Ðạo Trời vô cùng. Lòng người bất trắc. Chỉ có Nhân và Nghĩa là thứ bảo vật bất biến vĩnh hằng.
Nhân Nghĩa là bảo vật vì từ nghìn xưa cho tới nghìn sau, luôn luôn được ưa chuộng. Trái lại hung bạo bị căm thù.
Ðược ưa thì thắng, bị ghét thì thua, cuộc đấu tranh trường diễn của lịch sử, lời tiên nho nói không sai : "Cương cường tất tử nhân nghĩa vương "
Truyện Hán Sở tranh hùng là một minh họa có sức thuyết phục cho chân lý ấy .
Tần Thủy Hoàng dùng sức mạnh tóm thâu lục quốc . Nhưng vì chỉ biết lấy bạo lực , không biết lấy nhân nghĩa thu phục lòng người mà lòng người rời bõ , rốt cuộc bị Hạng Vũ tiêu diệt . Nhưng thắng Tần rồi Hạng Vũ lại lầm đường đi vào vết xe đổ nên đã bị Lưu bang trừ khữ .
Lưu Bang tức Hán Cao Tổ đã thấy sức mạnh và độ bền của Nhân , Nghĩa , biết dùng Nhân Nghĩa làm keo sơn gắn bó lòng người nên đã củng cố Hán tộc được khá lâu dài .
Ðọc Hán Sở Tranh Hùng là để soi tấm gương không mòn còn mãi : Tấm Gương Nhân nghĩa .
Lời Nhà Xuất Bản Ðại Nam
Hồi Thứ Nhất.
Thâu sáu nước, Thủy Hoàng dựng nhà Tần,
Oán trăm họ, dân gian hờn bạo chúa.
Từ nhà Châu suy yếu, các chư hầu nổi dậy thôn tính lẫn nhau, tạo trong thiên hạ một thời hỗn loạn. Thời ấy gọi là thời Chiến quốc, kéo dài tám trăm bảy mươi ba năm.
Bấy giờ thiên hạ gồm vào bảy nước: Tần, Sở, Tiệu, Tề, Hán, Nguy, Yên.
Bảy nước ấy, Tần mạnh nhất. Trong có Thừa tướng Lã Bất Vi chuyên quyền, ngoài có tướng giỏi như Vương Tiễn chinh phạt, diệt nhà Châu, kiêm tính sáu nước, đem thiên hạ về một mối.
Vua Tần là Thủy Hoàng, con Dị Nhân (Chiêu Tương Vương) và Dương Hoa Chánh vốn là kẻ bạo ngược.
Sau khi nhất thống được sơn hà, cho mình là đấng anh hùng cái thế, cổ kim không ai sánh kịp, tự suy tôn hiệu Thủy Hoàng Đế, đời thứ hai gọi là nhị thế, đời thứ ba gọi là tam thế, cho đến vạn thế vv...
Rồi chia thiên hạ ra làm ba mươi sáu quận, vẽ một bức địa đồ thống nhất, bắt tất cả những mưu sĩ đem về an trí nơi Hàm Dương (Kinh đô nước Tần) đúc mười hai pho tượng để khoa trương nước nhà giàu mạnh, lập cung A Phòng ơ vườn Thượng Lâm, tập họp tất cả những gái đẹp bốn phương về đó ước hơn nghìn người, ngày đêm tửu sắc vô tội.
Lã Bất Vi vì tư thông với Dương Hoa Thái hậu, nên bị Tần Thủy Hoàng trừ đi, lập Lý Tư lên thay thế.
Năm thứ hai mươi bảy, Thủy Hoàng hội quần thần, phán:
- Các vua thời xưa thường tuần du đây đó để quan sát dân tình. Nay trẫm muốn làm cái viếc đó, các quan nghĩ sao?
Quần thần đều tâu:
- Nơi cửu trùng thăm thẳm, nếu không ngự giá tuần du làm sao rõ đặng lòng dân. Xưa nay những bậc anh quân đều lấy dân làm gốc, bệ hạ muốn như vậy thực hợp với cổ ý?
Thủy Hoàng hớn hở, tryền lệnh sửa sang xa giá, bắt đầu chuyến du hành từ phía Bắc đất Lũng Tây.
Trời không nắng lắm, xa xa cây cối một màu xanh, nhấp nhô bên các sườn núi miệt Kê Đầu, trông khá đẹp mắt. Long xa trước, các quan cận thần và quân lính hạ chật ních.
Bỗng trên đỉnh núi Kê Đầu có một đám mây mờ lớn, hiện ra năm vầng hào quang sáng chói.
Thủy Hoàng lấy làm lạ, đòi cận thần Tống Vô Kỵ đến hỏi.
Vô Kỵ tâu:
- Tâu Bệ hạ, hạ thần đã trông nhiều thứ mây như: Tường vân, phù vân, thụy vân, tể vân, khánh vân, nhưng không thứ mây nào giống thứ ám khí này. Đây là một điềm ứng phi thường thật khó biết đặng.
Thủy Hoàng ngơ ngác hỏi:
- Thế thì phải làm sao để trừ được điềm lạ ấy?
Vô Kỵ tâu:
- Xin Bệ hạ quay thánh giá sang phía Đông Nam, lấy bảo vật, mà yếm thị thì mới có thể trừ đặng hung khí.
Thủy Hoàng theo lời, truyền xa giá đi về hướng Châu dịch bày lễ tế phong ở núi Đông Nhạc và Thái Sơn, rồi lấy thanh bảo kiếm của mình thường đeo, yếm dưới chân núi.
Đoạn qua sông Giang, sông Hoài, đến Nam quân, hồi giá về Hàm Dương, Quần thần ra khỏi kinh đô ba mươi dặm đón rước.
Từ đấy, lúc nào Thủy Hoàng cũng nghĩ đến vừng vân khí phương Đông Nam, lòng không vui.
Một hôm có viên cận thàn đến tâu:
- Mấy hôm nay khí trời mát mẻ, nơi Ngự lâm viên trăm hoa đua nở, xin Bệ hạ mệnh giá qua chơi để giải trí.
Đang lúc buồn bực, Thủy Hoàng nhận lời, dẫn một bọn cung phi và mấy viên cận thần đến vườn Ngự lâm ngoạn cảnh.
Tiếng gió rì rào phất phơ thổi những cành hoa vừa hé nhụy, trong quang cảnh tưng bừng của bình minh, Thủy Hoàng dạo gót khắp nơi. Mãi cho đến lúc ánh nắng bắt đầu gay gắt, Thủy Hoàng thấy mình rồng mỏi mệt, liền lên Hiển Thánh điện để nghỉ.
Giấc điệp mơ màng, Thủy Hoàng chợt nghe bên tai một tiếng nổ như trời long đất lở. Rồi một vầng thái dương đỏ ối từ trên trời sa xuống. Bỗng thấy một đứa bé áo xanh, mặt đen, chạy đến ôm vầng thái dương toan chạy. Liền lúc đó, lại có một đứa bé, mặc áo đỏ, đôi, mắt sáng quắc từ phương Nam chạy đến hét lớn:
- Tên áo xanh kia! Hãy để vầng thái dương đấy. Ta vâng lệnh Ngọc Hoàng đến lấy vầng thái dương đây.
Đứa bé áo xanh không chịu. Cả hai ôm nhau vật lộn. Đứa bé áo xanh vật đứa bé áo đỏ ngã bảy mươi hai lần. Nhưng bất thình lình, đứa bé áo đỏ đá một đá thật mạnh, đứa bé áo xanh ngã lăn xuống đất chết tươi.
Thủy Hoàng thấy vậy kêu lớn:
- Hỡi hài đồng kia! Đừng vội đoạt vầng thái dương, hãy bảo cho ta biết chúng bay là ai?
Đứa bé đáp:
- Ta là dòng dõi Thuấn Nghiêu, quê ở Phong Bái, vì dân dấy nghĩa. Thượng Đế đã cho ta được hưởng lịch số bốn trăm năm.
Nói xong, đứa bé áo đỏ ôm vầng thái dương chạy biến về phương Nam. Thủy Hoàng đưa mắt nhìn theo bóng đứa bẽ mờ dần rồi khuất sau vùng hào quang giống như vầng vân khí nơi núi Kê Đầu.
Thủy Hoàng bừng mắt tỉnh dậy, mới biết đó là chiêm bao, lòng bâng khuang tự nghĩ:
"Giác mộng này lành ít dữ nhiều. Nhà Tần ta có lẽ vận mệnh đã hết, thiên hạ ắt về tay kẻ khác ..".
Liền truyền xa giá trở về cung. Từ đó lòng buồn bã lo âu, không lúc nào vui.
Một hôm, Thủy Hoàng cùng với quần thần bàn tính, muốn tìm thuốc trường sanh bất tử để sống làm vua mãi, hưởng cảnh lạc thú của hồng trần.
Cận thần Tống Vô Kỵ tâu:
- Ở miền Đông Hải có ba đỉnh núi thần, phong cảnh tốt tươi, cỏ hoa muôn vè, khí hậu ấm áp, hạ thần chắc đó là nơi bồng lai, có thể tìm thuốc trường sinh được.
Thủy Hoàng mừng rỡ, phán:
- Khanh đã bao giờ đến đó chưa?
Vô Kỵ tâu:
- Hạ thần chưa đến, nhưng có một người bạn tên Từ Phúc, lúc trước từng qua chơi nơi Đông Hải, gặp các tiên cõi loan hạc, phong độ thoát phàm. Từ Phúc hiện nay còn ghé chơi nơi nhà hạ thần, nếu Bệ hạ tin dùng, hạ thần sẽ đưa vào yết kiến.
Thủy Hoàng liền sai Vô Kỵ cấp tốc đi triệu Từ Phúc.
Từ Phúc theo Vô Kỵ vào bệ kiến. Thủy Hoàng phán hỏi cách tìm thuốc trường sinh, Từ Phúc tâu:
- Thuốc trường sinh là một món thuốc quý, từ xưa nay khó có ai tìm được. Nay Bệ hạ muốn có ấy tất phải chịu tốn phí, đóng thuyền và cấp hành trang cho hạ thần vượt bể thì mới tìm được.
Thủy Hoàng hỏi:
- Nhà ngươi cứ hết lòng giúp trẫm, nếu được, hai ta cùng uống và cùng sống mãi hưởng vàng son; còn gì hạnh phúc bằng! Chẳng hay nhà ngươi muốn đóng bao nhiêu thuyền, và hành trang như thế nào?
Từ Phúc tâu:
- Vượt Bể đông chẳn phải chuyện đễ. Cần có mười chiếc thuyền lớn, trong thuyền phải đủ hạng thợ, và phải kén lấy năm trăm đồng nam, năm trăm đồng nữ, phòng khi dùng đến.
Thủy Hoàng liền hạ lệnh sắm đủ mọi thứ cho Từ Phúc ra đi.
Tháng ngày trôi như ngựa qua cửa sổ, chẳng mấy chốc đã hơn năm tháng trời, Thủy Hoàng ôm lòng chờ đợi mãi mãi chăng thấy Từ Phúc trở về.
Quá nóng lòng, Thủy Hoàng liền sai một người nho sĩ là Lư Sinh đi tìm Từ Phúc.
Ôi! Bốn phương mù mịt, Từ Phúc ra đi như bóng nhạn lưng trời biết đâu mà tìm. Tuy nhiên, mệnh vua đã phán, ai dám trái lời, Lư Sinh đành vâng chỉ, một mình cất bước ra đi.
Đi mãi, đến bờ bẻ, vời trông chỉ thấy sóng gào gió thét trong khoảng nước sanh trời thảm, bát ngát, muôn trùng, chảng biết đâu là bồng lai, đâu là tiên giới.
Lư Sinh ngước mặt lên trời thở dài, nghĩ thầm:
- Thủy Hoàng là một bạo chúa, tham sống mà coi rẻ mạng người. Nếu ta không tìm được Từ Phúc, trở về, tánh mạng ắt chẳng còn. Thôi thì cứ nhắm mắt đưa chân, rủi có chết thì cũng như Từ Phúc, một đi không về, thế là xong.
Lư Sinh lần theo hướng Nam, đi vào miền Núi Thái Nhạc, rồi đến núi Thái Hoa.
Suốt mấy tháng trời trong gian khổ, bỗng một hôm Lư Sinh gặp một người hình dung cổ quái, đầu bù tóc rối, mắt tròn như lục lac, đang ngồi phiến đá, nhìn về hướng trời xa.
Lư Sinh nghĩ thầm:
- Nơi đây sơn lâm cùng cốc, người thường đâu dễ mầy ai mò đến, chắc là một dị nhân!
Liền bước đến vái chào. Dị nhân quay lại thấy Lư Sinh, liền hỏi:
- Người là ai? Có việc gì lại đến đây?
Lư Sinh đáp:
- Thưa tiên sinh, tôi vâng lệnh Thủy Hoàng đi tìm thuốc trường sinh bất tử.
Dị nhân cười lớn, nói:
- Con người sống chết đã do mệnh trời định sẵn, sao lại có ý ngong cuồng như vậy? Làm gì có thuốc trường ssinh bất tử?
Lư Sinh nhìn tướng mạo dị nhân một lúc, biết không phải người phàm, cố năn nỉ:
- Tôi là người phàm mắt thịt, trí nãi u ám, xin tiên sinh thương tình cứu tôi khỏi nạn.
Dị nhân thấy Lư Sinh khẩn khoản, ngồi im ra vẻ suy nghĩ. Một lúc, dị nhân đứng dậy, đưa tay đẩy tấm vách đá, bên trong lộ ra một cửa hang rất lớn.
Lư Sinh thất kinh, lòng chưa hết ngạc nhiên, thì dị nhân đã bước vào trong, cầm một quyển sách, đem ra đưa cho Lư Sinh và nói:
- Hãy đem sách này về cho vua Tần xem, trong đí có nói rõ về "Sinh, tử, tồn, vong".
Lư Sinh tiếp lấy, thấy trên bìa sách có đề bốn chữ: "Thiện lục bí quyết". toan hỏi lại, nhưng dị nhân đã bước lên ngồi bên phiến đá, mắt nhắm nghiền như ngủ say.
Lư Sinh không dám hỏi nữa, cầm sách trở về dâng cho Thủy Hoàng, thuật lại mọi việc.
Thủy Hoàng mở sách ra xem, bên trong chéo lối cổ tự, chữ ngoằn ngoèo rất khó đọc, liền sai Lý Tư dịch ra.
Lý Tư đọc cho Thủy Hoàng nghe. Đó là sách nói về việc thuyên chuyển của lịch đại. Lịa có câu rằng: "Vong Tần Giả Hồ".
Thủy Hoàng thất kinh, nói:
- Cứ như trong sách thì rợ Hồ sẽ làm mất nhà Tần.
Liền sai Mông Điềm đem tám mươi vạn dân phu ra ngoài biên ải đắp trường thành để phòng rợ Hồ.
Ngoài ra còn bắt thêm dân chúng khắp nơi, bất luận già trẻ đều phục dịch cho công tác ấy.
Dân chúng khổ cực trăm bề, quanh năm suốt tháng chỉ còn bâu, người chỉ còn bộ xương, đói khát, con xa mẹ, vợ xa chồng, mồ hội lộn nước mắt, thây vùi khắp chân trường thành, óan hận trời.
Thủy Hoàng lại sợ đời sau chê cười, và có kẻ rõ được hành động mình, nên truyền đốt sách, chôn sống học trò ước hơn bốn trăm sáu mươi người. Lại ra nghiêm lệnh hễ ba người tụ họp nói chuyện xầm xì thì phạm vào tội chết chém.
Một lời phán gớm ghê của bạo chúa làm chấn động cả nhân gian.
Người con trưởng Thủy Hoàng là Phù Tô, thấy cha tàn ác quá, vội can:
- Sách vở là văn học của một nước, học trò là tiêu biểu cho thế hệ đời sau, phụ vương hủy hoại đi e thiên hạ oán vọng, ngôi nhà Tần khó giữ được.
Thủy Hoàng nổi giận, h
- Nghịch tử, dám dùng lời vô lễ với trẫm sao?
Tức thì ra lệnh đày Phù Tô ra Bắc biên, làm chức Giám quân, cùng với Mông Điềm coi việc đắp trường thành, cấm không được về Kinh đô nữa.
Tuy nhiên, Thủy Hoàng vẫn còn lo sợ vầng vân khí miền Đông Nam, e có kẻ ngầm mưu làm loạn, nên truyền xa giá tuần du về miền ấy để trấn áp sanh linh.
Thuở đó, nơi phía Nam, cách nước Hàn lối ba mươi dặm, có một quán rượu, thường ngày các bô lão trong vùng đến đó bắt chén giải buồn.
Một hôm có bốn cụ già ngồi khề khà nhìn mây, nhìn nước trao đổi tâm tình.
Trong số bốn cụ già ấy có một người tên Thiệu Tam Công, nhân lúc cao hứng, nói:
- Các ngài ơi! Trăm năm về trước, thiên hạ thái bình, con người sống trong cảnh đáng sống, không một chút gì bận tâm nhọc trí cả. Đời sống như thể chẳng khác gì chốn tiên bồng. Một cụ già đặt chén xuống bàn, vuốt râu nhìn Thiệu Tam Công hỏi:
- Thế thì ngài cho cõi đời này là trần tục sao?
Thiệu Tam Công lắc đầu đáp:
- Không phải là trần tụ, mà chính là địa ngục trần gian.
Ba cụ già kia đồng vỗ tay cười lớn. Một cụ hỏi:
- Theo ngài thì những cực hình ghê gớm nhứt của chốn địa ngục dương trần này là gì?
Thiệu Tam Công le lưỡi, đáp:
- Chịu thôi! Bây giờ phép nước nghiêm lắm, tôi không dám bàn đến chuyện đó...
Một cụ đưa mắt nhìn xung quanh, rồi nói:
- Nơi đây hẻo lánh, chỉ có ta với ta, hà tất phải ngại!
Bỗng từ bên trong hàng rượu có một thiếu niên bước ra, vừa cười vừa nói:
- Thưa các cụ, nếu có kẻ nào sợ pháp luật không dám nói, tôi xin thay kẻ ấy nói giúp vậy. Mọi người quay nhìn thiếu niên. Người ấy mặt tròn, mắt sáng, áo vải, giày gai, trông có vẻ một thiếu niên anh tuấn.
Thiệu Tam Công nói:
- Nếu tiểu tử đủ can đảm, xin thay ta, nói cha các vị bô lão này nghe thử.
Thiếu niên ung dung nói:
- Thưa các cụ, các cụ còn lạ gì chánh sách của bạo Tần Thủy Hoàng! Con trai không được yên phận canh cửi, cha xa con, vợ lìa chồng, gia đình tan tác. Nào đắp trường thành, nào dựng A Phòng, đốt sách vở, chôn sống học trò, nghe lời đứa dua nịnh lập ra phép dữ, oán khí ngất trời. Nghĩ làm thân trong chế độ này chẳng khác nào một tội nhân sống trong hỏa ngục! Nhục nhã thay!
Người thiếu niên còn muốn nói nữa, nhưng Thiệu Tam Công đã bỏ đứng dậy toan tính bỏ chạy.
Ba vị bô lão nói:
- Nơi đây xa cách kinh kỳ, việc gì ngài lại sợ hãi đến thế?
Thiệu Tam Công thở dài, nói:
- Dầu trong hang cùng ngõ hẻm cũng có mặt kẻ do thám của triều đình. Tai vách mạch rừng, các ngài chớ khinh khi mà rơi đầu vô ích.
Người thiếu niên thấy vậy, than thầm:
"Ôi! Nhân tâm như thế thì nỗi niềm riêng của ta biết tỏ cùng ai".
Lời Bàn:
"Đem bạo lực đàn áp dân chúng chẳng khác nào dùng sức mạnh ép vào một khối cao su. Ép càng mạnh, sức phản ứng càng nhiều".
Kẻ làm dữ hay lo xa! Tần Thủy Hoàng bình nhật làm điều ác suốt đời, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ. Sợ trong thiên hạ có nhân tài, sợ dân chúng oán hờn, sợ đời sau biết mình tàn ác. Do đó, đốt sách, chôn học trò, giết hiền sĩ, đem bạo lực ra trị dân, dùng chém giết làm cứu cánh.
Tuy nhiên, cang đàn áp bao nhiêu dân chúng càng nổi dậy bấy nhiêu. Xem thế thì đàn áp không phải là chánh sách trị quốc an dân vậy.
Xưa nay, kẻ nào dùng bạo lực đàn áp đều chỉ thành công nhất thời, cuối cùng phải chịu thảm bại.
Vả lại, những kẻ mưu quyền lợi chính đáng đều đứng trên cương vị yêu nước, thương dân, vì quyền lợi dân là quyền lợi của nước, trái lại tức là phản dân, mưu sinh lợi riêng cho mình, khó vững bền được.
Trong sung sướng, người ta thường hay sợ chết. Tần Thủy Hoàng vì sống quá sung sướng đến nỗi sợ chết, mất hưởng cảnh khoái lạc, phải sai người đi cầu thuốc trường sanh bất tử. Thật quá tham lam. May thay! Thuốc trường sanh bất tử không giúp cho một bạo chúa kéo dài mãi cảnh bạo tàn, vùi muôn dân trong thảm họa!
Hồi Thứ Hai
Hải Công trọng nghĩa, đâm bạo chúa
Triệu Cao cãi mệnh, mau thay vua.
Người thiếu niên này vốn dòng nho sĩ, quê ở nước Hàn, họ Trương tên Lương, tự là Tử Phòng. Tổ tiên Trương Lương năm đời làm khanh sĩ nước Hàn. Từ khi Tần Thủy Hoàng diệt nước Hán, Trương Lương đêm ngày ôm hờn vọng quốc quyết chí báo thù, bỏ ra nghìn nén vàng, đi khắp thiên hạ, liên kết với dũng sĩ để bàn việc thích khách bạo chúa. Trong lúc Trương Lương đang ngẩn người,buồn thế sự, thì đàng sau có một tráng sĩ chạy đến, chào Trương Lương,và nói:
- Vừa rồi nghe ngài kể tội ác của Thủy Hoàng, lòng tôi bỗng dưng hậm hực. Nếu ngàu muốn làm việc nghĩa cử, trừ hôn quân dâm bạo, tôi xin nguyện đem thân giúp sức.
Trương Lương thấy người ấy mình cao một trướng, tướng mạo đoan trang, biết là bậc phi thường, liền cầm tay, nói:
- Chỗ này không phải nơi thố lộ tâm tình, xin tráng sĩ về nhà tôi đàm đạo.
Tráng sĩ theo Trương Lương về nhà. Trà nước xong, Trương Lương hỏi:
- Xin tráng sĩ cho biết quý danh.
Tráng sĩ đáp:
- Tôi họ Lê, quê ở Hải Biên nên người ta thường gọi là Thượng Hải Công. Vốn có sức mạnh, có thể cầm nổi cây chùy nặng trăm cân, tôi thường đi đây đó, vì lòng nhân trừ kẻ hống hách, bạo ngược. Nhân thấy ngài là kẻ khẳng khái, đem lòng mến, chẵng hay quý hiệu là chi? Và có điều gì cần sai bảo tôi chăng?
Trương Lương nói:
- Tôi người nước Hán, họ Trương tên Lương, năm đời nhà tôi làm khanh tướng, không may vừa rồi Thủy Hoàng diệt mất nước. Thù vong quốc chẳng lúc nào nguôi. Nay Thủy Hoàng bạo ngược, trăm họ lầm than, tôi muốn trừ đi, trước cứu thiên hạ, sau rửa quốc thù. Nếu tráng sĩ chịu giúp tôi làm việc đó, sẽ lưu tiếng lại thiên thu.
Hải Công hớn hở xua tay nói:
- Tôi ngụyên tuân theo lời ngài.
Trương Lương mừng rỡ, lưu tráng sĩ Hải Công lại nhà mình rồi tham thính xem Thủy Hoàng chuyến này tuần du về lối nào.
Cách mấy hôm sau, Trương Lương được tin Thủy Hoàng qua huyện Vũ Dương, liền sai Thượng Hải Công nấp nơi gò cao, đợi xe giá Thủy Hoàng đến, thích khách.
Tiếng trống rập rềnhtừ xa vẳng đến, rồi long xa ló dạng. Hải Công tay cầm thanh chùy đứng chờ.
Tiếng bánh xe nghiến trên đường đất, qua cụm gò cao. Nhanh như chớp, Hải Công nhảy ra, cầm chùy đánh vào long xa bể nát.
Nhưng xe nát mà Thủy Hoàng không chết!
Vì, Thủy Hoàng tự biết mình có những hành động tàn bạo, sợ thiên hạ ám hại, nên đã đề phòng trước, sắm hai chiếc long xa, một chiếc để ngự lúc du hành, còn mộ chiếc để không, sai quân sĩ đẩy đu trước.
Thế là Trương Lương đã thất bại!
Ngự lâm quân áp lại, bắt Thượng Hải Công dẫn đến nạp cho Tần Thủy Hoàng.
Thủy Hoàng nghiến răng hét:
- Ai xui nhà ngươi làm cái việc phản nghịch đó?
Thượng Hải Công trừng mắt đáp:
- Mày là một vị hôn quân vô đạo, khắp thiên hạ đều óan hận muốn giết mày. Ta muốn vì dân trừ hại, sao mày lại hỏi ngu thế?
Thủy Hoàng nổi giận, truyền quân đem Hải Công ra tra tấn quyết hỏi cho được kẻ chủ mưu.
- Trời ơi! Cái thù của nước Hfn ta biết bao giờ mới trả được! Hận quốc dân biết thuở nào nguôi. Trời nỡ dung tha một kẻ hôn quân, bạo chuad để cho muôn dân sống mãi trong lầm than sao!
Trương Lương bùi ngùi bỏ trốn sang Hạ bì, đến trú nơi nhà Hạng Bá.
Hạng Bá là cháu Hạng Yên, trước kia từng làm tướng nước Sở, với Trương Lương là bạn thân, nên giấu Trương Lương trong nhà, không để lộ tông tích.
Khối buồn đọng mãi không tan, thỉnh thoảng Trương Lương ra ngòai dạo cảnh.
Một hôm, bóng chiều vừa xế, khóm trúc bên cầu xào xạc trước ngọn gió lê thê, Trương Lương lểnh mểnh quanh chân suối, lòng ngổn ngang trăm mối u buồn, bỗng thấy một ông già đi ngang qua cầu, làm rớt chiếc giày xuống nước rồi kêu Trương Lương nói:
- Này tiểu tử, hãy lại đây lượm chiếc giày cho ta.
Trương Lương thấy ông lão có dáng tiên phong đao cốt, biết không phải người thường, liền bước đến, cúi lượm chiếc giàu trao cho ông lão rất kính cẩn.
Ông lão xỏ chân vào giày rồi lại đánh rới xuống, bảo Trương Lương nhặt. Cứ như thế đến ba lần, Trương Lương vẫn với cử chỉ kính cẩn không hề tỏ ý bất mãn.
Ông lão mỉm cười, nhìn Trương Lương nói:
- Thằng bé này có thể dạy được đây!.
Liền chỉ vào gốc cổ thụ gân đó, nói:
- Năm ngày nữa, người đến gốc cây này, ta sẽ cho một vật quý! Chớ sai hẹn!
Trương Lương cúi đầu vâng mệnh.
Năm hôm sau, Trương Lương dậy sớm, y ước đến chỗ gốc cây, thấy ông già đã ngồi chờ sẵn nơi đó.
Ông gìa nhìn Trương Lương mắng:
- Đã hẹn với kẻ trượng phu cớ sao lại đến trễ? Thôi ta hẹn cho năm ngày nữa, hôm sau đó phải đến cho thật sớm.
Năm hôm sau, đầu trống canh năm, Trương Lương đã thức dậy ra gốc cây, dè dâu ông cũng đã ngồi ở đó rồi.
Ông lão mắng:
- Sao người biếng nhác như thế? Hôm nào cũng để ta phải chờ đợi? Thôi, ta hẹn cho năm ngày nữa.
Lần này, Trương Lương không ngủ, suốt đêm ta ra nơi gốc cây ngồi chờ.
Trống canh năm vừa điểm, ông lão lếch mếch đến. Trương Lương sụp lạy, nói:
- Kính thưa tiên sinh có gì chỉ dạy, xin thương tình sai bảo.
Ông lão nói:
- Ta xem tiểu tử cốt cách thanh kỳ, nếu biết dùng tuổi xanh lo việc học tập, sau này có thể đồ vương định bá được. Nay ta cho người ba quyển bí thư, trong có đủ mưu,thần toán, dù Tôn, Ngô phục sinh chưa chắc bì kịp. Ngươi khá nhận lấy học tập, trước vì nước Hán báo thù, sau vì thiên hạ giúp chân chúa đem laị thái bình, để khỏi phụ tình tri ngộ.
Trương Lương tiếp nhận ba quyển sách, quỳ mọp xuống đất tạ ơn, và hỏi:
- Tiểu tử muốn biết đại danh của tiên sinh, xin tiên sinh cho phép.
Ông lão nói:
- Ba năm nữa, nơi phía Đông thành Đại Cốc có một cái lăng của một vị đế vương, trong đó có một hòn đá vàng (hoàng thạch) tức là ta đó.
Trương Lương nghe nói ngạc nhiên, ngẩng mặt lên thì ông lão đã đi đâu mất.
Trương Lương trở về nhà Hạng Bá, mở sách ra xem thấy đó là bộ "Thái Công Binh Pháp" ngày đêm cố gắng học tập để đợi thời cơ.
Giữa lúc đó, Thủy Hoàng đi Đông du, qua địa phận Từ Châu. Nơi đây hoa màu tươi tốt, cây cối khác thường. Nhân dân trong hạt đem đến dâng cho Thủy Hoàng một cây lúa trổ ba bông. Thủy Hoàng đắc ý, khen thưởng mọi người rồi truyền xa giá sang phía Đông Nam, đi về huyện Bái.
Vừa đến nơi, Thủy Hoàng chợt thấy trên đỉnh núi cao, xuất hiện một vầng hào quang sáng chói.
Thủy Hoàng cau mày, gọi Lý Tư nói:
- Hào quang xuất hiện, nơi đây ắt có nhân tài. Cần phải tìm giết đi để khỏi di hại về sau.
Lý Tư tâu:
- Vân khí xuất hiện là chuyện thường, nay bệ hệ tuần du mà sai người dò thám, bắt bớ e lòng dân náo động chăng?
Thủy Hoàng nghe lời ấy, thôi không sai người dò thăm bắt bớ nữa. Một hôm, Thủy Hoàng ngự giá đến Cối Kê, dân chúng hai bên đường đều phục lạy tiếp đón.
Trong đám dân chúng ấy, bỗng có một chàng trai toan đứng dậy nhảy xổ xuống đâm Thủy Hoàng.
Tuy nhiên, hành động chưa phát lộ, thì có một ông lão biết ý cản lại, kề tai nói nhỏ:
- Không nên! Đại trượng phu phải lập nghiệp lớn, để tiếng thiên thu, lẽ nào bắt chước những tay thích khách tầm thường!
Chàng trai ấy là Hạng Tịch, tên chữ là Vũ, quê ở Hạ Tượng, còn ông lão kia là Hạng Lương, chú của Hạng Vũ đó.
Từ thuở bé, Hạng Vũ theo nghiệp văn, nhưng văn dốt, Hạng Vũ sang nghề võ, nhưng kiếm thuật lại không rành.
Người chú là Hạng Lương, thường mắng:
- Mày học hành chẳng ra sao, lớn lên chỉ là một tên côn đò dốt nát.
Hạng Vũ nói:
- Thưa chú, học chữ chẳng qua để biên chép mòn ngày, còn học kiếm chẳng qua cũng chỉ định nổi một vài người mà thôi. Hai môn ấy không ích nên cháu không gắng.
Hạng Lương giận hỏi:
- Thế thì mày muốn học thứ gì để gọi là ích lợi?
Hạng Vũ thưa:
- Cháu muốn học nghề gì mà nhất nhân địch vạn nhân, như thế ngày sau, mới có thể đem thân ra tranh đấu với thiện hạ được.
Hạng Lương thấy cháu có ý lạ, liền lấy các sách binh pháp ra dạy. Môn nay Hạng Vũ thích học hơn, song cũng chỉ học những cái đại cương mà thôi.
Hai chú cháu đang ôm mộng lập nghiệp thì hôm ấy Thủy Hoàng tuần tuần du đến. Hạng Vũ vốn ghét Thủy Hoàng dâm bạo, muốn giết đi, nhưng Hạng Lương kịp cảnlại. Từ ấy hai chú cháu chu du khắp thiên hạ, chiêu tập nhân tài để mưu đồ đại sự.
Lý Tư thấy Thủy Hoàng đi đến đâu cũng gặp chuyện chẳng lành, dân chúng khiếp sợ lẫn tránh, liều tâu:
- Tâu Bệ hạ, Bệ hạ tuần du đã lâu, trong thiên hạ đều biết rõ uy vũ, xin Bệ hạ khá hồi loan, sửa sang chính trị, giữ gìn biên cương để an dưỡng mình rồng, bớt điều khổ nhọc.
Thủy Hoàng suy nghĩ một lúc rồi truyền xa giá hồi loan.
Đi đến địa phận Duyên Châu trời tối, Thủy Hoàng nằm ngủ, bỗng mơ màng giấc điệp trông thấy một vị Long thần hiện đến cùng với Thủy Hoàng giao chiến. Thủy Hoàng cầm cự hồi lâu, nhắm sức không cự nổi bỏ chạy. Chạy đến một bờ biển, nước xanh cuồn cuộn, sóng gió hãi hùng, hả mồm, ngoạm lấy Thủy Hoàng nuốt đi. Thủy Hoàng thất kinh, giật mình thức dậy, mồ hôi ướt cả long bào, tay chân rũ rượi.
Biết điềm mộng chẳng lành, Thủy Hoàng lo lắng sinh bệnh.
Đi đến đất Sa Khâu, bệnh thế càng nặng, Thủy Hoàng liền gọi Lý Tư đến nói:
- Trẫm biết không chẳng còn sống để thọ hưởng cảnh vinh hoa nữa. Nếu vạn nhất trẫm có băng hà, khanh nên đến Thương Quân đón Thái tử Phù Tô về kế vị. Như vậy thiện hạ mới mong lạc nghiệp được.
Nói xong, lại viết tờ di chúc và giao ngọc tỷ cho Lý Tư.
Lý Tư sụp lạy nhận mệnh, Thủy Hoàng nói:
- Ngươi phò trẫm đã lâu, các việc lớn nhỏ trẫm đều phó thác cả. Vậy phải hết lòng vì người chớ trái lời di chúc này. Thái tử Phù Tô là người nhân ái, có thể dùng đức cải oán thiên hạ được. Ta tiếc rằng đời ta đã dùng vạo lực, phương thức không hay đói với chánh sách trị nước.
Nói đến đấy, Thủy Hoàng thở hơi cuối cùng.
Lý Tư liền tẩm liệm, rồi đưa thi thể về Hàm Dương, rồi ngay sau đó sai người đi triệu Phù Tô về phát tang.
Triệu Cao cản lại nói:
- Không nên! Thái tử Phù Tô lâu nay không tín nhiệm bọn ta. Nếu thừa tướng lập Phù Tô lên ngôi chẳng những chúng ta mất chức, mà còn nguy hiểm đến tính mệnh nữa.
Lý Tư nói:
- Nhưng mệnh vua, làm trái sao đành.
Triệu Cao cười nhạt, nói:
- Đành vậy. Nhưng giữ lời di chúc mà thân phải lụy, thà phụ lời di chúc mà giữ địa vị còn hơn. Thừa tướng đối với Thái Tử đâu bằng Mông Điềm.
Lý Tư thở dài hỏi:
- Theo ý ngài nên làm thế nào?
Triệu Cao nói:
- Hãy đổi tờ di chúc, lập Công Tử Hồ Hợi lên nối ngôi.
Lý Tư trầm ngâm một lúc, quyền lợi bản thân thắng đạo đức, ngẫn nhìn Triệu Cao nói:
- Vâng, tôi xin theo lời ngài.
Triệu Cao mừng rỡ, đến tìm Công Tử Hồ Hợi nói:
- Nghiệp đế vương ngày nay mất còn chỉ có Công tử, thừa tướng và tôi định đoạt. Tiên vương di chiếu lập Thái tử Phù Tô,chúng tôi xét thấy quyền hành công tử sau này sẽ mất hết. Chúng tôi xin vì công tử, lập công tử lên kế vị.
Hồ Hợi cau mày nói:
- Ôi chao! Sao các ngài có ý nghĩ như thế? Bỏ anh lập em là trái nghĩa, bỏ lời di chúc của Tiên vương là bất trung, còn không theo lời cha là bất hiếu. Kẻ đã bất trung, bất hiếu, bất nghĩa thì ai còn phục. Tôi không thể nghe theo lời các ngài được!
Triệu Cao nói:
- Đáng trượng phu không nên câu nệ những tiểu tiết mà bỏ đại sự. Cơ hội ngàn năm một thuở. Phú quý về tay mà không tiếp nhận, dẫu sau hối hận cũng chẳng ích gì.
Hồ Hợi nghe Triệu Cao nói bùi tai,gật đầu đáp:
- Ừ, thế thì các ngài hành đọng cách nào tùy ý.
Triệu Cao lập tức trở về thuật lại với Lý Tư rồi đổi tờ di chúc, sai Diêm Nhạc đem chiếu giả đến Thượng Quân, bắt Phù Tô phải tự tử. Đoạn lập Hồ Hợi lên ngôi.
Diêm Nhạc đến Thượng Quân truyền lệnh cho Phù Tô ra tiếp chiếu, Phù Tô vội vàng ra sụp lạy Diêm Nhạc mở chiếu ra đọc rằng:
"Nhà Đại Tần ngày... tháng ... năm thứ ba mươi bảy.
Thủy Hoàng đế hạ chiếu:
Đời Tam Đại lấy hiếu trị thiên hạ, gây mối cương thường. Con không nghe cha là bất hiếu, tôi không nghe vua là bất trung. Kẻ bất trung, bất hiếu không đáng làm chủ thiên hạ.
Nay Trưởng Tử Phù Tô cãi mệnh cha, không tròn đạo làm con. Cứ lấy tình cha con thôi có thể dung thứ được, song theo phép tổ tiên thì không khoản miễn.
Vậy chiếu lập Hồ Hợi làm Thái tử, truất Phù Tô xuống thứ dân, trao cho một chén độc dược và một thanh gươm để tự tử lấy thân.
Còn như tướng Mông Điềm cầm quân cõi ngoại không ích lợi gì cho nước,chỉ làm hao tốn muôn dân, lẽ ra phải theo phép gia hình, nhưng vì trường thành chưa xong, tạm để cho Mông Điềm ở đó, đôn đốc công việc.
Chiếu chỉ đến nơi, phải lập tức tuân theo".
Khâm Tử.
Phù Tô nghe xong khóc lớn, nói:
- Ôi! Vua bảo chết, tôi không thể không tuân, cha bảo chết con không thể trái mệnh. Nay Phù Tô này xin lãnh thanh gươm và độc dược cho trọn niềm trung hiếu.
Mông Điềm lại nói:
- Xin Điện hạ xét lại đã. Bệ hạ sai hạ thần đem ba mươi hai vạn quân đóng nơi biên cương, lại sai Điện Hạ đến làm Giám Đốc. Đã giao trọng trách như thế lẽ nào còn bắt chết! Tôi e trong triều có điều gì gian trá xin Điện hạ về triều thỉnh tôi để rõ ngay gian.
Phù Tô lắc đầu nói:
- Bình nhật phụ vương tôi ghét bỏ tôi, nay bắt chết đó là thánh ý. Tôi không muốn cãi lời.
Nói xonh, sai quân đem thuốc độc đến, uống một hơi cạn chén.
Ót chết, Mông Điềm thương tiếc vô cùng, ôm thây khóc mãi. Ba quân ngậm ngùi rơi lệ.
Diêm Nhạc thấy Phù Tô đã chết, trở về báo với Hồ Hợi.
Hồ Hợi liền làm lễ tức vị xưng hiệu là Nhị Thế Hoàng đế.
Từ đó, quyền hành trong nước về tay Lý Tư và Triệu Cao chuyên chế.
Hai người lập ra hình pháp rất nghiêm khắc, cốt trâùn áp lòng dân, mưu lợi riêng, không kể đến cái hại vong quốc sau này.
Các quan đại thần trông thấy đều chán ngán, không muốn tham dự việc nước. Vua Nhị Thế thấy Mông Điềm thống lãnh hơn ba vạn quân ngoài biên ải, còn thân thuộc đều ở nơi kinh thành, sợ sinh biến liền truyền chỉ đem chém hết.
Quan Đại Thần Tử Anh can:
- Tâu bệ hạ, họ Mông vốn dòng dõi đại thần, nay bệ hạ mới trị nước mà trừ bỏ đại thần e lòng dân ly tán. Xin Bệ hạ dùng đức khoan hồng thay cho uy vũ để trị dân.
Nhị Thế không nghe, truyền đem tộc thuộc Mông Điềm giết hết.
Mông Điềm hay tin ấy, ngước mặt lên trời than:
- Nhà ta ba đời có công lớn với nước Tần, nay vua Tần tin dùng kẻ gian nịnh hủy hại tôi hiền. Tần cầm trong tay ba chục vạn quân, đủ sức phản lại. Nhưng thà chịu chết chứ không để làm mất tiếng trung liệt của tổ tiên.
Đêm ấy, Mông Điềm uống thuốc độc tự tử.
Vua Nhị Thế nghe tin Mông Điềm chết, lập tức truyền chỉ ra Thượng quận bắt anh em con cháu Mông Điềm đày qua Thcụ quân. Bình nhật, Triệu Cao và Lý Tư chỉ sợ có Phù Tô và Mông Điềm, nay hai người ấy đều chết cả, nên không còn kiêng nể ai nữa.
Lời Bàn:
- Biết nhẫn nại, mỗi việc dù lớn nhỏ, đều lượng sức mình hiểu sức người,đó là hàn động của kẻ trí.
- Ỷ sức mạnh, không nghĩ đến hậu quả, đó là hành động của vũ phu.
Bản lĩnh con người hiện ra ở tánh tình và hành động.
- Trương Lương ba lần được tiên lão thử thách, ngưng tỏ ra nhẫn nại, không tự ải, không bất mãn. Do đó được tiên lão truyền binh pháp. Cho hay, những kẻ làm nên việc lớn thường là những kẻ biết đem lý trí trấn áp cá tánh của mình.
- Hải Công, vì lòng tri ngộ, giúp Trương Lương, sách kiếm đón đường thích khách Tần Thủy Hoàng. Hành động ấy cũng tỏ ra hào kiệt, song chỉ là cái vũ dũng cá nhân, điển hình cho việc nghĩa mà thôi.
- Đến như Hạng Vũ, điển hình một tiềm tàng về vũ lực, có thể nói vũ lực ngự trị cả tâm hồn. Lúc nhỏ không chịu học, cho rằng học chữ chỉ biên chép mòn ngày, học kiếm chỉ địch một người, muốn hoạc môn nào nhật nhân địch vạn nhân. Xem đó thì cái chí hiên ngang của Hạng Vũ đã un đúc từ thuở bé vậy.
- Ngoài cái sức mạnh vũ dũng chúng Tần còn thấy cái sức mạnh của tinh thần. Trường hợp Phù Tô, đem cái chết đổi lấy hiếu đạo: "Thà chết chớ không bất hiếu". Nếu tinh thần con người không có một sức mạnh, sao có thể làm được việc đó. Thế thì tinh thần cũng có một sức mạnh đáng kể.
Trãm bạch xà, Lưu Quý dấy binh
Ðánh quân Tần , Hạng Lương khởi nghĩa
Triệu Cao và Lý Tư từ khi lập vua Nhị Thế lên ngôi, ra sức vơ vét của cải dân chúng, xui vua Nhị Thế hành phạt sinh linh, tất cả những nguy cơ trong nước đều dấu nhẹm không cho vua Nhị Thế biết.
Trộm cướp nỗi dậy khắp nơi, các tay anh hùng hào kiệt đua nhau chiêu tập binh mã để mưu đồ quốc sự.
Khắp các miệt Sơn Ðông, Sơn Tây, Hồ Nam , Hồ Bắc và quanh vùng Ngô, Sở không chỗ nào không có giặc giả .
Trần Thắng khởi binh ở đất Tần, Vũ Thần khởi binh ở đất Triệu , Lưu Bang khởi binh ở đất Bái, Hạng Lương khởi binh nơi đất Ngô, bốn biển tung hoành, rộn ràng gươm giáo . Cái họa vong quốc đã đến nơi, thế mà vua Nhị Thế không hay biết gì cả, ngày đêm mải mê tửu sắc nơi cung A Phòng.
Trong số hào kiệt, Lưu Bang được nhiều người nói đến.
Lưu Bang quê ở đất Bái tên chữ là chữ Quý. Khi xưa bà mẹ Lưu Bang thường nằm trên một bờ bưng lớn nghĩ ngơi ... Bỗng một hôm , thấy thần nhân đến cùng với mình giao cấu.
Lúc tỉnh dậy, trong mình dã dượi, rồi thụ thai. sanh ra Lưu Bang . Lưu Bang mũi cao, miệng rộng, trán cao, mặt rồng, dưới vế bên tả có bảy mươi hai nốt ruồi, tính tình rộng rãi, trọng nghĩa, yêu người, khi lớn lên được làm chức Ðình Trưởng ở Tứ Thượng. Tuy nhiên, phải cái bệnh ham mê tửu sắc, nên ai cũng chê.
Bấy giờ có ông Lã Văn người Ðan Phủ, ngắm tướng mạo Lưu Bang rồi nói với mọi người :
- Bang tuy là kẻ ham mê tửu sắc, song lúc gặp thời phú quý sẽ về tay. Với đức tánh hiền lương ấy, tôi tưởng gầy nên nghiệp cả không khó.
Một hôm, Lã Văn về bàn với vợ, muốn đem con gái mình là Lã Nha gả cho Lưu Bang.
Bà vợ cau mày nói :
- Sao ông lẩn thẩn thể ? Trước kia quan huyện Bái đến cầu hôn, ông không chịu gả, bây giờ lại đem gả cho tên du đãng sao ?
Lã Văn cười lớn, nói :
- Ai bảo bà Lưu Bang là kẻ du đãng ? Bà có biết đâu người ấy là bậc anh hùng trong thiên hạ !
Hôm sau, Lã Văn mời Lưu Bang đến nhà, đặt tiệc khoản đãi.
Lúc đang ăn uống, Lã Văn nâng chén, nói với Lưu Bang :
- Tôi xem tướng ngài không phải là bậc phàm nhân, xin ngài phải tự trọng mới được. Nhà tôi có một gái, tuổi vừa cặp kê, tôi muốn cho theo hầu ngài để sửa tráp nâng khăn.
Lưu Bang khúm núm thưa :
- Tôi có ba việc chưa làm xong dám đâu nghĩ đến chuyện vợ con !
Lã Công nói :
- Ý tôi đã quyết, ngài chớ phụ lời. Vả lại kẻ trượng phu trên đời phải làm đến trăm nghìn việc, chớ cứ gì ba việc. Tôi chưa thấy ai vì bận việc mà từ chối không lấy vợ bao giờ.
Lưu Bang thấy Lã Công đem lòng quyến luyến không nỡ chối từ. Hai người bắt chén tương tri, rồi giã biệt.
Lã Công đưa tiễn Lưu Bang ra khỏi ngõ, bỗng có một chàng trai vồn vã chạy đến, nói với Lưu Bang :
- Ôi chao ! Ngài đi đâu mà đã ba hôm tôi tìm không gặp.
Lã Công thấy chàng trai ấy hình vóc cao lớn, tiếng nói vang như sấm, khí phách đường đường, nghĩ thầm :
- Hẳn là một tay hảo hớn, gặp thời có thể vá trời lấp biển được !
Liền mời cả hai vào hàng rượu gần đó đánh chén.
Lã Công lựalời hỏi thăm tên họ khách.
Khách đáp :
- Phàn tên Khoái, người huyện Bái, làm nghề bán thịt chó.
Nhân đi tìm Lưu Bang lại gặp ngài đây, thật vạn hạnh.
Lã Công nói :
- Tôi từng nghe danh tráng sĩ đã lâu, hôm nay mới gặp màt, muốn tỏ một lời, song còn e ngại.
Phàn Khoái kính cẩn hỏi :
- Việc gì xin ngài cứ thật tình dạy bảo.
Lã Công mỉm cười, nhìn Phàn Khoái hỏi :
- Tôi hỏi thế này tưởng cũng quá đường đột, nhưng xin tráng sĩ hỉ xả cho. Chẳng hay tráng sĩ đã có người nội trợ chưa ?
Phàn Khoái đáp :
- Thưa ngài, tôi nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, việc ấy chưa thể nghĩ đến.
Lã Công nói :
- Tôi có hai gái, đứa lớn gả cho Lưu Bang rồi, còn đứa nhỏ là Tu, nếu tráng sĩ có lòng thương, tôi xin dâng nốt.
Phàn Khoái ngập ngừng chưa dám nhận, Lưu Bang mỉm cười bảo Phàn Khoái :
- Hôm nay là ngày kỳ ngộ, chỉ một bữa mà Lã đại nhân đem hai tiểu thư gả cho hai ta. Lã đại nhân đã có lòng thương, hiền đệ chớ nên từ chối.
Phàn Khoái vội vã đứng dậy tạ ơn Lã Công.
Rượu tan, ánh nắng chiều cùng bắt đầu nhạt dần, hai nghời bái biệt ra về.
Ngày hôm sau, quan huyện Bái sai Lưu Bang đưa phu đến núi Ly Sơn để phục vụ công tác xây thành.
Khi đi đường, bọn dân phu trốn thoát quá nửa. Tối hôm ấy nghỉ lại nơi trạm Chăm Phong Tây, Lưu Bang nói với mọi người :
- Các anh ra đi không biết ngày về, vợ đói con rét, người nào trốn được thì trốn, tội gì đem thân hy sinh cho công việc không đem lại lợi ích cho quốc gia.
Bọn dân phu nói :
- Cám ơn ngài có lòng thương chúng tôi, song chúng tôi nỡ nào trốn thoát để ngài mang tội sao đành !
Không, các anh cứ đi ! Tôi đây cũng phải tìm đường lánh nạn, chứ dại gì chịu chết !
Trong bọn dân phu có hơn mười người tráng sĩ, thấy Lưu Bang đầy lòng nhân đạo, đồng nói :
- Chúng tôi xin tình nguyện theo ngài !
Lưu Bang thuận tình. Ðêm ấy mọi người cùng Lưu Bang đánh chén thực say rồi theo lối tắt tìm đường đi trốn.
Ði được một quãng, bỗng thấy người dẫn lối quay trở lại nói :
- Ðàng trước có một con rắn dài ước mười trượng, nằm ngang giữa đường, không sao đi được. Phải tìm lối khác thoát thân.
Cả đoàn đều nhốn nháo. Riêng Lưu Bang vẫn điềm nhiên nói :
- Ðấng trượng phu không vì trở ngại mà lùi bước .Nói xong, cầm kiếm bước đến chém con rắn đứt làm hai đoạn, rồi vẫy tay nói với mọi người :
- Rắn đã chết, chúng ta tiến bước !
Mọi người le lưỡi, lắc đầu, bảo nhau :
- Bình nhật, Lưu Bang là kẻ nhút nhát, cớ sao hôm nay lại bạo dạn đến thế.
Cả đoàn kéo nhau vào ẩn nơi núi Mang Ðãng. Dân chúng trong vùng hay tin theo đến rất đông. .
Cách mấy hôm, có người đến chỗ Lưu Bang chém con Bạch xà hôm trước, thấy có một bà già đang ôm xác con rắn khóc sướt mướt.
Người ấy lấy làm lạ, hỏi :
- Rắn chết thì trừ hại cho dân làng, cớ sao bà lại thương tiếc ?
Bà già nói :
- Con tôi là con Bạch Ðế, hóa ra rắn nằm dọc đường, rủi bị ông Xích Ðế chém chết, vì vậy mà tôi thương khóc.
Bà già nói dứt lời biến mất. Dân trong vùng hay chuyên lạ bảo nhau :
- Ðó là một quái tượng !
Ðất Bái xung thiên khí đế vương
Trảm xà khởi nghĩa cứu tai ương.
Mở dầu sự nghiệp gây nhà Hán
Công đức Lưu Bang thật khó lường.
Từ khi Lưu Bang trảm xà, mưu việc lớn, bốn phương thiên hạ tình nguyện theo phò ước hơn hai trăm người .
Bấy giờ hai người Lại Mục huyện Bái là Tiêu Hà và Tào Tham thấy chính sách nhà Tần tàn bạo , thuế má nặng nề, bàn nhau tôn quan huyện Bái lên làm minh chủ, mộ quân chống lại nhà Tần.
Lưu Bang hay tin ấy, kéo đoàn nghĩa dũng của quân mình đến xin gia nhập.
Quan huyện thấy thanh thế của Lưu Bang thì sợ hãi, gọi Tiêu Hà và Tào Tham đến trách .
- Các ngươi mượn tiến cử ta làm minh chủ, nay lại viện quân ngoài đến, có khác gì thêm cánh cho hùm, sau này không tránh khỏi nội biến.
Tiêu Hà và Tào Tham nhìn nhau mỉm cười.
Ðêm ấy, hai người lén ra ngoài thành, tìm đến nói với Lưu Bang :
- Quan huyện Bái là kẻ tầm thường không mưu nỗi việc lớn. Ngài nay thanh thế đã khá, nên thừa cơ hội này chiếm lấy thành trì huyện Bái, làm chỗ đồn trú quân mă, chiêu dụ hiền tài, khởi xướng việc nghĩa, mưu trừ kẻ tàn bạo, thì thiên hạ bốn phương mới có chỗ tôn phò.
Lưu Bang nói :
- Nếu hai ông sẵn sàng giúp tôi làm việc nghĩa, tôi đâu dám cãi lời. Song điều cần yếu hai ông phải giúp tôi làm nội ứng thì mới nên việc được.
Tiêu Hà và Tào Tham đồng đáp :
- Các bậc bô lão trong thành hiện nay đều mong mỏi có người tài cầm đầu khởi nghĩa, nếu ngài viết một bức thư vạch rõ lợi hại hiểu dụ, ắt trăm dân một lòng nghe theo, thành huyện Bái chiếm đoạt không khó gì.
Lưu Bang theo lời, viết một bức thư bắn vào thành, trong thư đại ý nói :
" Lâu nay thiên hạ khổ sở vì chánh sách tàn bạo nhà Tần, vì vậy, hào kiệt bốn phương đua nhau dấy nghĩa, chọn người tài làm minh chủ liên kết chư hầu dể dánh đổ bạo chúa, đem an cư, lạc nghiệp lại cho muôn dân là người trọng nghĩa vì dân nên cùng tôi ứng theo nghĩa cả ".
Các bô lão trong thành được thư, bàn nhau :
- Hiện nay Lưu Bang chiêu tập binh mã vì dân khởi nghĩa, chúng ta là những kẻ sống ngất ngưởng trong chế độ mục nát bạo tàn, lẽ nào lại không hưởng ứng.
Liền rủ nhau vào giết quan huyện Bái rồi mở cửa thành cho nghĩa binh Lưu Bang kéo vào.
Tiêu Hà, Tào Tham bàn với dân chúng lập Lưu Bang lên làm quan huyện Bái.
