Làng bập bềnh như trôi trong đêm sương muối. Những cây cau thẳng đuột cao vóng như chỉ chực lao thẳng đến tận trời chìm ngập giữa âm thầm giá lạnh. Đã năm đêm nay sương làm táp đen những luống khoai làng và những cây đòn tay bằng tre ngâm nổ toang toác. Nhưng có lẽ đêm nay cái lạnh mới thấu từng khớp xương ông đồ Khang. Từ trưa hôm qua đến giờ chưa có hạt gì vào miệng, ông cứ siết mãi sợi dải rút như dính ệp vào xương sống. Sau khi đã trút nỗi uất giận lên đầu thằng con trai út, thằng Sài, ông thấy tủi phận và bây giờ sự trống trải giá buốt như từ giữa ruột mà tràn ra. Ông lẩy bẩy đứng dậy. Lần ra đầu ngõ, lặng lẽ đứng giữa sương giá, một thoáng tái tê cám cảnh phận mình, ông phải đưa bàn tay xương xẩu bấu vào thân cây ổi trước cổng. Nhưng cơn giận vẫn chưa thể nguôi, nề nếp và danh dự vẫn như sợi dây đay xiết chặt, ông trở lại nhà, ngồi xuống chỗ cũ. Chiếc tràng kỷ lạnh toát như có ai vừa dội nước. Nếu cách đây mấy phút ông muốn thốt lên: “Liệu bây giờ nó ở đâu, rét mướt thế này” thì bây giờ nỗi hậm hực lại muốn trào ra: “Cho mày chết, cá không ăn muối cá ươn. Trời ơi mặt mũi nào ăn nói với người ta”. Thằng Sài đuổi vợ nó đi, nhưng việc ấy đâu có phải là của nó.
Quả có thế, thằng Sài chỉ biết có hai việc: đi đánh trận giả và học, nó không thể ý thức được là nó đã có vợ, mặc dù nó vẫn đỏ mặt lên khi có người hỏi: “Cu Sài, vợ mày đâu”. Hơn một năm nay sự có mặt của con bé ấy ở nhà này làm cu Sài có phần thích thú chỉ ở chỗ mỗi chiều nó ngồi viết tập và làm tính đã có người quét sân và cái ngõ dài thăm thẳm. Nhưng nó cũng uất ức vì tự nhiên có một con bé cứ theo nó kè kè để mách bố, mách mẹ nó, nào những lúc đi đùa nó bôi nhọ hết mặt mũi giả làm Tây đen ở đâu, lặn hụp xuống cái ao ngầu bùn của nhà chú Hà lúc nào và “Anh ấy lại bảo bố con như lão hàng tre thầy mẹ ợ”. Nỗi ấm ức của thằng Sài cho đến trưa nay mới bật ra. Nó đã hơn mười tuổi, lại con nhà nghèo nhưng là con út, mọi việc đã có các chị dâu làm, khi các anh chị ra ở riêng, nó có vợ, dù vợ chỉ lớn hơn nó ba tuổi, nhưng đã làm được các việc nặng của người lớn, chẳng hạn như việc giã ngô bằng chày tay, nó chưa thể nhắc nổi cái chày dài gấp hai người nó lên khỏi miệng cối thì vợ nó “con bé ấy” đã thoăn thoắt giơ lên, rồi dồn sức giã vào giữa lòng cối vừa mạnh mẽ, vừa như hút xoáy những hạt ngô ngâm trơn truội khỏi chao vọt ra ngoài. Giã một đã khó “con bé ấy” giã đôi cũng dẻo và tiếng cahỳ thình thịch nghe chắc như sức giã của người lớn. Mỗi buổi, khi ánh nắng từ trong nhà ra chớm đầu hàng gạch bó thềm, dù làm bài hay chơi đùa ở đâu, cu Sài cũng chạy về vớt ngô ngâm trong nước sôi từ tối hôm trước để róc nước rồi lảng vảng ở đâu đó đợi khi có tiếng gọi “Đâu về mà gạt ngô”, cu Sài lẳng lặng đi vào đặt quyển sách tính ở trong lòng, mắt cụp xuống gờm gờm, lặng lẽ ngồi vào chiếc chổi lúa, mặt cuẫn cắm nghiêng xuống phía ngoài miệng cối. Khi ấy ngô đã dập đôi, giập ba, tiếng chày đã chắc lại. Không nhìn chỉ cần nghe tiếng chày, Sài vuốt nhẹ vòng quanh miệng, đủ để cho những mảnh to, đềuu đặn chảy xuống rồi nhanh chóng rút tay lên thành và lại tiếp tục mỗi khi nghe tiếng “thịch”. Ngô nục, “nó” dựng chày ngồi xuống dần bột còn Sài lặng lẽ đứng dậy ra cửa đọc sách. Khi nghe tiếng chày gõ vào miệng cối như kiểu phó cả lò rèn dạo búa trên đe, Sài lại lặng lẽ đi vào, ngồi xuống chỗ cũ làm phận sự ở lượt thứ hai, rồi lượt ba cho đến khi chỉ còn những hạt tấm tròn bóng toen hoen trong lòng cối thì Sài hết phận sự, lặng lẽ đứng dậy. Ra đến cửa, nó chạy òa đi như con gà, con ngan vừa bị nhốt ra khỏi lồng.
Trưa nay không hiểu vì sao con bé lại giã trẹo vào tay thằng Sài. Sài hoảng hốt kêu “ối” một tiếng bao nhiêu nỗi ấm ức vốn tích tụ sẵn, nó vừa thu cái tay đau vào bụng vừa vung tay lành thụi vào mặt “vợ” nó. Con bé không lùi, không giơ tay đỡ, cứ đứng trân trân hứng chịu những câu xỉ vả của thằng Sài. Một lúc sau cái tay đã dịu đi, nỗi ấm ức cũng đã hả, và thằng Sài thấy mệt bã bời, nó rấn lên nhưng không đánh mà nói câu đầy oai vệ để rút cửa cho đỡ ngượng “Bố mày đến đây cũng đếch sợ, ông huých cho chó nó cắn lồi mắt bố mày ra”. Thằng Sài không ngờ cái câu nói đó lại làm ông đồ Khang bố nó đau đớn uất giận đến thế. Khoảng xế trưa ông mới bán xong mấy cây tre từ quán hàng Táo trở về. Như mọi bữa, ông vẫn thấy Tuyết, con dâu ông lọc vôi, bắc nồi rồi tiếng đũa cả đánh bột nghe quàm quạp như đã nhìn thấy nồi bánh đúc ngô vàng ngậy quánh dẻo ở trước mặt. Lệ thường sau những tiếng hối hả ấy, nó rụi lửa, gon miệng nồi, úp vung lại và tiếng lách cách của bát đũa đặt ở mâm. Thấy ắng lặng hẳn đi, ông đã định hút xong điếu thuốc lào đứng dậy gọi thằng Sài về và ngầm ý nhắc nhở con dâu dọn cơm quàng lên, ông đói muốn lả đi rồi. Năm hết, tết đến, mỗi ngày giữ được một bữa bánh đúc ngô thế này đã khó. Trưa qua có khách ông phải nhường bát, sáng nay lại thay bà ấy vác mấy đoạn tre đi chợ, trở về, hai chân đã run run. Vừa nhả hơi thuốc ông vừa quay ra cửa thấy con dâu ông giàn giụa nước mắt, cắp gói quần áo mếu máo “Con xin thầy mẹ con về nhà con”. Con bé kể rành rọt và khúc triết sự tình xảy ra. Càng nghe, mặt ông càng tối rầm lại. “Thôi thầy xin con, con cứ ở nhà”. Nhưng con bé nhất quyết ra đi, đi một cách bình thản, tự tin và bất chấp lời can gọi vừa tha thiết vừa có phần gắt xẵng của ông.
Thằng Sài được người mách bảo, che chắn ông đồ Khang không tìm thấy nó. Ông gọi tất cả con dâu, con giai kể cả anh Tính là cán bộ của phòng thuế nông nghiệp huyện học ba tháng trên tỉnh vừa dắt chiếc xe đạp vê, ông đã bắt vứt đi từng nhà tìm thằng Sài. - “Không có con thì đừng” - “Ai thấy nó đầu làm ơn mách tôi. Thằng này mà sống, cả nhà tôi chết đứng vì nó”.
Bằng cách nào đó thằng Sài nghe thấy tất cả lời lẽ có khi còn nghiêm trọng hơn sự uất hận của ông đồ. Trời chạng vạng tối nó vuột ra cánh đồng. Nhờ sương hôm xuống dày đặc, chỉ chạy cách rặng tre chừng dăm chục bước đã thấy mờ mịt, nhưng tiếng ồn ào phía trong vẫn vọng lên, muốn òa tóa theo. Có lẽ ai trông thấy nó ư? Nó chạy sấp ngửa trên những thửa ruộng mới cày vỡ, những sá cày đất gan trâu lật lên như những cánh phản rắn bóng nhếnh nháng. Chốc chốc vấp ngã, mặt nó đập vào đá, đau đến nỗi chỉ thấy nước mắt ứa ra mà không sao dậy nổi. Nó nằm úp mặt vào đất, nước mắt thấm xuống làm tảng đất cầy nhão ra, da mặt nó cứng lại, dính ập vào hòn đất mới cầy vỡ. Nhưng rồi nó vẫn phải cố bò dậy lấy sức chạy, vừa thở vừa chạy, vừa nghiến răng nén đau mỗi lần vấp ngã. Mãi đến khi không thể đứng dậy được và có lẽ đã xa lắm rồi, không ai còn đuổi được, nó mới nằm lại chỗ đống cỏ gà, cỏ gấu nhà ai đốt dở từ hôm nào, không còn lửa nhưng tro vẫn âm ấm. Nó lấy tay san đống tro lựa chỗ nằm và vơ những vầng cỏ chưa cháy đắp lên đầu, lên lưng để không ai nhìn thấy. Nằm chưa ấm chỗ lại nghe lao xao, tiếng gào kêu tên thằng Sài hoảng hốt. Có cả tiếng anh Tính và chú Hà. Vẫn gần nhà quá. Nhưgn nó mệt muốn đứt hơi, không còn ngồi dậy được nữa. Nằng nghe tiếng gọi của chú và anh, nó vừa mừng vừa thấy tủi thân, nước mắt ứa ra và mồ hôi cũng ướt đầm chiếc áo cánh vải phin gụ. mọt thoáng sau nó lại thấy run, khắp người run bắn lên, nó vội vã cào cỏ, cào tro, cào đất gạt lên người, chỗ nào con hở lạnh phải kéo cả tảng đất cày đắp lên, nó nằm cong như một con sâu đo nằm nghiêng, thiếp đi trong nỗi hoảng sợ và đói mệt từ lúc nào không thể biết.
Cái điều nó phấp phỏng chờ đợi đã không xảy ra. Anh Tính đã về và chú Hà cũng đi tìm nó. Ôi, chú Hà! Nghe nói hồi cưới Sài, chú Hà không lên vì chú không bằng lòng cho trẻ con lấy vợ. Hôm nay có chú, có nghĩa là tội lỗi của Sài được che chở. Chỉ cần thấy chú không vui, cả nhà cả xóm sẽ òa tóa ra cánh đồng kêu la tìm kiếm. Người ta sẽ reo lên ngỡ ngàng khi tìm ra nó và bế nó về xuýt xoa và mắng mỏ, sai khiến và giục giã nhau thay quần áo, lấy khăn ướt lau mặt, dỗ dành chiều chuộng nó. Lúc ấy nó đã khoẻ hẳn rồi, đã muốn nhỏm dậy làm lấy mọi việc nhưng mắt vẫn phải hơi nhắm lại, miệng há ra thở, đôi môi khô lại, hcana tay vẫn mềm oặt thõng thượi theo những bàn tay nâng niu nắn bóp và vẫn phải thều thào đáp lại ú ớ những câu gọi hỏi của mọi người. Cái phút thấp thoáng nghe tiếng của anh, của chú, nó đã mừng đến ứa nước mắt, đã tủi thân giận dỗi đến run lên.
Chính lúc ấy chú Hà hỏi, cái lời lạnh như đêm sương muối :
- Ai như anh Tính?
- Gì đấy? Ai hỏi gì.
- Tôi đây!
- A ông. Con tưởng ai. Con vừa mới về.
Đợi anh vội vã đến gần, đứng một đoạn tre cắm xuống đất và sẵn sàng hứng đỡ mọi lời, ông Hà mới nói, giọng nhỏ, đã cố ghìm nỗi bực.
- Anh vô ý thức lắm!
- Dạ chú bảo..
- Thằng Sài đuổi vợ nó đi, đấy là việc của thằng trẻ con. Bố anh đánh chửi thằng Sài, là việc của ông lão phong kiến hủ bại. Còn anh, anh là cán bộ, gia đình anh là gia đình cách mạng, nếu ngày mai, ngày kia cả làng, cả tổng đồn ầm ã rằng nhà anh Tính cán bộ huyện, cháu ông Hà bí thư chi bộ xã cãi nhau, đánh nhau ầm ĩ suốt đêm thì anh còn mặt mũi nào nữa không? Tôi cho anh lên công tác trên huyện cốt để anh có điều kiện học tập, được chỉnh huấn cho nó mở mang, không ngờ anh vẫn...
- Cháu vừa về đến nhà đã thấy...
- Thấy thế nào, anh cũng phải trị thằng em anh không được hỗn. Tý tuổi đầu đã mất đoàn kết với vợ con. Hỉ mũi chưa sạch đã lên mặt làm chồng đánh chửi con người ta. Đấy là t ôi chưa kể quyền nam nữ bình đẳng, nhà nó mà kiện là mất hết, cả tôi, cả anh đeo mo vào mặt. Đứng trước việc đó vai trò của anh, của người cán bộ hoạt động cách mạng để ở đâu? Lẽ ra, phải biết giải thích đường lối chính sách cho bố mẹ anh thấm nhuần. Còn thằng Sài phải cho nó vài cái bạt tai.
- Vâng.
- Nhưng có đánh nó thì cũng phải kín, kẻo người ta lại bảo cán bộ không gương mẫu.
- Vâng.
- Nhưng mà... chủ yếu là đe nẹt rồi báo cho thầy giáo và phụ trách kiểm điểm ở lớp, ở đội, đừng làm gì ầm ĩ lên.
Nói được đến đâu nỗi giận của chú hả vợi đến đấy. Tính không ngờ vì thương em và vốn không ưa gì cái lề lối gia giáo của bố, anh đã hoảng hốt đi tìm nó. Thấy anh hoảng, vợ anh cũng hoảng, mấy bà thím dù thực lòng không để tâm lắm cũng giục giã con cái đi tìm anh Sài làm ồn ã cả một góc xóm. Cái việc nhỏ ấy đã biểu hiện ý thức non nớt của anh, anh đã để chú Hà cho rằng mấy tháng nay tuy đi học trên tỉnh nhưng anh vẫn chưa hề có tiến bộ gì.
Anh lững thững đi về nhà, ngồi vào chiếc tràng kỉ âm thầm như một bóng ma. Mãi mới ngẩng lên anh quát xuống bếp :
- Đi đằng nào, có châm hộ cái đèn không? Nhà cửa mù mịt lạnh lẽo như nghĩa địa mà vẫn để được, tôi lạ thật.
Anh quát vợ. Không ngờ, nói vừa dứt đã thấy một ngọn lửa xoè lên ở tràng kỷ bên kia. Bố đã ngồi lặng lẽ ở đấy khi nào. Ông lật bật nhắc bóng đèn dầu, đặt ngang chiếc đóm tre ngâm đang cháy, gạt gạt ống muỗng cho tàn than trên đầu bấc rời ra, kéo chiếc đóm lùi lại để ngọn lửa chèm lên đầuu muỗng và khi ngòi bấc nhú lên, bắt được ngọn lửa, ông chụp chiếc bóng ngay ngắn rồi mới dụi đóm vào khe chiếc điếu bát. Tất cả cử động ấy của ông của ông diễn ra một cách rụt rè và chậm, dường như nó là cái cớ để ông nghĩ ra một điều gì đó, sẽ nói một lời nào đó với thằng con ông. Vợ chồng ông có tám mặt con nhưng chỉ còn ba. Ba thằng con trai. Thằng cả thì đần và đã ở chỗ khác, cả nó, cả ông đều thấy yên phận kẻ làm con và người làm cha, không thấy phiền muộn trói buộc gì nhau. Thằng thứ hai, anh Tính - ông vẫn quen gọi một cách vị nể mà lạnh nhạt ấy. Nó đã có vợ và cũng đã ăn riêng, nhưng vẫn ở cùng nhà, quan trọng hơn, nó cùng hoạt động với ông Hà, người em ruột ông. Nó với ông như hai đầu của sự đầy vơi có thể san lấp cho yên bằng mỗi khi sóng gió. Ví như khi nó lén lút liên lạc với ông Hà có bắt bớ, giam cầm thì nhờ vào sự quý trọng của ông, một thầy đồ đã một thời nổi danh nhất thì ở vùng này, người ta đã cứu giúp nó. Người ông phải chịu ơn nhiều là ông phó tổng Cự, bố vợ thằng Sài bây giờ. Dăm bẩy tháng nay hòa bình được lập lại có ai khinh rẻ những người cổ hủ phong kiến thì vẫn phải nể ông, “ông cụ nhà anh Tính”, “Cụ là anh của ông Hà”. Ông và nó đều có những đận khổ sở, khốn đốn về nhau nhưng lại có lúc hãnh diện mừng thầm mình có thằng con (hoặc ông bố) thức thời, chịu lấy vất vả gian truân mà học hành, hoạt động. Nhưng ông và nó chưa mấy khi nói năng với nhau dễ dàng. Hai cha con vẫn như hai người khách! Ngẫm kỹ, ông thấy nó cũng như vô số loại người khi hưởng lộc do công lao người khác đem lại thì hỉ hả dễ chịu, còn lúc phải gánh xẻ nỗi cay đắng với kẻ khác, dù đó là máu mủ ruột thịt, cũng thấy ngại, dễ nổi xung và có quyền được xỉ vả hắt hủi kể yếm thế. Lẽ đời là thế nên nó sẵn sàng bắt bẻ hạch sách ông theo cái lối của nó, gọi là phê bình. Nhưng ông có lý của ông. Một nề nếp, một thói quen, một thông tục cha truyền con nối từ mấy đời nay: con cái không được quyền muốn sao được vậy vì như thế là trái với phép tắc gia phong. Nghĩ đến đây ông thấy mình có lý, thấy vững tâm hơn, cũng lại thấy sự lặng lẽ của nó cứ lù lù mỗi lúc một trương lên, đè trùm xuống cả ba gian nhà lạnh lẽo.
- Tôi thấy thầy nuông thằng Sài lắm rồi bây giờ mới khổ.
Nó định ăn nói kiểu gì thế này. Mặc dù kiểu gì ông cũng cso cớ để bắt chuyện với nó được dễ dàng.
- Anh bảo tôi sung sướng với thằng em anh lắm à?
- Nếu ngày nào thầy cũng đe nẹt nghiêm ngặt với nó thì đâu đến nỗi.
Thật lòng mỗi lần về nhà thấy thằng em vốn ham mê học hành mà cứ mếu máo nước mắt ngắn, dài, về cái tội “cùng ăn, cùng làm” và chuyện trò với “vợ”, anh thấy tội nó qua. Hơn nữa, anh vẫn mang nỗi hận với nhà phó Cự. Dù hắn đã xin cho anh được tha từ đồn Tây về nhưng nó vẫn thì thụt tố giác, chỉ điểm bao nhiêu việc anh và cán bộ nằm vùng. Anh biết rằng điều anh vừa nói không thật lòng với mình nhưng chú Hà đã bảo lúc này phải hết sức tránh cái gì có thể làm ồn lên. Nhất là chú lại đang bực về việc làm vô ý thức của anh.
Hơi ngỡ ngàng về sự đồng tình của con trong việc này, ông đồ đã thấy yên tâm hơn rất nhiều. Nhưng đến khuya, thì xóm mạc lại xáo xác bởi tiếng kêu khóc của bà đồ Khang.
