[Tiên Hiệp]Thiên Ma Thần Đàm - Tác Giả: Thủ Thương - Chương 35
Thiên ma thần đàm - 天魔神谭
Nguyên văn bởi binhchi :
Tác Giả - Thủ Thương - 手枪 - trùng tên với tác giả của Ngã thị đai pháp Sư, không biết có phài là cùng một người không. Xem cách viết khác nhau nhiều
Trọn bộ 297 chương. Bây giờ vẫn Top Ten. Số người đọc không thấy giảm. Tình tiết hay, cấu trúc hợp lý, yêu ma, thần thú, pháp khí, dị năng, huyền pháp có đủ.
Tư Đạt Khắc di truyền Long gia tộc, từ 5 tuổi phải luyện một loại pháp quyểt để phong ấn linh lực. Năm 15 tuổi học sinh của Vân Liễu học viện, ma pháp kém cỏi, luyện thú không thành. Tìm đươc Tham Lang Tinh. Cả gia tộc công cao át chủ bị truy sát, đào vong. Vào Ma vực, luyện huyễn thú, khởi phóng Long tộc dị năng...Phiêu lưu đầy tính cách RPG, đọc rất thích.
Mở Đầu
Dịch giả: Thanhthao, Binhchi
Biên dịch: A Anh
Nguồn: TTV - Thiên Hạ Hội
Hàng ngàn vạn năm qua, lịch sử loài người đã trải qua mấy lần hưng suy, nhưng chưa bao giờ lại có sự thay đổi lớn như lần này. Đến năm 34875 sau Công Nguyên,ở vào thời đại mà con người có khả năng làm bất cứ điều gì nhờ vào khoa học kĩ thuật, trên khắp hệ Ngân Hà, loài người đích thực là sinh vật có sức mạnh cường đại cũng như dã tâm rất lớn. Lịch sử khuếch trương lãnh địa của loài người từ trước tới nay đích thực vô cùng sâu rộng, phạm vi ảnh hưởng lên đến gần hai triệu năm ánh sáng.
Tuy nhiên, sự bành trướng không có giới hạn này rốt cục cũng kích động đến các chủng tộc khác trong hệ Ngân Hà, vì vậy mà vào ngày 15 tháng 2 năm 34875 sau Công Nguyên, giữa loài người và hàng ngàn triệu chủng tộc đã xảy ra đại chiến. Mặc dù có khoa học kỹ thuật, lại thêm dân số chiếm đến một phần tư những sinh vật có trí tuệ trong toàn Ngân Hà, nhưng sau khi trải qua 3000 năm đại chiến trong Ngân Hà, loài người rốt cuộc cũng không thể chống cự nổi với toàn Ngân Hà hợp lực.
Cuối cùng, sau khi mất đến 99.99% dân số, gần trăm triệu người còn sót lại tập hợp tại quê hương Thái Dương hệ của loài người. Tất cả các vũ khí gần như đã mất hết. Rốt cuộc, thủ lĩnh của liên minh loài người - Tương Oạt Không Minh Vương- đã có một quyết định không sáng suốt. Ông sáng chế ra một không gian nhân tạo mà khi bắn ra sẽ tạo nên một hố đen to như mặt trời, chỉ kéo dài một giây nhưng sức mạnh cực kỳ khủng khiếp, trong nháy mắt đã hủy diệt cả hệ mặt trời và hàng nghìn hàng triệu chiến hạm liên minh ngoại tinh.
Thế nhưng, cái giá mà loài người phải trả chính là 95 triệu trong 100 triệu người còn sót lại đó, cùng với cả bề mặt của địa cầu bị bạt bay đi và một cơn lốc điện từ năng lượng cao lan rộng khắp Ngân Hà. Toàn bộ máy móc, thiết bị cấu tạo bằng điện tử trong Ngân Hà hệ đều không thể sử dụng được, chỉ vì một cơn lốc điện từ tồn tại trong một giây.
Chỉ một thoáng hủy diệt mà còn tiếp tục gây ảnh hưởng tai hại cho cả ngàn năm sau. Chỉ một giây, cả nền văn minh Ngân Hà hệ đã trở lại thời kỳ của hàng ngàn vạn năm trước. Không gian vũ trụ đang vô cùng náo nhiệt bỗng trở nên tĩnh lặng, mỗi một tinh cầu lại tự hình thành và phát triển chính mình, yên bình bay lượn, một lần nữa tiến đến giai đoạn vũ trụ.
Một thời đại mới của loài người sau giai đoạn từ thịnh hóa suy, chín năm về sau đó được xưng là sự kiện Thiên Ma Thần của loài người. Một thời đại đầy những anh hùng, yêu ma, yêu tinh và á nhân.
Dịch: binhchi, linhlan, bongsatu, waa123
Biên dịch: A Anh
Thứ nhất: Nguồn gốc Huyễn thú
8000 năm trước, nhân loại tạo nên vụ nổ lớn trong Ngân Hà, phát ra một lượng điện từ cường liệt khiến cho toàn hệ Ngân Hà tiến vào trạng thái tê liệt điện từ, không ai biết khi nào có khả năng hồi phục.
May mắn thay, trình độ khoa học và kỹ thuật của loài người tại thời điểm đó đã đạt tới đỉnh cao về công nghệ sinh hóa. Sự thay đổi này mang tới cho con người khả năng sinh tồn cao, tạo ra được những sinh vật có năng lực chiến đấu thật sự.
Sau vụ nổ lớn, con người đã tạo ra được những sinh vật nhân tạo. Việc áp dụng phương pháp cải biến các yếu tố di truyền nguyên thủy, lại trải qua hàng thiên niên kỷ nghiên cứu và hoàn chỉnh, rốt cuộc những sinh vật nhân tạo này đã tiến hóa thành huyễn thú ngày nay, đối với nhân loại có một mối quan hệ mật thiết không thể phân ra.
Thứ hai: Đẳng cấp và thuộc tính của huyễn thú.
Huyễn thú được phân chia thành 3 cấp: thượng, trung, hạ cấp, thời gian phát triển ứng với mỗi cấp là 10 năm.
Huyễn thú hạ cấp từ bậc một đến ba thường được những người dân thường sử dụng; huyễn thú trung cấp từ bậc bốn đến sáu thường được những người có kỹ thuật sở hữu như chiến sĩ, thợ thủ công cùng cấp; huyễn thú thượng cấp từ bậc bảy đến bậc chín, được những quan chức cao cấp sử dụng và kiểm soát nghiêm ngặt việc hình thành chúng bởi vì huyễn thú cấp cao có một sức mạnh cực lớn. Chính vì thế huyễn thú cấp cao còn được gọi là cấp quý tộc, sau đó lại chia ra cấp bảy gọi là huyễn thú Quý Tộc, cấp tám gọi là huyễn thú Hoàng Tộc, cấp chín gọi là huyễn thú Đế Vương.Những huyễn thú càng sống lâu, tất cả các năng lực gần như phát triển toàn vẹn, nên uy lực đã cao lại càng cao hơn.
Đương nhiên, cần phải nói về truyền thuyết siêu việt huyễn thú tam cấp cửu giai, mà người ta gọi là “huyễn thú trong truyền thuyết”. Những “huyễn thú trong truyền thuyết” này không bị hạn chế vào bổn mệnh như huyễn thú khác, nghĩa là cho dù chủ nhân của nó có tử nạn thì chúng vẫn còn tồn tại, được gọi là Tứ Thánh Thú: Thanh Long, Chu Tước, Bạch Hổ, Huyền Vũ. Tuy nhiên, vẫn chưa một ai có thể nhìn thấy chúng.
Chủng tộc của huyễn thú bao gồm: phong, hỏa, thủy, thổ, quang và ám.
Mỗi cấp bậc của huyễn thú đều có các chủng tộc, riêng đối với hai chủng tộc quang và ám, chỉ có ở huyễn thú cấp tám.
Mặc dù mỗi huyễn thú chỉ có một thuộc tính, nhưng nếu người ta cố gắng nghiên cứu phát triển thuộc tính thứ hai, thì huyễn thú sẽ có khả năng phát huy năng lực đó trong một thời gian ngắn, gọi là năng lực ẩn tàng.
Thứ ba: Quan hệ của Huyễn thú và Chủ Nhân.
Huyễn thú một khi đã nhận chủ nhân, năng lượng trong người đều do chủ nhân cung cấp. Nếu chủ nhân mạnh lên thì huyễn thú cũng sẽ mạnh lên. Đặc biệt, huyễn thú cấp cao đòi hỏi nguổn năng luợng rất lớn, do đó, nếu chủ nhân cung cấp nguồn năng lực không đủ thì uy lực của huyễn thú cấp cao cũng không đủ.
Ngay cả tinh lực của huyễn thú cũng phụ thuộc vào tinh thần của chủ nhân. Huyền thú cấp cao đòi hỏi chủ nhân phải có tinh thấn lực tối cao, nếu tinh thần lực của chủ nhân quá yếu, thậm chí xảy ra chuyện huyễn thú lúc mới sinh ra không nhận chủ nhân, hoặc nhận nhưng sau đó phản bội.
Dịch giả: Bongsactu
Biên dịch: A Anh
Nguồn: TTV - Thiên Hạ Hội
Thái Nguyên lịch năm 3770.
Trong bốn đại lục thì lớn nhất chính là Kì Vũ đại lục, còn được gọi là Đông đại lục. Tại Kì Vũ đại lục có bốn đại đế quốc chiếm lĩnh trên 70% diện tích của toàn đại lục, phân biệt thành Tư Đạt đế quốc phía Đông, liên minh Kì Lan Lâu phía Bắc, Thái Long đế quốc phía Nam, cùng với Hoa Na Bang công quốc nằm giữa tam quốc.
Xét về quốc lực thì Thái Long đế quốc mạnh nhất, kế đến là liên minh Kì Lan Lâu, tiếp nữa là Tư Đạt đế quốc, Hoa Na Bang công quốc yếu nhất.
Thủ đô của Hoa Na Bang công quốc là Nguyên Thự Thành. Đó là một tòa thành có lịch sử văn hóa cổ đại đã hơn ngàn năm, tọa lạc ngay trung tâm Kì Vũ đại lục, rất giàu truyền thống văn hóa, võ thuật phát triển ở khắp nơi, là một trong những thành thị phồn vinh nhất đại lục.
Phía tây Nguyên Thự Thành có một tòa học viện ước tính trên một trăm học viên, chính là Vân Liễu học viện, một trong năm học viện nổi tiếng nhất của Hoa Na Bang công quốc.
Học viện chia làm ba khoa: Khải Vũ khoa, Huyễn Ma khoa và Thần Nghệ khoa. Ý nghĩa nằm ngay trong tên gọi. Khải Vũ khoa dạy học sinh làm sao sử dụng giáp của huyễn thú để phát huy tiềm năng của bản thân, tăng khả năng tái chiến đấu và lực công kích của chính mình, khôi phục lực phòng hộ. Huyễn Ma khoa chỉ dẫn học sinh làm thế nào thông qua huyễn ma giáp vận dụng năng lượng ngoại giới để đạt tới lực công kích cường đại của 'ma pháp hiệu quả'. Thần Nghệ khoa lợi dụng các tính chất đặc thù của huyễn thú, từ giai đoạn chưa trưởng thành cho đến lúc thành thục sẽ có những hướng dẫn đặc biệt để tăng tốc độ thành thục của chúng, khiến cho huyễn thú khi chuyển hóa hình thái sẽ trở thành một 'công cụ' có công năng đặc thù.
Một nhóm khoảng ba mươi học sinh đang tập trung tinh thần nghe vị giáo sư giảng giải về lịch sử của ngành huyễn thú.Vị giáo sư đó ước khoảng bốn mươi tuổi, ông ghi vài chữ lên bảng đen rồi bắt đầu thao thao bất tuyệt:
- Như các trò cũng đã biết, loài người chúng ta bắt đầu biết đến huyễn thú từ 2800 năm trước. Theo như truyền thuyết, huyễn thú chính là một loại vũ khí mà tổ tiên chúng ta đã chế tạo từ thời kỳ viễn cổ. Về sau, khi thiên địa phát sinh dị biến khiến cho nền văn minh viễn cổ bị hủy diệt hầu như không còn lại gì, loài người trở lại thời kì mông muội tối tăm. Mãi cho đến 2800 năm trước, đại hiền giả Hải Niếp tại Uy Lỗ Tân đã phát hiện di tích của huyễn thú đã bị chôn vùi. Ngài đã mất hơn 10 năm nghiên cứu, rốt cuộc cũng phát hiện phương thức sử dụng huyễn thú và công bố cho hậu thế, có thể nói đã tạo thành tiếng vang lúc bấy giờ. Các quốc gia khác từ đó cũng bắt đầu tích cực nghiên cứu và đào bới những di tích viễn cổ. Dưới sự đồng lòng hợp lực nghiên cứu của loài người, rốt cuộc cũng đã phát hiện ra vô số loại huyễn thú khác. Lại trải qua thêm hàng ngàn năm nghiên cứu, cuối cùng đã hình thành nên những huyễn thú mà chúng ta đang sử dụng hiện giờ.
Dừng một chút, giáo sư tiếp tục nói:
- Đến hiện tại, chúng ta đại khái có thể biết được huyễn thú phân chia thành vài thời kì. Đầu tiên là giai đoạn trong trứng, huyễn thú trong giai đoạn ấp trứng sẽ không có bất cứ năng lực gì. Các loại huyễn thú khác nhau thì giai đoạn phát triển cũng khác nhau, chỉ duy có giai đoạn ấp trứng đều ước chừng chung kéo dài khoảng ba năm. Công quốc quy định trẻ em đủ 12 tuổi sẽ tiến hành học tập phương pháp sử dụng huyễn thú, vì vậy mỗi một người trước 12 tuổi phải tìm kiếm trứng huyễn thú cho chính mình. Hôm nay, ta tin tưởng rằng có không ít các trò đã từng sở hữu trứng huyễn thú!
Sau thời kỳ ấp trứng là thời kì ấu thơ. Huyễn thú thời kỳ ấu thơ chưa có năng lực nhưng có thể thấy rõ được huyễn thú thuộc loại hình nào đó, đồng thời, trong thời kỳ này huyễn thú có thể nhận chủ. Huyễn thú cả đời duy nhất chỉ có thời kì này là có thể nhận chủ, và một khi đã nhận chủ thì cả đời sẽ không thay đổi. Ngoài ra, cũng có một nhận định thú vị, đó là thời kì ấu thơ càng ngắn thì cấp độ của huyễn thú càng cao, chẳng hạn như huyễn thú hoàng tộc thuộc sở hữu của công quốc hoàng tộc, nghe nói thời kì ấu thơ chỉ có một tháng.
Bước vào thời kì trưởng thành, huyễn thú sẽ biến thể phụ thuộc vào người chủ mà thời kỳ ấu thơ nó đã nhận chủ nhân. Bắt đầu từ thời kì trưởng thành, huyễn thú cần rất nhiều năng lượng. Năng lượng do bản thân hấp thu thường không đủ cung cấp cho nên nó phải phụ thuộc nhiều vào năng lượng của chủ nhân. Năng lượng của chủ nhân càng nhiều thì huyễn thú trưởng thành càng nhanh, đồng thời khi bước sang giai đoạn thành thục sẽ càng mạnh. Chính vì vậy mà các trò không cần lo lắng rằng nếu cấp bậc huyễn thú của mình không bằng người khác thì nhất định sẽ thua họ. Thật ra, trong mười đại cao thủ nổi tiếng tại đại lục có đến ba người sử dụng huyễn thú thuộc loại cấp thấp.
Tiếp theo là thời kì biến hình, đây là thời kì mà huyễn thú yếu ớt nhất. Ở thời kì này, huyễn thú dựa vào năng lượng cung cấp của chủ nhân mà hình thành thuộc tính, biến hóa thành hình dáng phù hợp nhất với chủ nhân, có thể là vũ đấu khải giáp, ma đạo trang giáp, thậm chí là thú phụ trợ công nghệ . Do bởi một huyễn thú chỉ có thể một lần biến hình, cho nên mục đích của học viện chính là dạy cho các trò làm thế nào để huyễn thú trưởng thành biến hình theo hình dáng của mình.
Cuối cùng là thời kì thành thục. Sau khi đã trải qua các thời kì trước, huyễn thú ở giai đoạn thành thục cuối cùng này mới thực dụng được. Căn cứ vào giai đoạn cuối cùng có thể phân ra thành thú huyễn khải tạo ra vũ đấu khải giáp, ma huyễn khải tạo ra ma đạo trang giáp, thú linh cụ tạo ra các cụ bị có năng lực đặc thù hay còn gọi là thú phụ trợ công nghệ.
Ngoài ra, trong các giai đoạn của huyễn thú cho đến khi thực dụng, trừ thời kì trong trứng đến thời kỳ ấu thơ là không có năng lực gì, đến thời kì trưởng thành, huyễn thú tuy chưa hoàn toàn nhập thân để hấp thu năng lượng của chủ nhân nhưng cũng đã có thể cấp cho chủ nhân một số lực công kích cũng như phòng hộ. Giai đoạn biến hình là giai đoạn các cấu trúc cơ thể yếu nhất, bởi vậy chẳng những không thể cung cấp cho chủ nhân sức mạnh, ngược lại phải được chủ nhân bảo vệ mới có thể thuận lợi hoàn thành biến hình. Chỉ đến giai đoạn thành thục huyễn thú mới hoàn toàn cố định hình thái, có sức mạnh cường đại và có thể cho trợ giúp chủ nhân. Hơn thế nữa, theo như trong truyền thuyết thì một số huyễn thú còn có thể che dấu lực lượng của chính mình.
Nói đến đây, ông đột nhiên bắt gặp một thiếu niên không chăm chú nghe giảng mà ngồi nhìn lơ đãng ra ngoài cửa sổ. Giáo sư Cái Tư thấy Á Văn không chú ý nghe mình giảng thì không khỏi lập tức nổi trận lôi đình. Ông vốn là người rất nóng tính, bị lũ học sinh gán cho biệt danh “quỷ đầu lão sư”. Giáo sư nổi giận, định mắng cho hắn một trận, nhưng lại nhớ lại bình thường hắn đối với mình rất cung kính nên hơi chùn lòng. Từ năm 12 tuổi nhập học cho tới nay hắn đã như vậy, bộ dạng không chút sức sống, đối với ngoại giới hình như không hề có phản ứng. Thật ra, giáo sư không phải phải không biết, bình thường tại học viện có không ít người đến khiêu khích với hắn chỉ bởi vì hắn chính là người thuộc gia tộc Tư Đạt Khắc. Có điều, Á Văn trước sau thủy chung vẫn một mực giữ vẻ lạnh lùng, tuyệt không thấy hắn có chút phản ứng nào.
Ông thở dài, thầm nghĩ:
- Sinh ra trong gia đình quá danh tiếng, nếu không có tài năng tương xứng với danh tiếng ấy thì quả thật rất đau khổ.
Ông lắc đầu, đang định giảng tiếp thì có tiếng thú vang lên báo hiệu, nhắc nhở đã hết thời gian. Giáo sư khẽ ho một tiếng rồi dặn dò:
- Các trò trở về phải ôn tập một chút bài giảng hôm nay. Ngày mai ta sẽ mang tiêu bản thực tế của huyễn thú tại các thời kỳ cho các trò xem. Bây giờ kết thúc ở đây!
Lời nói vừa dứt, lập tức thấy đám đông học sinh đứng lên vội vàng rời khỏi lớp. Giáo sư Cái Tư dọn dẹp một chút rồi cũng đi mất.
Khi Á Văn Tư Đạt Khắc chậm rãi chuyển ánh mắt từ ngoài cửa sổ vào trong lớp thì thấy phòng học chỉ còn lại có không đến 8 người, hắn thầm nghĩ :
- Kết thúc rồi sao, nhanh quá vậy?
Sau khi thu dọn sách vở, hắn cũng rời khỏi lớp học.
Đột nhiên có một đám năm, sáu người đang nghênh ngang đi tới. Bọn chúng chặn đường hắn lại rồi bao vây xung quanh. Trong đám có một gã thiếu niên chừng 15, 16 tuổi, cao khoảng 1m8 nói:
- Á Văn đại thiếu gia, ngươi không mang huyễn thú đến sao?
Á Văn sửng sốt:
-Huyễn thú ư? Huyễn thú nào?
.
Thiếu niên nhìn thấy của bộ dạng của Á Văn như vậy, biết hắn chẳng để lời của y vào tai nên không khỏi thấy bực bội trong lòng.
Cô gái xinh đẹp bên cạnh tỏ vẻ khinh thường xen vào:
- Nạp Khẳng, người ta là Á Văn đại thiếu gia mà, sao có thể để những lời nói của bọn bình dân chúng ta vào trong tai chứ!
Thiếu niên Nạp Khẳng không khỏi cả giận:
-Á Văn, đây là ngươi tự tìm khổ, đừng trách ta.
Nói xong, không kịp để cho Á Văn nói một lời, y lôi hắn và những người khác theo mình, xăm xăm tiến đến một bãi đất trống ven hồ trong học viện. Nạp Khẳng buông Á Văn ra, đứng cách hắn chừng ba bước.
Á Văn trong lòng tràn ngập nghi hoặc. Thiếu niên này tên là Nạp Khẳng Tịch Ngõa, chính là cháu của lão quản gia Bố Lam Tịch Ngõa trong nhà hắn. Nạp Khẳng nhận sự ủy thác từ cha hắn đến Vân Liễu học viên học tập, thuận tiện chiếu cố cho hắn.
Nạp Khẳng có thể nói là hoàn toàn khác biệt so với hắn. Võ thuật của đích thực là cao cường, được sư phụ tán dương là nhân tài hiếm có 10 năm khó gặp. Thân hình cao lớn anh tuấn, cá tính lại hết sức hài hước dí dỏm, trong học viên có thể nói là nhân vật xuất chúng.
Chỉ là chẳng biết vì sao y lại rất thích so sánh mọi điều với Á Văn, từ vũ đấu thuật, thành tích ma pháp, trắc nghiệm,... Mỗi khi y đắc thắng, luôn nhận được sự cổ vũ từ những người bên cạnh, mà thật ra nhìn vào mặt của y cũng thấy rõ được sự đắc ý.
Á Văn nghĩ mãi mà vẫn không hiểu lý do, một lúc lâu sau mới nhớ ra được. Ngày hôm qua, sau kết thúc khóa học, hắn đang trên đường về nhà thì Nạp Khẳng cũng mang theo một đám người bao vây hắn, y nói cái gì đó giống như là về huyễn thú. Bất quá, lúc ấy hắn lại đang mải mê nhìn một loại Thủy Đức huyễn thú thuộc bộ ngư bên trong khe suối ven đường nên không nghe rõ y đã nói cái gì. Chẳng lẽ bây giờ y đang nhắc lại chuyện ngày hôm qua?
Không để cho Á Văn suy nghĩ thêm, Nạp Khẳng đã vươn tay phải, quát khẽ một tiếng:
- Hổ Vương.
Chỉ thấy trên cánh tay phải của y đột nhiên hiện ra một số hoa văn, sau đó những hoa văn này từ từ rơi ra, lộ ra một vật gì đó bằng da màu trắng. Thứ quái quỷ ấy tụ lại trong lòng bàn tay hắn, hợp thành một con vật to cỡ một con mèo, hình dạng và màu lông vàng óng cũng giống như loài mèo .
Á Văn sửng sốt, lẩm bẩm:
- Là huyễn thú tứ giai trung cấp, Hỏa Hổ.
Nạp Khẳng quay về phía Á Văn cười tà dị nói:
- Á Văn thiếu gia, ngươi đã không mang huyễn thú tới thì ta đây mời ngươi giúp ta giám định một phen. Gần đây ta vừa thuần hóa được một con huyễn thú Hổ Vương.
Nói xong, y hét lớn một tiếng:
- Hổ Vương, hỏa diễm xung kích pháo.
Hổ Vương lập tức há miệng, hướng về phía Á Văn. Cổ họng nó từ từ lấp lóe quang mang, một hỏa cầu to cỡ mười phân từ trong miệng Hổ Vương phun ra, bắn thẳng tới đánh trúng ngực Á Văn.
Á Văn kêu lên một tiếng đau đớn, cảm giác như vừa bị một đại thiết chùy cực kỳ nóng bỏng đập vào. Ngực của hắn bị đánh trúng rất mạnh, khiến hắn đứng không vững, lảo đảo lui lại mấy bước rồi quỵ xuống.
Cô gái xinh đẹp trước đó tên Lan Ny Đặc Liệt Sĩ khinh thường nói:
- Các ngươi nhìn mà xem, người của Tư Đạt Khắc ngay cả một chiêu “hỏa diễm xung kích pháo” mà cũng không đỡ nổi.
Cơn đau trước ngực Á Văn dịu đi, hắn ngẩng đầu lên, uất ức nói:
- Tại sao? Tại sao các ngươi hết lần này đến lần khác tìm ta làm phiền? Ta đã đắc tội gì với các ngươi?
Phía bên phải một thiếu niên hơi mập bước đến, y tên là Y Liêm Lam Bang. Y nói giọng điệu cực kỳ kinh thường:
- Ai bảo ngươi là một quý tộc mà lại vô dụng như vậy! Bình thường, những người bình dân chúng ta đã nhận không ít sự lăng nhục của quý tộc các ngươi. Đây chỉ cũng chỉ là lấy lại một chút công bằng từ trên người ngươi thôi!
Đúng vậy! Trên thế gian này, sức mạnh đúng là cần nhất. Là bình dân cũng tốt, quý tộc cũng tốt, hoàng tộc cũng thế, sức mạnh vẫn luôn là cần nhất.
Mà huyễn thú đại biểu cho sức mạnh, cũng bởi vậy mà hoàng tộc và quý tộc sở dĩ cao quý hơn lớp tầng lớp bình dân là vì bọn họ sở hữu huyễn thú cường đại, cho nên sức mạnh của họ mới cường đại. Còn như Á Văn Tư Đạt Khắc – không có huyễn thú, không có sức mạnh, trong khi bọn người bình thường kia lại có, bởi vậy hắn chỉ có thể chịu sự sỉ nhục của bọn chúng.
Những lời Y Liêm nói làm Á Văn trầm mặc. Hắn thầm hận chính mình vì sao lại không có sức mạnh, chỉ đành trơ mắt nhìn bản thân bị người khác lăng nhục, rồi nhẫn nhục bỏ đi trong tiếng cười nhạo của bọn người Nạp Khẳng sau lưng.
Dịch giả: Linhlan
Biên dịch: A Anh
Nguồn: TTV - Thiên Hạ Hội
Ở Hoa Na Bang công quốc, nói về đương kim thủ tướng có thể có người không biết, hội trưởng nghị hội công quốc hiện tại là người thứ mấy, họ tên là gì, có khả năng có người không hiểu, nhưng nếu nói về gia tộc Tư Đạt Khắc thì mỗi người dân của công quốc đều giơ ngón tay cái lên khen ngợi: Đích thật là một nhà anh hùng hảo hán!
Bốn mươi chín năm trước tại Thiểm Tây Quan, chỉ dựa vào một đội quân 1000 người đã kháng cự lại quân đội 10.000 người của Thái Long đế quốc, bảo vệ hơn phân nửa đất thuộc phía Nam công quốc trong mười bảy ngày. Chỉ huy đội quân đó là một tiểu tướng tiên phong tên Hàn La Tư Đạt Khắc, năm đó chỉ mới 20 tuổi.
Hai mươi năm trước tại trận chiến ở Bích Ba đại thảo nguyên, khi chiến tình đang lâm vào thế bí, đương nhiệm chức chỉ huy dịch quân lúc đó là Hàn La Tư Đạt Khắc đã chống lại mệnh lệnh cố thủ của quan chỉ huy quân, để con trai của mình năm ấy mới 21 tuổi là Ngự Lai Tư Đạt Khắc làm đội trưởng đội cảm tử xông đến tấn công hậu quân bổn doanh của địch quân Thái Long đế quốc. Ngự Lai đã chém được thủ cấp của Hoàn Long, danh tướng nổi tiếng và là quan tổng chỉ huy của Thái Long đế quốc. Sau trận chiến này, Hàn La được thăng lên làm phó chỉ huy của lục quân công quốc, Ngự Lai trở thành thống lĩnh của một vạn kỵ trưởng trẻ nhất trong lịch sử công quốc.
Mười năm trước trong loạn cung đình, lúc bấy giờ là do Lý Bá Đặc từ Khải Đốn đế quốc đến yết kiến quốc vương công quốc chỉ huy phản loạn, kết quả đã bị phụ tử Hàn La, Ngự Lai cùng trưởng tôn Á Hoa, thứ tôn Á Húc cũng đang tấn kiến quốc vương liên hợp tiêu diệt phần tử phản kháng hơn 130 người. Mỗi một tên phản loạn này một người có thể địch lại cả trăm hảo thủ, không ngờ được đã bị bốn người bọn họ giết sạch, đặc biệt trong đó có hai người mới 15, 16 tuổi. Sau trận này, công quốc tam đại chỉ huy đã có một vị tổng chỉ huy trưởng, tất nhiên là do Hàn La nhậm chức. Chức chỉ huy lục quân quân đoàn đang để trống do Ngự Lại đảm nhận, hai người con của Ngự Lai thì giữ chức vị chánh, phó thống lĩnh một ngàn kỵ trưởng.
Năm năm trước, thương cảng A Bá Khắc bị một tập đoàn cướp biển dùng thú huyễn giáp công kích, quân bảo vệ ở đó đã bị tiêu diệt sạch chỉ trong một đêm. Nhưng đến khi chạm trán với Á Hoa, Á Húc và tam đệ Á Nhược đang nghỉ phép, kết quả là chỉ 3 người thanh niên tuổi bình quân hai mươi, 3 chọi 500, trải qua một đêm kịch chiến, 500 tên cướp đã bị tiêu diệt. Đương nhiên, ba anh em lập tức được ca ngợi là anh hùng, Á Nhược vì thế một bước lên trời, đảm nhiệm năm trăm kỵ trưởng.
So với cha anh tài hoa xuất chúng, biểu hiện của con út là Á Văn Tư Đạt Khắc không đáng kể. Hắn kỳ thật không có gì xấu, mọi thứ đều giống như một thiếu niên 15 tuổi bình thường khác. Hắn không có tài năng kinh người, biểu hiện xuất sắc, tu vi võ thuật bình thường, ma đạo tu luyện cũng bình thường. Nói tóm lại, hắn chỉ là một thiếu niên bình thường có thể tuỳ tiện tóm được ở bất cứ đâu trên đường phố lớn.
Nếu như đem hắn so sánh cha anh sáng chói thì chắc chắn là mọi người thất vọng lớn. Nhưng nếu chỉ như vậy thì cũng còn đỡ, đằng này lúc hắn khoảng 10 tuổi, quốc vương công quốc Đức Dã Vương lại tưởng rằng cậu con trai bé nhất của nhà Tư Đạt Khắc chắc hẳn là phải có tài năng đặc biệt, vì thế ông đặc biệt phá lệ tiến hành một cuộc trắc nghiệm đối cậu bé Á Văn 10 tuổi. Tưởng đâu sẽ là một phát hiện kinh nhân, nào ngờ lại là thất vọng lớn. Á Văn ở các phương diện đều rất bình thường, duy nhất có một thứ làm người ta kinh ngạc, đó là chỉ số ổn định tinh thần của hắn còn chưa bằng một nửa chỉ số thấp nhất của thường nhân (*). Điều đó có nghĩa là hắn không có khả năng sở hữu dù chỉ là thú linh cụ cơ bản nhất để phụ trợ. Hắn so với người bình thường còn kém hơn, thậm chí còn xuống hàng nô lệ cấp thấp nữa (**).
Cả nhà toàn hào kiệt như Tư Đạt Khắc gia lại xuất hiện một người như Á Văn, làm sao không khỏi khiến mọi người thất vọng?
Mặc dù như thế, cha hắn vẫn vận dụng sự ảnh hưởng của mình đưa Á Văn đến nhập học tại Vân Liễu học viện. Thế nhưng, đã ba năm đã trôi qua mà tình thế của Á Văn không hề cải biến, ngược lại mỗi năm một lần trắc nghiệm, tinh thần năng lực đều đi xuống, hiện tại chưa được năm phần của người bình thường. Tin đồn Tư Đạt Khắc gia có cậu con trai kém tài không chân mà chạy, lan rộng khắp cả Nguyên Thự thành.
Nhìn cánh cửa lạnh ngắt của phủ công tước Tư Đạt Khắc, thỉnh thoảng Á Văn vẫn cảm thấy ngưỡng mộ những gia đình bình thường, một nhà mấy người, tuy cuộc sống khó khăn nhưng vẫn tràn đầy ấm áp. Không phải là do cha anh đối đãi không tốt, ngược lại họ đối với hắn còn tốt đến không thể phàn nàn, nhưng bản thân họ nhiều năm phải sống ở bên ngoài, thời gian ở cùng nhau quá ít . Bởi vậy, đối với hắn mà nói, phủ công tước hào mĩ nhìn thì to lớn nhưng lạnh lẽo.
Khi hắn đẩy cửa tiến vào trong đại sảnh, lão quản gia Bố Lan Tịch Ngoã đang đi tới, nhìn thấy hắn lập kêu lên:
- Thiếu gia, ta nghe Nạp Khẳng nói người hôm nay có việc, khả năng đến tối mới về. Người có bận việc gì cũng phải chú ý đến thời gian chứ. Ta nghĩ ngài nhất định chưa ăn cơm, để ta lập tức gọi người mang bữa ăn tối đến phòng.
Nói xong, không cho Á Văn cự tuyệt liền đi ngay.
Nhìn theo bóng lưng quản gia, Á Văn không thể không mỉm cười. Một lão già tốt bụng, đối với mỗi người trong gia tộc đều quan tâm như nhau. Á Văn về phòng đến mình thì đã thấy trên bàn đầy thức ăn, hắn ăn uống qua loa rồi kêu người dọn đi.
Sau khi người hầu rời khỏi phòng, Á Văn lấy từ trong một ngăn ngầm của tủ quần áo ra một cái hộp gỗ khoảng 30 cm. Hắn giải khoá mật trên hộp, mở nắp ra. Bên trong hộp bọc bằng vải nhung, chính giữa có một quả trứng huyễn thú đặc biệt, to bằng nắm tay. Quả trứng quái thú này bề mặt xuất hiện sắc trắng ngà, trơn bóng như trân châu, dưới ánh trăng lờ mờ thấp thoáng hiện lên những hoa văn kỳ dị màu bạc. Hắn tình cờ phát hiện được quả trứng huyễn thú này, dưới ánh trăng nổi lên hoa văn màu bạc, dưới ánh mặt trời nổi lên hoa văn màu vàng.
Chuyện quả trứng huyễn thú này vào tay hắn thập phần khúc triết, là do cữu cữu của hắn gửi cho. Năm mười tuổi, sau khi hoàng đế công quốc kiểm tra phát hiện chỉ số tinh thần của hắn quá thấp, cả nhà đều không có cách gì tiếp nhận nổi. Tuy lúc ấy tuổi hắn còn nhỏ, nhưng hắn biết cuộc đời mình đã bị phán ra kết cục. Trong lúc Á Văn đang rất thất vọng thì cữu cữu của hắn – một quái nhân theo lời phụ thân Á Văn - đến thăm. Nghe xong việc này, cữu cữu đã không kìm được cơn giận dữ, cho đến giờ Á Văn vẫn còn nhớ cách ông ấy đã mắng hắn:
- Không có huyễn thú thì sống để làm gì? Có sống cũng như chết mà thôi.
Tuy nhiên, dù đối xử như thế, nhưng cách ngày cữu cữu lại gửi cho hắn một quả trứng huyễn thú, sau đó còn nói với hắn:
- Đây là một quả trứng thánh huyễn thú, nếu như có thể làm cho quả trứng này nở ra thì sẽ không ai dám khinh thị cháu nữa.
Lúc đó hắn vì có được quả trứng mỹ lệ này mà cao hứng vô cùng, nhất tâm nhất trí nghĩ cách mau chóng làm nó nở ra. (***)
Bất quá hiện giờ hắn cũng đã hiểu rõ, cữu cữu chỉ là muốn an ủi, không để hắn quá thương tâm mà thôi. Một năm trước đây, hắn đã tìm ra cái “hiệp hội bán huyễn thú” vừa to vừa thần bí theo lời cữu cữu nói, kỳ thật chỉ là một tiệm bán trứng huyễn thú nhỏ xơ xác rách rưới nằm ở một góc khuất bên trên đường số 2.