Lưu Bang từ chối, nói :
- Không thế được. Nay thiên hạ loạn lạc, các chư hầu đua tranh, cần phải tìm người tài tôn lên. Tôi đức bạc, tài hèn không đủ tín nhiệm làm chủ huyện Bái , xin các ông chọn người khác.
Mọi người đồng thanh nói :
- Lâu nay nghe tiếng ngài là bậc kỳ tài, đáng cho chúng tôi tôn làm minh chủ. Nếu ngài từ chối lòng dân ắt ly tán .
Lưu Bang thấy không thể từ chối được , phải nhận chức , tự xưng là Bái Công , dùng cờ đỏ làm "nghĩa kỳ" . Dân chúng đất Bái theo đến hơn ba ngàn người .
Cùng trong thời gian ấy , Hạng Lương và Hạng Vũ sang đất Cối Kê .
Quan Thái Thú Cối Kê là Ân Thông biết Hạng Lương là người mưu trí , liền mời đến bàn chuyện .
Ân Thông nói :
- Nay vua Nhị Thế vô đạo, Trần Thiệp khởi binh thiên hạ nhao nhao hưởng ứng. Tôi cũng muốn thừa cơ khởi nghĩa nên mời ngài đến cùng tôi hợp tác, ý ngài nghĩ sao ?
Hạng Lương giả cách vâng lời, rồi trở về bàn với Hạng Vũ :
- Kẽ trượng phu cần tự lập, lẽ nào đem thân xu phụ người khác ! Vả lại Ân Thông không phải là người đủ tài đức đứng ra gánh lấy việc đại nghĩa. Tuy nhiên, nếu ta không cướp lấy cơ hội thì làm sao có chỗ dung thân để mưu việc lớn.
Hạng Vũ nói :
- Việc ấy chẳng khó gì ! Ngày mai chú vào giả cách đàm đạo với Ân Thông, cháu giắt kiếm vào lưng, theo chú đến đó, thừa cơ giết hắn đi chiếm lấy quận ấy để làm nơi nương tựa, chiêu tạp binh mã, tích thảo dồn lương.
Hạng Lương nói :
- Nếu cháu làm được việc ấy thì hay lắm.
Sáng hôm sau Hạng Lương và Hạng Vũ cùng vào nha môn. Ân Thông đem việc phản Tần bàn với Hạng Lương.
Hạng Vũ đứng một bên, hét lớn :
- Ngươi với ta hai lãnh vực khác nhau. Ta là dòng dõi khanh tướng nước Sở. Nước Tần diệt nước Sở nên ta đối với Tần có cái thù bất cộng đái thiên. Còn ngươi là một quan Thái Thú, ăn lộc vua lại âm mưu phản quốc, rõ là kẻ bất trung, không giết còn để làm gì.
Dứt lời vung kiếm chém Ân Thông rơi đầu.
Nha môn im lặng như tờ không ai dám hé môi.
Hạng Vũ cầm đầu Ân Thông giơ cao, nói :
- Hạng Công là người tài trí, đáng lãnh đạo dân chúng trong quận. Người nào không thuận hãy xem tấm gương này.
Hai viên môn lại là Quý Bá và Chung Ly Muội bước lên công đường nói lớn :
- Ðến đất người, giết chủ người, sao gọi là làm việc nghĩa ?
Hạng Vũ đáp :
- Hạng Công vì nước Sở trả thù Tần, vì thiên hạ cứu lầm than đó là chí lớn , nếu hai người bằng lòng qui thuận, nêu cờ khởi nghĩa chẳng phải là hành động đại nghĩa sao !
Hai người nghe nói đều phục xuống thềm, thưa :
- Chúng tôi xin nghe theo lời tướng quân.
Hạng Lương phong cho Quý Bá và Chung Ly Muội làm chức Ðô Úy.
Chẳng bao lâu, các nơi nghe tiếng kéo nhau đến theo hơn vạn người .
Hạng Lương sắp thành đội ngủ , thưởng phạt nghiêm minh ai cũng nức lòng phò tá.
Quý Bá và Chung Ly Muội bàn với Hạng Lương :
- Quân mạnh phải có tướng hùng mới nên việc. Nay thế quân của ta đã đông, nhưng tướng chưa đủ. Trong quận Cối Kê nơi Ðồ Sơn có hai viên tướng là Hoàn Sở và Vũ Anh, sức mạnh địch muôn người, đang chiêu mộ tinh binh ước hơn tám ngàn. Nếu dụ được hai tướng ấy thì hay lắm.
Hạng Lương nghe nói, lập tức sai Hạng Vũ và Quý Bá đến Ðồ Sơn chiêu dụ.
Hạng Vũ đến nơi, sai một tên tùy tùng vào nói. :
- Quan Ðại tướng nước Sở tôi là Hạng Vũ, tùy hành chỉ có vài người, mình không mặc giáp, tay không binh khí đến đây cốt để bàn với nhị vị việc Vương, Bá mà thôi.
Hoàn Sở và Vũ Anh nghe nói, cho mời Hạng Vũ vào.
Hạng Vũ nói :
- Nay vua Nhị Thế vô đạo, dân chúng lầm than, các anh hùng hào kiệt đều nổi lên dấy nghĩa, mong cứu dân khỏi vòng tai biến. Nhị vị tướng quân sẳn tài vũ dũng, có thể giúp ích cho đời, nếu cứ ẩn mãi trong chốn sơn lâm phỏng có ích gì. Hạng Công tích thảo dồn lương nơi quận Cối Kê, quyết lòng rửa hờn cho sáu nước, nếu hai vị tướng quân bằng lòng hợp tác sau này thành công phú quý cùng hưởng.
Hoàn Sở nói :
- Tần tuy vô đạo, song binh lực còn mạnh, nếu không có tài cái thế khó nổi thành công. Chúng tôi nhắm sức mình chưa đủ, không dám mưu việc lớn. Ngài đã dám đứng ra tính việc đại nghĩa, hẳn tài cán siêu quần. Bao giờ chúng tôi thấy được tài năng của ngài thì mới quy thuận, băng không chỉ vẽ hổ không thành, mang tiếng với đời mà thôi.
Hạng Vũ nói :
- Nhị vị tướng quân muốn thử tài tôi bằng cách nào ?
Hoàn Sở nói :
- Ở dưới sườn núi có miếu Vũ Vương. Trước miếu có cái đỉnh nặng mấy nghìn cân. Nếu ngài lay nổi ba lượt, thì quả là người có sức mạnh vô địch.
Hạng Vũ nói :
- Thế thì đưa tôi đến đó xem thử.
Hai tướng dẫn Hạng Vũ, Quý Bá và bọn tùy tướng xuống sườn núi, vào miếu Vũ Vương. Giữa sân có một cái đỉnh đồng cao bảy thước, chu vi năm thước, nặng ước năm ngàn cân. Hạng Vũ xem qua rồi bảo viên tiểu tướng đẩy thử xem. Viên tiểu tướng cố sức đẩy mạnh, mặt đỏ bừng, nhưng đỉnh đồng không hề lay chuyển.
Hạng Vũ, xăn tay áo, đẩy mạnh một cái, đỉnh đồng ngã xuống rồi lại đỡ lên như cũ. Ba lần như vậy, vẫn không lấy gì làm nặng nhọc.
Hai tướng vỗ tay reo lớn :
- Ôi chao ! Quả là tay hảo hớn !
Hạng Vũ vừa cười vừa nói :
- Thế đã lấy gì làm lạ.
Dứt lời, cầm lấy chân đỉnh đưa cao lên trời , đi quanh miếu ba vòng, mà sắc mặt vẫn không thay đổi.
Hai tướng la lớn :
- Thật là bậc thiên thần, dẫu Mạnh Bôn tái sinh cũng chưa chắc đã địch nổi. Chúng tôi xin tùng phục ngài.
Hạng Vũ đem đỉnh đồng để xuống chỗ cũ, rồi theo hai tướng trở về trại .
Hai tướng đặt tiệc khoản đãi .
Ngày hôm sau thu xếp hành trang , thống suất binh mã, cùng theo Hạng Vũ hạ san.
Vừa đi khỏi Ðồ Sơn vài dặm, bỗng thấy một toán dân chúng hơ hải chạy đến.
Hạng Vũ ngạc nhiên, gò ngựa, hỏi :
- Các ngươi có việc chi sợ hãi thế ? .
Vài người dân binh đến đầu ngựa cúi chào Hạng Vũ và nói :
- Trong vực lớn cạnh núi Ðồ Sơn có con rồng đen , hóa thành ngựa , ngày nào cũng đến thôn Nam Phụ gầm , thét , cắn , đá , phá hoại mùa màng , chúng tôi không làm cách nào đuổi đi được . Ai đến gần đều bị ngựa đá chết . Chúng tôi thấy đại binh qua đây , đến nhờ tướng quân vì dân trừ hại . Ðược vậy dân vùng nầy mang ơn tướng quân không ít .
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của Cánh gà nướng
Trừ thần mã, Hạng Vũ lấy vợ.
Lập vua Sở, Phạm Tăng hiến mưu
Hạng Vũ nghe nói lập tức dẫn Hoàn Sở cùng bọn tùy tướng đến bên vực.
Thần mã thấy có người đến, nhảy xổ tới, cắn đá rất hăng. Hạng Vũ xăn áo, túm lấy bờm ngựa ghì xuống, con ngựa không cử động nổi. Hạng Vũ lấy dây cương tròng vào, rồi cưỡi mươi vòng quanh bờ vực, thần mã toát mồ hôi , đứng rũ chân không còn dám hung hăng như trước.
Dân chúng thấy vậy đều sụp lạy, hoan hô, và xin cho biết danh tính.
Hạng Vũ nói :
- Tôi là Hạng Vũ, cháu Hạng Yên, quan Ðại tướng nước Sở thời xưa, nhân đi mộ quân đánh Tần mới qua đây .
Trong đám dân chúng có một ông lão đến gần nói :
- Tôi nghe danh tướng quân đã lâu nay mới gặp mặt, xin mời tướng quân quá bộ đến thảo trang, cùng xơi với lão một chén trà.
Hạng Vũ nhận lời, kéo cả đoàn quân đến nơi.
Ông lão đặt tiệc thiết đãi rất ân cần.
Hạng Vũ hỏi :
- Thưa lão trượng, chẳng hay lão trượng phương danh là chi, cớ sao có thịnh tình này ?
Ông lão đáp .
- Tôi họ Ngu, người ta thường gọi tôi là Ngu Công, vì trọng tài tướng quân nên đem lòng quyến luyến. Chẳng hay tướng quân niên kỷ được bao nhiêu ?
Hạng Vũ thưa :
- Tôi năm nay 24 tuổi.
Ngu Công hỏi :
- Và, đã có người nội trợ để nâng khăn sửa túi chưa ?
Hạng Vũ đáp :
- Chí cả chưa thành, tôi chưa nghĩ đến chuyện đó.
Ngu Công ngập ngừng đáp :
- Lão hiếm hoi, chỉ có một gái tên Ngu Cơ, tư chất thông minh, tánh tình trang nhã. Khi tiện thê gần sinh cháu, mơ thấy năm con phượng đến múa trước nhà, lão chắc con gái lão sau này có số giàu sang, vì vậy lâu nay có ý chọn mặt gởi vàng. Nếu tướng quân không câu nệ nghèo hèn, lão xin đem tiện nữ dâng hầu tướng quân làm bầu bạn .
Hạng Vũ thấy lòng quyến luyến của Ngu Công, rất hân hoan, đứng dậy xin cảm ơn.
Ngu Công gọi Ngu Cơ ra chào. Thực là một đóa hoa tuyệt mỹ, giá đáng nghìn vàng.
Hạng Vũ cởi thanh kiếm đeo bên mình dâng cho Ngu Công làm lễ hứa hôn, rồi bái từ trở về Cối Kê, dẫn Hoàn Sở và Vũ Anh vào yết kiến Hạng Lương.
Hạng Lương thấy hai tướng hình dung vạm vỡ, khí phách kiêu hùng, lại dẫn theo hơn tám ngàn tinh binh đến đầu phục, lờng mừng rỡ vô cùng.
Hạng Vũ dắt con thần mã đến trình Hạng Lương.
Hạng Lương trông thấy con ngựa mình cao bảy thước, dài hơn một trượng , liền đặt tên là ô Truy, và nói :
- Từ ta khởi binh đến nay gặp nhiều may mắn, có lẽ trời khiến nhà Tần phải diệt vong.
Cách mấy hôm, Hạng Lương cho đón Ngu Cơ về Cối Kê kết hôn với Hạng Vũ.
Ngu Cơ lại đem theo một người em họ là Ngu Tử Kỳ để dùng.
Từ đó, thanh thế Hạng Lương mỗi ngày một mạnh, các binh sĩ đào vong bốn phương nghe tiếng tìm đến hơn mười vạn.
Hạng Lương thấy binh hùng, tướng mạnh , lương thực đầy đủ , liền định ngày xuất quân đánh Tần.
Ngày khởi binh đến, các bô lão nơi thành Cối Kê ra đứng cả hai bên vệ đường, nói :
- Tướng quân ra đi, chúng tôi còn biết lấy ai trông coi chúng tôi.
Hạng Lương xuống ngựa , kính cẩn nói :
- Khi trước tôi lấy thành Cối Kê là tạm mượn chỗ để lưun đồn nhân mã . Nay đại quân đóng lâu ngày sợ nhiễu loạn nhân dân chăng ? Tôi vì sanh linh trừ hôn quân vô đạo . Nếu nghiệp cả được thành, quyết chẳng bao quên ơn nơi đã giúp tôi khởi nghĩa .
Các bô lão đều cảm động, phục xuống đất, quyến luyến không nở rời .
Hạng Lương bùi ngùi ra lệnh ba quân tiến phát.
Ðại binh theo đường lớn, kéo thẳng qua sông Giang, đến sông Hoài.
Bỗng đạo tiền quân dừng lại, và có thám mã chạy đến báo :
- Phía trước có một toán quân ngăn đường.
Hạng Vũ vội vã giục ngựa tới trước, thấy trong toán quân đó có một tướng mặt mày vạm vỡ, khí thế uy nghi liền hỏi :
- Tướng kia là ai ? Cớ sao lại cản đường quân ta ?
Tướng ấy đáp :
- Ta là người đất Lục An, tên Anh Bố, lâu nay chiêu tập nghĩa binh để trừ gian, cứu thiên hạ. Các ngươi là toán quân vô danh ở đâu đến đây, ta quyết chẳng cho đi.
Hạng Vũ đáp :
- Tướng quân lầm rồi ! Ta đây là Hạng Vũ, con cháu Hạng Yên nước Sở, bởi vua Nhị Thế bạo tàn nên dấy binh khởi nghĩa, trả thù cho sáu nước chư hầu, sao lại gọi là vô danh ?
Hai người còn đang tranh phải trái , Hoàn Sở nghe tên Anh Bố, vội thúc ngựa ra trước quân, gọi lớn :
- Hiền huynh ơi ! Hãy xuống ngựa quy hàng. Tiểu đệ đã tùng phục theo nước Sở rồi, xin hiền huynh giữ lời hứa cũ.
Hạng Vũ ngạc nhiên hỏi Hoàn Sở :
- Có lẽ hai người quen thân với nhau sao ?
Hoàn Sở nói :
- Thưa phải . Anh tướng quân vũ dũng siêu quần, ít người sánh kịp. Trước kia phải đi làm phu dịch ở Li Sơn, bỏ trốn đến nhà tôi tá túc. Hai tôi có hẹn nhau, lúc nào gặp được anh quân sẽ cùng nhau đem thân giúp nước. Vừa rồi, tôi có nghe Anh Bố chiêu tụ nghĩa quân, nhưng chẳng rõ thực hư. Nay gặp mặt, thật may mắn .
Anh Bố xuống ngựa nói :
- Nếu ngài đã vì đại nghĩa dấy binh, tôi xin tình nguyện đem thân giúp sức.
Hạng Vũ mừng rỡ, dẫn Anh Bố đến yết kiến Hạng Lương.
Hạng Lương tiếp đón niềm nở và nói :
- Muôn quân dễ kiếm, một tướng khó tìm. Ðược tướng quân cộng tác, chẳng khác nào như hùm thêm vây.
Nói xong truyền thống hợp binh mã, tiếp tục lên đường.
Một hôm , Hạng Lương bàn với chư tướng :
- Quân mạnh, tướng hùng là điều kiện tất yếu trong quân, song trí dũng lúc nào cũng phải đi đôi với nhau mới có lợi. Quân ta sức mạnh đủ đánh Tần, chỉ thiếu một người mưu sĩ.
Quý Bố nói :
- Tôi nghe thôn Cư Sào, hạt Hoài Dương có một người họ Phạm tên Tăng, tuồi đã bảy mươi mà mưu trí còn thừa, dẫu Tôn, Ngô ngày xưa cũng khó bì kịp. Nếu Minh Công muốn dùng, tôi xin đi rước.
Hạng Lương mừng rỡ, sai Quý Bố đem lễ vật đến mời Phạm Tăng.
Quý Bố đến Cư Sào tììm nhà trọ nghỉ ngơi, dò hỏi tông tích Phạm Tăng.
Người chủ trọ nói :
- Ông ấy tuy ở gần thành thị, song không thích cảnh phố phường, lâu nay mai danh ẩn tích, chẳng chịu tiếp kiến ai bao giờ.
Quý Bố nghĩ thầm :
- Nếu không được giáp mặt Phạm Tăng làm sao bày tỏ cạn lời .
Nghĩ rồi hỏi chủ trọ :
- Ông có biết nhà Phạm Tăng hiện ở đâu chăng ?
Chủ trọ đáp :
- Cách đây ba dặm, nơi chân núi Kỳ Cổ có ngôi nhà lá đó là nhà Phạm Tăng.
Quý Bố nghĩ ra môt kế, sai đứa tùy tùng giả làm khách buôn đến nói với người nhà Phạm Tăng :
- Chúng tôi người xứ lạ, đến Cư Sào buôn bán, chẳng may gặp vận rủi, hàng hóa lỗ lã nghe đồn tiên sinh đây là bậc kỳ mưu, đến xin yết kiến để lãnh vài lời chỉ giáo .
Phạm Tăng nình nhật vốn thích việc bày mưu, lập kế , nghe người nhà nói có khách buôn từ phương xa lại, liền cho vào .
Quý Bố lập tức cùng với tên tùy tùng vào yết kiến.
Thấy Phạm Tăng tóc bạc da mồi, khăn nâu áo vải, mà khí tượng đường bệ, ra vẻ tiên phong, đạo cốt, vội vã cúi chào.
Phạm Tăng hỏi :
- Khách từ đâu đến ? Nghề nghiệp gì ?
Quý Bố lập tức dâng lễ vật, quỳ mọp xuống đất thưa :
- Tiện nhân không phải khách xa lạ, cũng chưa từng buôn bán ở Cư Sào, vì sợ không được yết kiến Tiên sinh nên mượn lời nói vậy. Nay vua Nhị Thế vô đạo, lòng dân oán vọng, hào kiệt nỗi lên chiếm đất giành dân, mưu đường tiến thủ. Hạng tướng quân tôi vốn dòng dõi Hạng Yên nước Sở , tài kiêm văn vũ , lòng sẵn hiếu trung , vừa phất cờ khởi nghĩa ở Cối Kê , muôn dân hưởng ứng. Trộm nghe Tiên sinh mưu trí , hơn người, Tôn, Ngô , không sánh kịp, nên sai tôi đem lễ vật đến dâng, nếu được Tiên sinh giúp sức thì việc đại nghĩa ắt thành, xin tiên sinh vì cảng lầm than của thiên hạ , ra cứu dân độ thế.
Pham Tăng bảo Quý Bố đứng dậy chỉ ghế mời ngồi và nói :
- Việc đồ vương định bá không thể quyết định trong chốc lát được . Túc hạ đã đến đây , xin tạm trú nơi tệ xá, ngày mai sẽ bàn.
Quý Bố cứ quỳ mãi dưới đất năn nỉ :
- Hạng tướng quân tôi mong được Tiên sinh chẳng khác nắng hạn trông mưa, lòng nóng như đốt, xin Tiên sinh vì cảnh điêu linh của muôn dân, đem tài cứu vớt , thiên hạ sẽ mang ơn Tiên sinh không nhỏ.
Phạm Tăng thấy Quý Bố năn nỉ quá, bất đắc dĩ phải nhận lời .
Tối hôm ấy Phạm Tăng bấm độn xem vận mệnh nước Sở , bỗng thở dài lẩm bẩm :
- Thôi ! Ta lầm rồi ! Sở không phải chân mệnh, khó lòng giúp nên công. Nhưng kẻ trượng phu đã nói một lời không thể thay đổi.
Hôm sau, Phạm Tăng thu dọn hành lý, cùng đi với Quý Bố đến giúp Hạng Lương .
Hạng Lương hay tin sửa sang áo mão, ra ngoài năm dặm đón rước vào đại trại, và nói :
- Lương tôi nghe tiếng Tiên sinh đã lâu, lòng khao khát, ngặt bận rộn việc quân, chưa đến bái yết được. Nay Tiên sinh không nỡ bỏ kẻ ngu hèn này đến đây dạy bảo, thật Lương tôi thỏa chí bình sinh.
Phạm Tăng đứng lên nói :
- Dòng dõi tướng quân mấy đời thờ nước Sở, nay vì dân khởi nghĩa, thiên hạ ai chẳng nức lòng. Tăng này dẫu tuổi già trí cạn , được tướng quân đoái tưởng , quyết tận tâm mưu tính nghiệp vương, để đền ơn tri ngộ.
Từ đó Hạng Lương cùng Phạm Tăng ngày đêm bàn tính việc quân cơ, rất tương đắc.
Một hôm Hạng Lương sai người đi dò thám tin tức Trần Thắng.
Quân thám thính về báo :
- Trần Thắng bị tướng Tần là Trương Hàm đánh bại, chạy về đất Nhữ Âm, bị tên Trang Giả giết chết. Chư hầu đều giải tán cả. Quân Trương Hàm hiện còn đóng ở Nam Dương .
Hạng Lương thất kinh, nói :
- Ta họp chư hầu cốt để giúp Trần Thắng đánh Tần, ngờ đâu Trần Thắng lại tử trận rồi. Quân ta không nên khinh thường kinh động.
Ðoạn, mời Phạm Tăng đến thương nghị.
Phạm Tăng nói :
- Trần Thắng là hạng tầm thường, chỉ tham lợi nhỏ mà không thấy được đại cuộc. Dẫu sống cũng chẳng làm được trò gì.
Hạng Lương hỏi :
- Thế nào là lợi nhỏ, thế nào là đại cuộc ?
Phạm Tăng nói :
- Phàm kẻ mưu đại cuộc trước hết phải chinh phục lòng dân. Trong lúc muôn dân ly tán, không phân tính được chân, thiện, ác, lẽ ra Trần Thắng phải tìm dòng dõi vua Sở trước kia lập lên để tỏ ra mình vì đại nghĩa, đàng này Trần Thắng tự lập mình, cho mọi người nghi ngờ hành động của mình, rõ là kẻ bất trí.
Hạng Lương nghe Phạm Tăng nói, ngẩn người một lúc , rồi hỏi :
- Việc thất bại của Trần Thắng có ảnh hưởng gì đến đường tiến thủ của chúng ta chăng ?
Phạm Tăng đáp :
- Dĩ nhiên đó là một bài học . Cứ như tướng quân khởi nghĩa chuyến này, dân chúng đâu đâu cũng hưởng ứng, vì tin chắc rằng tướng quân dòng dõi tôi thần nước Sở, tất sẳn lòng lập con cháu vua Sở lên làm vua. Mà như thế là chính nghĩa. Danh chánh ngôn thuận là một sức mạnh tuyệt đối, thắng bạo lực.
Hạng Lương cho là phải, liền dùng Phạm Tăng làm quân sư, sai người đi tìm con cháu vua Sở đem về lập lên ngôi.
Bọn thủ hạ đi tìm mãi không thấy tông tích con cháu vua Sở đâu cả .
Hạng Lương tức giận sai Chung Ly Muội dẫn một đám thủ hạ đi tìm.
Chung Ly Muội nói với bọn thủ hạ :
- Nước Sở từ khi bị nhà Tần diệt, con cháu ly tán, nếu còn thì nay cũng đổi họ tên, lẩn trốn nơi hoang dã, khó mà tìm được.
Ðoạn, cùng với bọn tùy tùng cất bước, lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm mà vẫn chưa tìm ra tông tích.
Một hôm, đi đến địa phận Nam Hoài, thấy một lũ chăn dê đang đuổi đánh một đứa trẽ đồng bọn.
Ðứa trẽ bị đánh ấy mặt mũi khôi ngô, trán cao, vai rộng, không phải như những đứa trẻ tầm thường, Chung Ly Muội gọi đứa trẻ ấy lại, hỏi :
- Tại sao chúng lại xúm nhau đánh mày như thế ?
Ðứa trẻ đáp :
- Tôi vốn không nhà cửa.., mẹ cha, ở làm con nuôi cho nhà Vương Xã trưởng, vì vậy chúng nó khi dễ. Vừa rồi tôi nói với chúng nó rằng : "Chúng bây dẫu có mẹ cha, nhà cửa, nhưng là con nhà tầm thường, ta đây tuy không nhà cửa, mẹ cha , nhưng là dòng dõi nhà vua. Chúng cho tôi nói láo, xúm nhau đuổi đánh .
Chung Ly Muội nghe nói, có ý mừng thầm, hỏi vội :
- Em nói em là con cháu nhà vua, vậy quê quán em ở đâu ?
Ðứa bé ngẫm nghĩ một lúc rồi nói :
- Tôi từ nhỏ lưu lạc đó đây , nay cũng không nhớ đâu là quê quán.
Muội hỏi vặn mãi, đứa bé sợ hãi bỏ chạy, Muội nắm áo kéo lại nói :
- Ðừng sợ ! Ta muốn hỏi để biết rõ mà giúp đỡ em đó thôi.
Ðứa bé đứng trù trừ một lúc, rồi mới nói :
- Tôi năm nay mười ba tuổi, đến đây đã tám năm rồi . Mẹ tôi nói tôi là cháu đích tôn vua Hoài Vương nước Sở .
Ðứa bé nói chưa cạn lời, Chung Ly Muội đã truyền bọn tùy tùng bế đứa bé bỏ lên lưng ngựa thẳng đến nhà Vương Xã trưởng.
Vương Xã trưởng thấy quân lính đến nhà ồ ạt , sợ liền quỳ trước cửa rên rĩ :
- Tôi là kẻ tiều phu thảo dã, không rõ phép nước chẳng hay có điều gì lầm lổi xin các ngài dung thứ !
Chung Ly Muội đặt đứa bé lên giường cao ngồi rồi nói :
- Hay mời người mẹ đứa trẻ này ra đây cho ta nói chuyện.
Xã trưởng vâng lời chạy xuống bếp thay quần áo cho bà lão rồi dắt lên yết kiến Chung Ly Muội.
Chung Ly Muội hỏi lai lịch, bà lão ban đầu sợ sệt tìm lời chối quanh, nhưng sau thấy Chung Ly Muội một mực kính cẩn, liền lấy ra một chiếc áo lót mình đã cũ, đưa cho Chung Ly Muội xem.
Chung Ly Muội thấy trên áo có nét chữ, nhưng không rõ là chữ gì, bèn giơ lên trời xem, mới đọc được. Dòng chữ viết :
" Cháu đích tôn vua Hoài Vương nước Sở tên Mễ Tâm , Phu nhân Thái tử nước Sở là Vệ Thị " .
Dưới dòng chữ có đóng dấu quốc bảo của nước Sở.
Chung Ly Muội xem xong mừng rỡ, gọi Xã trưởng nói :
- Ông hãy thay áo quần sạch sẽ cho đức Ðiện hạ, rồi cùng tôi đưa đức Ðiện hạ đến hội kiến Hạng tướng quân, ông sẽ được trọng thưởng.
Vương Xã trưỏng mừng rỡ, lấy quần áo cho Mễ Tâm thay rồi theo Chung Ly Muội đến Hoài Tây.
