Ngày 20 tháng tám 1672, ở La Haye, thủ đô của bảy Tỉnh Hợp nhất, các công dân tràn xuống các ngả đường lớn thành một dòng người đen kịt.
Họ vai vác súng, tay cầm gậy vội vàng, hổn hển -bụng dạ không yên, chạy về phía nhà tù Buytenhof, nơi giam giữ Corneille de Witt, anh ruột của ông cựu thủ tướng vĩ đại Hà Lan. Từ khi bị nhà phẫu thuật Tyckelaer buộc tội giết người, ông bị bắt giam và đang sống leo lắt ở nhà tù nói trên.
Nếu lịch sử của thời kỳ đó, nhất là vào cái năm chúng tôi bắt đầu kể câu chuyện dưới đây, không gắn liền mật thiết với hai tên gọi nói trên thì một vài dòng chúng tôi giải thích sau đây chỉ có thể coi như một món "hors-d’Âuvre" mà thôi. Nhưng chúng tôi xin báo trước bạn đọc rằng cái điều cảnh báo ấy cũng cần thiết để hiểu rõ câu chuyện chúng tôi kể chẳng khác gì để hiểu biết sự kiện lịch sử to lớn xảy ra trong đó chuyện của chúng tôi đã được lồng vào.
Vào năm Corneille hoặc Cornélius de Witt 49 tuổi, nhân dân Hà Lan đã thấy chán nản nền cộng hòa theo kiểu Jean de Witt, ụi toàn quyền vĩ đại của Hà Lan. Họ rất thích chế độ xtatudera đã bị sắc lệnh của Jean de Witt buộc phải bãi bỏ vĩnh viễn trong bảy Tỉnh Hợp nhất ở Hà Lan rồi.
Vì ít có trường hợp dân chúng thấy đằng sau một nguyên lý lại không có bóng dáng một con người nên họ thấy nét mặt trang nghiêm của anh em dòng họ De Witt là thấy bóng dáng của nền cộng hòa. Hai ông là cha sinh không khoan nhượng của một nền tự do có khuôn phép và một nền thịnh vượng không thừa thãi xa hoa. Cũng vậy, đằng sau chế độ stathoudérat, họ thấy có Guillaume d’ Or-ange trai trẻ với vầng trán nghiêng nghiêng, trang trọng và suy tư được những người đương thời gọi là ông Trầm Mặc, sau này ông cũng được hậu thế gọi y như thế.
Hai anh em nhà de Witt kiêng nể Louis XIV vua nước Pháp vì cảm thấy uy tín của ông càng ngày càng lớn trên khắp châu Âu. ông vừa thắng trận trong chiến dịch kỳ diệu sông Ranh: sau ba tháng giao tranh ông đã chế ngự được sức mạnh của bảy Tỉnh Hợp nhất.
Từ lâu Louis XIV là kẻ thù của nhân dân Hà Lan. Nay họ mong có một người khác đứng lên cứu đất nước họ thoát khỏi cảnh tan nát và tủi nhục.
Người đó đã sẵn sàng xuất hiện và có đủ khả năng để chống lại Louis XIV. Đó là Guillaume d’Orange, con vua Guillaume II, cậu bé trầm mặc như trên đã nói, người ta thấy bóng dáng của cậu thấp thoáng đằng sau chế độ stathoudérat.
Năm 1672, cậu hai mươi hai tuổi. Jean de Witt đã từng là thái phó của cậu và ông muốn dạy cậu sau này trở thành một công dân tốt. Đặt quyền lợi của tổ quốc lên trên quyền lợi của trò mình, ông đã ban bố sắc lệnh bãi bỏ vĩnh viễn chế độ stathoudérat, làm tắt hy vọng khôi phục chế độ này, nhưng dân Hà Lan mong muốn lập lại chế độ cũ.
Ông thủ tướng vĩ đại chiều theo ý muốn của toàn dân; nhưng Corneille de Witt bướng bỉnh hơn.
Ông không chịu ký vào bản chứng thư tái lập chế độ cũ.
Sau cùng chiều ý do bà vợ khóc lóc van xin, ông đành ký, có điều ông ghi thêm vào dưới chữ ký của mình hai chữ: V.C. vi coactus, có nghĩa là:
chịu ký vì áp lực.
Nhưng những người theo phái orangistes không cần biết điều ấy. Chính hai anh em De Witt mới là vật cản chính của họ. Để đạt được mục đích của mình, họ dùng mưu vu khống và trong hoàn cảnh đó họ đã tìm được một tên khốn nạn sẵn sàng vào cuộc chơi với họ. Tên này, chúng tôi hình như đã có lần nói rồi, gọi là Tyckelaer, làm nghề phẫu thuật.
Hắn đến khai láo rằng vì Corneille de Witt thất vọng khi thấy sắc lệnh bãi bỏ chế độ cũ do em mình ký không còn hiệu lực nữa và vì sôi sục căm thù chống Guillaume d’ Orange nên đã ngầm sai một tên sát nhân đi giết ông này hòng cứu vãn nền cộng hòa; tên sát nhân ấy không ai khác là hắn; vậy là Tyckelaer hối hận đã đi tố cáo hơn là để mình phạm tội.
Bây giờ ta hãy thử xem những người theo phái orangistes tức giận đến chừng nào khi nghe tin ấy.
Ông kiểm soát trưởng ký lệnh bắt Corneille tại nhà.
Ngày 16 tháng tám năm 1672, Corneille de Witt, người anh cao thượng của Jean de Witt bị đánh đòn phủ đầu ngay trong buồng giam của nhà tù Buytenhof nhằm bắt ông thú nhận là chủ mưu sát hại Guillaume..Nhưng Corneille chẳng những là một con người cao thượng mà còn là một conngười đầy dũng khí.
Ông không thú nhận điều gì. Không những ông làm mệt sức các tên đao phủ mà còn làm nhụt cả tính cuồng tín của chúng.
Không khai thác được gì các quan tòa vẫn tuyên phạt: Corneille bị mất mọi chức vụ và phẩm tước, bị phạt tiền hầu tòa và bị đi đày chung thân biệt xứ.
Quyết định đó không những xử oan một người vô tội mà còn xúc phạm danh dự một người có tên tuổi ắt phải làm vừa lòng dân chúng lắm đây. Tuy nhiên không phải thế là đã đủ như chúng ta sẽ thấy sau đây.
Ngay sau khi nghe tin anh mình bị xử oan, Jean de Witt xin từ chức toàn quyền. Đến lượt ông cũng thế, ông không được người ta đối xử như người có công với Tổ quốc. ông mang về trong cuộc sống riêng tư những ưu phiền và đau thương. Đó là hai món lợi duy nhất mà những con người trung thực như ông thường nhận được sau khi đã quên mình phục vụ đất nước.
Trong thời gian đó, Guillaume d’ Orange bí mật hoạt động bằng mọi cách để đạt được mục đích. ông hy vọng quần chúng đã coi mình là thần tượng sẽ lấy thi thể hai anh em De Witt làm chiếc cầu cho ông nhảy chiếm vị trí đứng đầu chế độ stathoudérat cũ.
Ngày 20 tháng tám năm 1672, như chúng tôi đã nói ở đầu chương, tất cả thành phố đổ xô về nhà giam Buytenhof để chứng kiến cảnh Corneille de Witt rời nhà giam bắt đầu kiếp đi đày.
Chúng tôi phải nói ngay rằng những người chạy vội về Buytenhof không phải chỉ để chứng kiến một cảnh lạ mắt; trái lại nhiều người trong số họ còn muốn đóng một vai trò, hay đúng hơn muốn làm thêm một công việc mà họ cho là còn chưa làm đủ.
Chúng tôi muốn nói là công việc của đao phủ.
Quần chúng nguyền rủa các quan tòa dốt nát đã xử thế nào lại để cho tên tội phạm khốn kiếp kia còn được sống sót.
Một vài kẻ nhỏ to xúi bẩy:
- Nó sắp đi rồi! Nó sắp thoát khỏi tay chúng ta rồi.
- Có một thuyền Pháp chờ hắn ở Scheveningen rồi.
Một người khác nói:
- Không kể trong lúc Corneille chuồn, lão Jean tội chẳng kém cũng sẽ chuồn theo.
- Và hai thằng xỏ lá ấy sẽ sang sinh sống ở Pháp. Chúng sẽ lấy tiền bạc do bán tàu bè, xưởng.đóng tàu, công trường của chúng ta cho Louis XIV ăn tiêu hết mất thôi!
- Phải giữ chúng lại! - Một người khác dứt khoát nói to lên.
- Tống vào tù! Vào tù! - Mọi người đồng thanh hét lên.
Tức thì các thị dân càng chạy nhanh hơn, súng vội lên đạn, dao vội vung lên và các con mắt trở nên nảy lửa.
Tuy nhiên, bạo động không xảy ra; hàng ngũ đội kỵ binh canh gác xung quanh Buytenhof vẫn đứng im, trơ như đá lạnh như tiền, càng đáng sợ hơn đám đông la hét, giơ chân, múa tay, dọa nạt kia. Họ, đội kỵ binh của thành phố La Haye đặt dưới sự chỉ huy của bá tước quan ba De Tilly vẫn đứng yên lặng. Với lại, ngay khi dân chúng hăng máu muốn băm vằm nạn nhân thứ nhất ra thì họ không biết rằng nạn nhân thứ hai, cách xa họ khoảng trăm thước đang qua sau lưng đám đông và đội kỵ binh để đến Buytenhof.
Thật vậy, Jean de Witt vừa trên xe bước xuống cùng với một người hầu. ông lặng lẽ qua cái sân trước cổng nhà tù.
Ông xưng tên với người gác cổng, mà không biết chính người này cũng biết ông. ông nói:
- Chào Gryphus, tôi đến tìm anh trai tôi vừa bị án tù biệt xứ, chú biết rồi chứ gì?
Người gác cổng xưa nay chỉ biết mở, đóng cửa theo lệnh của chủ, liền cúi đầu chào ông, để ông vào xong lại đóng cửa ngay.
Đi được mươi bước, ông gặp một cô gái quãng mười bảy mười tám tuổi, ăn mặc kiểu quần áo tỉnh Frisonne. Thấy ông, cô nghiêng mình chào một cách duyên dáng. ông nâng cằm cô lên, nói:
- Chào cháu Rosa xinh đẹp và tốt bụng; anh tôi ra sao rồi hả cháu?
- Thưa ông Jean vĩ đại. - Cô bé trả lời. - Cháu không lo người ta đánh đập ông ấy đâu ạ.
- Vậy cháu lo điều gì nào?
- Cháu lo người ta còn làm điều tệ hơn nữa đối với ông ấy ạ.
- Đúng, - Jean de Witt nói. - cháu sợ dân chúng có phải không?
Khi Jean de Witt bước theo thang đá lên buồng giam Corneille thì các thị dân ở ngoài đang cố gắng bằng mọi cách để đội quân bảo vệ của Tilly lùi ra xa chút nữa vì các khẩu súng ngắn của đội kỵ binh lăm lăm trong tay làm họ e ngại.
Về phần mình, bá tước De Tilly thận trọng nhưng cương quyết, đang thuyết phục đám dân.chúng cho họ hiểu là ông cùng với ba đại đội có nhiệm vụ canh gác nhà tù và các điểm xung quanh.
Một thị dân hét to:
- Canh gác thế là để cho những kẻ phản bội có cách ra khỏi thành phố chứ gì?
- Có thể như thế, bởi vì họ đã bị đày biệt xứ rồi. - Bá tước trả lời.
- Nhưng ai ra lệnh?
- Chính phủ chứ ai?
- Chính phủ phản bội.
- Về điều đó, tôi không biết.
- Chính ông cũng phản bội.
- Tôi ấy ư?
- Chính ông.
- A! Điều ấy, chúng ta hãy hiểu nhau hơn các ông ơi, tôi phản bội ai nào? Chính phủ ư? Tôi không thể làm thế được, tôi là người được Nhà nước trả lương, tôi làm theo lệnh Nhà nước.
- ông hãy nhường chỗ cho chúng tôi đi; ông sẽ là một công dân tốt đấy.
- Thứ nhất, - De Tilly nói. - tôi không phải là công dân bình thường, tôi là sĩ quan, đó là hai điều khác nhau. Thứ hai, tôi không phải là người Hà Lan, tôi là người Pháp, đó là điều khác nhau nữa. Vậy tôi chỉ biết có mỗi Chính phủ đã trả lương cho tôi thôi. Các ông hãy mang lệnh của Chính phủ ra đây, tôi sẽ giải tán ngay lập tức, với lại tôi cũng chán ở đây mãi rồi.
- Được, được. - Một trăm tiếng cùng lúc kêu lên, một trăm tiếng khác họa theo. - Chúng ta hãy đến tòa Thị chính. Chúng ta sẽ tìm các ngài nghị viên. Nào, chúng ta đi, đi thôi.
Ông De Tilly nhìn những kẻ điên cuồng nhất bỏ đi, lẩm bẩm:
- Thế đấy, cứ đi mà đề nghị một điều đốn mạt như thế xem có được chấp nhận không; có giỏi thì cứ đi đi, đi đi!
Jean de Witt đã tới cửa buồng giam. Anh ông, Corneille, đang nằm bẹp dí trên chiếc nệm; viên thanh tra thuế khóa đã đánh ông một trận đòn phủ đầu như chúng tôi đã nói ở trên.
Corneille nằm trên giường, các ngón tay và cổ tay giập nát, tuy nhiên ông không khai một lời về một tội ác mà ông không làm. Sau cùng, sau ba ngày đau đớn, ông vừa được tin các quan tòa, tưởng xử ông với mức án nặng nhất hóa ra chỉ cho ông đi tù chung thân biệt xứ.
