Tác phẩm Hoàng Hạc Lâu này là một trong những tuyệt phẩm được bình luận, học hỏi, í kiến, nhiều nhất trong mọi thời đại. Nó là một trong những đại biểu của thơ Đường bên cạnh Tỳ Bà Hành (Bạch Cư Dị), Giai Nhân (Đỗ Phủ), Tương Tiến Tửu (Lý Bạch), Phong Kiều Dạ Bạc (Trương Kế), Đào Hoa Khê (Trương Húc), Giang Tuyết (Liễu Tông Nguyên), vân vân.
Thật ra, không phải dễ gì nhìn thấy nổi cái “đã được nói hết” trong bài thơ, như Lý Bạch. Năm mươi sáu chữ trong bài của Thôi Hiệu làm sao tả hết nổi cảnh vật vô cùng phức tạp và đa dạng quanh lầu Hoàng Hạc ? Làm sao quả quyết được rằng bài thơ “đã nói hết ?” Nếu chỉ chấp ở cảnh vật, thì điều này quả thực là không thể hiểu nổi. Kẻ phàm phu chỉ biết đến cảnh, nên vẫn nghĩ Thôi Hiệu làm thơ vì mến mộ cảnh lầu Hoàng Hạc, vì say mê trước vẻ đẹp của bãi Anh Vũ, đất Hán Dương, chứ nào có biết đâu cái ý của ông là khinh rẻ lầu Hoàng Hạc, là chẳng hề rung động trước những cảnh đẹp kia ?
Và cũng vì chỉ biết đến cảnh, nên họ có thể không ngần ngại khổ công mài mực chấp bút, đề thêm hàng triệu bài thơ tán dương cảnh vật kia dưới mọi khía cạnh, những tưởng được đứng kề bên Thôi Hiệu! Hê hê, đúng là lũ khờ dại. Adam sẽ nói tại sao như thế, sau khi quí dzị thưởng thức xong bài thơ:
崔顥
黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去, 此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返, 白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹, 芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是? 煙波江上使人愁。
Thôi Hiệu
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị ?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Bản dịch, theo tớ hay nhât, của Tản Đà
Thôi Hiệu
Lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn, cũng hay:
Thôi Hiệu
Lầu Hoàng Hạc
Hạc đã xa bay
Người tiên không trở lại
Lầu cũ còn đây
Năm tháng đứng trông ai
Vỗ cánh biệt tăm hạc vàng không về nữa
Ngàn năm bàng bạc chỉ mây trắng lưng trời
Cây chốn Hán Dương
lạnh lùng soi bóng nước
Bãi xa Anh Vũ
Cỏ ngày tháng xanh tươi
Quê hương giờ đâu …
bóng chiều dần phủ xuống
Sương khói mờ sông
tâm trĩu nặng… tơi bời.
Bạn thấy không, trên lầu Hoàng Hạc, có thể bao quát hết những cảnh đẹp xung quanh, như là mây trắng lững lờ, sông xanh nghìn con sóng, nước biếc, bãi cỏ Anh Vũ ... Tuy nhiên, ở hai câu kết bài thơ, tác giả lại mượn cảnh khói sóng trên sông để mô tả nỗi nhớ nhà. Từ lầu nhìn ra, xa mãi, đến nơi mặt trời lặn, đó là quê ta. Đã lâu không về, sao nhớ đến thế. Chỉ hận không thể xuống thuyền ngay, đi về cố hương.
Trong tám câu, Thôi Hiệu chỉ nói đến Lầu Hoàng Hạc có một lần, ở câu thứ hai. Đối với ông, Lầu Hoàng Hạc chỉ là cái dư thừa của cổ nhân, còn để lại sau khi đã khuất bóng. Người xưa đã cưỡi hạc bay đi, ngôi lầu này bất quá chỉ là cái thừa thãi còn lưu lại, cho bọn “rởm”, bọn “làm dáng”, tụ tập ở đó, để cùng nhau gật gù suýt soa, cho ra cái vẻ trí thức, sành điệu mà thôi ! Khinh Lầu Hoàng Hạc, cũng là khinh cái bọn “rởm” này vậy.
Kim Thánh Thán, khi phề bình hai câu đầu của bài Hoàng Hạc Lâu, có cho là Thôi Hiệu đã lấy ý nghĩa của một đoạn trong sách Trang Tử, như sau:
“Cái tôn quý chẳng thể truyền lại được của cổ nhân, thì đã mất rồi, còn những điều mà ngài đang đọc đây, chỉ là những cặn bã của cổ nhân đấy thôi !”
(Trích: Thiên Đạo, lời Luân Biện nói với Tề Hoàn Công)
Hoàng Hạc Lâu khi vừa bình minh
Các chủ đề khác cùng chuyên mục này: