Núi Thiên Thai Mậu Xuân Cầu Tự
Chùa Quốc Thanh La Hán Giáng Trần
ĐÔI LỜI TỰ MINH
Nhân một ngày đầu xuân, lang thang trên nẻo đường Chợ Lớn, chợt thấy
một hiệu sách bán các loại sách cũ bằng chữ Nho. Tạt vào xem, nhìn khắp
các giá sách thấy có một cuốn đã cũ, ngoài bìa đề TẾ ĐIÊN HOÀ THƯỢNG,
với lấy dỡ xem thì ra là chuyện của Lý Tu Duyên, một vị La Hán giáng trần,
làm nhiều điều phúc thiện nhưng lại giả điên để che mắt tục. Thấy cuốn
chuyện hay hay có tính cách vượt ngoài “ngã chấp” thế thường, tỷ như chuyện
Lỗ Trí Thâm nên phỏng dịch để rộng đường phán định.
Tế Điên Tăng vốn là một vị Hòa Thượng hữu danh trong Phật. Giáo Sử
thời Tống, luật học uyên thâm, trí thức siêu việt, hành động tuyệt kỳ.
Tự cổ chí kim người ta thường khổ tâm thắc mắc hai thái cực Đạo, Đời
đôi khi hiểu lầm đến thành xa cách. Truyện Tế Điên Tăng chính là một cái
gạch nối dung hòa cả Đạo lẫn Đời bởi hành động có lúc vượt ngoài khuôn khổ
thuyền gia mà đó mới chính là tác động của khách tu thuyền.
Đức và tài là hai điều kiện nghìn xưa mến chuộng mà nghìn sau cũng noi
gương. Đọc chuyện Tế Điên Tăng chúng ta sẽ thấy được cái tâm đức cao sáng
tuyệt vời và sẽ phải tán thưởng cao tài của người đạt đạo.
Nếu đã có một vị Tăng ca vang câu:
Tri thời, đạt thế phương toàn thiện
Diệu ngộ tam thừ vị tất nan.
Nghĩa là:
Biết thời, biết thế, đôi đường vẹn,
Bước tới Liên Đài cũng dể thôi.
Thì quả là vị đó đã đạt được cái tinh thần cao đẹp của Tế Điên Tăng vậy.
Cuốn chuyện đã nát nhầu, câu văn lại quá cổ, người dịch lại không có ý
kiến gì thêm bớt cho đượm nồng hương vị tân phong. Lẽ dĩ nhiên có thể là một
món ăn quá cũ, nhàm chán cho những ai ưa loại tân tiến. Nhưng dịch giả còn
một chút hy vọng nơi độc giả khoan lượng không tìm cái đẹp ở câu văn mà tìm
cái cao tuyệt ở hành động và ý tứ.
Vào Truyện
Đây nói chuyện về đời Tống niên hiệu Thiệu Hưng năm đầu, trong trào
có một người họ Lý tên Khiêm, điển tự Mậu Xuân làm quan tới chức
Kinh Doanh Tiết Độ Sứ, nguyên quán ở Thái Châu thuộc tỉnh Triết
Giang có vợ là Mông Thị. Cả hai vợ chồng đều là người hiền lành hay
làm việc bố đức thi ân, cứu giúp những người cùng khốn hoặc không may gặp
bước lỡ làng.
Nhân vì khi ấy triều đình gặp tôi gian, nịnh thần cầm quyền, Lý Mậu Xuân
ngao ngán buồn rầu không còn thiết chi danh lợi quyền thế liền dâng biểu xin về
hưu dưỡng già.
Sau khi được nhà vua ưng thuận, vợ chồng đưa nhau về Triết Giang vui thú
cảnh quê . Vốn ôm ấp tâm tư nhàn hạ nay được trở về, vợ chồng càng thêm tăng
gia làm điều phúc thiện. Ngoài việc thiết lập một trang trại rộng rãi khang trang,
Lý Mậu Xuân còn giúp đỡ hầu hết dân chúng trong vùng khiến được an cư lạc
nghiệp. Dân làng được nhờ ơn huệ chẳng ít, nên người người đều xưng tụng
mệnh danh là Lý Thiện Nhân.
Một hôm, sau khi rảnh rỗi, Lý Mậu Xuân dạo cảnh đồng quê, chợt thấy hai
người bàn tán dưới gốc cây bàng. Động tính hiếu kỳ liền đứng lại nghe, nghe
xong mặt buồn rười rượi, quay gót trở về. Vừa tới cổng trang, Mông thị thấy
chồng đi chơi về mà sắc không được vui liền đón lại hỏi:
- Chẳng hay vì sao phu quân đi chơi về mà mặt mày có sắc thái buồn. Xin
cho thiếp rõ, hoặc giả có phân chia cùng phu quân được phần nào chăng?
Nghe vợ ôn tồn thỏ thẻ, Mậu Xuân càng đượm vẻ buồn bực thở dài và đáp:
- Phu nhân khá biết, ta nhân ngắm cảnh Tây Hồ nghe được hai người ngoài
nói chuyện phê bình về nhà ta chỉ được cái dấu ác phô lành chứ còn những việc
thường làm không phải thật là chân chính.
Mông thị ngạc nhiên hỏi lại:
- Vì sao mà họ lại cho mình như vậy?
- Họ nói nếu ta thật bụng hiền lành sao lại không có con? Người dẫu xưng
tụng nhưng trời cao lẽ nào không mắt. Thần Phật sao chẳng trụ trì. Chỉ khi nào ta
có con khi ấy mới thực là nhà phúc thiện. Vì nghe vậy mà ta cảm xúc đau buồn.
Mông thị khuyên chồng cưới vợ bé để mong có người nối nghiệp hương
hỏa. Mậu Xuân liền nói:
- Phu nhân khuyên ta như thế là đã sai rồi. Ta nay tuổi ngót năm mươi, há
làm chuyện thất đức, thất nghĩa, lãng quên đi cái nghĩa tào khang được vậy sao?
Như mà Thần Phật chẳng dứt hương lửa nhà ta thì tuổi phu nhân hãy còn sinh
đẻ, cần chi phải cưới người khác cho thêm phiền phức gia đình.
Phu Nhơn liền bàn:
- Tướng công như đã có lòng nghĩ đến thiếp và nhứt định không lấy vợ bé,
sao ta không đến các nơi cảnh chùa vái lạy Thần Phật cầu tự con ư ?
Mậu Xuân cho là có lý, ít ngày sau hai vợ chồng rủ nhau đến làng Vĩnh
Minh phía Bắc núi Thiên Thai du ngoạn.