Từ nửa đêm hôm qua bà phải đội lọ lục bình lên tận Đa Hoài mới cầm đổi được lưng thúng gạo về chống đói. Về đến nhà đặt thúng xuống phản, bà nằm luôn đấy thiếp đi. Ông đồ nhờ con dâu nấu cho nồi cháo. “Nấu kha khá vào anh chị ăn một thể”. Cháo chín, bà được lay dậy. Mắt nhắm, mắt mở húp gần hết bát cháo bà mới nhận ra không có vợ chồng thằng Sài. Bằng sự dồn hỏi hoảng hốt bà biết mọi sự xảy ra. Đặt bát cháo húp dở xuống mâm bà lao ra sân ngửa mặt lên trời kêu than rồi sai con dâu đốt cho bó đuốc bằng cây đay khô. Bà cầm đuốc vừa chạy vừa gọi con vừa kêu giời đất, bất chấp cả mọi tai tiếng ảnh hưởng cả đến danh dự, uy tín mà con trai ra sức gìn giữ. Bà chạy đi. Vợ Tính cũng phải chạy đi. Mấy đứa cháu ruột cũng chạy đi. Sự hoảng sợ của bà cộng thêm nỗi huyên náo rất hệ trọng của đám trẻ, làng Hạ Vị đêm nay sẽ vợi đi nỗi đói rét ra cánh đồng, chỗ người ta xúm đông đặc quanh đống tro thằng Sài phủ lên người nó.
Đã qua cái đêm cả làng, cả xóm đổ đến xô đẩy nhau nhốn nháo ở ngoài cổng và khi vào đến sân tất cả đều nghiêm trang nín thở để nghe tiếng gọi dồn dập của không biết bao nhiêu người nêm chặt trong ba gian ông đồ Khang.
“Bảy vía ba hồn Sài ơi về với mẹ đi con” “Bảy vía ba hồn thằng Sài ở đâu thì về với bố, với mẹ Sài ơi”. Những tiếng gọi hoảng hốt. Những ngón tay bóp chặt lấy ngón tay cái và chí vào hai bên thái dương thằng Sài một cách hoảng hốt. Những bát lông gà, bồ kết đốt khỏi sục vào mũi thằng Sài môt cách hoảng hốt. Những đĩa rượu đốt cháy bùng xanh chườm tóc rối và gói gừng giã nhỏ đánh trên lưng, trên ngực, trên tay thằng Sài một cách hoảng hốt.
Cũng đã qua rồi những ngày cu Sài được vỗ về thương hại. Bảy tám ngày sau, nói đúng ra chiều ngày thứ bảy, cu Sài đã chạy tuột ra khỏi cổng nhập vào đám bạn để đọc truyện cho chúng nghe thì uy lực của bà đồ trong mọi việc “lớn” của gia đình cũng có phần giảm bớt. Ông đồ trở lại phận sự của ông. Người đàn ông trong nhà dù đần độn ngu si đến đâu cũng vẫn là cái cột cái định đoạt mọi việc. Ngay tối hôm ấy theo ý anh Tính ông “họp” gia đình gồm hai ông bà, vợ chồng anh cả, vợ chồng Tính và cu Sài. Có bẩy người “họp” thì ba người xoi như không can dự. Bất cứ việc gì vợ chồng anh cả cũng “thôi thì thầy định thế nào chúng con theo thế”. Mỗi khi cái quyền làm trưởng được nhắc đến “ý anh chị cả định thế nào?”, người con trưởng cũng gật gật đầu vẻ nghĩ ngợi đăm chiêu một lúc mới nói. Bao giờ anh cũng nói ra cái điều mọi người đều biết trước từng câu, từng lời anh sẽ nói như thế. Có lần vui vẻ chị vợ tinh khôn đã bảo “Thầy hỏi nhà con như hỏi bức vách ăn thua gì”. Nhưng những việc căng thẳng như đóng góp giỗ tết ma chay hoặc sự xích mích trong gia đình, chị thường là người im lặng từ đầu đến cuối. Có ai hỏi chị, chị trả lời rất gọn nhẹ: “Mọi việc là quyền ở nhà tôi”. Lập tức anh cả cũng gật đầu nghĩ ngợi và nói ra điều mà ai cũng biết chắc là sẽ vừa lòng chị, cốt không thiệt đến mình mà cũng chả động đến ai. Những “cuộc họp” gia đình để quyết định những việc hệ trọng như thế, sự có mặt của vợ chồng anh như là thừa. Nhưng không có vợ chồng anh, khôn bao giờ thành “cuộc họp”. Vả lại mỗi khi có chuyện nặng nề mọi người còn im lặng căng thẳng, ông đồ thường hỏi ý kiến anh chị cả và anh lại “thôi thì”. Sau sự “thôi thì” dài dòng của anh, hoặc là ai có nỗi ấm ức thấy sốt ruột quá phải nói bung ra, hoặc có giận dỗi gì nhau, thấy ý kiến ông anh cả chán quá, thà thôi đi còn hơn. Thành ra anh lại luôn luôn trở thành người quan trọng trong gia đình. Còn vợ Tính chỉ biết làm, chị làm được tất cả mọi việc theo ý bố mẹ chồng, theo sự sai khiến cau có của chồng, và tắm rửa giặt rũ, mắng mỏ và chiều chuộng thằng Sài như thằng em út của mình ở nhà. Cuộc “họp” nào của gia đình chị cũng là người ngoài rìa. Chị sửa sang lau chùi ấm chén, đun nước và chẻ đóm. Mọi việc xong xuôi chị ngồi nép ở một góc tối, chăm chú nghe hết mọi điều, có ai hỏi chị, chị chỉ biết giả nhời “Tôi (con hoặc em) biết đâu đấy. Ý của thầy mẹ (hoặc anh chị cả hoặc “nhà tôi” thậm chí cả “ý chí Sài, thím Tuyết”) thế nào thì tôi làm thế”.
Cho nên mỗi lần bàn bạc gia đình chị có ngồi đấy hay không cũng chẳng ai để ý nếu như chè và thuốc lào, đóm và nước đã đầy đủ tinh tươm.
Bốn người còn lại tuy sự kìm nén khác nhau nhưng đều giống nhau ở chỗ ai cũng cảm thấy chỉ có mình là người khổ tâm nhất trong việc này.
Trước hết, nói về thằng Sài, nhân vật chính của sự cười chê ồn ã hàng tuần lễ nay. Dù cả nhà đều nhìn nó âu yếm, nói năng vui vẻ và nói những chuyện tận đâu, nhưng khi được chị Tính dìu từ dưới bếp lên thằng Sài khóc òa ra và lao vào ôm ngang lấy thắt lưng mẹ, người nó run lên bật bần. Nước mắt bà đồ tự nhiên ứa ràn xuống hai má. Bà cúi lấy vạt áo lặng lẽ chấm nước mắt, quay ra ôm ghì lấy con, gắt.
- Bàn bạc gì thì bàn đi, thằng bé sợ hết hồn rồi đây này.
Ông đồ vẫn nói dịu dàng :
- Ô hay ai làm gì nó.
Chị cả cũng động lòng thương xót.
- Chú Sài, sợ gì em. Để thầy mẹ và các anh chị liệu xem công việc thế nào, có ai mắng mỏ hắt hủi gì em mà sợ.
Tính nghiêm mặt :
- Sài nín. Thầy có ý kiến thì nói đi rồi mọi người trong gia đình đều phải ghé vai mà làm. Tôi rất khổ tâm cứ mỗi lần về đến nhà không chuyện nọ thì chuyện kia. Mỗi người nghĩ một phách, làm một nẻo, mạnh ai người nấy lo, còn thì “sống chết mặc bay”.
Xem cung cách, lời lẽ ấy Tính đã ý thức được mình mới là người lo lắng và quyết đoán tất cả mọi việc. Không phải anh muốn như thế. Cái chính là mọi điều tiếng, xấu xa của gia đình đều đổ lên đầu anh. Thử hỏi cả huyện, cả xã ai biết anh cả là ai. Ngay đến tiếng tăm của thầy đã mấy ai ở xã ngoài biết đến. Chuyện gì xẩy ra, thiên hạ cũng chỉ biết bố mẹ đồng chí Tính cán bộ huyện chứ ai có thể thay anh nhận lấy sự xỉ nhục. Là chưa kể chuyện thằng Sài không biết đến bao giờ mới hết tai tiếng.
Cũng là danh dự của gia phong, ông đồ lại thấy Tính không thể hiểu và san sẻ nỗi khổ của riêng ông. Nó cứ đi biền biệt, họa hoằn mới đáo qua nhà, làm sao nó biêt ông điêu đứng như thế nào. Mang tiếng là ông đồ nho, mấy đời nay chưa hề để ai chê cười nhà mình có chuyện ăn ở trên dưới như “họ nhà tôm”, chưa có khi nào con cái lại trái ý cha mẹ. Chưa khi nào ăn nói sai ngoa, lá mặt, lá trái. Con mình đuổi con người ta đi, ai biết đâu là chuyện trẻ con. Tất cả những chuyện đó thằng Tính làm ông phải rụt rè, ngần ngại là thằng Tính. Bây giờ không những ông được thể quát nạt, đe nẹt được nó, ngược lại, làm việc gì ông cũng phải lựa xem ý nó thế nào còn liệu. Suốt bao ngày nay ông vẫn chưa phải lo nghĩ điều đó nên giọng ông lúc này còn chưa thể quả quyết.
- Cũng chả ai muốn xẩy ra như thế. Nhưng dẫu sao thì cũng là việc đã rồi. Bây giờ bà với các anh các chị có cả anh Tính về đây ta bàn xem cách nào đến xin lối người ta để cho con nó về. “Con dại cái mang”.
Không ngờ bà đồ bốp chát ngay :
- Tôi không phải xin xỏ gì ải cả. Con tôi ốm chín phần chết không được phần sống, nhà nó có ai thèm lai vãng đến đây? Mà tôi hỏi cớ gì khi thằng chồng ốm con vợ lại không về.
- Thì con mình đã đuổi nó đi.
- Chấp gì thằng bé hỉ mũi chưa sạch ấy. Mà nó có quyền gì. Trừ phi ông hay tôi thấy cô ăn đổ làm vỡ không thể chứa được thì mới được phép ra khỏi nhà tôi. à, ra nhà nó quen thói hà hiếp thiên hạ rẻ rúng, bỉ mặt ai cũng được.
- Bà liệu mà ăn nói, còn có người nọ người kia nghe.
Bà bảo rằng cứ giữa dạ bà nói, không việc gì phải vụng trộm, giấu giếm. Rằng, nhà bà đã phải thất điên bát đảo mà họ thì dửng dưng. Rằng chỉ có bà mang nặng đẻ đau mới thấy xót, mới tủi hổ khi con bà hoảng sợ đến khiếp đảm mà nhà nó không thèm hỏi lấy một lời. Có ai đau đớn nặng nhọc gì mà chả tìm cách dàn hòa vui vẻ. Vui vẻ với bất cứ ai bà cũng sẵn lòng nhưng bây giờ nhất quyết nhà nó phải có nhời trước, bằng không, làm làm gáo, vỡ làm muôi. Càng nói bà càng có lý. Những người con dâu thầm chê bai nhà ấy không biết điều. Thằng Sài thì vẫn áp mặt vào lưng mẹ thỉnh thoảng lại nấc khan từng chập sẵn sàng òa khóc và kêu xin bố mẹ tha cho đừng bắt con phải đến nhà nó. Còn thằng Tính, hai con mắt vẫn trân trân nhìn lên mái nhà, môi mím lại cau có như đang nghĩ gì ở đâu chứ không nghe ai nói ở chỗ này. Ông đồ hết hút thuốc lại uống nước chè tươi. Hai mắt hình như cả đôi tai ông chăm chú vào những cử chỉ cố kéo dài ra của công việc tước đóm và hút thuốc, lau chùi đĩa chén và uống nước nhưng ông cũng biết hết ý tứ của từng người, trừ có thằng Tình là ông không hiểu nó đang nghĩ gì. Đó là cái điều đã từ lâu, từ khi nó tham gia hoạt động đến nay ông luôn ngại, bực bội và thú thật đôi khi cũng phải chịu lép với những lời lẽ lý sự của nó. Ông biết, việc gì trong nhà này bây giờ ai cũng nghe nó hơn là nghe ông. Ngẫm ra cũng phải thôi. Thời này người có chức tước nói mà chả hay ho mẫu mực.
Tính nói. Cái điều lo sợ nhất của ông đồ đã đến rồi. Chỉ cần ý của nó nữa là biết rõ sự tình sẽ đi đến đâu. Ông ngồi nghiêng mặt ra chỗ tối ánh đèn, mải vê điếu thuốc nhồi vào nõ để tránh nỗi phấp phỏng chờ đợi sự kết cục không thể gọi là nhỏ. Chỉ việc này không thành cũng đã coi như ông sống bằng thừa, sống vô vị như một xác chết. Nhưng ông đã lầm. Tính còn lo hơn cả ông. Anh hiểu rõ hậu quả những chuyện gia đình kiểu thế này không thu xếp ổn thỏa sẽ dẫn tới đâu! Anh nói từng tiếc chắc nình nịch như thể vốn nó là thế, không thể là khác, không ai có thể thay đổi được.
- Chú Sài đuổi thím Tuyết không có gì phải ầm lên. Thầy làm như thế là chưa đúng. Thì lúc ấy anh bảo tôi làm sao mà nén được. Những ngày chú Sài ốm nhà ông phó Cự im lặng thờ ơ là sai, rất đáng trách. Tôi thấy mẹ đã nói lên tất cả nỗi tức giận của nhà ta. Phải tỏ thái độ như thế mới đúng. Thế là nó vào hùa với mẹ nó thật rồi. Nhà mình gây ra sự lại đổ lỗi cho người ta. Kệ, anh nói thế nào thì nói, mẹ con anh định thế nào thì tuỳ nhưng với lão đồ Khang thì thằng Sài không thể bỏ con người ta được. Thời buổi này không phải là lúc họ muốn coi ai ra gì cũng được như trước đây. Nhưng đấy là việc sau. Trước sau tôi sẽ có cách để nhà họ phải mở mắt ra. Còn trước mắt ta xử xự khác. Ta không thèm tầm thường chấp vặt. Không thèm đôi co xem ai đúng, ai sai, không thèm đợi họ phải nói trước. Quả đi đây đi đó nó cũng có hơn.
- Anh bảo nhà mình phải đi nói trước với họ?
- Đằng nào thì chú Sài cũng không thể bỏ được thím Tuyết. Mọi việc mẹ cứ mặc tôi. Ta nói trước mới chứng tỏ ta là người lớn không chấp chuyện trẻ con. Ngày mai nhà Tính đưa chú Sài sang. Chú chỉ cần nói một câu: “Con đã trót dại đuổi nhà con đi, con xin lỗi ông bà cho nhà con về”. Chỉ cần nói thế rồi về. Xem nhà họ đối xử thế nào, sau đó tôi sẽ liệu.
Anh dừng lại, uống nước như tự thưởng cho những quyết định của mình và cũng để dò xem phản ứng của mẹ, của thằng Sài. Ông đồ không nhìn anh, trong đầu ông vẫn thì thầm đắc ý: Phải thế mới ra người có học. Cứ tưởng cha con xung khắc, không ngờ nó hợp ý ông như thế. Chỉ có điều nó theo lối mới nói năng lưu loát, dễ lôi cuốn người ta hơn.
Bà đồ ngập ngừng
- Thế ngộ nhỡ...
- Mẹ không có “nhỡ” gì cả. Ngày mai cứ thế làm không phải bàn gì nữa. Khuya rồi, đi ngủ.
Nói những như gay gắt ấy xong, anh đứng dậy xuống gian nhà ngang của vợ chồng anh. Mọi người vẫn ngồi lại một lúc nữa nhưng không ai bàn tán gì thêm. Cả bà đồ cũng không phản đối. Cả thằng Sài cũng không giãy nảy vì ngày mai nó vẫn phải làm cái việc mà nó kinh sợ. Thì ra đàn bà cũng giống như trẻ con, sẵn sàng chấp nhận ngoan ngoãn những quyết định nghiêm ngặt đôi khi rất tàn nhẫn chứ không bao giờ chịu thua trong bàn luận tranh cãi.
Dẫu sao chuyện vợ con thằng Sài cũng là chuyện nhỏ so với nạn đói đang có nguy cơ loang bùng khắp xã. Không ai còn bụng dạ, hơi sức đâu để bàn tán, khen chê. Vả lại, chuyện tình của hai đứa trẻ ấy chưa đến tuổi “phát điên” nên nó vẫn chỉ là nỗi ấm ức hậm hụi của trẻ con, đôi khi mải chơi đùa, học hành, nó cũng quên là mình đang bị oan ức trói buộc nghiệt ngã. Lệ thường đã thế huống hồ những ngày này. Tuy làng mới được giải phóng mấy tháng nhưng không phải dò mìn, gỡ dây thép gai, nhặt mảnh bom, đầu đạn và san lấp hầm hào như những làng quanh vùng Tây. Đất làng cũng tầng tầng phù sa trông ngon như những tảng thịt nạc, nhưng những người nông dân ở đây không cần đến đất. Nói đúng ra họ dửng dưng với cách bãi bồi mênh mông màu mỡ. Không hiểu từ thuở nào làng chỉ quen đi làm thuê. Miếng cơm thiên hạ bao giờ cũng ngon nên người sức dài vai rộng thì đi tứ chiếng bằng đủ thứ nghề: hàn nồi và cắt tóc, đốt gạch và nung vôi, thợ nề, thợ đất, thợ lặn... Kẻ giảo hoạt mà lười biếng thì đi buôn cau con, bán rong thuốc cam, buôn vỏ quạch và chổi tre, tiểu sành và cối đá. Không có mặt hàng nào đáng giá và những hàng dễ thiu, vữa đổ, vỡ cũng không ai có gan để buôn. Buôn bán đã non gan cũng chỉ là tạm bợ giật gấu vá vai, làm sao nghề trong tay, dường như mục đích cao cả và sự sung sướng hồi hộp của họ cũng chỉ là kiếm được miếng ăn giữa tháng ba ngày tám, sau đấy vợ chồng con cái lại dắt díu nhau về cày bừa vội vã, cuốc và đập vội vã, gieo trồng cũng vội vã để lại bồng bế nhau đi. Dăm bữa, nửa tháng vợ hoặc con đảo qua để làm cỏ, xáo xới rồi cũng lại vội vã ra đi. Đến mùa thu hoạch lại về. Hết mùa lại đi. Cứ thế. Khi về lại nhớ cơm thiên hạ. Khi đi lại cồn cào thương từ gốc cau, bụi chuối. Họ không yêu tha thiết với đồng ruộng nhưng không đủ sức dứt bỏ những gì quen thuộc từ thuở cha sinh mẹ đẻ ở cái nơi mà ai cũng quen gọi là quê hương.
Những người còn lại hoặc tuổi già yếu, con bận con mọn, hoặc không biết nghề, không quen đi xa, cái lực lượng sản xuất chủ yếu ấy cũng chỉ chòn chọt năm một vụ ngô, tháng mười cày bừa dối dả, tháng tư bẻ bắp chặt cây vội vàng để rồi lại nô nức kéo nhau sang bên kia sông, vào nội đồng làm thuê, sáng cắp nón đi, tối cắp nón về nói cười rả rích. Dường như số trời đã định cho làng này chỉ có việc đi làm thuê. Chen lấn, tranh cướp nhau từng người chủ, và ai được chủ tin thì coi đó là một diễm phúc có thể vênh váo, hãnh diện với kẻ khác, sẵn sàng hạch sách bắt bẻ người cùng xóm, cùng làng, cùng cánh thợ làm thuê một cách nghiệt ngã độc ác hơn cả người chủ thật. Bởi thế, cũng là tỉa ngô, rắc đỗ, ruộng nhà thì làm quáng quàng chỗ dầy, chỗ mỏng, hàng thưa hàng mau nhưng ruộng của chủ cứ đều tăm tắp. Ruộng nhà không bao giờ bón phân, cả làng không ai bón phân, cần quái gì chuồng lợn, chuồng xí. Đàn ông, đàn bà, cả người già trẻ con đều chạy tóa ra đồng và lợn cũng thả rông hoặc có chuồng thì cũng chả cần phân ấy để làm gì. Chính những con người ấy lại đánh phân, rửa ráy quét dọn cả chuồng xí, chuồng lợn cho chủ rồi gánh ra đồng cứ của những người chủ tốt tươi sai quả, mấy hạt lại theo đà đâu đó, ca thán, và xỉ vả làng mình ngu si không biết đường làm ăn.