Khi hắn cầm quả trứng huyễn thú đến tìm lão bản, rất hiển nhiên, lão bản đối với trứng huyễn thú ấn tượng rất sâu sắc. Lão chỉ cần nhìn qua quả trứng trong tay hắn đã lậo tức cười hê hê nói:
- Quả trứng này là tổ phụ của ta có được trong một lần cùng tám người bạn đồng hành đến thám hiểm tại một di tích cổ ở rất xa. Vì chẳng tìm được gì nên những người đi cùng đều thất vọng bỏ về, chỉ có tổ phụ không bỏ cuộc cố gắng tìm lại lần nữa. Rốt cuộc tìm được quả trứng này nằm ở một góc khuất trên mặt đất, đại khái là của một con huyễn thú nào đi ngang đẻ ra, ông liền tiện tay bọc lại đem về trưng bày ở cửa hàng. Từ đời tổ phụ cho đến đời ta, hết người này đến người khác đến mua nhưng rồi họ quay lại trả, nguyên nhân là vì nó căn bản không thể nở.
Sau đó ta cũng đã từng nhờ tìm người kiểm tra lại, phát hiện ra nó không hề có dấu tích hoạt động bên trong, quả trứng này căn bản là đã “chết” rồi. Tuy vậy, quả trứng nhìn còn rất đẹp nên từ đó ta để ở trong tiệm trang trí, đằng nào mỗi tiệm bán huyễn thú chẳng phải có một quả trứng đáng mặt là trứng huyễn thú trong truyền thuyết.
Năm năm truớc có một người đàn ông trung niên trông rất quái dị đến đây, hắn nói cần mua một quả trứng huyễn thú trong truyền thuyết, vì thế ta đã bán quả trứng cho người đó.
Lão bản hỏi ra người đó là cữu cữu của Á Văn, liền cười hi hi đưa sổ ra cho hắn xem rồi nói:
- Tốt quá rồi, cữu cữu của ngươi thiếu ta tổng cộng 50 công quốc kim tệ, cần Á Văn đến trả.
Á Văn nhảy dựng hét lên:
- 50 kim tiền, ngươi ăn thịt người chắc! Nó đắt đến nỗi có thể đủ cho cả nhà bốn miệng ăn trong nửa năm đó! Ngươi đã bán quả trứng này bao nhiêu?
Lão bản cười đắc ý:
- Không đắt, không đắt đâu, chỉ 200 kim tiền thôi mà. Quả trứng quái thú trong truyền thuyết cũng phải có một chút giá trị chứ.
Á Văn dở khóc dở cười, đang mở miệng định hỏi lão bản xem có trả hàng được không thì lão bản đã đi trước một bước, chỉ một cái bảng nhỏ trên tường bên tay phải. Trên đó có viết: ”Hàng đã ra ngoài không được trả lại.” Á Văn đành phải nghiến răng lấy tiền tiêu vặt hai năm liền của hắn ra trả.
Nhìn quả trứng huyễn thú trong tay, hắn bất giác hồi tưởng lại những việc xảy ra lúc trước. Hiện giờ, tuy mọi kỳ vọng về trứng huyễn thú trong truyền thuyết đã bị tiêu tan, nhưng Á Văn giữ thói quen mỗi đêm trước khi đi ngủ dùng hơi ấm cơ thể để ấp nó, cùng nó trò chuyện.
Đêm nay, những nỗi cam chịu dồn nén bấy lâu trong tim hắn bùng phát, khiến hắn gần như phát điên lên. Trong lúc Á Văn đang cố gắng dùng phương pháp thường ngày để giải trừ những xung động trong lòng thì đột nhiên quả trứng quái thú trong tay lại truyền lại một trận dị dạng. Nhiệt độ của nó tăng cao dị thường, gần như muốn phỏng cả tay, hơn nữa bên trong lại ẩn ước như có một thứ gì đó đang động đậy. Năm năm rồi, quả trứng huyễn thú bị đánh giá là đã chết nay lại phát sinh dị biến, làm Á Văn trong lòng vừa kinh ngạc vừa vui mừng.
Trong sự hồi hộp chờ đợi của hắn, vỏ trứng vốn nhẵn nhụi bỗng đã xuất hiện vài vết nứt. Những vết nứt này càng ngày càng to, một mùi rất lạ, không biết là thơm hay là thối bắt đầu phun ra, toả khắp cả gian phòng, hơi giống với mùi rỉ sắt nhưng rất nhạt. Tiếp đó, một cái đầu to khoảng hạt long nhãn nhô ra ngoài, trông rất giống với một cái đầu sói lông xù, sau đó thì một thân hình huyễn thú chỉ to cỡ bằng một nắm tay cũng lộ hết ra ngoài.
Cảm giác đầu tiên của Á Văn là: ”nhỏ quá, thật dễ thương!”
Bốn cái chân ngắn mũm mĩm, toàn thân huyễn thú bao phủ một lớp lông màu trắng bạc. Thân người nó vẫn còn bị dính ướt bởi dung dịch nhơn nhớt nên lông bị dính cục lại, trông giống như những hạt trân châu. Tiểu huyễn thú thuộc loài mao thú bốn chân này nhìn Á Văn một cái, le cái đầu lưỡi nhỏ ra liếm ngón tay cái của hắn rồi phát ra thanh âm nghe như tiếng muỗi kêu, sau đó nó bắt đầu ăn vỏ trứng. Á Văn phát hiện ra động tác ăn của con thú nhỏ này rất nhanh, chỉ một loáng sau cái vỏ trứng bằng thể tích của nó đã bị ăn sạch bong. Á Văn nhìn nó ợ một cái dễ thương, duỗi người thoải mái nằm trong bàn tay hắn thì không nhịn được cười.
Cơn tức giận buồn bã vừa nãy của hắn không biết đã tan biến đâu mất, đến lúc này hắn mới phát hiện ra không khí trong phòng đã biến thành mùi chua thối nát. Á Văn vội vàng mang tiểu huyễn thú mới sinh đến phòng tắm rửa cho mình và cả con thú. Hắn phát hiện tiểu huyễn thú này khắp người đều có lông rất dài và dày, hơn nữa dưới ánh trăng lại lấp lánh ánh bạc, còn dưới ánh nến lại là màu trắng, thay đổi màu sắc giống hệt như lúc còn là quả trứng. Hắc bất chợt nghĩ, không biết dưới ánh mặt trời thì có phải sẽ chuyển sang màu vàng hay không?
(*) Chú 1: người có tinh thần chỉ số thấp đại biểu cho tính ổn định của tinh thần không tốt, mất năng lực khống chế bản thân, dễ thành quái thai hay người điên trong mắt người khác. Để khống chế huyễn thú, điều trọng yếu nhất chính là tính ổn định của tinh thần. Pháp luật của công quốc quy định: người nào chỉ số tinh thần lớn hơn 200 có thể sử dụng loại huyễn thú vũ đấu khải giáp hoặc huyễn thú ma đạo trang giáp, khoảng 120 ->200 có thể sử dụng loại linh cụ huyễn thú . Bất quá đó chỉ là đại khái, hiện tại chỉ cần có tiền có thế, dù năng lực không đủ cũng có thể thành chủ nhân của huyễn thú cấp cao.
(**) Chú 2: chỉ số tinh thần của người bình thường khoảng từ 180-290. Huyễn thú cấp càng cao thì cần chỉ số càng cao.
(***) Chú 3: Trừ phi có tiền, có thế thì có thể mua được những huyễn thú đã được bồi dưỡng đặc biệt, còn bình thường ngoại trừ những bá tánh bình dân ra, quốc gia sẽ cấp miễn phí những huyễn thú tầng thấp để bồi dưỡng. Nếu như huyễn thú vì đến tuổi thọ mà chết đi thì sẽ không khó khăn gì tìm ra một huyễn thú khác, thậm chí cá biệt còn có người đánh đuổi huyễn thú đi xa.
Dịch giả: Linhlan
Biên dịch: A Anh
Nguồn: TTV - Thiên Hạ Hội
Tại một góc trong Vân Liễu học viện, Á Văn gấp quyển sách trên tay lại. Ba ngày nay hắn đã tra cứu bảy mươi lăm quyển sách, cũng là quyển sách cuối cùng trong thư viện có liên quan đến huyễn thú.
Từ sau khi trứng huyễn thú nở, Á Văn bắt đầu tra cứu xem rốt cuộc huyễn thú này thuộc loại gì. Nhưng mặc dù hắn đã tra cứu tất cả các bộ sách có liên quan, vẫn không tìm thấy bất kỳ tư liệu gì đề cập đến tiểu huyễn thú này, chẳng biết nó thuộc loại gì, cũng không biết thuộc tính ra sao.
Khốn khiếp!
Á Văn bực dọc hừ một tiếng. Hiện tại, hắn thậm chí còn không biết nuôi dưỡng nó như thế nào nữa. Cậu ấm kia đang thoải mái ngủ ở một góc bàn, ánh mặt trời sau ngọ chiếu lên trên người nó tỏa ra ánh vàng kim lấp lánh.
Á Văn dùng ngón tay vuốt nhẹ trên bộ lông mềm mại của nó, thở dài một hơi, thầm nghĩ:
- Nhóc à, xem ngươi ngủ thoải mái chưa kìa. Ta thật đã phải vì ngươi mà vắt óc mấy ngày hôm nay để tìm hiểu các loại thức ăn mà ngươi ăn. Vậy mà tìm mãi vẫn không có thông tin, rốt cuộc thì ngươi muốn ăn cái gì đây?
Cảm giác được sự vuốt ve của Á Văn, tiểu huyễn thú hắt xì một cái rồi tỉnh dậy. Nó đi đến chỗ Á Văn, ngước nhìn hắn rồi hếch mũi lên hít một cái, sau đó đột ngột nhẹ nhàng nhảy về phía trước, tọt vào bên trong túi của Á Văn. Chỉ một lát sau, một loạt thanh âm truyền đến khiến Á Văn há hốc miệng sửng sốt cả người. Nó đã chén sạch năng lượng thạch (*) mà hôm nay Á Văn vừa mua. Đây là Á Văn mua về nhà vì ngày mai giáo sư Cái Tư sẽ giảng giải làm cách nào để huyễn thú hấp thu năng lượng, gia tăng năng lượng trong thời kì trưởng thành. Không ngờ rằng rằng tiểu tử kia đã trực tiếp ăn nó, điều này quả thực từ trước tới giờ chưa từng nghe qua!
Á Văn trợn mắt nhìn nó đã ăn hết sạch trơn cả khối năng lượng thạch mà có vẻ vẫn còn thòm thèm muốn ăn nữa. Nó nhảy lên vai hắn, cọ vào má hắn, uốn éo.Hắn nhìn thân hình nhỏ bé của nó mà như nhìn quái vật. Rốt cuộc thứ nó đã ăn đi đâu hết, mà lại còn muốn thêm nữa chứ?
Á Văn tóm lấy tiểu tử kia từ trên vai xuống, đặt nó trên tay, nói:
- Nhìn ngươi tham ăn như vậy, ngoại hình lại tựa như sói, tốt lắm, ta gọi ngươi là Tham Lang Tinh.
Tham Lang Tinh phảng phất biết Á Văn đặt tên cho nó, liền phát ra một tiếng sói tru, nhưng không thê lương như tiếng sói tru bình thường mà chia ra làm nhiều âm lượng, cũng khá dễ nghe.
Á Văn thu dọn một chút rồi mang theo Tham Lang Tinh định rời khỏi thư viện thì đột nhiên gặp lại phía trước một đám người đi đến, chặn trước một bước. Hắn thầm nghĩ:
- Đúng thật là oan gia ngõ hẹp mà.
Nguyên lai nhóm người đến chính là bọn người Nạp Khẳng. Nạp Khẳng cũng vừa nhìn thấy Á Văn, trông thấy Tham Lang Tinh trên tay Á Văn lại càng ngẩn ngơ. Y ngay lập tức một một nụ cười cổ quái, làm cho Á Văn không khỏi sợ hãi trong lòng.
Nạp Khẳng cười tà dị nói:
- Á Văn thiếu gia, ngươi cũng đến thư viện sao?
Á Văn lạnh lùng đáp:
- Các ngươi có thể đến, đương nhiên ta cũng có thể!
- Đây là huyễn thú của ngươi à?
Nạp Khẳng chỉ vào Tham Lang Tinh trong tay Á Văn hỏi.
Á Văn gật đầu không đáp, trong lòng âm thầm phiền muộn. Hắn vẫn còn nhớ chuyện của ba ngày trước.
Đúng như hắn nghĩ, Nạp Khẳng nói:
- Hôm nay vừa vặn có thể tiếp tục chuyện của ba ngày trước.