Người trong xứ nghe có Lý Viên Ngoại vãn cảnh nhân mách rằng: Trong
chùa Quốc Thanh thường có nhiều linh ứng, hễ ai đến cầu đều được như nguyện.
Vợ chồng họ Lý nghe mách lòng rất vui mừng liền ở trọ lại nhà người quen,
trai giới đủ ba ngày rồi mới sửa sang lễ vật, lên chùa lễ Phật.
Đường đi vào chùa, tùng trúc xanh tươi, đây đó chim ca, vượn hót, một
giòng suối biếc róc rách chạy dài, hai vợ chồng thuê kiệu tìm đường lên núi
Thiên Thai.
Tới chân núi, cảnh trí càng thêm u nhã, rừng cây xanh tốt xen lẫn non cao,
hai vợ chồng xuống kiệu đi bộ, len theo con đường mòn bờ suối, đi chừng mười
dặm, xa xa có một ngôi cổ tự to rộng trang nghiêm nằm cạnh sườn non cao ngất,
thông reo vi vút hoà theo nhạc suối lời chim. Những bông hoa dại thập thò trong
kẽ đá. Cửa tam quan đã hiện ra trước mắt, Mậu Xuân lòng thấy lâng lâng, do
cảnh luyến người, phảng phất như vào nơi thoát tục.
Vừa đến chân chùa, vợ chồng Mậu Xuân được chư tăng đón tiếp đưa vào
yết kiến Đại Đức Tri Khách dùng trà. Lý Phu Nhân sai bày lễ vật và dâng cúng
10 nén bạc ròng. Trí Khách Tăng sai các tiểu hoa đăng dâng lễ lên chùa rồi thân
dẫn vợ chồng Mậu Xuân lên lễ Phật.
Sẵn lòng thành kính, sẵn tâm thiện lương, hai vợ chồng Mậu Xuân van vái
hầu khắp nơi. Vừa lúc ấy Tính Không Trưởng Lão nghe có Lý viên ngoại đến
vãn cảnh chùa liền ra phương trượng tiếp đón. Vợ chồng Mậu Xuân cung kính
hành lễ chào vị trưởng lão trụ trì xong liền ngỏ ý mình cùng kể hết nguyên nhân
sự việc, cúi xin phương trượng chỉ bảo mọi duyên. Tính Không vốn biết họ Lý là
người phúc đức liền thân dẫn lên nơi Đại Hùng bảo điện lễ Tam Bảo và chính
trưởng lão lên dâng hương làm lễ kỳ nguyện.
Lễ xong, trưởng lão đưa vợ chồng họ Lý đi xem lễ các nơi thờ tự khác. Bất
cứ chỗ nào Lý phu nhân cũng van vái khấn cầu, chợt đến bàn thờ 18 vị La Hán,
Phu nhân vừa thắp hương vái lạy thì một vị trong ngôi thứ 4 nghiêng đổ. Tính
Không trưởng lão thấy vậy vỗ tay vừa cười vừa nói:
- Lành thay, lành thay! Ta chúc cho viên ngoại trở về chuyến này tất sinh
quý tử.
Mậu Xuân vui mừng khôn xiết, từ biệt phương trượng ra về. Hơn một tháng
sau qua ûnhiên phu nhân có tin mừng, Mậu Xuân lo nuôi a hoàn để đỡ tay chân
cho vợ.
Thấm thoát mười tháng dần qua, một hôm trong nhà hồng quang sáng chói,
mùi hương thơm ngát xông lên. Mậu Xuân đang ngồi nơi thơ phòng đọc kinh thì
a hoàn chạy vào báo cho biết phu nhân hạ sanh công tử.
Nghe báo, Mậu Xuân lòng mừng khôn xiết, liền chạy sang thăm viếng,
thấy phu nhân đang thiêm thiếp giấc nồng sau cơn mệt mỏi còn công tử thì cứ
khóc thét lên hoài, tự nhiên lòng buồn rầu, cái vui cái buồn ngay trong khoảnh
khắc thay nhau len vào tâm khảm.
Được ba ngày, các thân bằng quyến thuộc nghe tin Lý viên ngoại có quý tử
đều lục đục viếng thăm. Mậu Xuân bận rộn tiếp đón ngày đêm, đãi đằng đủ
mặt. Chợt gia nhân vào báo:
- Ngoài cửa có một vị Thiền Sư xưng là Tính Không ở Chùa Quốc Thanh
đem lễ vật đến mừng.
Mậu Xuân vội vàng thân ra nghinh tiếp. Vừa vào đến nơi, đại sư hỏi ngay:
- Công tử có bình an chăng?
Mậu Xuân có hơi không vui đáp:
- Thật chẳng dám dấu đại sư, trẻ ấy từ khi sinh ra chỉ luôn luôn khóc, cho
đến bây giờ vẫn chưa hết, tôi thật buồn rầu, chẳng hay đại sư có cách chi chữa
khỏi được chăng?
Tính Không liền dạy:
- Viên ngoại hãy bồng ra cho coi.
Mậu Xuân nói:
- Trẻ mới sinh ba ngày, bồng ra ngoài e có nhiều điều bất tiện.
Tính Không bảo:
- Không sao, cứ bồng ra đây, ta có cách chữa chạy.
Mậu Xuân thấy nói không hại gì mới vào phòng tự ẵm con ra. Các bạn thân
đều bu lại mà xem, thấy công tử nghi dung đoan chính, tướng mạo tốt tươi, duy
có điều luôn mồm gào khóc, làm thế nào cũng không nín được.
Tính Không bước lại xem qua chợt bảo:
- Ngươi đã xuống đây sao còn khóc mãi ?
Công tử vụt nín khóc, toét miệng ra cười. Cả nhà khôn xiết mừng vui. Tính
Không vuốt tóc đứa bé, miệng lâm râm khấn nguyện. Công tử liền nín khóc hẳn,
rồi day qua nói cùng viên ngoại:
- Viên ngoại hãy để tôi nhận công tử làm học trò và đặt tên cho công tử là
Lý Tu Duyên được chăng?
Mậu Xuân vui mừng quá sức liền thưa:
- Xin theo lời đại sư chỉ dạy.
Rồi ẵm con đem vào nhà trong rồi sai bày tiệc linh đình thết đãi bạn bè và
dọn riêng một tiệc chay thỉnh Tính Không đại sư thu nạp.
Tiệc tan ai nấy ra về, Tính Không trưởng lão cũng dặn dò đôi câu rồi ngỏ
lời từ biệt. Mậu Xuân thân tiễn hơn một dặm đường mới trở lại.
