời đối với ta? Biết bao ngày nữa ta mới về lại lâu đài vua Câu Cá?!
Chàng hiệp sĩ dũng cảm sắp sửa nản lòng thì bỗng thấy hiện ra một nhà tu khổ hạnh trông.bên ngoài thật sơ sài. Nhìn thấy chàng hiệp sĩ, thầy tu chủ trì nơi đây chạy ra.
- Chàng hiệp sĩ, chàng tìm gì vậy?
Gauvain trả lời:
- Có lẽ tôi lạc đường. Tôi xin nghỉ đêm ở đây có được không ạ?
- Thưa ngài, chẳng có ai ở đây cùng tôi trừ Đức Chúa Trời và cũng đã bốn mươi năm nay chưa ai lui tới nơi đây. Nhưng gần đây có một lâu đài nguy nga sẵn sàng tiếp đón các hiệp sĩ dũng cảm.
- Lâu đài ấy là của ai vậy? - Gauvain hỏi.
- Của vua Câu Cá nhân từ, người đang giữ chiếc bình Graal rất thiêng liêng. - Vị tu sĩ vừa trả lời vừa làm dấu thánh.
Sự ngạc nhiên của Gauvain thật cao độ! Nếu không phải một tu sĩ đã nói ra những lời này thì chàng thề chỉ là lời dối trá, bởi vì quang cảnh vùng này khác xa với nơi ở của vị vua đức độ mà lần trước chàng nhìn thấy.
- Phải tin rằng đây là ý của Đức Chúa Trời đã đưa lối chỉ đường cho ta chứ không phải ý ta. - Chàng tự bảo.
Từ biệt tu sĩ, chàng lao ngựa về hướng được chỉ và chẳng mấy chốc nhìn thấy tòa lâu đài. Lại một lần nữa chàng hết sức ngạc nhiên, vì lâu đài này trông chẳng giống tòa lâu đài có con sư tử canh giữ và những áo giáp tự động bằng đồng chút nào.
Dẫn vào cổng lâu đài là ba chiếc cầu lớn nhưng rất hẹp và từ trên một độ cao đến chóng mặt ba ngọn thác đổ ra đang gầm rú. Gauvain ngần ngại chưa dám bước tới thì một hiệp sĩ uy nghi tiến ra từ đầu cầu bên kia và lên tiếng gọi chàng một cách nghiêm khắc:
- Đi qua nhanh lên cho vì sắp tối rồi. Người ta đang chờ chàng trong lâu đài!
- Tôi cũng muốn lắm, - Gauvain giơ tay nói, - nhưng làm sao qua được? Cầu hẹp như thế này cơ mà!
Ông già nói:
- Tôi chỉ biết mỗi con đường ấy thôi. Muốn vào lâu đài thì hãy tự tin và đi nhanh nhanh lên!
Gauvain cảm thấy xấu hổ vì những ngần ngại của mình. Chàng nhớ tới nhiệm vụ thiêng liêng, cầu khấn Chúa Trời rồi lao mình lên chiếc cầu đầu tiên. Chiếc cầu như rộng hẳn ra và dễ dàng.cho người ta bước tới. Sang đến bên kia, chiếc cầu lập tức biến mất với tiếng kêu "rắc".
- Rõ ràng đây là những phép thần để thử thách lòng can đảm của ta rồi, - lúc này Gauvain đã hiểu, chàng mạnh dạn tiến tới chiếc cầu thứ hai.
Nhưng vừa lên cầu chàng hoảng người vì đường đi chỉ còn mảnh bằng sống lưỡi gươm.
Nhờ kinh nghiệm lúc trước chàng dẹp bỏ mọi ngại ngùng và nhờ vậy chàng sang tới đầu cầu bên kia, không gặp nguy hiểm nào. Chỉ ít phút sau chiếc cầu thứ hai đổ sập đánh ầm trong tiếng gầm rú của ngọn thác dưới vực sâu.
Chiếc cầu thứ ba khác hẳn hai chiếc cầu trước, hai bên có những cột cao bằng đá hoa cương, đỉnh cột là những bức tượng bằng vàng của mười hai tông đồ và một thiên thần tay cầm kiếm bạc chỉ vào nhà thờ nơi lưu giữ chiếc bình Graal.
Cuối cùng chàng hiệp sĩ đến được cổng lâu đài.
ở đây không còn hai bộ áo giáp bắn tên tự động nữa, con sư tử vẫn còn nhưng lần này thấy Gauvain nó lại nằm xuống. Gauvain thoải mái bước vào nơi trị vì của vua Câu Cá.
Chàng tới một gian sảnh lộng lẫy trên tường trang trí những bức chân dung bằng vàng. Gót giày chàng êm như ru không một tiếng động vì dưới sàn phủ kín lớp lông thú dày và mềm. Hai cô gái mặt mày hiền hậu ra đón chàng, cởi bỏ vũ khí cho chàng và đem tới hai chậu bằng vàng chứa đầy nước. Sau khi chàng rửa mặt xong họ mặc cho chàng một chiếc áo lễ bằng lụa nổi bật lên những trang trí bằng lông chồn.
- Bây giờ chàng đã mặc áo quần thích hợp rồi, xin mời chàng đi theo chúng tôi. Chúng tôi sẽ đưa chàng tới gặp vua chúng tôi.
Hai cô gái đáng yêu mỗi người dắt một tay chàng dẫn chàng tới căn buồng nơi vua Câu Cá nghỉ.
Nhà vua đang chờ chàng. Người nằm trên một chiếc giường phủ đầy lụa là và lông chồn.
Tuy trong buồng không có ngọn đèn hoặc ngọn lửa nào, căn buồng vẫn sáng rực lên một ánh sáng siêu thực.
Một ông già đứng trước mặt Gauvain, râu tóc ông bạc trắng như tuyết, gương mặt tuy đầy nét mệt mỏi nhưng toàn thân toát lên vẻ cao quý và quyền năng siêu phàm. Hai bên ông già là hai lư hương tỏa ngào ngạt mùi hương êm dịu. Chân giường trên một cái cột nho nhỏ là hòm thánh tích trong đựng một mảnh thực của Cây Thập ác mang từ Đất Thánh về cùng với chiếc bình Graal.