Nói xong, không để cho Á Văn cự tuyệt, một đám người đã kéo lấy Á Văn lôi ra ngoài mặc cho hắn vùng vẫy kháng cự. Á Văn người nhỏ gầy, căn bản khó mà chống lại được nên bị bọn họ vừa đẩy vừa kéo dẫn ra ngoài.
Thư viện tọa lạc tại phía Đông của Vân Liễu học viện. Đó là một tòa kiến trúc bằng đá, tạo thành một khối lập phương. Hai bên hông cả trong lẫn ngoài đều là phù điêu khắc một số đồ án và những văn tự lạ, nghe nói đây chính là loại văn tự thời viễn cổ, bây giờ hầu như không còn ai có thể hiểu được. Bề ngang tòa nhà khoảng ba mươi thước, cao bảy thước, bên trong phân ra làm hai tầng. Bên trái Vân Liễu học viện là một cái hồ nhỏ, phía trước là quảng trường ước chừng 700 thước vuông, là nơi dùng để cử hành các nghi lễ trọng đại, bình thường tuyệt không có người nào lui tới. Bên trái và phía sau là một rừng rậm.
Đám người Nạp Khẳng dẫn theo Á Văn đi về phía rừng cây bên trái thư viện, tìm một bãi đất trống ước chừng năm thước vuông, những người khác toàn bộ vây quanh bốn phía, tại khu đất trống chỉ còn lại Nạp Khẳng và Á Văn.
Nạp Khẳng vươn tay phải xuất ra huyễn thú Hổ Vương, quay về phía Á Văn nói:
- Chúng ta chỉ là tỷ thí hình thái lực của huyễn thú, xem huyễn thú của ai mạnh hơn. Làm như vậy để ngươi khỏi nói là ta đã chiếm phần tiện nghi.
Á Văn biết huyễn thú thông thường có ba loại hình thái: Hình thái thứ nhất cực kỳ nguyên thủy, hình dáng bình thường. Hình thái thứ hai là loại không có hình dáng cố định, phụ thuộc vào chủ nhân, cung cấp cho chủ nhân một lực công kích cũng như lực phòng hộ nhất định, nhưng tuyệt nhiên không ảnh hưởng đến ngoại hình và hành động của chủ nhân. Lẽ dĩ nhiên, Hổ Vương chính là hình thái phụ thuộc trên cánh tay của Nạp Khẳng. Hình thái thứ ba hoàn toàn hoàn chỉnh, là hình thái mà chỉ khi huyễn thú tiến vào thời kì thành thục mới có.Huyễn thú khi ấy lực phòng hộ toàn thân bên ngoài đạt trên 70%, cung cấp cho chủ nhân toàn bộ năng lực của mình, đặc biệt gọi là giáp hay trang giáp.
Huyễn thú mỗi một giai đoạn phát triển thì trên người sẽ có những thay đổi đáng kể, cho dù là hình thái yếu nhất cũng có thể thấy được sự khác biệt trong độ thuần thục của huyễn thú.
Bởi vậy, Nạp Khẳng ngoài miệng thì lời nói ngon ngọt, nhưng trên thực tế nhìn vào, huyễn thú Hổ Vương của y đang tiến vào thời kì trưởng thành đối chọi với Tham Lang Tinh còn trong giai đoạn ấu thơ, kết quả căn bản không cần so sánh cũng biết.
Nhưng giờ phút này như cung đã căng, không thể không bắn.
Hổ Vương dưới sự chỉ huy của Nạp Khẳng, phát ra một tiếng gầm thật lớn, tuyệt không giống với vóc người nhỏ bé của nó, rồi dùng sức nhảy vọt tới.
Ngay khi Á Văn còn chưa lấy lại tinh thần sau tiếng hổ gầm thì Tham Lang Tinh đã từ bàn tay hắn nhảy xuống mặt đất.
Á Văn kinh hãi thất sắc, kinh hô một tiếng:
-Nguy rồi!
Hắn ngẩng đầu lên, trông thấy Nạp Khẳng đang hai tay nắm chặt, ngón trỏ, ngón cái duỗi thẳng đứng, chỉ vào trán mình, hai mắt chăm chăm vào trận đấu giữa Tham Lang Tinh và Hổ Vương.Trong miệng y thì thầm niệm:
- Đến phía trước, cào nó, đánh vào đầu, xé ra...
Phảng phất tâm ý tương thông, Hổ Vương theo lời Nạp Khẳng chỉ đạo, động tác thể hiện giống hệt.
Á Văn tâm thần càng sầu não.Đây là huyễn thú và chủ nhân dù cách xa nhưng vẫn có thể liên lạc bằng phương pháp "tâm linh tương thông khoảng cách xa".
Bình thường sau khi huyễn thú tiến vào thời kì thành thục, có khả năng nghe hiểu tiếng người, nhưng một khi chủ nhân và huyễn thú tách ra, chủ nhân có thể lợi dụng phương pháp này để chỉ huy huyễn thú hành động từ khoảng cách xa hoặc triệu hồi huyễn thú đến bên người. Nạp Khẳng chính là đang lợi dụng phương pháp này, một phần do hiện tại Hổ Vương còn quá nhỏ, không thể nghe hiểu tiếng người, trực tiếp nhận sự chỉ huy của hắn. Mặt khác là hắn đang dùng Tham Lang Tinh làm mục tiêu, huấn luyện khả năng chỉ huy của mình đối với Hổ Vương, làm việc này chứng tỏ hắn có sự tự tin rất lớn. Ai cũng đều biết rằng khi sử dụng phương pháp "tâm linh tương thông khoảng cách xa", khi đó chủ nhân và huyễn thú sẽ hình thành trạng thái cộng sinh, nếu trong đó có một bên bị thương thì bên còn lại cũng sẽ chịu thương tổn y như vậy.
Nạp Khẳng này rõ ràng là muốn nói cho Á Văn biết, hắn tuyệt đối sẽ không để cho Hổ Vương bị thương.
Quả nhiên, chỉ trong chốc lát, Tham Lang Tinh dưới sự công kích của Hổ Vương, toàn thân đầy vết thương, nhụt chí đến cực điểm. Ngược lại, Hổ Vương toàn thân không chút thương tích, dưới sự chỉ huy của Nạp Khẳng, ngày càng hung mãnh công kích Tham Lang Tinh.
Tham Lang Tinh còn quá nhỏ, nó không hiểu thái độ được thái độ khẩn trương lo lắng của Á Văn. Mọi thứ trên đời đều mới lạ với nó. Từ lúc ra đời đến nay, nó chỉ duy nhất tiếp xúc với loài người, nó biết nó thuộc về Á Văn. Hắn làm cho nó có cảm giác thập phần ấm áp, nên nó cam tâm tình nguyện đi theo hắn.
Nó thật không nghĩ tới lần đầu tiên gặp mặt được đồng loại, đang lúc nó vui vẻ chào hỏi thì đồng loại lại không ngừng đánh nó, cắn nó, bầm dập đau đớn. Nó căn bản chẳng biết đã xảy ra chuyện gì. Nó đau quá, tại sao Á Văn không giúp nó?
Phảng phất nghe thấy được Tham Lang Tinh nói, Á Văn không kìm được hét lớn:
-Nạp Khẳng dừng tay, ta nhận thua, mau dừng tay.
Vừa kêu Á Văn vừa chạy rất nhanh về phía trận đấu. Cả người Tham Lang Tinh nhuốm đầy máu dưới sự công kích của Hổ Vương.
Chỉ còn một vài bước là có thể ôm Tham Lang Tinh vào lòng, đột nhiên một cỗ lực lượng cực lạnh từ bên trái đánh trúng vào vai trái hắn. Á Văn kêu to một tiếng, bị cỗ lực lượng này hất văng ra ngoài hai, ba thước.
Hắn quay đầu lại, trông thấy trên tay Lan Ny đang nâng một huyễn thú Lý Ngư màu xanh nhạt hình dáng tương tự Hổ Vương.
Trong đầu hắn chợt hiện lên ý nghĩ: "Thì ra là Lan Ny cũng có huyễn thú." Hắn nghĩ tới đó, đột nhiên trong đầu cảm thấy mơ hồ, rồi ngã vật ra bất tỉnh nhân sự.
Chẳng biết qua bao lâu, nghe được tiếng kêu khóc văng vẳng bên tai, Á Văn mơ màng tỉnh lại. Hắn hé mắt ra nhìn, đập vào là khuôn mặt già nua chứa đựng sự quan tâm sâu sắc của lão quản gia Bố Lam.
Bố Lam vẻ mặt lo lắng nhìn Á Văn, nói:
-Thiếu gia, sao cậu lại cùng người khác quyết đấu huyễn thú mà không cho ai biết? May mắn là Nạp Khẳng đi ngang qua, bằng không chẳng biết khi nào mới có thể phát hiện ra cậu.
Á Văn quay đầu nhìn Nạp Khẳng đang đứng cạnh bên người Bố Lam, thấy y đang dương dương đắc ý nhìn hắn. Xem ra y hoàn toàn không hề sợ Á Văn sẽ nói sự thực cho Bố Lam biết.
Từ trước tới nay, lần đầu tiên trong lòng Á Văn nổi lên hận ý ngập trời, hắn cắn răng nói:
- Bố Lam, người cứ về trước nghỉ ngơi! Ta vẫn ổn.
Bố Lam lắc đầu thở dài:
-Thiếu gia, người phải cẩn thận đấy, nếu có chuyện gì thì cứ gọi ta hoặc Nạp Khẳng.
Sau khi Bố Lam đi ra ngoài, Nạp Khẳng đi tới trước, đối diện Á Văn. Y cười tà dị nói:
- Đa tạ thiếu gia hạ thủ lưu tình, đây là huyễn thú của ngươi.
Nói xong, y lấy từ sau lưng ra một hộp nhỏ giao cho Á Văn, sau đó dương dương đắc ý đi ra ngoài.
Á Văn mở chiếc hộp nhìn vào, Tham Lang Tinh hơi thở yếu ớt nằm ở trong hộp. Nó trông thấy Á Văn, phát ra một tiếng kêu yếu ớt không thể nghe thành tiếng.
Á Văn cẩn thận bế nó lên an ủi:
- Tham Lang Tinh, ngươi đừng sợ, ta nhất định sẽ bảo vệ ngươi.
Nói xong, hắn lập tức vào phòng y dược, lấy một lượng lớn các viên năng lượng, các loại thuộc tính phong, hỏa, thủy, thổ, thậm chí ngay cả thuộc tính hiếm thấy là quang, ám đều có. Sau khi liên tiếp phục dược cho Tham Lang Tinh, tâm thần Á Văn bắt đầu hoảng hốt, bởi vì tuyệt không có một loại ma năng thạch (**) thuộc tính nào có tác dụng trên người Tham Lang Tinh, chữa lành vết thương nó.
Nhìn Tham Lang Tinh càng ngày càng suy yếu, Á Văn không kìm chế được, nằm lăn ra giường khóc vùi một trận. Từ khi 10 tuổi đến giờ, Á Văn chưa bao giờ khóc quá nhiều như thế. Lúc này đây hắn khóc, bởi vì Tham Lang Tinh đối với hắn mà nói, nó không chỉ đơn giản là huyễn thú mà chính lý tưởng của hắn. Nó ký thác tâm linh cho hắn, và là bằng hữu duy nhất của Á Văn, cho dù chỉ mới ở chung với nhau ba ngày.
Á Văn khóc không biết bao lâu, đột nhiên hắn cảm thấy trên mặt hơi ấm áp, nguyên lai là Tham Lang Tinh chẳng biết từ khi nào ngọ ngoạy trước mặt hắn, đang dùng đầu lưỡi liếm nước mắt hắn.
Á Văn nhìn của bộ dạng nó mà đau xót trong lòng. Hắn cắn răng nói:
-Tham Lang Tinh, ngươi chờ nhé, ta nhất định giúp ngươi.
Nói xong bế nó lên, ngồi khép hai chân lại, hai tay duỗi thẳng, đặt Tham Lang Tinh trong lòng. Hai mắt hắn khép hờ, tập trung tinh thần tại song chưởng, miệng thì thầm:
- Hôm nay dưới sự chứng kiến, cùng với dũng khí, trí tuệ, một thân sinh vật cường đại và xinh đẹp, huyễn thú! Mời ngươi với linh tính sâu rộng, nghe những lời ta nói, ta -- Á Văn Tư Đạt Khắc -- cùng ngươi trích huyết minh ước kết minh suốt đời, đời này duy có ngươi cùng ta cả đời là bạn bè, khế.
Sau khi niệm xong, chỉ thấy Á Văn cả người phát ra bạch quang. Quang mang càng ngày càng mãnh liệt, sau đó tập trung tại song chưởng và lông mày hắn.
Tham Lang Tinh ở giữa bạch quang bao bọc hiển lộ vẻ thập phần thống khổ. Bạch quang hữu hình vô chất, nhưng lại tựa như những cây trường châm bén nhọn không ngừng đi vào miệng vết thương, làm cho nó phát ra tiếng kêu rên thống khổ.
Ngay sau đó, bạch quang tập trung tại lông mày Á Văn hóa thành một cột sáng màu trắng hướng về phía Tham Lang Tinh. Giữa một người một thú hình thành một cột ánh sáng đẹp mắt.Thông qua cột sáng này, Á Văn biểu đạt tư tưởng mình tới Tham Lang Tinh.
Một cảm giác ấm áp không thể biểu đạt bằng ngôn ngữ quanh quẩn trong lòng Tham Lang Tinh. Nó không sao có thể khắc chế được cảm giác này.Đồng thời, đau đớn kịch liệt những tưởng không thể chịu nổi trên người dần dần biến mất, thay vào đó là cảm giác thoải mái khiến toàn thân nóng lên, hơn nữa, cũng bắt đầu cảm thấy trên thân có chút khí lực.
Phảng phất biết hết thảy việc này đều là đến từ Á Văn trước mắt, Tham Lang Tinh thân mật liếm vào lòng bàn tay Á Văn.
Á Văn khẽ mỉm cười, ngưng thần một lần nữa. Bạch quang chói sáng từ lông mày hắn bắn mạnh ra.Lúc này nếu có người bên ngoài ở đây, tất sẽ trông thấy một cảnh tượng rất đặc sắc.Từ lông mày Á Văn và hai tay phát ra bạch quang, khi tiến đến trên người Tham Lang Tinh thì phảng phất nhu bị nó hấp thu, từng điểm một dung nhập vào thân thể. Đồng thời, thân thể vốn không lớn hơn bàn tay của Tham Lang Tinh bắt đầu cấp tốc phát triển vượt quá sức tưởng tượng của con người. Thân hình ngắn ngủn không đến ba phân hiện đã dài quá gần gấp ba một con mèo phát triển bình thường.
Trong khi đó Á Văn tựa hồ đã hết cả sức lực, thở nhẹ ra một tiếng, bạch quang từ hai tay phát ra càng ngày càng yếu, rồi biến mất.
Khi bạch quang hai tay Á Văn biến mất, Tham Lang Tinh cũng ngừng phát triển, nhưng tại lông mày Á Văn bạch quang càng thêm cường thịnh, không ngừng tiếp xúc trên người Tham Lang Tinh. Tiếp xúc độ chừng nửa thời khắc, lúc này mới dừng hẳn.
Hoàn thành hết thảy các động tác, Á Văn vẻ thập phần suy yếu, cơ hồ ngay cả sức lực nói chuyện cũng không có. Vừa rồi hắn dựa vào phương pháp gia truyền, cả đời chỉ có thể sử dụng 5 lần là "Hồi sinh quyết” để chữa trị vết thương trên người Tham Lang Tinh.
"Hồi sinh quyết", tên có ý nghĩa, ý muốn nói cải tử hồi sanh. Sử dụng phương pháp này, người thi pháp có thể trong thời gian ngắn chuyển năng lượng của bản thân sang cho huyễn thú. Chỉ trong chốc lát, năng lượng huyễn thú có thể tăng lên ba đến năm lần, nếu sử dụng trên chiến trường, hiệu quả không cần nói cũng biết. Đây đúng là phương pháp thần kỳ không ngờ, có công hiệu cải tử hồi sanh.
Nhưng nếu chỉ như thế thôi thì không đủ để cho rằng đây là kỹ thuật bí truyền của gia tộc Tư Đạt Khắc, sự thật là có rất nhiều phương pháp có thể đạt tới mục đích tương tự, như sử dụng dược vật, ma pháp thuật.
Quay về “Hồi sinh quyết”, ngoại trừ điều này, trong khi tiếp xúc với chủ nhân còn có thể gia tăng cấp bậc của huyễn thú. Sau khi sử dụng pháp quyết này, huyễn thú cả đời không rời chủ nhân, hơn nữa linh tính của huyễn thú càng lớn mạnh, sống lâu hơn, không chịu giới hạn của tiên thiên.
Đương nhiên “Hồi sinh quyết” không phải không có khuyết điểm, ngoại trừ cả đời chỉ có thể dụng năm lần, chủ nhân mỗi khi sử dụng thì năng lượng tổn hao cực lớn, tu vi sẽ bị giảm hơn phân nửa, đòi hỏi tu dưỡng một năm rưỡi sau mới có thể khôi phục như trước.
Do Á Văn vẫn chưa sở hữu bất kỳ đấu khí hoặc ma lực tu vi nào mà chỉ dựa vào năng lượng tiên thiên cung cấp cho Tham Lang Tinh để cứu nó khi sắp chết, cho nên vết thương trước đây của nó tiến triển rất nhanh chóng. Vì một nguyên nhân nào đó, năng lượng tinh thần của Á Văn lại cao gấp năm lần so với người bình thường, khiến cho Tham Lang Tinh mặc dù chưa thể tăng tiến năng lực, nhưng việc liên lạc giữa nó và Á Văn bằng linh thức hiện nay đã tiến triển rất tốt. Sau này Á Văn và Tham Lang Tinh có thể liên lạc mà không cần thông qua phương thức "liên thông tâm linh khoảng cách xa".
Tinh thần lực của Á Văn cao như thế cũng là nguyên nhân khiến cho chỉ số tinh thần của hắn khi kiểm tra bị liệt vào hàng nguy hiểm. Thử hỏi, một người bình thường khi tinh thần lực tăng gấp năm lần, đến khi hạ xuống sao tránh khỏi tinh thần bị dao động? Bởi vậy mà một người có sự dao động lên xuống của tinh thần lực gấp năm lần bình thường, rất dễ bị phán định là tinh thần dị thường. Bất quá, lúc này Á Văn thực không biết gì cả, hắn giờ đây chỉ lo lắng cho Tham Lang Tinh.
Vốn Tham Lang Tinh dưới sự chữa trị đã khởi sắc tốt, đột nhiên biến đổi thập phần quái dị. Đang bình thường, đột nhiên Tham Lang Tinh hung tính đại phát, hung hăng cắn lên tay phải Á Văn một phát, không những thế lại hấp thu một lượng huyết lớn nuốt xuống, sau đó nhảy ra khỏi lòng Á Văn, phát ra tiếng kêu quái dị.
Á Văn thầm nghĩ:
-Nguy rồi, chẳng lẽ “Hồi sinh quyết” không có tác dụng chữa trị, lại còn không thể giúp huyễn thú nhận chủ?
Sự việc đang diễn ra trước mắt, chắc chắn không ai có thể trả lời hắn được. Tổ tiên của Á Văn tịnh không ai như hắn, vì một huyễn thú thời kì ấu thơ mà sử dụng, bởi vậy, đương nhiên không ai có thể trả lời hắn.
Nhưng sự biến hóa tiếp sau đó của Tham Lang Tinh khiến Á Văn cảm thấy an tâm hơn. Tham Lang Tinh sau tiếng kêu quái dị, cả người phát xuất ra vô số kim tuyến, nó phóng lên, toàn thân "biến hóa", bao phủ từ cổ tay phải Á Văn cho đến cả khuỷu tay.
Tham Lang Tinh lúc này đang nhận hắn là chủ nhân, nhưng lại đồng thời tiến vào thời kì trưởng thành.
Nhìn hầu hết các nơi trên cánh tay phải bị Tham Lang Tinh bao phủ , Tham Lang Tinh màu xám cũng đang chuyển thành màu da hắn, Á Văn bất giác khấp khởi trong lòng, nó rốt cục cũng đã nhận hắn là chủ.
Nhưng rất nhanh, Á Văn đột nhiên cảm thấy không đúng. Hắn thực sự không thấy có cảm giác gì cả.Ngay lúc Tham Lang Tinh nhập vào người, hắn không có cảm giác được thuộc tính gì, không có Quang sáng ngời, Ám thâm trầm, Phong phiêu dật, Thủy thanh lãnh, Hỏa chích nhiệt, Thổ sâu dày. Bất kỳ cảm giác gì có thể dùng để phán đoán thuộc tính Tham Lang Tinh đều không có.
Nhớ tới những việc xảy ra trong ba ngày ở chung này, Á Văn bất giác lẩm bẩm nói:
-Tham Lang Tinh, chẳng lẽ ngươi thật sự là không có thuộc tính gì?
(*) Ghi chú 1: năng lượng thạch là một loại kết tinh đặc thù, chứa một lượng năng lượng nhất định, ngoài tác dụng cung cấp năng lượng cho huyễn thú còn có một số công dụng khác, sau khi hết lại có thể nạp thêm.
(**) Ghi chú 2: ma năng thạch: là một loại đá năng lượng, thứ chuyên dụng dành cho huyễn thú, có thể trong thời gian ngắn cung cấp năng lượng lớn cho huyễn thú, nâng cao khả năng bản thân, trợ giúp khả năng khôi phục lực, có thể nói là vạn năng dược của ảo thú, đương nhiên, không phải cho người bình thường dùng.
Dịch giả: Linhlan, Binhchi
Biên dịch: A Anh
Nguồn: TTV - Thiên Hạ Hội
Tại phủ công tước Tư Đạt Khắc, trong phòng luyện võ tại một góc phía tây, có một bóng người đang một mình ở trong đó. Chỉ thấy người nọ chỉ tay phải vào một bức tường phía trước cao chừng hai thước, dày một thước nói:
- Tiểu Tinh, phun lửa đánh thẳng vào.
Lời nói vừa dứt, trên cánh tay phải nổi lên một đầu sói to bằng nắm tay. Cái đầu sói hé miệng phun ra một quang cầu màu trắng chừng mười phân, đánh trúng thạch tường, tạo thành một lỗ sâu khoảng năm phân, rộng chừng mười phân. Ngoài cái lỗ này ra, trên tường còn có vô số lỗ to lỗ bé chi chit. Xem ra bức tường này đã bị bắn phá một thời gian dài…
Người nọ tỏ vẻ không hài lòng nói:
- Tiểu Tinh, hôm nay ngươi tâm tình không tốt nha!
Phảng phất nghe được điều gì đó, người nọ lại nói tiếp:
- Ra là ngươi lại đói bụng! Ngươi nếu cứ đói như vậy mãi thì ta có khả năng sẽ bị ngươi ăn đến phá sản mất thôi.
Người nọ đi ra khỏi phòng luyện võ, ngẩng đầu lên nhìn trời. Trên cao không, mặt trăng sáng trong đang treo lơ lửng, hôm nay đã là cuối tháng.
Ánh trăng chiếu xuống bên dưới, có thể thấy rõ ràng người này đúng là Á Văn.
Thời gian mà Tham Lang Tinh tiến vào thời kỳ trưởng thành đã là một tháng rưỡi. Một tháng trước, Tham Lang Tinh chỉ một mực ngủ say. Mặc cho Á Văn kêu gọi như thế nào, cảm giác từ cánh tay phải hắn truyền tới thủy chung là một loại cảm giác đang ngủ say.
Mãi đến mười ngày trước, Tham Lang Tinh mới từ trong trạng thái ngủ say tỉnh lại, lập tức khiến cho Á Văn đang trong lớp học phải chú ý. Á Văn thực sự hoan hỉ, không để ý đến ánh mắt của sư phụ và bạn học, cũng không giải thích lý do gì mà lập tức chạy về nhà. Dù sao những điểm chính cũng đã học xong, có học hay không thì cũng giống nhau thôi, huống chi bản thân lại là kẻ "không có triển vọng", cũng không ai quản xem hắn đang làm cái gì.
Về đến nhà, Á Văn lập tức triệu xuất Tham Lang Tinh, phát hiện ra một tháng nay nó vẫn chưa lớn lên bao nhiêu. Có điều khi tỉnh lại, Tham Lang Tinh biểu lộ vẻ thập phần đói bụng, chỉ trong thời gian ngắn ngủi nó đã xơi sạch toàn bộ các loại viên năng lượng trong nhà. Á Văn từ đó mới biết thì ra là Tham Lang Tinh thích ăn viên năng lượng, mà toàn là ăn năng lượng thạch.
