Dracula là tên một nhân vật có thật, một nhân vật gợi lại những kỷ niệm đau đớn và tàn bạo của lịch sử Rumani. Theo lời của Hary Ludlam, người viết tiểu sử của tác giả Bram Stoker, Dracula là một lãnh chúa khét tiếng hung bạo ở xứ Valachie hồi thế kỷ thứ XV. Sự dã man phi nhân tính của kẻ bạo chúa này đối với người Thổ được những người cùng thời ghi lại trong hai bản thảo viết tay, trong đó có một bản mô tả hắn như một bóng ma cà rồng với những lời lẽ như stregoicca phù thủy, ordog và pokol - quỷ satăng và địa ngục?
Sử sách ghi rằng trong các cuộc chiến đẫm máu chống lại người Thổ ở Valachie và Transylvanie, những người thuộc dòng dõi quý tộc Dracula luôn tỏ ra hung bạo và khát máu.
Người đứng đầu các chiến binh này là Dracula, một nhân vật mang đầy đủ những tính cách hắc ám nhất khiến người đương thời nghi hắn có dính líu đến quỷ dữ. Trong những lời truyền tụng của người xưa có đoạn: “Hắn cho chôn tù binh đến rốn rồi ra lệnh hạ sát cả loạt.. hoặc cho lấy dùi xiên vào những kẻ bại trận và nếu giãy giụa quyết liệt quá, họ sẽ bị đóng cọc ghim bàn tay xuống đất.
Có lần hắn còn cho quẳng một tên trộm vào vạc nước sôi rồi cho xẻo thịt bắt người nhà của tên tội đồ phải ăn ngay trước mặt quần thần. Hắn còn tự tay mổ bụng một người vợ đang mang thai để xem đứa con trong bào thai... Đến Saint-Barthelemy, hắn ra lệnh giết chết ba mươi ngàn người vô tội đến Schylta, hai mươi nhăm ngàn... Hắn cho treo ngược tóc những người hắn không thích, cho chém tù binh để lấy thủ cấp mời những kẻ thù khác ăn và rồi lại ra lệnh cho chém các thực khách này vào lúc tàn bữa. Ba trăm khách du mục tới xứ sở của hắn đều bị hắn bắt xâu xé lẫn nhau. Hắn cho nấu chín con trẻ rồi bắt các bà mẹ của chúng phải ăn. Hắn sai cắt vú đàn bà và bắt đàn ông phải ăn...”
Hình ảnh và tính cách man rợ, khát máu của nhân vật có thật trong lịch sử này đã được Bram Stocker mượn để xây dựng thành một hình tượng mang màu sắc kỳ bí có tính cách ma quái theo những lời truyền tụng dân gian của người châu Âu, đặc biệt là người Rumani. Theo tiếng Rumani, “Dracula” được dùng để chỉ thói tham tàn của những kẻ xấu xa, nhưng đồng thời nó cũng là lời ám chỉ “ma cà rồng” một tưởng tượng rất phổ biến trong dân gian Rumani và các nước lân cận. Theo tín ngưỡng của người Rumani, linh hồn của người chết chỉ lìa khỏi thể xác khi được một linh mục chính thống giáo rút phép thông công trong nhà thờ, nếu không xác người chết sẽ không thể thối rữa và sẽ biến thành ma quỷ để rồi lại có ngày đi hút máu của những người đang sống.
Theo truyền thuyết của người Rumani, ma cà rồng có thể biến thành các giống vật như chó, mèo, cóc nhái, chấy rận, nhện... Đặc điểm chung của các con vật ma quái này là đều thích cắn cổ và hút máu người sống, đặc biệt là trẻ em và phụ nữ. Tuy nhiên, những người nông dân Valachie (Rumani) lại quan niệm rằng ma cà rồng không mang hình hài của loài dơi hay bất cứ một loài vật nào kể trên, và những bóng ma đội lốt thú vật này cũng không nhất thiết phải cắn vào cổ nạn nhân để hút máu.
Trong suy tưởng của họ, ma cà rồng thường mang hình hài của một con chó sói (như mô tả trong tiểu thuyết của Bram Stocker); thú vui của con sói này là lang thang đi khắp chốn đồng quê để giết chết và hút máu tất cả các gia súc, gia cầm mà nó gặp trong đêm, chính vì vậy mà con ma sói có thể mãi mãi giữ được cái làn da tươi trẻ và mọng máu của nó. Họ còn cho rằng ma sói không bao giờ chết hẳn và mỗi lần sống lại, nó lại như tiếp thêm sức mạnh sau những lần no máu. Vì vậy, mỗi khi phải chôn một người quá cố, họ thường đặt ngay bên cạnh anh ta một mẩu bánh và một đồng xu bạc. Sau đó, họ sẽ đặt vài cực đất lên bụng và một hòn đá thật nặng lên đầu, hoặc lên hai chân của người chết khiến cho thây ma không thể ngóc đầu dậy để đi ám người khác...
Có thể thấy một điều rằng khác với văn học và các câu chuyện dân gian của phương Đông - nơi các bóng ma không phải lúc nào cũng bị coi là thế lực tà ác - văn học và truyền thống dân gian phương Tây thường xem bóng ma là hiện thân của cái ác và luôn mang đến sự chết chóc, tai họa cho thế gian. Trong khi ma của văn học phương Tây thường hóa thân vào những cơn vật ghê tởm hoặc mang nguyên một hình nhân quái dị và thường trú ngụ trong những tòa lâu đài cổ u tịch, những ngôi nhà lâu ngày không người ở, nhưng khu vườn, cánh rừng hoang dại, hoặc lúc ẩn lúc hiện trên các đường phố tối tăm, vắng tanh của một thành phố chết, thì ma của người phương Đông lại có thể hóa thân vào bất cứ một sự vật hoặc muông thú nào - từ gốc cây gạo đến một bóng chim bay qua cửa, từ con bướm trắng đến cái chổi cùn nằm ở một xó nhà bỏ hoang... và thường hay xuất hiện ở đình, đền miếu mạo hoặc ở ngay tại nơi mà người đã khuất còn mắc ân tình, duyên nợ... chưa trả với người còn sống.
Giải thích sự khác biệt này không phải là điều khó, bởi đơn giản là vì triết lý về vạn vật của người phương Tây có nhiều khác biệt với người phương Đông người phương Tây ưa khoa học và sự rạch ròi, trong khi người phương Đông thích sống chan hòa với thiên nhiên, xuất phát từ tự nhiên và trở về với tự nhiên.
Các truyện kỳ ảo của phương Đông thường để lại cho người đọc một cảm giác hư hư thực thực, mờ mờ ảo ảo như ở trong một thế giới vừa xa lạ lại vừa gần gũi với con người. Ngược lại, trong văn học kinh dị của phương Tây, người ta dễ dàng phân biệt được hai mảng màu sáng và tôi, thiện và ác, thực và hư, ân oán và hận thù, sự sống và cái chết... Chưa hết, các nhân vật ma quái trong văn học phương Đông không phải lúc nào cũng xấu xa, tội lỗi và nhiều khi còn mang những nỗi niềm nhân tình thế thái, những buồn vui u hoài hoặc cũng có thể tận số, mạt vận như một kẻ đang song.
Có thể nhận ra đặc điểm nổi bật của văn học kỳ ảo phương Tây trong tác phẩm của các nhà văn như Arthur Machen, Sax Rohmer, Théophile Gautier, Rachard Mathenson hoặc Guillaume, Maupassant, Balzac, Tsekhov...
Quay trở lại với Bram Stoker, có thể thấy rõ một điều rằng nhìn chung, tiểu thuyết của ông cũng không nằm ngoài tư tưởng chủ đạo của văn học kỳ ảo phương Tây. Đối với bá tước Dracula, ta có thể chia ra làm hai vế rõ ràng: một vế giữ nguyên các câu chuyện được lưu truyền trong dân gian có thật, tức là các tín ngưỡng và các thực tiễn lịch sử, vế còn lại là phần sáng tạo vì mục đích văn học của tác giả. Bram Stoker biết sử dụng các chất liệu chuyện kể dân gian phương Tây, các tài liệu và sử ký cổ xưa để xây dựng một nhân vật lịch sử thành một nhân vật văn học hoang đường mà vẫn giữ nguyên được màu sắc, tính cách được truyền tụng qua bao đời về con người đó: thật vẫn thật, hoang đường vẫn hoang đường, bởi chính người Rumani ngày nay vẫn không thể khẳng định bá tước Dracula ngày xưa có giao du với ma quỷ, hút máu người hay không? Đối với người Rumani, tất cả bây giờ chỉ là một dĩ vãng xa xôi từng nuôi sống một tín ngưỡng qua bao đời. Dĩ vãng ấy nói rằng Dracula là một xác chết rời khỏi mộ vào ban đêm để kiếm ăn: nguồn sống giúp nó tồn tại chính là sức sống của những người còn sống, chính nguồn sống ấy đã giúp nó giữ nguyên được thể xác qua nhiều thế kỷ! Do đã sống một cuộc sống đầy tội ác và đặc biệt là đã phó thác cuộc sống ấy cho tà đạo và ma thuật nên bá tước Dracula lịch sử đã phải biến thành quỷ. Sự hoán đổi giữa người chết và người sống trong các câu chuyện hoang đường phương Tây thường được hỗ trợ bởi các thông ước của ma quỷ với các thế lực của thần. Tội Lỗi hoặc của một cái gì đó tương tự nơi địa ngục. Bởi vậy, chỉ cần hút máu người sống là ma cà rồng không thể chết, và tất cả những người bị ma cà rồng hút máu lại trở thành ma cà rồng.
Trong tiểu thuyết của Bram Stoker, giáo sư Van Helsing có nói rằng :
“Nosferatu (con ma) không thể chết như loài ong mà ngược lại, mỗi khi cắn vào con mồi, nó lại tìm được một sức sống mới”. Ma cà rồng không thể chết định mệnh, mà chỉ có thể chết phi mệnh. Mặc dù luôn được coi là thần hộ mệnh của các nước Thiên Chúa giáo, nhưng cây thánh giá vẫn không phải là một vũ khí có hiệu quả chống lại ma quỷ trong các câu chuyện kinh dị phương Tây. Người ta chỉ có thể giết chết con ma bằng cách đâm một cây cọc hoặc một vật nhọn khác vào giữa trái tim nó. Những lớp bụi mờ tứ tán chính là cách thể hiện cái chết của ma cà rồng. Chúng ta có thể thấy chi tiết này qua hình ảnh của các nhân vật phản diện trong Bá tước Dracula.
Tuy nhiên, Bram Stoker không chỉ dừng lại ở những đặc điểm mang tính truyền thống đúc kết từ văn học dân gian Rumani, mà ông còn thêm một số chi tiết vào tác phẩm của mình cho sinh động hơn. Ví dụ, trong tác phẩm của ông, không ít lần chúng thấy có sự xuất hiện của loài dơi một con vật không có trong các câu chuyện của người Rumalli. Việc nhân vật anh hùng Van Helsing dùng hoa tỏi để xua đuổi tà ma ở phòng bệnh nhân Lucky cũng là một nét mới, thậm chí còn trở thành một chủ đề cho điện ảnh rùng rợn khai thác trong suốt một thời gian dài. Cũng như vậy, chúng ta có thể bắt gặp những chi tiết như mà cà rồng không có bóng và cũng không hề được phản chiếu trong gương... Đây là những chi tiết không có trong dân gian và văn học kỳ ảo phương Tây trước đó; và chúng ta cũng nên biết rằng chỉ sau tiểu thuyết Bá tước Dracula, các tác phẩm văn học, sân khấu và sau này điện ảnh kỳ ảo của phương Tây mới có sự đổi mới đáng kể về nội dung và hình thức.
Nếu xét về truyền thống thì kịch bản của tiểu thuyết Bá tước Dracula cũng giống như phần lớn các chuyện kể dân gian phương Tây: nhân vật Jonathan rời quê hương đến một địa chỉ xa xôi để rồi phải đương đầu với vô vàn khó khăn, nguy hiểm trong suốt cuộc hành trình và khi sắp đến đích, anh khiếp đảm vì một bóng ma bất ngờ xuất hiện ngay trước mặt. Nhưng anh không biết sẽ phải làm gì, bởi không phải bản năng thích phiêu lưu mà là công việc kinh doanh bắt buộc anh phải tới Transylvanie. Anh không tìm thấy một kho báu hay bất cứ một khám phá nào khác để có thể làm rạng danh cho đời. Cuộc hành trình kết thúc trong sự sợ hãi, nỗi thất vọng và cả sự ám ảnh của những hình hài ma quái, mặc dù anh luôn được cảnh báo trước những sự việc nguy hiểm đang chờ đợi mình. Con đường dẫn tới Transylvanie - với một đoạn văn tả cảnh dẹp nhất có thể có trong văn học kỳ ảo của mọi thời đại luôn không thiếu những điểm gở, chẳng hạn như bóng dáng một nghĩa địa lạnh lẽo hoặc những tiếng tru thê thảm của loài lang sói trong đêm đen. Tuy nhiên, đoạn văn tả cảnh bậc thầy này chỉ được đưa vào tác phẩm vào năm 1914 với tựa đề cách mời của Dracula, các lần trước đó đều không thấy có. Đoạn văn thực ra là một lời cảnh báo nghiêm túc đối với Jonathan: nó muốn anh hãy từ bỏ cuộc viễn du, quên đi mục đích của cuộc hành trình, không được liều lĩnh dấn thân vào nguy hiểm trên đường tới Valachie. Trong một đoạn văn khác, chúng ta còn thấy Jonathan thoát khỏi cái chết trong gang tấc, bởi trong lúc bất cẩn, anh đã vô tình để mình trở thành một con mồi quyến rũ của ba ả đàn bà tuyệt đẹp nhưng dâm đãng cũng chính là ba bóng ma cà rồng đáng ngờ được sinh ra nhờ ánh trăng lọt qua cửa sổ một căn phòng địa phủ... Cảnh này khiến chúng ta có cảm tưởng rằng Jonathan cũng giống như các tín đồ tôn giáo chờ được thụ pháp trong các nền văn minh cổ xưa: anh phải chịu một thử thách được hiện thân trong thân thể một người đàn bà thật quyến rũ, và kết quả anh có biết chống lại cám dỗ hay không sẽ là điều kiện để anh được bất tử hay phải chết.
Trong khi đó, bá tước Dracula lại chọn một hành trình ngược lại, nhưng đó không phải là một con đường cuối cùng để có thể quay trở lại điểm xuất phát.
Lão là kẻ bị trừng phạt bởi những tội ác đã gây ra. Lão hoàn toàn bị cô lập trước những người đang ra sức chống lại lão, của sự thèm khát được an toàn, của chủ nghĩa anh hùng cổ điển phương Tây. Chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng một số nhân vật trong tiểu thuyết của Bram Stoker không có tính cách thực sự; họ phụ thuộc vào quyền sở hữu của bá tước mặc dù không hề được một lần trông thấy lão, chẳng hạn trường hợp của nhân vật Renueld. Tất cả chỉ tồn tại bởi hắn, qua hắn và người ta chỉ biết tới hắn qua những thư trao đổi hoặc những dòng nhật ký riêng tư của nhân vật khác. Không có nhân vật nào trong tác phẩm thể hiện sự kính phục hoặc lòng tôn trọng đối với siêu nhiên: chỉ sự quái gở của sự việc mới làm nổi bật từng nhân vật trong kịch bản. Cái đáng sợ ở nhân vật Dracula không chỉ thể hiện ở chỗ lão có thể sai khiến cả đàn thú hoang dã hoặc làm thay đổi sự việc theo ý muốn, mà còn ở chỗ lão có thể mò tới thành Luân Đôn để biến các mạng sống khác thành những thây ma như hắn sau nhiều thế kỷ chuẩn bị! Sức mạnh của hắn được nhân dần lên và mở rộng dần ra, từ một điểm rất nhỏ có thể trải rộng ra toàn thế gian.
Khi Jonathan và những người bạn của anh biết được ngọn nguồn của mối nguy hiểm để tìm ra một phương án đối phó thì đã quá muộn. Tuy nhiên, vòng vây của những kẻ không đội trời chung vẫn cứ siết nhỏ dần, nhỏ dần xung quanh Dracula. Chúng ta có thể cảm nhận được cao trào của câu chuyện trong một đoạn văn mô tả các nhân vật chính cưỡi ngựa phi nước đại về phía trung tâm điểm của mọi mối nguy hiểm - nơi đặt quan tài của thầy ma Dracula, dưới sự bảo vệ của những người Bôhêm trong khi mối nguy hiểm cứ lớn dần trong một thời gian ngắn ngủi.
Xét trên phương diện kỹ thuật, tác giả đã rất khéo léo trong bút pháp khi chủ ý để các nhân vật tỏ thái độ không khâm phục bá tước Dracula, bởi nếu làm ngược lại, cái kỳ ảo trong câu chuyện sẽ bị lộ liễu thô thiển trước khi phai nhạt dần rồi chìm nghỉm vào cái thần bí mông lung. Stoker thích một khoảng không gian cách biệt để có thể hạn định cội nguồn gây nên nỗi kinh ngạc và sự lo sợ, để rồi lại phá tan những cảm giác mơ hồ này theo cách tất nhất. Ông cũng tỏ ra thật hoàn hảo trong việc sử dụng nhiều chất liệu tản mạn có trong kho tàng chuyện kỳ ảo truyền thống của phương Tây để lồng vào lời kể của mình một cách tự nhiên nhất. Kỹ thuật ấy càng đắt hơn khi ông biết cách tạo nên một khoảng không khí, không gian có sức thôi thúc gợi cảm theo cấp độ tăng dần.
Cuộc hành trình đầy gian nguy của Jonathan từ Luân Đôn đến Transylvanie thực ra chỉ có chung một vai trò gợi mở như chính con người Renueld, cho dù hắn chưa một lần rời khỏi trại tâm thần. Sừ xuất hiện của người Bôhêm đầy màu sắc dân gian địa phương ở một số cảnh đẹp như tranh vẽ đâu cũng chung một tác dụng là mạng lại một hiệu quả văn học như các cuộc tìm kiếm của giáo sư Van Helsing trong các thư viện ở châu Âu. Bá tước Dracula không lập tức đưa người đọc lạc ngay vào một thế giới kỳ ảo, mà cái bí ẩn chỉ thực sự hé mở khi có sự xuất hiện ngày một rõ của lực lượng siêu nhiên.
Chi tiết những bóng ma cà rồng bị đâm cọc và biến thành cát bụi chỉ là một sự hư không hóa những gì được gọi là siêu nhiên; tuy nhiên, độc giả không vì thế mà thất vọng, bởi việc hành quyết của một thế giới đối với một thế giới khác cũng chỉ xảy ra khi độc giả bắt đầu khám phá ra thiện ác. Và sau khám phá này, thế giới xung quanh chúng ta không còn được đảm bảo nữa; bóng ma đã bị ngắn chặn ở một nơi xứng đáng với nó, nhưng ai dám đảm bảo rằng ngày mai sẽ không còn một bóng ma nào chui ra từ một chiếc quan tài khác? Cuối tiểu thuyết là cảnh Jonathan cùng gia đình trở lại thăm mảnh đất mà ngày trước anh đã từng bị bá tước Dracula ám. Tất cả dường như đã kết thúc một cách tất đẹp nhất trên một thế giới tốt đẹp nhất... Song cũng dường như vẫn còn một cái gì đó không ổn định, một cái gì đó hiển hiện, như muốn chứng tỏ rằng ma cà rồng vẫn còn tồn tại trên cõi đời này!
Vâng, dường như điều trái khoáy thường hay xuất hiện đúng vào lúc ta thanh thản nhất hoặc lúc ta ít ngờ tới nhất!
N.T.T
Khách mời của Dracula
Lúc tôi chuẩn bị đi dã ngoại, ông mặt trời còn đang tỏa những tia nắng vàng rực rỡ trên bầu trời Munich, và không gian cũng chan chứa niềm vui khôn tả của riêng buổi đầu hè.
Chiếc xe ngựa vừa chuyển bánh thì Delbruck (ông chủ khách sạn tôi đang ở) vội vàng chạy theo chúc tôi một cuộc dạo chơi tất đẹp, rồi tay vẫn bám vào cửa xe, dặn với theo tay xà ích :
- Này, anh phải quay về trước chiều tối đấy, biết chưa?
Thời tiết tuy rất đẹp, nhưng nói gì thì nói, những trận gió từ phương bắc tràn tới có thể mang theo giông tố vào bất cứ lúc nào. Tất nhiên, tôi cứ dặn thế cho chắc, vì anh thừa biết là đêm nay tôi không được phép lên đường chậm trễ!
Nói tới câu cuối cùng, ông ta cười cười.
- Ja, mein Herr! - Johann gật đầu đồng ý. Gã đưa tay sửa mũ rồi quất cho ngựa chạy thật nhanh.
Khi xe vừa chạy ra khỏi thành phố, tôi ra hiệu cho tay xà ích dừng lại và đột ngột hỏi :
Johann này, tại sao ông chủ lại nói về đêm nay như vậy?
Tay xà ích vừa khua tay vừa trả lời cộc lốc :
- Walpurgis Nacht!
Dứt lời, gã rút trong túi ra một chiếc đồng hồ cổ của Đức bằng bạc và to như một củ cải; gã nhíu mày xem giờ, rồi nhún vai tỏ vẻ không bằng lòng.
Tôi hiểu đó là một cử chỉ phản đối khá lịch sự trước sự dừng xe mất thời gian vô ích này, và tôi chẳng thể làm gì khác ngoài việc ngả lưng ra sau xe.
Chiếe xe lại lập tức chuyển bánh như muốn lấy lại quãng thời gian ngắn ngủi đã để mất. Trên đường đi, thỉnh thoảng mấy chú ngựa lại đột ngột ngóc đầu, hít mũi phì phí - dường như có một thứ mùi gì đó đang làm chứng sợ. Và cứ mỗi lần nhìn thấy chúng phản ứng như vậy, bản thân tôi cũng chợt cảm thấy lo lo.
Từng cơn gió bắt đầu ào ạt thổi tràn trên con đường vì xe chúng tôi đã bò lên sườn đồi được một lúc và đang chuẩn bị lên một cao nguyên. Lát sau, trước mắt tôi chợt hiện ra một con đường mà thoạt nhìn, tôi cũng nhận ra là ít có bước chân người qua lại. Dường như con đường dẫn sâu vào một thung lũng hẹp.
Tôi rất muốn đi vào con đường đó, và mặc dù biết là làm phiền Johaun, tôi vẫn kêu gã cho dừng xe một lần nữa. Tôi giải thích với gã rằng tôi thèm được xuống đường. Gã lập tức tìm mọi lý do để thoái thác, nói rằng đó là điều không thể được. Trong lúc giải thích, gã không ngừng khoa tay múa chân ra hiệu cho tôi hiểu. Trí tò mò của tôi bắt đầu bị đánh thức, và tôi đã đặt ra cho gã vô số các câu hỏi. Gã luôn trả lời thoái thác và thỉnh thoảng lại liếc mắt nhìn đồng hồ, vẻ khó chịu. Cuối cùng thì tôi cũng không thể kiềm chế được nữa.
- Johaun, tôi muốn được xuống con đường đó. Tôi không bắt anh phải đi theo tôi, nhưng tôi muốn biết tại sao anh không chịu đi xuống dưới ấy?
Thay vì trả lời, tay xà ích nhảy tót ra khỏi ghế. Chân vừa chạm đất, gã vội vàng chắp tay cầu xin tôi đừng đâm đầu về phía ấy. Gã nói lẫn lộn cả tiếng Anh và tiếng Đức cho tôi hiểu. Dường như từ đầu đến giờ gã vẫn định nói với tôi một điều gì đó - một điều luôn làm gã lo sợ, nhưng lần nào gã cũng trấn tĩnh lại được và chỉ nhắc đi nhắc lại một câu, trong khi tay không ngừng làm dấu thánh :
- Walpurgis Nacht! Walpurgis Nacht!
Tôi muốn tranh luận một chút, nhưng rõ ràng là không thể được vì tôi đâu có hiểu ngôn ngữ của người đối thoại! Gã có lợi thế hơn tôi, bởi dầu sao thì gã cũng có thể nhồi vài từ tiếng Anh vào những câu tiếng Đức của gã. Cuối cùng, gã lại nhìn vào chiếc đồng hồ để nhắc tôi hiểu cái mà tôi phải hiểu. Đàn ngựa kéo xe cũng bắt đầu hết kiên nhẫn, chúng lại khịt khịt mũi một lần nữa. Thấy vậy, bộ mặt tay xà ích bỗng tái mét lại. Gã lấm lét nhìn quanh, vẻ khiếp sợ. Rồi gã hốt hoảng chộp lấy dây cương xua lũ ngựa bước lên vài bước. Tôi chạy theo hỏi gã tại sao lại phải rời khỏi chỗ chúng tôi vừa dừng xe lúc nãy. Gã cứ cắm đầu đánh xe về phía con đường đối diện, rồi chỉ tay về phía một cây thánh giá nằm cạnh chỗ dừng xe lúc đầu Gã trả lời tôi bằng tiếng Đức, rồi nói tiếp bằng một thứ tiếng Anh lơ lớ :
- Đó chính là chỗ người ta đã chôn một kẻ tự tử :
Tôi chợt nhớ tới tập quán cổ hủ muốn chôn những kẻ tự tử ở gần các ngã ba, ngã tư đường của người dân xứ này.
- À? Đúng rồi, một kẻ tự sát... Hay thật...
Nhưng tôi vẫn không tài nào hiểu được tại sao lũ ngựa lại sợ hãi đến như vậy.
Trong lúc tiếp tục nói chuyện, chúng tôi chợt nghe thấy một tiếng kêu vừa như tiếng ăng ẳng, lại vừa như một tiếng sủa từ đâu vọng tới. Chắc chắn là âm thanh đó vọng tới từ rất xa, song không hiểu sao lúc này lũ ngựa lạị hoảng loạn đến thế, phải trầy trật lắm Johann mới kìm chúng lại được.
Gã quay sang nói với tôi, giọng run run :
- Tôi tin rằng đó là tiếng chó sói, mặc dù ở đây không còn cái giống ấy nữa.
- Thế à? Không còn ư? Cớ đúng là từ lâu không còn con sói nào bén mảng tới gần thành phố không?
Từ rất, rất lâu rồi, ít nhất là vào mùa xuân và mùa hè, nhưng thỉnh thoảng người ta vẫn gặp chúng xuất hiện trở lại khi có tuyết rơi.
Gã đưa tay vuốt ve đàn ngựa, cố làm chúng trấn tĩnh khi ánh mặt trời bỗng chốc bị những đám mây nặng nề và đen kịt che kín. Gần như cùng lúc đó, một trận gió lạnh gai người bất ngờ ập tới - nói đúng hơn, đó chỉ là một luồng gió lạnh duy nhất xuất hiện như một dấu hiệu báo trước điều đen tối, bởi một lát sau, tôi lại thấy ánh mặt trời ló rạng trở lại lấy bàn tay che mắt, Johann nheo nheo nhìn về phía chân trời rồi quay sang bảo tôi :
- Bão tuyết đấy, chẳng mấy chốc nó sẽ ập tới đây cho mà xem.
Gã liếc nhìn đồng hồ một lần nữa rồi quả quyết nắm chặt chùm dây cương.
Chắc chắn là sự căng thẳng của lũ súc vật đã làm gã hình dung ra một điều gì tồi tệ nhất. Gã leo lên ghế như thể đã đến lúc tiếp tục phải lên đường.
Về phần mình, tôi vẫn muốn gã giải thích thêm cho tôi một điều gì đó.
- Vậy thì con đường nhỏ mà anh nhất định không chịu dẫn tôi vào ấy chạy tới đâu? - Tôi gặng hỏi.
Gã lại làm dấu, miệng lẩm bẩm cầu nguyện mấy câu rồi mới chịu trả lời tôi :
- Cấm không được đi tới đó.
- Cấm tới đó là tới chỗ nào?
- Tới ngôi làng.
- Sao! Dưới đó có một ngôi làng à?.
- Không, không. Đã nhiều thế kỷ nay, ở đó không còn ai sống nữa.
- Nhưng anh vừa nói tới một ngôi làng kia mà?
- Vâng, quả thật là ở đó từng có một ngôi làng.
- Thế bây giờ thì sao?
Tay xà ích kể cho tôi nghe một câu chuyện dài bằng cả tiếng Đức lẫn tiếng Anh lẫn lộn và rối rắm khiến đầu óc tôi mệt nhoài. Tuy nhiên, tôi vẫn tính là mình hiểu được rằng ngày xưa, cách đây hàng trăm, hàng trăm năm, có rất nhiều người đã chết ở ngôi làng này và họ đều được chôn ngay ở trong làng.
Thế rồi người ta bỗng nghe thấy những tiếng động vọng lên từ lòng đất, và khi các ngôi mộ được mở ra, những người đàn ông, và cả đàn bà nữa, bỗng nhiên sống trở lại, nhưng trên môi người nào cũng nhuốm đỏ một màu máu tươi. Vậy là để cứu vớt cuộc đời của đám người này (và trước hết là để cứu rồi linh hồn của họ - Johann vừa giải thích vừa làm dấu), người làng đã phải bỏ sang các ngôi làng khác, nơi có những người sống đang sống và những người chết thì đã thực sự chết, chứ không phải... không phải là một điều gì khác. Tôi thấy rõ ràng là tay xà ích định nói một từ gì đó ở cuối câu nhưng lại không dám, có lẽ chính bản thân gã cũng cảm thấy khiếp sợ cái điều mà gã định nói. Trong lúc tiếp tục câu chuyện, có vẻ như gã càng lúc càng bị kích động hơn. Đúng là trí tưởng tượng của gã đã cuốn gã đi. Gã kết thúc câu chuyện trong một bộ dạng hoảng hốt thật sự: mặt mày tái nhợt như một xác chết, trán đầm đìa mồ hôi, người run rẩy, mắt lo lắng nhìn quanh như đang chờ đợi một sự xuất hiện đáng ngờ nào đó trên đồng cỏ ngút ngàn, nơi mặt trời vẫn đổ tràn ánh nắng vàng rực rỡ. Cuối cùng, hắn lại buột miệng kêu lên một tiếng xé lòng và đầy vẻ thất vọng :
- Walpurgis Nacht!
Gã chỉ tay lên chiếc xe ngựa như muốn van nài tôi trở về chỗ.
Dòng máu Anh trong tôi bắt đầu bốc lên tận mặt. Tôi lùi lại một, hai bước rồi bảo gã người Đức :
Johann, thì ra là anh sợi! Vậy thì anh cứ quay về Munich đi, tôi sẽ về đó một mình cũng được. Kể ra dạo bộ một chút cũng hay đấy chứ!. Cửa xe vẫn mở ngỏ, tôi với tay cầm cây ba-toong mà tôi vẫn thường dùng trong những ngày nghỉ.
- Ừ, anh cứ quay về Munich trước đi, Johann ạ - Tôi nhắc lại. - Walpurgis Nacht, điều đó chẳng có nghĩa lý gì với người Anh hết.
Lũ ngựa mỗi lúc một càng thẳng hơn, Johann lại phải đánh vật để giữ chúng lại. Gã khẩn khoản nài nỉ tôi đừng làm cái điều điên rồ như vậy. Tỏi bỗng cảm thấy thương hại cho gã thanh niên lúc nào cũng canh cánh một nỗi khiếp sợ mơ hồ trong lòng. Tuy nhiên, tôi vẫn không nhịn được cười.
Nỗi sợ hãi đã làm gã quên mất một điều rằng để bày tỏ nỗi lòng cho tôi hiểu, gã phải nói bằng tiếng Anh, vậy mà gã lại cứ lúng túng mãi bằng tiếng Đức. Tôi buộc phải chỉ tay về phía con đường gã phải đi mà kêu lên: “Về Munich trước đi?” rồi quay phắt lại. Tôi quyết định xuống thung lũng một mình.
Tay xà ích người Đức miễn cưỡng đánh ngựa quay về hướng Munich trong một tâm trạng thất vọng. Tôi chống ba-toong đưa mắt nhìn theo: chiếc xe ngựa từ từ đi xa dần. Vừa lúc đớ trên đỉnh đồi bỗng xuất hiện bóng dáng một người đàn ông một gã đàn ông cao lớn nhưng gầy ốm, dù khoảng cách còn rất xa, nhưng tôi vẫn nhìn rõ. Thấy gã đàn ông bước lại gần, lũ ngựa bỗng lồng lên hoảng loạn, tất cả đều nhảy nhót điên cuồng. Johann không còn làm chủ được chúng nữa, chúng đột ngột chồm lên như hóa dại. Loáng một cái, chiếc xe ngựa đã biến mất; tôi đưa mắt tìm kẻ lạ mặt, nhưng cả gã cũng biến mất từ lúc nào.
Tôi dấn thân vào con đường đã làm cho Johann sợ phát khiếp, trong lòng cảm thấy thật nhẹ nhõm. Tại sao gã phải sợ đến thế? Đó là điều tôi không sao hiểu nổi. Tôi đã cuốc bộ được khoảng hai tiếng đồng hồ rồi mà vẫn chưa gặp một bóng người nào. Đây quả là một chốn hoang vắng đến lạnh người. Tuy nhiên, tôi chỉ chợt nhận ra điều này khi tôi khúc quanh của con đường: tôi đang đứng trước một bìa rừng thưa thớt cây cối. Quả thực là chỉ khi đó tôi mới hiểu cái cảm giác mơ hồ mà nỗi quạnh hiu ảm đạm của xứ sở này đang để lại trong tôi.
Tôi ngồi xuống rìa đường nghỉ xả hơi và tranh thủ đảo mắt quan sát mọi cảnh vật xung quanh. Dường như tiết trời đã trở nên lạnh hơn nhiều so với lúc đầu tôi đi dạo. Vừa lúc đó, tôi bỗng nghe thấy tiếng một âm thanh kỳ lạ giống như một hơi thở dài, thỉnh thoảng lại bị ngắt quãng bởi một tiếng gầm gào ngàn ngạt. Trên bầu trời, từng đám mây khổng lồ bỗng ùn ùn từ phương bắc ập đến.
Chắc chắn là một cơn giông đang sắp đổ ập xuống đây. Tôi chợt rùng mình.
Nghĩ rằng ngồi nghỉ như vậy sau hai tiếng đồng hồ cuốc bộ là quá nhiều, tôi quyết định tiếp tục lên đường.
Cho dù cơn giông sắp đổ ập xuống, nhưng phong cảnh trước mắt tôi vẫn đẹp đến huyền diệu. Tôi có cảm giác nơi đây như một chốn thần tiên. Buổi chiều tà đang hắt xuống những tia nắng yếu ớt cuối cùng; lúc hoàng hôn đổ bong xuống cánh rừng cũng là lúc tôi loay hoay định hướng về Munich. Ánh huy hoàng của buổi chiều lúc này đã trở thành một thứ ánh sáng hắt hiu, tiết trời mỗi lúc một lạnh hơn, những đám mây cũng trở nên đáng sợ hơn, chúng vẫn ùn ùn kéo đến cùng với những tiếng gầm lít mơ hồ xa xa. Âm thanh ghê rợn đó thỉnh thoảng lại vọng tới, giống hệt những tiếng kêu bí ẩn mà lúc nãy, gã đánh xe ngựa vẫn cho là tiếng tru của chó sói. Tôi bỗng đâm ra do dự. Tuy nhiên, như đã nói, tôi muốn được thấy ngôi làng bị bỏ hoang, nên vẫn quyết định tiếp tục lên đường và chẳng mấy chốc đã tới một bình nguyên trải rộng hút tầm mắt nằm giữa những ngọn đồi um tùm cây cối. Phóng tầm mắt ra xa, tôi nhận thấy một nẻo đường quê quanh co khúc khuỷu: con đường mất hút ở một khúc quanh, sau một bụi cây rậm rạp mọc ngay dưới chân một ngọn đồi.
Tôi đang mải ngắm bức tranh ấy thì một luồng gió lạnh bất thần thổi ào tới; tiếp sau đó là những bông tuyết bắt đầu rơi. Tôi bắt đầu nghĩ đến những dặm đường mà mình phải đi khắp chốn hoang vu này và vội vàng mò tới trú dưới bụi cây trước mặt. Bầu trời vẫn đang tối sầm từng phút, các bông tuyết rơi xuống mỗi lúc một nhanh và dày đặc hơn. Cứ đà này, chẳng mấy chốc cảnh vật trước mắt tôi sẽ biến thành một tấm thảm trắng xóa mờ mịt khiến tôi chẳng còn phân biệt được gì nữa. Mặc kệ, tôi vẫn tiếp tục lên đường. Nhưng con đường lúc này đã trở nên rất tồi; các rìa đường chỗ thì bị xóa nhòa lẫn vào các cánh đồng, chỗ thì lẫn với bìa rừng, tuyết đã làm cho mọi thứ trở nên không còn đơn giản như nguyên bản của nó; chỉ mới đi được một đoạn ngắn mà tôi đã nhận ngay ra là mình đã đi chệch đường, bởi tôi đang giẫm lên một lớp cỏ mềm mềm dưới lớp tuyết trắng. Gió bắt đầu thổi dữ dội, tiết trời lạnh thấu xương, tôi phải chịu thử thách thật sự mặc dù vẫn lầm hết sức bình sinh để tiến về phía trước. Những cơn lốc tuyết gần như không cho tôi mở to mắt. Thỉnh thoảng lại có một tia chớp bất ngờ lóe lên xé toang những đám mây lao xuống, đó là những lúc tôi kịp nhận ra những bóng cây lớn trước mặt, nhất là những cây bách và cây thông đỏ.
Đứng trú dưới những tán lá cây, tôi chẳng còn nghe thấy gì khác ngoài tiếng gió rít trên đầu. Sự u tối do cơn giông tố mang tới đang bị cái bóng tối của đêm đen nuốt chửng... Nhưng rồi cơn bão tuyết dường như cũng sắp sửa qua đi, những trận cuồng phong cũng bắt đầu thưa dần, và mỗi lần gió ngớt, tôi lại có cảm tưởng như cái tiếng kêu bí ẩn, gần như là siêu nhiên của loài sói ấy được nhại đi nhại lại thành những tiếng vọng lê thê không đứt.
Một lúc sau, giữa những đám mây xám xịt trôi lập lờ trên bầu trời, thỉnh thoảng cũng le lói một ánh trăng bàng bạc đủ để soi rõ mọi cảnh vật; do vậy mà tôi biết rằng mình đã đặt chân tới một chỗ thật sự giống một cánh rừng bách và thông đỏ khi tuyết ngừng rơi. Tôi rời khỏi nơi trú ẩn để quan sát cho rõ hơn, lòng tự nhủ rằng có thể mình sẽ tìm được ở đây một ngôi nhà, một ngôi nhà đổ nát cũng được, để làm chỗ trú chắc chắn hơn. Đi đọc theo bìa rừng, tôi nhận ra một bức tường thấp dựng chắn ngang trước mặt, nhưng xa hơn một chút lại có một lỗ hổng khá rộng. Từ chỗ này, cánh rừng thông mở ra một lối nhỏ dẫn tới một khối sẫm đen vuông vắn mà tôi cho đó là một tòa nhà. Nhưng đúng vào lúc tôi vừa thoáng nhận ra cái mảng tối đen ấy thì ánh trăng lại bị những đám mây che mất, vậy là tôi phải mò theo lối đi ấy dưới một bóng tối hoàn toàn. Tôi vừa mò mẫm bước vừa run lên vì lạnh, nhưng một chỗ trú ẩn thật sự đang đón chờ tôi; và chính niềm hy vọng đã dẫn bước cho tôi; thực ra, tôi đang đi như một kẻ không có mắt.
Tôi đứng sững lại vì ngạc nhiên nhận thấy sự im ắng đến bất ngờ của không gian. Giông tố đã qua đi, dường như trái tim tôi cũng đang ngừng đập. Cảm giác đó kéo dài trong giây lát, bởi ánh trăng lại một lần nữa lấp ló giữa những đám mây đen, và cũng chính là lúc tôi nhận ra mình đang lạc vào một nghĩa địa, ngôi nhà hình vuông nằm ở cuối lối nhỏ chính là một ngôi mộ đá lớn, trắng toát một màu tuyết phủ. Ánh trăng xuất hiện một lần nữa, rồi kéo theo tiếng ầm ầm của giông tố đang đe dọa quay trở lại; cùng lúc, tôi còn nghe thấy những tiếng tru nặng nề ghê rợn kéo dài mãi không dứt của bầy sói hay bầy chó hoang. Tôi lại chợt rùng mình, cái lạnh vẫn tiếp tục chích vào da thịt tôi, và dường như cả vào trái tim đang đơn độc của tôi nữa. Trong khi ánh trăng tiếp tục soi tỏ ngôi mộ đá, thì cơn giông vẫn ầm ầm quay trở lại mỗi lúc một cuồng nộ hơn. Như bị thôi miên, tôi từ từ bước lại gần lăng mộ kỳ quái mọc trơ trọi phía trước. Sau khi lượn một vòng, tôi đọc được mấy dòng chữ tiếng Đức ghi trên ô cửa có kiến trúc mang phong cách đôric :
Phu nhân bá tước Dolingen De Gratz Styrie người đã tìm và đến với cái chết năm 1801
Phía trên ngôi mộ là một cây cọc sắt dài gắn vào nền đá. Lăng mộ này được xây bằng nhiều tảng đá cẩm thạch. Trở lại phía đầu hồi, tôi thấy một dòng chữ khắc bằng tiếng Nga :
Những cái chết nhanh chóng bị lãng quên
Tất cả toát lên một vẻ kỳ quái và bí ẩn đến mức làm tôi suýt ngất xỉu. Tôi bắt đầu thấy hối tiếc vì đã không nghe theo lời can ngàn của Johann. Một ý nghĩ ghê sợ chợt lóe lên trong đầu tôi. Đó là đêm Walpurgis! Walpurgis Nacht!
Vâng, đêm Walpurgis là cái đêm mà hàng nghìn, hàng nghìn người tin rằng quỷ dữ đã xuất hiện trong chúng tôi, rằng các thây ma đã bật mồ mả đứng dậy, và rằng tất cả quỷ sứ gian manh của đất, nước và không khí đã mở hội náo loạn.
Chẳng cần tay xà ích người Đức, mà đến ngay cả tôi lúc này cũng muốn trốn khỏi ngôi làng bỏ hoang từ nhiều thế kỷ này bằng mọi giá. Nơi đây, người ta đã chôn vùi kẻ tự tử, ấy vậy mà tôi đang đứng trơ trọi một mình trước nấm mồ của kẻ xấu số đó Bất lực, run rẩy vì lạnh dưới một lớp vải liệm bằng tuyết trắng toát, trước một cơn giông điên khùng đang đe dọa quay trở lại? Tôi đã phải cầu khấn tất cả lòng can đảm, lý trí của chính bản thân mình và cả đức tin vào Chúa Trời mà tôi vẫn nuôi dưỡng bấy lâu để khỏi bị ngã khuỵu xuống đất.
Quả thực, chỉ một lát sau, tôi đã bị nuốt chửng bởi một cơn vòi rồng thực sự bắt đầu tràn tới. Mặt đất bỗng rung chuyển như đang nằm dưới sự giày xéo của hàng ngàn vó ngựa, và lần này không phải là một trận bão tuyết, mà là một trận mưa đá điên khùng với sức mạnh ghê gớm cuốn theo cả các tán lá, đánh gẫy vô số các cành cây, đến nỗi chỉ trong chốc lát, những cây thông đỏ không còn là chỗ trú ẩn cho tôi nứa. Tôi chạy thục mạng sang một gốc cây khác, song ở đó cũng không hơn. Chẳng mấy chốc xung quanh bỗng trở nên trơ trọi, không có chỗ nào có thể làm chỗ trú cho tôi. Tôi loay hoay tìm một chỗ có thể làm nơi ẩn náu thực sự: cửa nhà mồ. Vì được xây theo kiểu đôric, nên nhà mồ có một khuôn cửa rất sâu. Ở đó, đứng tựa vào một thanh đồng đồ sộ, tôi có thể ít nhiều tránh được những cục mưa đá nặng trịch, bởi vì lúc này chúng chỉ có thể bắn vào người tôi sau khi đã rơi xuống lối đi hoặc đập vào các tấm đá lát.
Cánh cửa nơi tôi đứng bỗng nhiên bật ra và hé mở vào bên trong. Cơn giông tàn khốc dường như đã dành cho tôi một cơ may bất ngờ khi mở ra cho tôi một nơi ẩn náu chắc chắn hơn. Tôi nhanh chân bước vào trong nhà mồ đúng vào lúc một tia chớp chói lòa chạy loằng ngoằng một góc bầu trời. Nhưng chính lúc đó, tức là lúc tôi đang quay mặt về phía bóng tối trong hầm mộ, tôi đã sững sờ khi trông thấy một người đàn bà rất đẹp, hai má tròn trĩnh, cặp môi đỏ chót, đang nằm dài trên một chiếc cáng, vẻ như đang ngủ. Tôi bỗng giật thót người bởi một tiếng sét bất ngờ gầm lên và ngay lúc ấy, người tôi như bị bàn tay thô bạo của một gã khổng lồ túm chặt, ném thẳng ra ngoài giông bão. Sự việc diễn ra nhanh đến nỗi ngay trước khi nhận được một cú sốc về thể xác cũng như tinh thần tôi đã lập tức cảm thấy cái lạnh toát của những cục mưa đá to bự đập vào người.
Nhưng đó cũng là lúc tôi có một cảm giác thật kỳ lạ: tôi không ở đây một mình.
Tôi lại ngoảnh mặt nhìn về phía nhà mồ khi cánh cửa vẫn đang mở rộng ngoác.
Lại một tiếng sét chói lòa bất thình lình đánh trúng vào chiếc cọc sắt cắm trên nóc mộ, rồi xẹt một đường xuống tận hố đất, phá tan phần mộ uy nghi. Xác người đàn bà bị hất tung lên; lửa bùng cháy tứ phía; những tiếng kêu đau đớn của xác chết nhanh chóng bị tiếng gầm vang của sấm sét nuốt chửng. Đây quả là một bản hòa tấu khủng khiếp mà tôi đã được nghe đúng vào lúc chót, bởi bàn tay khổng lồ lại một lần nữa túm chặt lấy tôi và ném ra giữa cơn mưa đá, trong khi những ngọn đồi xung quanh tôi liên tục dội tới những tiếng hú dài man rợ của bầy sói. Cảnh tượng cuối cùng mà tôi nhớ được là một đám đông trắng toát một màu tang tóc đang lởn vởn chuyển động, như thể tất cả các ngôi mộ quanh quẩn đây đều bật mở để hồn ma của những kẻ đã chết chập chờn bước cả về phía tôi dưới những cơn lốc mưa đá.
Nhưng rồi tôi cũng dần dần tỉnh lại, người cảm thấy mệt mỏi đến phát sợ.
Phải mất một hồi lâu tôi mới nhớ lại được những gì đã xảy ra. Toàn thân tôi, từ đôi tay, cột sống đến hai chân đều tê dại đau đớn. Tôi cố cử động một cách vô ích đôi bàn chân. Nhưng từ đáy lòng, tôi lại cảm thấy một cảm giác ấm nồng kỳ lạ bù đắp cho những cảm giác đau đớn. Quả là một cơn ác mộng - một ác mộng thể xác, nếu tôi có thể diễn tả như vậy, bởi tôi vẫn chưa xác định được một vật ghê gớm đang đè nặng lên ngực khiến tôi nghẹt thở muốn chết.
Tôi cứ nằm như vậy khá lâu, trong trạng thái nửa lịm nửa thức, nếu như đó không phải là trạng thái bất tỉnh. Lúc sau, tôi chợt cảm thấy buồn nôn, trong người quay cuồng như một kẻ bị say sóng. Trong tôi bắt đầu trào dâng một nỗi khát khao được giải phóng khỏi một cái gì đó... mà tôi không biết.
Xung quanh tôi là một bầu không khí câm lặng lạ lùng đang ngự trị, cả thế giới như đang chìm trong giấc ngủ vĩnh cửu hoặc như vừa mới chết - sự im lặng ấy chỉ bị gián đoạn bởi hơi thở hổn hển của một con vật chắc hẳn đang đứng rất gần tôi. Tôi bỗng cảm thấy có một vật gì đó nóng hổi vừa quệt xiết vào cổ mình, và tôi nhận ngay ra rằng mình đang đứng trước một sự thật khủng khiếp. Một con vật lực lưỡng đang nằm đè lên người tôi, mõm nó gí sát vào cổ tôi. Tôi không dám động đậy vì biết chỉ có sự nằm im bất động mới có thề giúp tôi thoát chết lúc này. Nhưng con vật chắc chắn đã hiểu rằng trong tôi đang có sự thay đổi, bởi nó vừa ngẩn ngơ đầu lên. Qua hàng mi, tôi nhận ra phía trên mình là hai con mặt to, sang quắc của một con sói khổng lồ. Hai hàm răng trắng ởn, dài lởm chởm và nhọn hoắt của con vật càng lộ rõ trong cái mõm đang há hốc đỏ lòm.
Hơi thở nóng hổi và tanh tưởi của nó như xộc cả vào mũi tôi.
Một lần nữa tôi rơi vào trạng thái mê man bất tỉnh trong một thời gian khá đài. Cuối cùng, chỉ có tiếng gầm gừ trầm đục kéo theo những tiếng rít ăng ăng bất chợt vang lên mới làm tôi tỉnh lại. Tiếp đó, tôi mơ hồ nghe thấy một tràng âm thanh dường như là tiếng gọi của nhiều người cùng cất lên từ rất xa: “Nào! Nào!” Tôi thận trọng ngóc đầu đậy nhìn về phía có những tiếng kêu, nhưng nghĩa địa đã che mất tầm mắt của tôi. Con sói hoang vẫn gầm gừ rít lên kỳ dị, và hình như vừa có một vệt sáng màu đỏ chạy lòng vòng về các hướng trong rừng thông. Có vẻ như ánh sáng ấy đi cùng hướng với những tiếng gọi. Tiếng gọi càng lớn bao nhiêu thì tiếng gào thét của con sói càng dữ dội bấy nhiêu.
Chưa bao giờ tôi thấy sợ một cử động, một tiếng than thở của mình đến thế.
Quầng trắng bao phủ xung quanh tôi như một lớp vải liệm trong đêm. Bất thình lình, đằng sau các thân cây bỗng xuất hiện một toán kỵ mã, tay cầm đuốc, phi nước kiệu ào tới. Con sói đứng bật dậy, nhảy phốc khỏi ngực tôi và cắm đầu chạy vào nghĩa địa. Tôi nhận ra một kỵ binh (cả toán đều là những người lính, tôi biết vậy nhờ bộ quân phục trên người họ) đang tì khẩu cạc bin vào vai chuẩn bị bóp cò. Một phát đạn nổ chát chúa ngay trên đầu tôi. Chắc là anh ta đã nhầm cái thây sống của tôi với con sói kia. Cũng may là có một người lính khác trông thấy con vật đang bỏ chạy; lại thêm một phát đạn nữa rít lên. Ngay sau đó, toán kỵ binh thúc ngựa phi nước đại một số chạy về phía tôi, số còn lại cấp tập đuổi theo con sói đang mất hút dưới những cây thông phủ đầy tuyết.
Biết là có người đến gần tôi mới dám thử cử động chân tay, nhưng tôi không thể làm được: tôi đã hoàn toàn tê liệt vì kiệt sức, mặc dù vẫn còn khả năng nhận biết tất cả những gì đang xảy ra, hoặc những người đang nói chuyện huyên náo xung quanh. Có hai, ba người lính nhảy xuống ngựa, quỳ gối kiểm tra tôi. Một người trong số họ nâng gáy rồi đặt tay lên ngực tôi.
- Không vấn đề gì, các cậu ạ! - Anh ta reo lên - Tim ông ta vẫn còn đập!
Họ cho tôi nhấp một chút rượu mạnh, điều này đã giúp tôi trở lại chính mình: cuối cùng thì tôi cũng đã mở to được hai mắt. Cảnh đầu tiên tôi có thể nhìn rõ lúc này là ánh sáng từ những ngọn đuốc đang nhảy nhót cùng bóng tối trên các ngọn cây. Tôi dỏng tai nghe những người đàn ông chất vấn nhau. Những tiếng kêu suýt xoa của họ lộ rõ vẻ lo sợ. Một lát sau, đám kỵ binh vừa đuổi theo con sói đã trở về với một vẻ mặt hốt hoảng như bị ma đuổi. Mấy tên lính đang ngồi quanh tôi ngẩng mặt lên hỏi, vẻ khiếp sợ :
- Sao rồi? Các cậu có đuổi được nó không?
- Không! Không? - Mấy người ngồi trên ngựa vội vàng trả lời, tôi có cảm giác như họ vẫn còn sợ - Chúng ta phải đi thôi, nhanh lên, nhanh lên! Đừng có ngu xuẩn kề cà ở một nơi như thế này, nhất là lại vào đúng đêm nay!
- Nhưng làm sao mới được chứ? - Mấy tay ngồi bên tôi gặng hỏi, giọng nói của mỗi người đều có một cái gì đó như một cảm xúc riêng. Câu trả lời của họ cũng không mấy giống nhau và điều đáng nói nhất là tất cả các câu trả lời đều mập mờ, ấp úng; dường như những người đàn ông này lúc đầu đều muốn nói cùng một điều gì đó, nhưng một nỗi sợ giống nhau nào đó đã ngăn không cho họ nói đến cùng ý nghĩ của mình.
- Đó là... đó là... đúng thế? - Một tên ấp úng nói.
- Một con sói... nhưng cũng không hẳn là một con sói! - Một tên lính khác vừa nói vừa run.
- Có bắn trúng con quái vật ấy cũng chẳng có tác dụng gì nếu không có một viên đạn thánh. - Tên thứ ba nói với một vẻ bình tĩnh hơn.
- Thật là phúc đức khi đi vào đêm nay! - Tên thứ tư mỉa mai - Không khéo chúng ta phải kiếm được cả ngàn mác ấy chứ?
- Trên các mảnh đá vỡ có dính máu - Một tên khác nói - không phải là sấm sét đã làm cái chuyện ấy. Thế còn thằng cha này? Ông ta không gặp nguy hiểm chứ? Nhìn cổ ông ta kìa! Các cậu thấy lồi chứ, con sói đã nằm đè lên người ông ta và giữ cho ông ta khỏi chết cứng.
Sau khi cúi xuống nhìn tơi, viên sĩ quan tuyên bố.
- Chẳng có gì nghiêm trọng cả, da thịt ông ta thậm chí cũng không bị xước.
Không hiểu câu chuyện rồi sẽ đi tới đâu? Bởi chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy ông ta nếu như không có những tiếng kêu của con sói.
- Thế con quái vật ấy chạy đi đằng nào rồi? - Người lính đang đỡ đầu tôi hỏi, có vẻ như anh ta là người còn giữ được dòng máu lạnh trong đám kỵ binh này.
- Nó quay về hang rồi. - Đồng đội của anh ta trả lời với bộ mặt tái mét, mắt khiếp sợ liếc nhìn xung quanh. - Ở đây làm gì có nhiều mồ mả để nó ẩn náu cơ chứ? Đi thôi, các bạn!
Nhanh lên! Hãy mau mau chuồn khỏi cái xó đáng nguyền rủa này!
Trong lúc viên sĩ quan ra lệnh, tên lính đã kịp nâng tôi ngồi dậy. Mấy tên khác cũng xúm lại vực tôi lên lưng ngựa. Viên sĩ quan nhảy lên phía sau quàng tay ôm lấy tôi trước khi ra lệnh rút lui. Để lại đằng sau những hàng thông, chúng tôi phi nước đại thành một hàng như quân lệnh.
Khi còn chưa tìm lại được khả năng diễn đạt của mình, tôi không thể kể gì về cuộc phiêu lưu của mình. Có lẽ là tôi vẫn đang trong trạng thái ngủ, bởi điều duy nhất mà tôi nhớ được kể từ lúc này là tôi đang ở tư thế đứng, hai bên có hai người lính xốc nách. Một ngày mới đang lên, ánh mặt trời hắt một vệt nắng dài xuống lớp tuyết trông như một con đường máu. Viên sĩ quan ra lệnh cho đám lính không được kể lại những gì họ đã trông thấy; điều duy nhất mà họ được nói là đã tìm được một người Anh đo một con chó rất lớn canh giữ.
- Một con chó! Nhưng cũng không hẳn là một con chó! - Tên lính lúc nào cũng có vẻ khiếp sợ thất lên - Khi nhìn thấy một con sói, chắc chắn tôi biết cách nhận ra nó bằng một con chó!
Viên sĩ quan trẻ bình tĩnh nhắc lại :
- Tôi đã nói là một con chó.
- Một con chó! - Một tên lính khác nhại lại, vẻ giễu cợt.
Rõ ràng là ánh mặt trời đang lên đã làm cho anh ta trở nên can đảm hơn. Đi được một đoạn, anh ta bỗng chỉ tay vào tôi nói :
- Nhìn cổ ông ta kìa. Các cậu sẽ nói với tớ rằng chính một con chó nhà đã làm như vậy chứ?
Tôi giật mình đưa tay xoa xoa vào cổ và không sao kìm được một tiếng kêu đau đớn.
Tất cả xúm vây quanh lấy tôi, một sớ vẫn ngồi trên yên ngựa cúi xuống nhìn cho rõ hơn. Và một lần nữa, giọng nói bình tĩnh của viên sĩ quan trẻ lại cất lên :
- Đó là con chó nhà, tôi đã bảo mà! Nếu chúng ta kể khác đi, người ta sẽ cười vào mũi cho đấy?
Một tên lính giúp tôi trở lại lưng ngựa cùng viên sĩ quan, chúng tôi đi theo lối dẫn tới khu. lao động ở ngoại ô Munich. Ở đó, họ tìm cho tôi một chiếc xe bò để trở về khách sạn Bốn Mùa. Để một tên lính trông ngựa, viên sĩ quan đi vào khách sạn cùng tôi, số còn lại trở về trại lính.
Delbruck hớt ha hớt hải chạy ra đón chúng tôi. Nhìn bộ dạng ông, tôi biết ngay là ông đã rất sốt ruột trong lúc chờ đợi. Ông túm chặt lấy tôi bằng cả hai tay và chỉ chịu buông ra khi tôi đã vào tới hành lang. Viên sĩ quan định chào từ biệt, nhưng tôi cố nài nỉ anh ta ở lại chơi với chúng tôi một lúc. Tôi kéo anh ta lên phòng và rót mời anh ta một ly rượu để bày tỏ lòng biết ơn người đã cứu mạng và ca ngợi long dũng cảm của những kỵ sĩ. Anh ta khiêm tốn đáp lại rằng bản thân anh ta cũng cảm thấy rất sung sướng, rằng chính ngài Delbruck mới chính là người đầu tiên đưa ra các biện pháp thiết thực, nhiệt thành và cuộc tìm kiếm này hoàn toàn không có gì là khó chịu cả. Nghe những lời bộc bạch của viên sĩ quan, ông chủ khách sạn chỉ mỉm cười. Viên sĩ quan một lần nữa xin phép được cáo từ đã đến giờ anh ta phải về trại đóng quân.
- Thưa ngài Delbruck, - Tôi hỏi khi viên sĩ quan đã ra về - làm thế nào mà toán lính này lại đi tìm tôi như vậy? Tại sao lại thế?
Ông chủ khách sạn khẽ nhún vai trả lời, vẻ không có gì quan trọng :
- Ngài tư lệnh của trung đoàn mà tôi từng phục vụ trước đây đã cho phép tôi gọi người tình nguyện đi tìm ông.
- Nhưng làm sao ngài biết tôi lạc đường?
Tên xà ích trở về với một chiếc xe tàn tạ: chiếc xe gần như tan nát, trong khi lũ ngựa cứ lồng lên như hóa dại.
- Nhưng đó chưa phải là nguyên nhân duy nhất khiến ngài phải nhờ đám kỵ binh đi tìm tôi?
Ồ? Đúng thế... ông xem này... Thậm chí ngay trước khi tên xà ích về tới đây tôi đã nhận được bức điện này của một nhà quý tộc mà ông là đối tượng được quan tâm...
Delbruck rút trong túi ra một mẩu giấy. Tôi vội cầm và đọc ngấu nghiến :
Bistritz Xin ngài hãy làm ơn để mắt quan tâm tới người sẽ trở thành tân khách của tôi; sự an toàn của ông ta đối với tôi là cực kỳ quý giá. Nếu như có chuyện gì đáng tiếc xảy ra với ông ta, hoặc nếu chẳng may ông ta mất tích, thì xin ngài hãy làm tất cả những gì có thể để cứu mạng ông ấy. Đó là một người Anh, một người Anh thích phiêu lưu. Tuyêí rơi, đêm tối, và chó sói có thể mang tới cho ông ta rất nhiều điều nguy hiểm. Xin hãy đừng để mất một giây phút nào nếu ngài cảm thấy có một chút gì đó lo lắng cho ông ta. Gia sản của tôi hoàn toàn đủ để tôi đền bù xứng đáng cho lòng nhiệt tình của ngài.
Dracula.
Tôi cầm mẩu giấy trên tay mà cảm thấy căn phòng như đang quay tròn. Nếu như ông chủ khách sạn không kịp ra tay đỡ thì có lẽ tôi đã ngã nhào xuống đất.
Quả là một chuyện kỳ lạ, bí ẩn và không thể nào tin nổi. Tôi dần cảm thấy mình đang là một thứ trò chơi và một canh bạc được thua của quyền lực đối lập nhau - cái ý nghĩ không thể xoay chuyển và mơ hồ này dường như đang làm thân xác tôi tê liệt. Chắc chắn là tôi đang nằm trong một vòng tay bảo vệ bí ẩn. Gần như trong cùng một phút, bức thông điệp đến từ một xứ xa xôi đã giữ tôi khỏi một mối nguy hiểm bị ngủ vùi dưới lớp tuyết trắng và kéo tôi thoát khỏi nanh chó sói.