Cảnh Thế Tuổi Xanh Nhiều Hoạn Nạn
Hồn Mơ Lòng Tục Quyết Xa Lìa
Đây nói về Lý viên ngoại từ khi sinh được công tử thì mừng hơn được báu
vật, lo mướn vú bõ để cùng phu nhân săn sóc cho con.
Năm lại, năm qua, thấm thoát công tử đã lên 7 tuổi, tính tình hiền hậu,
trọn ngày biếng nói ít cười lại không thích chuyện chơi đùa cùng đồng
bạn mà chỉ thường hay một mình nhắm mắt ngồi lặng, khác hẳn mọi đứa trẻ tầm
thường.
Lo lắng đến sự học của con, Lý viên ngoại rước một ông Tú tài đến dạy
cho công tử học và kiếm thêm cho con hai người bạn học, một là Hàn Quần Anh
con ông Cử võ Hàn Thanh, người nữa cháu vợ tên Mông Vĩnh cùng quê tại Vĩnh
Ninh.
Ba bạn trẻ quây quần học tập ý hợp tâm đầu. Duy Lý công tử tuổi tuy còn
nhỏ xong rất mực thông minh, bất cứ sách gì chỉ liếc mắt xem qua là thuộc, học
một biết mười, hai bạn tuy hơn tuổi mà không theo kịp. Thầy học là tú tài Đỗ
Thuần Hương phải thường thầm khen là trẻ kỳ tài, vẫn thường hay nói với Mậu
Xuân:
- Công tử sau này chắc sẽ thành một bậc kỳ tài thiên hạ và sẽ là một bậc
giúp ích cho đời không nhỏ.
Năm công tử 14 tuổi đã lầu thông các sách Tứ thư, Ngũ kinh, Bách gia, Chu
Tử, hằng ngày cùng Hàn, Mông hai bạn, ngâm thơ bàn luận, lời lẽ tinh nghiêm
và có ý tứ cao xa. Một điểm đặc biệt là Tu Duyên chỉ thích đọc Kinh sách Phật
mà hễ đọc đâu nhớ đấy, trí tuệ minh mẫn vô cùng.
Năm ấy, viên ngoại muốn cho con dự phần khoa bảng nên liền ghi tên vào
sổ cử tử đặng lều chỗng đi thi. Nhưng chưa đến kỳ thi thì bỗng viên ngoại lâm
bạo bệnh. Biết mình khó thoát khỏi tay tử thần, nhân có em vợ là Binh bộ tư mã
Mông An Toàn vừa từ chức về với quê nhà liền cho vời tới trước giường để ngỏ
lời trăn trối:
- Hiền đệ! Ta chẳng còn ở lâu nơi trần thế, đời ta nay cũng đã đủ rồi. Duy
chỉ còn lo cho cháu ngoại cùng chị của hiền đệ, giờ đây không người tương giúp.
Những mong hiền đệ nghĩ tình thân quyến, ghé mắt xem việc nhà giúp cho.
Riêng thằng Tu Duyên đó chẳng nên để cho phóng túng mà trễ nãi việc học
hành. Tất cả hy vọng đời ta chỉ trông vào nó. Việc lập gia thất cho nó mai sau, ta
đã dự định sẽ cưới con gái Liễu Thiên Hộ ở Liễu gia trang. Vậy trăm sự nhờ
hiền đệ để tâm lo liệu.
Mông An Toàn nghẹn ngào an ủi:
- Đại huynh cứ an lòng, chẳng nên nói lời quái gở. Bệnh của đại huynh
chẳng lấy chi làm nặng, hãy nên tĩnh dưỡng cho mau lành. Việc mai sau đệ sẽ
hết lòng theo lời huynh dặn.
Mậu Xuân gọi phu nhân lại gần mà nói:
- Hiền thê! Ta nay tuổi đã được gần hoa giáp (60), chết cũng vừa tuần. Khi
ta chết rồi, hiền thê phải cố gắng nuôi con cho đến thành danh. Thằng Tu Duyên
học rất thông minh, sẽ có thể làm rạng rỡ gia phong, mai hậu ta ở suối vàng âu
cũng vui lòng.
Viên ngoại lại cho gọi Tu Duyên đến gần nắm tay mà dặn bảo, nhưng rồi
đàm đưa lên cổ, tâm trí rối loạn dần, trợn mắt xuôi tay mà thác. Phu nhân cùng
cả nhà vật mình than khóc. Mông binh bộ thì lo việc ma chạy thực là đầy đủ.
Tu Duyên vì có đại tang nên không vào trường thi, Hàn Quần Anh và Mông
Vĩnh đi thi đều đậu tú tài.
Tu Duyên càng thêm buồn bã, suốt trong thời gian ở nhà chịu tang, trọn
ngày không ra khỏi phòng, chỉ ngồi lặng xem kinh xem sách và càng thâm nhập
mọi lẽ huyền vi trong đạo Phật.
Qua hai năm, gần mãn tang cha thì không may phu nhân lại lìa đời. Tu
Duyên lại một phen nữa đau buồn khóc lóc. Từ đấy lập chí lánh đời, tự nguyện
việc hiếu viên thành, quyết sẽ thí phát đi tu. Vì vậy mọi việc trong nhà đều ủy
cho Mông viên ngoại lo liệu không hề hỏi tới.
Năm 18 tuổi, mãn tang, hiếu đầy. Một hôm Tu Duyên sắm sửa hương hoa,
lễ vật ra nơi phần mộ của cha mẹ mà tế lạy. Trở về thư phòng, ngồi trầm ngâm
viết một bức thư để lại rồi sáng sớm hôm sau ra đi mất dạng.
Mông viên ngoại hai ngày không thấy mặt Tu Duyên những tưởng vẫn trì
chí học tập trong thư phòng như thường lệ. Nhưng khi qua thư phòng thì thấy cửa
khép hờ, đẩy vào không thấy có người, sinh nghi liền tiến thẳng đến án thư thì
thấy có đề thơ lại. Thơ rằng:
Vơi vơi trời nước thảm mênh mông,
Quyết độ quần sinh thoát khỏi vòng,
Hiến cái thân này cùng vạn hữuĐành cho kiếp khác chứng hư không
Đài sen khuya sớm khuê nguồn giác
Cảnh tịnh hôm mai tỉnh giấc nồng
Điên đảo mặc cho người tế thế
Riêng mình tự tại chốn non bồng.