Biết được điều này, Á Văn lập tức đi ra ngoài mua một đống lớn viên năng lượng về, cung cấp cho cái bụng tham lam của Tham Lang Tinh.
Trải qua mười ngày thí nghiệm, Á Văn rốt cục cũng phát hiện hắn và Tham Lang Tinh có thể liên lạc, mà là một sự liên lạc chặt chẽ và liên tục bằng tâm linh.
Hơn nữa, Á Văn còn phát hiện ra Tham Lang Tinh ngoại trừ không có thuộc tính, những thứ khác thì cũng giống với huyễn thú bình thường là có hai dạng đệ nhất, đệ nhị hình thái, giống nhau khả năng tập trung năng lượng trong cơ thể để phát ra, hình thành nên hỏa diễm.
Tối ngày hôm đó, sau khi Á Văn hoàn tất việc huấn luyện Tham Lang Tinh, hắn rời khỏi phòng luyện võ.
Xa xa, hắn nhìn thấy đèn trong phòng cha đang sáng.
Trong lòng vừa động, hắn lập tức hoan hỉ chạy tới. Đã ba tháng nay hắn chưa gặp mặt cha, hơn nữa hắn cũng rất muốn giới thiệu Tham Lang Tinh cho cha biết.
Đến trước thư phòng của cha, còn không kịp mở miệng, tai đã nghe một tiếng hét lớn: "Ai?"
Á Văn vẫn chưa rõ tình hình, chỉ cảm thấy cửa phòng bị một cỗ lực mạnh đẩy bật ra. Ngay cả bóng người hắn còn chưa kịp nhìn rõ thì cảm thấy sau cổ căng thẳng, cả người đột ngột rời khỏi mặt đất, bay vào trong phòng. Á Văn trông thấy cảnh tượng trong phòng thì không khỏi ngạc nhiên, trong phòng rất đông người.
Ngồi ở vị trí thủ tọa trong phòng có hai người. Bên trái là một lão giả xem ra ước bảy mươi, đầu đã bạc, râu trắng dài một thước, gương mặt nhiều nếp nhăn. Người này thấy hắn liền thả lỏng người, mỉm cười vẻ rất hiền lành với hắn. Kỳ thực trên chiến trường, ông chính là lão tướng nổi tiếng về chiến thuật xuất thần nhập hóa tại Đông đại lục – "Quang vinh Hổ Vương" Hàn La, chính là gia gia của hắn. Ngồi bên phải là một trung niên nhân khoảng bốn mươi, dáng vẻ dũng mãnh, tóc vẫn đen nhánh, không một nếp nhăn, dáng vẻ anh tuấn cương ngạnh, có thể tưởng tượng khi còn trẻ không biết đã mê đảo bao nhiêu nữ nhân tài ba, thục nữ. Người này chính là cha hắn - Ngự Lai, nổi tiếng về thuật phòng thủ, được tôn xưng là "Bất phá hùng tướng".
Hai bên phòng là hai dãy ghế, mặt trước có ba người ngồi chính là ba vị ca ca của hắn. Đại ca Á Hoa giống cha đến tám, chính phần, nhưng so với cha còn khôi vũ hơn. Sự thật là cả ba vị ca ca của hắn đều rất giống cha, đặc biệt là đại ca. Đại ca hắn năm nay ba mươi tuổi, trên chiến trường nổi tiếng dũng mãnh hơn người, được tôn xưng là "Lôi hỏa mãnh sư". Còn khôi vũ hơn đại ca, ngồi bên trái phía trước là nhị ca Á Húc, biểu hiện thập phần ôn văn nho nhã. Thế nhưng, danh xưng của nhị ca trên chiến trường là "Ma quỷ phong hồ", xuất thần nhập quỷ, nổi tiếng thần kỳ bất ý đánh lén mà làm cho địch nhân mất vía, đồng thời cũng là người đa mưu túc trí, năm nay 28 tuổi. Bên trái nhị ca là tam ca Á Nhược, không dũng mãnh bằng của đại ca, cũng không giảo hoạt như nhị ca, nhưng nói về thanh danh trên chiến trường tam ca cũng khiến địch nhân khiếp đảm phải. "Không cần đầu hàng, không cần tù binh, chỉ một mình đối địch, giết không tha", đây là lời bình luận về tam ca trên chiến trường, bởi vậy tam ca còn có danh xưng "Tử thần chi ưng", năm nay 27 tuổi.
Tất cả những người này trên chiến trường đều là hổ tướng khiến địch nhân nghe thấy mà khiếp đảm, họ cũng chính là những người thân của Á Văn, sau khi nhìn thấy hắn liền lộ ra nụ cười hiếm thấy.
Á Văn cũng nhu thuận đến vấn an, đột nhiên hắn nghĩ đến mọi người đều đối diện phía trước, vậy còn người vẫn đứng ở sau lưng hắn là ai?
Hắn buột miệng hỏi:
-Tam ca, phía sau đệ là ai vậy?
Á Nhược còn kịp chưa trả lời, một thanh âm hùng hậu truyền đến:
-Tiểu Á Văn, bây giờ mới nhớ tới ta sao?
Thanh âm rất quen, chẳng biết đã nghe qua ở đâu?
Đột nhiên linh cơ vừa động, hắn biết ở đâu đã nghe qua, kinh hãi hét lớn:
-Lí Ngang cữu cữu, thì ra là người?
Phía sau hắn truyền lại tiếng cười lớn, người đó bước tới phía trước Á Văn. Người này toàn thân vận bạch y, mái tóc đen nhánh tùy ý xõa xuống vai, ước chừng hơn ba mươi tuổi, không quá anh tuấn nhưng lại có một cỗ khí chất tiêu sái phiêu dật, chính là tiểu thúc mà Á Văn đã 5 năm qua không gặp - Lí Ngang.
Nhìn hắn diện mạo rất giống tỷ tỷ mình, Lí Ngang trong lòng không khỏi nổi lên sự hoài niệm. Thân là một trong tam đại mỹ nữ nổi danh tại Thái Long đế quốc, danh tiếng lan xa, thế nhưng lại chẳng để mắt đến biết bao thanh niên quý tộc, ngược lại đi thích Đại tướng của kẻ địch - Ngự LaiTư Đạt Khắc, lúc ấy đã hơn 30 tuổi, góa vợ và đã có 3 con nhỏ. Y thật không thể tưởng được tỷ tỷ mới 19 tuổi thế nào lại chấm trúng Ngự Lai, không ngại làm trái ý cha, bỏ luôn cả thân phận của kẻ kế thừa Long gia công tước, lại còn chạy tới Hoa Na Bang công quốc?
Lí Ngang không nén được nhìn tỷ phu một thoáng, tay vuốt đầu Á Văn, nói:
- Lâu rồi không gặp, tiểu Á Văn đã lớn như vậy rồi sao, có nhớ đến tiểu cữu này không? Tiểu cữu mỗi ngày đều nhớ ngươi đó. Ngươi cũng thật là, không biết viết thư cho tiểu cữu sao?"
Á Văn biết Lí Ngang cữu cữu từ nhỏ đã thích nói đùa với hắn, hơn nữa lại nhiều năm không gặp, nhịn không được cũng đùa lại:
- Tiểu cữu sao lại nói thế! Con chẳng biết đã viết mấy trăm phong thư, nhưng ai biết người phiêu lãng phương nào nên chẳng biết sẽ gửi đi đâu?
Lí Ngang nghe xong không khỏi nghẹn họng, không thể nói được gì nữa. Y bản tính trời sinh thích tự do, ghét bị trói buộc, yêu thích phiêu bạt, chuyện này mọi người đều biết. Hôm nay bị cháu trai chất vấn, hắn tự nhiên không thể nói gì.
Nhìn thấy hắn bị chọc lại, mọi người, lần đầu tiên trong mấy ngày gần đây, không nhịn được cười lăn ra.
Sau khi chào hỏi, Á Văn trong lòng thoáng động, đã lâu rồi không tề tựu được nhiều người đến như vậy! Hắn không nhịn được liền hỏi:
- Cha, đã xảy ra chuyện gì trọng đại vậy?
Mọi người trong phòng nghe Á Văn hỏi vậy không khỏi sững sờ, liếc mắt nhìn nhau. Ngự Lai mở miệng hỏi:
- Á Văn, sao con lại hỏi như vậy? Chẳng lẽ chúng ta không thể trở về nhà nghỉ ngơi được sao?
Á Văn lắc đầu nói:
-Không có khả năng chỉ là trở về nghỉ ngơi mà thôi.
Thấy mọi người chăm chú nhìn mình, Á văn tiếp tục nói:
- Từ khi con có trí nhớ đến nay, con nhớ là ngay cả là ngày trọng đại, cha hoặc trong ba vị ca ca nhất định phải có một người đóng quân bên ngoài, chưa từng có cảnh như hôm nay, gia gia, cha, ca ca, ngay cả tiểu cữu đều đến đông đủ. Việc này chỉ có hai khả năng: một là sắp sửa phát sinh nguy cơ quốc gia đại sự như chiến tranh chẳng hạn. Nhưng tình hình gần đây rất bình thường, chẳng những không có chiến tranh, thậm chí còn có vài tiểu quốc tỏ dấu hiệu muốn hòa đàm, cho nên khả năng thứ nhất có thể loại trừ. Còn khả năng thứ hai có thể là…
Nói đến đây, giọng Á Văn trở nên ngưng trọng:
- Gần đây con nghe được một câu" công cao chấn chủ", Đức Dã Vương hình như đã sắp 80 chăng?
Nói đến đây, nhìn thấy mọi người há mồm cứng lưỡi, Á Văn không khỏi thở dài:
-Chỉ hy vọng là con đã đoán sai.
Nhị ca Á Húc hỏi:
- Á Văn, làm sao đệ lại biết việc này?
Á Văn thở dài:
- Đệ mặc dù không có triển vọng, nhưng tịnh không phải kẻ ngu ngốc, cũng không phải nghễnh ngãng, có một số việc đương nhiên nghe tỏ tường, suy nghĩ tỏ tường a!
Nói là như thế, nhưng chỉ bằng một ít việc nhỏ có thể đưa ra kết luận không khác biệt xa với sự thật là mấy, khiến cho mọi người không khỏi giật mình.
Ngự Lai vừa vui mừng vừa hổ thẹn. Đến bây giờ ông mới phát hiện ra mình dường như đối với tiểu nhi tử này đã thiếu sự quan tâm, tối thiểu việc ngay cả hắn có tài trí xuất sắc như thế cũng không biết.
Bên cạnh, Hàn La chưa bao giờ mở miệng lúc này cũng lên tiếng:
- Á Húc, ngươi đem mọi việc nói cho Á Văn nghe đi, hắn cũng nên biết một chút. Biết đâu hắn còn có thể đưa ra chủ ý?
Á Húc trình bày lại mọi chuyện cho Á Văn hiểu.
Dưới sự giải thích của nhị ca, Á Văn mới biết nguyên lai sự thật so với những gì hắn đoán lúc nãy khác biệt không xa, nhưng tình huống còn thập phần nguy cấp hơn.
Nguyên lai công quốc hoàng đế Đức Dã Vương khi tuổi còn trẻ thì dã tâm bừng bừng, luôn mong muốn kiến lập cường quốc, nên đã trọng dụng số lượng lớn nhân tài quân sự, như Tư Đạt Khắc gia tộc. Nhưng sau khi nắm quyền đến nay, dã tâm biến thành kị tâm, tùy ý định truyền ngôi cho thái tử nhưng lại sợ những thủ hạ trước giờ một tay đề bạt đi lên, đang nắm quyền trọng binh tướng lãnh, một khi tân hoàng đế còn ấu thơ sẽ khởi binh tạo phản. Bởi vậy, mười năm trước sau việc bạo loạn tại cung đình, có rất nhiều tướng lĩnh do cố ý hoặc vô tình, trực tiếp hoặc gián tiếp chết trận hoặc phạm phải sai lầm bị chặt đầu. Cho đến hôm nay, vẫn còn hoàn hảo e chỉ còn có gia tộc Tư Đạt Khắc.
Hiện giờ, tình huống cũng đã trở nên không ổn, kị tâm của Đức Dã Vương tựa hồ cũng chuyển qua trên người bọn họ. Bất quá vì Tư Đạt Khắc gia tộc mỗi một người đều nắm giữ chức vụ trọng yếu, hơn nữa 10 năm trước ra sức vì vua, bảo vệ vương vị của Đức Dã Vương, bởi vậy coi như an toàn.