Bistritz, ngày 3 tháng 5
Rời Munich vào tám giờ tối ngày 1 tháng 5; đến Viên vào sáng sớm ngày hôm sau. Lẽ ra chúng tôi phải tới nơi vào lúc sáu giờ năm mươi, nhưng tàu lại đi chậm mất một tiếng đồng hồ. Và trong cuộc hành trình tiếp tục tới Budapest, như đã hình dung sau những gì được chứng kiến từ lúc ngồi trên tàu, và sau những gì được chiêm ngưỡng ở một vài đường phố trong lúc dạo bộ khi tàu tạm dừng, tôi thấy đây quả là một thành phố đẹp.
Nhưng vì tôi rất sợ bỏ đi quá xa nhà ga, bởi dẫu có muộn chúng tôi vẫn phải tiếp tục khởi hành như đã dự kiến... Tôi có cảm tưởng rất rõ ràng trong cuộc hành trình rời phương Tây để đến với thế giới của phương Đông. Sau khi tàu lướt qua các cây cầu mỹ miều manh kiến trúc mẫu mực phương Tây bắc qua đoạn sông Đanuýp vừa rộng lại vừa sâu nơi đây, chúng tôi lạc ngay vào một vùng mang đậm tập quán của người Thổ Nhĩ Kỳ.
Rời Budapest không đến nỗi quá muộn, chúng tôi đến Klausenburgh vào lúc chiều tối. Tới đây, tôi phải nghỉ qua đêm tại khách sạn Hoàng gia. Người ta dọn cho tôi bữa tối, hay nói đúng hơn là món xúp, một con gà tơ nấu với ớt đỏ ngon đấy, nhưng nếu ăn vào sẽ thưa hồ mà khát nước! (Tôi nghĩ lại món này theo ý của Mina). Người hầu bàn bảo đó là món paprika hendi, một món ăn dân tộc mà tôi có thể thấy ở khắp nơi trong vùng Carpates. Vốn tiếng Đức sơ sơ của tôi kể ra cũng rất có ích, bởi thực tình mà nói, nếu mù tịt, tôi thật không biết phải rút lui như thế nào.
Ở Luân Đôn, trong những lúc rảnh rỗi, tôi thường đến Bảo tàng Anh hoặc đến Thư viện Quốc gia để tra cứu bản đồ địa lý và các cuốn sách nói về xứ Transylvanie. Tôi thấy thật thú vị khi biết ít nhiều điều về xứ này, bởi vì tôi sắp có một phi vụ làm ăn với một quý ông ở đó. Mảnh đất mà quý ông này nói với tôi trong thư nằm ở phía đông đất nước, trên đường biên giới của ba xứ sở: Transylvanie, Moldavie, Bukovine, trong rặng Carpates. Đây là một trong những vùng ít tiếng tăm nhất và cũng hoang sơ nhất châu Âu. Nhưng không có một cuốn sách hay một tấm bản đồ nào có thể chỉ cho tôi biết chính xác nơi tọa lạc của tòa lâu đài mang tên bá tước Dracula, bởi hiện vẫn chưa có một tấm bản đồ chi tiết nào về xứ này. Tuy nhiên, những lần tra cứu cũng cho tôi biết rằng Bistritz - nơi bá tước Dracula đã nói với tôi và để tới đó, tôi phải đi bằng xe ngựa - là một thành phố nhỏ, cổ kính, được rất nhiều người biết đến. Tôi sẽ kể lại những ấn tượng khó quên của mình. Điều đó sẽ làm tôi sống lại một ký ức khi nhắc lại những cuộc du ngoạn với Mina.
Có bốn chủng tộc sống ở Transylvame: ở phía nam là những người Saxon sống lẫn với người Wallach vốn có xuất xứ từ sắc tộc Dacian; ở phía tây là người Magyard; còn ở phía đông và phía bắc là người Szekely. Tôi sẽ nghỉ lại cùng những người Szekely. Nghe nói họ xuất thân từ Attila và là hậu duệ của người Hung nô. Có lẽ điều này là có thật bởi vì vào thế kỷ thứ mười hai, khi người Magyard đi chinh phục xứ sở mà hiện nay họ đang sống, thì người Hung đã sinh cơ lập nghiệp ở đó rồi. Dường như mọi mê tín dị đoan trên thế giới đều có ở vùng Carpates, và tất cả luôn làm khuấy động trí tưởng tượng của dân gian. Nếu thực tế đúng là như vậy, thì những ngày nghĩ lại xứ này của tôi chắc sẽ rất thú vị. (Chắc chắn tôi sẽ luôn quấy rầy ngài bá tước với những câu hỏi về cái tín ngưỡng dị đoạn này).
Đêm đầu tiên tôi không thể ngủ say, nguyên nhân không phải là do lạ nhà lạ cửa, mà là do tôi đã mơ những giấc mơ quái lạ. Suốt cả đêm, tôi luôn cảm thấy như có một con sói đang tru lên ầm ĩ ngay bên dưới cửa sổ phòng mình: đó là do chứng mất ngủ của tôi hay là do mónpaprika? Bởi vì tôi đã nốc cạn bình nước trong phòng mà vẫn khát cháy họng. Nhưng cuối cùng thì tôi cũng chìm sâu vào giấc ngủ khi trời đã về sáng, bởi tôi bị đánh thức khi nghe thấy tiếng gõ cửa, mà hình như người gõ cửa đã phải làm như vậy rất lâu Tới bữa điểm tâm, người ta lại cho tôi ăn món paprika, một chút cháo yến mạch làm bằng bột ngô mà họ gọi là món mamaliga, và vài bát bánh nhồi nhân - một món ăn ngon tuyệt có tên là impletata. (Tôi đã ghi lại cách chế biến món này cho Mina). Tôi ăn vội vàng, bởi đoàn tàu sẽ tiếp tục khởi hành trước tám giờ có vài phút; nói một cách chính xác hơn, lẽ ra là tàu phải khởi hành vào lúc tám giờ kém vài phút ấy vậy mà sau một cuộc việt dã bở hơi tai để tới ga vào lúc bảy giờ ba mươi, tôi vẫn phải ngồi đợi tới hơn một tiếng đồng hồ trong toa trước khi đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh. Tới có cảm giác như càng đi về phía đông, các đoàn tàu càng đi muộn giờ thì phải. Không hiểu mọi việc rồi diễn ra như thế nào ở Trung Hoa?
Suốt cả ngày hôm đó, tàu chúng tôi chạy qua một xứ sở tuyệt đẹp, muôn hình muôn vẻ. Khi thì chúng tôi được chiêm ngưỡng những thành phố bé nhỏ vôi những tòa lâu đài nằm chênh vênh trên những ngọn dồi dốc đứng giống như khung cảnh được miêu tả trong sách kinh Thánh cổ xưa; khi thì đoàn tàu chạy dọc theo những dòng suối lớn nhỏ có bờ đá nhấp nhô uốn lượn như những hàng lan can của tạo hóa. Ở những nơi chúng tôi dừng chân, sân ga nào cũng nhộn nhịp các đám đông ăn mặc đủ màu sắc sặc sỡ với đủ loại y phục. Một số người rất giống với những người nông dân ở đất nước chúng tôi hoặc ở Pháp và Đức: họ chỉ mặc những tấm áo lưới đơn giản với những chiếc quần tây cắt ống khá rộng và đội mũ vành tròn; nhưng số khác lại ăn mặc có vẻ nhiều màu sắc hơn.
Phụ nữ ở đây trông có vẻ rất khỏe mạnh và cũng khá xinh đẹp nếu như bạn không nhìn họ quá gần. Tất cả đều mặc áo có ống tay trắng rộng quá khổ, eo mang thắt lưng bằng vải da màu lúc nào cũng bay phấp phới trên những tấm váy lộng lẫy. Tuy nhiên, tôi thấy người Xlôvaki là có vẻ lạ mắt hơn tất cả; họ đội mũ rộng vành kiểu cao bồi, mặc quần ống phồng màu cháo lòng, áo sơ mi vải lanh trắng và đeo thắt lưng da rộng bản có đóng nhiều đinh mũ bằng đồng. Đặc biệt là người đàn ông nào cũng thích xỏ chân vào một đôi ủng dài bao lấy ống quần. Mái tóc đen, dài và bộ râu rậm khiến họ có vẻ đặc sắc hơn nhưng lại không đem lại cho họ một vẻ dễ thương chút nào. Thực tình mà nói, nếu như đi du lịch bằng xe ngựa thì có lẽ tôi đã tưởng nhầm họ là một toán cướp đường, mặc dù đã có người nói với tôi rằng họ chưa bao giờ làm điều gì xấu với ai, mà ngược lại, lúc nào họ cũng chỉ là những kẻ nhát gan.
* * * * *
Chúng tôi tới Bistritz lúc nửa đêm. Như tôi đã nói, Bistriz là một thành phố cổ kính có quá khứ đặc biệt. Nằm gần đường biên giới - quả thực, khi rời Bistritz, chỉ cần vượt qua đèo Borgo là tới Bukovine - thành phố này đã trải qua biết bao thăng trầm mà nhiều dấu ấn của nó vẫn còn đọng lại đến ngày nay.
Cách đây năm mươi năm, những trận hỏa hoạn ghê người xảy ra liên tục đã san phẳng tất cả. Vào đầu thế kỷ mười bảy, thành phố này cũng đã phải chống đỡ một cuộc vây hãm trong suốt ba tuần, khiến mười ba ngàn người phải bỏ mạng, đó là còn chưa kể tới các nạn nhân của đói kém và dịch bệnh.
Bá tước Dracula bố trí cho tôi ở khách sạn Vương miện Vàng. Tôi rất vui vì thấy đó là một ngôi nhà rất cổ kính, bởi dẫu sao thì tôi cũng rất muốn càng hiểu nhiều về phong tục tập quán của xứ này càng tất. Có người đứng đợi tôi ở trước cửa: đó là một phụ nữ đứng tuổi có khuôn mặt rạng rỡ, ăn mặc đúng kiểu nông dân trong vùng. Bà cúi rạp người chào tôi và hỏi :
- Ngài có phải là một người Anh không ạ?
- Vâng, - Tôi trả lời - tôi là Jonathan Harker.
Người phụ nữ mỉm cười và nói điều gì đó với một gã đàn ông mặc áo sơ mi trần đang đứng đằng sau. Gã lập tức biến mất nhưng rồi lại trở lại ngay với một lá thư đưa cho tôi. Lá thư ấy viết thế này :
“Ông bạn thân mến,
Hoan nghênh ông đã đến với rặng Carpates. Tôi rất sốt ruột chờ đợi ông.
Chúc ông ngủ ngon đêm nay. Chuyến du lịch xe ngựa tới Bukovine vào chiều mai sẽ được bắt đầu vào lúc ba giờ, chỗ của ông đã được giữ trước. Xe của tôi sẽ đợi đón ông trên đèo Borgo. Hy vọng rằng từ Luân Đôn, cuộc hành trình của ông sẽ diễn ru thuận lợi, và ông sẽ cảm thấy thực sự thoải mái trong những ngày sống ở đất nước tươi đẹp của chúng tôi.
Chào thân ái,
Dracula”.
* * * * *
Ngày 4 tháng 5
Bản thân ông chủ khách sạn cũng nhận được một lá thư của ngài bá tước với đề nghị dành cho tôi một chỗ ngồi tất nhất trên xe ngựa, nhưng khi tôi hỏi vài câu, ông chủ lại có vẻ ngập ngừng và lấy lý do là không hiểu được hết thứ tiếng Đức mà tôi nói; rõ ràng là một sự nói dối bởi lúc tôi mới đến khách sạn, ông ta đều hiểu hết những gì tôi nói. Hai vợ chồng ông chủ nhìn nhau vẻ lo lắng rồi quay sang ấp úng trả lời tôi rằng tiền đi xe ngựa đã được gửi trước cùng một lá thư, ngoài ra họ cũng không biết gì hơn. Khi tôi hỏi về bá tước Dracula và tòa lâu đài của ông ta, cả hai vợ chồng cùng làm dấu thánh và trả lời họ hoàn toàn không rõ gì hết, rồi ra hiệu cho tôi hiểu họ không muốn nói về chuyện đó nữa. Vì giờ lên đường đã tới nên tôi không còn thời gian để hỏi thăm qua những người khác. Tôi thấy sự việc thật bí ẩn và không có sức thuyết phục.
Đúng vào lúc tôi sắp sửa lên đường thì bà chủ bỗng hớt hải chạy vào phòng hỏi tôi bằng một giọng hoảng hốt :
- Ngài định đi tới đó thật sao? Ôi! Ông bạn trẻ, ngài định đi tới đó thật ư?
Người phụ nữ hoảng loạn đến nỗi lắp bắp mãi mới nói được một vài từ tiếng Đức mà bà ta biết lẫn với những tiếng gì đó hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Khi tôi trả lời rằng tôi phải đi ngay lập tức để giải quyết một công chuyện quan trọng, bà ta lại hỏi tôi :
- Ngài có biết hôm nay là ngày bao nhiêu không?
Tôi trả lời ngày 4 tháng 5.
- Vâng, tất nhiên là ngày 4 tháng 5. Nhưng là ngày gì chứ?
Khi tôi nói tôi không hiểu rõ câu hỏi, bà ta mới lý giải :
- Là hôm trước của Ngày Thánh George? Chẳng lẽ ngài lại quên rằng đêm nay, đúng vào lúc đồng hồ điểm mười hai tiếng, tất cả các bùa yểm sẽ thống trị trái đất như những chúa tể tuyệt đối hay sao? Chẳng lẽ ngài không biết là ngài đang đi về đâu và sắp sửa đứng trước một điều gì ư?
Người phụ nữ khiếp sợ đến mức tôi phải tìm mọi cách an ủi mà vẫn không được. Cuối cùng, bà ta bỗng quỳ sụp xuống van lạy tôi đừng đi, hoặc nếu có đi thì cũng nên nán lại một hai hôm nữa. Sự kỳ lạ này khiến tôi hơi khó nghĩ.
Nhưng dù sao thì người ta vẫn đang đợi tôi ở lâu đài, và không gì có thể ngăn cản tôi đi tới đó. Tôi đỡ bà chủ dậy, song kiểu gì thì tôi cũng vẫn phải lên đường. Người phụ nữ đứng dậy lau nước mắt, rồi tháo cây thánh giá đeo trên cổ đưa cho tôi sẽ là vô lễ nếu tôi từ chối vật biếu của một người phụ nữ luống tuổi đang muốn những điều tất lành đến với tôi, đang thực sự lo lắng cho tôi. Bà chủ khẽ quàng cây thánh giá vào cổ tôi và nói một câu thật giản dị: “Vì tình yêu dành cho người mẹ của ngài”, rồi bước ra khỏi phòng. Tôi viết những dòng nhật ký này trong lúc chờ đợi chiếc xe ngựa - tất nhiên là lại đến muộn - và cây thánh giá vẫn đang lủng lẳng trên cổ tôi. Phải chăng nỗi sợ hãi, các tín ngưỡng ghê gớm hay chính cây thánh giá nhỏ bé này đã giày vò người phụ nữ luống tuổi đó? Thực tình tôi không biết, nhưng chắc chắn là cảm giác của tôi về những gì vừa xảy ra sẽ kém êm dịu hơn bình thường.
Ngày 5 tháng 5. Tại lâu đài
Màu xanh xám của buổi sớm mai đang dần dần tan biến, nhường lại ánh hồng tươi của mặt trời. Chân trời như đang bị cắt ra thành từng mảng bởi các lùm cây hay các ngọn đồi gì đó mà tôi không rõ, vì mọi cảnh vật lớn, nhỏ, đều nằm ở rất xa và đều lẫn nhòa vào với nhau. Lúc này, tôi đã hết thèm ngủ, ngày mai tôi sẽ thưa hố rảnh rỗi, tôi có thể dậy lúc nào muốn, và tôi sẽ viết cho tới khi nào buồn ngủ mới thôi, bởi tôi có rất nhiều điều kỳ lạ để viết. Trước khi rời Bistritz, tôi đã được ăn một bữa thỏa thuê và rất ngon miệng. Khách sạn cho tôi ăn món mà họ gọi là “thịt rán kẻ cướp” - tức là một vài miếng mỡ lá kèm lẫn hành củ, thịt bò và paprika trộn đều, cuộn quanh các que nhỏ rồi cho vào lửa nướng. Tôi uống loại Mediasch mạ vàng, một thứ rượu vang có thể làm bạn rát lưỡi, nhưng đối với tôi thì không có gì khó chịu.
Tuy nhiên, tôi cũng chỉ uống được hai cốc.
Lúc leo lên xe ngựa, tôi thấy tay xà ích vẫn chưa ngồi lên ghế, anh ta còn mải đứng nói chuyện với ông chủ khách sạn. Không còn nghi ngờ gì nữa, cả hai người đang nói chuyện về tôi, bởi vì chốc chốc họ lại ngoảnh mặt nhìn tôi.
Những người ngồi trên hàng ghế gần cửa khách sạn cũng bắt đầu đứng cả dậy sán đến nghe hai người đàn ông nói chuyện, thỉnh thoảng họ cũng ngoái lại nhìn tôi với ánh mắt chứa đựng một điều gì đấy giống như một sự thương hại. Về phần mình, đôi khi tôi cũng nghe được một vài từ vẳng tới từ đám đông nhưng đó toàn là những từ mà tôi không hiểu. Hơn nữa, họ lại nói bằng nhiều thứ tiếng. Vì vậy, tôi phải mở cuốn từ điển đa ngôn ở trong túi du lịch ra tra cứu, tôi muốn tìm nghĩa của tất cả những từ lạ mà tôi đã nghe lỏm được. Song thú thực là không có bất cứ một nghĩa nào tra được trong cuốn từ điển khiến tôi có thể can đảm lên, bởi vì tôi tra được toàn những từ đại loại như ordog - quỷ satăng; poki - địa ngục: stregocia - phù thủy; vrolok và vlkoslak - một cái gì đó như ma cà rồng hoặc ma sói theo nghĩa của hai thổ ngữ.
Khi chiếc xe ngựa chuẩn bị chuyển bánh, đám người xúm đến trước cửa khách sạn mỗi lúc một đông, tất cả cùng đưa tay làm dấu thánh và giơ ngón trỏ, ngón giữa chỉ về phía tôi quả là không dễ dàng gì khi tôi gặng hỏi một người đồng hành về ý nghĩa của những cử chỉ kỳ quặc đó: họ muốn che chở cho tôi - anh ta giải thích - chống lại những con mắt độc ác. Thực tình mà nói, tôi lại một lần nữa không cảm thấy dễ chịu trước khi tới một nơi xa lạ. Nhưng mặt khác tôi cũng phải thừa nhận một sự thật là tất cả những con người kia, cả đàn ông lẫn đàn bà, đều chứng tỏ một thiện cảm đối với tôi, đều muốn chia sẻ với tôi nỗi bất hạnh mà họ cho là sẽ xảy ra. Và dù thế nào đi chăng nữa thì tôi cũng không bao giờ quên được những hình ảnh xúc động này. Tay xà ích, mặc chiếc quần ống rộng thùng thình che gần kín chiếc ghế anh ta đang ngồi, vung roi huơ huơ trên đầu bốn chú ngựa đã được đóng sẵn. Chúng tôi bắt đầu lên đường.
Vẻ đẹp của phong cảnh trên đường đi đã làm tôi nhanh chóng quên đi những nỗi thắc mắc lo âu, nhưng tôi không nghĩ mình lại có thể cởi bỏ mọi nỗi ám ảnh dễ dàng đến như vậy nếu như hiểu được toàn bộ câu chuyện của những người bạn đồng hành. Trước mắt chúng tôi là những cánh rừng bạt ngàn, hai bên đường thỉnh thoảng lại nhô lên những ngọn đồi dốc đứng, với một lùm cây mọc trơ trọi trên đỉnh hoặc một trang trại lưa thưa mấy nóc nhà đổ bóng xuống con đường. Khắp nơi, chỗ nào cũng thấy cây trái đang trổ hoa - nào là hoa táo, hoa mận, hoa lê và hoa anh đào, tất cả làm nên một bức tranh thực sự lộng lẫy; và cả những thảm cỏ trong các vườn cây chúng tôi đi qua, dưới ánh mặt trời, cũng đang lấp la lấp lánh với những cánh hoa rơi. Dù uốn lượn quanh quanh hoặc vươn dài lên các ngọn đồi, lúc nào con đường cũng như một vải lụa mềm nằm phơi mình trên các thảm cỏ xanh rì, mượt như nhung, hoặc lấp ló náu mình dưới một rừng thông chạy dài hun hút tầm mắt khiến tôi có cảm giác mình đang lạc vào một chốn bồng lai tiên cảnh. Tuy nhiên, càng đi xa, con đường càng trở nên xấu hơn, nhưng tay xà ích vẫn cứ thúc ngựa chạy hết tốc lực. Điều này làm tôi rất ngạc nhiên. Có vẻ anh ta muốn càng lâu tới Borgo Prund càng tốt thì phải.
Trước lúc xuất phát, người ta bảo tôi rằng đường đi rất tuyệt, nhưng rõ ràng là nó vẫn chưa trở lại trạng thái ấy sau những trận tuyết rơi mùa đông vừa rồi. Con đường này không giống với những con đường khác ở vùng núi Carpates: quả thực là không ai dám sửa chữa, vì sợ làm thế sẽ khiến cho người Thổ Nhĩ Kỳ tưởng lầm rằng người ta lại đang chuẩn bị cho một cuộc xâm lược đất nước họ, và như vậy sẽ là cái cớ để họ tuyên chiến ngay lập tức, mà thực tế ở vùng núi này, chiến tranh lúc nào cũng nằm ở điểm chuẩn bị bùng nổ.
Bên kia các đỉnh đồi vẫn là những cánh rừng và những đỉnh núi cao vời vợi của rặng Carpates. Trước mắt chúng tôi chỗ nào cũng là rừng và núi. Ánh trời chiều lung linh rực rỡ làm cho những hang hốc nằm giữa các vách đá cao vút trở thành một màu xanh thẫm hoặc đỏ tía, và biến các đám cỏ mọc phủ lên bờ đá thành một màu xanh nâu, và bức tranh toàn cảnh vô tận của các mỏm đá lởm chởm, nhọn hoắt cũng như biến mất hút về phía chân trời, nơi có những đỉnh núi tuyết nhấp nhô. Khi mặt trời bắt đầu ngả bóng, chúng tôi chợt nhận ra ở đó đây, rải rác giữa các hốc đá lớn, nhỏ, những thác nước nghiêng nghiêng đổ xuống vô vàn ánh bạc.
Chiếc xe ngựa vẫn cần mẫn tiếp tục cuộc hành trình tưởng chừng chẳng bao gĩờ kết thúc. Phía sau chúng tôi, mặt trời dần dần lặn xuống dưới chân trời, bóng chiều ập xuống mỗi lúc một nhanh. Cảm nhận về hoàng hôn càng trở nên rõ nét hơn khi ở trên cao. Các đỉnh núi phủ tuyết trắng vẫn lấp lánh những ánh hồng vương vãi của mặt trời. Thỉnh thoảng trên đường đi, chúng tôi lại bắt gặp một đám người Séc và Slovaki với những bộ trang phục dân tộc nổi tiếng. Tuy nhiên, có một điều khiến tôi cảm thấy không vui: phần lớn trong số họ đều bị bệnh bướu giáp. Dọc hai bên đường thỉnh thoảng lại mọc chơ vơ một cây thánh giá, và cứ mỗi lần chiếc xe ngựa đi ngang qua đó là một lần đám hành khách trong xe lại vội vàng đưa tay làm dấu. Chúng tôi cũng trông thấy những người nông dân đang quỳ gối cầu nguyện trước các nhà thờ mộ. Họ mải cầu nguyện đến mức chẳng thèm ngoảnh lại nhìn khi nghe thấy tiếng xe ngựa tới gần. Tất cả đều là những kẻ sùng đạo, và trong lúc cầu nguyện, không bao giờ họ để tai để mắt tới thế giới xung quanh. Gần như tất cả đều mới lạ đối với tôi: những đụn cỏ khô chất cao đến tận tán lá cây, những bóng liễu rủ để lộ qua từng kẽ lá những cành cội mảnh mai lấp lánh ánh bạc... Thỉnh thoảng tôi lại gặp một chiếc xe bò chở những người nông dân trở về nhà, những người đàn ông Séc vận tấm áo da cừu trắng ngần; còn người Slovaki lại mặc áo đa cừu nhuộm, họ còn mang những chiếc rìu dài như những cây mác bên mình. Màn đêm xuống báo trước một cảnh lạnh lẽo băng giá, bóng tối như càng sâu thẳm hơn giữa những tán lá lãnh sam, lá sồi dày đặc. Chúng tôi đang trên đường tới đèo Borgo. Trong thung lũng dưới chân chúng tôi, những ngọn lãnh sam đen kịt như bị xé ra thành từng mảng giữa một nền tuyết trắng vừa rơi. Đôi lúc, khi con đường đi sâu vào một khu rừng lãnh sam - lúc này như đang nuốt chửng lấy chúng tôi - những đụn mây mù đặc quánh bỗng lập lờ hiện ra trắng toát che khuất hoàn toàn các lùm cây, trông chúng chẳng khác nào những bóng ma chờn vờn. Một lần nữa tôi cảm thấy rùng mình giống như cái cảm giác gai gai tôi vừa trải qua lúc cuối chiều. Trong rặng Carpates, mặt trời lặn đã để lại trên bầu trời những đám mây có hình thù quái dị lởn vởn giữa các hang đá. Các sườn đồi lúc này dốc đến nỗi dù rất vội tới đích, tay xà ích vẫn buộc phải cho ngựa đi chậm lại. Tôi ngỏ ý muốn xuống xe để cuốc bộ một đoạn, giống như tôi vẫn làm ở nước mình khi gặp trường hợp tương tự, nhưng tay xà ích đã lập tức phản đối :
- Không được, không được! - Anh ta đáp lại. - Không thể đi bộ được đâu... Chó ở đây dữ lắm?
Tay xà ích bồi tiếp một câu mà tôi đoán là anh ta đang muốn chứng tỏ mình cũng là người hài hước, vì tôi thấy rõ anh ta đang đưa mắt nhìn từng hành khách để mong nhận được một nụ cười hưởng ứng :
- Ngài hãy cứ tin ở tôi, rồi ngài sẽ có đủ cả, kể cả chuyện cuốc bộ, khi ngài đã ung dung nằm trên giường tối nay.
Anh ta chỉ chịu im tiếng khi đã đến lúc phải thắp sang các ngọn đèn trên xe.
Ánh đèn vừa được thắp sáng, đám hành khách bỗng sôi động hẳn lên, họ nhao nhao thúc giục tay xà ích đánh ngựa đi nhanh hơn. Tay xà ích lập tức vung roi, hô ngựa phi nước đại lên sườn núi. Xe chạy được một lúc, tôi tin là mình vừa trông thấy một tia sáng màu xanh nhợt trong bóng tối ở phía trước - nhưng chắc đó chẳng phải là cái gì khác ngoài một kẽ nứt giữa các vách đá. Những người bạn đồng hành của tôi mỗi lúc một náo động hơn. Chiếc xe ngựa bắt đầu lăn bánh như điên loạn, khiến cho các thành lò xo nghiến kêu ken két, chúng tôi có cảm giác như đang ngồi trên một con thuyền giữa biển động. Tôi phải bám chặt vào thành xe cho khỏi ngã nhào. Một lúc sau, con đường có vẻ bằng phẳng hơn, và tôi lại có cảm tưởng như chiếc xe đang bay trong màn đêm. Đường đi cũng trở nên chật hẹp hơn, các ngọn núi ken sát sau hơn và thực tình mà nói, dường như chúng đang giăng ra để đe dọa chúng tôi: chúng tôi đang đi qua đèo Borgo. Không hiểu sao những người bạn đường lại lần lượt đưa cho tôi mấy vật làm quà, nào là nhánh tỏi, bông hồng dại phơi khô... và tôi thấy rõ là mình không thể từ chối. Quả thật là mỗi món quà đều có một vẻ buồn cười nào đó chẳng giống nhau, song những người tặng quà tôi đều bày tỏ một tấm lòng chân thành, giản dị cùng với những cử chỉ bí ẩn, giống như những người đứng trước cửa khách sạn Bistriz đã làm: làm dấu thánh và giơ hai ngón tay bảo vệ tôi chống lại những ánh mắt độc ác đang lẩn quất đâu đây. Tay xà ích dướn hẳn người về phía trước, ở hai hàng ghế băng trên xe, mấy hành khách cố nghển cổ lên nhìn ra ngoài. Rõ ràng là họ đang chờ đợi một điều gì xuất hiện trong đêm.
Tôi hỏi chuyện, nhưng tất cả đều không muốn trả lời, dù chỉ là một câu. Sự tò mò cứ âm ỉ mãi trong tôi. Cuối cùng thì chúng tôi cũng đã đến sườn phía đông đèo Borgo. Những đám mây đen kịt ùn ùn chồng chất lên nhau, không khí ngột ngạt như sắp sửa có giông. Phải nói rằng giữa hai sườn núi, bầu không khí khác nhau rõ rệt. Bây giờ chúng tôi đang đi vào một khu vực nguy hiểm. Tôi lặng lẽ quan sát chiếc xe có nhiệm vụ dẫn tôi đến nhà ngài bá tước, rồi sốt ruột chờ đợi cái giây phút được trông thấy ánh đèn tỏa ra thấp thoáng từ tòa lâu đài ấy, song xung quanh vẫn đen một màu mực. Ánh sáng duy nhất lúc này vẫn là những ánh đèn trong xe ngựa hắt ra chập chờn cùng với nhịp thở nặng hơi nước của lũ ngựa. Ánh sáng ấy cho phép chúng tôi nhận ra đoạn đường trăng trắng trước mặt, nhưng tuyệt nhiên không thấy bất cứ dấu vết của một chiếc xe nào khác chiếc xe của chúng tôi. Mấy người bạn đường chợt buông một tiếng thở dài rồi xoay người tìm một tư thế ngồi dễ chịu hơn. Tôi cảm thấy cử chỉ của họ giống như một sự chế nhạo: họ giễu cợt sự thất vọng của tôi. Tôi đang nghĩ cách xoay xở trước tình huống khó xử này thì tay xà ích chợt xem đồng hồ và nói gì đó với đám hành khách mà tôi không hiểu; tuy nhiên, tôi cũng đoán được ý anh ta định nói: “Chậm mất một tiếng...” Sau đó, anh ta quay sang khuyên nhủ tôi bằng một thứ tiếng Đức còn tệ hại hơn cả tôi :
- Chẳng nhìn thấy chiếc xe nào cả, chắc là họ không đợi ngài rồi. Có lẽ ngài nên đi cùng chúng tôi tới Bukovine đi, ngài sẽ quay trở lại đây ngày mai hoặc ngày... kia, như vậy sẽ tốt hơn...
Tay xà ích chưa kịp nói dứt lời thì lũ ngựa bỗng hí ầm ĩ và nện móng loạn xạ xuống đất, mấy người ngồi gần tôi cũng giật mình, buột miệng kêu sợ hãi và vội vàng đưa tay làm dấu: thì ra là một chiếc xe ngựa mui trần, bốn ngựa kéo, vừa bất ngờ xuất hiện đằng sau chúng tôi, rồi vượt lên đỗ ngay bên cạnh xe chúng tôi. Dưới ánh đèn, tôi thấy lũ ngựa mới đến con nào con nấy đều thật óng ả, trong đó có một con đen như than. Người điều khiển là một gã đàn ông cao lớn, có bộ râu dài hung hung như râu ngô, đầu đội mũ đen rộng vành che kín mặt.
Dưới ánh đèn chập chờn, tôi vẫn nhận ra ánh mắt long lanh của ông ta. Ánh mắt ấy gần như có màu đỏ.
- Đến sớm quá đấy ông bạn ạ! - Gã nói với tay xà ích của chúng tôi.
Tay xà ích đáp lại bằng một giọng thiếu tự tin :
- Nhưng quý ngài người Anh đây lại rất...
- Chắc đó là lý do giải thích tại sao tôi nghĩ - Gã đàn ông mới đến nói tiếp - là anh định chở ông ta đến tận Bukovine...
- Đừng, anh bạn ạ, không thể lừa được tôi đâu... Tôi biết tổng cả rồi, mà lũ ngựa của tôi cũng chạy nhanh lắm...
Gã vừa cười vừa nói, nhưng nét mặt vẫn đanh lại – lúc này gã đang đứng rất gần chiếc xe của chúng tôi. Tôi trông thấy rất rõ cặp môi đỏ như máu, hai hàm răng nhọn hoắt và vàng ệch như ngà của gã. Một hành khách thì thầm dọc vào tai người ngồi bên cạnh bài thợ Lenore nổi tiếng của Burger :
Denn die todten reiten schnell...
Chắc chắn là gã mới đến đã nghe được bài thơ, vì tôi thấy gã vừa quay sang nhìn vị hành khách với một nụ cười quái gở. Người hành khách vội vàng ngoảnh mặt đi nơi khác, đưa tay làm dấu thánh rồi giơ hai ngón tay ra trước.
- Cho tôi xin hành lý của quý ngài đây nhỉ. - Gã lạ mặt tiếp tục lên tiếng.
Chẳng cần đợi gã nói thế, đống va ly của tôi cũng được chuyển sang chiếc xe mui gập. Tôi bước xuống xe và sang ngồi trong chiếc xe mới. Gã đàn ông đỡ tôi một tay - bàn tay gã quả là cứng như thép. Hẳn gã phải có một sức mạnh phi thường. Chẳng nói chẳng rằng, gã giật dây cương cho xe quay nửa vòng. Chiếc xe mới bắt đầu chuyển bánh và phi hết tốc độ trên đèo Borgo. Ngoái lại phía sau, tôi vẫn nhận ra những ngọn đèn chập chờn của chiếc xe chở khách soi lờ mờ hơi thở đầy hơi nước của lũ ngựa; bóng những hành khách, mà chỉ vừa mới đây thôi còn làm bạn đồng hành của tôi, hiện lên lần cuối cùng trước mắt tôi: họ đang cùng nhau làm dấu thánh.
Gã đánh xe bất chợt vung mạnh chiếc roi, lũ ngựa lập tức chuyển sang đường tới Bukovine. Khi lũ ngựa dấn sâu vào màn đêm, tôi bỗng rùng mình vì một cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng ngay lập tức một tấm áo choàng được khoác lên vai tôi, và tiếp đó là một mảnh chăn du lịch dược đắp nhẹ nhàng lên hai gối. Gã đàn ông nói với tôi bằng một thứ tiếng Đức hoàn hảo :
Thưa ngài, thời tiết hơi tệ, nên bá tước, tức ông chủ của tôi, đã ra lệnh cho tôi không được phép để ngài bị cảm lạnh. Bình slivovitz (một loại rượu trong vùng) tôi để ở kia, ngay dưới ghế ngồi ấy, nếu thích thì ngài cứ việc.
Dù không uống một giọt, song chỉ cần biết trong xe có một bình như vậy là tôi cũng thấy được an ủi rồi. Tuy nhiên, nỗi lo lắng của tôi còn lâu mới yên trở lại, nếu không muốn nói tôi đang rơi vào một tâm trạng trái ngược. Tôi tin rằng nếu có thể, chắc chắn tôi sẽ rời bỏ cuộc hành trình càng lúc càng bí ẩn này.
Đang lao mỗi lúc một nhanh theo con đường, chiếc xe bỗng đột nhiên ngoặt sang đường khác rồi tiếp tục đi thẳng. Tôi có cảm tưởng như chiếc xe đang vòng đi, vòng lại mãi một nơi. Tôi nảy ra ý định thử tìm một điểm mốc nào đó để khẳng định sự nghi ngờ của mình, và tôi nhận ra là mình đã không nhầm. Tôi định hỏi gã chủ xe xem như vậy là thế nào nhưng lại thôi, và tự nhủ rằng trong hoàn cảnh thân cô thế cô thế này thì im lặng vẫn cứ hơn, biết đâu tôi lại tình cờ chống đối lại một cái gì đó nếu như gã được lệnh kéo dài quãng đường! Dù sao thì tôi cũng muốn nhìn đồng hồ, và cách duy nhất để nhìn thấy giờ là phải đánh diêm. Đã gần nửa đêm rồi. Tôi bỗng rùng mình hoảng sợ: chắc chắn là cái mê tín dị đoan về tất cả những gì xảy ra lúc nửa đêm sẽ lại ám ảnh đầu óc tôi sau những sự kiện quái lạ mà tôi từng phải trải qua. Lại sắp xảy ra chuyện gì nữa đây?
Có tiếng chó sủa bất chợt vẳng lên từ đâu đó dưới chân đường, có lẽ là từ sân của một trang trại; một tiếng sủa sợ hãi, kéo dài... Tiếng kêu ấy được đáp lại bởi một con chó khác, rồi một con khác và một con khác nữa... Cho tới khi bị những trận gió đang ào ạt thổi qua đèo cuốn đi. Những tiếng kêu hoang dại và thê thảm ấy bỗng như cùng rộ lên từ mọi ngõ ngách. Cái âm hưởng man rợ cứ vẳng mãi, vẳng mãi, vẳng xa tới tận cùng của một thế giới oan hồn mà một trí tưởng tượng có thể tưởng tượng ra trong đêm... Lũ ngựa lập tức nhảy chồm lên, nhưng gã đàn ông đã làm chúng trấn tĩnh trở lại bằng một giọng nói dịu dàng, song con nào con nấy vẫn ướt đầm mồ hôi và run lên như cầy sấy. Lúc này, những ngọn núi xa nhất đang dội ngược vào tai chúng tôi những tiếng rú ám ảnh hơn, dữ đội hơn và mạnh hơn gấp bội phần: chó sói. Tôi tưởng mình có thể nhảy khỏi xe mà chạy trốn đến nơi. Lũ ngựa một lần nữa nhảy chồm chồm và vung cẳng đá hậu lia lịa, nhưng gã xà ích cũng chẳng cần phải hết sức để ngăn chúng lồng lên. Gã nhảy xuống xe và chạy ngay ra trước mũi lũ ngựa để vuốt ve, vỗ về và an ủi chúng bằng những câu tử tế nhất mà gã có. Kết quả thật phi thường: dù vẫn chưa hết run, nhưng bốn con ngựa đã ngay lập tức tuân lời chủ nhân, ngoan ngoãn để gã lên xe cầm cương. Chúng lại hối hả lao trên con đường bất khả kháng. Lần này, sau khi chạy tới bên kia đèo, gã xà ích cho ngựa chạy theo một hướng khác, theo một con đường hẹp hơn, mất hút về phía tay phải.
Lát sau, xe chúng tôi lọt vào giữa hai hàng cây mọc giao nhau ở một số đoạn tạo thành một cái vòm thực sự, khiến tôi cảm thấy như đang lọt vào một đường hầm. Thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp những mỏm đá đồ sộ như những cái bong lừng lững đứng hăm dọa kẻ qua đường. Và cứ mỗi lần có trận gió kéo về gầm rít giữa các hốc đá là các ngọn cây lại rung chuyển dữ dội. Tiết trời mỗi lúc một lạnh hơn, những bong tuyết mảnh mai bắt đầu rơi rơi chẳng mấy chốc mọi thứ xung quanh sẽ biến thành một màu trắng xóa. Gió vẫn mang đến cho chúng tôi những tiếng kêu não nề thê lương của bầy chó nhà, nhưng những tiếng kêu ấy đã bắt đầu nhỏ dần, nhỏ dần bởi chúng tôi đã tiến được một đoạn khá xa.
Song ngược lại, tiếng chó sói lúc trước chỉ văng vẳng, giờ bỗng trở nên dữ dội hơn, dồn dập hơn; những tiến ru thê thảm ấy càng lúc càng gần hơn và dường như đang bủa vây xung quanh chúng tôi thú thực, tôi bắt đầu cảm thấy khiếp sợ.
Hình như lũ ngựa cũng có một vẻ gì đó không yên như tôi. Tuy nhiên, gã đàn ông vẫn bình thản ngó nghiêng như chẳng có chuyện gì xảy ra. Tôi giương mắt cố phân biệt một cái gì đó trong đêm, nhưng tất cả vẫn chỉ là một màu đen như mực.
Tôi bỗng giật thót người khi nhận ra một đốm sáng xanh lè đang lập lòe cách xe chúng tôi một đoạn khá xa về bên trái. Gã xà ích hẳn cũng đã nhận ra cái đốm sáng ấy cùng lúc với tôi, bởi gã vừa giật cương cho ngựa đứng khựng lại, rồi nhảy phắt xuống đất và biến mất hút trong màn đêm. Tôi đờ đẫn tự hỏi không biết mình sẽ phải làm gì... Tiếng sói tru càng lúc càng gần xe chúng tôi hơn... Tôi còn đang do dự thì gã đàn ông bỗng đột ngột xuất hiện trước mặt, chẳng nói chẳng rằng và leo tót lên ghế thúc ngựa đi tiếp. Cái đốm sang ấy cứ ám ảnh mãi trong đầu tôi và dường như lúc nào tôi cũng thấy nó lập lòe trở lại.
Vâng, sau này khi nghĩ lại, tôi vẫn có cảm tưởng như mình đã rơi vào một cơn ác mộng kinh hoàng.
Một lúc sau, cái đốm xanh ấy xuất hiện gần chúng tôi đến nổi giữa màn đêm thăm thẳm, tôi đã có thể nhìn rõ từng cử chỉ của gã xà ích. Gã nhanh chân bước về phía có đốm sáng chập chờn - tuy chỉ là một thứ ánh sáng rất yếu, chỉ đủ để phân biệt được mặt đất xung quanh - rồi nhặt mấy hòn đá chất lại thành một đống. Tôi thấy việc gã làm thật kỳ quái. Một lần khác, khi cái quầng sáng nhờ nhờ ấy xuất hiện: đứng giữa đốm sáng và tôi, gã chẳng buồn che cho tôi không nhìn thấy gì nữa. Tôi tiếp tục trông thấy rõ ràng cái đốm sáng chập chờn và bí ẩn ấy. Người tôi sững sờ mất một lúc, nhưng rồi cũng tự nhủ rằng do quá muốn chọc thủng màn đêm nên hai con mắt đã đánh lừa tôi... Sau đó, chúng tôi không còn trông thấy những đốm xanh lè ấy nữa, nhưng tiếng chó sói thì vẫn còn, dường như chúng đang tạo thành một vòng tròn và vòng tròn ấy đang mỗi lúc một tiến gần, xiết chặt lấy xe chúng tôi hơn.
Không hiểu sao gã xà ích lại nhảy xuống xe một lần nữa, và lần này gã bỏ đi xa hơn. Trong lúc gã vắng mặt, lũ ngựa lại bắt đầu hoảng sợ hơn bất cứ lúc nào hết, chúng thi nhau thở phì phì và hí ầm ĩ. Không hiểu lý do gì khiến chúng hoảng sợ đến thế, bởi đúng vào lúc đó, ánh trăng bỗng bất ngờ xuất hiện lập lờ giữa những đám mây đen, sau một đỉnh núi cao hùng vĩ và lởm chởm như răng cưa, và tiếng chó sói đột nhiên im bặt. Dưới ánh trăng nhợt nhạt, tôi bủn rủn nhận ra những con sói không hiểu từ đâu bất thình lình đứng lù lù xung quanh chiếc xe ngựa, nhe ra những hàm răng trắng ởn và chiếc lưỡi đỏ lòm; lông con nào con nấy dựng ngược như lông nhím. Trong màn đêm im lặng lạ lùng đáng sợ, trông chúng còn ghê rợn hơn so với những lúc chúng gào hét đến trăm lần.
Tôi bắt đầu nghĩ tới một mỗi nguy hiểm có thể đổ ập xuống bất cứ lúc nào. Nỗi sợ hãi đã làm toàn thân tôi tê liệt. Bầy sói lại đột nhiên gào rú như thể ánh trăng vừa có một quyền uy đặc biệt nào đó đối với chúng. Lũ ngựa cũng không còn giữ được bình tĩnh. Chúng lấm lét nhìn xung quanh như muốn tìm một sự thương hại nào đó, nhưng cái vòng tròn sống, vòng tròn khủng khiếp vẫn vây chặt xung quanh. Tôi gọi gã xà ích, tôi kêu gã quay về. Tôi thấy dường như cơ hội duy nhất còn lại với mình lúc này là cố sức phá vỡ cái vòng vây ma quái kia để gã có thể quay về. Vì vậy, tôi càng gào to hơn và đập thùm thụp vào cửa xe với hy vọng sẽ làm cho bầy sói đang rình rập bên cạnh hoảng sợ bỏ đi.
Làm sao gã lại ở đó, tôi không biết, chỉ biết khi nghe thấy giọng nói độc đoán đầy uy lực của gã và nhìn về phía ấy, tôi đã thấy gã đứng ở giữa đường.
Khi hai cánh tay dài ngoằng của gã điệu bộ vung lên đẩy lùi một chướng ngại vô hình nào đó, bầy sói bỗng lùi dần ra. Đúng lúc ấy, mặt trăng bị một đám mây đen khổng lồ kéo đến phủ kín hoàn toàn. Bầu trời lại đen kín như bưng. Khi hai mắt đã quen dần với bóng tối, tôi nhận ra gã đàn ông đang leo lên xe, còn bầy sói thì biến sạch đi đằng nào. Tất cả diễn ra quái đản và đáng ngại đến nỗi tôi không dám nói, cũng chẳng dám có bất cứ một cử động nào. Ánh trăng không xuất hiện trở lại, cuộc hành trình lúc này đối với tôi tưởng chừng sẽ kéo dài đến vô tận. Chúng tôi tiếp tục lên đường. Con đường dường như cứ dốc mãi lên, mặc dù thỉnh thoảng chiếc xe cũng đột ngột lao xuống những đoạn dốc ngắn, để rồi lại lao ngược lên một sườn dốc mới. Trong một tâm trạng mòn mỏi và thất vọng, tôi chợt nhận ra gã xà ích vừa bất ngờ đánh xe vào sân một lâu đài đồ sộ, đổ nát. Những ô cửa sổ cao vút tăm tối không hề lọt ra một tia sáng nào, các lỗ châu mai đen ngòm càng như nối bật lên trên bầu trời lúc này đang nhợt nhạt ánh trăng: mặt trăng lại một lần nữa xuất hiện lập lờ giữa những đám mây trĩu nặng.
Ngày 5 tháng 5
Có lẽ là tôi đang thiu thiu ngủ, nếu không thì làm sao tôi lại giật mình trước khung cảnh trong tòa lâu đài cổ. Trong đêm tối, sân lâu đài có vẻ như rộng hơn; vâng, với các lối đi rối rắm và tối tăm dẫn đến các cổng vòm cao vút, dường như mảnh sân còn rộng hơn so với thực tế.
Chiếc xe ngựa dừng bánh kết thúc một cuộc hành trình đầy ấn tượng, gã xà ích xuống trước đỡ tôi xuống sau. Một lần nữa tôi cảm nhận được một sức mạnh ghê gớm từ con người gã. Bàn tay gã giống như một gọng kìm thép có thể bóp nát tay tôi nếu gã muốn. Sau đó, gã đỡ hành lý của tôi đặt xuống đất, gần chỗ tôi đứng, tức là gần ngay một cánh cửa lớn, cũ kỹ, ghim đầy đinh sắt, khuôn cửa được xây bằng các hòn đá tảng. Dù còn rất tối, song tôi vẫn nhận ra các bức chạm khắc trên tấm đá bị thời gian và mưa gió bào mòn đi rất nhiều. Gã đàn ông, sau khi hạ hết hành lý của tôi xuống, lại nhảy tót lên xe, giật cương thúc ngựa ấy mất hút vào một trong những lối nhỏ tối tăm.
Tôi đứng trơ như tượng, chẳng biết phải làm gì. Không có chuông để rung, chẳng có búa để gọi cửa, và cũng không thể có chuyện người ta sẽ nghe được tiếng gọi của tôi sau những bức tường kiên cố hoặc từ những ô cửa sổ đen ngòm kia. Tôi chỉ còn biết chờ đợi, sự chờ đợi đối với tôi lúc này như kéo dài vô tận.
Sự khiếp sợ và nỗi âu lo lại ập đến ám ảnh đầu óc tôi. Vậy là tôi đã đi đến đâu, và sẽ phải gặp những hạng người nào? Tôi đã dấn thân vào một cuộc phiêu lưu quái gở? Phải chăng chuyện xảy ra với tôi - một thư ký công chứng viên đến đây để lý giải về cuộc mua bán một bất động sản ở gần Luân Đôn - chỉ là một rắc rối bình thường trong đời? Tôi giụi mắt, khẽ bấu vào khắp người để đảm bảo rằng mình vẫn tỉnh táo, bởi trước đó tôi cứ nghĩ mình đang bị ác mộng. Tôi tự nhủ rồi mình sẽ lại mở mắt ra và nhận thấy mình đang ở nhà mình, và rồi ánh rạng đông sẽ dần dần chiết qua cửa sổ phòng mình: đó sẽ không phải là đêm đầu tiên tôi rơi vào một giấc ngủ nhọc nhằn sau một ngày làm việc quá sức Tôi vẫn đang thức! Khi bấu vào người, tôi vẫn cảm thấy đau, đôi mắt tôi đã không hề lừa tôi một chút nào! Tôi vẫn hoàn toàn tỉnh táo và đang đứng trước một tòa lâu đài ở vùng Carpates! Chỉ còn việc duy nhất phải làm: kiên nhẫn chờ đợi một ngày mới.
Đang mải nghĩ, tôi chợt giật mình vì nghe thấy tiếng bước chân nặng nề sau cánh cửa lớn, cùng lúc đó là một vệt sáng hắt qua khe cửa, rồi tiếng tháo xích loảng xoảng, tiếng rút chốt cửa ken két. Tôi còn nghe thấy tiếng chìa khóa xoay khó nhọc trong ổ khá lâu (có lẽ lâu lắm rồi ổ khóa này không được sờ đến?) trước khi cánh cửa lớn hé mở.
Đứng trước mặt tôi là một lão già cao lớn, mày râu nhẵn nhụi (trừ hàng ria mép trắng như cước là vẫn để dài), ăn mặc từ đầu xuống chân chỉ một màu đen, đen hoàn toàn, không có một chấm màu nào khác, dù là rất nhỏ. Lão cầm trên tay một cây đèn bạc cổ không có bóng thủy tinh, ngọn lửa đảo điên trong không khí hắt ra những cái bóng run rẩy xung quanh. Lão mời tôi vào bằng một điệu bộ rất lịch sự, và nói với tôi bằng một thứ tiếng Anh hoàn hảo, chỉ có điều giọng lão nghe cứ lạ lạ :
- Hoan nghênh ngài đã đến với tôi! Mời ngài cứ tự nhiên cho!
Lão đứng nguyên tại chỗ như một pho tượng, cứ như cử chỉ đầu tiên mà lão vừa dành để đón tiếp tôi đã biến lão thành một khối đá. Tuy nhiên, lúc tôi bước qua ngưỡng cửa, lão đã lập tức nắm chặt lấy tay tôi với một sức mạnh ghê gớm khiến người tôi run lên vì đau điếng. Bàn tay lão cũng lạnh như nước đá, nó giống với bàn tay của một xác chết hơn là của một người sống. Lão nhắc lại :
- Hoan nghênh ngài đã đến với tôi! Mời ngài cứ tự nhiên, đừng sợ gì cả và hãy để lại đây một chút gì may mắn mà ngài đã mang theo!
Sức mạnh của bàn tay lão làm tôi chợt nhớ tới bàn tay của gã xà ích mà tôi chưa một lần được nhìn rõ mặt; tôi tự hỏi kẻ đang nói chuyện với tôi có phải là gã hay là một ai khác. Tôi mạnh dạn hỏi :
- Bá tước Dracula?
Lão già nghiêng mình nhã nhặn đáp lời.
- Vâng, tôi chính là bá tước Dracula, chúc mừng ngài đã đến với tôi, thưa ngài Harker. Mời vào, mời vào. Đêm hơi lạnh. Chắc ngài cũng cần được nghỉ ngơi và lót dạ một chút gì đó...
Vừa nói, lão vừa đặt cây đèn lên một góc giầm chìa ra trên tường, rồi bước ra khỏi ngưỡng cửa lấy số hành lý của tôi trước khi tôi kịp ngăn lại. Lão xách cả vào trong hành lang.
Tôi định mở miệng phàn nàn thì lão vội nói liền một mạch khiến tôi không có cơ hội để nói.
- Đừng nói gì cả, thưa ngài, ngài là khách mời của tôi kia mà. Bây giờ cũng muộn rồi, đám gia nhân của tôi đã đi ngủ cả. Cho phép tôi được đích thân dẫn ngài về phòng nhé.
Chủ nhà cố nhấn giọng như muốn xách va ly hộ tôi bằng mọi giá. Lão đi qua hành lang, leo lên một cầu thang xoáy trôn ốc rồi đến một hành lang được lát toàn bằng đá khiến cho tiếng mỗi bước chân cứ ngân dài mãi không dứt. Đi hết dãy hành lang, lão đẩy một cánh cửa nặng nề, mở ra một căn phòng thật dễ chịu đối với tôi lúc này: một căn phòng có ánh đèn, có bàn để ăn xúp và đang bập bùng ánh lửa cháy trong một gian lò sưởi đường bệ.
Bá tước Dracula đặt hành lý của tôi xuống, khép cửa, bước qua phòng và đi về một ô cửa khác mở sang một phòng bát giác nho nhỏ đang được chiếu sáng bởi duy nhất một ngọn đèn; tôi không trông thấy một ô cửa sổ nào trong đó. Lão chủ nhà bước qua phòng bất giác mở tiếp một cánh cửa khác và mời tôi vào bên trong. Chà! Quả là một khung cảnh dễ chịu! Đó là một phòng ngủ rộng rãi, đèn sáng choang và cũng được sưởi ấm nhờ những khúc củi trong lò sưởi. Rõ ràng chỉ vừa mới được đất lên, nhưng lò sưởi đã cháy rất đượm. Lão bá tước mang va ly của tôi vào phòng này rồi rút lui. Trước khi khép cửa, lão còn dặn tôi :
- Sau một hành trình vất vả, chắc là ngài cũng muốn nghỉ ngơi một chút và thay quần áo cho dễ chịu. Hy vọng ngài sẽ tìm thấy ở đây tất cả những gì ngài muốn. Khi nào xong xuôi, ngài có thể sang phòng bên. Bữa đêm đang chờ đợi ngài.
Ánh lửa bập bùng, không khí nồng ấm, và cả cái vẻ nhã nhặn của bá tước dường như đã làm cho tôi quên hết mọi nỗi phiền muộn. Tôi chợt nhận ra mình đang đói muốn chết. Rửa ráy qua loa, tôi bước ngay sang phòng bên cạnh như bá tước vừa mời.
Bữa đêm đã được chuẩn bị đâu ra đấy. Chủ nhà đang đứng tựa vào lò sưởi.
Thấy tôi, lão chỉ vào bàn và bảo, giọng thật tử tế.
- Mời ngài cứ ngồi vào chỗ và dùng bữa tùy thích. Hy vọng ngài sẽ thứ lỗi nếu như tôi không cùng chung bữa với ngài, sau khi ăn tối rồi, tôi không thể ăn thêm được gì nữa.
Tôi đưa lá thư được dán kín mà ông Hawkins đã nhờ tôi cầm hộ cho lão. Lão lập tức mở thư ra đọc, vẻ rất trang nghiêm. Đọc xong, lão mỉm cười trả lại tôi lá thư. Trong lá thư có một đoạn làm tôi cảm thấy thật vui :
Tôi thật sự lấy làm tiếc vì căn bệnh thống phóng lại một lần nữa tấn công tôi khiến tôi không thể lên đường vào lúc này, và tôi sợ rằng nó sẽ níu chân tôi trong một thời gian dài. Tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy thật may mắn khi gửi đến ngài một đại diện mà tồi hoàn toàn tin cậy. Đó là một thanh niên tràn đầy nghị lực, hoàn toàn hiểu biết về công việc. Tôi xin được nhắc lại, chúng ta có thể tin tưởng ở anh ta. Hơn nữa, anh_ta còn là người kín đáo, và tôi có thể nói rằng anh ta đã trưởng thành trong văn phòng của tôi. Trong thời gian ở nhà ngài, anh ta sẽ tuân theo sự sắp xếp của ngài mỗi khi ngài cần, và mọi việc đều do ngài chỉ giáo....
Bá tước rời lò sưởi để đích thân tới mở vung một món ăn cho tôi. Lát sau, tôi được nếm một chú gà quay mà tôi cho là một mỹ vị thực sự. Thêm vào đó là một chút pho mát, một đa sa lát, và hai cốc rượu Tokay lâu đời. Trong bữa ăn, bá tước hỏi rất nhiều về cuộc hành trình của tôi. Tôi lần lượt kể lại những chuyện mà tôi thấy là kỳ quái đã xảy ra suốt dọc đường. Bá tước có vẻ rất chăm chú lắng nghe.
Lúc kể hết chuyện cũng là lúc tôi ăn xong bữa. Chủ nhà bảo tôi ra ngồi vào một chiếc ghế tựa gần lò sưởi và mời tôi một điếu xì gà với một lời xin lỗi là lão không thể hút cùng. Quả thực đây là dịp đầu tiên tôi có thể quan sát kỹ con người lão những nét nổi bật trên bộ mặt lão đã đập vào mắt tôi.
Chiếc mũi khoằm khiến lão thật sự có một dáng vẻ của một con diều hâu; lão có một vầng trán cao, gồ, mái tóc lưa thưa trên đỉnh nhưng lại mọc rất đầy xung quanh đầu; cặp lông mày rậm mọc gần như giao nhau ở phía trên sống mũi, các sợi lông mọc dài, rối rắm, tạo nên một cảm tưởng là nó quăn tít. Cái miệng lão, hoặc ít nhất là cái mà tơi nhìn thấy dưới hàng ria mép to tướng, không sao giấu được vẻ gì đó thật tàn ác; còn hai hàm răng, dù trắng tinh, nhưng cái nào cái nấy đều nhọn hoắt và mọc chìa ra cả ngoài cặp môi đỏ chót - điều chứng tỏ một sức sống phi thường ở một người trạc tuổi lão. Song hai tai lão lại xám ngoét một màu chì và nhọn như tai chuột; chiếc cằm rộng cũng cho thấy sức mạnh của lão; và đôi má, dù hõm sâu vào, trông vẫn còn rất rắn chắc. Một nước da xanh nhợt nhạt đến lạ thường, đó chính là cái cảm giác chung mà bộ mặt lão đã để lại trong tôi.
Tất nhiên tôi cũng để ý kỹ hai bàn tay đang đặt trên hai đầu gối lão. Dưới ánh lửa chập chờn, trông chúng có vẻ trắng và mảnh mai hơn, nhưng khi nhìn gần, tôi lại thấy một điều ngược lại: trông chúng thật thô thiển với các ngón tay ngắn như một nải chuối mắn. Điều làm tôi kinh ngạc nhất là trên các mu bàn tay lão đều có một lớp lông bao phủ và mặc dù các ngón tay đều ngắn củn, nhưng các móng tay lại rất dài và mảnh, tất cả đều được cắt tỉa nhọn hoắt. Khi lão nghiêng người xuống, tôi không thể tránh khỏi cảm giác rùng mình. Hơi thở của lão có mùi ghê quá, đến nỗi khiến tôi nôn nao hết cả người mà không thể giấu được. Chắc là bá tước đã nhận ra sự khó chịu của tôi, bởi tôi thấy lão vừa rụt người lại vừa nở một nụ cười quái gở, để nhe hẳn ra những chiếc răng vổ Lão quay trở lại gần lò sưởi. Chúng tôi giữ im lặng một lúc khá lâu. Bất giác, tôi ngước mắt nhìn lên cửa sổ: những ánh ban mai đầu tiên đã xuất hiện. Bầu không khí im lặng dường như đang đè nặng lên mọi thứ. Tuy nhiên, khi chú ý lắng nghe, tôi vẫn có cảm tưởng như mình đang nghe thấy tiếng chó sói tru văng vẳng trong thung lũng. Đôi mắt chủ nhà sáng lên long lanh, lão nói với tôi :
Ngài có nghe thấy gì không? Chúng là những đứa con của đêm tối... Chúng đang làm nên một bản nhạc!
Dường như đọc được sự ngạc nhiên trên nét mặt tôi, lão nói tiếp :
- Chà! Thưa ngài! Những người dân thành thị như ngài sẽ chẳng bao giờ bày tỏ được cảm xúc của một kẻ đi săn...
Nhưng như sực nhớ ra điều gì, lão đứng bật đậy.
- Có lẽ ngài cũng đã mệt rồi. - Lão nói. - Phòng ngủ của ngài đã được chuẩn bị xong, và ngày mai ngài có thể dậy vào bất cứ lúc nào tùy thích. Còn tôi, tôi có việc bận phải vắng mặt đến chiều. Ngài cứ ngủ cho thỏa thích, chúc ngài có những giấc mơ đẹp!
Lão mở cửa phòng bát giác, rồi cúi người lịch sự lúc nào cũng rất lịch sự - mời tôi bước qua. Tôi về phòng chuẩn bị ngủ bù...
Tôi chìm ngập vào một biển cả của những mối nghi ngờ, sợ hãi..., rồi nghĩ ra đủ thứ quái lạ, kỳ quặc mà thậm chí chính tôi cũng không dám tìm ra một câu trả lời sáng tỏ. Lạy Chúa, cầu mong cho đó chỉ là những ảo giác nhất thời!
* * * * *
Ngày 7 tháng 5
Lại một buổi sáng nữa. Tôi bắt đầu cảm thấy khỏe khoắn trong người sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ bình yên. Tôi có thể dậy muộn tùy thích. Ngày đầu tiên, sau khi đã ăn mặc chỉnh tề, tôi hăm hở bước sang phòng mà hôm trước tôi đã ngồi ăn đêm; bữa điểm tâm của tôi được dọn sẵn cùng với ly cà phê đặt bên lò sưởi nghi ngút khói thơm. Trên bàn ăn, tôi thấy một mẩu giấy ghi mấy chữ :
Tôi có việc phải vắng mặt. Xin ngài đừng chờ. D.