Dưới thơ lại viết mấy hàng chữ lớn:
Tu Duyên phải đi
Chẳng nên tìm chi
Ngày sau gặp lại
Sẽ rõ vân vi
Mông viên ngoại xem xong biết Tu Duyên mộ đạo Phật, nên đã quyết lìa
bỏ cảnh trần, nương thân nơi am thiền thanh vắng liền cho người đi khắp các
chùa tìm kiếm nhưng tuyệt nhên không thấy tăm tích nơi đâu.
Núi Phi Lai Tu Duyên Đầu Phật
Chùa Linh Ẩn La Hán Giả Điên
Đây nói về Tu Duyên bỏ nhà ra đi thẳng tới Tây Hồ, lên ngọn núi Phi Lai
vào chùa Linh Ẩn xin được thế phát đi tu
Hoà thượng trụ trì chùa Linh Ẩn vốn là một vị cao tăng đạo hiệu Nguyên
Không nghe báo, bước ra dùng tuệ nhãn nhìn ngắm Tu Duyên biết ngay
là kim thân La Hán giáng phàm vâng sắc chỉ của Phật đầu thai cứu đời, nhưng vì
trót nhiễm tục trần nên còn mê chưa thật tỉnh, sợ ngày sau ngã trong cuộc đời
ngũ trược. Nguyên Không liền lấy tay vỗ lên đầu Tu Duyên ba cái. Tu Duyên
hội ý, dường như có sức mạnh nhiệm màu mở toang cửa trí tuệ, vụt mở máy linh,
liền quỳ lạy Nguyên Không làm lễ bái sư, xin thế phát. Nguyên Không khiến
tắm rửa, trai giới rồi đến trước tượng Như Lai xuống tóc cho Tu Duyên, đặt pháp
hiệu là Đại Tế.
Từ khi Nguyên Không vỗ vào đầu ba cái, Tu Duyên sực tỉnh mộng đời, nhớ
được tiền thân của mình, nhưng sợ người trần bày lắm điều ghen ghét, liền phải
giả dạng phong điên để che mắt tục, ra ngoài thì làm việc cứu giúp kẻ khốn
cùng, khuyên dạy chúng sinh, nhưng khi ở trong chùa miếu thì giả dạng cuồng
dại hay làm điều lầm lỗi vi phạm giới cấm.
Ngày ngày Đạo Tế đi dong ngoài đường, uống rượu, ăn thịt, trong mình nếu
không có tiền thì lấy trộm của thập phương cúng chùa mà tiêu xài. Bữa nào
không kiếm được đâu ra tiền thì bất luận áo quần, Đạo Tế liền đem ra phố bán
mà mua rượu thịt. Nội chùa chỗ nào và của ai cũng đều bị mất trộm, duy có
trong nơi phương trượng thì không hề suy suyễn vật chi.
Có một lần người thủ hộ là Quảng Lượng mất chiếc áo lễ, truy nguyên ra
mới hay là Đạo Tế đã lấy và đem ra ngoài phố bán, liền cho người đi chuộc về
rồi mặt giận hầm hầm tới trước Nguyên Thông mà bạch rằng:
- Trong chùa hiện nay có một vị tăng không giữ thanh qui, xin phương
trượng phải nên nghiêm trị.
Nguyên Thông chậm rãi nói:
- Ngươi tuy nhất định rằng việc trộm áo của ngươi la do nơi Đạo Tế, nhưng
mỗi khi muốn kết tội ai cũng đều phải có đủ chứng cớ mới được. Vậy ngươi có
bắt được chính tay Đại Tế lấy áo ngươi chăng?
Bị hỏi ngược lại, Quảng Lượng đành im lặng lui ra nhưng trong lòng âm
thầm oán trách. Nguyện Không gọi lại và khuyên:
- Ta cho phép ngươi tra xét rình xem, nếu thật Đạo Tế làm việc phạm với
thanh qui ta sẽ nghiêm trị, lúc ấy không muộn.
Từ đấy Quảng Lượng luôn luôn rình xét cử động của Đạo Tế. Một hôm
Đạo Tế nằm ngủ trên đại hùng bảo điện, Quảng Lượng liền ủy hai tiểu là Chí
Thành cùng Chí Minh núp trong bóng tối mà rình.
Nói về Lý Tu Duyên từ khi được Nguyên Không vỗ đầu ba cái liền tỉnh
ngộ nhớ túc nghiệp nhưng vì sợ đời ghen ghét nên giả dạng phong điên, mọi
người mệnh danh là Phong Tăng, lại nhân được pháp danh là Đạo Tế, nên nhiều
người gọi ngay là Tế Điên Thượng hay là Tế Điên Tăng.
Tế Điên đang ngủ trên Bảo Điện bỗng choàng nhổm dậy vươn tay ruỗi
chân một hồi, nhìn quanh bốn phía không ai liền đi thẳng xuống nhà khách và
với lấy một gói đồ nhét ngay vào trước bụng. Hai tiểu luôn luôn theo dõi thấy
vậy liền lẳng lặng ra trước cửa chùa mà đón. Khi Tế Điên vừa ra đến cửa liền bị
Chí Thanh nắm lấy la lên. Quảng Lượng cũng vừa ập tới, mấy người hết sức vui
mừng vì đã bắt được quả tang việc Tế Điên lấy trộm liền dắt vào bạch cùng
phương trượng.
- Bạch phương trượng, Đạo Tế chẳng giữ thanh qui đánh cắp đồ trong chùa,
chính chúng con đã rình bắt được. Một người như thế xin phương trượng cho tước
bỏ y bát, lột cà sa, thâu giới điệp lại mà đuổi ra khỏi chùa.
Nguyên Không trưởng lão nghĩ thầm:
- Đạo Tế! Ngươi lấy trộm đồ trong chùa tuy chỉ là việc biến tâm nhất khắc
trong túc nghiệp mà thôi. Ta dẫu hết che chở nhưng người tục đâu có hiểu vậy,
đã đến nước này biết nói sao để độ cho ngươi được đây.
Nghĩ rồi Nguyên Không liền bảo Quảng Lượng:
- Đã có bằng chứng rõ ràng, hãy kêu hắn vào đây, xét lấy tang vật trộm
cắp, ta sẽ y theo qui luật thiền gia mà xử trị.
Quảng Lượng vẫy tay một cái, Chí Minh nắm cứng Tế Điên dắt tới trước
mặt Nguyên Không.
Nguyên Không trưởng lão đưa mắt quả thấy trước bụng Tế Điên cộm lên
một đống liền nghiêm trách:
- Đạo Tế! Ngươi chót lấy trộm vật chi cất dấu nơi bụng, hãy lấy ra xem.