Jean dịu dàng hôn lên trán anh và nhẹ nhàng đặt đôi bàn tay đau đớn của người anh lên nệm.
- Corneille, anh đau lắm phải không?.- Được trông thấy em, anh cảm thấy không đau đớn nữa. Em đỡ anh dậy, anh đi được cho em xem.
- Anh chỉ cần đi dăm bước thôi là tới xe của em đợi ở ao cá đằng sau đội quân của ông Tilly ấy.
- Có nhiều người đến Buytenhof xem lắm phải không em?
- Nhiều anh ạ.
Nói xong, ông buồn rầu nhìn người anh:
- Thế mà, để đến được đây... - Người anh nói.
- Anh ạ, anh cũng biết chúng ta không được mến mộ lắm. - ông cay đắng nói. - Nhưng em đi bằng những con đường ngách cũng đến được.
Lúc đó, tiếng ồn ào dâng lên ở quảng trường trước nhà tù.
- ôi! ôi! - Corneille nói. - Không biết em có cứu nổi anh ra khỏi chốn này không.
- Đội ơn chúa, chúng ta cố gắng xem, may ra.
- Jean trả lời. - Nhưng hãy để em nói một câu.
- Em nói đi.
- Trong những điều vu khống chúng ta, có điều bọn orangistes bảo chúng ta đã thương lượng với Pháp.
- Đồ ngu!
- Đúng, nhưng chúng trách cứ chúng ta vì điều đó.
- Nếu những cuộc thương lượng thành công có phải đã tránh được cho ta và cho Pháp giao tranh không, và nước Hà Lan chúng ta lại có thể coi mình là vô địch với các bãi lầy, sông đào rồi không?
- Tất cả là đúng anh ạ, nhưng nếu lúc này chúng bắt được thư từ chúng ta trao đổi với ông M. de Louvois thì khốn. Thư từ nọ sẽ chứng minh với những người có lương tri là em yêu nước đến chừng nào nhưng đối với bọn orangistes thắng thế thì đó là một tai họa cho chúng ta. Chính vì thế, em mong là anh đã đốt nó đi rồi trước khi anh rời khỏi Dordrecht.
- Em ạ! - Corneille đáp. - Những thư từ nọ chứng tỏ vào thời kỳ cuối này em là một công dân vĩ đại nhất, tài giỏi nhất, khôn khéo nhất trong bảy Tỉnh Hợp nhất chúng ta. Sự vinh quang của đất nước đối với anh là vô cùng quý báu nhưng anh, anh lại thích nhất sự vinh quang của em kia nên anh không đời nào đốt nó đi.
- Anh làm thế nào nào?
- Anh giao cho Cornélius Van Baerle, con đỡ đầu của anh, em đã biết nó rồi đấy. Nó ở Dor-drecht.
Nó không biết tính chất và giá trị tài liệu anh gửi nó giữ hộ đâu.
- Thế thì nhanh lên, còn kịp, anh lệnh cho nó đốt ngay đi..- Bằng cách nào bảo nó được hả em?
- Nhờ Craeke giúp. Anh ta là người đánh xe ngựa cho chúng ta, đang đứng ở cửa kia, chờ dìu anh xuống thang.
- Em bảo anh ta vào đây.
Jean ra mở cửa. Quả nhiên, người đày tớ trung thành vẫn đứng đó.
- Craeke lại đây! Anh hãy nhớ lấy điều anh tôi dặn nhé.
- ồ không, dặn miệng không được em ạ, anh phải viết tay. Van Baerle chỉ trao lại tập thư hoặc đốt nó đi khi có một lệnh rõ ràng.
- Nhưng tay anh đau thế viết làm sao?
- Được em ạ. Có giấy có bút là anh viết được ngay, rồi em sẽ thấy. - Corneille nói.
- Có đây rồi, ít ra là cái bút chì.
- Em có giấy không. Chúng chẳng để gì ở đây cho anh cả.
- Có quyển Kinh Thánh đây. Anh xé lấy tờ đầu.
- Được rồi.
- Em sợ anh viết chữ không đọc được.
- Được em ạ, - Corneille nhìn em mình đáp. -những ngón tay này đã chịu được lửa do đao phủ đốt, cái ý chí này đã nén được đau thì chúng sẽ kết lại thành một sức mạnh mới; em hãy yên tâm, anh sẽ viết thẳng dòng không run một nét chữ nào đâu.
Nói rồi Corneille cầm biết viết.
Người ta thấy máu tươi từ những miếng thịt nứt toác ở các ngón tay bị thương bật ra, do kẹp quá chặt cây bút chì nên máu thấm hồng cuộn băng trắng.
Mồ hôi vã ra trên trán người em.
Corneille viết:
"Con thân yêu, Con hãy đốt bọc giấy cha gửi. Con đốt ngay không mở, không xem để nó luôn luôn là điều không biết đối với con. Những bí mật của nó đủ giết người cất giữ nó. Con hãy đốt đi và như vậy là con cứu cha Corneille và chú Jean của con đấy.
Vĩnh biết con.
Con hãy thương cha.
Corneille de Witt 20-8-1672." Jean giàn giụa nước mắt, lấy tay chùi một giọt máu rơi trên giấy; ông đưa thư cho người hầu rồi trỏ vào Corneille gần ngất xỉu nói:.- Bây giờ, khi Craeke nổi lên một hồi còi là báo hiệu anh ta đã qua khỏi đám đông, tới bờ bên kia ao cá... Lúc đó đến lượt chúng ta đi.
Chưa đến năm phút đã nghe thấy hồi còi dài và mạnh nổi lên át tiếng ồn ào của đám đông đang tụ tập trước nhà tù Buytenhof.
Jean đưa tay lên trời, cám ơn Chúa rồi nói:
- Thôi bây giờ, anh Corneille, đến lượt chúng ta đi.
Trong khi những tiếng la ó của đám đông tụ tập trước nhà tù Buytenhof thúc giục hai anh em De Witt phải rất nhanh thì một đoàn đại biểu đi lên phố Hoogstraet.
Buytenhof không xa Hoogstraet là mấy, do đó người ta thấy một người lạ mặt từ nãy chăm chú theo dõi về hướng đoàn đại biểu đi.
Đó là một chàng trai trẻ, tuổi khoảng hai mươi hai, hai mươi ba, bề ngoài trông không rắn rỏi lắm.
Có lẽ anh muốn người ta không nhận ra nên anh che bộ mặt dài và xanh bằng một chiếc khăn mỏng tỉnh Frise, đồng thời anh sử dụng nó để lau mồ hôi trán hoặc đôi môi khô cháy.
Anh ăn mặc giản dị và hình như không đeo súng; cánh tay gầy và run run do bệnh thần kinh và bàn tay trắng, mịn, vẻ quý phái không khoác tay mà quàng lên vai một sĩ quan..Đến quảng trường Hoogstraet, người trai trẻ có bộ mặt xanh xao đẩy người cùng đi vào dưới một cánh cửa chớp đang mở và chăm chú nhìn lên ban công tòa thị chính.
- Ai ở ban công thế? - Chàng trẻ tuổi hỏi.
- Ngài nghị viên.
- ông là người thế nào, anh có biết không?
- Một người trung hậu, thưa quý ngài.
Người được gọi là quý ngài lại hỏi:
- ý anh nói là trung hậu hay can đảm?
- Quý ngài tha lỗi cho, tôi không thể phân biệt được, thưa Hoàng thân, vì tôi chỉ biết mặt chứ không được tiếp xúc với ngài đó bao giờ.
Hoàng thân nói tiếp:
- Nếu là một người trung hậu thì ông ta sẽ nhận lời thỉnh cầu của bọn điên rồ kia, hay đấy nhỉ!
Bàn tay của Hoàng thân đặt trên vai người sĩ quan chứng tỏ ngài giận lắm.
Ông nghị M. BÂwebt dáng chừng muốn nói nhưng người ta không nghe thấy những lời ông nói mà chỉ thấy tay ông giơ lên giơ xuống theo lời nói mà thôi.
Nhân dân đi sâu vào cổng chính của tòa thị chính. Người trai trẻ lạnh lùng nói:
- Hình như có hội bàn trong phòng họp. Chúng ta thử vào xem sao.
- Bẩm Hoàng thân, xin Hoàng thân cẩn thận!
- Cẩn thận cái gì?
- Trong số các nghị viên có nhiều người có quan hệ với Hoàng thân, nếu chỉ cần một người nhận ra Hoàng thân...
- Họ sẽ buộc tội tôi là kẻ xúi giục đám đông này chăng? Anh nói có lý. - Người trẻ tuổi nói.
- Nhưng bẩm Hoàng thân, Hoàng thân không lần nào đặt giả thiết là các ngài nghị viên lệnh cho Tilly giãn quân ra chứ ạ?
- Tại sao? - Người trẻ tuổi lạnh lùng hỏi.
- Bởi vì họ làm như vậy, đơn giản là họ kết án tử hình hai ông Corneille và Jean de Witt.
- Rồi ta sẽ thấy. - Hoàng thân lạnh lùng trả lời. - Chỉ có Trời mới biết lòng người ra sao.
Viên sĩ quan trộm nhìn vẻ mặt lạnh như tiền của người cùng đi, mặt ông ta bỗng nhiên tái mét.
Phòng nghị luận chật ních người.
Tiếng ồn ào bỗng ngưng rồi bỗng nhiên lại nổi lên mạnh hơn làm tòa nhà cũ rung chuyển đến tận nóc.
Sau cùng, dòng người xô nhau qua các hành lang, các cầu thang rồi tuôn ào ra cửa như một cái vòi rồng miệng lớn.
- Họ được lệnh rồi. - Người sĩ quan ngạc nhiên lẩm bẩm.
- Thế là tôi xác định được rồi. - Hoàng thân bình tĩnh nói. - ông đại tá ạ, ông không biết ông BÂwelt là trung hậu hay can đảm. Tôi bảo ông ta chẳng phải trung hậu cũng chẳng phải can đảm.
Rồi lặng lẽ nhìn đám đông đang chen nhau chạy trước mặt, ông nói:
- Bây giờ chúng ta đến Buytenhof; tôi tin rằng chúng ta sẽ chứng kiến một cảnh tượng kỳ lạ đây.
Quảng trường và xung quanh nhà lao người đông như kiến. Nhưng quân của Tilly vẫn cương quyết cản họ.
Lúc sau, bá tước nghe thấy tiếng xì xào mỗi lúc một to rồi ông trông thấy một tờ giấy khua khua trên những nắm tay giơ lên và những vũ khí sáng loáng.
Ông nhổm người trên lưng ngựa nói:
- Ta cho rằng đám vô lại kia đã có lệnh rồi đây.
Quả nhiên đó là tờ lệnh mà lúc nãy bọn thị dân đã kêu rú lên thích thú khi được cấp.
- Lệnh đây! Lệnh đây! - Trăm tiếng hỗn xược vang lên.
Bá tước kinh ngạc cầm lấy, lướt đọc rồi nói to:
- Ai ký lệnh này rõ ràng là đao phủ giết chết ông Corneille de Witt.
Ông gấp tờ giấy lại và để cẩn thận vào túi áo chẽn quân phục.
Rồi quay về phía hàng quân, ông hô to:
- Kỵ binh Tilly, bên phải, quay!
Một tiếng kêu tức giận tiếp sau cuộc giãn quân đó.
Như vậy là chúng ta thấy, Jean de Witt đã nói đúng về sự nguy hiểm khi ông vực ông anh dậy giục mau mau phải trốn khỏi nơi này.
Dựa vào người em, Corneille bước xuống thang.
Đến sân, ông thấy cô gái Rosa xinh đẹp đang đứng run sợ.
- ôi ngài Jean, khổ quá đi mất! - Cô nói.
- Có chuyện gì đấy? - Jean hỏi.
- Họ kéo nhau đi Hoogstraet yêu cầu lệnh cho quân bảo vệ giãn ra..- Đúng vậy cháu ạ, nếu quân bảo vệ đi khỏi chỗ này thì đó là điều tệ hại cho chúng ta. - Jean nói.
- Bẩm ngài Jean, - cô thẹn thùng nói tiếp. -nếu là cháu, cháu sẽ chui qua cổng đường ngầm.
Cổng này mở ra ở cuối phố nhỏ vắng vẻ đằng kia.
Còn ở cửa chính phố lớn bây giờ, người đứng đông nghịt cả rồi.
- Nhưng anh tôi không thể lê đến tận đấy được.
- Anh sẽ cố gắng. - Corneille trả lời.
- Chẳng hay các ngài không có xe hay sao?
- Xe chúng tôi đợi ở thềm cổng chính.
- Không phải! - Cô gái trả lời. - Cháu thấy ông đánh xe là người tận tâm nên cháu đã bảo ông ấy chờ các ngài ở đầu cửa ngầm đằng kia rồi.
- Cháu gái ạ, - Corneille nói. - bác chẳng có gì tặng để cám ơn cháu về những gì cháu đã làm cho bác ngoài quyển Kinh Thánh bác có để ở buồng bác.
Đó là vật kỷ niệm cuối cùng của một người có phẩm giá; bác mong nó mang lại hạnh phúc cho cháu.
- Cháu xin cám ơn bác, cháu sẽ không bao giờ rời vật kỷ niệm của bác. - Cô gái trả lời.
Rôsa dẫn họ đi, xuống chừng mười hai bậc thang, qua một sân nhỏ có tường đã rạn nứt bao bọc xung quanh.
Như vậy là họ đã đến bên kia nhà lao ở một phố vắng nơi có chiếc xe đứng đợi.