Cái thói quen, thích được chủ tin dùng khen ngợi, thích được sai bảo mắng mỏ nó bắt đầu đơn giản thế này. Lúc túng thiếu đói kém vay mượn vừa khó, vừa canh cánh lo ngày trả, ấy là chưa kể lãi mẹ đẻ lãi con gặp lúc sa cơ lỡ vận có khi suốt đời đầu tắt mặt tối không đủ trả nợ. Còn tự làm lấy ruộng nhà thì lưng vốn ít, lại phải đợi trông và biết đâu “ba tháng trông cây không bằng một ngày trông quả” đến lúc miếng ăn đến miệng gặp một cơn gió, một trận mưa rào hay ngày nắng hạn mà trái vụ thì mất như chơi. Chi bằng cắp nón đi làm thuê vừa nhẹ nhàng, vừa có miếng ăn ngay. Đôi khi bớt xén ăn xin ăn nài nắm xôi, quả chuối, vốc lạc, nắm cháy, củ khoai mang về cho bố mẹ hoặc chồng và con cái ở nhà là tất cả tươi vui bừng sáng và ai cũng phấp phỏng ấp ủ hy vọng ngày hôm sau, những ngày hôm sau nữa sẽ có, sẽ lại có niềm sung sướng như thế. Lâu dần thành quen. Người ta có thể bỏ ruộng chứ không thể bỏ nghề làm thuê.
Ai cũng náo nức đi làm thuê thì đành chịu khinh rẻ biết làm thế nào. Lúc giáp vụ đã bị rẻ rúng chê ỏng chê eo huống hồ lúc đã vãn việc. Hôm nào cũng dăm bảy trăm người đi “đón”, khi chỉ dăm ba chục người “đắt” còn là ế lũ lượt. Nhưng đêm nào cũng đi. Đi tất cả làng. Ngay nhà ông đồ Khang, trừ có ông già yếu và đã mang tiếng là ông đồ, vợ chồng anh cả, vợ Tính, vợ Sài, và cả cu Sài cũng đi. Đêm nào cũng khoảng nửa đêm là ông đồ tỉnh dậy, đun nước ủ tích nụ vối và hút thuốc lào chờ khi nào nghe được nghe tiếng ơi ới gọi nhau ở xung quanh hoặc tiếng nói oàm oàm như lội nước của vợ chồng nhà Mồng là ông chỉ cần hỏi khẽ khàng: “Bà đồ đã thức chưa? dậy uống hụm nước cho ấm bụng” là bà đồ nhổm ngay dậy. Vợ Sài cũng lặng lẽ ngồi dậy. Khi bà đồ chít khăn, khoác chiếc áo tơi, ngoài hàng dây ở phía trước, bà thắt thêm một dây bằng sợi đay ở ngang lưng, rồi xách đôi dép bằng mo cau xỏ vào chân. Gọi là xỏ, thực ra chỉ cần nhét vào một ngón chân trỏ vào cái quai cũng bằng “lưỡi mèo” bao ở buồng cau khi chưa bung thành hoa. Xong xuôi, bà ngồi vào bên ổ, trải lá chuối khô nơi ông đồ và thằng Sài vẫn nằm lăn lóc, xoay ngang, xoay ngược. Khi bà uống xong chén nước ông đưa, liền quay vào lay gọi “Sài, Sài dậy. Sáng rồi”. Cu Sài mở mắt ngồi dậy đỡ chén nước bước ra khỏi nhà, ngửa mặt súc miệng òng ọc rồi quay vào vê thuốc nhồi vào nõ, động tác thành thạo như một người lớn. Rít xong hơi thuốc khi hai mắt còn lờ đờ, miệng há ra thở dốc thì bà choàng lên người nó chiếc bao tải. Vừa buộc bịu cho con bà vừa nhắc “Cầm lấy đôi guốc mà đi” - “Sưng hết cả chân rồi” - “Cầm đi lúc chờ ngồi vẫn chả ấm chân! Nặng nhọc gì”. Trong khi ấy, vợ nó vẫn phong phanh một chiếc áo cánh, đi ra đầu bể nhổ miếng thuốc nhuộm răng, chiết bằng lọ nước nước điếu đã cất sẵn từ tối hôm trước rồi rửa mặt, chải tóc,vấn khăn và ngồi sẵn ở góc bếp chỗ đã có ba chiếc vồ cho ba người, thêm hai chiếc liềm và hai cái dầm làm cỏ của nó là mẹ chồng. Chỉ cần mẹ và chồng ra khỏi cửa là nó đã cầm liềm, vác đập lên vai, ra ngõ trước.
Bao giờ bước ra cửa, bà đồ cũng hỏi: “Nhà Tính đã dậy chưa con”. Khi nghe tiếng “rồi ạ” bà mới đi. Bà đi thong thả và mắng con dâu: “Còn sớm, nhà Sài đi đâu mà vội thế”. Bà đi chậm lại, vợ Sài đi chậm lại. Nhưng thằng Sài hoặc không đi nữa hoặc chạy vọt tít tận đâu đâu đến khi không còn nghe, không nhìn thấy “con bé ấy”, nó mới thôi.
Làng lũ lượt kéo nhau đi. Lúc đầu còn gọi nhau í ới, còn hỏi han nhau về sau càng gần đến nơi càng im lặng như những cái bóng lầm lũi chuyển động. Dường như ai cũng đang nghĩ đến cái bí quyết gì đấy để khỏi ế ẩm. Cả hàng dăm bẩy trăm người đi và chạy ba cây số, khi đến chân đê không ai bảo ai đều dấn lên ào ào như cơn lốc cuốn lên để tranh chiếm chỗ ngồi. Những chỗ có thể gọi là “ngon” đã hết, họ dúm dụm vào từng khóm, trông lặng lẽ như những mô đất. Ai mới qua đây lần đầu vào những trăng suông lạnh lẽo dễ hoảng hốt tưởng mình lạc vào một bãi tha ma chi chít những ngôi mộ đắp đất cày ải. Những cái “mô” ấy ắng lặng khoảng vài sau mới tở ra xáo xác. Đầu tiên là tiếng ngáp dài của ai đó: “Ối giờ... ơi... ơi bây giờ được mẻ ngô rang mà nhá nhẩy”. Rồi loáng thoáng những tiếng pha trò rời rạc chìm trong giá buốt. Những đốm lửa từ những chiếc mồi rơm loè đỏ lòe lên, những hơi thuốc lào phả ra hòa với hơi ấm của lửa như là những tín hiệu lay gọi mọi người tỉnh táo, đã đến giờ “kiếm ăn” rồi. Phải còn trên dưới một giờ nữa, nghĩa là lúc có thể nhìn rõ mặt người, mới xuất hiện những người chủ vừa đáng nguyền rủa, vừa kính yêu của họ. Trong khoảng thời gian chờ đợi ấy, mặt đê bỗng xôn xao như họp chợ. Cánh đàn ông thì tán phét, nói tục, bàn chuyện làm các món ăn ngon và vô vàn sự sung sướng mình đã từng giáp mặt, từng chứng kiến ở các nhân vật giàu có, các làng xã trù phú. Những người đàn bà lặng lẽ nhai vỏ quạch, xin nhau vôi, sẻ cho nhau lớp sương mù xuyên tới con đường từ giữa chợ Bái lên đê. Những ông bà chủ thường xuất hiện từ đấy. Ngong ngóng chờ đợi mãi rồi cũng đến cái phút hồi hộp và thất vọng, mừng rỡ và cáu giận. Thoạt đầu bỗng nhiên cả mấy trăm con người xô cả dậy như sóng đùn đẩy chen chúc, chửi bới, la hét nhau để dấn lên, lao xấn tới con đường lên dốc. Khi tiếng quát của đàn ông, tiếng chửi chanh chua của đàn bà, tiếng khóc thét của trẻ con bị xéo đạp chưa dứt lại thấy từ giữa cái mục tiêu mà mọi người nhào tới đó tiu nghỉu mà chùng xuống, mà lặng thinh kéo vồ quay lại. Thì ra một cô gái xinh đẹp lại muốn làm công việc đào thải buổi sớm ở phía ngoài đê. Chắc vừa ức bị nhầm, vừa giận cái vẻ đẹp còn mập mờ kia làm chuyện trái khoáy, một lão đàn ông cất giọng thật to chửi tục. “Đ. mẹ nó, tội tình gì chưa bảnh mắt đã dẫn xác ra tận đây để hàng trăm người mừng hụt”. Một giọng con trai đế: “Ông ơi thích thì theo cô ấy đi. Công hôm nay đến đồng rưỡi, hai đồng chứ không ít” - “Đ. mẹ con cái nhà ai đấy”. Nếu không có một đợt sóng mới lại ào lên có nhẽ đám thợ Hạ Vị và cánh Trung Thanh đã vác vồ mà choảng nhau. Lần này thì có thật. Cả hàng chục người vừa đàn ông, vừa đàn bà thững thờ đi tới đám đông. Để đáp lại sự nhốn nháo xô đẩy, những ông bà chủ đưa mắt khinh khỉnh nhìn lướt trên đầu mọi người. Họ cứ đi từ đầu đến cuối không thèm hỏi ai, không thèm trả lời hàng trăm người đều nhao nhao “Ông cần gì?” “bà muốn thuê đàn ông hay đàn bà ạ”. Nhìn ngắm hết lượt, lúc quay lại các ông bà chủ mới lên tiếng như ra lệnh :
- Bảy người đạp. Hai người đánh phân.
- Bốn người đàn ông tát ao, một chị cắt cỏ.
- Ai biết vực nghé hẩy.
Đủ loại công việc từ rào giậu, quét vôi, bắc cầu ao, xẻ rãnh đến làm cỏ, trát vách, vạc bờ cuốc góc... Ai ới lên cần công việc gì lập tức từng đàn, từng đàn lốc nhốc chạy theo bâu quanh người ấy nhao nhao giành nhau.
Thằng Sài cũng là loại nhanh. Nó tì vào cái chuôi vồ cao bằng người nó cũng đánh thoắt đã len đến, luồn dưới nách mọi người lên trước, một chân đứng trên quả vồ, một chân kiễng lên án ngữ ngay trước mặt người chủ. Giá những người làm thuê biết bảo ban nhau một tí, biết kìm nén sự thèm thuồng một tí, biết dửng dưng xem rẻ đồng tiền, bát gạo một tí thì từng người đỡ bị chê bai, cả đám người đêm nào cũng đằm mình trong sương muối ở mặt đê đỡ bị rẻ rúng khinh thường. Người lớn đã ế ẩm ai họ thèm hỏi han gì đến các lũ trẻ như thằng Sài thì rất đắc chí là nó đã được người ta thuê, một mình theo một luồng không phải ai “rước” cũng đến bờ cùng với người lớn. Nó biết đâu chỉ có ngày giáp vụ, người ta cần đập “chạy hanh” và cái ngày công đầu tiên của mẹ nó các anh con nhà cậu Hồng kèm hai bên, mỗi người “ăn” sang nửa tay vồ là quá nửa luống của nó. Dù đã năm đêm nay nó đều ế, có hôm bà mẹ phải vì con mà ế theo, nhưng còn niềm kiêu hãnh đã một ngày đi làm thuê, nó còn hy vọng. Bà đồ đã nhờ được người kèm con dâu đi vơ cỏ theo bừa. Bà chờ mãi đến sáng bạch nhật mới có người bằng lòng bà kèm theo thằng bé con. Bà cuống quýt: “Sài đâu. Đầu rồi Sài. Nhanh lên. Mày cứ dán mắt ở tận đâu ấy”. Thằng Sài vác vồ chạy về bên mẹ. Người chủ lạnh nhạt quay đi: “Cắn chưa vỡ hạt cơm đòi thuê mướn”. Bà đồ vội níu lấy tay người kia van vỉ: “Bác ơi, cháu nó bé hạt tiêu, nó vẫn vào làm trong này” - “Có ai hoài cơm, mới mượn con nhà bà” - “Thôi thì không công sá gì, bác cho cháu nó hai bữa cơm người lớn làm được tám chín” - “Hai bữa! Hào chưa đầy bơ gạo con bà lèn hai bữa lại chả hết hai bơ, hóa ra còn quá công người lớn” - “Chả nhẽ bà để cháu nhịn từ giờ đến quá trưa. Hay bà chiết công tôi ba xu, cho cháu nó theo. Thêm đũa thêm bát” - “Có mà thêm lại chả “đánh” tì tì thủng nồi trôi rế. Vậy là hai người bốn bữa, bốn bơ gạo với sau xu tiền công. Thôi năm xu. Thương tình mẹ con bà tôi liều chứ ai dở hơi đi rước cái của nợ này làm gì”.
Đến nhà bà đồ theo chỉ vào bếp gạt tro bắc nồi cơm thì người chồng bà ta đứng ngắm từ đầu đến chân thằng Sài nem nép ở chỗ bể nước. Mẹ mở vung nồi cơm, cái làn hơi gạo mới òa ra ngào ngạt cùng với mùi dưa kho tép thơm lừng lẫy làm nước chân răng thằng Sài tứa ra nhưng nó thậm thột không dám nhìn vào chỗ mẹ đang xới cơm. Người chồng hỏi trống không... “Thằng cu con này ở đâu đây?” - “Con bà lão. Thằng này cuốc ở đồng thốp được” - “Có cuốc cái mả nhà mày. Đ. mẹ đồ mắt mù” - “Cha bố nhà anh nói gì đấy. Cả đêm hành hạ người ta, bảnh mắt vẫn chỏng *** lên ngủ mà còn hạch sách” - “Tiên sư con **. Ăn nói thế à”. Hai vợ chồng xô vào nhau, kẻ túm tóc thụi và chửi, người xé áo và kêu la. Những nhà bên cạnh chạy đến đứng ở cổng nhìn. Họ ra hiệu cho mẹ ocn bà đồ rút vồ, xách len lén ra khỏi cổng.
Phía sân sau mùi cơm gạo quyện với mùi tép kho dưa tỏa lên nghi ngút như cuốn lấy tâm trí thằng Sài. Nó đã định ngồi xuống so đũa theo lời bà chủ nhưng sự việc xảy ra nhanh quá, bà đồ phải ụp bát cơm xới giở xuống nồi, lặng lẽ đứng lên, cái phút ấy thằng Sài muốn ứa nước mắt vì bị khinh rẻ, nó hiểu thế nào là thân phận của kẻ đi làm cốt chỉ để kiếm lấy một bữa cơm.
Nhưng đến nửa đêm, bà đồ và những người con dâu vẫn phải đi. Chỉ trừ thằng Sài “đếch thèm đi làm” còn cả làng vẫn lếch thếch kéo nhau đi. Có người đã ba bốn ngày bị ế, vợ chồng con cái mỗi ngày được lưng bát cháo cám, cả ngày không buồn bước nửa đêm cố mà đi. Đi để kiếm lấy một bữa. Thật khốn khổ cho cả làng. Trời đang yên lành bỗng trút nước ào ào. Cả khối người chết lặng trên mặt đê chờ sáng lao vào các quán chợ trống cả bốn phía. Họ nép vào nhau, đến rõ mặt người mới ngớt mưa. Không ai thèm ngó ngàng đến ai họ đành lũ lượt kéo nhau về.
Đêm đó, xã Hạ Vị họp ở đình làng Hạ Vị. Gọi là đình nhưng chỉ còn có mái và hậu cung. Bốn xung quanh đã phá lấy gạch đi xây đồn Trung Thuỷ cho Tây từ mấy năm trước. Ngọn đèn măng xông treo giữa đình từ xa đã thấy ánh sáng rực rõ đầy vẻ hấp dẫn của nó. Suốt từ giữa trưa, nhữgn anh cán bộ tuyên truyền vác loa sắt tây trèo lên những cây bàng, cây gạo ở mỗi xóm gào đến đặc cả cổ: “A lô, a lô xin toàn thể các ông, các bà, các đồng chí nam nữ thanh niên, các em thiếu niên và nhi đồng đến tập trung tại đình làng Hạ Vị để nghe huyện về phổ biến những quyết định khẩn cấp. A lô, alô... ô... ồ...” “Toàn thể nhân dân chú ý, chú ý tối nay huyện về xã ta phổ biến những quyết định quan trọng, nếu ai không đi phải chịu hoàn toàn trách nhiệm sau này. A lô, alô... ô... ồ...” Đám trẻ con bâu dưới gốc cây ngửa mặt như hứng tới từng lời rơi từ trên ngọn xuống. Và khi anh cán bộ tuyên truyền xuống đất, lũ trẻ lốc nhốc chạy theo thi nhau sờ vào cái loa sắt tây. Đứa nào làm được việc ấy, chạy quay lại hý hửng tưởng như nó phải hướng niềm vui sướng đến hết cả đời. Những đứa trạc tuổi thằng Sài không chạy theo, chỉ đứng ở đầu ngõ nghe và nhớ không sót một lời để rồi qua chúng, từ các cụ già đau yếu đến các bà nạ dòng bận mọn đều cảm thấy cuộc họp tối nay là vô cùng hệ trọng.
Sự đồn đại của đám trẻ không hề sai ngoa, láo lếu. Cuộc họp toàn xã tối nay đã công bố những quyết định gắt gao của ủy ban kháng chiến hành chính của xã Hạ Vị. Kể từ ngày mai, tất cả mọi công dân của xã không được đi làm mướn ở bất cứ nơi nào. Không được đi buôn bán và làm thuê nghề phụ như giấy thông hành đã cho phép, giấy thông hành đều không có giá trị. Những người đang ở xa, các gia đình tìm cách đi báo để họ có mặt ở địa phương trong vòng một tuần lễ kể từ hôm nay. Tất cả các ngành, giới, các đoàn thể nam phụ lão ấu đều tập trung vào nhiệm vụ sống còn: chống đói và cứu đói. Cách mạng rồi, giải phóng rồi, không thể để xã Hạ Vị diễn lại cảnh chết đói, chết rét, như năm ất dậu. Ai chống lại mệnh lệnh này sẽ bị coi là kẻ phản động và bị trừng trị đích đáng. Cái quyết định vừa đanh thép vừa thống thiết. Người đọc quyết định là xã đội trưởng có bộ mặt lạnh lùng trang nghiêm, cái giọng hùng hồn trang nghiêm khiến người nghe không thể coi thường. Quyết định của ủy ban như trời giáng, hất bỏ đi cái việc từ xưa đến nay hàng ngày nên làm sao có thể bỏ qua được. Lấy gì mà chống mà cứu đói. Khoai lang thì sương táp chưa lại cây, ngô đỗ chưa nhú lên khỏi mặt đất! Hay xúc đất về mà ăn với nhau. Ai cũng thắc mắc chưa thông, cũng lo sốt vó và ấm ức với cái quyết định tai quái nhưng cả hàng nghìn con người vẫn ngồi chật ních trong đình ngoài sân, ngồi và đứng xuống cả dệ cỏ, đứng cả ngoài đường. Ngồi đâu, đứng đâu cũng nghe thấy cả, cũng tức tối cả nhưng ai cũng chờ, cũng mong đợi một người nào đó sẽ nói hộ nỗi ấm ức trong lòng mình. Chỉ đứng và ngồi thin thít mà ước. Ước gì có người nói, nói quá lên một chút cũng được, nổi khùng và phá bĩnh cũng được, chúng tôi sẽ hoan hô nhiệt liệt, sẽ ủng hộ mạnh mẽ, chúgn tôi chỉ dám ủng hộ thôi. Thông cảm, tôi không nói ra được. Nói ra nhỡ không phải đầu lại phải tai. Giá một thân một mình còn dễ. Còn vợ con, mấy miệng ăn đều trông vào mình.
Ai cũng biết tính toán chi li, tất cả đều khôn ngoan, lấy đâu ra kẻ dại dột thắc mắc hộ mình.