Vậy là tôi có thể tự nhiên dùng điểm tâm. Xong bữa, tôi đưa mắt tìm chuông gọi người hầu đến dọn bàn nhưng không thấy chuông đâu cả. Nhìn đống của cải quý giá được bày rải rác khắp nhà, tôi khó có thể không ngạc nhiên khi thấy thiếu những đồ vật đơn giản nhưng hữu ích khác. Bộ đồ ăn bằng vàng được chạm trổ tinh vi chắc chắn là có một giá trị rất lớn. Các tấm rèm cửa đều được may bằng những loại vải lộng lẫy và xa hoa nhất, ngay cả lớp màn trướng ở giường ngủ của tôi cũng vậy. Tất cả các loại ghế tựa, ghế bành trong nhà cũng được bọc bằng các tấm vải thượng hạng. Dù đã trải qua nhiều thế kỷ, song các tấm ghế ở đây đều vẫn giữ được trạng thái ban đầu; tôi cũng đã từng được nhìn thấy những chiếc ghế tương tự trong Điện Hampton, nhưng phần lớn đều đã ọp ẹp hoặc bị chuột bọ cắn nát lung tung. Tuy nhiên, chẳng có phòng nào trong tòa nhà này có gương. Ngay cả trên bàn tôi cũng không có lấy một mảnh, vì vậy, mỗi khi cần cạo râu hay chải tóc, tôi lại phải dùng tới mảnh gương nhỏ xíu gắn ở túi du lịch. Đến đám gia nhân cũng thiếu nốt ít nhất là cho tới lúc này tôi vẫn chưa trông thấy một bóng ai ngoài ngưỡng cửa. Còn một điều nữa cũng thật kỳ lạ: kể từ khi tới đây, tôi chưa hề nghe thấy một tiếng động nào, dù là nhỏ nhất, ngoài những tiếng kêu thê thảm xa xôi của bầy chó sói. Sau bữa ăn, tôi rất muốn đọc một cái gì đó; tôi không muốn khám phá lâu đài khi chưa xin phép bá tước.
Nhưng trong phòng tôi ở lại không có sách, không có báo, cũng chẳng có gì là chữ nghĩa cả. Tức mình, tôi đẩy bừa vào một cánh cửa, và thật bất ngờ khi đó chính là cánh cửa của một phòng thư viện. Tôi thử mở một cánh cửa khác nằm đối diện với cánh cửa tôi vừa bước vào nhưng không được, vì nó đã bị khóa chặt.
Thật đáng ngạc nhiên khi tìm thấy ở đây vô số sách tiếng Anh xếp kín cả các tầng giá cũng như nhiều bộ sưu tập tạp chí và họa báo. Trên chiếc bàn đặt giữa phòng cũng bày kín các loại báo và tạp chí viết bằng tiếng Anh, nhưng tất cả đều đã cũ Trong thư viện có đủ loại sách viết về các chủ đề khác nhau: lịch sử, địa lý, chính trị, kinh tế chính trị, thực vật học, địa chất học, luật pháp; và đặc biệt là tất cả đều liên quan đến nước Anh, đến cuộc sống và phong tục của người Anh!
Tôi đang mãi kiểm tra các đầu sách thì cánh cửa bật mở, bá tước bất ngờ xuất hiện, lão chào tôi một cách rất chân tình và hỏi thăm giấc ngủ của tôi đêm qua có ngon không.
- Tôi rất lấy làm hân hạnh khi được thấy ngài vào thư viện. - Lão nói. - Tôi tin chắc rằng tất cả những gì trong này đều sẽ làm cho ngài cảm thấy thú vị. Đối với tôi, những cuốn sách trên giá vừa nói lão vừa vuốt ngang gáy các cuốn sách đều là những người bạn quý; từ mấy năm nay, tức là từ khi tôi nảy ra ý định tới Luân Đôn, các cuốn sách này đã cho tôi những giờ phút thực sự thú vị! Chúng cho tôi biết về đất nước tươi đẹp của ngài và hiểu biết về nước Anh chính là yêu đất nước Anh. Sao mà tôi thèm được dạo chơi giữa những đám đông đi trên đường phố Luân Đôn - một thành phố oai nghiêm vĩ đại, được lạc vào giữa tiếng ồn ào của các quý ông quý bà, được chia sẻ sự tồn vong của dân tộc ấy và chia sẻ tất cả những gì đang xảy ra cùng họ đến thế! Nhưng than ôi? Cho đến tận bây giờ tôi vẫn chỉ được biết ngôn ngữ của các ngài qua những cuốn sách này mà thôi. Hy vọng rằng ngài sẽ dạy tôi cách nói tiếng Anh, ông bạn thân mến ạ?
- Nhưng thưa bá tước, - Tôi đáp lại - ngài khiêm tốn quá đấy thôi, thực ra ngài đang nói tiếng Anh rất chuẩn đấy chứ?
Lão nghiêng mình, vẻ mặt rất nghiêm trọng :
- Cám ơn ông bạn; ngài cứ đánh giá quá cao, chứ thực ra còn lâu tôi mới đạt được mục tiêu của mình. Đúng là về từ vựng và ngữ pháp thì tôi nắm rất vững, nhưng còn khoản nói năng thì vẫn chưa đâu vào đâu cả!
- Tôi xin được nhắc lại là ngài nói rất hoàn hảo!
- Không đúng, không đúng... Tôi thừa biết nếu sống ở Luân Đôn, khi nghe tôi nói, sẽ chẳng có ai cho rằng tôi là một người Anh đâu. Chính vì vậy mà sự hiểu biết của tôi về Anh ngữ vẫn còn khiếm khuyết. Có thể ở đây tôi là một kẻ quý phái, một nhà quý tộc, các mọn dân đều biết tôi. Đối với bọn họ, tôi luôn là một lãnh chúa. Nhưng để trở thành người dân ở một nước ngoài, thì tôi coi như không tồn tại: tất cả những gì tôi muốn, đó là được coi như một người giống như bao người khác, là sẽ không có ai dừng lại nhìn tôi hoặc ngắt quãng câu chuyện khi nghè tôi nói, để rồi buông ra một câu nhạo báng: “Ồi! Thì ra là một người ngoại quốc!”. Tôi từng làm thầy trong bấy nhiêu năm mà tôi muốn, ít nhất là như vậy, nhưng tôi lại không thích ai làm thầy của mình... Ngài đã đến đây không chỉ là một nhân viên làm việc cho ông bạn Peter Hawkins để lo công việc liên quan đến chuyện nhà cửa của tôi ở Luân Đôn, hy vọng ngài sẽ lưu lại đây dài dài, và như vậy qua các cuộc đàm thoại, tôi sẽ được làm quen với âm điệu tiếng Anh. Tôi sẽ đề nghị ngài phát hiện các lỗi, dù là nhỏ nhất, mà tôi sẽ mắc phải trong lúc nói chuyện. Tôi rất lấy làm áy náy khi đã đi vắng quá lâu như ngày hôm nay, chắc là ngài sẽ thứ lỗi, có đúng thế không ạ, nếu như tôi nói với ngài rằng hôm nay tôi phải lo rất nhiều việc quan trọng.
Dĩ nhiên tôi phải trả lời mình không hề bận tâm về chuyện đó, mà điều tôi muốn lúc này là được phép vào thư viện mỗi khi thích vào.
- “Chắc chắn là được chứ” - Lão đáp lại khi tôi xin phép, rồi lão nói thêm - “Ngài có thể đi bất cứ chỗ nào ngài muốn trong lâu đài này, trừ các phòng ngài thấy cửa khóa và tất nhiên là cả những nơi mà ngài không muốn đặt chân đến. Ở đây mọi cái đều có lý do cho sự tồn tại nguyên trạng của chúng, và nếu ngài cũng biết cái điều mà tôi biết thì tức là ngài đã hiểu thấu đáo mọi việc ở đây rồi đấy”.
Tôi nói rằng mình không nghi ngờ gì về điều đó. Nghe vậy, lão tiếp tục thuyết giảng :
- Chúng ta đang ở Transylvanie, và Transylvanie không phải là nước Anh. Phong tục, tập quán của chúng tôi không phải là của các ngài, do vậy sẽ có rất nhiều điều khác lạ đối với ngài. Tuy nhiên, nếu như căn cứ vào những gì ngài đã kể cho tôi nghe về các vướng mắc trong suốt cuộc hành trình tới đây của ngài, thì tôi dám chắc điều tôi vừa nói sẽ không hề làm cho ngài ngạc nhiên.
Lời bóng gió của bá tước đã tiếp thêm hứng thú cho cuộc nói chuyện; khi nhận thấy lão đang thích nói chuyện, tức là lão muốn nói chuyện chỉ vì ham thích đàm thoại, tôi đã đặt ra cho lão nhiều câu hỏi về những gì tôi có thể lưu ý ở đất nước lão, hoặc về những gì tôi đã phải trải qua. Thỉnh thoảng lão cũng né tránh vấn đề hoặc lái câu chuyện sang một hướng khác với lý do là lão không hiểu điều tôi muốn nói. Nhưng nói chung, lão đều trả lời thẳng vào các câu hỏi của tôi Sau một lúc khá lâu, khi đã cảm thấy yên tâm hơn, tôi mới bắt đầu nói về cái đêm rùng rợn mà tôi đến lâu đài và đề nghị lão giải thích: giữa một mớ sự việc, tại sao tên xà ích lại nhảy xuống xe mỗi khi hắn trông thấy một ánh sáng xanh lè, và tại sao hắn cứ đi thẳng về phía có ánh sáng ấy. Lão cho tôi hay rằng theo tín ngưỡng dân gian Transylvanie, vào một đêm nào đó trong năm - đêm mà các quỷ thần được cho là bá chủ thế giới người ta sẽ thấy một ánh lửa màu xanh hiện lên đúng ở chỗ nào có chôn giấu một kho báu dưới lòng đất.
- Chắc chắn lão tiếp tục câu chuyện là có một kho báu được chôn ở nơi ngài đã đi qua tối hôm ấy, bởi đây chính là một mảnh đất mà người Wallach, người Saxon và người Thổ đã tranh chấp trong nhiều thế kỷ. Quả thực, nơi đây không có một thươc đất nào không nhuốm máu của những người yêu nước và của cả những kẻ xâm lược. Đó là một thời kỳ dị thường. Các bộ lạc người Áo và người Hung luôn đe dọa chúng tôi. Tổ tiên chúng tôi, già cũng như trẻ, gái cũng như trai, tất cả đều dũng cảm chống lại quân thù. Họ bám vào các ngọn núi, vách đá chờ đợi, phục kích và từ những đỉnh cao này, họ đã làm nên những trận long núi, lở đất chôn vùi quân xâm lược. Nhưng cuối cùng thì quân thù vẫn ngoan cố vượt qua. Mặc dù vậy, chúng gần như chỉ thấy vườn không nhà trống ở đất nước này, bởi người dân dã chôn giấu dưới lòng đất mọi thứ mà họ có.
- Nhưng tại sao - Tôi hỏi - những của cải ấy được cất giấu lâu đến như vậy, trong khi những đốm sáng xanh lại chỉ rõ vị trí cất giấu cho những người chẳng lẽ chỉ muốn duy nhất một điều là chịu khó ngồi nhìn chúng thôi sao?
Lão bá tước bật cười, nhe cả hàm răng dài và nhọn hoắt :
- À! Người mà ngài nói đến chắc chắn là một kẻ ngu ngốc và nhút nhát! Như tôi đã nói, những đốm lửa ấy chỉ xuất hiện vào một đêm duy nhất trong năm - chỉ một đêm thôi nhé và vào đêm đó, sẽ không có một người nào ở xứ này muốn thò mũi ra khỏi cửa, trừ trường hợp bắt buộc phải làm thế. Và ông bạn thân mến ạ, xin hãy tin tôi đi, nếu như bước chân ra khỏi cửa, thì có lẽ người đó chỉ còn biết... Người mà ngài vừa nói ỉ ôi, tức là người đã không thể tìm lại được những điểm mốc mà anh ta đã định ra. Kể cả ngài cũng vậy, tôi thề đấy, ngài sẽ không thể tìm thấy những chỗ mà ngài đã trông thấy những đốm lửa ấy đâu!
- Đúng thế, tôi đáp lại, nếu như lao vào cuộc tìm kiếm, có khi tôi còn rước họa vào thân ấy chứ!
Sau đó chúng tôi quay sang nói chuyện khác.
- Nào, - Bá tước nói - bây giờ ngài hãy cho tôi biết tin về Luân Đôn và tất cả các chi tiết mà ngài có thể cung cấp về ngôi nhà các ngài định mua cho tôi đi.
Tôi xin lỗi về sự vô ý của mình và xin phép về phòng tìm giấy tờ hợp đồng.
Trong lúc sắp xếp giấy tờ, tôi chợt nghe thấy có tiếng lách cách của đồ sứ và kim, loại ở phòng bên cạnh và khi đi qua đó, tôi thấy bàn ăn đã được dọn sạch, đèn đã được thắp sáng, bởi lúc này trời cũng sắp tối rồi. Các ngọn đèn trong thư viện cũng được thắp sáng, bá tước đang nằm đọc sách, trên ghế trường kỷ. Giữa một đống bao nhiêu đầu sách, lão chọn cuốn Sách chỉ dẫn về nước Anh của Bradshaw. Thấy tôi vào, lão buông sách đứng dậy dọn sạch đống sách báo vứt ngổn ngang trên bàn. Chúng tôi bắt tay vào kiểm tra toàn bộ kế hoạch và các con số ghi trong số giấy tờ mà tôi vừa cầm sang. Mọi chi tiết đều làm lão thực sự quan tâm, lão luôn mồm hỏi tôi về ngôi nhà, về vị trí của nó cũng như cảnh quan xung quanh. Về điểm này, chắc chắn là lão đã nghiên cứu rất tỉ mỉ, bởi tôi nhận thấy có những điều lão còn biết rõ hơn cả tôi. Thỉnh thoảng tôi lại phải khéo khen về sự hiểu biết của lão.
- Nhưng ông bạn ạ, - Lão nói - chẳng lẽ làm như vậy lại không cần thiết cho tôi sao? Khi tới đó, tôi chỉ có một mình và ông bạn Harker Jonathan thân thiết...
Ồi! Xin lỗi nhé, ở xứ này, chúng tôi thường có thói quen gọi tên trước họ... ông bạn Jonathan Harker thân thiết của tôi không phải lúc nào cũng ở gần để giúp tôi những lời khuyên và kiến thức bổ ích... Không... Trong thời gian đó, ở Exeter, nơi cách Luân Đôn nhiều dặm đường, ông ta đang bận túi bụi với các công việc công chứng cùng với một người bạn khác của tôi là Peter Hawkins.
Thế đấy!
Khi đã rõ tất cả các chi tiết liên quan tới việc mua tậu miếng đất ở Purfleet, ký vào các giấy tờ cần thiết và viết xong lá thư gửi cho ngài Hawkins, lão chợt hỏi làm thế nào mà tôi lại tìm dược một bất động sản dễ chịu đến thế. Tôi còn biết làm gì tốt hơn là đọc cho lão nghe những lời chú giải mà tôi đã ghi lại?
“Khi đi theo một con đường rẽ từ đường lớn ở Purfleet, tôi đến trước một tòa nhà mà tôi thấy có vẻ phù hợp với khách hàng của chúng tôi. Ở đó có dán một tờ yết thị cũ xỉn thông báo rằng ngôi nhà đang được rao bán. Đó là một ngôi nhà tường bao quanh được xây bằng đá tảng, không được tu bổ từ nhiều năm nay. Các cánh cửa đều dược làm bằng gỗ sồi già và tất cả đồ sắt thép đều đã han rỉ.
Ngôi nhà này có tên là Carfax, một cái tên theo ngôn ngữ cổ có nghĩa là “tứ bề”, bởi ngôi nhà có bốn mặt tương ứng với bốn phương trời. Toàn bộ ngôi nhà có diện tích khoảng hai mươi mẫu và như tôi đã nói, tất cả đất đai đều được bao quanh bởi các bức tường đá kiên cố. Cây cối ở đây nhiều đến nỗi phủ bóng xuống mọi chỗ, ao trong vườn rất sâu và chắc hẳn phải được bổ sung từ nhiều nguồn, bởi nước ở đó rất trong, nước ao chảy xa hơn tạo thành một dòng suối khá rộng. Ngôi nhà trông rất đồ sộ và chắc chắn là được xây từ thời Trung cổ.
Một phần ngôi nhà quả thực là được xây bằng những phiến đá khá đầy, những cửa sổ hiếm hoi mà người ta thấy trên tòa nhà đều được đặt ở vị trí cao và được bảo vệ bằng các thanh sắt nặng nề, có lẽ ngày xưa đây là một vọng lâu- Kề sát bên cạnh là một nhà thờ nhỏ. Không có chìa khóa nên tôi không thể vào nhà thờ riêng này được. Nhưng tôi đã chụp ảnh từ nhiều góc độ. Gian thờ chắc hẳn phải được xây muộn hơn và tôi không thể ước lượng được các số đo. Đó là tất cả những gì tôi có thể nói. Ở các khu vực lân cận chỉ có vài ngôi nhà khác, trong đó có một ngôi nhà rất lớn hiện đang được sử dụng làm nhà thương cho các bệnh nhân tâm thần. Tuy nhiên, từ điền địa Carfax không thể nhìn rõ được dưỡng đường này”.
Đợi tôi đọc xong, bá tước mới cho hay là lão thích tòa dinh thự mới ấy ở điểm nào.
- Sự rộng rãi và vẻ cổ kính của ngôi nhà làm tôi rất vừa ý - Lão lý giải - Bản thân tôi cũng thuộc về một dòng tộc cổ xưa và sớm muộn gì thì tôi cũng sẽ phải về nơi suối vàng khi đã về sống trong một ngôi nhà mới. Không phải trong một sớm một chiều là ngôi nhà ó thể ở được. Tôi cũng rất hài lòng khi được biết ở đó có một nhà thờ nho, bởi với tư cách là nhìn nhà quý tộc Translvanle, chúng tôi thật chẳng dễ chịu chút nào khi nghĩ rằng hài cốt cửa mình lại bị chôn lẫn với hài cất của những kẻ thấp hèn hơn. Về phần mình, tôi không còn hứng thú để đi tìm niềm vui và sự sung sướng nữa. Tối cũng chẳng chờ đợi cáỉ hạnh phúc mà đất trời vẫn dành cho đám thanh niên. Đơn giản là vì tôi không còn trẻ nửa!
Trái tím tôi, một trái tim đã từng trải qua những năm dài khóc thương cho thân phận của những kẻ dưới mồ, không còn bị rung động bởi dục vọng. Mặt khác, các bức tường trong lâu đài của tôi cũng đã bắt đầu đổ nát, gió mưa cứ thi nhau lùa vào từng ngõ ngách. Và tôi cũng xin thú thực là tôi yêu những cái bóng và tất cả những gì là u tối, chẳng có gì làm tôi thích hơn là được ở một mình với những suy ngẫm của riêng mình.
Lời nói của lão có vẻ như mâu thuẫn với sắc mặt của lão hoặc nói cách khác, các nét trên bộ mặt lão đã tạo ra cho một vẻ gì đó mà tôi không biết nên gọi là độc ác hay tăm tối nửa!
Lát sau, lão xin cáo lui và đề nghị tôi gom tất cả các giấy tờ lại. Đoán chừng lão sẽ không sớm quay trở lại, tôi tranh thủ xem lướt qua các đầu sách... Mắt tôi dừng lại ở một quyển tập bản đồ, tất nhiên là đang mở ở bản đồ nước Anh, và rõ ràng là tấm bản đồ này đã được tra cứu rất nhiều lần. Thậm chí tôi còn thấy trên bản đồ còn đánh dấu nhiều khoanh tròn nhỏ; quan sát kỹ hơn, tôi nhận ra có một đường tròn được khoanh ở phía tây Luân Đôn, đúng vào chỗ có dinh thự mới của lão bá tước; hai vòng tròn khác cho thấy vị trí của hai ngôi nhà ở Exeter và Whitby nằm trên bờ biển Yorkshire.
Lão bá tước quay trở lại thư viện sau gần một tiếng đồng hồ.
- Ơ kìa! - Lão thốt lên. - Vẫn mãi đọc kia à? Bây giờ vẫn còn sớm lắm Nhưng ngài biết đấy, đâu phải lúc hào cũng cần làm việc... Nào, người ta vừa báo cho tôi biết cơm nước của ngài đã sẵn sàng.
Lão nắm tay tôi cùng bước sang phòng bên, nơi món xúp của tôi đã được dọn sẵn. Một lán mùa, lão lại ngỏ lời xin lỗi: lão đã ăn tối ở ngoài rồi. Nhưng cũng như tối hôm trước, lão tới ngồi gần tôi để nói chuyện trong lúc tôi đang ăn.
Lão hỏi tôi hết câu này đến câu khác, mặc dù tôi đã ăn xong từ lâu. Hàng giờ đồng hồ trôi qua, tôi đoán chắc đêm cũng đã khuya lắm rồi, song tôi vẫn không nói gì cả, tôi thấy nhiệm vụ của mình lúc này là vừa lòng chủ nhà mọi điều. Vả lại tôi cũng không hề thích đi ngủ, giấc ngủ dài hôm qua đã làm tôi hoàn toàn khỏe khoắn trở lại sau một chặng đường mệt nhọc. Tuy nhiên, không hiểu sao tôi lại cảm thấy rùng mình cái rùng mình mà người ta thường nghiệm thấy ngay trước buổi bình minh chút ít, và điều này làm tôi nghĩ tới một cơn thủy triều.
Người ta bảo rằng những kẻ hấp hối thường trút hơi thở cuối cùng vào lúc bắt đầu một ngày mới hoặc lúc thủy triều thay đổi. Tất cả những người từng bỏ thời gian chiêm nghiệm cá khoảnh khắc đêm qua ngày tới sẽ dễ dàng hiểu được tôi lúc này. Tôi chợt nghe thấy một tiếng gà gáy lảnh lót, xa xăm gần như ở một cõi siêu nhiên vọng về. Bá tước Dracula đứng bật dậy và thốt lên :
- Cái gì! Đã lại sáng rồi kia à? Xin lỗi vì đã làm ngài phải thức khuya quá! Từ nay trở đi, khi nói về nước Anh, về quê hương mới nhưng đã trở nên rất đỗi thân thiết với tôi, thì xin ngài hãy cố gắng đừng kể ra những chuyện thú vị để tôi không còn quên thời gian trôi qua nữa...
Lão cúi đầu chào tôi rồi bước nhanh ra khỏi phòng.
Trở về phòng song chưa đi ngủ ngay, tôi kéo rèm cửa sổ trông ra ngoài, nhưng chẳng thấy gì hay để mà kể ở đây. Cửa sổ phòng tơi nhìn ra một mảnh sân và tôi chỉ thấy bầu trời xám xịt đang sáng dần lên. Sau khi kéo kín rèm cửa sổ, tôi mới bắt đầu ngồi vào bàn viết những trang này.
* * * * *
Ngày 8 tháng 5
Khi bắt đầu đoạn nhật ký này, tôi cứ sợ mình sẽ lan man dài dòng; nhưng cho tới bây giờ tôi mới cảm thấy mình lo quá xa: tôi có thể dừng lại ở từng chi tiết rõ ràng, bởi ngay từ đầu khi đến lâu đài, mọi cái tôi trông thấy và tất cả những gì xảy ra đều rất kỳ lạ, đến nỗi tôi không thể không cảm thấy khó chịu mỗi khi nghĩ tới chúng. Tôi muốn rời khỏi đây - rời khỏi đây một cách bình yên vô sự và không bao giờ quay trở lại nữa! Có lẽ việc đêm nào cũng thức khuya đã khiến cho hệ thần kinh của tôi phải chịu một thử thách ghê gớm. Tôi có thể chịu đựng được sự tồn tại này nếu ít nhất còn được nói chuyện với một ai khác, nhưng đằng này tuyệt đối không có ai cả, trừ bá tước chủ nhà.
Nếu phải nói ra suy nghĩ tự đáy lòng, thì thú thật tôi đang sợ mình là một linh hồn sống duy nhất ở nơi đây... Vâng, nếu được phép phơi bày các sự việc đúng như bản chất của chúng, thì chắc tôi cũng có thể kiên nhẫn hơn ít nhiều để mà chịu đựng, để mà ngăn lại cái trí tưởng tượng lúc nào cũng phong phú của mình.
Nếu không, tôi như rơi vào hỏa mù cùng với một nỗi tuyệt vọng. Mọi việc hẳn phải diễn ra đúng như những gì tôi cảm nhận được... Ngả lưng xuống giường, tôi chỉ chợp mắt được có vài tiếng rồi tỉnh giấc.
Cảm thấy không thể ngủ được nữa, tôi đứng bật dậy và cầm chiếc gương treo ở then móc cửa sổ chuẩn bị cạo râu. Bất thình lình, tôi cảm thấy có một bàn tay khẽ đặt lên vai mình và tiếp đó là giọng nói của lão bá tước: “Chào một ngày mới tốt lành!” Tôi giật thót người, thật kinh ngạc khi không nhìn thấy lão vào phòng, bởi nhìn qua gương, rõ ràng tôi đã trông thấy toàn bộ chiều dài của căn phòng phía sau lưng mình. Trong lúc giật mình, tôi đã để lưỡi dao khẽ cạo rách cả da mặt, điều mà tôi không kịp nhận ra ngay lúc đó. Khi trả lời bá tước, tôi lại nhìn vào gương cố để tìm hiểu xem làm sao tôi lại có thể nhầm được. Lần này thì không thể có sự nhầm lẫn, tôi biết lão đang đứng rất gần tôi, tôi chỉ cần hơi quay mặt lại là thấy lão đứng sát vai mình, ấy vậy mà hình bóng của lão lại không bị phản chiếu ở trong gương mới lạ chứ! Tất cả những gì phía sau tôi đều hiện lên trong gương, nhưng ở đó chỉ có duy nhất một người đàn ông đó chính là tôi, kẻ đang viết những dòng nhật ký này. Lại một sự việc đáng kinh ngạc khác thêm vào một chuỗi bí ẩn mà tôi không thể hiểu nổi, nó càng làm trầm trọng thêm cái cảm giác khó ở mà tôi đang phải chịu đựng khi có bá tước ở bên cạnh. Rồi tôi cũng chợt nhận ra có vết máu dưới cằm mình. Tôi đặt dao cạo xuống và ngoảnh mặt đi tìm một miếng bông. Nhìn vào mặt tôi, đôi mắt bá tước chợt lóe lên một tia cuồng say độc ác. Bất thình lình, lão chộp lấy cổ tôi. Tôi lùi nhanh ra sau khiến cho tay lão vồ trượt phải chuỗi hạt có treo cây thánh giá nhỏ tôi đang đeo trên cổ. Giây lát trôi qua, trông lão thay đổi rõ rệt, sự điên cuồng trong ánh mắt lão đã tan biến nhanh như lúc nó bất ngờ xuất hiện.
- Ngài hãy coi chừng, - Lão bảo tôi - hãy hết sức cẩn thận khi bị thương. Ở cái xứ sở này, điều đó nguy hiểm hơn là ngài vẫn tưởng...
Cầm lấy cái gương tôi vừa treo trên nóc cửa sổ, lão nói tiếp :
- Nếu như ngài bị thương, thì chẳng qua cũng chỉ tại cái vật khốn nạn này! Nó chỉ làm tăng cái bản chất kiêu căng, hão huyền của con người. Tốt hơn hết là tống khứ nó đi.
Dứt lời, lão mở toang cánh cửa sổ nặng nề ra và liệng ngay chiếc gương của tôi xuống sân cho nó vỡ ra hàng trăm mảnh. Sau đó, chẳng nói chẳng rằng, lão bước nhanh ra khỏi phòng.
Tôi biết cạo râu thế nào bây giờ? Chỉ còn mỗi một cách: dùng chiếc hộp đồng hồ hoặc dùng đáy hộp chổi cạo râu cũng may đều bằng kim loại thay cho chiếc gương.
Bước sang phòng ăn, tôi thấy bữa điểm tâm của mình đã được chuẩn bị, song không thấy mặt mũi bá tước đâu. Vậy là tôi lại phải ngồi điểm tâm một mình.
Từ khi đến lâu đài đến giờ, tôi vẫn chưa một lần được thấy bá tước ăn hay uống gì. Thật là một lão già cô độc? Sau bữa ăn, tự nhiên tôi lại muốn đi khám phá lâu đài. Tôi đi về phía cầu thang, gần đó có cánh cửa đang mỏ ngỏ dẫn vào một căn phòng, trong phòng chỉ có một ô cửa sổ nhìn về phía nam. Từ nơi này, tôi có thể phóng tầm mắt bao quát một phong cảnh thật rộng lớn. Lâu đài tôi đang đứng được xây ngay trên bờ một vực thẳm hùng vĩ. Một hòn đá được ném xuống từ một cửa sổ của lâu đài sẽ không vướng phải bất cứ một cái gì trong đường rơi của nó. Trong tầm mắt của tôi là một biển cây xanh ngút ngàn, thỉnh thoảng mới hở ra một chỗ mà tôi biết đó là các hốc núi. Tôi cũng nhìn thấy nhiều sợi dây bạc lấp lánh, đó chính là những dòng suối chảy vào các hẻm núi qua cánh rừng đại ngàn.
Nhưng tôi chẳng thấy có hứng thú gì để miêu tả các cảnh đẹp thiên nhiên thần tiên vào lúc này. Bởi vậy, sau một hồi ngắm cảnh, tôi lại tiếp tục cuộc khám phá của mình. Tôi chỉ thấy những cánh cửa, toàn cửa là cửa, chỗ nào cũng thấy cửa, tất cả đều bị khóa hoặc cài chốt? Không có cách nào ra khỏi đây được, trừ một cách là nhảy qua các cửa sổ nằm chênh vênh trên những bức tường cao vút?
Lâu đài này đúng là một nhà tù, và tôi chính là một tù nhân!
Tù nhân! Khi hiểu ra thực tế đó, tôi tưởng mình phát điên lên được. Tôi hết chạy lên lại chạy xuống các cầu thang, mở thử bất cứ cánh cửa nào tôi gặp, ngó qua tất cả các ô cửa sổ tôi qua. Chỉ được một lát, cái cảm giác bất lực đã dập tắt mọi ý chí của tôi. Sau vài tiếng đồng hồ, thú thực cứ nghĩ đến chuyện mình giống như một con chuột đang giãy, giụa trong lòng tôi lại muốn hóa dại. Tuy nhiên, khi đã hiểu có muốn vùng vẫy cũng chẳng được, tôi bắt đầu bình tĩnh lại để suy nghĩ và tìm cách vượt qua hoàn cảnh. Nhưng vào lúc này, đầu óc tôi chỉ còn biết suy nghĩ mông lung và không thể tìm ra một giải pháp nào. Tôi chỉ biết chắc chắn có một điều, đó là hoàn toàn vô ích khi nói cho bá tước các tình cảm của mình. Hơn ai hết, lão biết tôi là tù nhân ở đây, lão muốn thế và chắc chắn có lý do để làm thế. Bởi vậy, nếu tôi tâm sự với lão, thì rõ ràng lão sẽ không bao giờ thừa nhận sự thực. Vì thế mà tôi nghĩ rằng trước khi làm sáng tỏ một cái gì đó, thì điều cần làm đầu tiên là không được mở mồm nói về những gì mình vừa phát hiện ra, không được để lão nghi ngờ những lo sợ của mình... và lúc nào cũng phải giữ cho nét mặt (lược bình thản. Tôi hiểu rất rõ tình cảnh của mình lúc này: hoặc tôi làm một đứa con nít bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi, hoặc rơi vào một tình thế khó khăn hơn và nếu chấp nhận như vậy thì trong những ngày sắp tới, tôi cần, rất cần có một đầu óc sáng suốt.