- Tâu Đức Vua, - Gauvain quỳ xuống, - tôi xin đem hầu ngài thanh kiếm mà người ta đã dùng để chặt đầu tông đồ Jean.
Nhà vua mời Gauvain đứng dậy:
- Ta đã biết rồi. Chàng nên biết không ai có thể tới đây nếu như không mang theo thanh kiếm này.
Vua cầm lấy thanh kiếm Gauvain dâng lên và cảm động hôn lên đó trong khi hai cô gái đưa mắt nhìn một cách trân trọng.
- Hiệp sĩ Gauvain, - vua nói tiếp, - tuy ta không rời khỏi căn buồng này nhưng ta không lạ gì những hiểm nguy chàng gặp phải. Hơn nữa, ở đây còn có một người biết chàng và chàng cũng biết.
Gauvain nhìn thấy một cô gái lúc nãy chưa thấy đâu và chàng hết sức ngạc nhiên nhận ra con gái Quả Phụ Phu Nhân!
- Đây là con gái của em gái ta, đã đến tận đây mong biết được tin tức của anh trai mình.
- Thưa Đức ông, - cô gái tiến lại phía nhà vua nói, - xin ngài mừng cho và biết tới công hiệp sĩ Gauvain đã đem lại hòa bình cho vùng đất mẹ con cháu, mẹ con cháu được giữ lâu đài mình trong một năm nữa. Tuy nhiên khi chàng vừa đi khỏi, chiến tranh lại tiếp diễn và lần này ác liệt đến nỗi nếu Trời không phù hộ và không tìm được anh cháu về thì họ lại chiếm hết đất đai của nhà cháu mất!
- Thưa cô nương xinh đẹp, - Gauvain đáp lời, - dĩ nhiên tôi vô cùng vui mừng nếu được gặp anh cô nhưng từ khi rời mẹ con cô tôi chẳng được tin tức gì của anh cô cả. Có một hôm tôi dừng lại ở một nhà tu khổ hạnh người ta bảo tôi đi lại nhẹ nhàng vì có một hiệp sĩ ốm nặng nằm trong ấy, nhưng họ không chịu cho tôi biết tên chàng.
- Đó chắc hẳn là chàng hiệp sĩ đã có một ngày dừng chân tại lâu đài tôi, - nhà vua kêu lên, - chàng ta dũng cảm chưa từng thấy. Nhưng tôi chẳng được ban thưởng gì khi để chàng trú chân, vì khi người ta đưa bình Graal ra trước mặt chàng, chàng cứ ngậm miệng chẳng nói năng gì cả. Từ hồi ấy tôi bị yếu hẳn đi không còn sức.giúp ai được nữa. Người ta nói là từ hồi ấy chàng chôn vùi nỗi cắn rứt tại một nhà tu.
Vua Câu Cá quay lại phía Gauvain đang trầm ngâm suy nghĩ trước những lời bộc lộ ấy.
- Mong rằng số phận hiệp sĩ ấy là bài học cho hiệp sĩ Gauvain đây. Lạy Chúa, chàng hãy đừng bao giờ quên đêm hôm nay.
- Thưa ngài, - Gauvain trả lời, - đêm nay tôi sẽ hoàn tất nhiệm vụ của mình không để ai phải ca thán gì.
Người ta đưa chàng vào gian phòng lớn ở đó đã có hai mươi hai hiệp sĩ già, tóc bạc phơ.
Thực ra trông họ chưa già tới mức đúng như tuổi của họ, bởi vì tất cả đều đã một trăm hoặc ngoại một trăm tuổi rồi.
Thấy Gauvain đến họ đứng dậy, lịch sự mời chàng vào ngồi cùng với họ quanh một chiếc bàn lớn bằng ngà.
- Thưa hiệp sĩ, chúng ta sắp ăn tối, - một trong số hiệp sĩ nói với Gauvain. - Chúng tôi xin khẩn cầu ngài bằng bất cứ giá nào cũng không được quên những lời vua Câu Cá đã nói với ngài.
- Thưa các hiệp sĩ, chúa Trời cũng muốn vậy! - Gauvain trả lời.
Món ăn dọn ra có hươu quay và thịt của nhiều loại thú săn khác, nhiều ê hề, những người hầu phục vụ bữa ăn trong các bát đĩa toàn bằng vàng. Bữa tiệc bắt đầu. Gauvain ăn thật thà không làm khách gì cả vì từ hồi ở triều vua Arthur đến nay chàng chưa dự bữa cơm nào ngon như thế.
Lúc đó bỗng nhiên tất cả im lặng, hai cô gái từ nhà thờ bên cạnh đi ra, một cô bưng chiếc bình Graal, một cô cầm Mũi Giáo bên trên bình Graal từ đó rỉ ra những giọt máu giỏ vào trong bình.
Cảnh tượng kỳ lạ này làm Gauvain ngạc nhiên quá đỗi. Một ánh sáng rực rỡ đến không chịu nổi tỏa ra từ chiếc bình Graal. Hai cô thiếu nữ trước mắt chàng vụt trở thành hai thiên thần từ trên trời bay xuống. Đột nhiên chàng tưởng như trông thấy ba giọt máu từ chiếc bình Graal thoát ra tới nằm bẹp trước mặt chàng trên chiếc bàn ngà. Chàng như mê hoặc cứ gắn chặt mắt mình vào ba giọt máu ấy.
Thấy chàng sững sờ như vậy các hiệp sĩ vội thúc chàng nói nhưng Gauvain chẳng hề bận lòng.
Chàng đưa mắt nhìn lên chiếc bình Graal lúc này như treo lơ lửng trong không khí giữa các cuộn.khói hương ngào ngạt. Bên trên là một người đứng thẳng hình chữ thập, một mũi giáo cắm vào bên sườn. Hình ảnh này làm Gauvain đờ đẫn cả người vội vàng quỳ xuống, chẳng còn nghĩ gì đến nỗi khổ của con người hình cây thập ác trên kia.