Người đánh xe sợ hãi cuống cuồng kêu lên:
- Xin các ngài mau lên, mau lên; các ngài có nghe thấy họ la hét đấy không?
Sau khi đã đẩy được Corneille lên xe trước tiên, ông cựu thủ tướng quay sang nói với cô gái:
- Từ biệt cháu, chúng ta sẽ cầu nguyện Chúa, kính báo với Ngài rằng cháu là người đã cứu sống hai mạng người chúng ta, Chúa hãy che chở cho cháu.
Rosa nắm tay vị thủ tướng cũ, trân trọng đưa lên môi hôn.
- Xin các ngài đi ngay cho! - Cô nói. - Hình như họ đang phá cửa đấy.
Jean de Witt vội nhảy lên xe, ngồi cạnh người anh, rồi kéo cánh cửa xe lại, nói to:
- Đến Tol-Hek!
Tol-Hek là hàng ghi chắn cửa mở ra cái bến nhỏ Scheveningen, ở đấy có con tàu nhỏ đợi sẵn hai anh em cựu thủ tướng.
Hai con tuấn mã kéo vội chiếc xe, chở đi những con người đang tìm đường tẩu thoát.
Một vài phút sau cửa chính bị phá bởi các đòn thúc, đòn bẩy; dân chúng ùa vào nhà tù, vừa chạy vừa la hét:.- Quân phản bội, phản bội! Treo cổ thằng Cor-neille lên! Nó phải chết! Phải chết!
Người trẻ tuổi nói trên, vẫn đội chiếc mũ che kín mặt, vẫn tựa người vào viên sĩ quan; anh đứng ở một góc quảng trường Buytenhof quan sát cảnh hỗn loạn do đám thị dân gây nên đã sắp đi đến đoạn kết thúc.
Thật vậy, dân chúng thấy buồng nhà lao trống không. Họ nhô mặt ra ngoài cửa sổ tức giận hét:
- Trốn rồi! Vượt ngục rồi! Bọn chúng đã đánh tráo. Đuổi theo ngay đi!
- Bẩm ngài, hình như Corneille de Witt đã biến thật sự rồi. - Viên sĩ quan nói.
- Đúng, nhưng là biến khỏi nhà tù chứ chưa biến khỏi nổi thành phố. - Người kia trả lời. - Anh Van Deken này, rồi anh sẽ thấy cánh cửa mà con người khổ sở kia hy vọng mở hóa ra lại là đóng trước mặt hắn.
- Bẩm ngài, đã có lệnh đóng các cửa thông ra biển rồi chăng?
- Không, tôi không tin; ai là người có thể ra lệnh nào?
- Vậy làm sao ngài giả thiết được như vậy?
Hoàng thân hờ hững trả lời:
- Người ta đều có số. Có trường hợp những con người vĩ đại nhất vẫn phải quàng vào mình số mệnh tai ngược.
Viên sĩ quan cảm thấy ớn lạnh suốt sống lưng vì anh hiểu rằng số phận người tù kia đã cạn bằng cách này hay cách khác.
Vào lúc đó, đám đông gào thét như cuồng vì rõ ràng là Corneille de Witt không còn trong nhà giam.
Thật vậy, sau khi qua bờ ao cá ra phố lớn đi Tol-Hek thì Jean dặn người đánh xe phải cẩn thận cho xe chạy từ từ đã để không gây bất cứ sự nghi ngờ nào. Đến giữa phố người đánh xe mới cho xe chạy nhanh nhưng bỗng nhiên anh ghì cương.
- Có chuyện gì thế? - Jean thò đầu ra ngoài cửa xe hỏi.
- Dạ, bẩm các ngài, có... có...
Sự khiếp đảm làm người đánh xe không nói thành lời.
- Thế nào, nói tiếp đi chứ! - ông cựu thủ tướng nói.
- Cửa ra biển đóng rồi ạ.
- Cứ đi đi! - Jean đáp. - Tôi đã có lệnh giao hoán rồi, người gác cổng sẽ mở cửa..Một lúc sau đã đến Tol-Hek.
- Mở cổng ra! - Người đánh xe gọi to.
- Mở cửa, mở bằng cách nào? - Người gác cổng đứng trên bậc cửa nhà mình nói.
- Thế ông không có chìa khóa hay sao? - Người đánh xe hỏi.
- Không.
- Anh bạn ạ, - ông cựu thủ tướng thò đầu ra ngoài nói, - hãy mở cửa cho tôi và cho Corneille anh trai tôi, tôi dẫn anh tôi đi biệt xứ đây mà.
Người gác cổng nói:
- ồ thưa ông De Witt, tôi rất lấy làm phiền, nhưng tôi xin thề với ông rằng sáng nay có người đã đến lấy chìa khóa của tôi mang đi rồi.
- Ai lấy?
- Một người trai trẻ chừng hai mươi tuổi, xanh xao gầy guộc.
- Thế tại sao bác lại đưa cho người ta?
- Vì anh ta có lệnh, phong bì dán kỹ và xi đóng cẩn thận mà.
Jean nói với người đánh xe:
- Thôi được, Trời sinh ra con người thì con người phải tìm mọi cách để cứu sống mình; anh đánh xe, chúng ta đi cổng khác vậy.
Trong khi người đánh xe quay xe, Jean nói với người gác cổng:
- Cám ơn thiện chí của bác nhé!
Và ra lệnh cho người đánh xe:
- Cho phi nước đại! Rẽ trái, hy vọng duy nhất của chúng ta là ở đó.
Đám thị dân hiện ra ở đầu phố mà Jean sẽ đi qua. Họ tiến lại, nhanh và ào ào như một trận cuồng phong.
- Dừng lại, anh hãy trốn đi! - Jean nói với người đánh xe. - Chạy nữa là vô ích. Chúng ta, số tận rồi.
- Chúng kia rồi, kia rồi! - Hàng trăm tiếng kêu lên.
Trong khoảnh khắc, chiếc xe ngựa bị đám đông vây quanh, ngựa đứng chững lại.
Lúc đó, một cánh cửa sổ hé ra. Người ta nhìn thấy bộ mặt tái mét và đôi mắt âm u của người trai trẻ chăm chú nhìn cảnh diễn ra.
Đứng sau hắn, viên sĩ quan cũng thò đầu ra, mặt cũng tái xanh như mặt hắn.
- ôi! Ngài nhìn thấy không, họ lôi viên cựu thủ tướng ra khỏi xe đánh đập túi bụi.
- Bọn họ phải tức giận lắm mới làm thế. -Người trai trẻ vẫn thản nhiên trả lời như mọi khi..- Và bây giờ đến lượt Corneille bị lôi ra khỏi xe. ôi ngài nhìn kìa, nhìn kìa.
Viên sĩ quan bật ra một tiếng kêu nhỏ: Cor-neille vừa bị một thanh sắt đập vào đầu làm vỡ sọ.
Sắc mặt người trẻ tuổi trở nên tím tái hơn, điều đó tưởng không thể có được, và mắt anh ta bỗng thoáng nhòe sau cặp mi khép lại.
Người sĩ quan nhận ra cử động xót thương đó.
Nhưng người trẻ tuổi đã mở mắt ra.
Guillaume d’ Orange, vì chính là ông ta, nhăn trán một cách độc địa và nói:
- Đại tá Van Deken, tôi yêu cầu đi tìm quân ta ngay để họ sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xảy ra.
- Tôi để ngài một mình trước những hung thủ ở đây hay sao?
- Đừng quá lo cho tôi. - Hoàng thân nói sẵng.
- Đi đi!
Viên sĩ quan đi ngay.
Hắn chưa kịp khép cửa buồng lại thì ở ngoài kia, trên mặt phố, Jean đã lảo đảo do những đòn đấm đá tới tấp.
- Anh tôi, anh tôi đâu? - ông kêu lên.
Một tên điên cuồng đấm ông một quả làm mũ ông rơi.
Một tên khác đâm mũi giáo vào mặt làm ông tóe máu.
- Anh ơi! - Qua khe mắt đầy máu làm mọi thứ nhòe đi, ông cố tìm xem anh mình đứng đâu. - Anh ơi!
- Này, đi mà gặp anh mày! - Một tên khác gí súng vào thái dương ông và bóp cò.
Jean de Witt ngã xuống không bao giờ đứng dậy lại nữa. Đám đông xéo lên hai thây người.
Khi hai người đã đau đớn ê chề, mình mảy rách nát, đám đông mới kéo lê thân thể trần truồng và đẫm máu của họ đến một cái giá treo cổ mới dựng rồi treo ngược họ lên.
Chúng tôi không thể nói người trẻ tuổi có xem hết cảnh chết chóc hãi hùng đó không, nhưng có thể nói vào lúc họ treo ngược hai người thì hắn len qua đám đông để đi Tol-Hek; lúc này vẫn thấy cửa đóng.
- A! Thưa ông, - người gác cổng nói. - ông mang chìa khóa lại trả tôi đấy chứ?
- Vâng, của bác đây. - Người trẻ tuổi trả lời.
- ôi, thật không may, ông không mang trả tôi trước đây nửa giờ... - Người gác cổng thở dài nói..- Tại sao thế? - Người trẻ tuổi hỏi.
- Vì như vậy tôi đã có thể mở cổng giúp hai ông De Witt rồi.
- Cửa! Cửa! - Một tiếng nói hình như của ai đó rất vội vã cất lên.
Hoàng thân quay đầu lại và nhận ra ông đại tá Van Deken.
- ông đại tá đó ư? - ông nói. - ông chưa rời khỏi La Haye sao? Thế là ông thi hành mệnh lệnh của tôi chậm rồi đấy.
- Bẩm Ngài, - viên đại tá nói. - đây là cánh cửa thứ ba tôi tới. Hai cánh trước tôi đến đều thấy đóng cả.
- Thế thì cánh này, anh bạn tử tế của chúng ta kia sẽ mở cho chúng ta thôi. Này anh bạn, mở đi! -Hoà ng thân nói với anh gác cổng đang hết sức ngỡ ngàng về cách xưng hô trịnh trọng của viên đại tá đối với người trẻ tuổi da mặt xanh xao mà lúc nãy khi tiếp xúc anh đã vô tình "cậu cậu, tớ tớ".
Bởi vậy, để chuộc lỗi, anh vội mở cửa thật nhanh làm nó rít lên trên goong sắt.
- Bẩm Ngài có cần đến ngựa của tôi không ạ?
- Viên đại tá hỏi Guillaume.
- Cám ơn đại tá, chắc phải có ngựa đợi tôi cách đây vài bước.
Đoạn ông rút trong túi ra chiếc còi bằng vàng vào thời đó người ta hay dùng để gọi người hầu, ông thổi một tiếng sắc và to, một người cưỡi ngựa chạy đến dắt theo sau một con ngựa nữa.
Ông nhảy phắt lên lưng ngựa, thúc vào bụng nó, thẳng tiến về Leyde. ông tưởng tượng nét mặt của vua Louis XIV, kình địch của ông, mệnh danh là Vua Mặt Trời sẽ ra sao khi được tin hai ông bạn vàng tức anh em nhà De Witt đã chết như thế nào.
Ông còn tưởng tượng ra hai thây ma của Jean và Corneille được dùng làm bàn đạp cho ông bước lên quy chế stathouder được khôi phục lại.
Người yêu hoa tuylíp Khi các thị dân La Haye xé ra thành từng mảnh thi hài anh em De Witt, khi Guillaume d’ Orange chắc chắn hai địch thủ của mình đã chết thực sự, Hoàng thân đang cùng viên đại tá Van Deken tháp tùng rong ruổi trên con đường đi Leyde thì Craeke, người đày tớ trung thành của Jean cũng cưỡi một con ngựa ngoan cường chạy trên con đường hai bên trồng cây.
Craeke nhìn thấy từ xa thành phố vui tươi Dor-drecht nằm dưới chân đồi đó đây có vài cái cối xay bột. Anh thấy những nhà mái đỏ đẹp đẽ với những bức tường trắng phau.
Và sau cùng anh nhận thấy ở dốc đồi thoai thoải có một mái nhà màu trắng và hồng, đó là đích chuyến đi của anh. Nóc nhà lẫn trong tấm màn lá màu vàng của các hàng cây dương và nổi bật trên nền xanh tối của các hàng cây du.
Đó là nhà của bác sĩ Cornélius Van Baerle, con đỡ đầu của Corneille. Thân sinh ra Cornélius đã khuyên con trai chớ theo gương cha đỡ đầu là Cornélius de Witt, nghĩa là đừng làm chính trị.
Khi cha chết, Cornélius Van Baerle được hưởng gia tài cái nhà và nhiều tiền bạc nhưng các thứ đó anh chẳng quan tâm.
Cha đỡ đầu kiếm việc làm cho anh ở các công sở nhưng anh từ chối; ông muốn cho anh được nếm mùi vinh quang, anh cũng không thiết.
Anh muốn tạo dựng một hạnh phúc theo ý riêng của mình; anh bắt đầu nghiên cứu cây cỏ và côn trùng, thu lượm và xếp loại các hoa lá trên đảo - đề tài này anh viết thành một chuyên đề kèm theo các bản minh họa do chính tay anh vẽ - và sau cùng chẳng biết dùng thì giờ và nhất là tiền bạc để làm gì, anh bắt đầu chọn trong cả mớ những cái điên rồ trong nước và trong thời đại anh lấy cái điên rồ thanh lịch nhất và đắt tiền nhất: Anh yêu hoa tuylíp.
Chẳng bao lâu, từ Dordrecht đến Mons, chỉ có mỗi vấn đề hoa tuylíp của Van Baerle là nổi lên cả.