Một tháng trước, trong cung đình truyền đến tin tức, Đức Dã Vương đã quyết định sang năm vào tháng hai là ngày kỉ niệm lập quốc sẽ truyền ngôi cho hoàng thái tử(*). Lại nữa, gần đây mọi người vừa bị thua trận, nghị hội này đối với họ thập phần bất mãn, có nghĩa là bọn chúng đều sẽ quay đầu, đề nghị xử bọn họ, tình huống cực xấu. (**)
Đại ca Á Hoa bất mãn nói:
- Nếu không phải là Hoàng thượng phái cái gì chó má giam quân, đâu đâu cũng tẩy chay kế hoạch của ta, lại còn thêm không biết cái tên vương bát đản nào đã tiết lộ quân cơ, ta nào dễ thất bại.
Ngự Lai cau mày quở trách:
- Á Hoa, nói chuyện không cần thô lỗ vậy.
Á Văn không rảnh để nghe đại ca nói cái gì, vội hỏi:
- Nhị ca, ý của người là Hoàng thượng sẽ nhân dịp này mà đem chúng ta khai đao?
Á Húc ngưng trọng gật gật đầu.
Những việc nhị ca thuật lại làm Á Văn thật sự kích động, hắn chưa bao giờ nghĩ tới sau lưng sự quang vinh của gia tộc lại ẩn dấu nguy cơ lớn như thế. Cái giá phải trả của quyền cao lộc hậu tùy thời mà có thể nhà tan cửa nát. Trong nháy mắt, người nhà vốn phải tỏ ra ý khí phấn khởi, trong mắt Á Văn xem ra lại tiều tụy như thế.
Hàn La nhìn thấy bộ dạng không thể tin nổi của Á Văn, trong lòng không khỏi thở dài. Tuy phát hiện trí tuệ Á Văn vượt quá thường nhân, nhưng hắn dù sao cũng mới chỉ là tiểu hài tử 15, 16 tuổi, cho hắn biết việc này quá sớm có phải là là sai? Cũng chỉ hy vọng Á Văn có thể trưởng thành như những đứa nhỏ bình thường, vì thế, lúc mà Ngự Lai nói với ông muốn lợi dụng quan hệ để gã vào Vân Dương học viện thì ông cũng đã tán thành. Ông cũng thật sự không hy vọng Á Văn dấn thân theo con đường quân nhân giống như ca ca và phụ thân của hắn.
Để thay đổi sự chú ý của Á Văn, Hàn La cười nói:
- Á Văn, tiểu hài tử còn tưởng vậy sao, dù sao cũng còn có gia gia mà. Ta tuyệt không tin bằng vào mấy tên đại thần chỉ biết né tránh, la ó ở hậu phương, nghị viện có thể làm gì người Tư Đạt Khắc chúng ta. Đúng rồi, ta nếu nhớ không sai thì chỉ hơn nửa tháng nữa là ngày sinh của ngươi phải không?
Á Văn nghe Hàn La nói xong, tuy trong lòng biết là không phải như thế, nhưng hắn cũng biết lão nhân gia không muốn làm cho hắn lo lắng nên cũng cười gật đầu phụ họa.
Hắn đáp lời:
- Gia gia, qua 14 ngày nữa là cháu đã 16.
- Gia gia chẳng biết đến lúc đó còn lưu lại đây không. Thừa dịp bây giờ gia gia còn ở đây, ta trước hết tặng cháu quà mừng lễ vậy.
Dù sao cũng là tâm tính tiểu hài tử, vừa nghe gia gia muốn tặng quà sinh nhật, hắn lập tức tạm thời quên mất lo lắng vừa rồi, thân thủ làm nũng nói:
- Cám ơn người, gia gia, bất quá lễ vật nếu quá kém, cháu sẽ không nhận đâu.
Nhìn thấy Á Văn đã muốn lễ vật, lại sợ lễ vật quá kém, đúng là tâm tính trẻ con, mọi người không khỏi bật cười.
Hàn La cũng cười nói:
-Yên tâm, lễ vật này cháu nhất định vừa lòng. Chỉ sợ là cha ngươi và các ca ca lại nói ta quá bất công.
Nói xong, Hàn La lấy ra một quả trứng huyễn thú to không đến nắm tay, bề ngoài màu trắng bóng loáng, ẩn ẩn phát ra hào quang.
Á Văn và Lí Ngang không hẹn mà cùng thốt ra tiếng kinh hô:
-Là trứng huyễn thú hệ Quang.
Á Văn bối rối:
- Gia gia, thứ quý trọng thế này, cháu … cháu … cháu … … cháu không thể nhận … ….
Hàn La làm mặt giận nói:
- Ngươi nói cái gì? Ngươi là không thích lễ vật của gia gia tặng, cũng là xem thường lễ vật này?
Á Văn hốt hoảng phân bua:
- Không phải, không phải vậy đâu gia gia. Chỉ là trứng huyễn thú hệ Quang này là thuộc loại cấp tám thượng cấp, cháu sợ rằng không đảm đương nổi. Huống chi các ca ca nhất định cần nó, nếu gia gia đưa nó cho cháu, không phải là phạm vào công quốc luật pháp sao? Người nên đưa huyễn thú này cho các ca ca, huống chi cháu đã có … ….
Nói còn chưa dứt lời, Hàn La đã cắt ngang hắn nói:
- Nam tử hán đại trượng phu, tốt là tốt, không tốt là không tốt, nói nhiều như thế làm gì! Chẳng lẽ ngươi cho rằng mấy cái lão mắc dịch trong trưởng lão hội sẽ lại chia cho ngươi một huyễn thú à? Sớm cấp thì đã cấp cho lúc 3 năm trước rồi, làm gì đợi đến bây giờ?
Á Văn vội kêu lên:
- Gia gia, cháu không phải là ý này, cháu ……
Á Văn chưa nói hết, lại bị Hàn La ngắt ngang:
-Con mẹ ngươi, các ca ca của ngươi đều có huyễn thú, chỉ còn ngươi không có. Chẳng lẽ ngươi muốn từ nay về sau người ta nói "người của Tư Đạt Khắc không có tiền đồ, ngay cả huyễn thú cũng không có", để gia gia đã chừng này tuổi còn bị người ta giễu cợt sao?
Bên cạnh nhị ca Á Húc cũng nói vào:
- Á Văn, đệ không thể lại phụ hảo ý của gia gia.
Đại ca Á Hoa nói:
- Nói thật, đại ca nhìn cũng rất muốn. Bất quá, đệ tưởng rằng đại ca thật sự thần dũng để có thể cung cấp năng lượng cho hai thượng cấp huyễn thú sao?
Tam ca cũng thuyết phục hắn:
- Đệ mà nói không nhận, có thể thật sự khiến cho gia gia tức giận, cho là đệ thật sự xem thường lễ vật này.
Á Văn nghe các ca ca đều nói như vậy, đành phải tiến lên hướng về phía Hàn La cúi đầu, tiếp nhận trứng Quang huyễn thú thượng cấp cấp tám.
Hàn La hài lòng nói:
- Á Văn ngươi hãy nghe cho kỹ, Quang huyễn thú này là gia gia sau trận cung đình bạo loạn 10 năm trước, vì huyễn thú của gia gia chết trận, hơn nữa gia gia lại lập công lớn, cho nên trưởng lão nghị hội mới phá lệ phối cấp cho gia gia Quang Hổ. Danh xưng "Quang Vinh Hổ Vương" của gia gia cũng vì thế mà có, ngươi cần phải xứng đáng khi sử dụng nó, không được làm cho thanh danh của gia gia đi xuống.
Á Văn cung kính đáp:
- Vâng, gia gia.
Hàn La hiển nhiên thật cao hứng, cười lớn ha ha nói:
- Ta muốn công quốc tất cả mọi người đều biết, người Tư Đạt Khắc gia tộc, người nào cũng là cực mạnh.
Giờ phút này Hàn La càng thập phần cao hứng, hiển nhiên không để tâm đến những trở ngại trước đây trong mắt.
Á Văn nhìn thấy gia gia cao hứng như vậy, cũng có vẻ rất cao hứng.
Đột nhiên, Á Văn phát giác sắc mặt mọi người thật lạ, lẽ nào bọn họ trong tâm bất mãn? Hắn không khỏi thấp thỏm bất an hỏi:
- Cha, người làm sao vậy?
Hàn La cũng phát giác ra, cảm giác trong lòng đồng dạng với Á Văn, trừng mắt hỏi:
- Thế nào? Ngự Lai, chẳng lẽ ngươi cho rằng ta không nên giao cho Á Văn trứng huyễn thú này sao?
Ngự Lai cười khổ nói:
- Cha, sao người lại nghĩ như vậy? Cấp cho Á Văn huyễn thú, ý ta và người còn không giống nhau sao? Chỉ là ta vì Á Văn chuẩn bị lễ vật này xem ra đã vô dụng rồi.
Nói xong, Ngự Lai cười khổ lấy ra một quả trứng lớn bằng nắm tay, màu vàng, mặt ngoài hơi lồi lõm, đích xác là trứng huyễn thú dạng Thổ.
Ông cười khổ nói:
- Đây là trứng huyễn thú Đại Địa Chi Hùng, vốn là lễ vật muốn tặng cho Á Văn nhân ngày sinh nhật, bất quá bây giờ không còn tác dụng.
Một bên Á Hoa, Á Húc, Á Nhược cũng đều cười khổ xuất ra trứng huyễn thú.
Á Văn không khỏi khóe mắt rưng rưng. Nên biết rằng tiến vào thời kì thành thục, ngoại trừ sử dụng huyễn thú chuyên sinh sản, còn những huyễn thú đã trở thành khải giáp hoặc trang giáp, cơ bản là sẽ không thể sinh đẻ. Nếu chủ nhân miễn cưỡng ép nó sinh đẻ, cũng có thể sinh hạ trứng, bất quá kể từ đó, huyễn thú nguyên khí đại thương, cần phải trải qua một khoảng thời gian dài liệu dưỡng mới có thể khôi phục.
Nhìn trứng Đại Địa Chi Hùng trong tay cha; đại ca là quả trứng màu đỏ, qua chiều dài rõ ràng là trứng Giai Hỏa Sư thượng cấp cấp bảy; nhị ca là quả màu xanh nhạt, phía trên còn có dấu vết ba ngấn màu vàng, chính là Cuồng Phong Chi Hồ thượng cấp cấp bảy; trên tay tam ca là quả màu tối đen, phía trên phủ kín các đường màu bạc, chính là Bích Thủy Lôi Ưng thượng cấp cấp bảy.
Hơn nữa, huyễn thú của mọi người cũng như gia gia, đều là đệ nhị hình thái sống phụ thuộc trên người chủ nhân mà hấp thụ năng lượng, gia tăng thời gian phục nguyên. Trong lúc đang phải đối mặt với nguy cơ, nhưng mọi người vẫn quan tâm yêu thương hắn như thế, vì hắn mà lao tâm suy nghĩ, không khỏi làm cho Á Văn thật sự cảm động vì những thâm tình của họ.
Á Văn thực sự cảm động nói:
- Con nhận, con nhận mà.
Lễ vật nhân ngày hắn tròn mười sáu tuổi tiếp nhận từ tay mọi người làm hắn suốt đời khó quên.
(*)Ghi chú 1: Đức Dã Vương đơn truyền 3 đời, con trai độc nhất đã chết trong trận bạo loạn cung đình 10 năm trước, bây giờ hoàng thái tử là hoàng thái tôn - Lê A Ngải Tắc Tư, năm nay 22 tuổi.
(**) Ghi chú 2: hệ thống chính trị luật lệ tại công quốc, ngoại trừ đế vương là một người, bên dưới có hai thủ tướng, nắm quyền tại hai bộ phận riêng, các hoàng tộc, quý tộc làm thành trưởng lão hội, bình dân làm thành công quốc nghị hội, khi có những quyết sách trọng đại thì đế vương một phiếu, mỗi thủ tướng một phiếu, hai nghị hội đại biểu một phiếu, cộng lại năm phiếu, dựa trên số đầu phiếu mà quyết định, trừ đế vương là cha truyền con nối, thủ tướng sẽ do đế vương quyết định nhân tuyển, giao cho hai nghị hội đồng thời biểu quyết có đồng ý hay không, trưởng lão hội thường là người đức cao vọng trọng, do giới quý tộc đảm trách, công quốc nghị hội do các thành viên nhân dân đề cử đại biểu tham dự.