Huyết Luyện Ma Quân - Huyền huyễn - Thedark - Mới nhất : Chương 52
HUYẾT LUYỆN MA QUÂN Tác giả : Thedark
Nguồn 4vn.eu
MỞ ĐẦU :
Không phải là thiên tài tu luyện, không gặp được kỳ ngộ to lớn, ra đường nhặt được bảo vật kinh thế hãi tục, khiến người người phải ghen tỵ, Thành Đạt, một thằng nhóc lang thang đầu đường xó chợ rồi đi làm tá điền cày thuê cuốc mướn cho một tiểu môn phái nhỏ bé yếu ớt như con trùng con bọ, làm thế nào để ngẩng mặt ngẩng mày lên với đời.
Hung hăn, độc ác, coi mạng người như cỏ rác lại còn thói ghen ăn tức ở, căm thù bất cứ ai có tài hơn mình, làm thế nào Thành Đạt lại được công nhận là một trong những chính khách thành công nhất, khôn ngoan nhất, giỏi dùng người nhất trong thế giới của các tu giả?
Lấy máu người làm vật dẫn, đoạt hồn người chết làm vũ khí, ai lọt vào tay Thành Đạt, dù có chết cũng vẫn phải tiếp tục chịu khổ cực. Tại sao thiên hạ chúng sinh lại ca tụng gã là một con người nhân từ, vị tha, một vị minh quân sáng láng, hiền đức?
Thế giới tu tiên là một thế giới vô cùng rộng lớn của những người tu tiên. Những người sinh trưởng tại thế giới này đều có thể tu luyện tiên thuật và có hi vọng đắc đạo thành tiên, phi thăng lên tiên giới giải thoát khỏi cõi đời trần ai ngắn ngủi này. Nhưng trên thực tế, dù cho năm nào cũng có hàng tỷ người trên thế giới này lao đầu vào công việc tu tiên vốn vô cùng nhàm chán và gian khổ này thì số người có thể đạt được đôi chút thành tựu là vô cùng ít ỏi và nhỏ nhoi. Hầu hết những người tu tiên có đôi chút thành tựu khi đi theo con đường này đều phải tụ hợp được bốn yếu tố cơ bản then chốt: Tư chất; sự cần cù nỗ lực, ngộ tính và vận khí, đây cũng là những tiêu chí chính mà các môn phái tu tiên tuyển chọn đệ tử cho bản phái. Đương nhiên hai yếu tố mơ hồ, khó giải thích, không thể nắm bắt hay suy xét như ngộ tính và vận khí thì chẳng môn phái nào coi là tiêu chí tuyển chọn cả. Hầu hết các đại môn phái chỉ để ý đến tư chất của môn hạ đệ tử, chỉ có các môn phái loại vừa và nhỏ mới để ý đến đức tính cần cù, chịu khó, nỗ lực tu luyện của đám đệ tử.
Thiên Linh Môn là một môn phái tu tiên tại một quốc gia tu tiên nhỏ là Tĩnh Thiên Quốc. Môn phái Thiên Linh Môn này ngay tại một quốc gia tu tiên có thực lực chỉ thuộc hạng ba, hạng bốn trong tu tiên giới như Tĩnh Thiên Quốc này cũng là một trong những môn phái yếu kém nhất. Toàn môn phái chỉ có một vị trưởng lão Kết Đan kỳ, không có tu sĩ Dịch Linh kỳ nào và chỉ có sáu đệ tử Trúc Cơ kỳ, lực lượng có thể nói là yếu kém đến mức không thể yếu kém hơn được nữa. Do thực lực của môn phái quá yếu kém nên môn phái này không chỉ không thể thu hút được những đệ tử có tư chất cao gia nhập mà ngay đến những đệ tử có ý chí kiến nghị, luôn cần cù nỗ lực, một lòng hướng đạo cũng không nguyện ý lưu lại nơi này. Vì lý do đó, Thiên Linh Môn phải mở rộng đại môn, chào đón tất cả mọi tu tiên giả cấp thấp muốn đến gia nhập bản môn chỉ với một điều kiện vô cùng dễ dãi và đơn giản “Linh Thạch”, một loại khoáng chất đặc biệt ẩn chứa đạt lượng linh khí, được tu tiên giả sử dụng như tiền tệ. Tức là, bất kỳ ai cũng có thể gia nhập Thiên Linh Môn và nhận được các công pháp tu tiên, pháp quyết tiên thuật..., chỉ cần mỗi năm nộp cho sư môn 10 viên linh thạch là được. Cái gì? Gia cảnh thấp kém không có sẵn linh thạch! Không cần quá lo lắng đâu. Thiên Linh Môn dù chỉ là con trùng, con kiến trong tu tiên giới nhưng cũng có đủ da thịt, nội tạng. Môn phái này chiếm giữ một ngọn núi khá lớn tên gọi Thiên Linh Sơn và tại đây khai phá được trên ngàn mẫu linh điền cho đám đệ tử thuê mướn để trồng linh lương, những loại cây lương thực đặc biệt có thể hấp thu linh khí trong trời đất và cung cấp những nông sản có chứa một lương linh khí rất cao, tu tiên giả sử dụng thường xuyên sẽ nhận được những hiệu dụng như sử dụng linh đan cấp thấp. Tất nhiên, khi đệ tử bản môn thuê linh điền của môn phái thì cũng phải trả tiền thuê với giá từ 10 – 15 viên linh thạch một năm, một mẫu linh điền tùy vào chất lượng của từng mẫu. Với giá trị hiện tại của linh lương trong tu tiên giới, chỉ cần đám đệ tử chịu khó làm việc thì họ vẫn có thể thu được không ít lợi nhuận từ việc làm tá điền cho môn phái. Nhưng cũng vì vậy àm việc tu luyện của họ bị ảnh hưởng không nhỏ, cơ hội tiến bước trên con đường tu tiên của những người đệ tử này thật sự không lớn hơn việc con rùa có thể thắng thỏ trong một cuộc thi chạy là bao. Để gia tăng thêm năng suất cho đám đệ tử, Thiên Linh Môn còn miễn phí dạy dỗ bọn họ những tiên thuật của Ngũ Hành Nông Pháp, một hệ thống các pháp thuật đơn giản chuyên dùng để chăm sóc các loại linh lương, linh thảo trong tu tiên giới. Nhờ có khoản thu nhập này, Thiên Linh Môn dù yếu ớt vẫn có thể tiếp tục gắng gượng duy trì một hơi thoi thóp ngay giữa tu tiên giới này.
Tại một ngôi nhà nhỏ bé, đơn sơ, được bao bọc bởi những lũy tre xanh, một cái vườn rộng và một ao cá con con nằm trong địa phận của Thiên Linh Môn, một gã thanh niên to béo, da dẻ hồng hào, tròn trịa như mặt trăng rằm lười biếng nằm dài trên bờ ao, im lặng lắng nghe tin tức phát ra từ cái radio nhỏ cũ kỹ bên cạnh
“Huyết Thiên đế quốc một lần nữa bộc phát xung đột kịch liệt. Hai mươi tư doanh địa tiền phương của tu tiên giả bị Huyết Ma quân bất thần đột kích, thương vong thảm trọng. Quân đội tu ma giả thừa thế tấn công sâu vào trong lãnh địa của tu tiên giả.”
“Ngũ Lăng Phái và Vạn Linh Tông chính thức đình chiến. Hai bên ký kết hiệp định...”
“Liên minh Tây Phương Thần Giáo nghiên cứu chế tạo hàng loạt thành công Bách Quân Lệnh, cho phép tu giả sở hữu có thể cùng một lúc chỉ huy 100 khối lỗi cấp thấp làm việc đơn giản như khai khoáng, vận chuyển... Các chuyên gia dự đoán, điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến giá cả nô lệ khai khoáng trên toàn thế giới.”
“Thất Tinh Kiếm, trưởng môn Thất Tinh Phái của Thiên Nguyệt Quốc thành công ngưng kết Nguyên Anh, tiến vào Nguyên Anh kỳ. Thiên tượng oai nghiêm chất động cả ngàn dặm xung quanh tổng đàn Thất Tinh Phái. Người người kinh bái. Thất Tinh Phái chính thức bước vào hàng ngũ các đại môn phái. Thiên Nguyệt Quốc được công nhận là quốc gia tu tiên thuộc bậc ba thứ một ngàn tám trăm lẻ tám trong tu tiên giới. Phúc khí thịnh vượng khôn tả...”
Gã thanh niên vừa nằm nghe vừa chép miệng chặc lưỡi với những thông tin thú vị, vừa cau mày lẩm bẩm chửi rủa khi nghe những tin tức trái ý chốc chốc lại đưa mắt nhìn sang đám mây mù bên cạnh kia. Đó là một đám mây mù rất kỳ lạ. Mặc dù nó dày đặc đến mức có thể che khuất cả tia sáng mặt trời ngay giữa những ngày hè ngập nắng chói chang này nhưng lại chỉ xuất hiện tại khoảng không gian nhỏ bé trên mặt ao nước, những nơi khác quanh đó không hề có một chút hơi ẩm nào chứ đừng nói đến mây hay sương mù. Gã thành niên gật gù lẩm bẩm
“Đã qua hai canh giờ vẫn không có chút dấu hiệu tan biến nào. Tốt! Linh Thủy Thuật của ta thực sự đã chạm đến cửa ngõ của cảnh giới thứ ba rồi. Chỉ còn thiếu một bước nữa thôi là có thể đạt đến cảnh giới Linh Vũ của Linh Thủy Thuật, khi đó... hắc hắc hắc....”
Một tràng cười kỳ quái vang lên từ miệng gã thanh niên. Đôi mắt to của gã ta lim da lim dim như đang nhìn thấy một cảnh tượng tuyệt đẹp nào đó. Nhưng vì miệng gã hiện tại đang nhỏ ra từng dòng nước dãi trông như một con chó sói đang nhìn một con cừu non nên có lẽ cảnh tượng mà gã ta đang nhìn thấy kia không phải là bất kỳ cảnh gì tử tế cả, không nên tìm hiểu nó thêm nữa thì hơn.
Linh Thủy Thuật là một trong những tiên thuật quan trọng nhất của Ngũ Hành Nông Thuật, tác dụng chủ yếu của nó là cung cấp thủy linh khí cho cây trồng. Ngũ Hành tương sinh tương khắc, Thủy sinh Mộc, thủy linh khí chính là một trong những phân bón tốt nhất cho các cây linh lương cấp thấp. Vì thế, đây là một trong những tiên thuật có ý nghĩa quan trọng nhất với những nông dân trong tu tiên giới. Linh Thủy Thuật cũng chẳng có gì phức tạp hay khó học. Tầng thứ nhất chỉ cần bỏ ra năm ba ngày học tập thì bất kỳ ai cũng có thể học được. Tầng thứ hai mất thời gian hơn những cũng chỉ cần năm, sáu tháng thì mọi người đều có thể tinh thông. Nhưng tầng thứ ba thì không còn là việc chỉ cần bỏ thời gian ôn luyện là có thể học tập được nữa. Từ tầng này trở đi, có học được hay không hoàn toàn dựa vào tư chất và thể ngộ của người tu thuật. Hiện tại trong Thiên Linh Môn, chỉ có đại sư huynh Văn Khúc là có thể thi triển được tầng thứ ba của pháp môn này.
Tầng thứ ba của Linh Thủy Thuật là Linh Vũ có thể ngưng tụ thủy linh khí trong thiên hạ lại và tạo ra những cơn mưa thủy linh khí tinh thuần trên quy mô trung bình, có thể đề cao sản lượng linh lương trên quy mô lớn. Văn Khúc sư huynh từ khi đột phá được tầng thứ ba này, địa vị trong môn phái lập tức phát sinh biến hóa nghiêng trời lệch đất, không chỉ ngay tức khắc được các vị chủ quản trong môn phái cất nhắc lên làm đại sư huynh mà còn được đám đồng môn sư huynh đệ tung hô tán tụng không ngớt, những kẻ muốn được anh ấy bỏ thời gian ra chăm sóc linh điền hộ thì phải chia cho anh ấy đến 5% sản lượng linh lương cả năm. Thu nhập của Văn Khúc sư huynh cũng nhờ đó mà tăng vọt, chăng mấy năm mà đã trở thành một phú hộ nho nhỏ trong môn phái.
“Đúng là nhất thân, nhì thế. Con bà nó! Ai... Nếu như ta mà có được bộ pháp quyết nhị phẩm ‘Thiên Hợp Quyết’ để tu luyện như gã ta thì thành tựu của ta còn cao hơn gã nhiều.”
Cứ mỗi lần nghĩ về vị sư huynh tên Văn Khúc này, Thành Đạt lại cảm thấy như muốn phún hỏa. Gã không nhịn được chửi đổng một câu cho bõ cái bực tức trong lòng.
Thành Đạt ghét cay đắng sư huynh Văn Khúc, giống như gã căm thù bất kỳ ai trên đời này giỏi hơn gã về bất kỳ mặt nào trên đời, nhất là khi người đó bước lên bậc vinh quang đó nhờ vào may mắn hay thế lực gia đình. Đối với gã, nụ cười tự tin, kiêu hãnh cao cao tại thượng của những tên ‘khốn nạn’ đó chẳng khác nào mũi dao cắt xẻ từng miếng thịt của một kẻ xuất thân bần hàn như gã.
Thực vậy, Thành Đạt vốn chỉ là một đứa trẻ mồ côi, không cha không mẹ, lớn lên bằng nghề ăn xin và trộm vặt. Sau này, vì không chịu được cuộc sống bần hàn nơi đường phố đó và muốn đổi đời nên mới gia nhập vào Thiên Linh Môn cầu mong một cuộc sống êm ấm hơn. Năm năm không ngừng nỗ lực, gã cũng đã có được những thành tựu nhất định, có được những thứ mà trước đây gã hằng ao ước: một ngôi nhà nhỏ để trú mưa trú nắng, ngày ăn ba bữa ngon lành no nê, đêm ngủ có giường chiếu đàng hoàng, chăn êm đệm ấm, không bị bất kỳ ai khinh bỉ, đánh đập như một con chó ghẻ... Nhưng do không có linh thạch đút lót cho các vị sư thúc sư bá, sư huynh sư đệ có quyền lực trong môn phái nên cuộc sống hiện tại của gã dù đã khá hơn trước song cũng vẫn ẩn chứa không biết bao nhiều điều khổ sở, nhọc nhằn. Vì thế, gã càng có nhiều tham vọng hơn xưa, càng có nhiều dã tâm hơn và càng thù ghét những kẻ ‘cao quý’ kia hơn. Trong mắt Thành Đạt tất cả những kẻ được ca tụng là thiên tài, nhân kiệt là anh hùng hảo hán... đều là kẻ thù trời sinh của gã. Chẳng có gì ngoài kết cục thê thảm của những kẻ đó có thể làm cho gã cảm thấy hưng phấn và kích thích hơn cả.
“Hừ! Tưởng có công pháp tốt hơn ta là ngon sao? Cứ chờ đó đi! Sớm muộn gì cũng có ngày ta đạp mi xuống dưới chân làm đệm ngồi cho ta!”
Thành Đạt rít lên, trút bỏ nỗi bực tức trong lòng rồi phất tay một cái. Đám sương mù đang bay lơ lửng trên mặt nước ao kia lập tức tan biến như chưa hề tồn tại. Gã đứng dậy, mang chiếc radio cũ kỹ, đơn điệu của mình cất đi rồi bước ra khỏi nhà, lầm lũi tiến về phía cánh đồng linh lương nhỏ bé cằn cỗi của gã.
Cũng giống như bao đệ tử nghèo khó khác trong môn phái, Thành Đạt cũng bỏ tiền ra thuê 10 mẫu linh điền loại hai của môn phái với giá tiền lên đến 15 viên linh thạch mỗi mẫu, cộng thêm 10 viên linh thạch quy định; một năm gã phải nộp cho môn phái 160 viên linh thạch. Với giá bán 10 cân linh lương được một viên linh thạch, hàng năm gã phải nộp cho môn phái 1.600 cân linh lương. Mười mẫu linh điền bình thường có thể cho được thu hoạch từ 1.700 đến 1.800 mỗi năm. Tức là mỗi năm lao động cực nhọc, Thành Đạt chỉ bỏ túi được khoảng mười viên linh thạch hay 100 cân linh lương. Đấy là chưa kể đến những khoản phụ trội nằm ngoài ‘chính sử’ khác, cũng tốn kém không ít linh lương, linh thạch. Kết cục là hầu như toàn bộ đệ tử trong Thiên Linh Môn không dám ăn linh lương do chính mình làm ra mà khắc khắc khổ khổ cằn kiệm từng tý chút một để dự phòng cho những ‘ngày đông giá rét’ hay những khi cần kíp khác.
Chỉ có Thành Đạt là ngoại lệ! Ăn linh lương có thể hỗ trợ tu sĩ tu tiên gia tăng tốc độ hấp thu linh khí, gia tăng tốc độ tu luyện, giúp củng cố và gia tăng pháp lực của tu sĩ. Từ khi biết được điều này, Thành Đạt liền dứt khoát không đem linh lương thu hoạch được bán ra ngoài hay cất trữ trong kho mà giữ lại để ăn dùng làm lương thực ăn mỗi ngày. Hành động quyết đoán này lập tức phát huy hiệu dụng. Chỉ sau năm năm tu luyện gã mạnh mẽ đột phá liền năm tầng Luyện Khí kỳ, trở thành một trong những đệ tử có thực lực cao nhất trong môn phái. Nhưng hậu quả cũng rất rõ ràng. Gã hoàn toàn không có chút tài sản tích trữ nào, cũng không hề có điểm cống hiến cho môn phái và càng không ‘biết lễ độ’ với các vị quyền thế trong môn phái. Hậu quả của điều này là rất rõ ràng. Ngoài một bản công pháp tu luyện ‘Ngưng Linh Quyết’ rẻ tiền và ba tầng cơ bản của năm pháp thuật chính yếu trong ‘Ngũ Hành Nông Pháp’ mà môn phái truyền cho các đệ tử khi mới nhập môn, Thành Đạt không nhận được bất kỳ hỗ trợ nào khác của môn phái. Không chỉ vậy, gã còn bị hầu hết các sư huynh đệ khác trong môn phái tẩy chay, cô lập, không tiếp xúc với. Những buổi họp trao đổi kinh nghiệm trồng trọt, tu luyện công pháp tiên pháp, luyện khí, luyện đan... giữa các sư huynh đệ đồng môn, gã đều bị gạt ra ngoài, không cho tham dự. Do đó, Thành Đạt phải một thân một mình khổ khổ sở sở tự mình mày mò ra tất thảy mọi thứ, từ tu luyện, buôn bán cho đến cả chăm sóc linh lương trong ruộng. Gã không có chút oán hận nào với những sư huynh sư đệ nghèo khổ bên cạnh gã, mà chỉ một lòng một dạ căm thù đám ‘cao quý’ trên kia. Gã biết chính chúng mới là nguyên hung của những khó khăn khổ sở này của gã. Gã cũng biết, chỉ cần gã còn bị bọn người đó nhắm đến thì những sư huynh sư đệ hiền lành đáng thương kia sẽ không bao giờ dám lại gần gã. Họ quá biết hậu quả của những việc làm dại dột đó và không đủ dũng cảm để đương đầu với những hậu quả đó chỉ vì một kẻ không quá thân thích như Thành Đạt.
Thành Đạt đi đến thăm khu linh điền của gã. Do không chịu bỏ tiền ra thuê Văn Khúc sư huynh giúp tạo mưa tưới tiêu mà tự bản thân sử dụng Linh Thủy Thuật mới ở cấp độ hai, chỉ đủ sức tạo ra mây mù giúp làm tăng độ ẩm và mật độ thủy linh khí cho linh lương nên đám linh lương trong ruộng của gã luôn kém xa linh lương trong những thửa ruộng xung quanh. Nhìn sự chênh lệch giữa hai khu ruộng, Thành Đạt càng thêm căm tức đám ‘cao quý’ kia. Gã ngồi xuống đất, đưa tay nắm lấy một khóm linh lương, nhắm mắt lại, từ từ vận Thanh Mộc Thuật, một thuật trong Ngũ Hành Nông Thuật, có tác dụng giúp tu sĩ có thể thăm dò thực trạng của cây trồng, tìm ra những vấn đề có thể gây hại cho cây trồng như sâu hại, bệnh tật... từ đó mau chóng chữa trị, chăm sóc cây trồng, tránh được những hậu quả đáng tiếc. Thanh Mộc Khí màu xanh nhạt, hơi mờ mờ nhẹ nhàng hiện ra, âm thầm chìm vào trong nội thể của khóm linh lương. Thành Đạt nhanh chóng cảm nhận được toàn bộ nội tình bên trong thể nội của khóm linh lương đó. Thanh Mộc Khí ba động mạnh mẽ làm Thành Đạt kinh hãi. Đó là dấu hiệu cho thấy tiên thuật phát hiện ra dấu hiệu bất thường bên trong khóm linh lương, nếu không lập tức có biện pháp đối phó ngay thì hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng. Thành Đạt vội vàng truyền thần thức của mình vào trong Linh Mộc khí nhanh chóng tìm đến nơi xảy ra vấn đề.
“Ngạ trùng! Đáng chết! Sao đám súc sinh này lại ám ruộng linh điền của ta.”
Thần thức vừa đến nơi có vấn đề trong khóm linh lương, Thành Đạt liền phát hiện ra hung thủ đang uy hiếp đến sự sinh trưởng của đám linh lương của gã. Đó là một bầy côn trùng cực kỳ nhỏ bé có màu đen sạm được biết đến với tên gọi là ngạ trùng. Đám côn trùng này cùng với phệ trùng là hai loài sâu hại cấp thấp thường xuyên gây hại cho linh lương (sâu hại cấp cao hơn thì thường tìm đến gây hại ở những loại linh thảo cao cấp hơn). Trước nay, khu linh điền của Thành Đạt cũng có vài lần bị sâu hại phá hoại, nhưng tất cả đều chỉ do loài phệ trùng yếu kém kia gây họa. Loài sâu hại ngạ trùng này bất kể là về mức độ nguy hiểm hay độ khó đối phó đều cao hơn loài phệ trùng đến mấy lần. Thông thường, nếu linh lương đụng phải thì tu giả phải sử dụng một trong hai loại tiên thuật Cang Kim Thuật hay Nhiệt Khí Thuật để tiêu diệt chúng. Nhưng hai loại tiên thuật này đều thuộc về hai hệ linh khí tương khắc với mộc, rất có hại cho cây trồng nếu dùng quá mạnh tay thì hậu quả mà cây trồng phải gánh chịu có khi còn đáng sợ hơn cả đám sâu hại. Khi gặp phải đám ngạ trùng này, các đệ tử trong Thiên Linh Môn chỉ có một cách đối phó là cầu cứu mấy vị sư huynh pháp thuật tinh thâm, nhiều kinh nghiệm đối phó với sâu hại ra tay giúp đỡ. Thành Đạt đâu thể sử dụng phương pháp này. Thường thường, gã hay bỏ mặc chúng đấy cho ông giời định đoạt. Dù sao pháp thuật thô thiển của gã dứt khoát tàn phá cây trồng mạnh mẽ gấp hàng ngàn hàng vạn lần so với bất kỳ loại sâu hại nào trên thế giới này. Sâu hại cỡ này cùng lắm chỉ làm giảm sản lượng cây trồng nhưng pháp thuật của gã thì có đến chín phần lập tức giết chết ngay cả khóm linh lương mới sơ nhiễm bệnh này. Nhưng hôm nay thì lại khác. Hôm nay vì một lý do không đầu không đũa, tính ghen ghét và cả sự thù hận vốn ẩn sâu trong lòng gã lại bùng lên
Last edited by Vô Ảnh; 28-06-2011 at 11:08 PM.
Đã có 5 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của thedark
Chương 2
Thành Đạt điên rồi! Gã thực sự phát điên rồi! Mà nguyên nhân làm cho gã ta phát điên lại quá mức vớ vẩn: vì có người giỏi hơn gã, được mọi người trọng vọng hơn gã, vì gã bị những kẻ có quyền thế o ép, vì một đám sâu hại hơi hơi nguy hại đến phá đám linh lương của gã. Chỉ vì những thứ đơn giản và vớ vẩn đó, gã hoàn toàn phát điên!
“Mả mẹ mày! Một lũ sâu bọ rác rưởi chúng mày cũng dám giỡn mặt ta!”
Chửi đổng lên một câu, Thành Đạt lập tức vung tay nắm chặt lấy khóm linh lương và vận dụng Cang Kim Thuật, truyền Cang Kim Khí, theo sự dẫn lối chỉ đường của Thanh Mộc Khí, xuyên qua thể nội của khóm linh lương, nhằm thẳng vào đám ngạ trùng kia điên cuồng đánh đến. Lũ ngạ trùng dường như cũng phát hiện ra địch thủ lập tức phản ứng. Một luồng linh khí yếu ớt nhưng đầy bạo ngược từ đám yêu trùng bắn ra, cương ngạnh đối đầu với Cang Kim Khí của Thành Đạt. Đám ngạ trùng này chỉ là một đám yêu trùng cấp thấp đến mức không thể thấp hơn, thực lực hay thân thể đều vô cùng nhỏ yếu. Đòn phản kích của một con ngạ trùng thì yếu đuối đến mức không thể lay chuyển được một cọng cỏ. Nhưng một đòn phản kích của cả một ổ ngạ trùng đông đúc và chỉ nhắm vào luồng Cang Kim Khí còn ở mức sơ khởi của Thành Đạt thì lại là một việc hoàn toàn khác. Thần thức đang khống chế Cang Kim Khí của Thành Đạt bị đòn tấn công làm xung động mãnh liệt, đầu gã đau nhói lên, suýt chút nữa đánh mất cả khả năng khống chế với Cang Kim Khí.
Thành Đạt thoáng khự người lại. Cơn đau đầu làm gã thoáng tỉnh lại trong giây lát nhưng ngay lập tức một cơn phẫn nộ điên loạn không thể hình dung lại bùng lên và nhấn chìm chút thanh tỉnh vừa mới có được của gã xuống tận cùng của địa ngục. Trong con mắt Thành Đạt bây giờ, đám ngạ trùng cỏn con kia thoáng chốc biến thành một lũ sư huynh sư đệ tài năng và quyền uy hàng ngày vẫn hà hiếp gã trong môn phái. Mỗi con ngạ trùng nhẹ nhàng biến thành gương mặt đang nhìn gã mà cười khinh miệt, khinh miệt sự kém cỏi, yếu đuối của gã, khinh miệt sự nghèo nàn của gã, khinh miệt tư chất tu luyện của gã, khinh miệt xuất thân hèm kém và đầy tội lỗi của gã. Nụ cười đó làm cho Thành Đạt thực sự hóa điên. Một luồng sát khí tàn ác, hung hãn, điên loạn từ sâu trong não bộ của Thành Đạt, hung hãn truyền vào trong thần thức của gã rồi mạnh mẽ dung hòa vào trong Cang Kim Khí, biến màn Cang Kim Khí vốn có màu vàng nhạt đặc trưng của kim linh khí lập tức chuyển thành một màn khí màu đen nhánh của ma khí. Đám Ma Cang Kim Khí kia một lần nữa ào ào tiến đánh đám ngạ trùng với khí thế hung ác, khủng bố hơn trước hàng vạn lần. Thật bất ngờ, lần này đám ngạ trùng kia không hề có chút phản ứng nào cả. Chúng đứng trơ ra đó cho đám Ma Cang Kim Khí ầm ầm xông đến, mặc sức dày xéo, hành lạc, bóp nát cả ổ ngạ trùng thành một đống phấn bột.
Sự việc chuyển biến quá bất ngờ làm Thành Đạt ngẩn người ra. Gã lập tức thoát khỏi trạng thái điên cuồng, hung tà ác sát và trở lại trạng thái bình thường. Sự yếu ớt, dặt dẹo một cách đột ngột và kỳ quái của đám ngạ trùng làm cho Thành Đạt kinh ngạc. Hình ảnh run lẩy bẩy như chuột nhỏ thấy mèo của lũ ngạ trùng vốn hung hăn tác động mạnh mẽ lên Thành Đạt. Trong phút chốc, gã dường như ngộ ra được điều gì đó, rất mơ hồ, như có như không.
“Lực lượng và tính chất của Cang Kim Khí không hề thay đổi.” Thành Đạt lẩm nhẩm trong miệng rồi ngửa tay ra vận dụng Can Kim Thuật. Một làn Cang Kim Khí màu vàng nhạt lại khẽ hiện ra, bao bọc lấy bàn tay gã như một chiếc găng tay màu nắng ấm. Không có sát khí hùng hậu, hung tàn của Thành Đạt hòa vào, Cang Kim Khí liền trở lại thành Cang Kim Khí bình thường như trước kia, không có bất kỳ điều gì khác biệt!
Thành Đạt nhắm mắt lại, cố gắng nhớ lại mọi chuyện vừa mới xảy ra khi nãy. Gã hiểu được sự khác biệt giữa hai lần giao chiến giữa Cang Kim Khí của gã và đám ngạ trùng là ở chỗ trong lần chiến đấu thứ hai, lũ ngạ trùng hoảng sợ đến nỗi không có bất kỳ hành động phản kháng nào cả. Lý do của sự sợ hãi này hiển nhiên không phải do sức mạnh hay tính chất của đám Cang Kim Khí của gã mà là do một nguyên nhân khác, nhiều khả năng là uy thế hùng hậu của đòn tấn công hay sự cường đại của thần thức của Thành Đạt so với đám ngạ trùng nhưng cũng không thể loại trừ khả năng do sát khí của Thành Đạt hòa vào trong Cang Kim Khí. Càng nghĩ, Thành Đạt càng nghiêng về khả năng sau cùng hơn là hai khả năng đầu.
Thành Đạt còn khá trẻ, chỉ mới hơn hai mươi tuổi nhưng kinh nghiệm sống của gã thì rất phong phú và đa dạng. Gã đương nhiên có nghe nói về cái gọi là chiến tranh tâm lý và hiệu quả của dạng chiến tranh này trong các cuộc chiến đấu và tranh chấp. Tuy những kiến thức của Thành Đạt về thể loại này không có nhiều và rất sơ sài nhưng cũng đủ để gã hiểu được một vài vấn đề cơ bản của nó. Khi đối mặt với những gì quá mức kinh khủng hay đơn giản là không thể hiểu hay lý giải được, các sinh vật có thể bị khiếp sợ đến mức không thể có bất kỳ phản ứng kháng cự nào cùng lắm chỉ có thể liều mạng bỏ trốn mà thôi. Nghĩ đến đây, đột nhiên Thành Đạt ẩn ẩn cảm nhận được một điều gì đó. Gã không thể định nghĩa được cảm giác này nhưng gã biết nếu như gã tìm ra được đáp án thì cũng đồng nghĩa với việc gã đã tìm ra được một con đường giúp gã có thể đập chết đám người ‘cao quý’, rất ngứa mắt trên kia.
“Sợ! Con bà nó! Nghĩa là sao nhỉ? Chẳng lẽ chỉ cần làm cho đối phương sợ hãi là được! Con bà nó! Đời đâu có đơn giản như vậy chứ!” Thành Đạt không nhịn được lầm bầm chửi đổng luôn miệng. Trong phút chốc, gã trở thành lại là một tên vô lại bẩn thỉu nơi đầu đường góc phố xưa kia, không còn chút bóng dáng nào của một tu sĩ tu tiên nơi tiên giới thanh nhã nữa. Sau một hồi suy đi ngẫm lại, thứ duy nhất mà Thành Đạt thu thập được đó là nếu làm cho đối phương bất ngờ và sợ hãi thì có thể dễ dàng đánh bại đối phương hơn là đường đường chính chính đối mặt thông thường. Nhưng còn làm thế nào để làm cho đối phương bất ngờ và sợ hãi thì gã hoàn toàn mù tịt. Đây là tu tiên giới, một thế giới tanh máu, luôn dùng thực lực để nói chuyện nha! Những người có thể tồn tại trong thế giới này làm sao có thể bị một thằng nhóc chưa ráo máu đầu như Thành Đạt làm cho bất ngờ và sợ hãi cơ chứ. Muốn dùng phương pháp này để đối phó với họ, nằm mơ đi! Thành Đạt lắc lắc đầu, tức tối. Gã biết được điều gã ngộ ra không hề sai nhưng nó cũng chẳng khác nào một đứa trẻ phát hiện ra rằng ban ngày có thể nhìn rõ vạn vật là nhờ ánh sáng của mặt trời vậy. Một thể ngộ hoàn toàn chính xác và vô dụng.
Thực ra trong tu tiên giới này những kẻ sử dụng nỗi sợ hãi làm vũ khí chiếm đến tám, chín phần mười. Tất cả những người hơi hơi có thành tựu tại nơi đây đều biết vận dụng phương pháp này. Họ gọi chung thủ đoạn đó là ‘Ý’ như kiếm ý, đao ý,... hay nhân gian thường gọi nôm na là sát khí, chiến ý, nộ khí, hung khí... Trong chiến tranh, các vị tướng quân tìm mọi thủ đoạn phá hoại tinh thần chiến đấu của quân lính đối phương và tăng cường tinh thần của quân lính bên minh. Trong giao đấu, một cao thủ chân chính có thể tạo ra một luồng sát khí mạnh mẽ đến mức làm đối thủ sợ hãi đến mức quỳ rạp xuống mà dâng đầu lên cho họ mặc sức ‘hành lạc’. Hầu hết các pháp quyết chiến đấu chân chính đều có yêu cầu cơ bản là người sử dụng phải có thức ngộ về ‘chiến ý’ (sự uy hiếp lên tinh thần đối thủ, khiến đối thủ khiếp sợ và đồng thời bảo vệ tinh thần của mìn) của bộ chiến pháp đó. Thức ngộ được ‘chiến ý’ của một bộ chiến pháp chính là đã nắm được cái căn bản nhất của bộ chiến pháp đó. Sử dụng nỗi sợ hãi trong chiến đấu có thể coi là một trong những lý thuyết cơ bản của các chiến binh trung và cao cấp. Thành Đạt không biết gì về vấn đề này, nguyên nhân chủ yếu chính là do gã bị mấy vị sư huynh sư đệ cao quý trong môn phái cô lập với thế giới xung quanh. Sau này, khi biết được điều này, hận ý của Thành Đạt đối với những kẻ ‘ăn trên ngồi trốc’ kia càng sâu, càng nặng.
Hai lần xung động Cang Kim Khí với đám ngạ trùng chỉ là hai sự va chạm nhỏ chẳng có chút ảnh hưởng gì đến thể lực và pháp lực của Thành Đạt. Nhưng thức ngộ về cái gọi là ‘nỗi sợ hãi’ hay chính xác hơn là ‘chiến tranh tâm lý’ đã tác động mạnh mẽ đến thần kinh của gã, làm gã ta cảm thấy mệt mỏi lạ thường. Gã ngồi bệt xuống bờ ruộng, im lặng nhắm mắt lại và nhanh chóng tiến vào cảnh giới vô ngã của nhập định.
Tỉnh dậy từ trong nhập định, Thành Đạt thần thanh khí sảng, toàn thân nhẹ nhàng thoải mái vô cùng. Gã đã hoàn toàn thanh tỉnh trở lại như bình thường và đã vứt bỏ được những thứ suy tư ngớ ngẩn, lắt nhắt trong đầu nãy giờ để quay trở lại với công việc thường ngày. Gã đi dọc theo từng rãnh linh lương, đưa tay cầm lấy từng khóm từng khóm một, rồi vận dụng Thanh Mộc Quyết. Thanh Mộc linh khí mang theo sắc thái xanh nhạt từ từ thẩm thấu vào trong khóm linh lương và giúp Thành Đạt kiểm tra tình trạng thực tế trong thể nội của cây. Thần thức của Thành Đạt một lần nữa dung hợp vào trong Thanh Mộc Linh Khí. Rất nhanh, Thanh Mộc linh khí lại phát hiện ra một tổ ngạ trùng nữa đang ẩn núp trong thân cây linh lương. Thành Đạt khẽ nhíu mày lại rồi một lần nữa vận dụng Cang Kim Thuật, đề khởi Cang Kim Khí tiến vào trong thân cây. Cùng lúc đó, hoàn toàn không có chút chủ ý nào của Thành Đạt, từ sâu trong não bộ Thành Đạt, một chút sát khí cũng lập tức đề khởi rồi hòa vào trong làn Cang Kim Khí kia. Sự việc này có thể nói là sự khác biệt giữa giác ngộ và học tập ghi nhớ. Cho dù không ít người trên đời biết rằng nếu dung hòa sát ý vào với một loại pháp quyết thì pháp quyết đó sẽ có thêm khả năng chấn áp tinh thần đối thủ nhưng số người có thể vận dụng được điều này vào thực tế thì chẳng có bao nhiêu người. Nhưng nếu một người đã ‘ngộ’ ra được điều này từ trong thực tế thì họ có thể thoải mái vận dụng nó bất kỳ lúc nào, một cách hoàn toàn vô thức. Điều này cũng giống như học bơi vậy. Chỉ cần có thể bơi được một lần thì cả đời sẽ không bao giờ quên được cách bơi. Dĩ nhiên là việc mạnh hay yếu thì còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố!
Sát khí mà Thành Đạt truyền vào Cang Kim Khí trong lúc vô thức đương nhiên yếu kém hơn rất nhiều so với luồng sát khí mà một cao thủ chân chính có thể truyền vào trong một pháp quyết chiến đấu chân chính khi anh ta thức ngộ được ‘chiến ý’ của bộ pháp quyết đó. Nó yếu kém đến mức có lẽ không gây ra được một cái nhíu mày của một gã côn đồ bình thường nơi đường phố. Nhưng để đối phó với lũ yêu trùng cấp thấp, kém cỏi, yếu đuối, mỏng manh mới chỉ có một chút linh trí sơ khai kia thì từng đó là quá đủ. Vì thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi đám ngạ trùng lần này cũng không dám chống trả lại mà cứ trơ trơ ra đó cho luồng Cang Kim Khí của gã nghiền nát thành bột phấn một cách nhanh chóng. Toàn bộ quá trình chỉ diễn ra trong một thoáng chốc, không chút trở ngại nào cả.
Thành Đạt lập tức nhận ra được vấn đề. Chỉ cần suy nghĩ cẩn thận một lúc, gã liền hiểu được rằng gã vừa tìm được một thứ vũ khí cực kỳ lợi hại để diệt sâu bọ. Nếu như biết khôn ngoan vận dụng thứ vũ khí này thì từ nay về sau, gã không còn phải lo ngại gì đám sâu hại ngạ trùng đáng ghét kia nữa. Nhưng vẫn còn vấn đề đáng lo ngại: Cang Kim Khí sử dụng khi diệt trừ sâu hại và sát khí của Thành Đạt hòa lẫn trung đó chắc chắn sẽ gây tác hại không nhỏ đến cây linh lương, thì vẫn còn nguyên đó. Cho dù Thành Đạt có sử dụng chúng khéo léo đến mức độ nào thì vấn đề này vẫn là không thể tránh khỏi.
Nhìn đám linh lương tươi tốt bời bời của các thửa linh điền bên cạnh, Thành Đạt cau mày khó chịu. Sự thật trước mắt là sau khi được trừ sâu bởi các vị sư huynh tinh thông pháp thuật thì đám linh lương trong các khu linh điền kia không hề có chút dấu hiệu tàn úa nào mà ngược lại càng thêm phần tươi tốt, phát triển mạnh mẽ hơn trước rất nhiều lần. Trong khi lý thuyết lại nói rằng kỹ thuật bắt sâu hiện nay chắc chắn sẽ gây hại cho cây linh lương. Sự mâu thuẫn giữa hiện thực và lý thuyết này làm cho Thành Đạt khó nghĩ. Chắc chắn còn một vấn đề gì đó mà gã chưa nghĩ đến đã thay đổi toàn bộ thực tế, tạo ra kết quả trái ngược với lý thuyết hiện hành. Thành Đạt cau mày suy nghĩ một lúc rồi đột nhiên đầu óc gã léo sáng. Gã vỗ tay hét lên đầy hứng phấn
“Ngũ hành tương sinh tương khắc. Con bà nó! Sao mình quên đi vấn đề này chứ nhỉ?”
Ngũ hành tương sinh tương khắc. Kim khắc Mộc nhưng đồng thời Kim lại sinh Thủy và Thủy lại sinh Mộc. Như vậy, nếu sau khi dùng Cang Kim Thuật trừ sâu xong, tu sĩ lại dùng tiếp Linh Thủy Thuật để chuyển hóa số Kim linh khí còn rơi rớt đó thành Thủy linh khí. Do cả hai loại linh khí này đều là pháp lực của tu sĩ thi triển nên việc chuyển hóa này tuyệt đối không có vấn đề. Không. Sẽ tốt hơn nhiều nếu đồng thời thi triển cả Linh Thủy Thuật và Cang Kim Thuật một lúc. Linh Thủy Thuật bao bọc lấy Cang Kim Thuật ngăn ngừa và hấp thu Kim linh khí được tạo ra trong khi thi triển Cang Kim Thuật. Nhưng nếu làm như vậy thì tu sĩ đó phải đồng thời thi triển cả ba loại pháp thuật là Thanh Mộc Thuật (dẫn đường), Cang Kim Thuật (trừ sâu) và Linh Thủy Thuật bảo vệ cây linh lương. Thực lực hiện nay của Thành Đạt không thể làm được điều đó. Gã chỉ có thể miễn cưỡng sử dụng hai pháp thuật cấp thấp một lúc mà thôi.
Thành Đạt nghĩ nhanh một chút rồi đưa ra quyết định dứt khoát. Gã sẽ không sử dụng Thanh Mộc Thuật để dẫn đường cho Cang Kim Thuật đi trừ sâu mà chỉ dùng thuật này để kiểm tra linh lương và phát hiện sâu hại. Sau đó, gã sẽ dùng thần thức khóa cứng đám sâu hại và dẫn đường cho hai pháp thuật Cang Kim và Linh Thủy. Nếu như lý thuyết trên chính xác sự đe dọa của Kim linh khí với cây linh lương sẽ không còn nữa. Thậm chí việc trừ sâu từ giờ sẽ trở thành một hoạt động chăm sóc, bồi dưỡng cho các cây linh lương.
Thành Đạt lập tức cúi xuống tìm một khóm linh lương khác đang bị sâu bệnh gây hại rồi lập tức áp dụng theo đúng quá trình mà gã vừa nghĩ ra. Đầu tiên là dùng Thanh Mộc Thuật để kiểm tra khóm linh lương. Sau khi phát hiện ra ổ sâu hại thì dùng thần thức khóa chặt đám sâu rồi xóa bỏ Thanh Mộc Quyết. Tiếp đó, gã dùng Linh Thủy Quyết để tạo ra một con đường bằng thủy linh khí từ tay gã đến ổ đám sâu hại. Cuối cùng, Cang Kim Quyết đem Cang Kim Khí hòa cùng một chút sát khí của Thành Đạt thông qua con đường tạo lên bởi Thủy linh khí ào ào tiến đến ổ sâu hại. Đám ngạ trùng nhanh chóng bị tiêu diệt và... Thành công rồi! Đám ngạ trùng bị tiêu diệt toàn bộ và khóm linh lương không có chút dấu hiệu bị tàn phá nào bởi Cang Kim Khí! Thế là một trong những vấn đề đau đầu nhất của Thành Đạt trong việc trừ sâu hại linh lương đã bị loại bỏ.
Vấn đề cuối cùng cần giải quyết là mối đe dọa của sát khí của Thành Đạt đối với cây trồng. Việc này thì Thành Đạt không thể không giơ cờ trắng lên đầu hàng. Gã ta hoàn toàn mù tịt về vấn đề sát khí này. Không có kiến thức cơ bản làm cơ sở, muốn tìm ra được một đầu mối để giải quyết vấn đề cũng khó.
‘Xem ra năm nay không thể không bớt ăn bớt uống lại, đem linh lương đổi lấy linh thạch rồi dùng số linh thạch này mua lấy những kiến thức liên quan đến sát khí, phương pháp ứng dụng và cả phương cách đối phó nữa mới được.’ Thành Đạt thầm tự nhủ với bản thân.
Muốn giải quyết một vấn đề nằm trong số những kiến thức thuộc hàng cao siêu như sát khí, nếu không có một lượng kiến thức cơ sở vững chắc thì không một ai trên thế giới này có thể làm được. Thành Đạt bị hổng kiến thức trầm trọng liên quan nên đương nhiên càng không thể. Muốn giải quyết vấn đề này, việc cần làm hiện tại của gã là bổ xung kiến thức về sát khí, từ cách thức tạo ra đến những phương pháp ứng dụng nó trong thực tiễn, nếu có thể thìcả vấn đề ‘chiến tranh tâm lý’ nữa. Những thứ này, gã đừng hòng có thể tìm được từ trong sư môn nhưng hoàn toàn có thể tìm được từ những con đường ‘ngóc ngách’ khác. Chỉ có điều, linh thạch là thứ không thể thiếu. Hơn nữa, càng nhiều linh thạch càng tốt. Với khả năng của Thành Đạt hiện nay, muốn có linh thạch chỉ có một cách đó là nhịn ăn nhịn uống đem linh lương thu hoạch được đi bán sạch sành sanh thì may ra...
Đã có 5 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của thedark
Chương 3
Thành Đạt vừa tu luyện công pháp, tiên thuật, nghiên cứu thêm về sát khí và những chiến thuật ứng dụng nó mà gã có thể tưởng tượng ra được vừa tiếp tục công việc chăm sóc thường ngày cho đám linh lương của gã. May mắn là sâu hại không phải là thứ ôn dịch lây nhiễm nên chỉ thỉnh thoảng mới có một vài cây bị sâu hại tấn công. Do đó, dù cho phương pháp bắt sâu của Thành Đạt có vô số vấn đề và khuyết điểm, gây ra những tác hại khôn lường cho cây trồng nhưng nếu xét về tổng thể thì cũng chẳng có nhiều vấn đề gì to tát cho lắm. Những việc khác như dùng Linh Thủy Thuật tưới tắn, chăm sóc cho linh lương, dùng Canh Địa Thuật cày xới đất linh điền, giúp cho linh khí ở các linh mạch trong lòng đất thoát ra mạnh hơn, giúp linh lương hấp thu được linh khí nhiều hơn, phát triển tốt hơn... đều là những công việc đơn giản, dễ dàng với một tu sĩ đạt cảnh giới tầng thứ 5 Luyện Khí kỳ và có trên năm năm kinh nghiệm trồng trọt như gã. Kết quả là sau vài tháng phát triển, đám linh lương của gã dần đến ngày thu hoạch. Nhìn những thân linh lương béo mẫm, xanh mơn mởn, bông linh lương vàng óng ả, uốn cong như chiếc cần câu cá, Thành Đạt thầm cảm nhận được thành tựu lớn lao của mình. Thêm một tháng nữa nhẹ nhàng trôi qua, khi linh lương đồng loạt chín vàng cả cánh đồng, mang đến một mùa màng bội thu thì Thành Đạt cũng bất tri bất giác đột phá lên tầng thứ sáu của Luyện Khí kỳ và cả tầng thứ ba của Linh Thủy Thuật, tầng thứ hai của Cang Kim Thuật, Thanh Mộc Thuật và Canh Địa Thuật... Địa vị của gã tại Thiên Linh Phái lập tức thay đổi nghiêng trời lệch đất. Đám sư huynh sư đệ ‘quyền quý’ vẫn vênh vênh cái mặt, đưa đôi mắt ti hí như mắt chuột nhìn gã nay bỗng trở lên hiền hòa, thân thiết kỳ lạ. Đám sư đệ nghèo khổ khác thì càng không cần nói. Những tiếng gọi ‘Trần sư huynh’, ‘anh Đạt’, ‘Đại ca’... vang lên không ngớt. Nhiều người còn đem cả quà mừng đến tặng gã. Ngay cả các vị trưởng bối trong môn phái cũng đến chúc mừng, lại còn tuyên bố miễn giảm 10% phí thuê linh điền (tương đương 16 viên linh thạch) trong năm nay cho gã, gọi là sư môn chúc mừng và hỗ trợ gã tu luyện thêm tân tiến. Điều này cũng chẳng có gì bất ngờ. Cả Thiên Linh Môn có gần trăm đệ tử Luyện Khí kỳ nhưng ngoài Thành Đạt thì chỉ có tám đệ tử đạt được đến tầng thứ 6 trở lên, (một người đạt tầng thứ tám, một người đạt đến tầng thứ 9) và chỉ có một vị Văn Khúc sư huynh tu luyện thành công Linh thủy Thuật đến tầng thứ 3, một vị sư huynh khác tu luyện thành công Cang Kim Thuật đạt đến tầng thứ hai mà thôi. Khó trách! Khó trách!
Hôm ấy thu hoạch xong linh lương và đem lượng linh lương dùng làm phí thuê linh điền và thuế thân nộp cho môn phái, theo lệ bất thành văn của môn phái, Thành Đạt gom hết những hoa màu còn lại vào một túi hành lý to cộ, cho vào một cái gùi cỡ bự rồi khệ lệ gùi gùi linh lương đó lên thị trấn bán cho mấy tay thương nhân chuyên mua bán linh lương trên đó. Thực lòng gã hi vọng có thể mang đống linh lương này lên tận trên phố huyện hay thậm chí là trên tỉnh để bán, với hi vọng sẽ bán được giá cao hơn nữa.
“Mười cân rưỡi linh lương mới được một linh thạch. Con bà nó! Lũ bẩn thỉu, thối tha này còn tham hơn cả chó. Vậy mà dám luôn miệng leo lẻo tình nghĩa sư huynh sư đệ. Con bà nó!”
Vừa đi Thành Đạt vừa luôn mồm chửi rủa đám sư huynh sư đệ quyền quý có trách nhiệm thu mua linh lương trong môn phái. Bọn khốn nạn đó dám trắng trợn hạ giá linh lương thu mua của gã. Số lượng tuy không nhiều nhưng cũng đủ làm cho một kẻ có thu nhập cò con, lại đang cần linh thạch gấp như Thành Đạt xuất huyết đến mấy lần. Xem ra lũ khốn nạn này không vừa mắt với việc địa vị của gã thăng tiến nhanh bất chấp các thủ đoạn bẩn thỉu của chúng nên mới cố tình dở trò bắt nạt gã. Đám đồng môn quyền quý này đều là những kẻ có thế lực hùng hậu chống lưng, cơ bản không hề có việc gì cần nhờ vả đến gã nếu không muốn nói, sự phát triển nhanh chóng của Thành Đạt khiến cho chúng có thêm một đối thủ cạnh tranh đáng gờm. Đơn cử như việc gã Văn Khúc sư huynh phải hạ giá dùng Linh Vũ tưới tắm cho các linh điền xuống còn 1% so với 5% trước kia. Vì thế chẳng có gì ngạc nhiên khi quan hệ giữa gã với đám ‘đệ tử quý tộc’ đó chẳng có tốt đẹp hơn chút nào mà càng ngày càng xấu đi thêm nữa. Những nụ cười tiếng nói lúc trước chẳng qua chỉ là một vở kịch rẻ tiền không hơn không kém được bọn kịch sĩ tài ba biểu diễn cho đám sư huynh sư đệ nghèo nàn xem trong ngày hôm đó mà thôi.
Thành Đạt chỉnh lại cái gùi tre trên vai, lầm lũi tiến về phía trước. Nhờ luyện tập pháp thuật, võ nghệ thường xuyên, ăn uống đầy đủ nên cơ thể của Văn Thành rất mạnh mẽ, khác hẳn dáng vẻ bề ngoài béo phệ yếu đuối của gã. Gùi hàng lên đến mấy trăm cân linh lương không làm khó được gã. Gã từng bước từng bước, khệ lệ lê bước đi trên con đường núi gập ghềnh từ ngọn núi cô độc Thiên Linh Sơn đến thị trấn Sơn Đông cách đó nửa ngày đường.
Năm trăm năm trước, Đoạn Nhạc chân nhân đem theo gia môn thuộc hạ đến ngọn núi hoang vu Sơn Đông này kiến lập một khu thương mại, trao đổi mua bán tự do loại vừa dành cho tu sĩ tu tiên trong vùng. Sau năm trăm năm nỗ lực phát triển không ngừng của đám con cháu, đồ tử đồ tôn của chân nhân, Sơn Đông không chỉ trở thành trung tâm mua bán lớn nhất trong vùng mà còn trở thành một trong mười ba thế lực lớn nhất trong tu tiên giới Tĩnh Thiên Quốc. Cho dù Tĩnh Thiên Quốc chỉ là quốc gia tu tiên thuộc hạng ba, hạng bốn trong hơn bốn nghìn quốc gia trong tu tiên giới. Số lượng người tu tiên chỉ khoảng vài chục triệu người. Cao thủ tu tiên đạt đến cảnh giới cao nhất ở đây chỉ là kết đan kỳ hơn nữa số lượng cũng vô cùng thưa thớt, chỉ có vài trăm người. Diện tích cả nước cũng chỉ là một chấm nhỏ bé tại khu vực ngoài rìa trên bản đồ của thế giới tu tiên. Chẳng mấy tu sĩ bên ngoài biết đến quốc gia nhỏ bé này. Nhưng thành tựu của Sơn Đông trấn cũng có thể nói là rất đáng để tự hào.