Van Baerle bắt đầu dùng tiền thu nhập năm để làm bộ sưu tập và hoàn thiện nó. Do đó anh thu được một kết quả tuyệt vời; anh tìm ra được năm loại hoa khác nhau, một loại anh gọi là Jeanne, tên mẹ anh, một loại là Baerle, tên cha anh và một loại.là Corneille, tên cha đỡ đầu của anh; còn những loại hoa tuylíp khác, chúng tôi không tỏ nhưng nếu các vị yêu quý hoa tuylíp, tra cứu các catalo thời đó hẳn là thấy.
Corneille de Witt khi reo bao nhiêu hạt giống có hại mà người ta gọi là những thú say mê chính trị đã làm nảy sinh bao nhiêu những hằn thù tai hại; còn Van Baerle khi bỏ qua các hoạt động chính trị để đi sâu vào việc trồng hoa tuylíp thì thu hút được bấy nhiêu cảm tình chan chứa.
Do đó, anh được các người giúp việc và các người thợ làm công rất yêu mến.
Tuy nhiên Cornélius Van Baerle cũng có một kẻ thù mà anh không biết, mối thù của tên này thì kín đáo sâu xa và dai dẳng, khác hẳn cách thù của các orangistes dữ dằn nhất đối xử với Corneille và Jean de Witt.
Vào lúc Cornélius bắt đầu quan tâm đến hoa tuylíp thì ở Dordrecht cũng có một người say mê như thế; hắn tên là Isaac Boxtel, một thị dân, nhà ở đối diện ngay với nhà của Cornélius; khi hắn bắt đầu trưởng thành cũng là lúc hắn bắt đầu yêu hoa.
Boxtel không có cái may mắn được giàu sang như Van Baerle. Bởi vậy phải thật vất vả, cố gắng và kiên nhẫn trăm đường hắn mới tạo dựng được cho mình ở quê nhà một mảnh vườn để trồng hoa.
Hắn đã cuốc xới theo hướng dẫn và đã ủ các luống hoa theo mức độ nóng mát khác nhau như sách của các nhà làm vườn căn dặn.
Isaac đo được nhiệt độ trong khung nhà kính của mình đúng sai đến một phần hai mươi của một độ. Do vậy các sản phẩm do hắn tạo ra bắt đầu được ưa chuộng. Nhiều người chơi hoa đến thăm vườn của hắn. Sau cùng Boxtel đã tung ra một loại hoa tuylíp lấy tên hắn. Thứ hoa này là một thành công; nó được xuất sang Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha; đến ông vua nước này là Alphonse VI đã bị truất khỏi kinh thành Lisbonne và về ẩn dật ở đảo Terceire lấy việc trồng hoa tuylíp làm thú vui, khi ngắm thứ hoa của Boxtel nói trên cũng phải khen "không phải là tồi".
Bỗng nhiên, một sự say mê tương tự cũng bắt đầu xâm chiếm tâm hồn Van Baerle. Anh liền tu sửa lại nhà ở Dordrecht, xây thêm một tầng ở nhà cũ trên sân; như vậy nhà lên cao đã giảm nóng được nửa độ và ngược lại cũng tăng từng ấy độ lạnh trong vườn của Boxtel.
Tuy nhiên anh láng giềng Isaac không coi điều tai hại trên là quan trọng. Van Baerle chỉ là một anh họa sĩ, nghĩa là một anh thuộc loại điên rồ cứ định tái hiện lên vải bằng cách bóp méo những cái diệu kỳ của thiên nhiên. Chẳng qua anh họa sĩ lên.thêm một tầng để xưởng vẽ của anh được thêm ánh sáng là quyền của anh ta chứ có gì đâu.
Vả lại, Boxtel nhận ra rằng nhiều nắng quá sẽ có hại cho hoa tuylíp; thứ hoa này mọc khỏe và rực rỡ với nắng ấm buổi sáng hay buổi chiều hơn là với nắng bỏng giữa trưa.
Thế là gần như hắn biết ơn Cornélius Van Baerle đã xây cái lọng che cho vườn hắn mà không tính tiền.
Chao ôi! Cái anh chàng Boxtel hẩm hiu ấy cụt hứng khi thấy hiện ra qua cửa kính của tầng mới xây nào củ, nào mầm, nào hoa, hoa trồng trên đất, hoa trồng trong chậu, thôi thì đủ thứ liên quan đến nghề nghiệp của một người trồng hoa tuylíp say mê cuồng tín.
Boxtel nhớ ra ngay con người thông thái kia có 400.000 florins tiền vốn, 10.000 florins tiền lãi, đã dùng hết khả năng về tinh thần và vật chất của mình để trồng đại trà hoa tuylíp. Hắn nhìn trước sự thành công của người này trong tương lai và hắn tái mặt vì ghen tị.
Vậy ra để chăm hoa của mình, Van Baerle đã lấy đi mất của Boxtel nửa độ nhiệt. Van Baerle sắp có một nơi đẹp nhất để hứng ánh sáng mặt trời; ngoài ra còn có một buồng rộng rãi, sáng sủa và thông gió để bảo quản củ và mầm tuylíp. Boxtel không thể nào có được một buồng như thế. Bó buộc hắn phải dùng ngay phòng ngủ của mình để làm một việc như thế. Gần đây hắn đành lên ngủ ở gian chứa lúa mì để tránh hơi người ngày đêm ở chung với mầm và củ sẽ làm hư hại chúng.
Như vậy, cửa đối cửa, tường đối tường, Boxtel sắp có một địch thủ và địch thủ này không phải là một người làm vườn tầm thường không ai biết đến, trái lại là con đỡ đầu của Cornélius de Witt, một người có tiếng tăm.
Như người ta có thể thấy được: khi đã say mê công việc, lại sẵn có trí thông minh trời phú, Van Baerle dễ dàng trồng được những bông hoa tuylíp đẹp nhất, đa dạn g về màu sắc, tạo được nhiều kiểu dáng và lai được nhiều giống khác nhau.
Van Baerle đạt được nhiều thành công, nhiều người nhắc đến tên anh khiến tên tuổi của Boxtel vĩnh viễn biến mất trong danh sách những người trồng hoa tuylíp kỳ cựu nhất của đất nước Hà Lan.
Do vậy phải xem xét Boxtel suốt trong thời kỳ này. Trong khi Van Baerle bón, xới, tưới các luống hoa, trong khi anh quỳ xuống bờ cỏ để phân tích từng gân hoa đang nở, suy ngẫm về sự thay đổi có thể làm được, về các màu sắc có thể thí nghiệm được thì Boxtel trèo lên núp trên cây thích trắng trồng dọc bờ tường, mắt căng ra, mồm nhúm lại,.theo dõi từng bước đi, từng cử chỉ một của Van Baerle và khi nhìn người bạn hàng xóm có vẻ vui tươi, hay khi bắt gặp trên môi hay trong mắt anh thoáng một nụ cười, hay một tia hạnh phúc là anh ta văng về phía nhà bạn những lời nguyền rủa hay dọa nạt giận dữ, khiến người ta không hiểu sao những hơi độc sặc mùi ghen tị và căm hờn kia thấm sâu vào các cây hoa lại không để lại ở đấy những nguyên nhân hay mầm mống của sự thoái hóa và cái chết.
Boxtel mua một cái ống nhòm tuyệt vời để theo dõi những tiến triển trong công việc tìm tòi và nghiên cứu của Van Baerle.
Ôi đã bao lần con người ghen tị khốn khổ kia trèo lên cây, thấy những bông hoa tuylíp nhà bên kia nở mà vẻ đẹp và sự hoàn hảo của chúng làm cho anh ta hoa mắt và nghẹt thở.
Thế là sau một thời gian chiêm ngưỡng không đừng được, hắn phát ốm vì ghen tức, cái ghen nó gậm nhấm người hắn, biến trái tim hắn thành muôn vàn con rắn nhỏ xoắn tít vào nhau, cắn xé lẫn nhau, đó là nguồn gốc gớm ghiếc của những đau đớn kinh hoàng.
Chính vào thời kỳ đó, hội những người trồng hoa tuylíp ở thành phố Harlem đặt một giải thưởng cho ai phát hiện - chúng tôi không dám nói cho ai trồng được - một bông hoa tuylíp màu đen, xin nhấn mạnh màu đen, thật là một vấn đề không dễ giải quyết thậm chí không tài nào giải quyết nổi vì hồi đó chưa có giống tuylíp nào màu nâu sẫm huống hồ màu đen.
Thế có nghĩa là các vị treo giải thưởng có thể đặt giải hai triệu hay một trăm nghìn livres cũng thế thôi, vì vấn đề coi như không ai làm nổi, tức không giật được giải.
Tuy nhiên không vì thế mà giới trồng hoa không xáo động.
Van Baerle thuộc hàng ngũ những người trồng hoa tuylíp quan tâm đến việc phát minh đó; anh bắt đầu chọn các hạt giống từ từ, cẩn thận và tiến hành các biện pháp cần thiết để chuyển màu những cánh hoa anh trồng từ trước đến nay, từ đỏ sang nâu và từ màu nâu non sang màu nâu sẫm.
Tới đầu năm sau, anh đã có được những bông hoa đúng màu nâu hoàn hảo trong khi Boxtel mới chỉ tìm thấy một màu nâu nhàn nhạt.
Boxtel bị địch thủ của mình bỏ xa liền chán công việc trồng trọt; hắn gần như điên dồn hết sức lực ra dò xét mảnh vườn hàng xóm để củ giống của hắn thối rữa trên luống ủ, để hoa của hắn tàn tạ trên luống ươm, để đời hắn qua đi khi chỉ nhìn.sang nhà bên không quan tâm gì khác ngoài những gì diễn ra ở bên ấy.
Chính vì vậy, hắn đã bắt gặp cuộc trao đổi giữa Corneille de Witt với người con đỡ đầu vào một ngày tháng giêng năm 1672.
Vào thời kỳ đó Corneille có đến nhà Van Baerle và muốn gặp riêng anh. Hai cha con dẫn nhau lên buồng sấy có cửa kính, nơi lúc nào Boxtel cũng chiếu ống nhòm nhìn sang. ở đấy, Corneille đã trao cho con đỡ đầu một gói đồ mà Boxtel nhanh chóng đoán ra rằng trong đó có những giấy tờ liên quan đến chính trị.
Kẻ ghen ăn không hề nhầm lẫn trong suy đoán của mình. Gói đồ của Ruart trao cho con đỡ đầu chính là những bức thư trao đổi giữa ông Jean và ông De Louvois người Pháp. Baerle đỡ lấy cẩn thận và ôm trên ngực.
Có điều Corneille không hề lộ cho Baerle biết đó là các tài liệu chính trị quan trọng, đúng như Corneille kể lại với người em trai mình.
Ông chỉ căn dặn con là chỉ được trao lại tận tay cho ông hoặc có chữ ký của ông còn tuyệt đối không đưa cho ai dù người đó có yêu cầu.
Và Cornélius đã cất gói đồ trong tủ đựng những mầm hoa quý hiếm.
Ông Ruart đi khỏi, đèn đã tắt và cửa đã đóng, Baerle không nghĩ đến gói đồ nữa. Trái lại, như một hoa tiêu lành nghề, Boxtel nhìn bọc gửi như một đám mây đen đằng xa đang lớn dần và chứa đựng trong nó sấm sét và bão táp.
Không biết chuyện gì nên Baerle yên tâm tiếp tục đi làm công việc của mình với mong muốn đoạt được giải thưởng của Hội trồng vườn Harlem. Anh đã qua được giai đoạn biến bông hoa tuylíp màu nâu sẫm sang màu cà phê rang; vào chính ngày ở La Haye xảy ra sự kiện khủng khiếp chúng tôi đã kể ở chương đầu thì một giờ trưa ở quê anh, Baerle nhấc những mắt mầm của một củ hoa màu cà phê rang lên khỏi lớp đất. Đến một ngày nào đó nhất định nó sẽ cho ra cây tuylíp có hoa màu đen vĩ đại.
Đúng ngày 20 tháng tám 1672, hồi một giờ trưa, Cornélius ở trong buồng sấy ngây ngất ngắm nhìn ba mắt mầm anh vừa tách ra khỏi củ hoa giống anh ươm. Vừa tách mầm anh vừa tự nhủ:
- Ta sẽ tìm ra giống hoa tuylíp đen. Ta sẽ đoạt giải thưởng trăm nghìn florins của Hội trồng vườn. Ta sẽ phân phát cho dân nghèo Dordrecht.
Người ta sẽ đặt tên con gái ta, con gái của những buổi ta thức thâu đêm, của công lao động miệt mài, của trí tuệ ta là gì nhỉ? Tulipa nigra barlaensis.
Barlaensis, một tên đẹp, được đấy! Cả châu Âu của hoa.tuylíp có nghĩa là cả châu âu trí tuệ sẽ giật mình khi tin này được tung ra bốn biển năm châu. hoa tuylíp đen vĩ đại! Tên nó là gì? Những người yêu hoa hỏi. - Tulipa nigra barlaensis - Sao gọi là Barlaensis? Vì người phát minh ra nó là Van Baerle, có người trả lời - Van Baerle là ai? - Đó là tên người đã tìm ra năm loại hoa mới; hoa Jeanne, hoa Jean de Witt, hoa Corneille v. v... Đó mới là tham vọng của ta. Nó không làm ai phải trả giá bằng nước mắt. Và có lẽ người ta còn nói đến hoa Tulipa nigra barlaensis khi cha đỡ đầu của ta, nhà chính trị lỗi lạc, còn được biết đến là do ta mượn tên ông đặt cho hoa. ôi! Những mầm giống này mới đẹp làm sao!
Thế là Cornélius thích thú ngắm nghía những mắt mầm hoa; Cornélius đắm mình trong những mộng mơ đẹp đẽ.
Bỗng nhiên chuông ở buồng anh kêu gấp gáp.
Baerle giật mình, úp tay lên mấy mắt hoa rồi ngoái đầu lại hỏi:
- Ai ngoài đó?
- Thưa ông, tôi là Craeke ạ.
- Craeke ở nhà ông Jean đấy hả? Được! Chờ một tí.
- Thưa, tôi không thể chờ được.
Cùng lúc bất chấp tập tục, Craeke nhảy xổ vào buồng sấy.
- Chết chửa! - Cornélius nói. - Có chuyện gì thế Craeke?
- Thưa ông, có chuyện, - Craeke vừa đặt một mảnh giấy lên chiếc bàn rộng vừa nói. - ông đọc ngay giấy này đi cho.
Vì Craeke cho rằng ở Dordrecht mình cũng thấy những dấu hiệu hỗn loạn như ở La Haye liền chuồn ngay không ngoái cổ lại.
- Được! Được, ta sẽ đọc ngay đây. - Cornélius nói.
Đúng lúc ấy, cánh cửa buồng sấy lay chuyển rất dữ rồi bật tung, Cornélius đỏ mặt tía tai quát:
- Gì thế nữa! Nhà này điên cả rồi hay sao?
- Thưa ông, thưa ông! - Một gia nhân chạy vội vào, mặt tái mét vì sợ còn hơn cả Craeke lúc nãy.
- Gì thế? - Cornélius hỏi. Lúc này anh cũng cảm thấy một tai họa.
- Dạ, xin ông chạy trốn ngay, chạy trốn mau lên! - Người đày tớ nói.
- Trốn, làm sao phải trốn?
- Thưa ông, quân chính phủ đến đầy nhà.
- Họ muốn gì?
- Họ tìm bắt ông..- Bắt ta?
- Thưa ông đúng vậy. Có một viên quan hành chính đi trước.
- Thế nghĩa là gì? - Van Baerle vừa hỏi vừa nắm chặt hai mắt mầm hoa; anh hốt hoảng nhìn ra cầu thang.
- Họ lên đấy ạ. - Người đày tớ nói to.
- ôi! Cậu ơi! Cậu ơi! - Đến lượt người vú nuôi chạy vào nói. - Xin cậu lấy tiền vàng, lấy tư trang chạy đi, chạy đi mau lên!
Vừa lúc đó, qua các chắn song cầu thang người ta thấy những mũi nhọn của giáo mác binh lính nhô lên.
Về phần Cornélius Van Baerle, điều quan tâm duy nhất là những mắt mầm hoa quý giá.
Anh đưa mắt nhìn quanh xem có mảnh giấy nào không để gói chúng nhưng chỉ thấy có tờ giấy từ sách Kinh Thánh xé ra do Craeke để lại; anh cầm lấy song vì tinh thần rối loạn anh không nhớ ra tờ giấy ấy ở đâu ra. Anh lấy ba mắt mầm củ hoa gói lại, giấu trong ngực và đứng đợi. Các binh lính do viên quan hành chính đi đầu cùng lúc bước vào.
- ông có phải là bác sĩ Cornélius van Baerle không?
- Viên quan hỏi mặc dầu biết rõ người mình hỏi là ai, nhưng làm vậy là ông tiến hành đúng luật định?
- Thưa ngài Van Spennen, chính là tôi, ngài thừa biết tôi là ai. - Van Baerle nói, rồi cúi chào ông thẩm phán một cách lịch sự.
- Thế thì ông hãy đem nộp ra đây những giấy tờ phản loạn ông cất giấu trong nhà.
- Thưa ngài Van Spennen. - Cornélius trả lời.
- Tôi cam đoan với ngài tôi hoàn toàn không hiểu ý ngài nói gì.
Viên quan nói:
- Thế thì tôi nói ông rõ: ông hãy nộp những giấy tờ của tên phản bội Corneille de Witt gửi ở nhà ông tháng giêng năm trước.
Cornélius chợt hiểu ra.
- ồ ! ồ ! - Van Spennen nói tiếp, - ông nhớ ra rồi có phải không?
- Có lẽ thế, nhưng ngài bảo là giấy phản loạn thì tôi không có thứ giấy ấy.
- à, thế ông chối à?
- Tôi không chối, tôi chỉ không công nhận.
Viên quan quay người nhìn khắp gian buồng một lượt.
- Buồng nào ở nhà ông gọi là buồng sấy? -Viên quan hỏi.
- Chính buồng này đây, thưa ngài.
Viên quan liếc nhìn tờ giấy con cầm trong tay..- Thế thì được. - ông nói kiểu người hiểu rõ công việc mình làm.
Ông quay sang nhìn Cornélius.
- ông có nộp cho tôi những giấy tờ đó không?
- Thưa ngài Van Spennen, tôi không thể làm thế được. Những giấy tờ đó không phải của tôi, đó là giấy tờ người ta gửi mà đã là đồ gửi là đồ thiêng liêng.
- ông Cornélius! - ông thẩm phán nói. - Lấy danh nghĩa Nhà nước tôi ra lệnh cho ông mở tủ nộp các giấy tờ cất trong đó.
Ông thẩm phán chỉ ngăn kéo thứ ba ở chiếc tủ kê gần lò sưởi.
Quả nhiên trong ngăn kéo có gói đồ của Ruart de Pulten gửi con đỡ đầu giữ hộ, điều đó chứng tỏ cảnh sát đã được báo rõ ràng.
Thấy Cornélius đứng im vì ngạc nhiên, Van Spennen nói:
- ông không định giao hả? Tôi sẽ tự mở lấy.
Mở hết ngăn kéo ra, trước tiên viên quan trông thấy chừng hai mươi củ hoa được sắp xếp và ghi ký hiệu cẩn thận; rồi đến bọc gửi để đúng nguyên tình trạng như khi cha đỡ đầu ngày thất bại gửi con Van Baerle cất giữ.
Viên quan bẻ xi gắn, xé bì bọc, hau háu nhìn những trang giấy đầu tiên hiện ra trước mặt rồi nói to một câu nghe khiếp sợ:
- A! Tin báo cho cảnh sát không phải là một tin bịa đặt.
- Thế nào! Tin báo gì? - Cornélius hỏi.
Viên quan nói:
- Thôi đi ông Van Baerle ạ! Đừng có giả vờ nữa. ông hãy theo tôi.
- Thế này là thế nào, sao tôi phải theo ông? -Bác sĩ kêu lên.
- Phải! Lấy danh nghĩa Nhà nước, tôi bắt ông.
- Bắt tôi? - Cornélius kêu lên. - Tôi phạm tội gì kia chứ?
- Điều đó không liên quan đến tôi, ông bác sĩ ạ. ông sẽ được giải thích trước tòa.
- Tòa nào?
- Tòa án thành phố La Haye.
Cornélius ngạc nhiên, ôm hôn người vú nuôi, bắt tay các gia nhân, rồi theo viên quan lên xe chở tù của Nhà nước; viên quan cho xe chạy nước đại dẫn anh về La Haye..
Những điều vừa xảy ra là kết quả của việc làm quỷ quái của Isaac Boxtel.
Vốn chú ý theo dõi tình hình chính trị hơn người bạn láng giềng Cornélius nên khi hay tin Cor-neille de Witt bị bắt vì tội phản quốc Boxtel hiểu ngay rằng chỉ cần nói một câu là cả cha nuôi lẫn con đỡ đầu sẽ cùng bị bắt một lúc. Mặt khác, Boxtel không lạ gì Van Baerle đang trên đường thành công trong việc tìm tòi tạo giống hoa tuylíp mới màu đen. Nếu Cornéille bị bắt, chắc chắn việc đó sẽ gây nên rối loạn lớn trong gia đình anh. Sau đêm anh bị bắt, sẽ không người nào còn nghĩ đến chuyện chăm sóc hoa tuylíp trong vườn nữa.
Vào chính đêm đó, hắn nghĩ sẽ leo tường vào nhà Baerle. Biết trước chỗ củ ươm hoa tuylíp đen nằm ở đâu, hắn sẽ đến thẳng chỗ ấy lấy: thay vì hoa nở ở nhà Cornélius, bông hoa màu đen sẽ kh sắc ở nhà hắn và chính hắn không những sẽ đoạt giải thưởng một trăm nghìn florins mà còn được hưởng vinh dự lớn lao đặt tên cho hoa là Tulipa nigra Boxtenlensis.
Một mũi tên nhằm hai mục đích: vừa trả được thù riêng, vừa thỏa được lòng tham nặng túi.
Để thực hiện, hắn viết một thư nặc danh chính xác đến từng chi tiết rồi gửi qua bưu điện.
Ngay chiều hôm đó, viên quan thanh tra đầu ngành nhận được thư Boxtel, hắn lập tức triệu tập các đồng sự. Sáng hôm sau họ họp quyết định bắt giam và trao lệnh cho thẩm phán Van Spennen thi hành; ông này đã làm đúng phận sự như chúng ta thấy.
Song hoặc vì hổ thẹn hoặc vì yếu bóng vía sợ việc tày đình, Boxtel không dám chĩa ống nhòm sang nhà Van Baerle ngày hôm đó. Hắn thừa biết chuyện gì xảy ra bên nhà Van Baerle kia rồi nên không cần phải ngó ngàng gì nữa.
Vào khoảng chín giờ sáng, hắn giật mình khi nghe thấy có tiếng ồn ào ngoài phố. Một người hầu chạy vào hí hửng báo tin cho chủ, hắn kêu lên:
- Thưa ông chủ, ông không biết điều gì đang xảy ra sao?
- Làm sao ta biết được. - Boxtel trả lời khẽ nghe không rõ..- ông Baerle bị bắt rồi, người ta tống ông lên xe chở đi La Haye rồi.
- Đi La Haye?
- Vâng, nếu đúng như vậy thì nguy to cho ông ta đấy.
- Thế người ta nói gì? - Boxtel hỏi.
- Trời ơi! Người ta kể rằng vào giờ này có lẽ hai ông Cornéille và Jean de Witt đang bị các thị dân sát hại.
- ôi! - Boxtel lẩm bẩm, hắn nhắm mắt lại như để không nhìn thấy cái cảnh hãi hùng đang diễn ra trước mắt hắn.
Quả vậy, Isaac Boxtel phát ốm như chính mình đã giết chết một ai.
Đúng vậy, hắn đã giết chết người đó nhằm hai mục đích mà mục đích thứ nhất đã đạt, bây giờ tính đến mục đích thứ hai phải thực hiện.
Đêm đến, cái đêm mong đợi của Boxtel đã đến.
Hắn đã tính toán kỹ: không ai nghĩ đến chuyện canh gác khu vườn. Nhà cửa, gia nhân đều bị đảo lộn lung tung. Trong vườn, thảy đều im ắng. Không một tiếng động có thể phá tan sự im lặng.
Hắn vắt chân qua tường, ngồi nghỉ một lúc trên đó rồi khi tin chắc không có gì đáng sợ, hắn rút chiếc thang bên tường nhà hắn, kéo qua, đặt sang vườn nhà Cornélius rồi nhẹ nhàng tụt xuống từng bậc.
Vì biết rõ luống Baerle đặt các mầm giống hoa tuylíp đen sau này ở đâu, hắn chạy thẳng đến đó, đến đúng chỗ hắn sục tay vào chỗ đất mềm, tìm.
Hắn chẳng thấy gì, tưởng mình nhầm lẫn. Mồ hôi vã ra.
Suýt nữa hắn phát rồ khi nhận ra chỗ đất này đã bị bới đào ngay sáng hôm nay.
Thật vậy, Cornélius đã bới lấy củ giống lên như chúng ta đã biết và chia ra làm ba mầm giống.
Bỗng nhiên, một tia hy vọng cuối cùng lóe sáng trong đầu óc tên ăn trộm.
Chắc là các mầm được cất trong buồng sấy.
Vậy là hắn lại mò vào đấy như lúc nãy vào vườn. ở đấy, chắc sẽ tìm thấy.
Thật ra không có gì khó. Các cửa kính ở buồng sấy được nâng lên dễ như bỡn. Thang đặt vừa đúng tầm khung cửa sổ. Boxtel nhét chiếc đèn ló vào túi, trèo lên thang và nhảy vào buồng.
Trong nhật ký ghi chép của Baerle thấy có những dòng chữ sau đây: "Hôm nay là ngày 20 tháng tám 1672, tôi đào củ hoa tuylíp lên và tách được ba mắt hoa hoàn hảo"..- Này mầm! Này củ! - Boxtel lật, phá, đạp đổ lung tung trong buồng sấy rồi kêu lên: - Nó giấu ở đâu, ở đâu kia chứ?
Rồi bỗng nhiên hắn vỗ trán:
- ôi! Mình ngốc thật! - Hắn kêu lên. - Có khi nào người ta bỏ mầm củ của mình lại mà ra đi không, nhất là mầm củ đó lại của hoa tuylíp đen?
Đúng, cái thằng khốn kiếp đã kịp lấy chúng mang theo đi rồi! Nó giắt trong mình nó, nó tha lên La Haye rồi.
Trong giây lát Boxtel nhận thấy tai họa mình gây ra chẳng mang lại lợi ích gì.
- Đã thế thì được! - Tên thèm khát của người ngửng bộ mặt tím nhợt của mình lên nói. - Nếu nó giắt trong người thì nó còn là củ giống còn và...
ý nghĩ tiếp theo của hắn thể hiện bằng một nụ cười khủng khiếp:
- Nếu mầm đã để ở La Haye, - hắn nói. - thì ta không thể nào sống được ở Dordrecht nữa.
Nghĩ thế, hắn trèo qua cửa sổ, xuống thang rồi lẩn về nhà, lòng đầy tức giận.
Vào nửa đêm, có người gõ cửa nhà tù Buytenhof hay đúng hơn làm động hàng rào chắn thay cửa nhà tù.
Đó là người ta dẫn Cornélius Van Baerle đến.
Khi người cai ngục "tiếp đón ông khách mới" và đọc lý lịch trên giấy giao nhận tù thì hắn mỉm cười nói khẽ: à, anh bạn, ở đây ta có căn buồng ấm cúng dành cho anh đây.
Thích thú với lời bông phèng vừa nói, tên orangiste dữ tợn cầm chiếc đèn lồng và chùm chìa khóa dẫn Cornélius vào chính buồng giam Corneille de Witt vừa rời khỏi sáng nay.
Năm phút sau, hắn bước vào nhà ngục.
Sau khi chỉ cho người tù chiếc giường của anh ta, chính chiếc giường người cha đỡ đầu của anh bao lâu đã nằm đau đớn ê chề trước khi trút hơi thở cuối cùng để đi gặp Chúa vào sáng nay, Gryphus cầm lấy cây đèn ra khỏi buồng giam.
Trơ lại một mình, Cornélius nằm vật xuống giường nhưng anh không ngủ.
Khi trời sáng, những tia nắng sớm rọi xuống các mái nhà óng ánh như tráng bạc, Cornélius sốt ruột muốn biết cảnh vật nơi mình sống ra sao, liền tiến lại gần cửa sổ.
Anh nhận ra cái giá treo cổ ở đằng đầu phố.
Trên giá còn lủng lẳng hai thân hình người không còn nguyên vẹn, hai bộ xương còn lằng nhằng thịt và máu..Cornélius thất đảm kêu lên và vô cùng sợ hãi.
Anh dùng cả chân và tay lay cửa dữ dội khiến Gryphus giận dữ chạy tới, chùm chìa khóa to tướng trong tay.
Hắn vừa mở cửa, vừa chửi bới om sòm anh tù đã quấy rầy hắn vào đúng cái giờ hắn về nghỉ sau khi đã đi tuần kiểm tra xong.
- Thưa ông, thưa ông! - Cornélius bíu chặt lấy tay viên cai tù nói. Rồi kéo hắn ra gần cửa sổ nói tiếp. - Cái gì đằng kia, thế ông?
Anh run sợ chỉ cái giá treo cổ.
Gryphus cười lên hô hố:
- à! à! - Hắn trả lời. - Này anh bạn, đó là điểm người ta sẽ tới khi người ta có những mối liên lạc mật thiết với những kẻ thù của Hoàng tử Guillaume d’Orange đấy, anh bạn không biết à?
- Các ông De Witt bị ám hại cả rồi! - Cornélius vừa lẩm bẩm, vừa để rơi người xuống giường.
- Các ông De Witt chịu hình phạt công minh của nhân dân chứ! Anh nói thế mà nghe được à? - Gryphus nói. - Tôi, tôi bảo là phải chém đầu mới đúng.
Bỏ mặc người tù rã rời cả chân tay, hắn bước ra khỏi buồng giam, khóa cửa lại, tiếng kêu loảng xoảng.
Khi tĩnh tâm, Cornélius cảm thấy mình đơn độc và nhận ra nơi mình bị giam giữ là ở đâu.
Là người có triết lý sống, nhưng trước nhất là một người ngoan đạo nên việc làm đầu tiên của anh là cầu nguyện cho linh hồn cha đỡ đầu và linh hồn vị đứng đầu bảy Tỉnh Hợp nhất vĩ đại trước kia được yên nghỉ.
Sau khi bước xuống đất và chắc chắn chỉ có mình mình trong buồng giam, anh mới lấy trong ngực ra ba mắt mầm hoa tuylíp đen và đem giấu sau viên đá sành xưa nay vẫn đặt chiếc hũ, cũng là nơi tối nhất trong buồng giam. Thế là bao nhiêu năm tháng miệt mài vô ích!
Thế là bao nhiêu hy vọng êm đềm sụp đổ! Sự tìm tòi của anh rồi đi đến số không như cuộc đời anh đi đến cái chết mà thôi.
Nghĩ vậy, Cornélius cảm thấy tuyệt vọng.
Tuy nhiên, một ngẫu nhiên vô cùng sung sướng đối với anh nhưng lại vô cùng khốn khổ đối với viên cai ngục là anh may mắn được tiếp xúc với cô con gái của tên này. Bởi vì, ngay đêm đó khi mang cơm tù đến cho Cornélius, Gryphus đã trượt chân trên sàn đá ướt và bị gãy tay.
Những tiếng kêu ầm ĩ khiến Rosa chạy đến.
Cô hơi ngạc nhiên thấy Cornélius săn sóc cha mình đang ngất xỉu.
- Cám ơn ông đã giúp đỡ. - Cô nói..- Tôi chỉ làm bổn phận của người thờ Chúa, giúp đỡ đồng loại của tôi như Chúa bảo.
- Vâng, sự giúp đỡ của ông đêm nay chứng tỏ ông đã bỏ qua những lời mắng nhiếc của cha tôi sáng nay.
Cornélius ngước mắt nhìn cô gái xinh xắn; nhưng anh chưa kịp bày tỏ sự ngạc nhiên, Gryphus đã mở mắt.
Cornélius bảo Rosa đi tìm băng, nẹp. Cornélius đặt chiếc tay gãy của Gryphus lên bàn và so cho thẳng. Rồi với một sự thành thục hoàn hảo, anh nắn chỗ gãy, đặt hai kẹp gỗ lên rồi băng lại, người cai ngục thì đã ngất xỉu.
- Cô đi kiếm ngay dấm thanh cho tôi! -Cornélius nói. - Để tôi đánh gió cho ông.
Nhưng Rosa không làm ngay theo yêu cầu; chắc chắn cha mình chưa tỉnh ngay nên cô tiến lại gần Cornélius.
- Thưa ông! - Cô nói. - Tôi xin lấy ân trả ân.
- Thế nghĩa là thế nào, cô bé? - Cornélius hỏi.
- Có nghĩa là, thưa ông, tôi không thể nào cứu được ông Corneille và ông Jean de Witt nên chao ôi! Tôi muốn cứu ông. Nhưng ông phải nhanh lên, cha tôi thở lại rồi kia kìa; có lẽ phút chốc nữa ông mở mắt thì muộn mất. ông còn lưỡng lự sao?
Thật thế, Cornélius đứng ngây như phỗng. Anh nhìn Rosa, nhưng anh nhìn mà như không nghe thấy nàng nói.
- ông không hiểu ư? - Cô gái sốt ruột hỏi.
- Có chứ, tôi hiểu. - Cornélius trả lời. - Nhưng...
- Nhưng gì?
- Tôi chịu thôi. Người ta khép tội cô mất.
- Mặc xác người ta. - Rosa đỏ mặt nói.
- Rất cám ơn cô! - Cornélius nói tiếp. - Nhưng tôi ở lại đây, không trốn.
- ông ở lại! Trời ơi là trời! ông không biết rồi ông sẽ bị kết án sao?... Kết án tử hình, lên đoạn đầu đài và sẽ bị giết chết, xé ra muôn ngàn mảnh như người ta đã làm với hai ông Corneille và Jean đó ư?
- Gì thế? - Tên cai ngục tỉnh dậy hỏi. - Đứa nào vừa nói đến hai tên vô lại ấy đấy?
- Xin ông đừng nóng, ông bạn tử tế ạ! -Cornélius mỉm cười nói. - Gãy xương mà nổi nóng là không tốt đâu.
Rồi anh khẽ nói với Rosa.
- Cô em ạ, tôi là người vô tội, tôi bình tĩnh, sự bình tĩnh và êm ả của người vô tội chờ tòa án xét.
- Im lặng, em xin ông! - Rosa nói nhỏ.
- Tại sao lại phải thế?.- Không nên để cha em biết chúng ta đã nói chuyện với nhau.
- Xấu ở chỗ nào?
- ở chỗ nào ư? Cha em sẽ cấm không cho em lại đây nữa. - Cô gái nói.
Cornélius mỉm cười trước sự thổ lộ ngây thơ của cô gái. Hình như có chút ít hạnh phúc vừa vương vấn làm anh mát lòng.
Rosa không hề nhầm. Hôm sau các thẩm phán đến Buytenhof hỏi cung Cornélius. Cuộc hỏi cung không lâu, họ thấy rõ ràng là Cornélius đã cất giữ ở nhà anh tập thư chết người liên lạc với Pháp của hai ông De Witt.
Anh không hề chối, anh còn kể rõ việc gửi gắm đã xảy ra như thế nào và trong hoàn cảnh nào.
Sự thú nhận đó tuy nhiên chứng tỏ Van Baerle có dính líu đến tội phạm của người cha đỡ đầu. Hiển nhiên là có sự đồng lõa giữa Corneille và Cornélius.
Cornélius không chỉ thú nhận đến đấy, anh còn nói rõ tất cả sự thật về những thiện cảm, những thói quen, những mối quan hệ thân mật của anh.
Anh nói anh không quan tâm đến chính trị, anh chỉ say mê nghiên cứu, say mê nghệ thuật, say mê khoa học và say mê các loài hoa. Anh kể rằng từ ngày Corneille đến Dordrecht và gửi anh tập thư, anh không hề ngó ngàng tới tập thư đó.
Người ta bác bỏ ý kiến của anh với lý do: anh bảo là anh vô tình với những giấy tờ quan trọng nhường ấy là vô lý, vì một khi cha đỡ đầu đã trao tận tay cho anh một bọc giấy như thế thì không thể nói là anh không biết tầm quan trọng của nó được.
Anh đáp lại:
- Các ông hỏi tôi những điều không có gì để phải trả lời, ngoại trừ có mỗi một sự thật phải nói. Đó là gói thư đến nhà tôi bằng con đường tôi đã vừa kể trên; tôi thề trước Chúa tôi không biết nội dung các bức thư, đến tận bây giờ tôi vẫn còn chưa biết nội dung; chỉ đến ngày bị bắt tôi mới biết gói đó là thư từ trao đổi giữa ông Jean de Witt và ông hầu tước De Louvois. Sau cùng tôi cam đoan là tôi không hiểu tại sao người ta biết gói thư đó ở nhà tôi và nhất là làm sao tôi có thể là can phạm được khi tôi nhận thư của cha đỡ đầu tôi gửi.
Đó là tất cả những điều biện hộ của Cornélius.
Các thẩm phán đệ trình lên chính quyền xem xét.
Kết quả không nghi ngờ chút nào là ông hoàng Stathouder có lẽ sẽ biết ơn vô cùng tổ chức quan tòa La Haye đã giúp ông bớt chuyện rắc rối trong việc trị an Bảy tỉnh bằng cách diệt tận gốc mọi mầm mống chống đối uy quyền của ông..Lý lẽ ấy giá trị hơn tất cả các lý do khác và cốt để triệt tận gốc mọi mầm mống chống đối, án tử hình đã được nhất trí thông qua.
Bản án được kèm theo phụ lục là tên Cornélius Van Baerle kể trên sẽ bị dẫn từ nhà tù Buytenhof đến đoạn đầu đài dựng ngay ở quảng trường cùng tên để thi hành án.
Vì nghị quyết đó là quan trọng nên đã được cân nhắc thảo luận trong nửa giờ, trong lúc đó tù nhân được đưa trả về buồng giam cũ.
Chính ở nơi đó viên lục sự Nhà nước đến đọc quyết định của tòa án.
Cai ngục Gryphus bị nằm liệt giường không dậy được do vết thương. Một nhân viên cấp dưới của hắn được trao cho chùm chìa khóa, dẫn viên lục sự đến buồng giam. Rosa, cô gái xinh đẹp tỉnh Frisonne theo sau. Cô đứng ngoài cửa, tay cầm chiếc mùi soa đưa lên miệng để bịt những tiếng thở dài và thổn thức của cô.
Cornélius nghe đọc phán quyết, anh ngạc nhiên hơn là sầu não.
- Việc đó, thưa ông lục sự, bao giờ được tiến hành xin ông cho biết. - Cornélius nói.
- Ngay ngày hôm nay. - Viên lục sự trả lời.
Hắn hơi lúng túng trước sự bình tĩnh cao độ của người tử tù.
Một tiếng nức nở sau cánh cửa.
- Lúc mấy giờ? - Cornélius hỏi tiếp.
- Vào buổi trưa, thưa ông.
Cornélius nói:
- Trời ơi! Nghe như đã mười giờ rồi; chỉ còn ít nhất hai mươi phút, ta không thể dềnh dàng được nữa.
- Vâng, để ông kịp chuẩn bị đi gặp Thượng đế.
- Viên lục sự vừa nói vừa cúi rạp mình chào Cornélius.
- ông có thể xin mục sư nào ông vừa ý. Nói xong hắn giật lùi đi ra. Người thay thế cai ngục theo sau để tiễn hắn. Vừa hay lúc đó, Cornélius nhận ra bộ mặt đầm đìa nước mắt và đôi mắt trong xanh của cô gái xinh đẹp Rosa.
Cô gái hai tay chắp trước ngực tiến lại gần Cornélius.
- Thưa ông, tôi đến xin ông ra ơn cho một điều. - Rosa ngước mắt lên nhìn Cornélius nói.
- Đừng khóc như vậy, em! - Người tù nói. -Em khóc làm tôi đau lòng hơn việc tôi sắp phải chết. Thôi đi nào, đừng khóc nữa, hãy nói cho tôi biết em muốn gì nào, hỡi em Rosa xinh đẹp!
- Xin ông tha lỗi cho cha em! - Cô gái nói.