Hiệp sĩ già nhất trong bọn nắm lấy vai chàng lắc mạnh thúc giục chàng nói trước khi sự thể trở nên quá muộn...
Nhưng Gauvain đang say sưa, cứ im tiếng...
Thế là hai cô gái biến mất như trong một giấc mơ, họ trở lại nhà thờ mang theo Lưỡi Giáo và chiếc bình Graal. Các hiệp sĩ buồn quá, đứng dậy và dần dần rời bỏ gian phòng.
Bây giờ trong cả gian phòng mênh mông trống trải chỉ còn lại Gauvain đang quỳ dưới đất.
Một giấc ngủ đè nặng lên chàng, chàng lăn quay ra ngủ.
Sáng sớm hôm sau Gauvain tỉnh dậy nhờ một hồi kèn vang động. Như thoát khỏi giấc mơ, Gau-vain đứng ngay lên để đi vào phòng vua Câu Cá, nhưng tất cả các cánh cửa đều khép chặt.
Từ nhà thờ vẳng lên những lời hát trong buổi lễ thánh. Nhưng khi Gauvain muốn đi vào thì cửa nhà thờ không mở. Một cô gái xuất hiện.
- Thưa ngài hiệp sĩ, chắc ngài nghe thấy tiếng hát của buổi lễ thánh đang ca mừng thanh gươm mà ngài mang về cho Đức Vua chúng tôi chứ?
- Nhất định rồi, - Gauvain nói, - tôi cũng chỉ có mỗi một ước vọng là được vào trong nhà thờ. Nhưng sao cửa lại đóng?
- ôi chao chàng ơi! Cửa đóng là do lỗi của chàng. Ngày hôm qua chàng trông thấy bình Graal và Mũi Giáo thiêng nhỏ máu, thế mà chàng chẳng thốt ra những lời đặng đem lại niềm vui cho lâu đài này và cho niềm vui sống của vua Câu Cá.
Gauvain buộc lòng nhận ra sự thực đắng cay, không nói gì. Niềm hổ thẹn và tuyệt vọng bao trùm lấy chàng.
- Bây giờ chàng phải rời khỏi lâu đài này, -cô gái nói tiếp. - Dù vậy chàng đi đến đâu Trời cũng phù hộ cho chàng, chàng là người thiếu ý chí nhưng rất dũng cảm.
Gauvain cầm lấy vũ khí, như trong một giấc mơ, chàng ra khỏi lâu đài mà không trông thấy một người nào.
Ra đến cổng một giọng nói rất to cất lên:
- Ai không xứng đáng thì phải đi thôi. Cổng đang mở, sư tử đang ở trong lồng, cầu đang hạ.
Phải đi nhanh lên..Gauvain quay lại nhìn lần cuối về phía lâu đài của vua Câu Cá, một cái nhìn đau xót. Chàng thúc ngựa phi như tên bắn qua ba chiếc cầu và chỉ nhìn lại khi đã tới cánh rừng.
- Ta biết làm gì bây giờ? - Chàng thở dài tự bảo. - Liệu ta có nên vào một nhà tu giống như chàng hiệp sĩ khốn khổ kia để trút sạch tội lỗi?
Hay ta trở lại triều đình của vua Arthur để cho các bạn bè hiệp sĩ Bàn Tròn của ta khinh bỉ ta?
Gauvain vừa cân nhắc hai lựa chọn khó khăn trên vừa phóng vào rừng sâu.
Trong nhiều ngày ròng rã, Gauvain cứ lang thang trong rừng sâu, tâm trạng ảo não buồn phiền, tự nguyền rủa mình đã không thốt lên được những lời mà mọi người mong đợi.
Máy móc đi theo một con suối luồn lách giữa các cây cao, chàng tới một khu đất bỏ hoang nơi chỉ có vài chú quạ sống. Khu này ảm đạm đến nỗi chàng tưởng như nhìn thấy những bóng ma đang ngự trị ở đây.
Không xa chỗ này bao nhiêu có một tòa lâu đài đổ nát, chiếc tháp duy nhất còn lại cũng sắp sụp đến nơi.
Gauvain lại gần một bức tường bao quanh nay đã đổ rụi qua năm tháng. Chàng bỗng nghe tiếng bước chân và đột nhiên có một hiệp sĩ từ bụi cây nhào ra lao vào chàng. Gauvain đã đặt tay vào đốc kiếm thì chàng hiệp sĩ lăn đùng xuống đất như một người chết..Gauvain, lúc này đã hết bàng hoàng, xuống ngựa. Chàng lại gần chàng hiệp sĩ lạ, thấy chàng ta bị một mũi kiếm ác hiểm đâm vào mạng sườn, dù cho có mặc chiếc áo chẽn lưỡi sắt cũng không ngăn nổi. Máu chảy chan hòa và xem ra chàng ta chẳng còn sống được bao lâu.
Người hấp hối mở mắt. Dù đau đớn chàng hiệp sĩ vẫn có vẻ mừng rỡ khi trông thấy Gauvain và gắng gượng hết sức trả lời Gauvain như sau:
- ôi! Tôi được an ủi biết mấy khi chết bên cạnh một hiệp sĩ dũng cảm! Thưa ngài, số là khi đi ngang qua khu rừng này tôi nghe thấy tiếng đánh nhau. Lại gần nơi có tiếng động, tôi thấy một hiệp sĩ đang chống trả bốn tên vô lại cùng một lúc. Tôi quyết định xông vào giúp chàng và trong cuộc chiến đấu ấy một tên nghịch tặc đã đâm một nhát kiếm vào người tôi.
Chàng hiệp sĩ nắm lấy tay Gauvain nài nỉ:
- Tôi biết không ai trên đời giúp tôi được gì lúc này. Nhưng vì Chúa chàng hãy đến ngay giúp người hiệp sĩ đơn độc! Chàng đang nguy lắm!
Vừa nói xong câu đó thì hiệp sĩ tắt thở, tay còn chỉ cho Gauvain nơi diễn ra cuộc đấu.