Quyết định đọc xong một lúc khá lâu, xã đội trưởng giải thích như có ý “lấp chỗ hổng”, chờ ai đó. Dân làng ai cũng lặng im rất trật tự như lắng nghe chăm chú nhưng là cũng để chờ đợi một cái gì đó. Khi biết không chờ vào cái gì nữa, tiếng ca thán; lời trách móc nổi lên, lúc đầu còn rì rầm ở ngoài chỗ tối, sau lan vào đến giữa đình, ồn ào như họp chợ. Lúc ấy, Hà cùng với mấy người lạ mới từ đâu về.Ông mặc bộ quần áo cánh gụ, phía ngoài khoác áo Mỹ chun ở giữa và quàng cổ bằng chiếc phu la bằng len ô màu nâu. Ông đứng chỗ sáng nhất, tươi cười rất có duyên khiến các cụ bảo cái miệng và hàm răng cười ấy mà không phải là người hoạt động thì có đến hàng trăm cô gái phải lăn xả vào mà chết đứng chết ngồi. Ông chưa nói gì, hàng nghìn người đã im tăm tắp. Làng thừa biết chính ông là người đẻ ra quyết định này, và cũng lại ông có thể xóa bỏ nếu ông thấy không hợp ý dân, không đem lại lợi ích gì cho dân. Ngoài ông, ai bàn lùi, ai phá ngang chỉ tổ mang vạ. Ông Hà chỉ nói mươi lăm phút rồi hỏi mọi người còn gì chưa thông, còn gì thấy khó, cứ nói. Có nói hết với chính quyền những ý nghĩ của mình thì công việc mới chạy. Nhắc đi nhắc lại ba lần vẫn thấy im lặng như tờ, ông nói :
“Thế là coi như toàn dân không ai phản đối quyết định của ủy ban. Ai làm sai quyết định này là phản lại nguyện vọng của toàn dân, sẽ bị nghiêm trị”.
Lúc ấy Tuy “cau con” suốt năm vào Thanh, lên Thái, lên Tuyên buôn bán cau con, là người cũng “lợi khẩu”, đứng dậy “rào rỡ” bằng những lời hết sức văn hoa, lễ phép khiến ông Hà nhăn mặt yêu cầu anh ta nói thẳng điều định nói.
- Vâng, tôi xin phép hỏi ông chủ tịch, như thế này có sợ xâm phạm đến quyền tự do dân chủ của mỗi công dân mà chính phủ ta đã đem lại cho toàn thể nhân dân lao động không ạ?
- Tôi nói ngay là không xâm phạm. Vì anh có quyền làm ăn, buôn bán thì chính quyền cũng có quyền bắt mọi người công dân không được bỏ ruộng.
- Thửa ruộng đất nhà chúng tôi đã gieo trồng cả, lúc rảnh rỗi nhất là tháng ba ngày tám đói rách...
- Anh chưa làm gì hết. Cả hai sào rưỡi vườn anh đang bỏ cho cỏ mọc.
- Báo cáo ông chủ tịch đấy là trong vườn, quyền của mỗi gia đình người ta muốn làm gì thì làm, từ xưa đến nay vẫn thế.
- Đừng lầm chúng ta chỉ có ruộng công điểm. Mà ngay ruộng tư cũng không cho phép được bỏ hoang hóa.
Thấy đã có vẻ yếu thế. Tuy nói giọng nịnh, thân tình.
- Được ông chủ tịch cho phép, chúng tôi cứ mạnh dạn nêu chung như thế chứ không có ý gì. Xin ông cho tôi hỏi thêm.
- Anh cứ nói tự nhiên, nói hết sức thoải mái, chúng ta tranh luận với nhau tự nhiên.
- Nếu vợ con chúng tôi ở nhà đảm nhận được việc đó để chúng tôi đi kiếm ăn lúc này, cũng là nhiệm vụ cứu đói.
- Trước mắt tập trung toàn bộ nhân lực đã. Và, anh nhớ là quyết định đã nói rồi không ai làm thay cho người khác nếu người đó còn sức lao động. Những biện pháp sau này mới thấy rõ trách nhiệm của từng người trong từng công việc.
Tuy ngồi xuống một lúc thì một ông đầu chít khăn nâu vá, khoác bao tải đứng phắt dậy :
- Tôi chưa thấy ai cấm dân chúng đi làm kiếm miếng ăn như chính quyền hiện nay. Tưởng giải phóng rồi không phải kìm kẹp, ai ngờ.
- Thật không ai ngờ cả tuần nay, không ai họ thuê, cả nhà phải ăn cháo cám mà ông còn tiếc thân phận của một người bị rẻ rúng, ế ẩm đến thế.
- Độ một tháng nữa không ai thuê mướn cũng không ai bắt tôi phải bỏ việc đó.
- Chính quyền sẽ bắt ông phải ở nhà.
- Thế chính quyền này là phát xít à.
- Không. Vì không là phát xít mới không cho phép ai được quyền chết đói, chết rét, chết lúc nào không ai hay.
- Tôi còn sức lực, tôi phải làm thuê làm mướn kiếm ăn, không ai bắt tôi được.
- Ông còn sức lực thật không?
- Sao lại không?
- Thế thì càng tốt. Tôi sẽ bắt ông ở nhà.
- Gia đình tôi chết đói ai chịu trách nhiệm.
- Chính quyền xã này sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Ngay ngày mai ông đi cách đây mười lăm ki lô mét gánh cho xã một tạ giống.
- Người khác cứ làm trước, chúng tôi làm sau.
- Thật không.
- Lại chả thật.
- Có lẽ nói đùa với ông như thế là đủ rồi đấy. Tạ “giống” ngày mai ông đi gánh tức là tạ thóc cứu tế cho gia đình ông đấy. Đến đây chắc ông không phản đối. Nhưng nếu thực sự là tạ giống của xã mà xã yêu cầu ông, ông cũng không được phép phản đối. Tại sao những năm dưới chính quyền tổng Lơi ông ngoan ngoãn thế. Việc phu phen hầu hạ cứ răm rắp, ông quen chỉ biết làm tôi tớ, ăn xin ăn nhặt, ngửa tay xin việc kiếm miếng ăn. Còn lúc tự mình làm chủ lấy công việc, làm chủ lấy ruộng đất, làm chủ lấy đời mình thì lại phá ngang, ăn nói chấp chửng. Tôi xin nói ngay là từ nay ông không thể chống được bất cứ một quyết định nào của chính quyền, trừ phi mệnh lệnh ấy sai lầm. Ngay một tạ thóc cứu tế, chính quyền cũng phải có mệnh lệnh cho gia đình sử dụng từng bữa số lượng bao nhiêu, ăn cách nào chứ không thể để ông tự tiện sử dụng bừa bãi để độ ba ngày sau cả nhà lại ăn cám.
Sau cái phút bực bõ với một người suốt đời chỉ thích ăn vay, làm thuê, ông Hà công bố tất cả những công việc phải làm kể từ ngày mai. Từ ngày mai mỗi nhà sẽ trồng bao nhiêu ụ khoai lang bao nhiêu gốc bầu trắng, bao nhiêu bè và ruộng rau muống! Từ ngày mai sẽ phải đào các hố tiêu, mua nồi sành đựng nước tiểu, phân lợn phân trâu, tro và lá tre lá cây để làm phân xanh sẽ được hướng dẫn và tổ chức làm đồng loạt. Từ ngày mai, mỗi đoàn thể, mỗi nghành giới phải làm những công việc gì! Và, những ai phải cứu tế thóc, khoai ngô do nhà nước và các xã bạn tương trợ, những ai vào các tổ đi nhận thóc của nhà nước và về xay giã lấy tỷ lệ phần trăm vân vân. Bao nhiêu công việc của hàng mấy nghìn con người cứ đâu vào đấy. Quan trọng là một tổ chức chặt chẽ đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, chính xác tới tổ, từng xóm. Thành ra đầu cuộc họp là nỗi khổ, ấm ức, cuối cuộc họp đã là sự sung sướng thỏa mãn. Đã bảo mà. Ông Hà đã làm việc gì thì cứ đầu vào đấy. Có thể, người ta mới được tỉnh, được huyện kính nể, cái gì cũng ưu tiên cho nhân khẩu ít nhất cũng được mười cân thóc thì có thức suốt đêm nay mà khen ông chủ tị đã thấm gì. Riêng thằng Sài, nhìn chú vừa kính phục vừa hãnh diện nhưng không phải nhờ chú mà ba ngày sau, khi các đội thiếu nhi được tổ chức, nó đã được bầu làm liên đội trưởng của ba xóm thuộc thôn Hạ Vị. Người lớn, trẻ con làng này quý nó ở nhiều nhẽ; gặp ai nó cũng chào hỏi, thưa gửi rất lễ phép. Trông mặt mũi khôi ngô, lại có vẻ lành dễ thương, nhưng lại rất tháo vát,nhanh nhẹn và chịu khó. Song cái điểm quan trọng hơn là nó chăm học và học nhất làng, lớp bốn. Nó nói và viết đâu ra đấy. Quyển sách bài tập của lớp bốn nó thuộc từng con số, từ đầu đến cuối. Những buổi thiếu nhi tập trung tự học một hai ngày nó nói còn hay hơn cả anh phụ trách. Dù hay hơn các anh, nó vẫn ngoan ngoãn nghe các anh bảo ban dạy dỗ nên các anh cũng quý nó. Mỗi khi có người phát biểu “Bạn Sài chê vợ không xứng đáng làm liên đội trưởng” thì các anh phụ trách đều tức giận và bảo: “Em nào nói thế là vô kỷ luật”.
Không đêm nào liên đội của Sài không tập trung đi hô khẩu hiệu rồi về sân nhà ông Cần học hát, học múa. Sài còn dạy các bạn học hành làm tính, học viết chữ. Liên đội của Sài làm gì cũng đông đủ, được khen, được giải nhất. Dăm bảy tháng sau toàn xã Hạ Vị đã “ăn nên làm ra”, các đoàn thể tiến rầm rập, Sài là một trong năm thiếu niên tiêu biểu nhất của toàn xã trở thành thiếu niên tháng 8. Giữa cuộc mít tinh của toàn xã Sài dẫn đầu đoàn Thiếu nhi tháng lên đứng giữa khán đài để nhận danh hiệu vẻ vang. Chú Hà đại diện cho huyện và xã quàng khăn đỏ cho các cháu. Khi chú đến bên, Sài thấy khăn đỏ cho các cháu. Khi chú đến bên, Sài thấy run lên vì sung sướng. Sài chưa biết nói câu gì, chú đã cúi xuống quàng khăn vào cổ cho cháu và nói nhỏ: “Cấm được bỏ vợ đấy nhé”. Không ngờ cái câu đó như một tảng đá khổng lồ đè lên người Sài khiến cậu bé 14 tuổi ấy đứng chết lặng và khi bạn đẩy lên hứa hẹn cậu mới như tỉnh ra nói được một câu: “Chúng cháu xin hứa suốt đời thực hiện lời căn dặn của các chú trong buổi tối hôm nay”. Các bạn đều ngơ ngác vì những buổi tập duyệt của Sài suốt mấy ngày nay cho lời hứa hẹn của mình không hề có câu ấy!