- Cho cha em? - Cornélius ngạc nhiên hỏi.
- Vâng, cha em đối xử với ông quá tệ! Không thương người là bản chất của ông.
- ông sẽ bị trừng phạt, cô Rosa ạ, tôi tha thứ cho ông ấy.
- Cám ơn ông! - Rosa nói. - Bây giờ đến lượt em, em có thể giúp được gì cho ông, ông nói đi.
- Cô có thể lau khô nước mắt của cô đi cho tôi được rồi đó, cô bé ạ.
- Không, không phải thế, phải là giúp ông, giúp ông cơ!
- Một người chỉ còn một tiếng đồng hồ sống trên đời mà còn cần có thêm một thứ gì nữa là một người xa hoa đấy, cô Rosa thân mến ạ!
- Về việc tìm cho ông một mục sư, ông nghĩ sao?
- Suốt đời tôi thờ phụng Chúa, Rosa ạ. Tôi thờ Chúa qua các sáng tạo của Người, qua ý chí của Người, Người không ghét bỏ tôi do đó tôi không cần phải có mục sư. ý nghĩ cuối cùng của tôi là ca ngợi Chúa. Thương tôi, cô hãy giúp tôi làm trọn ý nguyện đó.
- ôi! Thưa ông Cornélius, xin ông nói đi, ông hãy nói đi! - Cô gái nước mắt đầm đìa, tha thiết nói.
- Tôi đã nhìn em, em Rosa ạ, tôi nhìn em với con mắt vốn có của tôi nhưng tôi cũng nhìn em với con mắt của tâm hồn tôi. Chưa bao giờ có một phụ nữ nhan sắc hơn, một tâm hồn trong trắng hơn đã đến với tôi như thế; và nếu từ lúc này trở đi, tôi không nhìn em nữa thì xin em hãy tha lỗi cho tôi vì sắp phải lìa đời, tôi không muốn có gì để phải thương tiếc trên đời này nữa.
Rosa giật mình. Cornélius vừa nói tới đó, trên gác canh chuông điểm mười một giờ.
- Phải rồi, phải rồi, chúng ta mau lên! -Cornélius vừa nói vừa chỉ cho cô tờ giấy bọc ba cái mắt mầm giống.
- Cô bạn nhỏ bé của tôi ơi, - anh nói. - tôi rất yêu quý các loài hoa. Đó là vào cái thuở tôi không biết người ta còn có thể yêu thứ gì khác nữa ngoài yêu hoa. ôi, em đừng e thẹn, em đừng quay mặt đi, em Rosa, dù tôi có nói tôi yêu em, điều đó cũng không làm thay đổi được gì, ở đằng kia, trên quảng trường Buytenhof, và sáu mươi phút nữa có một lưỡi thép sẽ thắng một thằng liều lĩnh là tôi.
Vậy là, em Rosa ạ, tôi đã yêu hoa, và tôi đã tìm thấy, hay ít ra là tôi cho rằng tôi đã tìm thấy cái bí mật tạo ra hoa tuylíp đen, cái đích của phần thưởng một trăm nghìn florins do Hội trồng vườn Harlem trao cho người trúng giải. Một trăm nghìn florins tôi có trong giấy gói kia. Nó là giá của ba mầm hoa được giải, em có thể cầm lấy, em Rosa, vì tôi tặng cho em..- ôi, ông Cornélius!
- ồ, em có thể cầm lấy, em có làm thiệt ai đâu mà sợ vì tôi chỉ có một mình trên đời này thôi.
- Nhưng thưa ông, những một trăm nghìn flo-rins...
- Em thân mến, - Cornélius nói. - một trăm nghìn florins là của hồi môn xứng với sắc đẹp của em, chắc chắn em sẽ nhận được số tiền đó vì tôi tin chắc vào các mầm hoa của tôi. Đổi lại, tôi chỉ yêu cầu em có một điều; hãy lấy một chàng trai chung thủy, trẻ đẹp mà em yêu mến và cậu ấy yêu em, Rosa, đừng ngắt lời tôi, vì tôi chỉ còn vài phút.
Cô gái đáng thương cố kìm những tiếng nấc.
Cornélius nắm lấy tay cô.
- Em hãy nghe tôi! - Anh nói tiếp. - Em sẽ làm theo cách sau đây, em đến Dordrecht hỏi anh Bu-truysheim làm vườn cho tôi đâu là thứ đất mùn ở luống thứ sáu, em lấy một ít đem về giâm ba mầm hoa vào đấy; đến tháng năm tới nó ra hoa nghĩa là bảy tháng nữa khi thấy có hoa, ban đêm em che cho hoa khỏi gió, ban ngày cho khỏi nắng. Hoa sẽ nở màu đen, chắc chắn như vậy. Đến lúc đó em sẽ báo cho ông chủ tịch Hội trồng vườn ở Harlem biết. ông sẽ cho hội đồng đến kiểm tra và em sẽ được nhận thưởng một trăm nghìn florins.
Rosa thở dài rất nặng nề.
Cornélius nói tiếp:
- Bây giờ tôi không mong gì thêm nữa, ngoại trừ em đặt giùm tên cho hoa là Rosa Barleansis, nghĩa là gồm cả tên em và tên tôi. Em có thể quên tên đó nên em hãy đưa giấy và bút chì, tôi ghi lại cho.
Rosa bật òa lên khóc và đưa cho anh một quyển sách gáy da có ba chữ cái C. W.
- Thế này là thế nào? - Người tù hỏi.
- Chao ôi! - Rosa đáp. - Đó là quyển Kinh Thánh của cha đỡ đầu của anh, ngài Corneille de Witt. Em thấy để trong buồng này. ông muốn viết gì, xin ông cứ viết vào đấy. Mặc dầu em chưa biết chữ, em vẫn thực hiện bằng được ý muốn của ông.
Cornélius cầm lấy quyển sách, kính cẩn đưa lên môi hôn.
- Tôi viết bằng gì bây giờ? - Anh hỏi.
- Trong sách có gài bút chì. - Rosa nói. - Nó vẫn ở đấy, em giữ nó cẩn thận.
Đó là cây bút của ông Jean de Witt cho ông mượn và đã quên không lấy lại.
Cornélius cầm bút và rắn rỏi viết:
"Hôm nay là ngày 23 tháng tám 1672, mặc dầu vô tội tôi vẫn sắp phải lên đoạn đầu đài. Tôi để lại cho cô Rosa Gryphus của cải duy nhất của.tôi còn lại trên đời này vì các thứ khác đã bị tịch thu hết. Đó là ba mầm giống hoa tuylíp của tôi.
Tôi đã nói cho cô Rosa biết tôi cho cô cả. Tôi tin tưởng sâu sắc đến tháng năm sang năm, ba mầm giống này sẽ đơm hoa, một loại hoa mới kỳ lạ nhất, hoa tuylíp đen, đích cuối cùng của giải thưởng một trăm nghìn florins do Hội làm vườn Harlem trao cho người sáng tạo ra nó. Nhưng đến lúc đó tôi không còn trên đời này nữa nên tôi muốn cô Rosa thay tôi nhận giải thưởng đó với danh nghĩa người thừa kế duy nhất của tôi với điều kiện cô phải lấy một người chồng yêu cô xấp xỉ tuổi tôi và được cô yêu; cô có bổn phận khác nữa là đặt tên cho loại hoa mới này là Rosa Barlaensis, có nghĩa là tên cô và tên tôi hợp lại.
Cầu xin Chúa ban cho tôi được ơn lành và cho cô được hạnh phúc.
Cornélius Van Baerle" Rồi đưa sách cho Rosa anh nói:
- Em đọc đi.
- Em đã nói với ông rồi, em không biết đọc.
Cornélius liền đọc cho Rosa nghe bản di chúc anh vừa viết.
Cô gái càng khóc nức nở, vừa hay có tiếng chân nặng nề bước lên cầu thang kèm theo những tiếng ồn ào và tiếng chó sủa.
Rosa xoắn tay lại kêu lên:
- Người ta đến bắt ông rồi. Trời ơi, trời ơi!
Ông còn điều gì phải nói với em nữa không?
Cô ngã quỵ xuống, tiếng khóc nghẹn ngào.
- Em nhớ phải cất cẩn thận ba mầm giống kia, chăm sóc nó theo lời tôi chỉ dẫn, em hãy làm cho tôi, vì tôi, Rosa nhé. Thôi, vĩnh biệt Rosa.
Không ngẩng đầu lên, Rosa nói:
- Em xin hứa. ồ! Vâng, em sẽ làm tốt điều ông dặn. - Cô nói tiếp. - Còn việc em lấy chồng, ôi, việc đó em chịu thôi. - Nói đoạn, nàng cất vào nịt vú ba mầm hoa quý giá của Cornélius.
Những tiếng động lúc nãy Cornélius nghe thấy là của viên lục sự, của tên đao phủ, của lính canh gác đoạn đầu đài và của những kẻ tò mò ở quanh nhà thờ xưa nay, vẫn quen thói đi theo xem.
Khi Cornélius theo lính gác dẫn giải xuống cầu thang, anh đảo mắt nhìn quanh tìm Rosa, nhưng qua làn gươm giáo tua tủa xung quanh anh chỉ thấy một thân hình mảnh dẻ nằm sóng soài cạnh chiếc ghế gỗ và mớ tóc dài xõa quanh gần như che kín mặt..
Cornélius không đi đến ba trăm bước đã đến đoạn đầu đài.
Đường đi càng ngắn, người xem càng chật, càng đông.
Đó là những kẻ tò mò, ba ngày trước đây, đã thú vị xem máu chảy của hai ông De Witt, giờ lại vui sướng chờ xem một nạn nhân nữa sắp bị hành hình. Bởi vậy khi Cornélius vừa xuất hiện, họ đã la ó vang dậy cả quảng trường.
Van Baerle không nao núng, vững vàng bước từng nấc lên đoạn đầu đài.
Anh quỳ xuống cầu nguyện và nhận thấy khi đặt đầu nghiêng trên thớt và mở mắt nhìn thì có lẽ đến tận phút cuối cùng anh vẫn nhận ra cái cửa sổ có căng lưới thép ở nhà tù Buytenhof.
Sau cùng, cử chỉ cuối cùng đã đến lúc phải thực hiện: Cornélius đặt cằm lên cái thớt đá ướt và lạnh.
Một tia chớp lóe lên trên đoạn đầu đài. Đao phủ múa đao.
Van Baerle vĩnh biệt hoa tuylíp đen của mình; anh tin chắc rằng khi mở mắt ra anh sẽ gặp được Chúa ở trên kia, một thế giới khác, đầy ánh sáng và những màu sắc khác.
Ba lần anh cảm thấy gió lạnh của thép đao lướt trên đầu, nhưng lạ thay không thấy chút gì đau đớn hay choáng váng.
Bỗng nhiên anh như được dựng dậy, đứng thẳng lên, hơi loạng choạng.
Người ta đang đọc cái gì bên cạnh, một bản giấy da có xi đỏ đóng dấu.
Cố gắng mở mắt, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe, Van Baerle bắt đầu hiểu điều gì đã xảy ra.
Đức Guillaume cao cả tức hoàng tử d’Orange sợ rằng vài lít máu trong người Van Baerle đổ ra sẽ làm tràn cái cốc công lý thiên đàng nên ngài nảy lòng thương nhà trồng hoa tuylíp trẻ tuổi và có lẽ vô tội kia mà tha tội chết cho anh.
Thế là anh đã biết vì sao lưỡi đao không bập xuống đầu anh. Vì sao anh không cảm thấy đau đớn hay choáng váng.
Cornélius từng hy vọng ở Chúa, ở một thiên đường có hoa tuylíp nở rộ nay thấy bị cụt hứng;.nhưng anh tự an ủi là anh sẽ được trả tự do và lấy lại được mảnh vườn trồng hoa ở Dordrecht.
Nhưng Cornélius đã lầm vì dưới quyết định xóa án tử hình còn có một hậu thư. Trong đó nói rằng đức Guillaume cai quản đất nước Hà Lan kết án Cornélius Van Baerle tù chung thân.
Anh không mắc tội to đến phải chém đầu nhưng không phải là nhỏ để được trả lại tự do.
- Chà! - Anh nghĩ, không phải là đã mất tất cả. Trong tù chung thân ta còn có Rosa; cũng còn ba mầm hoa tuylíp đen của ta nữa.
Nhưng Cornélius không tính rằng nước Hà Lan có Bảy tỉnh thì có bảy nhà tù, nhà tù ở tỉnh thì rẻ hơn nhà tù ở La Haye là nhà tù thành phố.
Về mặt đó hình như hoàng tử Guillaume không có điều kiện để nuôi Van Baerle ở La Haye nên cho anh thụ án ở pháo đài cổ LÂwestein, đầu mũi cái đảo hợp thành bởi hai con sông Wahal và La Meuse.
Van Baerle biết tường tận lịch sử nước mình nên anh hiểu rõ Grotius lừng danh đã từng bị giam ở lâu đài đó sau khi Barneveldt mất.
Sực nhớ ra một kỷ niệm ghê gớm Cornélius kêu lên:
- ấy chết! - ở đảo khí hậu ẩm và có nhiều mây, đất lại xấu không trồng được hoa tuylíp! Với lại Rosa không ở LÂwestein. - Cornélius lẩm bẩm nói, đầu gục xuống, cái đầu mà lúc nãy thiếu chút nữa đã lìa khỏi cổ.
Trong khi Cornélius nghĩ ngợi như vậy có một chiếc xe chạy đến đoạn đầu đài.
Người ta gọi anh lên, anh làm theo.
Anh nhìn lần cuối nhà tù Buytenhof, hy vọng nhìn thấy ở cửa sổ khuôn mặt của Rosa trở lại nét thanh bình; nhưng chiếc xe với cỗ ngựa kéo khỏe chở vội Van Baerle đi.
Một số kẻ tò mò kéo nhau đi xem cuộc hành hình không có nữa phần nào thấy bị cụt hứng, có một thị dân ăn mặc chỉnh tề xem ra là người cay cú nhất. Những người cuồng xem đến từ sáng sớm để chiếm chỗ, hắn còn hơn họ đến từ nửa đêm chờ sẵn ở cửa nhà tù.
Không gì dễ hiểu hơn; thị dân đó là Isaac Boxtel đến từ La Haye để tìm cách chiếm đoạt ba mầm giống hoa tuylíp đen của Cornélius.
Hắn đến gặp tên đao phủ, tự giới thiệu là bạn thân của người tử tù; ngoài các tư trang bằng vàng và bằng bạc để lại cho tên đao phủ, hắn còn đặt mua lại các quần áo của tử tù với cái giá thật cao:
một trăm florins.
Kể ra việc đó vẫn thấy xảy ra: bên cạnh một tên cuồng tín kiểu như Cornélius rất có thể có một tên cuồng tín khác chịu chi một trăm florins ra mua quần áo cũ của hắn.
Do đó, tên đao phủ nhận ngay. Hắn chỉ đặt mỗi một điều kiện là hắn được trả tiền trước.
Boxtel chi trả và yên tâm đợi.
Ta thử đoán xem hắn bực bội như thế nào khi hay tin Van Baerle được giảm án từ tử hình xuống chung thân. Hắn không chịu được đã nổi giận ghê gớm.
Hắn nhảy xổ lên đấm đá mấy kẻ orangistes bực bội như hắn. Tưởng hắn điên cuồng la ó là vui thích với quyết định trên nên bọn này đánh trả lại hắn túi bụi. Hắn chỉ còn biết ôm đầu kêu đau.
Đối với Cornélius được giam ở nhà tù ngày xưa Grotius cũng bị giam ở đấy, anh tự cho là một vinh dự.
Nhưng khi đến nơi, một vinh dự khác còn to lớn hơn đến với anh. Buồng giam của Cornélius bây giờ cũng là buồng giam của Grotius ngày xưa. Một buổi sáng, đứng ở cửa sổ hít thở khí trời mát mẻ từ sông Wahal đưa tới và khi nhìn ra xa thấy bóng những cối xay bột ở Dordrecht quê hương anh, anh thấy từng đàn chim bồ câu từ xa xa bay tới và đậu trên các chái nhà LÂwestein để sưởi ấm.
Cornélius thầm nghĩ: những con chim kia đến từ Dordrecht và như vậy chúng có thể quay về đấy.
Ai gài được thư ở cánh chim may ra báo được tin mình cho Dordrecht biết.
Người ta kiên nhẫn khi người ta hai mươi tám tuổi, và khi người ta phải ở tù chung thân; sau bao nhiêu tháng nhử mãi không được, cuối cùng Cornélius cũng bắt được một chú chim câu mái.
Anh mất hai tháng nữa bắt được một con chim đực; anh nhốt hai con với nhau và vào khoảng đầu năm 1673 chúng đẻ trứng; khi đến lượt con đực ấp trứng anh thả con mái sau khi đã gài được một mẩu giấy nhỏ nhắn tin vào dưới cánh; con này vững tin con đực, bay thẳng về Dordrecht.
Đến chiều nó bay về. Mẩu giấy vẫn còn.
Đến ngày thứ mười sáu, nó trở về, cánh không còn giấy.
Giấy báo tin anh viết gửi cho người vú già nuôi anh. Trong thư anh yêu cầu hễ ai bắt được hãy hảo tâm gửi ngay đến địa chỉ trên giúp cho càng sớm càng tốt.
Trong thư còn có ít dòng nữa gửi Rosa..Thượng đế từng có phép nhiệm màu đem những hạt củ cải dại rắc lên các tường thành lâu đài cổ và làm chúng nở hoa chỉ bằng mấy hạt mưa lất phất thì Thượng đế cũng có phép dễ dàng cho người vú già nhận được thư của Van Baerle.
Vào những ngày đầu tháng hai, ở đầu cầu thang nhỏ có tiếng người nói làm Cornélius giật mình.
Đó chính là giọng nói êm ái dịu dàng của Rosa.
Chúng ta phải thú thực với nhau rằng Cornélius không bị choáng váng vì sự bất ngờ đó; con chim trở về dưới cánh không có thư đã gieo trong lòng anh một mầm hy vọng. Và ngày nào anh cũng mong đợi tin tức người anh yêu và tin tức những mầm giống hoa của anh.
Anh đứng dậy lắng tai nghe.
Đúng rồi, đúng Rosa đã vào được nhà giam thăm anh không biết bằng cách nào. Trong khi Cornélius còn đặt ra bao giả thuyết, cửa ghi-sê ở buồng giam anh bỗng mở. Rosa mắt sáng ngời vui sướng ghé sát mặt vào tấm lưới thép.
- ôi! Thưa ông, thưa ông, em có mặt đây.
Cornélius giang tay:
- ôi! Rosa, Rosa!
- Xin ông nói khẽ thôi, có cha em đi theo!
- Cha em ư?
- Em cố nói ngắn gọn ông nghe, ông hoàng Guillaume có một nhà nghỉ cách Leyde một dặm, đó chỉ là một trại nuôi bò sữa không gì khác; chính cô em là vú nuôi ông hoàng được giao trông nom trại đó. Khi bà vú nuôi của anh đọc cho em nghe thư anh, em vội chạy ngay đến nhà cô em; em ở chơi đó cho đến khi gặp được ông hoàng đến thăm trại; em thỉnh cầu ông hãy ban ơn cho cha em được coi ngục LÂwestein thay vì gác ngục ở La Haye.
May quá ông không nghi ngờ hỏi em vì sao, thành thử lời thỉnh cầu của em được chấp nhận ngay.
- Vì thế em có mặt ở đây. - Cornélius vui vẻ nói.
- Vâng ạ.
- ôi Rosa, Rosa xinh đẹp của tôi, Rosa tốt bụng của tôi! Này Rosa, em có một chút thương yêu tôi chứ?
- Một chút thôi ư? ồ không! ông không muốn được nhiều hơn ư? - Rosa hỏi.
Cornélius nồng nàn đưa hai bàn tay ra cho Rosa nhưng chỉ các đầu ngón tay của họ là chạm được vào nhau qua lưới thép mà thôi.
- Đây, cha em tới! - Người con gái nói.
Rosa vội rời khỏi cánh cửa thật nhanh và chạy về phía cha cô đang xuất hiện ở đầu cầu thang..Một con chó được dắt theo sau.
- ái chà chà, ông Van Baerle đó ư? - Gryphus nói. - Sung sướng quá, chúng ta lại gặp nhau.
- Vâng, thưa ông Gryphus quý mến, tôi vui mừng được thấy tay ông đã khỏi.
Gryphus cau mày nói:
- Anh thấy đấy, về chính trị người ta mới dễ mắc sai lầm làm sao. ông hoàng đã tha mạng sống cho anh, tôi thì không làm vậy.
- Chà! Tại sao lại thế, thưa ông?- Cornélius hỏi.
- Vì anh là kẻ sẽ tái phạm mưu phản.
- Thưa ông Gryphus cao thượng, - Cornélius nói tiếp. - có lúc tôi đã có ý định bỏ trốn đi thật nhưng bây giờ chắc chắn là tôi không còn ý nghĩ đó nữa.
- Thế là tốt! - Gryphus nói. - Anh hãy coi chừng anh, tôi cũng làm thế. Thế là công bằng, công bằng. Rất tiếc Hoàng thân đã phạm một sai lầm lớn.
- Khi ông không y án xử tử tôi ấy ư?
- Có lẽ thế. Anh hãy xem xem có phải hai ông De Witt nhà ông bây giờ không được yên tâm lắm không.
- Điều ông nói thật khủng khiếp, ông Gryphus ạ.
- Với lại, tôi nói thế là xuất phát từ lòng thương yêu con người.
- A! Thật thế hả ông? Xin ông hãy nói rõ thêm, tôi không hiểu lắm.
- Đúng vậy. Nếu đầu anh rơi dưới đao của đao phủ Harbruck thì anh không còn phải đau đớn nữa đâu. Còn như ở đây, tôi chẳng giấu gì anh, tôi sẽ làm cuộc đời anh còn khổ.
Trong khi người tù mỉm cười nhạo báng ông cai ngục thì Rosa nấp sau cánh cửa nhìn anh và mỉm cười với một nụ cười đầy thông cảm và an ủi.
Gryphus đi ra phía cửa sổ.
Khi ấy hai con chim câu nghe tiếng nói lạ liền sợ hãi bay khỏi tổ và biến mất trong sương mù.
- ạ, ô! Cái gì thế? - Viên cai ngục hỏi.
- Đấy là chim câu của tôi.
- Của tôi, của tôi! - Gryphus lớn tiếng. - Thử hỏi một tù nhân còn có thứ gì là của riêng mình nữa không?
- úi dà, - người tù nói. - đó là chim của Thượng đế gửi đấy mà.
- Đó là vi phạm kỷ luật! - Gryphus nói. - Nuôi chim bồ câu, to gan thật. Này tôi báo trước cho anh biết nội nhật ngày mai tôi bắt bỏ nồi đấy..Hẹn thế xong, Gryphus thò đầu ra ngoài cửa sổ ngó xem tổ chim thế nào, chớp lấy thời cơ, Cornélius chạy vội ra cửa nắm lấy tay Rosa. Cô nói với anh:
- Chín giờ tối nay ông nhé!
Còn mải suy nghĩ về việc sáng mai bắt chim câu thế nào, Gryphus không nói gì, không nghe thấy gì và khi khép cửa sổ lại, hắn kéo tay con gái ra khỏi buồng giam, khóa hai lần cửa lại, chốt then và đến thăm một tù nhân khác cũng với những hứa hẹn như hứa hẹn với Cornélius...
Hắn vừa đi khỏi, Cornélius đã chạy đến cửa sổ phá tan nát tổ chim.
Anh thà đuổi chúng đi không cho ở với mình còn hơn là để chúng chết bởi tên cai ngục. ôi!
Những con chim đưa thư tận tình đã mang đến cho anh diễm phúc gặp lại Rosa. Giờ đây, anh nóng lòng sốt ruột đợi đến chín giờ.
Tiếng chuông cuối cùng điểm trên lầu canh vừa dứt, anh đã nghe thấy bước chân nhẹ nhàng của cô gái Frisonne; cánh cửa nhỏ gài lưới thép bỗng nhiên sáng; ghisê được mở từ bên ngoài.
- Em đây rồi! - Rosa vừa nói vừa thở hổn hển vì lên cầu thang.
- ôi! Em Rosa yêu quý!
- ông thích gặp lại em sao?
- Sao em hỏi thế? Nhưng em làm thế nào để đến được đây, em hãy nói đi.
- Chả là tối nào cha em cũng ngủ ngay sau khi ăn xong và ông uống rượu hơi say. Nhờ đó, tối nào em cũng sẽ đến đây được một tiếng nói chuyện với ông.
- ôi! Tôi cám ơn em, rất cám ơn em Rosa.
Khi nói câu đó Cornélius ghé sát mặt anh lại cửa ghisê làm Rosa giật ngay người lại.
- Em mang đến cho ông các mầm hoa tuylíp đây.
Tim Cornélius nảy thót. Trước anh không dám hỏi Rosa đã làm gì đối với những mầm hoa quý của anh.
- A! Thế ra em đã bảo quản được chúng ư?
- Thế ông đã không giao nó cho em như một vật báu em phải trân trọng đó sao?
- Có chứ, nhưng khi tôi đã hứa cho em thì chúng là của em.
- Chúng chỉ là của em khi ông mất đi nhưng bây giờ ông còn sống, chúng là của ông. Em quyết định mang chúng trả lại ông; có điều em không biết làm bằng cách nào. Mấy hôm nọ khi bà vú nuôi mang thư của ông đến cho em, em mới quyết định gặp ông Hoàng xin đổi chỗ gác đến đây cho cha.em. Thế là em đến được Leyde. Chuyện tiếp về sau thế nào, ông biết rồi đấy.
- Thế nào, em Rosa yêu quý, ngay trước khi nhận được thư tôi, em đã có ý nghĩ đến gặp tôi rồi ư?
- ông còn hỏi điều đó! - Cô gái đã thắng được thẹn thò trả lời. - Em chỉ nghĩ có chuyện đó thôi.
Khi nói vậy, Rosa trông rất hấp dẫn khiến lần thứ hai, Cornélius áp vội trán mình, môi mình lên tấm lưới sắt và như thế có lẽ để cám ơn cô gái đáng yêu kia.
Như lần thứ nhất, Rosa lùi lại:
- Nói thật, - cô gái nói. - em thường rất tiếc em không biết đọc nhưng không lần nào em tiếc bằng lần vú nuôi mang thư của ông đến cho em.
Cô gái đỏ bừng mặt, mắt nhìn xuống, khiến cô không nhận thấy môi của Cornélius đưa gần lại, nhưng than ôi! Nó chỉ chạm lưới sắt; mặc dầu vậy, Rosa vẫn cảm thấy hơi thở nồng nàn của nụ hôn.
Mặt cô tái nhợt, có lẽ còn tái hơn cả ngày nào ở Buytenhof trước cái án tử hình. Cô bỗng rên lên và bỏ chạy trốn.
Cô chạy vội quá quên cả đưa trả lại Cornélius ba cái mầm giống hoa tuylíp đen của anh.