Lúc này Gauvain chỉ còn nghĩ đến việc hoàn thành ý muốn của con người không quen biết.
Chàng lên ngựa phi như bay về hướng được chỉ.
Chưa được một dặm thì chàng trông thấy những người trong cuộc hỗn chiến. Một hiệp sĩ đứng cạnh con ngựa đã ngã gục dưới chân đang đánh kiếm dữ dội chống lại hai tên bịt mặt mặc quần áo đen. Hai tên đồng bọn của chúng thì đã bỏ mạng nằm tắm trong máu trên bãi cỏ.
- Cố gắng cầm cự, hỡi chàng hiệp sĩ! - Gau-vain kêu lên. Và nắm lấy mũi giáo buộc ở đầu yên ngựa, chàng lao luôn vào hai tên áo đen.
Chỉ ít phút một trong hai tên lăn ra đất. Tên này vừa lóp ngóp bò dậy thì bị chàng hiệp sĩ đơn độc đưa ngay lưỡi gươm nhọn vào ngực đâm hắn chảy máu.
Thấy diễn biến hóa ra như vậy tên còn lại ngập ngừng rồi phóng ngựa chạy trốn, biến mất vào trong rừng thẳm.
Gauvain xuống ngựa lại gần người hiệp sĩ xa lạ. Chàng cười nói:
- Thưa hiệp sĩ, thế là bọn chúng ngán đánh nhau rồi! Nhờ Trời tôi được tới giúp một hiệp sĩ!.- ... Vốn là bạn cũ của chàng, - người lạ mặt tiếp lời. - Chàng chưa nhận ra tôi ư?
Hiệp sĩ quay về phía Gauvain lấy cánh tay áo lau lớp bụi trên mặt. Gauvain tưởng như đang mơ...
- Ngài Lancelot! Có phải ngài không?
Chàng không nhầm: chính là hiệp sĩ Lancelot du Lac, bạn chàng bên chiếc Bàn Tròn, người bạn cố tri của chàng đã bao lần cùng chàng chuyện trò thân mật tại triều đình vua Arthur!
- Xin chào Gauvain! - Lancelot sung sướng reo lên. - Thật là một ngày kỳ lạ nhưng cũng là một vui mừng bất ngờ!
Hai người vừa cười vừa ôm ghì lấy nhau, quá hạnh phúc gặp lại nhau trong hoàn cảnh đáng ngạc nhiên như vậy. Biết bao chuyện cần nói với nhau do đó họ quyết định dừng chân quanh đó ngày mai mới lên đường. Gauvain dẫn đầu đi tới tòa lâu đài đổ nát, trước hết họ mai táng chàng hiệp sĩ không may đã hy sinh thân mình để cứu Lancelot.
Lúc này đêm đã đến. Hai người bạn ăn tạm một bữa ăn thanh đạm và ngồi trước một ngọn lửa sáng bừng, ấm áp. Hiệp sĩ cháu vua Arthur kể lại cho bạn nghe cuộc phiêu lưu của mình.
Chàng kể về cô gái trọc đầu, nhờ gặp cô ta chàng đã dấn thân vào cuộc tìm kiếm lâu dài.
Chàng cũng kể về chuyến lưu chân tại lâu đài Góa Phụ Phu nhân, về nơi chàng đã tận mắt trông thấy ngôi mộ của chính hai chàng mà nàng Trinh Nữ Kiêu Ngạo dự định chôn họ trong ngôi nhà của mình, về cái ngày mà con chó nọ đã dẫn chàng tới xác chàng hiệp sĩ có cô em gái ngồi trông coi anh mình.
- Cô em gái này cho biết Lancelot du Lac đã giết anh cô. Vậy thực tế có đúng thế không?
- Tôi nhớ lại quả có đánh nhau với một hiệp sĩ thật. Nhưng anh có biết tại sao không? Thằng điên đó lao bừa vào tôi chẳng cần lý do gì cả. -Lancelot tự bảo vệ mình. - Nhưng thôi, xin anh hãy kể tiếp câu chuyện đi.
Gauvain nói tiếp. Càng kể gần đến đoạn trước lâu đài vua Câu Cá và các diễn biến tiếp theo giọng chàng càng nặng nề mất vui vì nó làm chàng nhớ đến thất bại cuối cùng của mình.
Chàng cũng không giấu giếm Lancelot niềm hân hoan của mình khi nhìn thấy chiếc bình Graal cũng như sự bất lực của mình không nói lên được những lời cần nói mà mọi người mong đợi..Gauvain kể chuyện xong thì đêm đã khuya.
Suốt một lúc lâu, hai người bạn không nói năng gì chỉ đắm chìm trong những suy nghĩ riêng tư.
Người ta chỉ nghe thấy tiếng gió thổi qua những hàng cây và tiếng củi nổ lách tách trong đống lửa.
- Bây giờ anh làm gì? - Lancelot hỏi.
Gauvain thở dài sâu xa.
- Tôi đã quyết định rồi, - cuối cùng chàng nói. - Cuộc đi tìm chiếc bình Graal đối với tôi thế là đã xong hẳn. Tôi sẽ trở về lâu đài Camelot của vua Arthur. Trước các hiệp sĩ Bàn Tròn, tôi sẽ kể lại câu chuyện vừa kể cho anh nghe để họ đến lượt mình đi tìm Chiếc Bình thiêng. Rồi sau đó có thể tôi sẽ vào một nhà tu nào đó. Anh có đi cùng với tôi về Camelot không?
Lancelot suy nghĩ một lát, trong khi đó Gau-vain cảm thấy anh ta đã quyết định xong.
- Không, bạn đồng hành thân yêu của tôi ạ, tôi sẽ không đi cùng bạn đâu. Bạn biết tôi quá rõ để hiểu là sau khi nghe những lời bạn nói tôi chỉ còn muốn thử lao vào cuộc phiêu lưu mà thôi. Kể từ giờ phút này mục đích đời tôi chỉ là đi tìm chiếc bình Graal, tìm thấy nó rồi sẽ chinh phục nó bằng được.