Đang mải suy nghĩ, tôi chợt nghe thấy có tiếng khép cửa phía dưới: lão bá tước đã về. Lão không đi ngay vào thư viện. Tôi phải rón rén trở về phòng mình. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy lão đã ở trong đó dọn giường cho tôi? Dù vô cùng kinh ngạc, nhưng điều đó đã giúp tôi khẳng định chắc chắn một điều mà từ khi đặt chân đến lâu đài này đến giờ tôi vẫn nghi ngờ: trong nhà không có người giúp việc. Và lát sau, khi nhìn qua khe cửa, thấy lão đang bày bàn ăn trong phòng ăn, thì tôi chẳng còn gì để mà nghi ngờ nữa, bởi nếu lão có đảm nhận những việc này, thì chẳng qua là lão không có người hầu làm giúp. Tôi rùng mình hoảng sợ khi nghĩ rằng nếu trong lâu đài không còn bất cứ một ai khác, thì gã đánh xe ngựa đón tôi đến đây cũng chính là lão chứ không phải ai khác. Nếu đó đúng là sự thật, thì cái quyền lực mà lão đã làm bằng cách giơ bàn tay lên để buộc đàn sói phải tuân lệnh sẽ nói lên điều gì? Tại sao những người dân ở khách sạn Bistritz và tất cả những người bạn đồng hành trên chiếc xe ngựa đầu tiên lại luôn lo sợ cho tôi đến như vậy? Tại sao họ lại tặng tôi cây thánh giá nhỏ, rồi một nhánh tỏi và cả bông hồng dại nữa? Cầu Chúa hãy ban phước lành cho người đàn bà đôn hậu đã tặng tôi chuỗi hạt có cây thánh giá? Bởi cứ mỗi lần sờ vào cây thánh giá ấy là tôi lại thấy mình như được tiếp thêm sức mạnh và lòng can đảm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy cây thánh giá, một vật vô tri vô giác, một vật mà tôi vẫn cho là vô dụng bấy lâu nay, một vật chỉ được xem là biểu tượng của tín ngưỡng, lại ít nhiều cứu giúp tôi khỏi cái cảm giác đơn côi và cùng quẫn. Cây thánh giá nhỏ ấy có một quyền năng nội tại, hay chỉ là một vật làm sống lại những kỷ niệm xưa cũ? Tôi hy vọng là có một ngày, tôi sẽ kiểm nghiệm được vấn đề để đưa ra một lời giải đáp. Trong lúc chờ đợi, tôi buộc phải nắm bắt càng rõ về con người bá tước Dracula càng tốt có thể điều đó sẽ giúp tôi hiểu rõ nhất mọi chuyện đang xảy ra. Và có thể tối nay lão sẽ tự nói ra nhiều điều nếu như tôi có một lời nào đó là cuộc nói chuyện theo hướng này. Tuy nhiên, tôi cũng sẽ phải rất thận trọng để lão không thể nghi ngờ những suy nghĩ trong lòng mình.
* * * * *
Nửa đêm
Tôi có một cuộc nói chuyện rất dài với lão bá tước Tôi hỏi lão mấy câu về lịch sử Transylvanie và được lão giải đáp rất nhiệt tình. Chủ đề tôi hỏi dường như đã làm lão rất thích! Lúc lão kể về cuộc sống, con người, đặc biệt là khi nói về các cuộc chiến, tôi thấy lão hăm hở cứ như đang tham dự chính những sự kiện ấy vậy. Lão bảo vị thế của lão cho thấy một điều: đối với một nhà quý tộc như lão thì vinh quang của dòng họ và của tên tuổi lão chính là niềm kiêu hãnh cá nhân của lão, danh dự của dòng tộc là danh dự của lão và số phận của dòng họ cũng là số phận của lão. Cứ mỗi lần nói về dòng tộc là lão lại xưng “chúng tôi” như các bậc vua chúa vẫn thường dùng. Tôi muốn tái hiện ở đây tất cả những gì lão đã kể, bởi ghi chép cũng là một thú vui riêng của tôi. Có lẽ tôi đã được nghe kể toàn bộ lịch sử của xứ sở Transylvanie. Lão càng kể càng tỏ ra phấn khích hơn, vừa kể, lão vừa đi đi lại lại trong phòng, trong khi tay không quên mân mê hàng ria mép bạc trắng hoặc nắm lấy bất cứ vật nào mà lão chạm tay vào như muốn bóp nát nó ra. Tôi thử ghi lại một phần những gì lão đã kể liên quan tới lịch sử của xứ sở lão.
“Chúng tôi, những người Szekelys, có quyền được tự hào, bởi chúng tôi mang dòng máu của những dân tộc gan dạ và dũng cảm - đã chiến đấu như những con mãnh sư thực sự để bảo vệ ưu thế của mình. Ở cái đất nước luôn láo nháo không biết bao nhiêu sắc tộc Âu châu này, các chiến binh đến từ Băng Đảo đã đem theo tinh thần hiếu chiến mà thần Thor và Wodin đã thổi vào họ, và họ đã mang sự điên cuồng tới mọi bờ biển Âu châu - tất nhiên là Âu châu, nhưng cũng tới cả các bờ biển Á châu và lục địa đen đến nỗi khiến người dân các xứ cứ tưởng mình bị các bầy sói tấn công. Thậm chí khi xâm lược tới đây, các chiến binh đáng ngờ ấy đã biến những người Hung nô nổi tiếng là thiện chiến thành những nạn nhân hấp hối và buộc họ phải thừa nhận rằng trong người các đao phủ ấy có một dòng máu của những phù thủy già, những kẻ đã bị đẩy khỏi Scythie và tới tập trung ở sa mạc với quỷ dữ. Đúng là những kẻ ngu ngốc? Đã bao giờ có phù thủy nào, quỹ dữ nào mạnh bằng Attila, nơi có dòng máu đang chảy trong huyết mạch của chúng tôi chưa” - Gã vừa nói vừa kéo hai ống tay áo lên cho tôi xem. - “Phải thừa nhận chúng tôi là một chủng tộc thiện chiến và biết tự hào, nên có gì đáng ngạc nhiên khi mà người Magyar, người Lombard, người Avard hoặc người Thổ định ào ạt vượt biên giới để thôn tính chúng tôi và đều bị chúng tôi đánh bật trở lại? Có gì đáng ngạc nhiên khi Arpad và đoàn quân của ông ta muốn xâm lược đất mẹ đã bị chúng tôi chặn đứng ở ngay đường biên giới? Thế rồi khi người Hungary định xâm lược ở phía đông, người Magyar chiến thắng đã liên minh với người Szekelys. Từ đó trở đi, trong nhiều thế kỷ, chúng tôi được giao phó nhiệm vụ canh giữ đường biên giới Thổ Nhĩ Kỳ. Hơn nữa, nhiệm vụ của chúng tôi dường như chẳng bao giờ kết thúc, bởi vì, theo châm ngôn của chính người Thổ, thì “cây lặng, nhưng gió chẳng đừng”. Vậy thì trong bốn dân tộc, dân tộc nào được sung sướng nhận “lưỡi gươm đẫm máu” hơn là chúng tôi, dân tộc nào nhanh chóng quần tụ dưới ngọn cờ của đức đại đế khi người kêu gọi chiến đấu hơn chúng tôi? Và khi những ngọn cờ cũng người Wallach và người Magyar bị hạ xuống trước lá cờ lưỡi hái, thì tới khi nào nỗi ô nhục to lớn của đất nước tôi mới được gột rửa? Chẳng phải một trong những người thân thích của tôi đã vượt sông Danube để chiến đấu chống lại người Thổ trên chính mảnh đất của mình đó ư? Vâng, đó chính là một Dracula! Thật đang nguyền rủa một người anh em của anh ta, hắn đã bán cả dân tộc cho những người Thổ, khiến cho bao người phải chịu cảnh ô nhục của kiếp nô lệ! Và cũng chính là một người Dracula vượt sông năm nào đã truyền lại dòng máu yêu nước nồng nàn cho một hậu duệ của mình người sau đó đã vượt sông cùng đội quân của mình sang xâm lược lại Thổ Nhĩ Kỳ? Con người này, sau khi chiến đấu và rút về, đã rất nhiều lần quay trở lại cầm quân, và đã để lại đằng sau một bãi chiến trường ngổn ngang xác binh sĩ, bởi vì ông biết rằng cuối cùng thì cũng chỉ có ông mới dành được chiến thắng! Người đời cho là ông có làm như vậy chẳng qua cũng là vì bản thân ông! Nhưng các đội quân sẽ có ý nghĩa gì nếu thiếu một vị chỉ huy? Cuộc chiến sẽ đi tới đâu nếu như không có một trái tim và một khối óc dẫn đường chỉ lối? Chưa hết, sau cuộc chiến Môhăc, chúng tôi đã đập tan ách thống trị của người Hungari. Chúng tôi, những người Dracula, lại một lần nữa góp mặt trong đội ngũ những vị chỉ huy làm nên chiến thắng này! Chà? Ông bạn trẻ ạ, người Szekelys và người Dracula từng là dòng máu, khối óc và lưỡi gươm của các đội quân - người Szekelys có thể hãnh diện vì đã làm được cái điều mà những kẻ hãnh tiến Hapsburgs và Romanoff không thể làm nổi... Nhưng chiến tranh đã qua rồi. Dòng máu đang được coi là một thứ rất quý trong cái thời bình ô danh của chúng tôi và bây giờ, cái vinh quang thuộc về tổ tiên vĩ đại của chúng tôi chỉ còn là một câu chuyện cổ tích mà thôi”.
Khi lão dừng câu chuyện cũng là khi một ngày mới sắp đến, chúng tôi phải chia tay về phòng ngủ. (Nhật ký của tôi giống câu chuyện Nghìn lẻ một đêm kinh khủng, bởi tất cả đều dừng lại khi có tiếng gà gáy đầu tiên và chắc chắn nó cũng sẽ gợi nhắc tới sự xuất hiện bóng ma của người cha trước mặt chàng Hamlet).
* * * * *
Ngày 12 tháng 5
Tối hôm qua, bá tước Dracula lại đến tìm tôi, vừa mới gặp lão đã lập tức hỏi về một số vấn đề liên quan tới luật pháp và cách xử lý một số vụ việc. Tôi thấy dường như các câu hỏi của lão có một trật tự nào đó, tôi sẽ cố gắng tôn trọng trật tự này khi nhắc lại các câu hỏi ở đây, bởi biết đâu nó lại có ích cho tôi về sau.
Trước hết, lão hỏi tôi là có phải ở Anh, người ta có thể thuê hai hoặc nhiều công chứng viên cùng lúc không. Tôi trả lời rằng nếu muốn thì người ta có thể thuê cả một tá, nhưng người khôn ngoan hơn sẽ chỉ nhờ tới một công chứng viên cho một việc mà thôi, vì nếu nhờ nhiều người cùng một lúc, chắc chắn khách hàng đó sẽ vô tình hành động chống lại các lợi ích của chính mình. Chủ nhà của tôi có vẻ hiểu thấu vấn đề, song lão vẫn thắc mắc nếu thuê một công chứng viên để theo dõi các hoạt động tài chính và một công chứng viên khác lo chuyện tiếp nhận hàng gửi bằng tàu biển trong trường hợp người thứ nhất ở cách xa cảng, thì có gặp trở ngại gì không.
Tôi đề nghị lão nói rõ hơn vì sợ mình sẽ giải thích sai ý của lão. Lão nói :
- Thế này nhé! Chúng ta hãy giả định thế này: ông bạn của chúng ta, ngài Peter Hawkins, trú ở Exeter, một nơi nằm cách xa Luân Đôn, qua vai trò trung gian môi giới của ngài, mua cho tôi một dinh thự ở thành phố này. Thế! Bây giờ tôi xin được trình bày thẳng vấn đề - bởi ngài có thể buồn cười về việc tôi nhờ một người ở xa Luân Đôn như vậy làm cái việc đó mà không nhờ ngay một người ở tại Luân Đôn - rằng tôi không muốn có bất cứ một vụ lợi cá nhân của ai đó cản trở lợi ích của tôi. Thế mà trong cuộc giao dịch như vậy, một công chứng viên Luân Đôn rất có thể bị cám dỗ bởi vụ lợi Cá nhân hoặc sẽ tiếp tay cho một ai đó làm tiền; tôi xin nhắc lại, người đó sẽ giúp tôi đạt được các lợi ích của tôi một cách tốt nhất. Bây giờ chúng ta hãy đặt giả thiết rằng tôi, người bận rất nhiều việc, nhưng lại muốn gửi hàng, ví dụ tới Newcastle, hoặc tới Durham, Harwich hay Douvres, thì việc tôi nhờ một nhà kinh doanh trú quán ở một trong các cảng trên có dễ dàng không?
Tôi trả lời rằng chắc chắn công việc lúc đó sẽ không còn đơn giản nữa, song các công chứng viên đã tạo ra giữa họ một mạng lưới văn phòng cho phép thu xếp các công việc ở địa phương theo đề nghị của bất kỳ cá nhân công chứng viên nào, vì vậy khách hàng có thể gửi gắm mọi quyền lợi của mình cho duy nhất một người và chẳng cần bận tâm gì hết.
- Nhưng trong trường hợp của tôi, liệu tôi có thể đích thân quản lý công việc được không?
- Tất nhiên là được; - Tôi trả lời - điều đó vẫn thường xảy ra khi đương sự không muốn người khác biết các giao dịch đang diễn ra.
- Tốt - Lão buông cộc lốc một tiếng.
Sau đó lão tiếp tục hỏi tôi cách thức tiến hành gửi hàng hóa, các thủ tục cần phải đăng ký, rồi các khó khăn thường gặp nếu như đương sự chưa nghĩ ra các biện pháp đề phòng.
Tôi đưa ra mọi lời giải thích có thể trong khả năng của mình, và nghĩ lão cũng có khả năng thực hiện hoàn hảo cái thiên hướng công chứng viên của lão, bởi chẳng có gì mà lão chưa nghĩ đến và cũng không có gì lão không đề phòng.
Đối với một người chưa bao giờ đặt chân đến nước Anh, và chưa từng trải qua các vấn đề về luật pháp như lão mà lại có một hiểu biết và một đầu óc suy đoán sáng suốt như vậy thì quả là rất đáng ngạc nhiên.
Khi đã có đủ các thông tin tư vấn như mong muốn, và khi thấy tôi kiểm tra lại một số điểm trong các cuốn sách đặt bên cạnh, lão chợt đứng bật dậy hỏi tôi :
- Sau lá thư đầu tiên, ngài đã viết thêm lá thư nào cho ông bạn Peter Havkins hay một người nào khác chưa?
Tôi bỗng cảm thấy cay đắng ít nhiều khi trả lời lão rằng chưa, rằng tôi chưa có dịp để gửi bất cứ một lá thư nào cho các bạn của tôi.
- Vậy thì bây giờ viết đi, - Lão vừa nói vừa đặt bàn tay làm nặng trĩu vai tôi - hãy viết cho ngài Peter Hawkins hoặc ai đó mà ngài muốn; và làm ơn hãy thông báo va li họ rằng ngài sẽ ở lại đây thêm một tháng nữa, kể từ ngày hôm nay.
- Ngài muốn tôi ở lại đây lâu vậy sao - Tôi hỏi mà rùng mình vì tuyên bố của lão.
- Đúng, tôi muốn thế và tôi sẽ không chấp nhận bất cứ lời từ chối nào. Khi ông thầy, ông chủ... của ngài gửi cho tí một người nào đó nhân danh ông ta, ông đã đồng ý để đi được sử dụng người đó tùy thích cho công việc của tôi... Đừng từ chối? Ngài đồng ý chứ?
Nếu không đồng ý thì tôi còn biết làm thế nào. Trong công việc này, người có quyền lợi là ngài Hawkins chứ không phải tôi, và tôi phải nghĩ tới ông, chứ không được phép nghĩ tới bản thân. Hơn nữa, trong lời nói, ánh mắt và đặc biệt là trong cách cư xử của bá tước Dracula có một cái gì đó khiến tôi sực nhớ rằng tôi đang là tù nhân ở nhà lão rằng dù có muốn đi chẳng nữa, thì tôi cũng không thể rút ngắn thời gian tôi ở lại đây. Lão đã chiến thắng theo cái cách mà tôi phải tự khuất phục; lão thấy qua sự bối rối hiện rõ trên nét mặt tôi, lão đa trở thành ông chủ. Ngay lập tức, lão khai thác cái sức mạnh nhân đôi này bằng cái giọng nhẹ nhàng quen thuộc của lão, cái giọng mà tôi không thể chống lại :
- Trước hết, tôi xem được đề nghị, ông bạn trẻ thân mến ạ, hãy chỉ nói về công việc trong thư. Chắc chắn là các bạn ngài rất muốn biết ngài vẫn khỏe và luôn nghĩ tới ngày trở về bên họ. Điều này, ngài có thể nói với họ một lời.
Vừa nói, lão vừa đưa cho tôi ba tờ giấy và ba chiếc phong bì. Đó là một loại giấy rất mỏng. Nhìn mấy tờ giấy, và nhìn bộ mặt cười thản nhiên với hàm răng đài, nhọn chìa cả ra ngoài đôi môi đỏ chót của lão, tôi hiểu cái điều lão vừa nói với tôi, tôi hiểu mình sẽ phải cẩn thận với những lá thư, bởi lão có thể đọc được tất cả. Bởi vậy, tôi quyết định chỉ viết những lá thư vắn tắt với những câu chữ khá vô nghĩa trước, rồi sẽ bí mật viết dài hơn cho ngài Hawkins và Mina sau.
Đúng vậy, đối với Mina, tôi có thể viết theo dạng tốc ký, bởi ít ra nếu có nhìn thấy, thì lão bá tước cũng không thể hiểu được những nét chữ nguệch ngoạc ấy.
Viết xong hai lá, tôi lặng lẽ ngồi đọc lại, trong khi đó lão cũng đang ngồi viết, thỉnh thoảng lại dừng bút để tra cứu cái gì đó trong mấy cuốn sách đặt trên bàn.
Viết xong, lão cầm hai lá thư của tôi chồng vào lá thư của lão rồi đặt cả xấp xuống gần lọ mực và ống bút, sau đó, lão bỏ ra ngoài. Cánh cửa vừa khép sau lưng lão, tôi vội cúi xuống xem mấy lá thư lão vừa viết. Tôi thật chẳng ân hận một chút hào, bởi trong những tình huống như vậy, tôi buộc phải tìm đường thoát nạn bằng bất cứ cách nào.
Một lá thư tôi thấy đề nghị theo địa chỉ Samuel F. Billington, số 7, đường Crescent, Whitby; một lá gửi cho ngài Leutnes, ở Varna; lá thứ ba gửi cho Coutt ở Co. Luân Đôn, và lá cuối cùng gửi Klopstock Bill reuth, chủ nhà băng ở Budapest. Lá thứ hai và lá thứ tư không dán kín. Tôi định mở ra đọc thì chợt nghe có tiếng động ngoài cửa. Tôi giật mình xếp lại mấy lá thư vào chỗ cũ, rồi vớ vội quyển sách giả vờ đọc trước khi lão bá tước quay trở lại với một lá thư nữa trên tay. Lão dán tem vào các lá thư đặt trên bàn, rồi quay lại bảo tôi :
- Hy vọng là ngài sẽ thứ lỗi cho tôi, tối nay tôi lại có việc bận. Ngài sẽ tìm thấy ở đây tất cả những gì ngài cần, tôi nói vậy có phải không ạ?
Ra đến cửa, lão dừng lại một lúc rồi ngoảnh lại :
- Ông bạn trẻ thân mến ạ, tôi xin có một lời khuyên, hay nói đúng hơn là một lời cảnh cáo cho ngài đây: nếu như ngài rời khỏi mấy căn phòng này, thì ngài sẽ không thể tìm thấy một giấc ngủ ngon lành ở bất cứ một chỗ nào trong lâu đài đâu! Bởi vì đây là một trang viên cổ kính, nên nó cũng chứa trong lòng nhiều kỷ niệm xưa cũ, và các cơn ác mộng sẽ đổ ập đến với những ai thích ngủ ở những phòng mà họ không được phép ngủ. Tôi xin nhắc để ngài đề phòng. Nếu như một lúc nào đó, ngài cảm thấy buồn ngủ, hoặc là ngài muốn đi ngủ, thì xin ngài hãy trở về phòng mình càng nhanh càng tốt, nếu không, ngài cũng có thể vào một trong những phòng ở khu vực này, ở đây, ngài có thể yên tâm mà ngủ. Còn nếu như ngài không cẩn thận, thì...
Câu nói bỏ lửng của lão hàm chứa một điều gì đó khiến tôi rùng mình ghê sợ. Tôi hiểu lời lão nói. Điều duy nhất tôi chưa cắt nghĩa được lúc này là liệu cái giấc mơ đó dù là giấc mơ nào có khủng khiếp hơn những mắt lưới đen tối và bí ẩn đang bủa vây xung quanh tôi không?
* * * * *
Một lát sau
Tôi đọc lại những dòng vừa viết và cảm thấy có thể chấp nhận được, tất nhiên là tôi không phải do dự và sửa chữa gì nữa. Trong lâu đài này, chẳng có chỗ nào làm cho tôi sợ không ngủ được cả, miễn là đừng có mặt lão chủ nhà ở đó. Tôi cho rằng cứ đặt cây thánh giá nhỏ lên đầu giường là tôi có thể ngủ. yên giấc mà chẳng sợ có một cơn ác mộng nào. Và cây thánh giá tôi vẫn để ở đó.
Bá tước vừa đi khỏi, tôi cũng về luôn phòng mình. Một lúc lâu sau, khi không còn nghe thấy bất cứ một tiếng động nào, tôi mới lặng lẽ ra hành lang tìm đến nơi có ô cửa sổ nhìn về phía nam. Trái ngược với cái khoảng chật hẹp, tối tăm và tù túng ở sân lâu dài, cái không gian mênh mông xa hút tầm mắt bên ngoài đã cho tôi một chút cảm giác của bầu trời tự do. Không gì bằng được hít thở bầu không khí mát lành lúc này, cho dù bây giờ văn đang là buổi đêm. Đang mãi ngắm cảnh, tôi bỗng giật thót người khi bất giác nhận ra cái bóng của chính mình, và thế là mọi ý nghĩ quái đản và khủng khiếp nhất lại ập đến trong đầu tôi. Đúng là chỉ có Chúa mới biết nỗi lo sợ của tôi không phải là vô căn cứ? Tôi cố bình tĩnh, ngắm phong cảnh đang trải rộng trước mắt, dưới ánh trăng tỏ như ban ngày. Dưới ánh trăng bàng bạc, những ngọn đồi trùng điệp xa xa như hòa lẫn với các thung lũng, khe núi, tạo thành một màu đen mượt như những. Vẻ đẹp giản dị ấy giúp tôi bình tĩnh lại và mỗi làn gió mát lạnh dường như cũng mang đến cho tôi sự bình yên và một chút vỗ về, an ủi. Nhoài người ra cửa sổ nhìn xuống chân lâu đài, tôi tình cờ phát hiện thấy có một cái gì đó đang động đậy ở tầng dưới, hơi chếch một chút về bên trái. Qua những gì tôi biết về vị trí sắp xếp các phòng, thì hình như phòng ở của bá tước nằm đúng ở chỗ đó. Cửa sổ nơi tội đang cúi nhìn xuống nằm ở một vị trí rất cao, khuôn cửa sâu, và các bậu cửa đều được xây bằng đá, nên dù có bị hư hỏng theo năm tháng, cũng chẳng có gì đặc biệt đáng chú ý. Tôi đứng thẳng người dậy để khỏi bị phát hiện, nhưng vẫn không quên theo dõi những gì đang diễn ra ở phía dưới.
Cái đầu của lão bá tước vừa nhô ra khỏi cửa sổ tầng dưới; dù không trông thấy mặt lão, song tôi vẫn nhận ra lão ở cái cổ, tấm lưng và các cử động không thể lẫn với ai của hai cánh tay lão, nhất là đôi bàn tay - tôi không thể nhầm bởi đã có rất nhiều dịp tôi để ý đến đôi bàn tay kỳ dị của lão. Trước hết, tôi cảm thấy vừa hứng thú vừa vui vui khi được rình mò như vậy, bởi quả thực chẳng có gì vui và hứng thú đối với một kẻ làm tù nhân trong những lúc bình thường. Tuy nhiên, mọi cảm giác ban đầu của tôi đã nhanh chóng bị thế chỗ cho cái cảm giác ghê tởm và kinh hãi khi thấy lão bá tước từ từ trườn ra ngoài cửa sổ và bắt đầu bò sát tường lâu đài. Lão cứ bò như vậy trên cái vực thẳm hun hút đến chóng mặt, tấm áo choàng đen dang rộng sang hai bên như hai cánh dơi. Tôi thật không còn tin ở mắt mình. Lúc đầu tôi cứ ngỡ mình bị quáng bởi ánh trăng, hoặc bị lẫn bởi cái bóng nào đó, nhưng khi căng mắt ra nhìn kỹ hơn, tôi hiểu mình đã không lầm. Tôi hoàn toàn nhận ra những ngón tay và ngón chân đang bấu chặt vào gờ các phiến đá đã bị thời gian làm tróc mất các mạch vữa. Lão bò thoăn thoắt như vậy xuống dưới chân tường sâu thăm thẳm.
Lão là dạng người siêu phàm, hay là một quái vật đội lốt người? Cảnh tượng xảy ra ngay trước mắt làm tôi cảm thấy rùng rợn hơn bao giờ hết, tôi sợ... tôi sợ đến phát khiếp... và không thể không bỏ trốn...
* * * * *
Ngày 15 tháng 5
Tôi bàng hoàng nhìn lão bá tước tiếp tục bò như một con thằn lằn. Lão bò dọc bức tường theo một đường hơi chéo về bên trái. Rồi lão bất ngờ chui vào một cái lô hay một ô cửa sổ nào đó. Khi không còn trông thấy đầu lão nữa, tôi mới dám nhoài hẳn người ra nhìn cho rõ hơn đường đi của lão, nhưng chẳng phát hiện ra một điều gì mới, bởi cái lỗ hay ô cửa sổ đó nằm quá xa chỗ tôi đứng. Tuy nhiên, tôi tin chắc một điều là lão đã rời khỏi lâu đài, và lúc này tôi có thể làm một điều mà trước đó tôi chưa dám làm: tranh thủ khám phá tòa lâu đài. Tôi vào giữa phòng cầm cây đèn và đi mở thử tất cả các cánh cửa. Đúng như tôi đoán, cánh cửa nào cũng bị khóa chặt, và theo như tôi thấy thì các ổ khóa đều còn tương đối mới. Tôi xuống cầu thang, đi dọc theo hành lang qua ô cửa mà tôi đã vào trong cái đêm đầu tiên đến lâu đài. Tôi nhận thấy tôi có thể dễ dàng mở các chất cửa cũng như tháo sợi dây xích ra, nhưng cánh cửa đã bị khóa chặt và dĩ nhiên là chìa khóa không còn trong ổ. Chắc chắn chiếc chìa khóa đã được cất trong phòng lão bá tước và như vậy tôi cần chớp thời cơ, khi cửa phòng lão không khóa, lẻn vào lấy trộm chìa khóa rồi bỏ trốn.
Tôi tiếp tục kiểm tra chi ly từng dãy hành lang, từng đường cầu thang và mở thử tất cả các cánh cửa mà tôi gặp trên đường đi. Những cánh cửa của một hoặc hải phòng nhỏ nhìn ra hành lang giữa không khóa, song bên trong chẳng có gì đáng kể ngoài mấy thứ đồ gỗ cổ phủ bụi mờ và vài chiếc ghế bành bọc vải bị mọt cắn tươi tả. Cuối cùng, khi leo lên đỉnh một cầu thang, tôi gặp một cánh cửa mà mới nhìn thì tưởng là khóa chặt, nhưng khi đẩy nhẹ một cái, cánh cửa có phần nhúc nhích. Tiếp tục đẩy mạnh hơn, tôi nhận ra đúng là cánh cửa không bị khóa, nó chỉ hơi bật lại lực đẩy của tôi do các tấm bản lề đã phần nào bị long ra, cánh cửa bị sệ sát xuống mặt sàn. Có thể đây sẽ là cơ hội có một không hai mà tôi phải tận dụng. Sau một vài lần lên gân lên cốt, tôi đã mở được cánh cửa. Tôi đang đứng trước một cái nhà của tòa lâu đài, nó nằm chếch về bên phải và ở tầng dưới các phòng mà trước đó tôi đã được biết. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy các phòng nằm trải dài theo mạn phía nam của lâu đài, các cửa sổ của phòng cuối cùng vừa nhìn ra phía nam lại vừa nhìn ra phía tây. Cả hai phía đều trông hun hút xuống một vực thẳm. Tòa lâu đài được xây ngay ở góc một mỏm núi lớn, đến nỗi cả ba phía đều không có cách gì tiếp cận được; cũng như vậy, các ô cửa sổ đều được xây ở một vị trí rất cao trên các bức tường nên cũng là bất khả xâm phạm các loại vũ như cung tên, súng văng đá và súng đạn thông thường đều không đủ tầm bắn đến dây. Vị trí cao của các ô cửa sổ đã tạo cho một phần tòa lâu đài vẻ quang đãng và dễ chịu hơn. Ở phía đông là một thung lũng nằm sâu thẳm dưới chân các ngọn núi cao vút và dốc đứng.
Chắc chắn rằng ngày xưa, các phòng này chính là chỗ ở của các quý bà, quý chị, bởi vì tất cả các đồ đạc ở đây dường như đều có vẻ tiện nghi hơn so với những thứ tôi từng được tha ở các phòng khác. Các ô cửa sổ đều không có rèm che nên ánh trăng thanh lọt vào qua lớp cửa kính đã giúp tôi dễ dàng phân biệt được màu sắc của các đồ vật trong phòng, cho dù tất cả đều mờ đi bởi lớp bụi thời gian. Ngọn đèn trên tay tôi lúc này bỗng trở thành vô dụng dưới ánh trăng, nhưng dù sao nó cũng phần nào làm tôi cảm thấy dễ chịu, bởi rõ ràng là tôi đang cô đơn, cái cô đơn khiến lòng tôi như se lại với một nỗi lo sợ mơ hồ. Tuy nhiên, thà cô đơn như vậy còn hơn là có thêm lão bá tước ở trong phòng. Một chút cố gắng của lý trí cùng với sự an ủi của ngọn đèn trên tay đã giúp tôi bình tĩnh trở lại... Tôi ngồi xuống bên một chiếc bàn nhỏ bằng gỗ sồi, nơi xưa kia hẳn phải có một người đàn bà tuyệt đẹp đã ngồi mộng mơ, ngượng ngùng viết những lá thư tình lai láng song vụng về. Tôi ngồi nghĩ lại những trang nhật ký ghi chép toàn bộ những gì đã xảy ra với mình. Tốc ký quả là một tiến bộ của thế kỷ mười chín! Quả là mỗi thế kỷ đều có những quyền lực riêng biệt mà chủ nghĩa hiện đại không thể bóp chết được...
* * * * *
Ngày 16 tháng 5, buổi sáng
Chúa muốn tôi lúc này phải giữ được sự cân bằng về tinh thần, bởi vì đó là tất cả những gì còn lại đối với tôi. Đối với tôi, sự an toàn, hoặc việc đảm bảo cho sự an toàn, là điều thuộc về quá khứ. Trong những tuần còn sống ở đây, tôi chỉ có thể hy vọng vào một điều là mình không trở thành một thằng điên. Và nếu như còn giữ được một tinh thần lành lặn, thì chắc là tôi cũng sẽ phát hoảng khi nghĩ rằng trong tất cả những mối đe dọa đang vây xung quanh tôi ở đây, sự có mặt của lão bá tước chỉ là điều tối thiểu! Lạy Chúa Trời! Lạy Chúa lòng lành! Hãy làm sao để tôi giữ được bình tĩnh, bởi nếu sự bình tĩnh lìa khỏi con người tôi, chắc chắn nó sẽ nhường chỗ cho sự điên dại! Lúc này, khi có cảm tưởng như đầu óc mình sắp sửa nổi khùng lên hoặc ít nhất là vừa phải trải qua một cú sốc nguy hại, tôi chỉ còn biết phó thác cho trang nhật ký: nhật ký sẽ là kẻ hướng đạo của tôi. Việc ghi chi tiết tất cả những gì mình phát hiện được đối với tôi sẽ là một cách để tự mình nguôi ngoai.
Lời cảnh cáo bí hiểm của lão bá tước làm tôi lo sợ ngay từ lúc lão nói và bây giờ, khi nghĩ lại, tôi lại càng cảm thấy hãi hùng hơn, vì tôi biết người đàn ông quái đản này sẽ gây ra một ảnh hưởng khủng khiếp đối với tôi. Điều tôi cần làm lúc này là đừng nên coi những lời nói của lão là quá nghiêm trọng!
Viết xong những dòng nhật ký vừa rồi và cất giấy bút vào túi quần, tôi bỗng thấy buồn ngủ trĩu cả mắt. Tất nhiên, tôi không quên lời cảnh báo của bá tước, nhưng không hiểu sao tôi vẫn cứ thích không tuân theo lời lão. Ánh trăng vằng vặc dường như thật dịu dàng và hiền hòa đối với tôi, và cả cái khung cảnh rộng lớn mênh mang ngoài kia như cũng muốn an ủi vỗ về tôi, tạo cho tôi một cảm giác của bầu trời tự do. Tôi quyết định không trở về phòng mình mà ngủ luôn tại đây nơi người ta vẫn đang đoán già đoán non sự có mặt của các quý bà ngày xưa và cũng là nơi họ thường tụ tập ca hát để làm vơi đi nỗi buồn của một cuộc sống nhung lụa nhưng tẻ nhạt, bởi những người bạn đời của họ luôn phải biền biệt ở phương trời xa xôi vì những cuộc chiến tranh triền miên và chết chóc. Tôi chọn một chiếc ghế tựa đài đặt gần cửa sổ để khi nằm vẫn có thể ngắm cảnh.
Chẳng cần để ý tới lớp bụi mờ, tôi uể oải ngả lưng, mong sớm chìm vào giấc ngủ. Quả thực tôi đã đi vào giấc ngủ, hoặc ít nhất là tôi hy vọng như vậy, bởi thú thực tôi chỉ sợ không chưa ngủ được, vì tất cả những gì diễn ra tiếp theo dường như đều rất thật với tôi thật đến nỗi mà lúc này, giữa ban ngày ban mặt, trong căn phòng rạng rỡ ánh ban mai, tôi vẫn không sao tin được mình có thể nằm mơ.
Tôi không ở trong phòng một mình. Rõ ràng chẳng có gì thay đổi kể từ lúc tôi bước vào đây. Tôi nhận ra trên sàn nhà, ánh trăng soi tỏ những dấu chân mình hằn rõ trên lớp bụi. Nhưng đang đứng trước mặt tôi lúc này là ba người đàn bà ba người đàn bà quý phái thể hiện ở cách trang điểm và điệu bộ của từng người. Thoạt nhìn thấy họ, tôi cứ ngỡ mình nằm mơ, bởi vì dù có ánh trăng chiếu qua cửa sổ, tôi vẫn không nhìn thấy một cái bóng nào của họ đổ xuống sàn nhà. Họ tiến về phía tôi, nhìn chòng chọc vào mặt tôi một lúc, rồi quay mặt vào nhau thì thầm điều gì đó. Hai người trong số họ có mái tóc nâu, mũi khoằm khoằm giống mũi lão bá tước, đôi mắt sắc như dao, mở to và ánh lên như có lửa. Người thứ ba quả là một phụ nữ đẹp mê hồn với mái tóc vàng, dài, óng ả và đôi mắt xanh như những viên ngọc bích. Tôi thấy gương mặt nàng có vẻ quen quen; và hồi ức đã đưa tôi về với một gượng mặt tôi từng gặp trong một cơn ác mộng, mặc dù lúc này tôi không thể nhớ nổi cái khoảnh khắc và những tình huống đã trải qua. Cả ba đều có những hàm răng trắng tinh, sáng lấp lánh như Lhững hạt ngọc trai, lấp ló sau làn môi đỏ chót và đầy nhục dục. Ở họ toát lên một cái gì đó khiến tôi cảm thấy bứt dứt khó chịu, vừa thèm muốn lại vừa ghê sợ. Vâng, quả thực tôi rất khát khao được đặt vào những đôi môi đỏ ấy một nụ hôn cháy bỏng. Song có lẽ tốt nhất là tôi không nên viết những lời như vậy, bởi điều đó sẽ làm cho Mina của tôi buồn nếu cô ấy dọc những dòng nhật ký này, nhưng tôi cũng buộc phải nói rằng đó là sự thật. Ba người đàn bà tiếp tục thì thầm nói chuyện, rồi cùng bật cười một tiếng cười du dương, trong trẻo, nhưng tôi khó có thể tả được hết, bởi tiếng cười ấy còn chứa đựng một cái gì đó dường như không thể thoát ra từ cuống họng của con người được. Nó vừa lanh lảnh, song cũng lại dịu dàng, đến mức không thể chịu đựng được, chẳng khác nào khi ta phải nghe tiếng va chạm của cốc chén trong bàn tay của một nghệ sĩ vụng về. Người đàn bà tóc vàng lắc đầu, vẻ như khêu gợi, để mặc hai người còn lại đùn đẩy phía sau lưng.
- Làm tới đi! - Một ả trong bọn nói. - Nhường cho chị đầu tiên đấy, chúng tôi sẽ làm sau.
- Trông anh ta còn trẻ và lực lưỡng lắm. - Ả thứ hai lên tiếng. - Cả ba chúng ta sẽ tặng anh ta một nụ hôn.
Tôi nằm im theo dõi màn kịch qua đôi mắt khép hờ, trong lòng cảm thấy như đang bị giày vò bởi sự rạo rực nôn nóng và thú vui nhục dục khó tả.
Ả tóc vàng sán đến bên tôi, cúi gần xuống người tôi, gần đến nỗi tôi còn cảm nhận được cả hơi thở nồng nàn của ả: hơi thở của ả thật nhẹ nhàng và êm dịu như chính giọng nói của ả, nhưng lại có một cái gì đó tanh tanh, tanh như mùi máu.
Tôi không dám mở to mắt, song vẫn tiếp tục nhìn qua hàng mi, chỉ cần thế tôi cũng đủ nhìn thấy hoàn toàn người đàn bà lúc này đang quỳ gối, cúi sát xuống người tôi hơn, vẻ mặt hoan hỉ, thỏa mãn. Nét mặt ấy lộ rõ sự khoái lạc đầy cảm xúc nhưng cũng thật ghê tởm, ả liếm mép như một con vật đang đói mồi, đến nỗi dưới ánh trăng thanh, tôi còn nhìn rõ lớp nước miếng nhớp nhúa trên dôi môi màu hồng ngọc và trên đầu chiếc lưỡi đỏ đang quét đi quét lại trên hai hàm răng trắng và nhọn của ả. Ả cúi xuống mỗi lúc một thấp hơn. Tôi có cảm giác ả sắp sửa áp đôi môi đỏ mọng như trái ớt xuống ngậm vào cổ tôi. Nhưng không, ả đã dừng lại, và tôi chợt nghe thấy có một tiếng động, một tiếng động gần gần giống như tiếng khuấy nước. Thì ra đó là tiếng dầu lưới ả đánh vào hàm răng và đôi môi đầy nước miếng. Tôi cảm thấy một luồng hơi thở nóng hổi đang phả vào cổ mình. Làn da trên cổ tôi bắt đầu nổi gai ốc như đang được một bàn tay mượt mà vuốt ve mơn trớn và cái mà tôi đang cảm nhận được chính là sự mơn trớn run rẩy của đôi bờ môi cùng những cái nghiến cực nhẹ của hai hàm răng nhọn. Khoái cảm cứ êm đềm trôi qua, tôi nhắm nghiền mắt trong một cảm giác mê mẩn. Tôi cứ thế chờ đợi, chờ đợi, mặc cho con tim thổn thức, rạo rực.
Nhưng cũng đúng vào lúc đó, tôi lại phải trải qua một cảm giác khác, một cảm giác bất ngờ vụt lên như một tia chớp. Lão bá tước đang đứng đó như vừa từ trên trời rơi xuống. Quả thực, lúc miễn cưỡng mở mắt ra, tôi thấy bàn tay thép của lão đang túm chặt lấy cái cổ mảnh dẻ của người thiếu phụ rồi giật ngược ra phía sau với sức mạnh ghê gớm của một kẻ lực điền vũ phu. Đôi mắt xanh của người đàn bà lóe lên những tia giận dữ, hai hàm răng ả nghiến ken két như một con thú điên dại. Còn lão bá tước? Chưa bao giờ tôi hình dung ra một kẻ bị cơn thịnh nộ cuốn phăng đi như vậy. Đôi mắt lão bừng lên những ánh lửa thực sự, thậm chí tôi còn cảm thấy những ánh lửa ấy như vừa bùng lên từ dưới địa ngục? Bộ mặt lão trông xám ngoét như một thây ma, hai má giật giật liên hồi, đôi hàng lông mày rậm rịt của lão càu càu giao nhau trên sống mũi giống như một thanh sắt gỉ méo mó bị nung đến sáng trắng. Lão khoát tay đẩy mạnh ả đàn bà bắn ra đầu phòng rồi lạnh lùng ra hiệu cho hai ả còn lại lập tức lui ra khỏi phòng. Đó chính là cái khoát tay mà tôi đã thấy lão làm trước bầy sói hôm nào. Bằng một giọng trầm trầm, gần như nói thầm, song cũng đủ để xé tan bầu không khí trong phòng, lão nói với đám đàn bà :
- Sao chúng bay dám cả gan làm như vậy đối với ông ta? Ai cho phép chúng bay hau háu nhìn ông ta? Cút đi, tao bảo cút hết cả đi cơ mà! Người đàn ông này thuộc quyền lực của tao? Cấm đứng có động vào, nếu không thì đừng có trách.
- Nhưng ngài đã bao giờ dám yêu! Ngài không dám yêu mà?
Hai ả còn lại khanh khách cười với nhau, tiếng cười thật hoan hỉ, song cũng thật nghiệt ngã và tàn nhẫn, khiến tôi suýt chết ngất. Quả thực, tiếng cười của chúng chẳng khác nào tiếng cười của quỷ dữ.
Chăm chú quan sát tôi một lát, rồi lão bá tước quay ra đáp lại, giọng vẫn thì thầm lạnh lùng :
- Có chứ, tao cũng có thể yêu. Rồi chúng bay sẽ được thấy điều đó. Hãy nhớ đấy? Tao xin hứa với chúng bay rằng sau khi kết thúc công việc với ông ta, tao sẽ để chúng bay làm gì ông ta tùy thích! Còn bây giờ, hãy để cho bọn tao được yên. Tao phải đánh thức ông ta dậy, còn bao việc đang đợi tao kia kìa.
- Thế đêm nay chúng tôi không có gì? - Một ả vừa cười vừa hỏi, trong khi tay chỉ vào chiếc túi lão bá tước vừa vứt chỏng chơ dưới sàn nhà: chiếc túi động đậy như có một thực thể sống ở bên trong.
Lão bá tước gật đầu thay cho câu trả lời. Một ả trong bọn lập tức nhảy bổ tới mở chiếc túi ra. Tôi tin là mình đã nghe thấy một tiếng rên yếu ớt như tiếng một đứa trẻ sắp bị chết ngạt. Lũ đàn bà xúm vây quanh cái túi, còn tôi thì cứng đờ lại vì hãi hùng. Nhưng điều làm tôi khiếp đảm hơn cả là không hiểu bằng cách nào, mấy ả đã bất ngờ biến mất cùng cái túi, trong lúc mắt tôi vẫn không rời khỏi sàn nhà một tích tắc. Rõ ràng là không có ô cửa nào ở gần chúng, và nếu chúng có bỏ đi trước mặt tôi, thì tôi không thể không thấy. Hẳn là mấy ả đã tan biến cùng ánh trăng thanh qua đường cửa sổ, bởi một lát sau, tôi lại nhận ra những cái bóng quen quen vừa đủ nét ở bên ngoài. Sau đó giây lát, ba cái bóng biến mất hẳn.
Sự khiếp sợ đã làm tôi chết lịm trong cõi vô thức.
Tôi tỉnh dậy trên giường. Nếu quả thực là đêm qua tôi không ngủ mê, thì chắc chắn là bá tước đã đưa tôi về đây. Tôi cố trấn tĩnh lại, nhưng không đi tới một điều gì xác thực cả. Hiển nhiên là tôi trông thấy xung quanh mình những thứ có thể lấy làm bằng chứng: ví dụ, quần áo của tôi dược gấp cẩn thận và được đặt trên một chiếc ghế tựa, điều không giống với thói quen của tôi. Ngược lại, kim đồng hồ của tôi bị chết, trong khi tôi luôn có thói quen lên dây cót đồng hồ trước khi đi ngủ. Và còn nhiều chi tiết nữa... Nhưng không, tất cả sẽ chẳng nói lên điều gì nếu như đêm qua tôi bị đãng trí, hoặc vì một nguyên nhân nào đó khiến đầu óc rối tinh rối mù. Tôi cần phải tìm những bằng chứng xác thực. Tuy vậy, vẫn còn một điều làm tôi mừng rỡ: nếu như bá tước là người đã đưa tôi về đây, thì chắc hẳn lão phải rất vội, bởi vì mọi thứ trong túi quần tôi vẫn còn nguyên vẹn. Chắc chắn nếu có tìm thấy những dòng nhật ký này, lão cũng sẽ chẳng hiểu gì cả, vì tôi chỉ viết theo lối tốc ký. Điều đó sẽ làm lão khó chịu và sẽ hủy ngay lập tức những gì tôi viết. Nhìn ngó xung quanh phòng, nơi dù đã trải qua bao lo âu và sợ hãi, tôi vẫn thấy dường như đây chính là nơi tôi còn được yên ổn, bởi chẳng có gì đáng sợ hơn là những người đàn bà ghê tởm đang chờ đợi, chờ đợi để hút máu mình.
* * * * *
Ngày 18 tháng 5
Tôi muốn trở lại căn phòng ấy vào giữa ban ngày, vì tôi phải biết sự thật bằng mọi giá. Lên đến đỉnh cầu thang, tôi thấy cửa phòng vẫn khép. Ai đó đã cố đẩy cánh cửa về vị trí cũ sát với thanh nẹp đứng dù nẹp gỗ này đã bị hỏng. Tôi thấy then cửa chưa cài, mà hình như cánh cửa được khép lại từ bên trong. Vì vậy, tôi e mình đã không ngủ mê, và từ nay trở đi, tôi buộc phải hành động, bắt đầu từ cái điều gần như xác thực này.
* * * * *
Ngày 19 tháng 5
Chắc chắn tôi đã sa vào lưới của lão bá tước, có hy vọng trốn thoát cũng chỉ là đlều viển vông. Tối hôm qua, bằng cái giọng như có bùa ngải, lão lại bắt tôi phải viết tiếp ba lá thư khác, thông báo tôi sắp sửa kết thúc công việc ở đây và sẽ quay về trong khoảng dăm hôm nữa, lá thứ hai phải viết rằng tôi sẽ rời khỏi đây ngay ngày hôm sau. Lá cuối cùng cho biết tôi đã rời khỏi lâu đài và đang trên đường về Bistritz. Thực tình mà nói, tôi rất muốn làm loạn để chống lại sự ép buộc này, nhưng khi nghĩ lại, tôi thấy sẽ là điên rồ nếu bàn về thiện chí của bá tước, bởi lúc này tôi hoàn toàn nằm trong tay lão, nếu không chịu nghe theo lời lão, tôi sẽ khiến lão nghi ngờ và nổi cơn điên. Lão hiểu tôi rằng đã quá rõ về lão và có thể trở thành một mối nguy hiểm đới với lão. Cơ may duy nhất của tôi, nếu còn có thể gọi như vậy, là cố gắng kéo dài tình trạng hiện nay. Biết đâu sẽ có một cơ hội xuất hiện cho phép tôi trốn thoát... Tôi đã được biết trong đôi mắt lão chứa chất đầy sự hung bạo khi lão đẩy thô bạo ả đàn bà tuyệt đẹp kia. Lão giải thích vôi tôi dịch vụ bưu điện ở đây rất thất thường, các lá thư sẽ làm cho bạn bè tôi yên tâm. Lão còn bảo tôi rằng với lá thư cuối cùng tôi phải viết, lão sẽ nhờ giữ lại ở Bistritz cho đúng đến ngày tôi thực sự phải trở về, vì sợ thời gian tôi ở lại đây sẽ còn kéo dài. Lão nói với một vẻ tin tưởng đến nỗi chỉ cần tôi khẽ mở mồm phản đối thôi cũng đủ để gây ra cho lão những mối nghi ngờ mới. Vậy là tôi phải cố kiềm chế. Tôi hỏi lão xem tôi phải điền ngày tháng vào thư như thế nào, lão trả lời :
- Lá thứ nhất ghi ngày 12 tháng 6, lá thứ hai ghi ngày 19, và lá thứ ba ghi ngày 29.
Bây giờ thì tôi đã hiểu thời gian tôi còn phải ở lại đây là bao nhiêu lâu. Cầu Chúa che chở cho con!
* * * * *
Ngày 28 tháng 5
Có thể tôi sẽ tìm được cách thoát thân - hoặc ít nhất là gửi được chút tin tức về nhà. Những người Digan đã trở về lâu đài và cắm trại ở dưới sân. Tôi sẽ viết vài lá thư rồi cố gắng nhờ họ gửi hộ ra bưu điện. Tôi đã bắt chuyện với họ từ cửa sổ phòng mình, chúng tôi đã làm quen với nhau. Họ biểu lộ tâm tư bằng cách cúi đầu thật thấp và làm mọi cách nói bằng dấu hiệu với tôi, mà thú thực là tôi chẳng hiểu gì cả...
Các lá thư đều đã được viết xong. Thư gửi Mina tôi vẫn viết theo lối tốc ký, còn thư gửi ngài Hawkins, tôi chỉ yêu cầu ông ta cố gắng liên lạc với Mina. Tôi thông báo rõ tình hình của tôi cho cô bạn gái, nhưng không hề đá động gì tới những nỗi khiếp đảm đã trải qua. Cô ấy sẽ sợ phát khiếp nếu như tôi hé nửa lời về hoàn cảnh của mình. Vì vậy, cho dù những lá thư này không đến được địa chỉ, thì lão bá tước cũng không thể nghi ngờ gì về mức độ tôi đã nắm bắt được các ý đồ của lão...
Tôi ném hai lá thư kèm theo một đồng tiền vàng qua cửa sổ cho những người Digan và ra hiệu cho họ hiểu tôi muốn nhờ họ mang thư ra bưu điện. Có một người chạy ra nhặt thư, ép vào ngực, rồi cúi đầu chào tôi đúng như phong tục của người Digan, sau đó anh ta bỏ mấy lá thư vào mũ. Bây giờ thì tôi còn có thể làm gì khác ngoài việc chờ đợi? Lát sau, tôi lại mò vào thư viện đọc sách. Tôi viết những dòng này khi lão bá tước chưa tới...
Tuy nhiên, tôi cũng không được ngồi lâu một mình, lão bá tước đã bất ngờ đến ngồi bên tôi và nói với tôi bằng cái giọng nhẹ nhàng quen thuộc trong lúc mở hai lá thư ra cho tôi xem :
- Đám người Digan vừa trao lại cho tôi mấy tờ giấy này, dù không hiểu nguồn gốc của chúng, song tôi vẫn giữ chúng rất cẩn thận! Ngài nhìn xem... (vậy là lão đã xem mấy lá thư rồi). Cái này là của ngài, gửi cho ông bạn Peter Hawkins của tôi; còn cái này... (lúc mở lá thư thứ hai ra xem những dòng chữ tốc ký nguệch ngoạc, mặt lão tối sầm lại, đôi mắt ánh lên vẻ giận dữ và độc ác)... cái này trước mắt tôi là một sự bỉ ổi, nó phản bội một tình bạn hiếu khách! Và hơn nữa, nó lại không có chữ ký nữa chứ... Vì vậy, nó không thể dính dáng đến chúng ta được.
Rồi lão thản nhiên đưa cả phong bì lẫn lá thư vào ngọn đèn bàn, đợi cho những tờ giấy cháy hết, lão mới quay sang bảo tôi :
- Còn lá thư gửi ngài Hawkins, tức là lá thư còn lại này, tự tôi sẽ mang đi gửi bởi đó là thư do chính ngài viết. Đối với tôi, các lá thư của ngài đều là những gì thật linh thiêng. Chắc ngài sẽ tha thứ cho tôi về việc tự ý mở thư của ngài, có phải vậy không ông bạn? Tôi thật không biết đó là thư của ai. Ngài sẽ bỏ lại thư vào phong bì hộ tôi chứ?
Lão cúi đầu, vẻ rất lịch sự, đưa cho tôi một chiếc phong bì mới. Tôi chỉ còn biết viết lại địa chỉ và miễn cưỡng đưa lại cho lão. Lão chào tôi rồi bỏ ra khỏi thư viện. Cánh cửa vừa khép lại, tôi chợt nghe có tiếng chìa khóa khẽ xoay trong ổ. Một lát sau tôi mới dám ra mở thử, quả thực cánh cửa đã bị khóa chặt.
Phải đến một hoặc hai tiếng sau, lão bá tước mới quay trở lại thư viện, nét mặt vẫn thản nhiên như không. Tôi giật mình tỉnh dậy, bởi lúc đó tôi đang nằm ngủ trên ghế trường kỷ. Lão nói với tôi bằng một giọng rất vui vẻ và tử tế.
- Mệt lắm phải không ông bạn? Vậy thì về giường mà nằm đi. Đó chính là nơi ngài có thể ngon giấc nhất đấy. Vả lại, tối nay tôi cũng không thích ngồi chuyền trò với ngài, vì tôi còn rất nhiều việc phải làm. Hãy về ngủ đi, tôi đề nghị ngài đấy...
Tôi về phòng tiếp tục ngả lưng, và thật kỳ lạ, đúng là tôi đã ngủ thật yên giấc mà không hề mê man một chút nào. Sự thất vọng đã tự mang đến cho nó một liều thuốc dịu êm.
* * * * *
Ngày 31 tháng 5
Ý nghĩ đầu tiên của tôi khi thức dậy sáng nay là lấy vài tờ giấy và mấy cái phong bì cất trong túi du lịch nhét vào túi áo, để có thể tranh thủ viết nếu có dịp trong ngày. Nhưng lại thêm một sự kinh ngạc, một cú sốc nữa đến với tôi!
Tất cả giấy má của tôi đều đã biến mất, từ những thứ vô nghĩa cho tới những thứ cần thiết và không cần thiết cho tôi nếu như tôi có cơ hội rời khỏi lâu dài.
Ngồi thừ một lúc tôi mới sực nhớ đến việc kiểm tra nết chiếc va ly và tủ quần áo, nơi tôi cất quần áo của mình.
Bộ quần áo tôi định cầm theo để đi đường không còn ở trong tủ, rồi đến tấm áo choàng, chăn du lịch... cũng đều biến mất sạch. Tôi lục tìm lung tung, nhưng chỉ mất công vô ích...
Không hiểu lão định âm mưu gì với cái trò mèo này?
* * * * *
Ngày 17 tháng 6
Sáng nay, lúc đang ngồi nghĩ mông lung ở mép giường, tôi chợt nghe thấy có tiếng roi đánh đôm đốp ở bên ngoài, tiếp đó là tiếng vó ngựa kêu lộc cộc trên con đường rải sỏi dẫn vào sân lâu đài. Mừng khấp khởi trong lòng, tôi chạy vội đến bên cửa sổ nhìn xuống sân có hai chiếc xe khá lớn đang chạy vào, mỗi chiếc đóng tám con ngựa lực lưỡng, do một người Slovaki ăn mặc theo kiểu truyền thống dân tộc điều khiển. Tôi quay ngoắt ra cửa với ý định chạy xuống lối cửa chính để ra sân, bởi tôi nghĩ thế nào người ta cũng sẽ mở cửa đằng này. Nhưng lại thêm một cú sốc: cánh cửa đã bị khóa chặt!
Tôi đành phải quay về cửa sổ gọi xuống sân. Tất cả ngẩng đầu nhìn tôi, tay chỉ chỉ trỏ trỏ, vẻ rất kinh ngạc. Đúng lúc đó, thủ lĩnh nhóm Digan xuất hiện. Thấy đám bộ sâu đang chăm chú nhìn lên cửa sổ, ông ta buông ra một câu gì đó khiến đám người cười phá lên. Vậy là tất cả các nỗ lực của tôi đều trở nên công cốc, thậm chí lúc này chẳng còn ai thèm ngước nhìn lên cửa sổ nữa. Hai chiếc xe ngựa chở đến những chiếc hòm lớn vuông vức, có quai cầm được làm bằng loại dây rất to. Nhìn cách khuân vác của những người Slovaki và tiếng hòm đập bồm bộp xuống sân, tôi đoán đó là các hòm rỗng không. Khi tất cả được chất thành một đống ở góc sân, đám người Digan trả cho người Slovaki mấy đồng xu bạc. Lĩnh tiền xong, người Slovaki đánh ngựa quay trở ra. Tôi thẫn thờ đứng bên cửa sổ nghe tiếng vó ngựa xa dần rồi mất hẳn.
* * * * *
Ngày 24 tháng 6, trước buổi bình minh
Tối hôm qua, lão bá tước rời tôi khá sớm để về phòng lão. Đợi lão đi khỏi, tôi rón rén leo vội lên chiếc cầu thang xoáy trôn ốc, với ý định rình lão ở ô cửa sổ phía nam. Tôi tin chắc là sắp có chuyện xảy ra. Đám người Digan đã bỏ đi làm việc gì đó trong lâu đài tôi không biết, chỉ biết là họ đang làm việc, bởi thỉnh thoảng tôi lại nghe thấy những tiếng lịch kịch như tiếng cuốc xẻng từ xa vọng tới. Tôi linh cảm đây hẳn là một việc làm tội lỗi.
Tôi đứng khoảng gần nửa tiếng bên cửa sổ thì thấy một cái bóng thập thò ở cửa sổ phòng bá tước. Bóng đen ấy thò đầu ra trước rồi nhanh chóng nhoài cả thân người ra ngoài. Đó chẳng phải ai khác ngoài lão bá tước. Nhưng lần này, lão làm tôi phải kinh ngạc hơn nhiều: lão đang mặc bộ đồ mà tôi đã mặc trong cuộc hành trình đến lâu đài, trên vai lão là chiếc túi đáng sợ mà tôi đã thấy nó biến mất cùng ba ả đàn bà. Không còn nghi ngờ gì nữa, mục đích của lão là muốn dùng bộ dạng bên ngoài của tôi cho một hành động mờ ám mới mà tôi chưa rõ. Quả là một trò cực kỳ tinh quái của lão: lão định làm người khác tưởng là tôi. Làm như vậy, lão có thể chứng minh cho mọi người thấy tôi cũng đã được phép ra bưu điện thành phố hoặc bưu điện ở các làng lân cận để bỏ thư của mình, và từ nay trở đi, mọi hành vi hèn hạ của lão đều có sự góp phần của tôi.
Tôi bắt đầu thấy điên tiết khi nghĩ mọi mánh khóe của lão rồi vẫn cứ tiếp tục diễn ra trong khi tôi bị khóa chặt ở đây, bị nhất như một tù nhân thực sự mà không hề có một sự che chở, bảo vệ nào.
Tôi quyết định cứ đứng như vậy bên cửa sổ chờ lão quay trở về, bởi chẳng có gì khiến tôi muốn bỏ đi khỏi chỗ đang đứng. Được một lúc, tôi chợt giật mình khi trông thấy những chấm nhỏ kỳ lạ đang nhảy nhót cùng ánh trăng. Chúng giống như những hạt bụi li ti đang quay cuồng và thỉnh thoảng lại tụ lại như một đám mây nhỏ. Nhìn vào những hạt bụi ấy, tự nhiên tôi cảm thấy trong lòng như nhẹ nhõm hẳn đi. Tôi đứng tựa vào khung cửa sổ tìm một tư thế dễ chịu hơn để có thể ngắm cho rõ cảnh tượng lạ mắt này.
Chợt có một cái gì đó khiến tôi giật mình những tiếng kêu nặng nề và rên rỉ của bầy chó vọng lên từ dưới thung lũng. Những tiếng kêu ấy mỗi lúc một rõ hơn, và tôi thấy dường như các hạt bụi đang chuyển sang thành những hình hài mới tùy theo tiếng ầm ĩ xa gần đó, có điều là lúc này chúng đang nhảy nhót dưới một ánh trăng yếu ớt hơn. Dường như tôi đang ráng sức đánh thức các bản năng luôn ngủ vùi nơi tiềm thức sâu thẳm của chính mình, linh hồn sống của tôi đang giãy giụa đáp lại những tiếng gọi hoang dại ấy. Tôi đang bị thôi miên bởi cảnh tượng kỳ quái ngay trước mắt! Những hạt bụi nhảy nhót mỗi lúc một nhanh hơn, các tia sáng trăng dường như cũng bắt đầu nhảy nhót ngay gần tôi, rồi bỗng nhiên mất hút vào bóng tối. Lúc này thì cả những tia sáng cũng hội tụ lại tạo thành những hình thù ma quái... Tôi giật thót người một lần nữa, cái giật mình bất ngờ làm tôi bừng tỉnh và trả lại tôi sự tự chủ, tôi vừa kêu gào vừa bỏ chạy thục mạng. Các hình thù ma quái đang dần dần tách ra khỏi ánh trăng, và giờ tôi đã có thể nhận ra chúng: đó chính là những người đàn bà mà từ nay trở đi, số phận sẽ ràng buộc tôi với họ. Chạy về đến phòng tôi mới cảm thấy yên lòng hơn một chút: ở đây, ánh trăng sẽ không thể lọt được vào, chỉ có ánh đèn soi tỏ mọi góc ngách nhỏ nhất.