Thành Đạt đứng dưới chân ngọn Sơn Đông, ngước mắt lên nhìn thị trấn như ẩn như hiện trong mây mù trên kia. Đây chính là nơi duy nhất trên thế giới này, gã thực tâm coi là nhà. Thị trấn to lớn trên kia đã ghi dấu những năm tháng vui vẻ nhất trong cuộc đời phiêu bạt, lang thang nơi đầu đường xó chợ của gã. Nơi đó có ‘đại ca’ và rất nhiều những đứa bạn từng cùng gã lăn lộn khắp nơi, trộm cắp, cướp giật, đánh lộn... cùng gã chia sẽ từng cái bánh mỳ, từng cốc nước, miếng cơm thừa, canh cặn vất vả lắm mới có được đến tay. Đây là ‘nhà’ của gã hay ít nhất là nơi duy nhất cho đến nay gã thực sự coi là nhà. Tình cảm của gã dành cho cái thị trấn kia và đám người ‘hắc đạo’ mưu sinh bằng những thủ đoạn bẩn thỉu nhất trên đời trong cái thị trấn này sâu đậm gấp hàng nghìn lần so với đám sư huynh đệ cao cao tại thượng trên ngọn núi Thiên Linh kia. Thiên Linh Môn xảy ra chuyện, Thành Đạt lập tức phủi mông bỏ đi ngay, không chút day dứt; nhưng đám ‘hắc đạo’ nơi đây xảy ra chuyện, gã sẽ chẳng ngại ngần chút nào mà góp một chân một tay vào với bọn họ.
Thành Đạt thu ánh mắt lại rồi nhìn quanh xem có người quen nào quanh đây không. Sau khi đám trẻ lang thang bọn chúng trưởng thành, hầu hết đều gia nhập các băng đảng giang hồ cấp thấp, sinh tồn trong khu thị trấn này. Công việc bọn chúng sẵn sàng làm có rất nhiều, trong số đó có cả việc khuân vác thuê cho đám tu sĩ thể lực yếu đuối, mang linh lương từ xa đến Sơn Đông bán. Đáng tiếc, tuy hiện tại có không ít phu khuân vác đứng chờ khách nơi đây nhưng không có một ai quanh đây là người gã quen biết cả.
“Huynh đệ cần giúp đỡ không?” Lúc này, thấy Thành Đạt mang theo gùi hàng lớn, lại nhìn ngó xung quanh như muốn tìm người giúp, một người thanh niên ở trần liền bước đến cất tiếng hỏi.
Thành Đạt liếc nhìn thấy gã ta không có hình xăm thì lập tức biết gã ta không thuộc thế lực nào thị trấn liền lắc đầu từ chối.
“Không cần đâu. Ta tự giải quyết được.”
Gã thanh niên hơi bất ngờ khi nhận thấy dấu hiệu của hình xăm nơi da hở ra của gã liền lập tức lùi lại. Gã ta cũng là kẻ lăn lộn nơi tầng đáy của xã hội mà sống đương nhiên hiểu được ý nghĩa của các hình xăm. Trên đời chỉ có hai loại người có hình xăm mà thôi. Một là đám thanh niên nghịch ngợm, xăm chơi, xăm cho vui, làm đẹp, thể hiện mình. Hai là thành viên của các băng đảng. Đối với loại người thứ hai, hình xăm còn là dấu hiệu nhận biết, địa vị của chủ nhân trong băng đẳng, lời tuyên thệ, tín hiệu liên lạc, nhận biết các thành viên với nhau. Gã phu bốc vác nhận ra dấu hiệu của hình xăm trên người gã thanh niên to béo kia. Đó là một phần hình xăm đặc trưng của một băng đảng xã hội đen trong thị trấn này. Băng đảng này có lực lượng nhỏ yếu, số lượng và chất lượng các thành viên rất thấp nhưng tính đoàn kết giữa các thành viên rất cao. Một tên phu khuân vác bình thường như gã ta tuyệt không hứng thú dây dưa với đám người này.
Mặt trời dần chuyển về sườn tây. Ánh nắng gay gắt khó chịu phủ xuống toàn thế giới. Thành Đạt khom lưng, khệ lệ gùi gùi hàng chậm rãi bước đi trên con đường lên núi quen thuộc kia, từng bước chạy đua với thời gian, cố gắng lên được đến thị trấn trên núi trước khi mặt trời hoàn toàn khuất bóng. Cuối cùng gã cũng thành công, lên được đến nơi trước khi những tia sáng cuối cùng của mặt trời hoàn toàn tan biến.
Thành Đạt xóc lại cái gùi rồi đưa mắt nhìn khu thị trấn được chiếu sáng bởi hàng trăm ngọn đèn thiên đăng lơ lửng trên bầu trời đầy quen thuộc kia. Trước đây, mỗi khi nhìn thấy thứ ánh sáng chết toi này, gã lại tức giận không thôi. Ánh sáng trắng bệch của đám đèn này soi tỏ khắp thị trấn, khiến gã không thể làm ăn gì được. Mấy ngọn thiên đăng cháy sáng trên cao kia giống như sự nguyền rủa của người đời dành cho những kẻ như gã. Thế nhưng không hiểu sao bây giờ, gã bỗng thấy chúng nó thật sự không đáng ghét chút nào, khá gần gũi nữa là khác.
Đường phố thị trấn Sơn Đông khá rộng rãi. Người ngựa đi lại tấp nập. Trên bầu trời, những cửa hàng to lớn trôi lơ lửng như một hòn đảo nhỏ trên không, tỏa ra màn hào quang ngũ sắc cực kỳ sặc sỡ, hương thơm ngào ngạt, tiên nhạc du dương. Đó là những gian hàng đặc biệt nhất của thị trấn, chỉ dùng để đón tiếp những tu sĩ cấp cao hay những người lắm tiền nhiều của. Các tu giả muốn vào đây đương nhiên phải có tọa kỵ cao cấ hay biết ngự khí phi hành (khả năng mà chỉ những tu sĩ Dịch Linh kỳ trở lên mới có được). Thành Đạt càng nhìn những cửa hàng này càng lộn ruột. Gã thực sự rất muốn đem thằng cha đã nghĩ ra cái trò đem cửa hàng cao cấp thả lên trên không trung này, băm thành ngàn mảnh rồi vứt cho cá ăn. Khốn kiếp! Làm như thế này khác nào tuyên bố là những khách hàng tiền ít phải luồn dưới chân những khách hàng lắm tiền nhiều của kia. Đến buôn bán kiếm tiền mà cũng dùng trò phân biệt đối xử giữa các khách hàng tàn độc đến như vậy. Thật đáng chết!
Đối với thị trấn Sơn Đông này, Thành Đạt rất thân thuộc. Gã sóc lại cái gùi khổng lồ trên vai rồi cất bước đi vào trong khu chợ. Rẽ mấy cái tại vài góc quanh, Thành Đạt đã đi đến một khu thương mại buôn bán khá nhộn nhịp.
Trên bầu trời những ngọn thiên đăng tỏa ánh sáng dịu nhẹ như ánh trăng, văng vẳng tiếng hót của những linh điểu tọa kỵ, thú cưng của các tu sĩ bay lượn qua lại trên đó. Pháp bảo phi hành của những tu sĩ cao cấp bay lượn trong trời đêm, tỏa ra thứ ánh sáng rực rỡ như pháo hoa, kéo dài như sao chổi. Dưới đường phố, các tu sĩ cấp thấp đi lại như đàn cá chích. Hai bên đường, đám con buôn và nhân viên các cửa tiệm, mặc trên người những bộ đồng phục hoa hèo hoa sói xuất hết khí lực mời chào khách hàng. Tiếng rao mời, hình ảnh biểu diễn, pháp khí, pháp bảo... huyên náo, ồn ã như vỡ chợ.
“Linh thảo linh dược cao cấp đây. Từ các linh thảo quý hiếm có niên thọ đến ngàn năm đến những linh dược cấp bốn, cấp năm khả ngộ bất khả cầu, cửa hàng chúng tôi đều có thể đáp ứng như cầu của quý khách...”
“Trung tâm đào tạo ngũ hành tiên thuật sơ cấp cấp tốc đây... Chỉ cần sáu tháng theo học trung tâm của chúng tôi, đảm bảo quý vị có thể tinh thông các tiên thuật ngũ hành sơ cấp. Khi đó, chỉ một cái vung tay có thể hô mưa gọi gió, một vẩy tay có thể thiêu rụi cả cánh rừng...”
“Có an cư mới lập nghiệp. Địa Phúc Linh Phủ, một tiên động bỏ túi, một trang bị ngũ phẩm không thể thiếu với bất kỳ tu tiên giả nào, một ngôi nhà trong mơ nằm trong lòng bàn tay bạn. Ngoài một động phủ với đầy đủ các phòng ở, phòng ăn, phòng luyện đan, luyện khí, phòng luyện tập, thư phòng..., động phủ còn có một khu linh điền cấp ba linh khí cực kỳ dồi dào với diện tích lên đến 500 mẫu vuông, những cấm chế, trận pháp phòng ngự vô cùng ảo diệu do các trận pháp đại sư tự mình bố trí, thêm vào một linh nhãn chi tuyền cấp ba liên tục cung cấp linh khí cho tu sĩ và linh điền. Một động phủ không thể tốt hơn được nữa. Giá cả rất phải chăng chỉ hai triệu viên linh thạch tứ phẩm. Mau mua mau mua...”
Lắng nghe những âm thanh quen thuộc nơi này, Thành Đạt khẽ mỉm cười thoải mái. Những âm thanh khoa trương, khoác lác, láo toét này sao mà thân quen đến thế. Đã gần sáu năm rồi gã mới nghe lại những âm thanh đã gắn liền với cuộc đời thơ ấu của gã này. Trái tim gã vô thức đập lỗi nhịp, giống như khi chúng ta thưởng thức giọng ca ngọt ngào của một vị thần tượng mà chúng ta tôn thờ, yêu quý từ tận đáy lòng.
“Gần sáu năm đã trôi qua, cảnh tượng khu thương mại này vẫn không thay đổi chút nào. Con bà nó! Hai triệu viên linh thạch tứ phẩm tức là tương đương với 2.000 tỷ linh thạch nhất phẩm mà chỉ mua được một cái linh phủ chết tiệt. Đúng là giết người không bồi mạng mà!”
Thành Đạt nhanh chóng lấy lại tính cách cố hữu của bản thân, vừa làu bàu chửi đổng một câu trong mồm, mặc dù trong thâm tâm gã đang gào thét những lời ghen tỵ không thôi. Nếu có 2.000 tỷ viên linh thạch trong người, gã chắc chắn sẽ bỏ ra mua ngay một căn Địa Phúc Linh Phủ kia mà không chút do dự.
Với kiến thức của mình, Thành Đạt dư hiểu những lợi ích to lớn mà một linh phủ như vậy mang lại cho các tu sĩ như gã. Năm trăm mẫu linh điền cấp ba, nếu đem đi trồng linh thảo toàn bộ thì mỗi năm cũng có thể cho thu nhập là 4 viên linh thạch. Cấp chế trận pháp phòng thủ do một trận pháp đại sư bày ra dư sức biến động phủ đó thành một pháo đài bất khả xâm phạm đối với hầu hết tu sĩ dưới Kết Đan kỳ. Đã thế lại còn một khối linh nhãn chi tuyền cấp ba có giá trị liên thành, mà đến cả các tu sĩ Kết Đan kỳ cũng thèm muốn nữa chứ.... A a a! Nếu như có được một căn linh phủ như vậy làm chỗ tu luyện, Thành Đạt tin chắc gã sẽ kết đan chỉ trong vòng một trăm năm.
Kết đan! Là tiến vào hàng ngũ các cao thủ Kết Đan kỳ đó. Là dương thọ kéo dài lên đến hàng trăm năm, là khả năng có thể tung ra một cú đánh có uy lực hủy diệt cả một ngọn núi đá, là vô vàn sự kính ngưỡng của thế gian, là vô số ưu đãi, là trọng thị của các thế lực khổng lồ, là tiền bạc, là pháp khí, pháp bảo, là hầu xinh vợ đẹp, là sung sướng, là giấc mơ của vô số các tu sĩ được xưng tụng là thiên tài ngàn năm khó gặp, là... Thành Đạt khẽ quệt tay lau dòng nước miếng mới chảy ra trên khoé miệng rồi áp chế tham vọng đang dâng lên trong lòng, tiếp tục gùi gùi linh lương to lớn tiến về phía trước. Bây giờ không phải lúc để tiếp tục mơ mộng. Gã còn rất nhiều việc phải làm. Đem đống linh lương này đi đổi lấy những thông tin quý giá về sát khí và chiến tranh tâm lý là một trong số đó. Linh Phủ, chờ vài năm sau rồi hãy tính tới cũng không muộn.
Đã có 5 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của thedark
Chương 4
Thành Đạt lầm lũi gùi chiếc gùi linh lương khổng lồ đi dọc theo những con đường đầy ánh đèn thiên đăng, ồn ào tiếng rao hàng, tràn ngập những hình ảnh biến hóa chào mời. Gã đi đến một gian hàng nhỏ, xập xệ, không quảng cáo, không nhân viên chèo kéo khách hàng, nằm nép mình giữa hai cửa hàng bán linh dược và pháp khí to lớn hoành tráng tại góc khu thương mại.
“A! Anh Đạt, anh đến rồi!”
Chủ tiệm một thanh niên tầm 27, 28 tuổi, thân hình nhỏ thó, lùn tịt, tóc tai bờm xờm, rối loạn, thưa thớt, nhìn thấy Thành Đạt thì vui mừng reo lên. Gã thanh niên này là Đầu Đen, một trong những ‘người anh em’ thân thiết của Thành Đạt khi gã còn lang thang nơi đầu đường góc chợ, là thành viên của một tổ chức xã hội đen chuyên mua bán những đồ phi pháp. Đầu Đen cũng là một tu sĩ tu tiên nhưng thiên phú tu luyện bình thường, cũng không có hứng thú tu luyện hay bất kỳ điều gì cao xa, pháp lực thấp kém vô cùng, chỉ chuyên tâm lo việc bang hội, đứng ra làm đầu mối tìm kiếm ‘anh em’, ‘khách hàng’ và tiêu thụ một số mặt hàng sạch sẽ cho tổ chức. Băng đảng của gã ta thuộc hệ thống ‘chợ đen’ của thị trấn Sơn Đông, có thế lực rất sâu đậm, có khả năng tìm hàng rất mạnh mẽ, chỉ cần không phải là sao trên trời, trăng dưới nước thì không gì là không thể tìm được. Ngay từ khi ngộ ra những vấn đề liên quan đến sát khí và chiến tranh tâm lý, Thành Đạt đã lập tức dùng phi thư truyền tin cho gã nhờ gã tìm hộ những thông tin, kiến thức liên quan.
“Thứ ta muốn mua có tìm được không?” Hợp tác với nhau đã lâu, hai bên không cần phải làm trò lông lá với nhau nữa. Thành Đạt không quanh co lập tức hỏi thẳng.
“Đương nhiên. Đương nhiên.” Đầu Đen cười hắc hắc đáp “Thứ anh cần tìm tuy vô cùng hi hữu và quý hiếm nhưng với chúng tôi chỉ là chuyện nhỏ mà thôi. Ai da... Đáng tiếc anh lại giới hạn giá trị tối đa của bộ pháp quyết đó không vượt qua 30 viên linh thạch nếu không, tôi có thể mang đến những thượng phẩm quý giá và lợi hại hơn gấp hàng ngàn lần.”
Vừa nói, gã vừa lật tay một cái. Một luồng hào quang mờ nhạt bắn từ trong cái túi đeo bên hông của gã ra. Một quyển sách mỏng liền hiện ra trên tay gã như có phép thuật. Thấy cảnh này, Thành Đạt tấm tắc mất một hồi. Chiếc túi nhìn cũ kỹ rách nát kia là một pháp bảo không gian có thể chứa được một lượng đồ vật lớn gấp nhiều lần so với bề ngoài của nó. Thành Đạt dù không nghĩ đến phải sử dụng nó như thế nào nhưng vẫn thèm muốn món này từ lâu. Nhưng cái giá lên đến 13 viên linh thạch cấp bốn thực sự nằm ngoài tầm với của gã, buộc gã phải tạm thời đè nén tham tâm. Chưa đến lúc. Vẫn chưa đến lúc.
“Cứ để lại đó. Nếu đúng là hàng tốt năm sau ta sẽ quay lại mua.” Thành Đạt nửa đùa nửa thật. Gã đưa tay đón lấy quyển sách và mở ra xem qua phần mục lục giới thiệu nội dung bên trong.
Chiến quyết! Cư nhiên quyển sách này là một bộ công pháp thuộc về chiến quyết. Thành Đạt vừa đọc một chút giới thiệu đã giật mình kinh hãi, suýt chút nữa hô lớn.
Chiến quyết là tên gọi một hệ thống công pháp đặc biệt. Tác dụng chính của những công pháp trong hệ thống này không nhằm ở chỗ giúp gia tăng tốc độ tu luyện hay chiến lực của tu sĩ mà nhằm ở việc đào tạo ra một đoàn đội chiến đấu, thiên về hỗ trợ và phối hợp với nhau, mục đích cuối cùng là đào tạo ra những đội ngũ quân đội tu tiên chính quy thiện chiến, hùng mạnh bất chấp thực lực nhỏ yếu của mỗi cá thể trong chiến đoàn. Do đặc thù này, nên chiến quyết được coi là hệ thống công pháp đặc trưng của những tổ chức thế lực cực lớn trong tu tiên giới (tiêu tốn để đào tạo, nuôi dưỡng và duy trì một chi quân đội là quá lớn, vượt quá mọi khả năng của bất kỳ một thế lực vừa và nhỏ nào, nên họ chỉ tập trung vào những loại công pháp có tác dụng đẩy nhanh tốc độ tu luyện hay tăng cường chiến lực của một cá thể). Chiến quyết cũng là một trong những hệ thống công pháp sử dụng sát khí và chiến tranh tâm lý lợi hại nhất. Hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của Thành Đạt. Đương nhiên, nhiều loại công pháp cao cấp cũng có khả năng vận dụng sát khí tốt hơn thế này nữa. Nhưng những công pháp đẳng cấp đó đến cả lấy lão tổ tông trong Thiên Linh Phái dốc hết tài lực ra cũng không mua được chứ đừng nói đến một tên tu sĩ Luyện Khí kỳ tiêu pha phóng khoáng như Thành Đạt.
Lúc này, gã Đầu Đen đứng bên cạnh Thành Đạt không ngờ lại nghiêm túc nói
“Anh Đạt này. Tôi nói thực anh đừng giận nhé. Sát khí và chiến tranh tâm lý đều là những thứ chỉ phù hợp cho lũ chiến tu hay lũ thiên tài cao quý được trời cao ưu đãi hay có thế lực thâm sâu sử dụng. Những tiểu nhân vật chạy ăn từng bữa như chúng ta việc gì phải để mắt đến những thứ cao thâm này. Tôi nghe nói anh đã đạt đến tầng thứ ba của Linh Thủy Thuật và tầng thứ hai của Cang Kim Thuật, Thanh Mộc Thuật, Canh Địa Thuật rồi phải không? Chỉ mới năm năm mà đã đạt được thành tích ưu mỹ đến như vậy, chứng tỏ anh là một thiên tài tu luyện Ngũ Hành Nông Thuật. Sao anh không chuyên tâm tu luyện mấy thứ đó để trở thành một nhà nông vĩ đại, tạo ra linh lương, linh thạch cho bản thân tiêu xài tu luyện, sống một cuộc sống ấm no, an nhàn. Việc gì phải đâm đầu vào cái tảng đá chiến tu đó. A... Chiến tu! Bọn người đó đúng là rất nổi tiếng và được đám đông tung hô, ca ngợi không thôi nhưng thực chất chỉ là một lũ nghèo mạt rệt. Ngoài đám quý công tử có núi vàng chống lưng hay những kẻ không còn gì để mất thì làm gì còn ai muốn đi làm cái nghề đó nữa chứ?”
Đầu Đen nói vậy là muốn tốt cho Thành Đạt. Điều này thì Thàn Đạt có thể hiểu được. Nhưng câu nói cho rằng chiến tu chỉ thích hợp với đám tu sĩ quý tộc đã thực sự chọc giận gã. Cơn phẫn nộ là cho máu nóng bốc thẳng lên đầu gã làm gã ù hết cả tai, chóng cả mặt, vất vả lằm mới kìm giữ bản thân lại được. Thành Đạt không nói gì chỉ cho quyển sách công pháp vào người rồi đưa gùi linh lương cho gã Đầu Đen quyết toán. Cảm nhận được quyển sách trong túi. Thành Đạt tự thề với mình sẽ tu luyện thành công và trở thành một chiến tu thiên hạ vô định, cho thế gian biết không có gì trên đời này là gã không thể làm được.
“Linh lương ở đây có ba trăm hai mươi cân, tuy chất lượng hơi kém một chút nhưng vẫn đáng giá ba mươi mốt viên linh thạch. Quyển công pháp này là vật khó tìm nên giá trị cũng là ba mươi viên linh thạch. Khấu trừ hai thứ cho nhau, anh còn dư ra được một viên linh thạch nữa. Anh không có ý kiến gì chứ?”
Đầu Đen thấy Thành Đạt nổi giận thì cũng không khuyên tiếp nữa, quay qua xem đống linh lương rồi nói rành mạch từng thứ một. Thành Đạt lúc này không còn tâm chí đâu mà so đo một hai với gã lập tức gật đầu rồi quay lưng bỏ đi luôn, không để ý gì đến cả một viên linh thạch còn dư lại. Lúc này đây trong đầu gã chỉ có cuốn công pháp tu luyện kia và lập tức muốn tìm một nơi để chiêm nghiệm nó cho rõ ràng rành mạch.
Huyết Luyện Ma Pháp. Đó là tên chính thức của quyển công pháp mà Thành Đạt vừa mua được. Giống như mọi công pháp thuộc hệ thống Chiến Quyết khác, nội dung chính của quyển công pháp này chủ yếu nói về cách thức vận dụng công pháp này để huấn luyện đoàn đội tu sĩ thành những đơn vị quân đội chiến đấu tập đoàn, quy mô tối thiểu là một trăm người trở lên. Điểm đặc sắc nhất của bộ công pháp này là thích hợp với những tu sĩ có tư chất không cao, điều kiện tu luyện thiếu thốn, thời gian tu luyện ngắn ngày. Ưu điểm lớn nhất của nó là có thể đem oán khí, hung khí, sát khí của người tu luyện dung nhập vào trong pháp lực của họ rồi dùng những thủ đoạn đặc biệt, biến thành chúng những thứ vũ khí giết người cực kỳ khủng khiếp. Ngoài những thứ liên quan đến những phần trên ra, trong quyển công pháp còn có ghi lại một số thủ đoạn sử dụng sát khí trong chiến đấu và tu luyện cũng như ma công đặc sắc như Huyết Luyện Thuật có thể đem oán khí dung nhập vào máu huyết, biến máu huyến bản thân thành chất kịch độc hay dùng để phối hợp với Huyết Tế Thuật, tà thuật đem lượng máu huyết chứa đầy oán khí kia ứng dụng vào việc luyện công, luyện đan, luyện khí... Thú vị nhất là Huyết Trì, một loại pháp khí cực kỳ tà ác, có thể sử dụng oán huyết để luyện người sống thành những yêu binh, ma binh hung tàn ác sát và rất nhiều diệu dụng khác. Trong quyển công pháp này có không ít thủ đoạn, ma thuật lợi dụng sát khí, hung khí, oán khí... những thứ mà Thành Đạt đang muốn tìm kiếm. Đáng tiếc, chúng đều không thích hợp với những cuộc quyết chiến một chọi một.
Tất cả những kiến thức trong bộ Huyết Luyện Ma Pháp này không phải là kiến thức cao siêu, thâm bí, huyền ảo gì mà là những kiến thức rất phổ biến trong giới tu sĩ tu ma, tu yêu. Nhiều môn phái tu tiên cũng công khai sử dụng những tà thuật này để đào tạo nô binh (những đơn vị binh lính do các tu sĩ có thân phận là nô lệ tạo thành). Trên thực tế, loại công pháp tu luyện coi trọng oán khí của người tu luyện này không thích hợp cho nhưng tu sĩ bình thường tu luyện mà chỉ thích hợp với những nô lệ, những người có số phận bi thương, trải qua nhiều ngang trái khổ cực không thể dùng từ ngữ bình thường mà miêu tả hết được.
Nô lệ là một giai cấp đặc biệt trong thế giới tu tiên. Những người này còn được gọi với một tên gọi khác là những đồ vật hình người. Xuất thân của họ cũng vô cùng đa dạng và phức tạp. Có người do nghèo khổ quá phải tự bán thân, có người do nợ tiền nợ bạc mà bị đem bán, có người do bị bắt cóc, có người là hàng binh chiến tranh, có người là con cháu của các nô lệ... Trong tu tiên giới, nộ lệ là một món tài sản như bao loại tài sản khác. Những người này được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau. Những đại môn phái sử dụng nô lệ làm người hầu kẻ hạ trong nhà, tá điền trồng cấy linh lương trên các linh điền, phu khai thác các mỏ khoáng sản, chiến binh trên chiến trường, đỉnh lô luyện công, ‘lò nhân luyện’ trong luyện đan, nuôi dưỡng linh thảo cao cấp... Nghề nghiệp các nô lệ có thể bị ép phải làm vô cùng nhiều và đều có đặc điểm chung là vô cùng cực khổ và nguy hiểm. Tuổi thọ của các nô lệ thường không vượt quá 25 tuổi là bằng chứng rõ nét nhất cho việc này.
Thiên Linh Phái tuy là một môn phái nhỏ nhưng cũng có nô lệ của riêng mình. Ước chừng 100 nô lệ này hiện đang được môn phái sử dụng làm phu khai thác tại một quặng mỏ thuộc quyền sở hữu của môn phái. Khi biết được rằng Huyết Luyện Ma Pháp thích hợp với các nô lệ, trong đầu Thành Đạt lập tức hiện lên ý tưởng sử dụng đám nô lệ này. Đương nhiên gã không có hứng thú với việc huấn luyện những con người đáng thương đó thành chiến binh, ma lính gì cả. Gã chỉ muốn dùng Huyết Luyện Thuật lên người bọn họ, rồi sau đó dùng máu huyết đó để luyện thành Huyết Trì rồi sau đó... hắc hắc hắc... Thành Đạt nhanh chóng tưởng tượng đến hình ảnh gã đem theo một đội yêu binh, yêu tướng đi đánh cướp khắp nơi hoành hành bá đạo, đè đầu cưỡi cổ lũ nhà giàu, bọn quyền cao chức trọng, lũ cao thủ cao cao tại thượng kia ra mà hành lạc. Chắc chắn sẽ rất thú vị!
Những ý nghĩ tà ác đó hiện ra trong đầu Thành Đạt rất nhanh rồi bị gã mạnh mẽ áp chế xuống tận đáy lòng. Gã còn đủ khôn ngoan để hiểu được rằng đó chỉ là ý tưởng, là giấc mơ đầy tươi sáng trong một tương lai rất xa xôi. Hiện tại gã còn nhiều việc hơn phải làm. Một trong số đó chính là tiêu hóa được những kiến thức liên quan đến sát khí và vận dụng được các thủ đoạn sử dụng sát khí. Những cái khác, nói sau đi. Mà cái quyển công pháp này thực sự có rất nhiều thứ đáng để học tập và nghiên cứu. Cứ từ từ rồi xôi sẽ nhừ! Đám nô lệ vẫn ở đó đợi chờ gã, không ai lấy mất đi đâu mà sợ. Thành Đạt mỉm cười, co mình trong một góc khuất, như một tên đứa trẻ mồ côi nơi đầu đường góc phố xưa kia. Gã ngẩng đầu lên nhìn đám thiên đăng và các cửa hàng bay lơ lửng phía trên cao kia, miệng khẽ lẩm bẩm
“Nhất định sẽ có ngày ta đập rớt các ngươi xuống đất! Con bà nó! Có chút tài cán là nhảy lên đầu người ta như thế đấy à!”
Sáng sớm hôm sau, Thành Đạt không đi gặp mấy người anh em cũ lâu ngày không gặp mà lập tức trở về Thiên Linh Sơn. Chỉ một đêm ngủ dưới chân mấy cửa hiệu bay kia thôi đã làm cho gã gần như phát điên rồi. Nếu còn tiếp tục ở lại nơi đây nữa, chắc gã thật sự phát điên luôn chứ không còn giữ nổi bình tĩnh như hiện tại nữa. Trên đời này thử hỏi có thứ gì đáng ghét hơn một gã thanh niên thân cao tám thước, to béo khỏe mạnh phải chịu cảnh đi dưới mông đít người khác chỉ vì không biết bay cơ chứ! Tuyệt đối không có gì có thể làm gã điên ruột hơn thế nữa. Con bà nó!
Thành Đạt trở về núi Thiên Linh Sơn vào chiều tối ngày hôm đó. Gã dọn dẹp nhà cửa vườn tược qua loa một chút rồi lại lấy quyển Huyết Luyện Ma Pháp ra tiếp tục nghiên cứu, học hỏi. Càng đọc, càng nghiền ngẫm suy nghĩ cẩn thận, Thành Đạt càng cảm thấy khiếp sợ trước trí tuệ uyên thâm của vị cao nhân đã sáng tạo ra bộ công pháp này. Rất rõ ràng, không chỉ đơn thuần là một bộ công pháp chiến quyết chuyên phối hợp đoàn đội tác chiến quy mô lớn như những gì mục lục của quyển công pháp này giới thiệu. Trong quyển công pháp mỏng manh này là cả một đại dương bao la những kiến thức cao siêu đến mức dù có Thành Đạt có bỏ ra vài chục năm để nhấm nháp cũng không thể tiêu hóa hết tất cả được. So với những kiến thức được viết ra trong sách, những gì gã tự lĩnh ngộ về sát khí thật quá mức đơn sơ và giản dị. Không nói đến cái gì sâu xa, chỉ riêng việc vận dụng sát khí của bản thân vào cuộc sống và cả chiến đấu thôi, vị tiền bối cũng vạch ra đến hàng chục phương pháp vô cùng bình thường, đơn giản mà lại cực kỳ thực dụng. Hơn nữa, các phương thức này không hề mâu thuẫn nhau. Một tu sĩ có sát khí trong mình có thể tu luyện tất cả chúng một lúc mà không hề phải lo lắng các pháp quyết bài xích lẫn nhau, gây hại cho người sử dụng. Nếu có thể luyện thành tất cả các pháp quyết này, Thành Đạt tin chắc bản thân sẽ lột xác, trở thành một siêu nhân bất khả chiến bại, tung hoành ngang dọc không địch thủ. Đến khi đó, chắc chắn sẽ có nhiều tu sĩ cao quý trên đời này gặp phải ác mộng trường kỳ với gã.
Đáng thương cho ‘con ếch’ Thành Đạt. Chỉ vì gã ‘ngồi dưới giếng quá lâu mà nhầm tưởng bầu trời chỉ to hơn cái miệng giếng của nó có chút xíu. Gã đâu biết rằng những thứ gã đang không ngừng cảm khái, tôn sùng kia, đều chỉ là những kiến thức sơ đẳng nhất về vận dụng sát khí, chiến tranh mà thôi! Những gì gã chưa biết, không hiểu vẫn còn nhiều lắm. Chỉ cần bước chân ra khỏi ngôi nhà nhỏ bé, chênh vênh trên triền núi Thiên Linh sơn này thôi, gã sẽ còn phải kinh ngạc dài dài. Cứ từ từ mà hưởng thụ đi nhá, bé yêu!
Đã có 4 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của thedark