Tế Điên nghiêm trang bạch:
- Bạch thầy, thật oan uổng cho đệ tử, đệ tử nào có lấy trộm chi đâu? Chẳng
qua đệ tử ngủ trên đại hùng bảo điện thấy gạch ngói rơi vãi bề bộn nên quét thu
một đống rồi tạm thời mang nơi bụng để vứt ra khỏi chùa. Muốn rõ lòng đệ tử
thì hãy xem đây.
Nói xong Tế Điên rút một cái gói thật to cất ngay trước bụng vứt tung
xuống đất, chỉ thấy gạch ngói tung tóe trước mặt mà thôi. Nguyên Không trưởng
lão thấy vậy quay nhìn Quảng Lượng mắng rằng:
- Ngươi là kẻ thủ độ mà làm việc lại hồ đồ thế ấy, ngươi phải chịu theo
hình phạt trong chùa.
Nói xong sai Chí Minh lấy cây thước bản mà đánh Quảng Lượng mười cây.
Tế Điên thấy quang cảnh xẩy ra như vậy, bỏ đi ra ngoài vỗ tay cười lớn, vừa đi
vừa nói đúng thật như điên.
Vì Nghĩa Cả Cứu Người Hoạn Nạn
Bởi Lòng Nhân Chữa Bệnh Trầm Kha
Ra khỏi cửa chùa, Tế Điên rảo bước tới khu rừng rậm chợt thấy một người
đang vòng dây những toan treo cổ. Tế Điên thấy vậy lại càng cười vang,
mười phần thích thú. Người đứng thắt vòng dây rắp toan đút đầu vào
vòng mà kết liễu cuộc đời bỗng nghe cười rộ giựt mình ngừng tay, trông
ra thấy vị sư tăng hình thù quái gỡ, cười nói huyên thuyên liền bước tới hỏi:
- Ngài ở đâu mà tới chốn này? Sao lại cười như thế?
Tế Điên đáp:
- Ta vốn ở trong chùa này, thầy ta giao cho năm lượng bạc sai đi mua đồ áo
mũ trong chùa. Nào hay đường này dắt ta qua một quán rượu, mùi rượu thơm
nồng ác nghiệt cứ xông vào mũi. Ta chẳng thể cầm lòng đành vào quán uống
chơi vài chén. Kịp lúc ra đi, tưởng tới việc Thầy ta sai mua áo mũ, nhưng tìm
kiếm khắp nơi không đâu có bán mà ta trót sài hết phân nửa số bạc rồi. Tính ta
vốn không ưa giữ tiền bạc, thấy bạc mua chẳng đủ số, trước sau gì cũng đã lỡ rồi
nên trở lại quán mà uống rượu. Bây giờ ta muốn về chùa mà e Lão Hòa Thượng
sẽ không dung. Ta đương lo nghĩ cuống cuồng không đường cầu sống nên đành
cười rộ cho qua nỗi lo buồn. Như nếu nhà ngươi có tiền giúp được ta chăng?
- Sư phụ nếu có được 5 lạng bạc thì về chùa vui vẻ ư?
- Đúng vậy
- Trong túi của tôi nay chỉ còn có 6 lạng bạc, nhưng tôi là người chẳng
muốn sống, tiền bạc dẫu cất cũng chẳng dùng chi được, thôi xin cúng dâng sư
phụ để cứu ông một phen.
Nói xong liền móc bạc trao cho Tế Điên, Tế Điên cầm bạc nơi tay, xem
qua rồi chê rằng:
- Bạc của ngươi xấu lắm, không tốt bằng bạc của ta
Người lạ nghe nói torng lòng buồn bực nghĩ thầm: “Đã cấp tiền cho còn chê
tốt xấu” rồi bạch:
- Sư phụ cứ lấy tiêu thử xem coi có được không?
- Ừ, để ta tiêu tạm vậy.
Nói rồi quay mặt chạy đi. Người lạ đứng ngẫm nghĩ:
- Con người này thật chẳng hiểu đạo lý gì hết. Như vậy thì tu hành làm sao
nổi? Mình đã thương hại cấp tiền còn chê ỉ chê eo, lại không thốt lấy một lời
cảm tạ.
Chợt Tế Điên chạy trở lại và hỏi:
- Này này, ông lão kia ơi, ông muốn tự vẫn hay sao?
Người lạ đáp:
- Chính phải đó – rồi giọng như mỉa mai – Cõi trần này nhiều người xấu
quá phải không bạch sư phụ?
- Chẳng hay ông định chết thiệt hay chết giả vậy ?
- Tôi cần chi dấu ai? Tôi thật muốn tìm cái chết.
- Ông muốn chết thật nhưng tôi xem ông chẳng đến nỗi nào. Trong mình
ông có những 6 lạng bạc đem cho tôi, cớ sao chết đi cho uổng ? Chi bằng trước
khi chết, hãy cùng tôi ra quán ngồi uống rượu, ngắm người qua lại nghĩ chẳng
vui sao?
Người lạ giận nói:
- Tôi với ngài chẳng can cớ gì, bèo nước gặp nhau. Tôi đã có lòng tốt tặng
mấy lạng bạc, sao chẳng di cho rảnh, can cớ chi còn ám ảnh làm phiền?
Tế Điên cười ha hả nói:
- Tốt, tốt, tốt. Ông không chịu, chết cũng đáng, chết đáng lắm, thôi ta đi
đây !
Nói rồi Tế Điên quay đầu chạy, nhưng mới chạy năm, sáu bước bỗng cười
lên hi hi lại quay trở lại và nói:
- Ta thật ăn ở hẹp hòi làm phiền ông lắm. Ta quên hỏi ân công tên họ là gì
? Tại sao lại đi tìm cái chết? Ông có thể cho ta biết rõ được chăng ? Họa may ta
có phép cứu ông ?
Người lạ nghe Tế Điên bồng dưng ăn nói êm dịu liền đáp:
- Tôi họ Đổng, tên gọi Sĩ Hoằng …
Tế Điên bảo:
- Ông nói chậm quá, phải nói nhanh và sơ lược như thế này: “Tôi tên Đổng
Sĩ Hoằng, nguời huyện Tiền Đường, mẹ là Trần thị, vợ là Đỗ thị, mẹ và vợ đều
chết hết, tôi thờ mẹ rất hiếu thuận.” Chuyện ông như vậy đó, tôi nói có đúng
không?
Sĩ Hoằng lắng tai nghe hết sức kinh dị, nghĩ thầm: “Vị hoà thượng này sao
lại biết hết việc nhà mình thế này ?” Còn đang lưỡng lự, Tế Điên hối thúc tra ûlời
ngay, liền ôn tồn kể:
- Bạch sư phụ, tôi vốn hiếm hoi chỉ sinh một gái đặt tên Ngọc Thư. Lúc lên
tám tuổi mẹ nó bị bệnh qua đời. Tôi không lo nổi tang ma, phải đem cháu gái
cho nhà ông Tiến Sĩ họ Cố làm a hoàn và giao rằng: Sau 10 sẽ chuộc về bằng số
bạc 50 lạng. Từ đấy tôi lo làm ăn, dành dụm trong 10 năm mới được số bạc 60
lạng, hôm nay toan tính tới chuộc con về. Nào hay tới nơi mới hay Cố lão gia đã
thăng nhậm nơi tỉnh khác chưa biết nơi đâu? Đành phải nấn ná dò tìm, chẳng
ngờ mới đây bị kẻ trộm lấy mất gần hết số bạc, tầm mã mòn hơi vẫn không thấy
được. Mất số bạc tức là hết trông thấy mặt con gái nên tôi buồn rầu muốn chết
cho yên thân.
Tế Điên Tăng bảo:
- Đó là việc nhỏ mọn, để ta hết sức giúp cho ngươi thấy mặt con gái, cha
con đoàn tụ, ngươi có vui chăng?
Sĩ Hoằng nói:
- Tôi toan đem tiền chuộc con, tiền chẳng may mất hết, dầu thấy con cũng
không phương kế đem về nuôi nấng, như thế chuộc ra cũng vô ích thôi.
Tế Điên nói:
- Thôi cứ mặc ta liệu định, ta tự có phép mầu chu toàn cho gia đình ngươi.
Sĩ Hoằng ngắm kỹ bộ dạng Tế Điên ngẫm nghĩ xem ra có nhiều bí ẩn,
đành liều đáp lời vâng chịu. Tế Điên liền cõng Sĩ Hoằng chạy tuốt một hơi, đến
một ngõ hẻm, dừng buớc và bảo:
- Ngươi tạm đứng yên đây, hễ có người đến hỏi tuổi tác, năm tháng ngày
sinh thì cứ mặc kệ cho người ta cõng đi, sẽ có chuyện lành cho ngươi.
Sĩ Hoằng thấy lạ, vâng chịu đứng đó đợi chờ.
Nói về Tế Điên sau khi đặt Sĩ Hoằng đứng yên nơi đường hẻm liền co giò
chạy thẳng một mạch, ngửng lên thấy một tòa lâu đài đồ sộ, trong nhà ngồi quây
quần bốn năm người. Tế Điên không hỏi trước sau, xăm xăm bước tới. Người
giữ cửa trông thấy một hoà thượng lôi thôi lếch thếch liền cản lại, nói:
- Hòa thượng ở đâu đến đây? Muốn hỏi gì chăng?
Tế Điên đáp:
- Chết nỗi tôi quên, phải chăng đây là nhà họ Triệu, có bà cụ có bệnh gần
chết ?
Người giữ cửa nói:
- Chính phải, hoà thượng hỏi làm chi ?
Tế Điên nói:
- Ta tới trị bệnh
Nói rồi gạt tay người giữ cửa sấn bước toan vào. Người giữ cửa níu tay Tế
Điên lại và bảo:
- Khoan đã! Viên ngoại chúng ta đã rước biết bao vị thầy thuốc lừng danh
mà còn không trị nổi bệnh của lão phu nhân, huống chi lại rước ông, một vị hòa
thượng ăn xin? Phương chi viên ngoại ta đã đi rước Tô Bắc Sơn tiên sinh và ông
danh y Lý Hồi Xuân rồi không có ở nhà mà tiếp hoà thượng đâu?
Đương lúc nói năng, chợt thấy ba người cưỡi ngựa chạy tới dừng ngay trước
cửa. Tên giữ cửa reo lên:
- Viên ngoại đã về.
Ba người vừa nhảy xuống ngựa, Tế Điên tới trước nói:
- Ba ngài đi ung dung quá báo hại ta đứng chực đã nửa ngày trời.
Chủ nhà này là Triệu Văn Hội liếc thấy một vị hoà thượng có dáng như
khùng, cảm động dùng lời dịu ngọt mà an ủi:
- Bạch hoà thượng, nhà tôi hôm nay có mẹ bị bệnh, vì thế tôi còn phải đi
thỉnh Lý tiên sinh đây về trị bệnh, mời hòa thượng mai hãy lại, tôi xin cấp đỡ
tiền bạc.
Tế Điên nói:
- Ta thật chẳng phải đi hóa duyên, chính là tới giúp trị bệnh cho lão phu
nhân đó vậy.
Văn Hội chỉ Hồi Xuân và nói:
- Chúng tôi đã rước thầy đây rồi, đó là một vị Danh y thời nay, ông chịu
phiền về đây chữa chạy cho bệnh của mẹ tôi.
Tế Điên liếc mắt ngắm Lý Hồi Xuân mà bảo:
- Tiên sinh là thầy thuốc có tiếng, tôi có một vị thuốc, xin coi xem nó chữa
bệnh gì ?
Lý Hồi Xuân nhũn nhặn:
- Chả dám, xin hỏi đại sư muốn hỏi về vị thuốc nào?
- Trái cây mãng cầu lấy ở lò ra.
- Trong bản thảo không có vị thuốc như thế.
Tế Điên cười rộ mà rằng:
- Nói lên một vị thuốc có công dụng lớn mà không hiểu, sao dám xưng là
thầy thuốc có danh? Vị thuốc ấy trị bệnh bụng đói, thế mà không biết!
Mọi người cười rộ. Tế Điên thản nhiên bảo:
- Giờ đây tôi cùng với hai ông, ta cùng đi coi bệnh lão phu nhân được
chăng?
Lý Hồi Xuân gật đầu:
- Cho đi cũng được
Tất cả bốn người thẳng tới giường của lão phu nhân. Hồi Xuân tới trước
cầm tay bệnh nhân nghe mạch, hỏi han vài câu, chỉ thấy phu nhân lắc đầu,
không nói ra tiếng, bèn quay lại nói với Văn Hội rằng:
- Lệnh đường chính bị đàm lạnh quá nhiều ngăn lấp, cần phải tiêu trừ tan
đi. Nhưng chỉ sợ lệnh đường già yếu, thân thể suy nhược, khó bề dùng thuốc,
vậy nên đi thỉnh vị cao minh khác.
Văn Hội nghe nói xiết nỗi lo rầu thưa rằng:
- Nơi này còn ai là bậc cao minh, xin phiền Tiên sinh chỉ dạy.
Hồi Xuân nói một cách trịnh trọng:
- Trong đất Lâm An này chỉ có tôi và Thắng Vạn Phương là còn có chút
danh mọn. Nếu như Vạn Thắng Phương trị được bệnh này, tôi đây cũng trị được,
mà liệu tôi không trị nổi thì họ Thắng cũng vị tất trị nổi.
Tế Điên đứng cạnh xen vào:
- Như ông với họ Thắng đều không thể trị lành bệnh thì tôi chắc tôi không
trị được, mà ngược lại, hai người chắc không trị được nổi thì tôi đây trị được cho
mà coi.
Rồi quay lại nói với Văn Hội:
- Viên ngoại hãy chờ tôi xem thử một phen, coi lão phu nhân bị bệnh gì đã?
Văn Hội thấy thế cũng đáp liều:
- Vâng được, vâng được!
Lý Hồi Xuân với Tô Bắc Sơn đều muốn xem tài Tế Điên coi bệnh thế nào
nên chẳng nói năng gì. Tế Điên lật đật đến trước giường bệnh nhân, trước vỗ
nhẹ lên đầu lão phu nhân ba cái rồi nói với viên ngoại rằng:
- Viên ngoại an lòng, lệnh đường chẳng chết đâu mà sợ, trên ngực hơi thở
còn ấm đều.
Nói xong, Tế Điên đứng thẳng người một mắt nhắm, một mắt mở, ngó ngó
một hồi rồi than thở:
- Ấy chẳng qua lão phu nhân bị đàm ngăn lấp tạng phủ mà ra.
Lý Hồi Xuân nghe nói cười thầm nghĩ rằng:
- "Thì cũng vì sợ đàm dữ mà ta không dám trị. Nếu không ta đã trị lành rồi.
Tưởng giỏi gì hóa ra cũng chạy như ta."
Viên ngoại thì nóng lòng cần thầy trị lành bệnh cho mẹ, lền thúc giục:
- Bạch hoà thượng, ngài có chữa khỏi chứng đàm xuyễn được chăng?
Tế Điên nói rằng:
- Duy có điều phải kêu cho nó chạy ra. Bởi nó đọng trong mình nhiều quá
nên làm lão phu nhân bị hôn mê. Không dùng thuật kêu cho nó chạy ra thì
chẳng còn phép nào khác.
Văn Hội ngơ ngẩn mà nói:
- Xin thầy dạy cho biết đàm mà cũng biết nghe tiếng kêu gọi được sao?
Tế Điên bảo:
- Nếu như không tin hãy xem tôi thí nghiệm.
Nói xong, Tế Điên chạy tới trước giường lão phu nhân thét to:
- Đàm a! Đàm a! Mau hãy chạy ra, để ta nổi nóng, mi sẽ chết đa.
Mọi người che miệng mà cười, bỗng nhiên lão phu nhân nghe được cười
sặc, ho lên một tiếng, mửa ra một cục đờm xanh. Tế Điên lẹ làng móc trong hầu
bao ra một viên thuốc xẻ làm đôi, tự uống một nửa, còn một nửa thì hoà nước
cho lão phu nhân uống. Chẳng bao lâu, nghe phu nhân thở dài, mở mắt ra rồi
nói:
- Đau chết đi thôi! Ta đói lắm, mau đem cháo cho ta ăn.
Văn Hội cả mừng lăng xăng sai bảo người nhà bưng cháo đến.
Nhờ Thuốc Thánh, Cha Con Đoàn Tụ
Lo Cứu Người, Bà Cháu Đều Yên
Khi thấy Tế Điên trị bệnh khỏi cho lão phu nhân, Tô Bắc Sơn và Lý Hồi
Xuân ngẩn ngơ như tượng đá giữa trời cho đến khi Văn Hội vòng tay
thỉnh cả ba sang thư phòng, sau đó kêu gọi gia nhân làm tiệc đãi đằng.
Văn Hội lại hỏi Tế Điên:
- Bạch hoà thượng! Hòa thượng dùng chay ?
Tế Điên đáp:
- Ta tối kỵ hai điều: Một là ăn chay, hai là tụng kinh. Ông chớ coi ta là hoà
thượng thường mà tôi là hoà thượng sành nếm rượu thịt.
Văn Hội cho là kỳ quái, nhưng cũng cứ dọn tiệc thết đãi. Lúc đó Lý Hồi
Xuân trong lòng ấm ức không phục, hỏi Tế Điên rằng:
- Lão phu nhân bị bệnh đờm, nhưng hoà thượng biết vì sao mà có bệnh như
vậy không ?
Tế Điên đáp:
- Chỉ bởi trong lòng lão phu nhân ẩn tàng thương mến một vật chi đó, bỗng
nhiên vật ấy bị hư hoại đi, khiến nên đau xót, đàm khí sôi sục, tức khắc hôn mê,
nay đã uống thuốc của tôi, cam đoan vô sự.
Triệu viên ngoại nghe nói quả nhiên chẳng sai căn bệnh của mẹ liền đứng
dậy vòng tay xá Tế Điên và nói:
- Thánh Tăng! Ngài luận bệnh không sai chút nào. Mẹ tôi có một đứa cháu
vừa lên 6 tuổi, bỗng nhiên bị bệnh hôn mê bất tỉnh, mẹ tôi thương cháu quá nên
đau đớn trong lòng, đàm sôi kéo lên, uất kết mà thành bệnh. Thánh Tăng đã trị
lành bệnh cho mẹ tôi, tưởng chắc bệnh của con tôi, Ngai trị cũng hết, trăm ngàn
lần cầu mong ngài từ bi cứu độ!
Tế Điên thản nhiên đáp:
- Trị bệnh nào thì cũng trị được, nhưng có điều bệnh của công tử khó kiếm
thuốc để dẫn.
Văn Hội hỏi:
- Thánh Tăng muốn dùng vị chi để làm thuốc dẫn?
Tế Điên đáp:
- Phải cần dùng một người đàn ông 52 tuổi, sinh ngày 5 tháng 5 và một
người con gái 19 tuổi sinh ngày 15 tháng 8. Đem hai người cho gặp mặt nhau,
làm thế nào để họ khóc thật to, rồi lấy nước mắt ấy trị bệnh cho công tử chắc là
bệnh khỏi không sai.