Khoảng hai tiếng sau, tôi chợt nghe thấy một âm thanh gì đó giống như tiếng oe oe kêu khóc của trẻ con vọng tới từ phòng lão bá tước. Nhưng rồi tiếng kêu the thé và ngạt ngạt ấy đã nhanh chóng tắt lịm, trả lại bầu không khí tĩnh mịch sâu thẳm, rùng rợn, làm tôi gai người. Tôi chạy vội ra mở cửa, song cánh cửa một lần nữa bị khóa chặt trước sự bất lực hoàn toàn của tôi. Tôi chỉ còn biết ngồi phục xuống giường mà khóc cho số phận.
Đó chính là lúc tôi nghe thấy một tiếng kêu gào ở ngoài sân, tiếng kêu gào đau đớn của một phụ nữ. Tôi ra cửa sổ nhìn xuống, quả thật ở dưới sân có một người đàn bà đầu tóc xõa xượi, hai tay ôm ngực kêu khóc thảm thiết. Chợt nhìn thấy tôi bên cửa sổ, mụ bỗng kêu rống lên, giọng đầy hăm dọa :
- Đồ quỷ dữ, hãy trả lại đứa con cho tao?
Rồi mụ quỳ sụp xuống, hai tay giơ lên trời, miệng lảm nhảm, giọng the thé nhắc đi nhắc lại câu đòi con. Không thấy ai trả lời, mụ bắt đầu bứt tóc, tay đấm thùm thụp vào ngực, và làm đủ những trò lố lăng khác mà chỉ có những kẻ đau đớn đến tột cùng mới làm được. Cuối cùng, mụ lao bổ về phía trước lâu đài. Dù không còn trông thấy mụ, tôi vẫn nghe thấy những tiếng đấm thùm thụp điên dại vào cánh cửa ra vào.
Cùng lúc đó, tôi nghe thấy giọng lão bá tước, có lẽ từ trên tháp lâu đài vọng xuống. Giọng lão rì rầm, khàn đục và có cái gì đó như tiếng kim. Và bất chợt từ xa, tiếng kêu hú của bầy sói bỗng rộ lên như đáp lại tiếng gọi của lão. Quả thực, vài phút sau, một đàn sói bỗng từ đâu ào ào chạy tới đầy sân lâu đài với một sức mạnh như con nước tràn đập.
Mụ đàn bà gần như không kịp kêu thêm một tiếng, và bầy sói cũng gần như im lặng ngay lập tức. Loáng một cái, tôi đã thấy chúng nối đuôi nhau rút lui với cái lưỡi thè lè liếm mép.
Thực lòng mà nói, tôi không có gì phàn nàn cho người đàn bà ấy, bởi số phận đen đủi đã đến với đứa con của mụ, nên tốt hơn, là cứ để mụ được về nơi chín suối cùng đứa con bất hạnh.
Tôi phải làm gì bây giờ? Tôi có thể làm được điều gì bây giờ? Làm sao thoát khỏi cái đêm dài hãi hùng này đây?
* * * * *
Ngày 25 tháng 6, buổi sáng
Những người chưa từng trải qua những đêm tối hãi hùng sẽ không thể cảm nhận được cái dịu dàng và trong lành của buổi sớm mai. Sáng nay, khi những tia nắng sớm khẽ đậu trên hàng rào song sắt ngay chỗ trước ô cửa sổ phòng tôi trông xuống, tôi cứ tưởng có một chú bồ câu hòa bình vừa đậu ở đó! Vậy là bao nỗi lo sợ trong tôi đã biến mất như một làn hơi nước dưới ánh mặt trời. Ánh nắng đã trả lại cho tôi lòng dũng cảm, vì vậy tôi phải quyết ra tay hành động ngay! Tối hôm qua, một trong những lá thư tai quái, những lá thư có thể xóa sạch sự tồn tại của tôi trên đời này, những lá thư định mệnh mà lão bá tước bắt tôi phải viết đã được gửi đi. Tốt hơn hết là hãy đừng nghĩ quá nhiều đến chúng, mà phải tìm cách hành động?
Trong suốt thời gian ở lại lâu đài, đêm nào tôi cũng cảm thấy các mối đe dọa, theo cách này hay cách khác, đè nặng lên người, buộc tôi phải tin là mình luôn đứng trước một mối nguy hiểm. Có một điều rất lạ là từ khi đến đây, tôi chưa một lần được thấy lão bá tước vào ban ngày. Phải chăng lão đã ngủ trong khi người khác thức, và chỉ thức vào lúc người khác đã ngủ? Kỳ lạ thật! Giá như chui được vào phòng lão thì hay biết mấy! Nhưng đó là điều không thể được. Cửa phòng lão bao giờ cũng khóa, không có cách nào...
Không, vẫn có một cách... nhưng vấn đề là ở chỗ tôi có dám làm hay không. Lối mà lão bá tước vẫn dùng để chui ra ngoài, tại sao tôi lại không làm như lão được? Tôi đã vài lần trông thấy lão bò qua cửa sổ. Tại sao tôi không thể mò vào phòng lão theo đường cửa sổ ấy? Đây quả là một việc làm rất khó khăn, nhưng tình cảnh của tôi lúc này còn tuyệt vọng hơn nhiều. Tôi sẽ liều một phen. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra với tôi, đó là cái chết. Song cái chết của một con người đâu phải là cái chết của một con vật, và có khi tôi còn được Chúa ban cho một cuộc sống vĩnh hằng ấy chứ. Chúa sẽ phù hộ cho tôi! Mina, xin gửi em lời chào vĩnh biệt nếu như anh không trở về. Vĩnh biệt người bạn chung thủy của tôi, người lúc nào cũng coi tôi như một vị cha thứ hai của mình. Cuối cùng, xin được vĩnh biệt tất cả. Mina ơi, một lần nữa xin được vĩnh biệt em!
* * * * *
Buổi sáng cùng ngày, một lúc sau
Vậy là tôi đã xuống được dưới đó và ơn Chúa phù hộ, tôi đã trở về phòng mình mà không sứt mẻ gì cả. Tôi sẽ giải thích mọi chi tiết ngay bây giờ.
Lúc đó, không hiểu sao tôi lại can đảm đến thế! Tôi đi về phía ô cửa sổ phía nam lâu đài rồi leo ngay lên rìa đá hẹp chạy dọc bức tường bên ngoài. Các viên đá xây ngoài rìa tường đều rất lớn và chỉ được đục đeo rất sơ sài giữa các mạch vữa, như tôi đã nói, đều tróc lở vì năm tháng. Việc tôi đặt chân lên các gờ đá cheo leo này cũng đồng nghĩa với việc lao vào một cuộc phiêu lưu chết người...
Leo được vài bước, tôi thử cúi nhòm xuống dưới chân lâu đài nằm sâu hun hút xem có chóng mặt không, nhưng rõ ràng là tôi không dám làm như vậy quá một giây. Tôi hoàn toàn xác định được vị trí ô cửa sổ phòng lão bá tước và cố gắng leo tới đó càng sớm càng tốt. Sự cheo leo của rìa tường không làm tôi chóng mặt, bởi lúc nào tôi cũng cố gắng nhìn ngang. Và trong một khoảng thời gian mà tôi thấy là rất ngắn ngủi, tôi đã leo tới rìa cửa sổ cánh sập phòng lão bá tước.
Sau khi đẩy được cánh cửa lên, tôi co gập người, thò hai chân vào trước rồi chuồi vào trong phòng. Tôi lấm lét nhìn quanh, thật may là lão bá tước không có trong phòng. Đồ đạc dưới này không có gì nhiều chỉ có vài thứ đồ gỗ cọc cạch có vẻ như chẳng bao giờ được sử dụng; thứ nào thứ nấy đều phủ đầy bụi, một số trông rất giống với những đồ tôi đã trông thấy trong các phòng ở cháy phía nam lâu đài. Tôi nghĩ ngay đến chiếc chìa khóa, nhưng nó không được cắm trong ổ, và tôi cũng không tìm thấy ở đâu cả Sự chú ý của tôi dừng lại ở một đống tiền vàng đầy túi ụ nằm ở góc phòng - đó là đống tiền xu đủ loại của các nước Rumani, Anh, Áo, Hungary, Hy Lạp. Những đồng tiền này có vẻ như đã nằm ở đó từ rất lâu bởi có một lớp bụi phủ dày. Tất cả đều là những đồng tiền cổ có niên đại cách đây ít nhất là ba trăm năm. Tôi cũng nhận ra vài sợi dây chuyền và mấy đồ mỹ nghệ có nạm ít nhiều đá quý, nhưng những thứ này đều 100 rất cũ kỹ và bị hư hỏng cả.
Tôi đi về phía một tấm cửa nặng nề vừa được phát hiện ở một góc phòng, bởi vì không tìm được chìa khóa phòng cũng như chìa khóa cửa lâu đài đây là điều tôi không được quên và là mục tiêu tìm kiếm chính của tôi nên tôi buộc phải lục tìm, khám phá lung tung, nếu không cuộc phiêu lưu mạo hiểm vừa rồi của tôi sẽ chẳng có tác dụng gì cả. Cánh cửa này mở ra một hành lang có các bức tường xây toàn bằng đá, dẫn đến một cầu thang xoáy chôn ốc. Tôi thận trọng bước xuống, vì chiếc cầu thang đựng đứng này chỉ được chiếu sáng nhờ hai lỗ châu mai trên một bức tường rất dày. Xuống hết cầu thang, tôi lại rơi vào một hành lang tối tăm khác, một đường hầm thực sự, sặc mùi chua, hăng hắc, gợi cho tôi liên tưởng tới mùi của các xác chết đó là một mùi bốc lên từ lớp đất vừa được đào bới. Càng bước sâu vào trong, thứ mùi đó càng có vẻ nặng hơn khiến tôi gần như không thê chịu nổi. Cuối cùng, tôi mở toang cánh cửa rất đầy khác trong dãy hành lang. Tôi đang đứng trước một nhà thờ cổ điêu tàn, nơi hẳn đã có những thi thể được chôn cất. Mái nhà thờ thủng lỗ chỗ, hai bên tường có rất nhiều bậc thềm dẫn tới các hầm mộ. Tôi nhận ra lớp đất vừa bị đào xới và những xẻng đất đổ đầy các thùng lớn đặt rải rác xung quanh: chắc chắn đó chính là những thùng gỗ mà đám người Slôvaki vừa chở đến. Trong nhà thờ chẳng có ai cả. Tôi vẫn tiếp tục mò mẫm: biết đâu ở trong này lại có một lối ra? Không, không có một lối thoát nào cả. Tôi tiếp tục kiểm tra kỹ hơn nữa. Và mặc dù rất ghê tởm, tôi vẫn xông bừa vào các hầm mộ, nơi đang hắt ra những tia sáng yếu ớt. Trong hai hầm mộ đầu tiên, tôi chẳng tìm thấy gì ngoài những mảnh áo quan cổ và những đám bụi.
Vào hầm mộ thứ ba, tôi bỗng giật thót người khi phát hiện ra một điều.
Lão bá tước đang nằm lù lù trên một chiếc hòm đặt trên một đống đất mới đào? Tôi không thể nói là lão đã chết hay đang ngủ, bởi đôi mắt lão vẫn đang mở thao láo, vô hồn như đôi mắt đá, nhưng không lờ đờ như mắt người chết. Hai gò má của lão, dù xám ngoét, có vẻ như vẫn giữ được hơi ấm của sự sống, còn đôi môi thì vẫn đỏ như thường có ở lão. Tuy nhiên, thân thể lão lại hoàn toàn bất động, không có dấu hiệu của hơi thở, và trái tim dường như đã ngừng đập trong lồng ngực của lão. Dù thế, tôi vẫn cúi xuống với hy vọng là lão chỉ vừa nằm ở đây thôi, bởi mùi đất vẫn còn rất mới. Cái nắp hòm thủng lỗ chỗ được dựng tựa vào đống đất. Tôi nghĩ có thể các loại chìa khóa đang được cất trong các túi quần áo lão đang mặc, nhưng khi định tiến lại gần lão để lục soát, tôi lại đâm ra nhụt chí. Rõ ràng là trước sự có mặt của tôi, ánh mắt lão vẫn cứ tắt lịm và không có biểu hiện gì của sự nhận thức, song sự hận thù còn đọng lại trong đôi mắt trợn tròn ấy đã khiến tôi phải lập tức bỏ trốn, quay về phòng lão, trèo qua cửa sổ và bò ngược theo bức tường. Khi đã về tới phòng mình, tôi ngồi phục lên giường mà thở. Tôi cố chắp lại tất cả các ý nghĩ của mình...
* * * * *
Ngày 29 tháng 6
Hôm nay là ngày gửi lá thư cuối cùng của tôi. Lão bá tước hẳn đã không quên chuyện này, bởi một lần nữa tôi trông thấy lão rời khỏi lâu đài theo lối cửa sổ, trong khi vẫn không quên khoác bộ đồ của tôi trên người. Nhìn lão bò xuống theo bức tường như một con thằn lằn, tôi chỉ có một mong muốn: vớ lấy một khẩu súng hoặc bất cứ một thứ vũ khí chết người nào để cho lão một phát! Mặc dù tôi không biết thứ vũ khí ấy có tác dụng gì đối với lão hay không. Tôi không dám rình lão quay trở về, vì lúc này tôi đã thực sự cảm thấy sợ khi phải một lần nữa trông thấy bộ ba chết chóc lần trước. Tôi quay về thư viện tìm một cuốn sách để đọc cho khuây khỏa; nhưng chỉ được một lát, tôi đã lăn ra ngủ.
Sự xuất hiện của bá tước đã làm tôi thức dậy. Lão nói với tôi, giọng đầy vẻ hăm dọa :
- Ông bạn ạ, ngày mai chúng ta sẽ tạm biệt nhau. Ngài sẽ trở về nước Anh tươi đẹp của ngài. Sau này, có thể chúng ta sẽ không còn gặp nhau nữa. Lá thư ngài viết cho người thân đã được bỏ vào bưu điện. Ngày mai tôi sẽ không có mặt ở đây, nhưng tất cả những gì cần cho chuyến đi của ngài đều đã được chuẩn bị chu đáo. Người Digan sẽ tới đây vào buổi sáng, bởi họ có việc cần phải làm, cả đám người Slovaki cũng vậy Khi họ đi rồi, xe của tôi sẽ đến tìm ngài và chở ngài tới đèo Borgo, nơi ngài sẽ đón xe khách về Bistritz. Nhưng dù thế nào đi nữa thì tôi cũng vẫn hy vọng sẽ có ngày lại được đón tiếp ngài ở lâu đài Draculal!
Nghe vậy, tôi quyết định thử xem lão thành thật đến mức nào, sự thành thật của vị bá tước như lão. Tôi có cảm giác như muốn làm uế tạp ý nghĩ này khi hình dung tới một con quỷ. Tôi đột ngột hỏi lão :
- Tại sao tôi không thể đi luôn vào tối nay?
- Ông bạn thân mến ạ, bởi vì tay xà ích và đàn ngựa của tôi đều đang có việc phải đi.
- Nhưng tôi sẽ rất vui lòng nếu được như vậy. Nói thật với ngài nhé, tôi muốn được rời khỏi đây ngay lập tức.
Lão cười, một nụ cười thật dịu dàng nhưng cũng rất quỷ quái, một nụ cười mà tôi có thể dễ dàng đoán được cái ý đồ đen tối hàm chứa trong cái vẻ dịu dàng đến lạnh người ấy.
- Thế còn hành lý của ngài thì sao? - Lão hỏi.
- Không quan trọng. - Tôi đáp lại. - Tôi sẽ cho lấy sau cũng được.
Lão đứng dậy và nghiêng mình cúi chào tôi, cử chỉ của lão lịch sự đến nỗi suýt nữa thì tôi phải dụi mắt vì không nghĩ lão lại có thể thành thực đến thế.
- Người Anh các ngài có một câu ngạn ngữ mà tôi rất thích, bởi nó thể hiện rất rõ cái tinh thần trong cách xử sự của những người thuộc dòng dõi quý tộc chúng tôi: “Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi!” Hãy đi theo tôi, ông bạn trẻ thân mến, ngài sẽ không phải miễn cưỡng ở lại đây thêm một giờ nào nữa, mặc dù tôi thật buồn khi phải chia tay với ngài và khi ngài sốt ruột muốn đi sớm như vậy. Lại đây?
Lão trịnh trọng cầm cây đèn và dẫn tôi xuống cầu thang rồi đi tiếp về phía cửa chính của lâu đài. Nhưng khi đi tới giữa hành lang, lão bỗng đột ngột dừng lại.
- Ngài hãy nghe đi! - Lão bảo tôi.
Có tiếng hú của bầy sói ở một nơi không xa lâu đài. Lão vung tay lên, và dường như những tiếng hú ấy cũng cấp cao lên theo động tác của lão, giống như dàn nhạc phải tuân theo chiếc đũa của người chỉ huy. Lát sau, vẫn cái dáng vẻ ai nghiêm, lão bước tiếp. Ra tới cổng lâu đài, lão rút chốc cửa, kéo tuột những sợi dây xích nặng nề xuống rồi từ từ mở cửa.
Tôi ngạc nhiên: như vậy là cửa không khóa. Chưa tin đây là sự thật, tôi ngơ ngác nhìn quanh, song vẫn không thấy chìa khóa đâu cả.
Cánh cửa càng mở rộng ra bao nhiêu thì tiếng kêu gào của bầy sói càng dữ dội bấy nhiêu. Lũ súc vật, con nào con nấy đều nhe răng thè lưỡi đỏ hỏn, vẻ rất hăm dọa, có con còn nghiến răng ken két. Không hiểu chúng xuất hiện ngoài cửa từ lúc nào. Tôi chợt hiểu mình không thể cưỡng lại ý muốn của bá tước. Tôi có thể làm gì để chống lại lão, khi lão có những đồng minh ghê sợ kia? Tuy nhiên, cánh cửa vẫn từ từ rộng mở, và lão bá tước thản nhiên ra đứng ngay ở ngưỡng cửa. Trong đầu tôi chợt lóe lên một ý nghĩ: có lẽ giờ định mệnh của tôi đã điểm; tôi sẽ bị đẩy ra làm mồi cho lũ chó sói, bởi vì tôi muốn thế. Ngón đòn nham hiểm này hẳn phải làm lão bá tước rất vui. Và như chẳng còn cách lựa chọn nào khác, tôi buộc phải kêu lên để tìm cho mình một vận may cuối cùng :
- Đóng cửa lại đi! Tôi sẽ đợi? Tôi sẽ đi vào sáng mai vậy?
Chỉ nói được có vậy, tôi lấy tay ôm mặt giấu đi những giọt nước mắt đắng cay tuyệt vọng.
Bàn tay thép của lão bá tước kéo mạnh cánh cửa nặng nề vào và cài các chất lại, tiếng va chạm của kim khí vang lên khô khốc trong hành lang.
Không ai nói với ai một lời, chúng tôi quay trở về thư viện, nhưng thấy chẳng có lý do gì để ngồi lại đấy, tôi đi luôn về phòng. Lần cuối cùng ngoái lại nhìn bá tước Dracula, tôi thấy lão vừa đưa tay làm một nụ hôn gió chào tôi, đôi mắt lão ánh lên vẻ đắc thắng cùng với một nụ cười ma quái mà đến quỷ Judas cũng phải lấy làm tự hào.
Tôi chuẩn bị lên giường nằm thì chợt nghe thấy hình như có tiếng ai đó đang thì thầm ngoài cửa. Tôi rón rén bước lại gần nghe ngóng xem sao. Tôi tin là mình đã nhận ra giọng lão bá tước :
- Không được, không được. - Giọng nói vẫn cất lên. - Quay về hết cả đi! Bây giờ không phải lúc cho chúng bay...
- Hãy cứ đợi đấy! Phải biết kiên nhẫn chứ! Đêm nay sẽ thuộc về tao, đêm tới mới dành cho chúng bay!
Đáp lại lời bá tước là những tiếng cười khanh khách giễu cợt. Tức điên người, tôi mở bật cửa ra, trước mặt tôi là ba mụ đàn bà đang đứng liếm mép. Nhận ra tôi, chúng lại rộ lên những tiếng cười cợt nhả và độc ác trước khi bỏ đi.
Tôi lảo đảo quay vào và đổ khuỵu xuống sàn nhà. Chẳng lẽ ngày tận số của tôi lại mau tới đến thế sao? Ngày mai! Ngày mai! Lạy Chúa! Hãy cứu con, cứu tất cả những người thân của con!
* * * * *
Ngày 30 tháng 6, buổi sáng
Có thể đây sẽ là những dòng cuối cùng tôi còn viết được trong cuốn nhật ký này. Ngay sau khi thức dậy trước buổi bình minh, tôi đã vội quỳ gối xuống sàn, bởi nếu như giờ tận số của tôi đã điểm, thì tôi muốn rằng thần chết phải được thấy tôi đã sẵn sàng.
Quỳ gối được một lúc thì tôi bắt đầu cảm nhận được rằng bầu không khí buổi sớm đang có một sự thay đổi tinh tế đến khó tả... và buổi sáng vẫn đang đến... khi có tiếng gà gáy đầu tiên. Tôi cảm thấy mình dường như đang thoát chết. Tôi mở cửa, bước xuống cầu thang trong một tâm trạng nhẹ nhõm hơn. Cổng lâu đài rõ ràng là không khóa như vậy là tôi lại có cơ hội chạy trốn! Tôi nôn nóng tháo xích, mở then, hai tay run run.
Nhưng cánh cửa vẫn không hề nhúc nhích. Sự nản chí, nỗi tuyệt vọng trong tôi dần dần lên tới cực điểm. Tôi lao bừa cả người vào cánh cửa với hy vọng sẽ tìm được lối thoát, song tất cả chỉ là vô ích. Lúc này tôi mới hiểu cánh cửa đã bị khóa ngay sau khi tôi chia tay với lão bá tước.
Tuy nhiên, tôi vẫn tự nhủ rằng bằng mọi giá, tôi phải tìm và lấy cho bằng được chiếc chìa khóa khốn nạn ấy, tôi sẽ lại leo theo bức tường và chui vào phòng lão bá tước. Chắc chắn tôi sẽ nhận được cái chết nếu lão bắt gặp tôi trong phòng lão, nhưng trong số những điều tồi tệ nhất có thể xảy ra đối với tôi, thì cái chết dường như chỉ là điều tối thiểu. Và không chậm trễ một phút, tôi trèo ngay qua cửa sổ, leo xuống phòng lão bá tước. Căn phòng trống rỗng. Tôi không tìm thấy chìa khóa ở đâu. Đồng tiền vàng vẫn còn nguyên đó. Tôi lần theo cầu thang và dãy hành lang tối tăm mà lần trước tôi đã đi để tới nhà thờ. Tôi biết rất rõ con quỷ mà tôi tìm kiếm đang nằm ở đâu.
Chiếc hòm lớn vẫn nằm nguyên chỗ cũ, sát chân tường, song có điều là lần này nó được đậy nắp cẩn thận nắp hòm được đóng mớm sẵn những chiếc đinh như để chờ những nhát búa. Tôi biết rằng phải lục soát cái thây ma nằm bên trong thì may ra mới tìm được chìa khóa. Vì vậy, tôi buộc phải nhấc nắp hòm lên và để nó dựa vào tường, cái thây ma trong hòm đã làm tôi sợ khiếp vía?
Vâng, vẫn là lão bá tước đang nằm trong đó, nhưng lúc này trông lão lại có vẻ trẻ hơn một nửa, bởi mái tóc, bộ râu bạc trắng của lão đã chuyển sang một màu xám như tro bếp; hai má lão cũng có vẻ đầy đặn hơn và dường như còn có một màu hồng tươi dưới lớp da xanh nhợt. Đặc biệt là đôi môi, đôi môi lão lúc này trông rõ ràng là đỏ mọng hơn bao giờ hết với những giọt máu tươi trào ra từ hai bên mép, chảy tràn xuống cằm rồi xuống tận cổ. Hai con mắt sâu hoắm và long sòng sọc của lão bị mất hút trên một bộ mặt như phù nề. Tôi có cảm tưởng con quái vật khủng khiếp này chỉ sống bằng máu tươi. Cứ nghĩ đến việc cúi xuống sờ vào người lão là tôi thấy run, sự tiếp xúc đó làm trào lên trong tôi một cảm giác ghê tởm, nhưng dù thế nào thì tôi cũng buộc phải tìm cho bằng được cái mà tôi đang tìm, nếu không tôi sẽ thấy bại! Và như vậy thân xác tôi có thể biến thành một thứ mua vui cho ba mụ đàn bà đáng sợ trong đêm tới. Tôi cắn răng lục soát tất cả các túi áo trong người lão, song vẫn không thấy chiếc chìa khóa đâu Bộ mặt trương phồng của lão bá tước như đang cười nhạo vào mũi tôi, khiến tôi muốn phát điên. Ấy vậy mà tôi đã tốn không biết bao nhiêu công sức để giúp lão về ở gần thành Luân Đôn, nơi lão có thể tiếp tục thỏa cơn khát máu không cùng của mình trong nhiều thế kỷ tới, để rồi lại biến những kể yếu thế thành những quái vật nửa người nửa ngợm. Chỉ thoáng nghĩ thế thôi tôi đã không thể nào chịu nổi. Nghĩ vậy, tôi điên tiết vớ ngay cái xẻng nằm dưới đất và định nhằm vào giữa bộ mặt ghê tởm của lão mà phang. Nhưng đúng lúc đó, đầu lão bá tước bỗng khẽ xoay sang một bên, đôi mắt long lanh độc ác của lão bắt gặp đôi mắt tôi. Người tôi sững lại như bị tê liệt tay tôi buông thõng xuống, khiến chiếc xẻng chém một nhát khá sâu lên trán lão. Chiếc xẻng tuột khỏi tay tôi rơi xuống hòm và mắc vào nắp gỗ. Tôi định cúi xuống cầm cán xẻng thì nắp hòm bỗng đổ sập xuống che hộ tôi cái cảnh tượng ghê tởm bên dưới. Chi tiết cuối cùng mà tôi nhìn thấy y là bộ mặt phù nề nhuốm máu hằn rõ một nụ cười nhăn nhở ác độc mà chỉ ở dưới địa ngục mới có.
Tôi đờ đẫn nghĩ ngợi về những gì mình sẽ phải làm, nhưng rõ ràng là tôi không thể nghĩ nổi một điều gì. Người tôi cứ ì ra, chán nản, bất lực... Tôi cứ đứng mãi, đứng mãi, cho đến khi chợt có tiếng hát của đám người Digan đột nhiên từ xa vọng tới. Tiếng hát vang lên mỗi lúc một gần cùng với điệp khúc đều đều của tiếng vó ngựa. Như lão bá tước đã nói với tôi đêm qua, người Digan và cả người Slovaki đang kéo đến lâu đài. Sau khi đảo mắt nhìn xung quanh và nhìn chiếc hòm đựng cái thây ma chết tiệt một lần cuối, tôi chạy vội về phòng lão, định bụng sẽ tẩu thoát đúng vào lúc cổng mở. Tôi căng tai lắng nghe: có tiếng mở khóa loạch xoạch trong ổ khóa lớn, tiếp đó là tiếng kêu ken két nặng nề của cánh cửa dưới tầng trệt. Như vậy, hoặc là phải có những lối cửa khác vào lâu đài, hoặc là có người cầm chìa khóa mở một trong những cánh cửa tôi đã biết. Sau đó, tôi nghe thấy y tiếng động lúc to, lúc nhỏ của nhiều bước chân đi trong một dãy hành lang nào đó. Tôi quay lại chạy ngược về phía nhà thờ, bởi biết đâu lại có một lối ra nào đó mà tôi chưa nhìn thấy y? Nhưng vừa lúc đó, một luồng không khí cực mạnh bỗng bất ngờ ùa tới đóng sập cánh cửa dẫn tới cầu thang xoáy trôn ốc lại, khiến những lớp bụi bay lên mù mịt. Tôi vội vàng chạy ngược trở ra, song đã quá muộn, cánh cửa đã bị khóa. Vậy là tôi lại trở thành tù nhân. Tấm lưới của định mệnh đang ngày một vây chặt lấy tôi.
Lúc viết những dòng này là lúc tôi nghe thấy y trong hành lang phía dưới có những tiếng bước chân nặng nề và tiếng quẳng... vâng,... chắc chắn đó là những chiếc hòm đổ đầy đất Sau đó là tiếng búa nện. Đám người khi nãy đang đóng chặt chiếc nắp hòm mà tôi vừa làm đổ sập xuống. Một lát sau, tôi lại nghe thấy y tiếng những bước chân huỳnh huỵch trong đây hành lang, kế đó là tiếng những bước chân khác có vẻ nhẹ nhàng hơn.
Âm thanh cuối cùng vọng đến tai tôi là tiếng sập cửa, tiếng cài xích, tiếng vặn ổ khóa, tiếng rút chìa khóa ra khỏi ổ, rồi tiếng mở và đóng một cánh cửa khác. Tôi còn nghe thấy y tiếng xoay chìa khóa và tiếng then cài một lần nữa.
Ngoài sân, phía đầu bên kia, trên lối đi rải sỏi, là tiếng xe ngựa chậm rãi đi xa dần cùng với những tiếng lộc cộc của vó ngựa. Bài hát buồn của người Digan một lần nữa lại vút lên văng vẳng để rồi tắt lịm bên tai tôi.
Vậy là chỉ còn một mình tôi trong lâu đài, một mình tôi với ba mụ đàn bà ấy! Những người đàn bà! Mina cũng là một phụ nữ, nhưng giữa cô và chúng chẳng có điểm gì chung cả. Chúng chỉ là những con quỷ cái?
Nhưng tôi sẽ không chịu ở lại một mình với chúng. Rồi tôi sẽ lại leo tường, leo xa hơn tất cả những lần tôi đã từng làm và tôi sẽ mang theo những đồng tiền vàng lấy trong phòng lão bá tước rất có thể sau này tôi sẽ cần tới số tiền đó. Tôi tuyệt đối phải rời khỏi cái lâu đài đáng nguyền rủa này để trở về với những người thân! Chuyến tàu đầu tiên, và là chuyến tàu nhanh nhất, sẽ đưa tôi thoát khỏi nơi địa ngục, thoát khỏi cái mảnh đất chết tiệt này, nơi quỷ dữ và những tạo hóa quái đản đang sống như chúng đã từng sống trên thế giới đầy những điều trớ trêu này!