Hạng Lương hay tin, hội cả văn võ ra ngoài ba dặm tiếp đón, rồi tôn Mễ Tâm lên làm vua hiệu là Hoài Vương, Vệ Thị làm Vương Thái hậu.
Hoài Vương phong Hạng Lương làm Võ Tín Quân, Hạng Vũ làm Ðại Tư Mã phó tướng quân, Phạm Tăng làm quân sư, Quý Bố và Chung Ly Muội làm Ðô Kỵ, Anh Bố làm Thiên Tướng quân, Hoàn Sở, Vũ Anh làm Tán Ky.
Bá quan văn võ thảy đều được hưởng hàm ân.
Còn Vương Xả trưởng được thưởng năm mươi lạng vàng, cho về quê quán .
Ngày hôm sau, có tướng nước Sở tên Tống Nghĩa đang mộ quân ở Giang Hạ, hay tin Hạng Lương lập con cháu nước Sở, liền dẫn ba vạn quân đến quy phục.
Hoài Vương phong Tống Nghĩa làm Khanh Tử Quán Quân, cùng với Hạng Vũ thống lãnh binh mã đi đánh Tần.
Tống Nghĩa bàn với Hạng Vũ :
- Hoài Tây tuy là đất Sở, nhưng đóng đô không tiện. Nay Trần Anh hiện đang đồn quân ở Vu Thai, nơi đó địa thế hiểm trở, lúc tiến có thể đánh, lúc lui có thể giữ, ta nên đến đó chiêu dụ Trần Anh lấy Vu Thai làm căn bản để xử sự.
Hạng Vũ khen phải, liền vào tâu với Hoài Vương, rồi chỉnh đốn ba đội quân, chia làm ba đạo, kéo thẳng đến Vu Thai.
Ðạo tiên phong vừa kéo đến sông Hoài, thấy phía trước có bụi cát bay mịt mù, rồi một toán quân ồ ạt kéo đến.
Hạng Lương và Phạm Tăng cùng dừng ngựa lại xem , thấy tinh kỳ tề chỉnh, kiếm kích huy hoàng.
Phạm Tăng giật mình, lẩm bẩm :
- Chao ôi ! Toán quân uy nghi như thế, kẻ cầm đầu phải là bậc siêu quần.
Vừa nói dứt lời, chợt thấy một tướng cỡi ngựa vọt tới trước đầu quân, mũi phụng, mặt rồng hào quang sáng chói.
Phạm Tăng thở dài, than :
- Ta lầm rồi ! Chính người này mới là vị chơn chúa.
Người cầm đầu toán quân vừa xuất hiện chính là Lưu Bang.
Từ khi Lưu Bang chém rắn ở Mãng Ðăng, chiếm Phong Bái làm căn cứ, hợp quân hơn mười vạn, tiếng dậy bốn phương.
Nay nghe Hạng Lương khởi binh đánh Tần , liền cùng với Hạ Hầu Anh , Phàn Khoái , dẫn quân ra đón , định hiệp lực đánh Tần .
Hạng Lương và Phạm Tăng ra tiếp rất vui vẻ. Hai đội quân họp lại qua sông Hoài thẳng đến Vu Thai.
Trần Anh hay tin kéo quân ra tiếp đón .
Hạng Lương đem đại binh vào thành thống suất binh mã , rồi chia ra một đội, tự mình điều khiển, đến đóng nơi bờ sông Tứ Thủy để làm thế ỷ giác.
Từ đấy vua Hoài Vương đóng đô ở Vu Thai, quân thần đông đảo , quân sĩ kiêu hùng , các hào kiệt bốn phương lần lượt đến đầu phục mỗi lúc một đông hơn.
Một hôm , có người ở Hoài Âm tên Hàn Tín, chống gươm đến bờ sông Tứ Thủy , yết kiến Hạng Lương.
Hạng Lương thấy Hàn Tín gầy gò, không muốn dùng .
Phạm Tăng nói :
- Người này tuy dáng điệu gầy gò song chứa đựng một tiềm tàng về thao lược. Ngài chớ nên bỏ. Vả lại, đang lúc chúng ta chiêu hiền đãi sĩ , bõ rơi một người có thể làm phật ý hàng trăm hào kiệt bốn phương.
Hạng Lương nễ lời Phạm Tăng, cho Hàn Tín làm Chấp Kích Lang , lưu ở dưới trướng để sai khiến.
Hàn Tín là người Hoài Âm . nhà nghèo , thường câu cá ở sông Hoài , nhưng nghề câu không đũ nuôi sống , nhiều bửa phải nhịn đói suốt ngày .
Bên cạnh nhà có người phiếu mẩu (thợ giặt) thấy Hàn Tín đói , thương dẫn về nhà cho ăn .
Hàn Tín cảm nghĩa , nói :
- Ngày sau tôi sẽ đền ơn bà .
Người phiếu mẫu mắng :
- Sức vóc đàn ông mà nuôi thân không nổi . Ta thương tình dẫn về cho ăn , có mong vì sự đền ơn của kẻ bất tài .
Tuy không vui nhưng Hàn Tín cũng lặng thinh
Lại một hôm , Hàn Tín ra chợ bán cá , có một anh hàng thịt thấy Hàn Tín quá nghèo nàn dùng lời khinh bỉ :
- Này Tín , mày kiếm không đủ cơm nuôi bữa , cái thân trai như mày thực đê tiện , thế mà ngày nào cũng đeo gươm đi khắp phố phường để làm gì ? Mầy có dám đâm ta không ? Nếu không dám thì quăng gươm xuống luồn trôn ta đây , chớ làm ra mặt hào kiệt !
Hàn Tín nghe nói đỏ mặt. Sau một lúc ngẫm nghĩ Tín đành chịu khúm núm luồn qua trôn gã hàng thịt.
Cả chợ trông thấy cười ồ, chê Tín ìà đứa nhút nhát.
Duy có một người tên Hứa Phụ vốn giỏi nghề xem tướng, nói nhỏ với Tín :
- Anh có tướng Vương hầu, tuy khổ cực, song ngày sau gặp cơ hội có thể phú quý tột bực.
Hàn Tín cười nhạt, đáp :
- Tấm thân khốn nạn, tài hèn không đủ nuôi thân có đâu nói đến chuyện phú quý.
Kịp lúc Hạng Lương khởi binh đánh Tần, Hàn Tín tìm đến tiến thân, không ngờ Hạng Lương khinh bỉ cho làm chức Chấp Kích Lang lẫn lộn trong đám quân hầu.
Tuy buồn bực nhưng Hàn Tín không lấy thế làm bất mãn.
Quân Sở đóng nơi Vu Thai độ vài tuần, rồi bắt đầu tiến đánh các vùng lân cận. Ðánh đến đâu được đến đấy, uy danh lừng lẫy , tiếng đồn đến Hàm Dương, Triệu Cao lo sợ, cho gọi Chương Hàm đến nói :
- Hiện nay thiên hạ loạn lạc, giặc giã nổi lên như ong, Hạng Lương lập vua nước Sở, mua chuộc lòng dân, lại họp với quân Lưu Bang đóng ở Vu Thai, mười phần lợi hại . Tướng quân thống suất binh mã, thế mà không chịu đem quân đi đánh dẹp là ý làm sao ?
Chương Hàm nói :
- Mấy ngày nay được tin cáo cấp, tôi toan vào bệ kiến xin xuất quân , nhưng Thừa Tướng đòi hội nghị, thành thử chậm trễ . Vậy để tôi ra quân dẹp loạn, không trì hoãn .
Nói xong, kiếm điểm quân mã, cùng với Tư Mã Hân , Ðổng Ể và Lý Do kéo ba mươi vạn binh ròng ra cửa Hàm Cốc, thẳng đến phương Ðông đánh nước Ngụy trước, rồi sau mới đánh Sở.
Quân Ngụy thấy quân Tần quá mạnh, không dám giao phong, vội sai sứ đến hai nước Tề và Sở cầu cứu.
Vua nước Tề là Ðiền Chiêm , đích thân dẫn quân đi cứu Ngụy .
Trong lúc đó thì nước Lỗ vừa hạ được Trương Dương, thu được hàng tướng là Hạng Minh và ba vạn quân mã .
Hoài Vương liền sai Hạng Minh đem quân sang đất Ngụy đóng đồn để giữ thanh thế .
Chương Hàm một mặt sai Tư Mã Hân chống quân Tề, một mặt sai Ðổng Ể cự với quân Sở , còn mình dẫn đại
binh đi hậu vệ, phòng cứu ứng .
Tư Mã Hân kéo quân đến, gặp đạo quân vua Tề là Ðiền Chiêm, liền chia quân làm hai đạo, phục hai bên đường , rồi dẫn một toán khinh binh đến khiêu chiến .
Ðiền Chiêm thấy quân của Tư Mã Hân quá ít , bèn đốc quân hỗn chiến .
Ðánh được vài mươi hiệp Tư Mã Hân giả thua bõ chạy, Ðiền Chiêm đuổi theo được vài dậm, bỗng nghe một tiếng pháo lệnh, tức thì quân phục hai bên đường úa ra đánh. Ðiền Chiêm biìết mình mắc mưu, vội thu quân về , chẳng ngờ quân Tần dùng cung tên loạn xạ, Ðiền Chiêm trúng tên tử trận . Tư Mã Hân chém lấy thủ cấp .
Trong lúc đó Ðổng Ể kéo quân đánh quân Sở gặp tướng Hạng Minh hên đất Ngụy .
Quân Ðổng Ể từ xa kéo đến , binh tướng mỏi mệt chưa kịp nghỉ ngơi thì bị Hạng Minh đến đánh. Ðổng Ể không cự nỗi , phải kéo quân bỏ chạy ngoài ba mươi dặm mới dám hạ trại .
Ðóng quân chưa yên thì Hạng Minh lại kéo đến truy kích , Ðổng Ể bị thua to , thu góp tàn quân chạy trở về .
Trong cơn nguy cấp may gặp toán hậu quân của Chương Hàm đến kịp .
Chương Hàm sai Lý Do dẫn một toán quân ra tiếp cứu .
Hạng Minh đuổi đánh Ðổng Ể suốt ngày đêm, người mỏi mệt nên giao chiến với Lý Do chưa đầy ba hiệp, bị Lý Do chém rơi đầu.
Chương Hàm đắc thắng, họp ba đạo quân làm một đến vây thành vua Ngụy.
Ngụy vương hay tin quân cứu bại trận, cùng Thái tử Ngụy Báo bỏ thành, thoát ra cửa Tây chạy trốn .
Chương Hàm đem quân vào thành phủ dụ nhân dân , rồi kéo quân đến đóng đồn nơi Ðông A,
Tàn quân của Hạng Minh chạy về cáo cấp với Hoài Vương.
Hoài Vương kinh hãi, triệu các tướng hội kiến.
Hạng Lương tâu :
- Ha thần xin lãnh một đạo quân đến lấy đầu Chương Hàm trước, rồi sẽ lấy đất Tần sau.
Hoài Vưong chuẩn tấu Hạng Lương dẫn Hạng Vũ , Phạm Tăng và một số tướng cận, thống suốt hai mươi vạn tinh binh , kéo đến Ðông A cách thành ba mươi dặm hạ trại .
Rạng ngày, Hạng Lương sai Hạng Vũ ra khiêu chiến . Hạng Vũ bày binh bố trận xong thúc ngựa đến bên thành gọi lớn :
- Chưong Hàm ! Hãy ra đây nạp mạng !
Chương Hàm nổi giận lên ngựa khai thành.
Hạng Vũ nói :
- Vua Tần nhà bây vô đạo, trăm họ than van. Kẽ nịnh thần Triệu Cao lung lạc , chẳng bao lâu nhà Tần bị diệt, điều ấy đã hiển nhiên, cớ sao chúng bây không rõ.
Chương Hàm nói :
- Ta đem binh thiên triều dẹp loạn, đi đến đâu trúc chẻ ngói tan. Chúng bay chỉ là bọn giặc cỏ , tài cán gì mà phách lối.
Hạng Vũ nổi giận cùng Chương Hàm giao chiến.
Ðánh được ba mươi hiệp, Chương Hàm đuối sức bỏ chạy, Hạng Vũ giục ngựa đuổi theo ước mươi dặm, bỗng gặp tên
kiện tướng của nhà Tần là Quý Do đem một toán quân đến chặn đưòng, giải thoát cho Chương Hàm.
Hạng Vũ hét lên một tiếng, Quý Do cả người bủn rủn, lùi ngựa hơn bốn mươi thước, Hạng Vũ giục ngựa đuổi theo. Tướng Tần Tư Mã Hân và Ðổng Ể trông thấy vội tiếp cứu , nhưng đánh chỉ mới ba hiệp đã phải bỏ chạy .
Hạng Vũ quyết đuổi theo bát sống, Hạng Lương sợ Hạng Vũ vào sâu nội địa của địch e nguy hiểm, liền sai Hoàn Sở
và Anh Bố ra lệnh thu quân.
Chương Hàm thua to, lui về hơn năm mươi dặm mới dám hạ trại, và bàn với các tướng :
- Hạng Vũ sức mạnh như thần nếu dùng sức khó thắng nổi. Nay phải cố thủ, chờ cho quân Sở trễ biếng, thừa cơ đánh bất ngờ mới phá được.
Các tướng cho là phải. Từ đó, Chương Hàm cố thủ, không chịu ra quân.
Hạng Vũ dẫn quân trở về yết kiến Hạng Lương, và nói :
- Chương Hàm vừa thua một trận sợ uy quân ta cố thủ không dám ra quân. Ngàv mai quân ta chia làm ba đạo đánh úp ba mặt mới có thể tiêu diệt trại địch.
Hạng Lương gật đầu nói :
- Chương Hàm là một lão tướng, tuổi già sức yếu, không làm nên việc gì.
Liền mở tiệc khao thưởng ba quân, hẹn ngày mai xuất quân đột chiến.
Rạng ngày, Hạng Lương sai Hạng Vũ lãnh đạo trung quân, Anh Bố lãnh đạo tả quân kéo về hướng Tây, Lưu Bang lãnh đạo hữu quân kéo về hướng Ðông, ba đạo quân đánh trống reo hò , áp vào trại địch.
Chương Hàm thấy ba đạo quân kéo đến, liệu sức địch không nổi liền nhổ trại rút lui.
Ba đạo quân Sở đuổi theo truy kích, đánh quân Tần đứt làm ba đoan.
Chương Hàm chạy ra Ðịnh Ðào , Tư Mã Hân, Ðổng Ể chạy ra Bộc Dương, Quý Do chạy ra Ung Khâu.
Hạng Vũ đuổi theo Quý Do vừa đến Ung Khâu thì chém được Quý Do, quân Tần bị chết thây phơi chật đất.
Lưu Bang đuổi Tư Mã Hân chay đến Bộc Dương, Tiêu Hà bàn :
- Giặc cùng không nên đuổi gấp e chúng liều chết chiến thắng ta . Chi bằng cứ đóng quân nơi Bộc Dương tùy cơ tác chiến.
Lưu Bang nghe lời, đóng quân lại không đuổi nữa.
Còn Anh Bố đuổi Chương Hàm đến Ðịnh Ðào, Chương Hàm đóng cửa thành thủ thế. Anh Bố hạ trại xong , cởi ngựa đến dưới thành khiêu chiến suốt mấy ngày, Chương Hàm nhất định không xuất quân. Anh Bố chưa biết tính sao , còn đang bối rối, bỗng có tin Hạng Lương kéo binh đến tiếp ứng.
Anh Bố mừng rỡ, ra khỏi trại tiếp đón.
Hạng Lương nói :
- Chương Hàm thế cùng sức yếu, chạy đến thành nầy lánh nạn, ta phải tiêu diệt ngay, nếu để lâu ngày cứu binh đến thì khó trừ đặng .
Anh Bố nói :
- Chương Hàm tuy thất trận, song binh lực còn mạnh, đánh gấp khó thắng. Ý tôi muốn đóng quân lại đây chờ cơ hội thuận tiện sẽ lấy.
Hạng Lương gắt :
- Sao ngươi làm tướng mà nhát gan như vậy. Thế quân ta đang mạnh không diệt địch còn đợi cơ hội nào ?
Nói xong chia quân làm bốn đạo, đánh trống reo hò, dùng thang bắc lên mặt thành công hãm.
Chương Hàm ở trên thành trông thấy khiến quân dùng tên lửa bắn ra, bao nhiêu thang đều cháy hết.
Quân Sở chết rất nhiều, đành phải rút lui về trại.
Hạng Lương tức giận truyền đóng mấy trăm xung xa. Quyết phá thành cho được.
Xung xa đóng xong, vừa đem ra xung kích thì trên thành Chương Hàm lại truyền lấy dây xúc xích buộc vào những dùi sắt ném xuống. Bao nhiêu xe đều gãy hết.
Hạng Lương thất bại , vừa giận vừa buồn, ngày đêm thẫn thờ tính chưa ra kế .
Bấy giờ có viên Chấp Kích Lang là Hàn Tín thấy vậy vào thưa :
- Việc quân tấn thối không nên diên trì. Nay quân ta phá thành không được mà cứ đóng mãi dưới thành, đêm ngày trễ biếng, phỏng như quân địch dò biết được, nửa đêm kéo ra cướp trại thì nguy ! Ðánh thành là việc nhỏ, phòng bị là việc lớn, xin Tướng quân thận trọng.
Hạng Lương hét lớn .
- Ta từ lúc khởi binh nơi Cối Kê uy danh lừng lẫy. Chương Hàm là đứa thất phu, nghe đến tên ta đã vỡ mật, còn dám mở cửa thành đem binh ra cướp trại ư ! Ngươi là một tên quân hầu biết gì mà nói nhảm.
Tống Nghĩa thấy vậy cũng can :
- Hàn Tín tuy là tên quân hầu nhưng lời nói đầy thao lược, xin tướng quân chớ khi dễ. Kẻ thắng mà tự kiêu là bắt đầu nếm mùi thất bại đó.
Hạng Lương nghe Tống Nghĩa nói càng giận thêm.
Ðêm ấy, Chương Hàm dò biết quân Sở không phá thành được, sanh ra chán nản, trễ biếng, liền truyền lệnh ba quân ăn uống thật no, nai nịt chỉnh tề, im hơi lặng tiếng mở cửa thành kéo đến trại Sở.
Quân Sở bấy giờ đang ngủ say, bỗng nghe một tiếng pháo lệnh, bốn bề tiếng reo ó nổi lên van g trời dậy đất .
Hạng Lương say rượu, nằm mê mệt, không biết gì . Bọn tả hữu phải vực ra ngoài viên môn. Nhưng còn cháng voáng chưa lên ngựa kịp đã bị tướng Tần là Tôn Thắng xông đến chém một nhát rụng đầu.
Người sau có thơ nói đến Hạng Lương :
Vì nước vì dân quyết rữa thù
Phất cờ khởi nghĩa tíếng thiên thu
Sa cơ một phút, dành chung kiếp
Làm kẽ trung thần thiếu trí mưu
Hạng Lưong bị giết, quân Sở rối loạn, dày xéo lên nhau mà chạy .
Tống Nghĩa, Anh Bố hết sức chống giử nhưng không nổi, bất đắc dĩ phải bỏ trại thoát thân.
Chương Hàm toàn thắng, kéo quân thẳng đến Trần Lưu đóng đồn, thanh thế lừng lẩy .
Lưu Bang hay tin Hạng Lương thất trận vội kéo quân đến cứu ứng, nhưng không kịp, đành phải cùng Tống Nghĩa thu nhặt tàn quân kéo đến Ung Khâu rồi báo tin cho Hạng Vũ biết.
Hạng Vũ được tin Hạng Lương bõ mình, hét lên một tiếng, ngã xỉu xuống đất .
Bọn ta hữu vội vàng đở dậy . Hồi lâu, Hạng Vũ mới tĩnh, vừa khóc vừa nói :
- Chú ôi ! Cháu từ lúc tuổi thơ, cha mẹ mất sớm được chú nuôi dưỡng nên người. Nay sự nghiệp chưa thành , ơn chú chưa đền mà chú đã bị hại, thù này cháu quyết chẳng đội chung trời .
Các tướng đều xúm lại khuyên giải, Hạng Vũ mới nguôi dần.
Phạm Tăng nói :
- Làm tướng cầm quân ra trận chết sống lẽ thường. Nay Vu Tín Quân dẫu qua đời, nhưng sự nghiệp càng ngày càng vững chắc. Tưóng quân cần nói chí lớn ấy, lo việc phục hưng, đem lại vinh quang cho dòng giống. Ðược vậy người chết dưới suối vàng cũng hài lòng, và nhiệm vụ báo thù của tướng quân mói tròn được.
Hạng Vũ lau nước mắt đứng dậy tạ ơn, và nói :
- Tôi xin tuân lời chỉ dạy của tiên sinh.
Nói xong, khởi quân thẳng đến Ðịnh Ðào, hội với Tống Nghĩa và Lưu Bang hạ lệnh cho ba quân để khăn trắng , thu hài cốt Vũ Tín Quân tẩn liệm an táng nơi Ðịnh Ðào , rồi kéo quân đến Trấn Lưu để đánh Chương Hàm báo thù .
Nhưng, quân Sở chưa đến nơi đã được tin Chương Hàm dẫn quân sang sông đánh Triệu .
Vua Triệu là Hấp, cùng với hai tướng Trần Dư, Chương Nhĩ đem quan ra thành cự địch , nhưng đánh không lại phải lui về Cự Lộc, đóng cửa thành cố thủ và cho người sang cầu cứu nước Sở .
Tống Nghĩa bàn với Hạng Vũ :
- Chương Hàm thắng luôn mấy trận , thanh thế lừng lẫy , quân sĩ đang hăng . Còn ta , Vũ Tín Quân mới mất , vua Hoài Vương cô lập nơi Vu Thai, nếu tiến binh e bất tiện. Chi bằng trở về Thiên Ðô, qua Bành Thành để giữ thế thủ , rồi sẽ liệu sau .
Hạng Vũ đem ý ấy bàn với các tướng. Mọi người đều đồng ý .
Hạng Vũ ra lệnh thu quân trở về Vu Thai .
Vua Hoài Vương được tin Vũ Tín Quân tử trận, lòng thương xót vô cùng, cả ngày chỉ ngồi than thở .
Hạng Vũ tâu :
- Quân ta vừa bị bại , thế quân bị giảm yếu, nay phải củng cố thế thủ trước rồi sẽ tính đến thế công, xin bệ dời đô qua Bành Thành để làm thế ỷ giác, chớ nên chậm trể.
Hạng Vũ nói vừa dứt lời, có tin nước Triệu sai sứ đến cầu cứu.
Hoài Vương cho vào yết kiến, sứ Triệu tâu :
- Quân Tần ba mười vạn , vây thành Cự Lộc ngót một tháng trời , trong thành lương đã hết, quân sĩ mỏi mòn , chẳng bao lâu thành bị vở, xin đại vương thương tình cứu cấp.
Hoài Vương liền phong Tống Nghĩa làm đại tướng, Hạng Vũ làm phó tưóng, Phạm Tăng làm quân sư, thống lãnh hai mươi vạn quân đi cứu Triệu.
Quân Sở đến đóng nơi An Ðương cho người thám thính .
Qua hai ngày , Tống Nghĩa vẫn cho án binh bất động không chịu ra quân , lại sai con là Tống Tương sang làm tướng nưóc Tề .
Hạng Vũ lấy làm lạ, nói :
- Thành Cự Lộc sắp mất, quân ta có nhiệm vụ đến cứu, cớ sao tướng quân lại án binh bất động.
Tông Nghĩa nói :
- Quân Chương Hàm vây thành Cự Lộc đã lâu, thể nào cùng phải trễ biếng. Ta cứ đóng quân nơi đây chờ xem cái cơ suy nhươc của nó . Lúc nào quân địch mỏi mệt, ta chỉ đánh một lần là xong.
Hạng Vũ hậm hực bước ra , đợi hơn một tuần cũng không thấy Tống Nghĩa động binh, hoặc có kế hoạch nào khác, ngày đêm chỉ uống rượu, say sưa .
Hạng Vũ vào nói với Tống Nghĩa :
- Quân Tần vây Triệu mười phần nguy cấp. Tướng quân cứ đóng quân nơi đây , ngày đêm say sưa làm sao thực hiện được trọng trách của mình ?
Tống Nghĩa cười nhạt nói :
- Ví phỏng mặc áo dầy, cầm giáo nhọn, xông pha trận địa thì tôi không bằng ông, nhưng ngồi mà lập mưu, bày chước, chắc ông còn kém tôi.
Nói xong, Tống Nghĩa hạ lệnh cho ba quân :
- Ðâu đó phải im lìm , chớ nên hành động gì cả. Ai trái lệnh chém đầu .
Rồi đó, Tống Nghĩa lại rượu chè say sưa như cũ.
Bấy giừ vào tiết mùa đông, trời mưa dầm, rét mướt, quân sĩ đói khát, chết chóc rất nhiều.
Một hôm , Hạng Vũ lén vào trong quân để dò xem tình hình thấy quân sĩ ai cũng đem lòng oán vọng.
Hạng Vũ lập tức thẳng đến dinh Tống Nghĩa, nghiêm sắc mặt , nói :
- Tướng sĩ đều đem thân liều chết đánh Tần, bao nhiêu sinh mạng gởi vào tay tướng Quân, thế mà tướng quân cứ ngồi yên hưởng lạc , không kể đến ai ! Trên phụ lòng vua, dưới gây oán thù với tướng sĩ, người như vậy không đáng làm tôi xã tắc .
Tống Nghĩa nổi giận, chỉ vào mặt Hạng Vũ nói :
- Ta giữ quyền Tướng ấn, nhà người phải phục tùng ,lại dám dùng lời nhục mạ ta sao ?
Hang Vũ hét lên một tiếng , rút gươm chém Tống Nghĩa một nhát bay đầu rồi nói lớn :
- Tống Nghĩa đưa con sang làm tướng nước Tề, lại không tuân mệnh vua cứu Triệu , rõ là đứa phản nghịch .
Chư tướng thấy Hạng Vũ giết Tống Nghĩa đều mừng rỡ, đồng thanh nói :
- Ngươi khởi xướng lập nước Sở là tướng quân. Nay tướng quân đã giết bỏ kẻ phản nghịch thật hợp với lòng công chúng
Tướng sĩ đều một lòng tôn Hạng Vũ lên làm Thương tướng.
Hạng Vũ nói :
- Ðiều ấy phải được mệnh vua. Bây giờ cần nhứt trừ cho tuyệt loài phản phúc.
Bèn sai tướng đuổi theo bắt Tống Tương để giết .
Tống Tương sang nước Tề, còn đương tìm cách tiến thân ,ở nơi quán trọ , tướng Sở tìm được chém đầu đem về
nạp . Hạng Vũ làm sớ kể tội cha con Tống Nghĩa dâng về triều .Hoài Vương sai Chung Ly Muội cầm cờ Tiết đến
phong Hạng Vũ làm Thượng tướng.
Từ đó , uy phong Hạng Vũ đồn khắp chư hầu.
Mọi việc đã xong . Hạng Vũ sai Anh Bố làm tiên phong, kéo quân sang sông, còn mình điểm quân đi hậu tập .
Chương Hàm nghe tin liền sai Tư Mâ Hân và Ðổng Ể kéo quân đóng nơi phía Nam để ngăn địch.
Anh Bố đến nơi, hai tướng xông ra chận đánh .
Ðánh vừa mới được ba mươi hiệp , đạo hậu quân nước Sở kéu đến , hai tướng Tần thấy Hạng Vũ thất kinh bõ chạy . Hạng Vũ đốc binh đuổi theo cướp trại, đoạt lương thực rất nhiều , Tư Mã Hân và Ðổng Ể thoát chết chạy về miền Hà Bắc lánh nạn , đợi chờ tình thế êm dịu mới dám lần về báo tin cho Chương Hàm hay .