- Quả là tôi biết anh từ quá lâu, Lancelot du Lac ạ. Tôi cũng biết sự thể sẽ là như vậy. - Gau-vain đáp. - Anh có thể là người xứng đáng hơn tôi, - chàng thở dài nói thêm.
- Đừng buồn, bạn Gauvain ạ! - Lancelot nồng nhiệt nói. - Bạn nên biết là nếu như tôi có tìm được nó, cũng là nhờ những kinh nghiệm quý giá của bạn. Trên trái đất này, Đức Chúa Trời đã trao cho chúng ta mỗi người một nhiệm vụ khác nhau, tuy nhiên tất cả chúng ta đều chiến đấu cho vinh quang của Người.
- Lời anh nói thật là những lời khôn ngoan, bạn thân thiết của tôi ạ. Giờ thì chúng ta hãy nghỉ ngơi một chút, ngày mai mỗi chúng ta sẽ đi theo con đường của mình.
Vậy là mỗi người làm theo lời mình nói. Họ nghỉ ngơi không được bao lâu vì chỉ vài tiếng đồng hồ sau là trời sáng. Hai chàng hiệp sĩ nai nịt gọn gàng ôm hôn nhau từ biệt.
- Tạm biệt Gauvain! Gửi lời chào của tôi đến các bạn hữu Bàn Tròn và hãy quỳ hộ tôi trước mặt vua Arthur nhé!
- Tạm biệt Lancelot! Cầu Trời tránh cho anh mọi hiểm nguy. Mong Người coi anh đúng là.người xứng đáng để hoàn thành việc mà tôi đã thất bại.
Trong khoảng rừng trống đầy ánh nắng hai người chia tay nhau ra đi, một người đi về phía mặt trời mọc, một người đi về phía mặt trời lặn.
Về Gauvain không cần lâu la lắm vì chẳng có gì xảy ra trên đường chàng đi tới lâu đài Camelot.
Riêng người kể lại câu chuyện này thì lúc nào cũng đi theo con đường của phiêu lưu và chiến công. Như một người giữ ngựa trung thành anh ta đi theo con đường mà Lancelot đã đi.
Kể từ lúc Gauvain và Lancelot chia tay nhau đến giờ đã nhiều ngày trôi qua, trong những ngày đó Lancelot cưỡi ngựa không nghỉ, lòng phấn chấn nghĩ tới lúc tìm được lâu đài vua Câu Cá.
Sức mạnh của chiếc bình Graal lớn đến nỗi đối với mỗi hiệp sĩ đi tìm nó con đường đi tìm đều khác nhau.
Chọn một con hẻm ngoằn ngoèo qua các bụi cây, Lancelot nghe thấy tiếng người nào đó đang than khóc. Một hiệp sĩ gập mình trên yên ngựa vì đau đớn tiến đến trước mặt chàng.
- Thưa ngài, - người đó nói với Lancelot, -xin ngài hãy quay trở lại ngay, vì Chúa, bởi vì nếu ngài tiếp tục con đường này ngài sẽ đi qua một chỗ cực kỳ đáng sợ. Chính ở nơi đó mà tôi bị thương như thế này đây!
- Chỗ nào vậy ạ? - Lancelot hỏi.
- Thưa ngài, nó là đoạn đường đi qua lâu đài mà người ta gọi là đoạn đường của Các Bộ Râu, bất kể hiệp sĩ nào qua đó đều phải bỏ lại bộ râu của mình dưới lưỡi dao cạo nếu như không muốn chiến đấu để giữ lại nó. Đây ngài xem, chính vì tôi từ chối không chịu cho bộ râu của tôi mà tôi sắp chết như thế này đây!
- Không ai có thể cho ngài là hèn được. Mà chính ngài lại khuyến khích tôi đừng hèn cơ đấy!
- Lancelot đưa ý kiến. - Quả thật tôi thà xử sự không mất danh dự mà bị thương còn hơn để mất một sợi râu vì thiếu can đảm.
Thế là chàng tiến ngay theo con đường nguy hiểm. Con đường vừa bước vào đã thấy gay go.
Một cái cầu đáng ghê sợ ngăn cách bìa rừng với những cánh cửa của lâu đài. Ngay cổng là hai người đàn ông vũ trang. Bên kia cầu, bờ tường thành được trang trí bằng đầu lâu những kẻ quý danh dự... và bộ râu của mình hơn là cuộc sống.
Lancelot tới gần. Hai người cầm vũ khí tiến về phía chàng..- Thưa ngài, - một trong hai người lên tiếng, - xin ngài đứng lại và trả giá qua cầu. Xin để lại cho chúng tôi bộ râu, râu ngài đẹp quá, vả chúng tôi cũng đang rất cần.
- Các ông dùng râu của tôi làm gì? - Lancelot hỏi, ngồi thẳng trên mình ngựa, sẵn sàng giao chiến.
- Trong rừng này có rất nhiều thầy tu khổ hạnh, chúng tôi dùng nó để làm chăn ấm cho họ, - cả hai người đồng thanh trả lời vẻ dọa nạt.
- Tôi rất buồn cho các thầy tu, nhưng xin mời họ cứ việc mà run lập cập, - Lancelot trả lời, - bởi vì không bao giờ các người có được bộ râu của tôi cả!
- Nếu ngài không làm vậy thì xin ngài bỏ mạng lại đây, - hai người nói to và tuốt kiếm.
Lancelot giận quá lao ngay vào người bên phải và dùng giáo đâm thẳng vào ngực người này.
Nhát giáo mạnh đến nỗi xuyên thủng ra sau lưng hắn và hắn ta lăn xuống dưới chân ngựa.
Thấy bạn mình bị thương đến chết như vậy người kia xông vào Lancelot và giáng một nhát kiếm làm vỡ cái khiên của chàng hiệp sĩ. Lancelot đáp lại bằng một cú trời giáng chặt đứt cánh tay kẻ thù đồng thời đứt luôn đầu con ngựa hắn cưỡi.
Chàng xuống ngựa định đưa hắn về chầu trời nhưng phu nhân chủ tòa lâu đài thấy tình cảnh quân sĩ của mình như vậy vội bước xuống cầu can thiệp:
- Xin dừng lại thưa ngài hiệp sĩ! Xin đừng giết hắn, ngài đừng sợ, hãy đến đây nói chuyện với tôi!
Bà phu nhân gây một tác động kỳ lạ tới Lan-celot, trong một lát chàng như bị cầm tù bởi sắc đẹp của người đàn bà.
- Thôi được, tôi tha cho hắn, - giọng chàng mệt mỏi hẳn đi, tay chàng cũng rã rời buông xuống.
Chàng để người ta dẫn vào lâu đài, cởi bỏ vũ khí cho chàng và mặc cho chàng một bộ quần áo lịch sự chưa từng thấy rồi đưa chàng tới bàn bà chủ lâu đài xinh đẹp.
Bữa cơm bắt đầu. Và kỳ lạ thay các món ăn đều được dọn ra bởi các hiệp sĩ bị khoét mắt, thức uống được rót ra bởi các hiệp sĩ bịt mặt nạ sắt giống như những tù binh. Tất cả đều mang vẻ phục tùng của nô lệ, chẳng khác gì thân trâu ngựa..Cơm xong, bà phu nhân dẫn Lancelot về buồng nghỉ và bảo chàng:
- Chàng hiệp sĩ, chàng đã hiểu luật lệ của lâu đài này. Những hiệp sĩ hầu chúng ta ăn vừa rồi trước đây đều là những hiệp sĩ dũng cảm cả, nhưng giờ đây chỉ còn là những thằng hầu mà thôi.
Rồi bằng một giọng êm ái nàng đặt tay mình trên đầu gối chàng hiệp sĩ:
- Đã từ lâu em vẫn chờ đợi người chiến thắng được quân của em. Chàng nay đã ở trước mặt em. Thưa chàng, em xin dâng chàng vị trí ông chủ của lâu đài này và ông chủ của cả em nữa.
Không lẽ chàng từ chối món quà biếu vương giả ấy?
Lancelot mê mệt vì giọng nói mơn trớn ấy nhất là trước mặt người đẹp, suýt nữa nghe theo ý nàng. Nhưng hạ mắt xuống, chàng hoảng hốt nhận ra những ngón tay của người phụ nữ lẳng lơ đều tận cùng bằng những chiếc vuốt kinh hãi và chúng đang cào nát bàn tay chàng ra!
Chàng đẩy phắt con người đó ra, cầm lấy vũ khí và chạy ra cổng lâu đài theo sau là những lời nguyền rủa:
- Lancelot du Lac, trời tru đất diệt mi! Mi tưởng ta không biết tên mi sao? Mi tưởng ta không biết mi đang yêu hoàng hậu Guinevière vợ vua sao? Đi đi, đi khỏi lâu đài này mà chạy theo chiếc bình Graal! Mi đã khinh thường ta, mi sẽ phải chết!
Lancelot không nghe những lời nguyền rủa kinh hoàng của mụ đàn bà điên cuồng. Chàng nhảy vội lên ngựa phi vào rừng. Nhưng khi qua hết cây cầu giọng mụ đàn bà từ trên tường thành vẫn còn vẳng đến tai chàng:
- Mi tưởng mi xứng đáng chinh phục chiếc bình Graal ư? Mi tưởng tâm hồn mi trong sạch ư? Mi dám yêu vợ vua của ngươi! Mi sẽ gặp chuyện chẳng lành, tên điên kia!
Lancelot phóng ngựa rất nhanh qua khu rừng u tối trong rất nhiều giờ đồng hồ, đằng sau chàng vẫn là những lời nguyền rủa của phu nhân lâu đài Râu. Ngựa chàng mệt lử phải đứng lại nghỉ bên một bụi cây phần nào hiếu khách.
Chàng hiệp sĩ nằm lăn ra trên cỏ, mắt nhìn đăm đăm lên mặt trăng. Dù cho chàng làm gì đi nữa, lời mụ phu nhân vẫn ám ảnh chàng không dứt. Và lúc này đây mọi ý nghĩ của chàng đang bay về triều đình xa xôi của vua Arthur, nhất là.về với nàng Guinevière, người vợ của vị chúa tể lâu đài Camelot...
- Phải thừa nhận rằng, - chàng nghĩ ngợi, -ta đã nuôi những tình cảm thắm thiết với người vợ vua của ta, người mà ta đã thề sẽ trung thành suốt đời. Qua giọng nhân vật vừa rồi hẳn là quỷ đã nói với ta. Nhưng làm sao quỷ nhìn thấu suốt được những tình cảm tội lỗi ấy trong ta?
Lancelot vô cùng đau khổ. Đời chàng bỗng nhiên đầy những phản trắc và một nỗi nghi ngờ tràn ngập lòng chàng: có đúng là chàng không xứng đáng nhìn thấy chiếc bình Graal không? Và nếu như vậy thì chắc gì chàng sẽ hành động khá hơn Gauvain?
Mệt mỏi rã rời vì nỗi nghi ngờ đè nặng trong lòng, cuối cùng chàng chìm đắm trong một giấc ngủ mê mệt.
Nghỉ ngơi như vậy cũng chẳng ăn thua gì, tâm hồn đầy lo âu Lancelot đi vào một ngôi làng gần đấy.
Nơi đây đang cực kỳ sôi động và Lancelot gặp một đám rước. Một hiệp sĩ uy nghi mặc quần áo dát vàng bị một tên đao phủ cực kỳ bẩn thỉu dẫn đi chịu cực hình. Điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là người kia cầm trong tay một lưỡi rìu bằng bạc.
Lancelot đến gần, rất ngạc nhiên với quang cảnh đó, kẻ chịu cực hình thấy vậy bèn nói với chàng những lời van vỉ sau đây:
- Thưa ngài, xin thề với ngài là tôi chỉ mong ngài gia ơn chặt cái đầu tôi đi bằng lưỡi rìu này cho, bởi vì tôi đã bị kết tội phải chết vì lưỡi rìu này!
- Lạy các thánh, anh nói với tôi cái gì vậy?
Tôi không quen biết anh, cũng chẳng có lý do gì để giết anh!
- Nhưng vẫn phải vậy thôi, - chàng hiệp sĩ nài nỉ. - Bởi vì nếu như ngài không làm vậy thì tôi buộc phải chặt đầu ngài bằng chính lưỡi rìu này! Đó là luật áp dụng cho tất cả các hiệp sĩ đi vào vùng này. Tôi đã xưng tội xong và đã sẵn sàng chết. Xin ngài hãy cầm lấy thứ vũ khí này!
Và chàng hiệp sĩ khăng khăng đưa cái rìu bằng bạc cho Lancelot. Lancelot vội đẩy ra và cố gắng thuyết phục chàng hiệp sĩ:
- Hiệp sĩ ơi, xin anh, anh đừng đòi hỏi tôi điều đó, anh hãy thương lấy bản thân anh!.- Tôi cũng muốn lắm, - người kia trả lời, -nhưng không lẽ nào ngài lại phải đặt đầu mình lên thớt cho người ta chặt thay vì đầu tôi!
- Tôi không thể làm ơn cho anh việc đó được. - Lancelot thở dài.
Nhưng chàng cũng hiểu rất rõ là quyết định của chàng hiệp sĩ không sao thay đổi được. Vì vậy chàng xuống ngựa, cầm lấy chiếc rìu chặt phăng đầu chàng hiệp sĩ bằng một nhát gọn và mạnh, đến nỗi cái đầu lăn lông lốc cách thân mình bảy bộ khiến cho đám đông hò reo lên như điên như dại.
Nhưng Lancelot không muốn chần chừ ở lại chỗ này một chút nào. Chàng lên ngựa phóng đi cho nhanh, nguyền rủa cái thành phố dã man có những phong tục kinh hãi.
Lancelot cứ xuyên rừng mà đi trong nhiều ngày ròng rã để tìm lâu đài vua Câu Cá. Nhưng chỉ dẫn của Gauvain cho chàng chẳng giúp chàng được gì cả, vì quyền lực của bình Graal rất lớn, nó khiến cho con đường đi tìm trở nên rất khác nhau đối với từng hiệp sĩ một.
Đi qua một khu rừng thưa lớn, chàng trông thấy một cái cây cành lá rườm rà, cao lớn huy hoàng. Thấy quang cảnh vui tươi lòng chàng lại buồn rười rượi vì nỗi cô đơn, chàng ở xa bạn bè Bàn Tròn của chàng không biết bao nhiêu đường đất mà kể rồi!
- Chà! - Chàng buồn bã tự nhủ. - Khu này tươi đẹp quá! Giá như ta có một hiệp sĩ làm bạn đường thì vui biết mấy!
Vừa nói xong thì như có phép thần trả lời ý nghĩ của chàng, một tiếng ngựa hí vang lên ngay gần chàng.
- Trời thấu lời cầu xin của ta chăng? - Lan-celot vui vẻ reo lên. - Ta cần phải biết có chắc là như vậy không?
Chàng định lao ngựa về phía có tiếng động nhưng vừa được vài thước thì ở đầu khu rừng thưa một hiệp sĩ từ phía rừng đi ra. Hiệp sĩ này vũ trang đầy đủ, một tay cầm lưỡi giáo dài, một tay cầm chiếc khiên bằng bạc giữa có chữ thập đỏ. Lancelot không phân biệt được nét mặt anh chàng này vì anh ta đội một chiếc mũ chiến che kín hết mặt mũi, trên chiếc mũ phất phơ một túm lông màu tím sặc sỡ.
- Xin chào hiệp sĩ, - Lancelot vui vẻ cất tiếng vừa tiến về phía chàng hiệp sĩ. - Chàng là người mà bao nhiêu ngày nay tôi mới được gặp đấy!.Nhưng người lạ mặt không chào lại mà chỉ cộc lốc nói to:
- Ngài hiệp sĩ hãy lấy khiên che mình cho, cũng như tôi đây này, vì tôi sắp sửa thách chàng một cuộc đấu công bằng và ngay thẳng. Nhờ Trời chàng sắp được gặp một tay kiếm khá đấy và đã từ lâu tôi chưa đấu với ai, tôi đang muốn xem tôi còn năng lực nào không, do đó chẳng gì bằng đấu luôn với một địch thủ xứng đáng!
- Lạy các thánh, - Lancelot kêu lên, - vừa gặp một hiệp sĩ xin tôi chặt đầu hộ nay lại đến tên điên này! Làm sao tôi đấu với anh được đây?
Tôi chẳng biết anh là ai, tên cũng không biết!
Để trả lời, chàng hiệp sĩ lao ngay mũi giáo vào người Lancelot mạnh đến nỗi làm một chân Lancelot trượt khỏi bàn đạp, lưỡi giáo cắm ngập vào cái khiên của chàng.
Trước cơn khùng của địch thủ, Lancelot điên người lao vào trận đấu. Mũi giáo của cả hai đều bị gãy, hai người bèn dùng gươm. Hai lưỡi kiếm tung hoành như mưa trong nhiều phút đồng hồ, người nọ kinh ngạc vì sự dũng cảm của người kia. Đến một lúc tay địch thủ cực kỳ khéo léo đưa ngay một mũi gươm vào ngực Lancelot. Bị nỗi đau đớn làm cho hăng lên, Lancelot cũng đâm ngay một nhát kiếm xuyên cánh tay của kẻ địch.
Cứ tưởng trận đấu đến đây là xong, nhưng -ta thấy họ xiết bao dũng cảm! - ngược lại nó càng hung dữ hơn bao giờ hết. Mặc dù cả hai đều mất máu khá nhiều, hai chàng hiệp sĩ vẫn ra sức giáng những cú mà giá vào kẻ khác thì hẳn đã phải tiêu ma rồi.
Đáng sợ thay cho đời họ! May thay một cụ già mặc áo len thô xông vào khu rừng thưa đứng giữa hai đấu sĩ, hai tay cụ giang ra thành hình chữ thập.
- Dừng lại đã! - Cụ hét lên với Lancelot. -Người này vừa ốm dậy, một trận ốm rất nặng và kéo dài, thế mà ngươi còn làm cho anh ta bị thương thêm nữa!
- Lạy các thánh! - Lancelot vừa thở vừa đáp.
- ốm dạy mà như thế đấy, cụ xem đây, anh ta có tha gì tôi đâu! Hơn nữa, không bao giờ tôi giơ vũ khí nếu anh ta không đánh tôi trước mà cũng chẳng thèm cho tôi biết tên mình là gì.
- Hình như tôi cũng chẳng biết anh là ai và tên anh là gì thì phải! - Kẻ thù của Lancelot nói, vứt kiếm xuống đất..- Tôi làm gì có thì giờ? Anh lao vào tôi như một thằng điên! Còn bây giờ, muốn biết tên tôi thì đây: tôi là con của vua Ban de Bernoic, tên tôi là Lancelot du Lac.
Mấy tiếng này như tiếng sét đập vào chàng hiệp sĩ lạ mặt và ông tu sĩ già.
- A! Trời ơi! - Tu sĩ nói, - nghe thấy chưa Perceval? Người này là anh em họ của chàng chứ ai, người mà chàng đã bao lần gặp gỡ tại triều đình vua Arthur chứ ai!
- Đúng rồi, tôi nhận ra anh ta rồi, - Perceval vừa nói vừa bỏ chiếc mũ chiến ra. - Người anh em họ ơi, tha thứ cho tôi chứ? Đã lâu quá rồi...
căn bệnh quái ác của tôi làm tôi mất cả tinh thần và lý trí.
Lúc này Lancelot cũng đã nhận ra ông em họ trẻ tuổi mặc dầu bệnh tật còn in dấu trên bộ mặt mệt mỏi của anh ta.
- Nhờ Trời, Perceval tốt bụng của tôi! - Lan-celot ôm ghì Perceval và nói. - Suýt nữa ta giết lẫn nhau...
- ... Chỉ một chút nữa thôi chứ mấy! - Cụ già nói. - Thôi ta hãy vào đây, vào nơi tu hành ẩn dật của tôi, tôi sẽ băng bó vết thương cho hai người kẻo máu đang thấm hết xuống đất đây này!
Thế là người nọ đỡ người kia, họ mau chóng vào tới nhà tu. Tu sĩ gọi một người giữ ngựa trẻ tuổi cùng với một cô gái, gỡ áo giáp lưới sắt của hai chàng hiệp sĩ anh em ra, khéo léo chăm sóc vết thương cho họ.
Tuy nhiên mặc dầu hai y tá rất giỏi giang, vết thương của họ quá sâu nên họ phải nằm dưỡng bệnh trong nhà tu suốt một tuần lễ. Trong thời gian này họ tranh thủ kể cho nhau nghe các cuộc phiêu lưu của mình từ đã lâu lắm, từ cuộc gặp gỡ cuối cùng tại triều đình vua Arthur.
Perceval kể đầu tiên, chàng kể về những nỗi gian nguy gặp phải trên đường đi tìm lâu đài vua Câu Cá, những ngày dài ròng rã đi trong rừng sâu, những cuộc chạm trán hiểm nghèo.
Đến khi tới đoạn ngụ tại lâu đài chiếc bình Graal thì giọng chàng buồn hẳn và chàng chẳng kém buồn tủi khi kể lại chiếc bình thiêng và Mũi Giáo đã hiện ra như thế nào trong khi chàng không sao mở được miệng...
-... Và thế là tôi đến đây trốn tránh sự đời mong giũ sạch lỗi lầm ở nơi tu hành của vị tu sĩ này, - cuối cùng chàng chấm dứt câu chuyện.
- Gần đây có một hôm tôi cảm thấy cuộc đời hình như trở lại trong huyết quản, thế là lần đầu.tiên tôi ra khỏi bốn bức tường. Và tôi gặp anh...
trong hoàn cảnh như anh đã biết... Nhưng anh hãy cho tôi biết anh định đi đâu? Anh có tin tức gì của bạn bè Bàn Tròn chúng ta không?
Lancelot kể chuyện gặp Gauvain. Đến đoạn rủi ro của Gauvain trong lâu đài vua Câu Cá, mặt Perceval cau lại vì đau đớn. Còn ai hiểu được nỗi thất vọng của Gauvain hơn chàng nữa!
- Vậy bây giờ, anh định làm gì hả anh họ tôi? - Perceval hỏi sau một lát im lặng kéo dài.
- Số phận tôi từ nay không còn thuộc về tôi nữa, - Lancelot trả lời. - Tôi sẽ tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình, hy vọng Trời sẽ giúp tôi. Và biết đâu, qua kinh nghiệm của anh và của Gauvain, nếu như tôi được nhìn thấy chiếc bình Graal, biết đâu tôi đủ sức mạnh để đặt ra những câu hỏi mà mọi người trông chờ... Còn anh?
Perceval nghĩ ngợi một lát:
- Chắc anh đã đoán được. Quả phụ phu nhân cùng con gái ở tòa lâu đài nơi Gauvain đã trú ngụ và giúp chủ nhân thoát khỏi những độc ác của tên vua lâu đài Chết thêm một năm nữa chính là mẹ tôi và em gái tôi. Tôi sợ rằng sau khi anh bạn chúng ta ra đi, tên vua độc địa kia lại gây sự. Rõ ràng vị trí tôi giờ đây là phải ở bên cạnh hai người phụ nữ đó để đánh tan bọn hèn hạ rồi.
Perceval thở dài nói thêm:
- Giá như tôi có năng lực hơn trong sứ mạng ở lâu đài vua Câu Cá...
Có lẽ Lancelot hiểu nỗi buồn của bạn, chàng lấy hai tay ôm vai bạn:
- Hãy tin tôi, bạn Perceval ạ, sự ăn không ngồi rồi làm cả hai ta đều thấy nặng nề. Đêm xuống rồi, ta đi nghỉ thôi, ngày mai mỗi người sẽ đi theo định mệnh của mình....