Văn Hội nghe nói cau mày ngẫm nghĩ rồi bạch:
- Ngài dạy tôi phải tìm kiếm ở đâu cho được hai người như thế bây giờ?
Dẫu tìm được nhưng làm sao cho họ khóc?
Tế Điên nói:
- Ông chớ quá lo, tới đâu hay đó, có khi đã có nhân duyên định sẵn, hãy cố
dò hỏi tìm kiếm cho ra để mà chữa bệnh cho công tử.
Văn Hội nghe theo, lập tức sai bảo người nhà mỗi người mỗi phương tìm
kiếm. May sao có người đến mách:
- Tại vùng này không có ai sinh vào ngày tháng như vậy, chỉ có nhà họ Cố
có người a hoàn tên Xuân Hương sinh đúng ngày 15 tháng 8 lại vừa đúng 19
tuổi.
Văn Hội mừng rỡ vô cùng, sai người đến nói khó với Cố viên ngoại và xin
đón Xuân Hương. Mặc khác người tớ trai tên gọi Triệu Thăng gắng sức tìm kiếm
cho được người đàn ông, khi đến ngõ hẻm thấy Đổng Sĩ Hoằng đang đứng ngẩn
ngơ nhìn trời ngắm đất liền tới gần hỏi:
- Ông được 52 tuổi phải chăng?
Sĩ Hoằng gật đầu. Triệu Thăng lại hỏi:
- Phải ông sinh ngày 5 tháng 5 chăng?
Sĩ Hoằng giật nẩy mình, vừa thốt ra tiếng "Phải". Triệu Thăng liền ghé
lưng cõng tuốt ngay Sĩ Hoằng mà chạy như gió. Sĩ Hoằng sợ toát mồ hôi nhưng
trước sức mạnh của gia nhân họ Triệu đành cứ lặng im không dám nói năng.
Triệu Thăng cõng Sĩ Hoằng chạy thẳng một mạch về nhà, vừa hay lúc ấy người
đi rước Xuân Hương cũng vừa về tới. Sĩ Hoằng trông thấy Xuân Hương liền
nhận ra chính là con gái mình tên gọi Ngọc Thư. Xuân Hương trông thấy Sĩ
Hoằng cũng nhận ra chính cha mình. Hai cha con sững sờ nhìn nhau một phút rồi
ôm nhau mà khóc. Tế Điên bước ra vỗ tay cười lớn bảo:
- Viên ngoại ra đây mà coi, thuốc dẫn có rồi!
Đoạn lấy ra một viên thuốc trong bọc, sai hứng nước mắt của cha con Sĩ
Hoằng hòa thuốc đổ cho công tử. Giây phút kẻ a hoàn ra thưa:
- Công tử uống thuốc, thuốc vừa khỏi cổ liền thấy tỉnh táo như thường, tinh
thần khỏe khoắn hơn xưa.
Văn Hội hớn hở liền hỏi Tế Điên:
- Phải chăng ngài muốn giúp cho cha con người này được đoàn viên nên
bầy chước diệu?
Tế Điên liền đem chuyện Sĩ Hoằng trước sau thuật rõ một lượt. Triệu Văn
Hồi vô cùng cảm phục liền chu cấp tiền bạc cho Sĩ Hoằng, sai người đem tiền
mướn a hoàn khác cho nhà họ Cố. Sĩ Hoằng lãnh nhận con gái là nàng Ngọc
Thư, lạy tạ ơn Triệu Viên ngoại rồi cúi đầu từ tạ Tế Điên, dẫn con gái hớn hở ra
về.
Văn Hội thấy tiệc rượu đã sẵn sàng liền đứng lên thỉnh mọi người cùng vui
vầy yến ẩm. Đang khi rượu vào lời ra, Tế Điên ngoảnh lại thấy họ Tô có vẻ
kém vui liền ha hả cười lớn và móc hầu bao lấy ra một viên thuốc và nói:
- Tô viên ngoại bất tất lo rầu. Lịnh đường chỉ cần uống một viên thuốc này
cũng sẽ mạnh như Triệu lão phu nhân đây ngay.
Tô Bắc Sơn nghe xong cười lớn và bạch:
- Thánh Tăng thật là tay thần bốc tiên sinh, tôi xin bái phục.
Nguyên Tô Bắc Sơn tuy cùng đi thăm bệnh mà nhà có mẹ già mắc chứng
thương phong không đi đứng lại được, nên dù ngồi đó mà lòng luống lo buồn,
nay thấy Tế Điên đọc trúng tâm ca vui mừng khôn xiết, liền từ tạ để về nhà trị
bệnh cho mẫu thân.
Lý Hồi Xuân ngồi cạnh thấy Tế Điên hễ động nói lại móc hầu bao lấy
thuốc, mà không biết trong bọc có bao nhiêu viên mà bất cứ bệnh gì chỉ móc
toàn một thứ viên đen đen tựa như cáu ghét trong mình, cố ý muốn hỏi cho biết
liền nói:
- Thánh Tăng! Thuốc ấy tên chi mà đen đen như thế xin cho chúng tôi biết
pha phương pháp chế biến được chăng?
Tế Điên cười ha hả và đáp:
- Thuốc này người trần biết sao nổi, nó là An Mệnh Hoàn lại có một tên
khác là Tẩy Tâm Minh Mục Hoàn tức là viên thuốc rửa lòng sáng mắt, chuyên
chửa các chứng bệnh nguy nan và cả các tạp chứng, bất cứ nam phụ lão ấu nếu
thành tâm kỳ nguyện, uống một viên này là bệnh gì cũng tiêu tan được hết.
Mọi người thấy Tế Điên nói toàn những chuyên có vẻ hàm hồ bí ẩn, liền
đem những chuyện văn thơ kim cổ luận bàn thì Tế Điên đáp thông như nước
chảy, hỏi một biết mười, luận lý hơn là Gia Cát, Tào Tham, thẩy đều kính phục.
Họ Tô, họ Triệu thấy Tế Điên rách rưới liền ngỏ ý muốn mua đồ mới cúng
dàng. Tế Điên gạt đi, bảo:
- Y phục chỉ là thức vật bề ngoài, nó rách nhưng tâm không rách là được.
Quý vị đã có lòng tốt xin cứ để dành lại đó, khi nào tôi cần dùng sẽ lấy.
Tô, Triệu khẩn khoản hai ba lần nhưng Tế Điên nhất định khước từ đành
henï ước thời thường lui tới để hai người được chiêm ngưỡng.
Tiệc tan, ai nấy kiếu về, Tế Điên cũng chân thấp chân cao, noi bóng thông
trở về thiền tự.