Ngày hôm sau và có thể mãi mãi sau này không ai còn xây nhà kiểu nhà như nhà ông đồ Khang hồi ấy. Năm gian nhà xây lợp cỏ tranh và lá mía lùn tịt khiến ai đã gọi là người lớn vào nhà đều phải cúi. Ba mặt và cửa của hai gian buồng xây kín như bưng. Ngày cũng như đêm phải cầm đèn, cầm đóm mới khỏi vướng vấp, va đập. Gian bên phải đựng chum vại, vò, lọ, đồ ăn thức đựng và một cây sào trê treo dọc tường oằn xuống bởi đủ loại quần áo lẫn với bao tải và chiếu rách. Gian bên trái là “buồng vợ chồng thằng Sài” ở đấy thì chưa một lần nào Sài quay mặt nhìn vào phía cửa buồng ấy. Nó không chê vợ nữa. Chuyện đó không hoàn toàn do sự ép buộc của ông đồ, cũng không hẳn là sợ chú và anh đe nẹt, nó lo đến vai trò gương mẫu của một liên đội trưởng, nhất là khi được trở thành đội viên “Tháng 8” đầu tiên của xã. Nó rất sợ tiếng xì xào bàn tán ở bất cứ chỗ nào của người lạ cũng như người quen. Thành ra, nó chỉ yêu vợ ở mỗi chỗ đông và bằng sự im lặng. Nghĩa là, trước đám đông, dù chỉ là ba người, nó không được nói, không được làm việc gì để người ta nhận thấy giữa nó và vợ nó có sự hục hặc. Nó vẫn phải đi với vợ đội đĩa xôi, đĩa thịt, bát canh bí đến nhà bố mẹ vợ ngày Tết và vẫn phải “Thưa thầy mẹ, nhân ngày xá tội vong nhân, vợ chồng chúng con có chút lòng thành...” Cả bố mẹ, anh chị cả họ hàng nội ngoại nhà vợ đều thỏa mãn về vợ chồng thằng Sài đã yêu thương nhau, “vẫn đi với nhau”. Riêng chỉ có Tuyết, cô gái của dòng họ Hoàng ấy là biết rõ thân phận mình. Đã sang tuổi mười bảy, cái tuổi dậy thì của người con gái mỗi ngày như trông thấy cái cơ thể dồi dào của mình cứ phồng lên, cái lớp da mịn màng của mình cứ mát mẻ mà êm ái căng đầy lên, đã thấy khao khát đến cháy khô đôi môi mọng đỏ trước những cái nhìn đăm đăm của người con trai, đã thấy phập phồng chờ đợi mỗi đêm nghe thấy tiếng chân chồng chạy về nhà. Nhưng không. Những lần “đi với nhau” Sài thường chạy đi trước hoặc tụt lại thật xa. Khi đến gần cổng “nhà ấy”, Sài mới chạy dấn lên để cùng “vợ” đi vào cổng. Và sau khi nhắm mắt, nhắm mũi nói xong cái câu ông bà đồ bắt học thuộc, Sài xin phép bận đi gọi họp, đi báo anh phụ trách, đi thu tiền nguyệt phí... Bao giờ Sài cũng tìm cách rời khỏi “nhà ấy” nhanh chóng. Còn ở nhà mình, Sài cũng tìm cách ăn trước hoặc ăn sau. Bất đắc dĩ có phải ngồi cùng một lúc Sài cũng không ngồi cùng một phía, không còn đối diện với Tuyết qua đầu nồi, không nhờ xới cơm. Và bát cơm nào Tuyết đã chấm thì nhất định Sài phải tìm bát, rót tương khác, chấm riêng. Tất cả những trò ấy, ông bà đồ biết cả, tìm cách uốn nắn cả nhưng Sài vẫn có cách để làm theo ý mình. Bảo mãi không được, chuyện đó coi như là chuyện trẻ con không chấp. Duy chỉ có việc ở nhà hai đứa, ông bà đồ vẫn còn khổ sở. Thằng Sài hãi tối. Đêm nào đi họp về nó cũng túm lấy áo bạn đợi khi nào mẹ mở cửa đón nó mới buông bạn ra. Nhưng ngủ với mẹ ở dưới bếp bị đuổi chạy lên nhà chui vào bên bố cũng bị đuổi, nó nằm lăn ra tràng kỉ. Nằm đấy cũng không được, nó ra sân đứng, gục đầu vào cái gì đó mà ngủ. Có sáng dậy, bà đồ thấy con ngồi dưới sân, gục đầu lên thềm nhà nằm, bà ứa nước mắt, kéo con vào giường mình và đến tối nó đi họp về lại cho nó ngủ cùng. Được dăm ba hôm lại phải đuổi nó. Cũng có lần phải vào buồng vợ, nó đứng nấp sau cánh cửa, đợi bố mẹ đi ngủ, nó lại rón rén bước ra. Lần căng thẳng nhất cách đây mươi ngày. Đợi cho nó đi họp về, ông bà đồ bắt con vào buồng rồi khóa cửa lại. Suốt năm đêm như thế, thấy yên ắng, chắc là chúng nó quen hơi nhau rồi, nào ngờ đến đêm thứ sáu, khi bà đồ khóa cửa định quay ra thì con dâu thì thào gọi bà mở cửa. Cô chạy xuống bếp khóc và xin nằm với mẹ để anh Sài lên giường kẻo cả năm đêm vừa rồi anh ấy nằm dưới đất.
Tất cả những chuyện đó đều không hề vỡ lở ra ngoài. Bởi vì với Tuyết, dù cô đã mong đợi và sẵn sàng ở tư thế của một người làm vợ nhưng cô là con gái chưa quen mùi đàn ông, chưa có một thói quen như một sự nghiện ngập, phải cồn cào điên loạn khi không có chồng “vẫn đi với nhau”. Cô hãnh diện với nó, sống với tất cả sự chấp nhặt của lòng tốt “vun vào” của xung quanh, của sự mong mỏi của người thân thiết và của cả chính mình. Chỉ cần nghe một câu tán tụng, một sự gán ghép, một lời nhắc nhủ có dính líu đến tên Sài và cô, đến “nhà em” và “anh ấy” là cô thấy bừng nóng khắp cả người, nhâm nha sự sung sướng ấy đến hàng tuần, hàng tháng.
Còn ông đồ vẫn là người “quyết liệt” nhất trong sự yêu thương của vợ chồng Sài thì cũng không thể làm gì ồn ã được nữa. Thứ nhất, ông vốn là người hiền, ngoài sự nghiêm ngặt bắt con cái “giấy rách phải giữ lấy lề” ra, bản thân ông ăn gì cũng xong, ai cho con đến học có trả tiền công hay không cũng đều như nhau, đứa giỏi ông trọng, đứa dốt ông thương. Đến bây giờ vẫn có người làm nhà hay ma chay xa hàng mấy chục cây số cũng mời ông đến cho câu đầu, câu đối, chữ thêu trướng. Ông không bao giờ ngần ngại từ chối. Thứ hai, là trong đời, có nhẽ ông chỉ một vài lần nổi nóng như chuyện đuổi đánh thằng Sài mấy năm trước. Sau lần ấy ông thấy xấu hổ với dân làng, vài ba tháng sau không dám ra khỏi nhà. Cuối cùng, ông tin chắc rằng không đời nào ông Hà, thằng Tính và các đoàn thể người ta lại cho thằng Sài bỏ vợ trừ phi nó biết chí thú học hành, ông tin mai kia nó lớn mọi việc sẽ đâu vào đấy, thành thử ông không bó buộc nó gắt gao trong việc này như trước đây.
Nhờ thế, cuộc hôn nhân của hai đứa trẻ cứ “êm ả” trôi đi. Chỉ riêng Sài âm thầm cay đắng không thể kêu ca, không thể giãi bày. Người ngoài khen cô Tuyết càng lớn càng xinh ra, mặt mũi cứ tròn vành vạnh như mặt trăng. Sài lại thấy(đôi khi bất chợt nhìn thoáng qua chứ có bao giờ dám nhìn lâu), cái mặt ấy trông chảy ra, phèn phẹt như mẹt bánh đúc. Người ta bảo: Cô Tuyết khoẻ mạnh, chắc chắn, làm ăn đâu ra đấy. Sài nghĩ bụng có khác gì cái chĩnh đựng đỗ giống, người ngợm mỗi khi chạy trông cứ như lăn. Người ngoài bình phẩm hiếm người hiền lành như cô Tuyết, Sài cho đấy là loại người ngu, cả ngày không mở mồm nổi một câu.
Không phải thế. Cô bé chẳng có tội tình gì và cũng không đến nỗi nào. Thả ra, nếu được lựa chọn, được tìm người ưng ý, có thể lấy khối người, nhưng bố mẹ đã gả bán cô cho nhà ông đồ, cô đã là gái có chồng, cô không ăn đổ làm vỡ, không trai trên gái dưới, không ai có quyền đuổi cô đi khỏi nhà này. Nhất là bây giờ, Sài đã là liên đội trưởng, được đi cắm trại và nhận phần thưởng thiếu nhi ngoan và học giỏi nhất huyện thì không thể nào đuổi cô đi để tự anh ta trở về tay trắng. Hiểu rõ cái thế của mình nên đôi khi Sài nằm đất, nằm hè, đứng bờ, đứng bụi mà ngủ Tuyết cũng thấy tội, nhưng nghĩ lại, anh có tự hành hạ mình đến đâu và đem giao kề cổ, cô cũng không đi kia mà. Làm sao lại không yêu nhau để cô chăm chút cho mà học hành và có vợ có chồng đầm ấm vui vẻ, việc gì phải khổ sở như thế. Bạn bè cùng tuổi với cô ở làng này bao nhiêu đứa có con, có đứa sắp hai con rồi! Cô bé tìm ra chỗ yếu của Sài. Sài đành chịu số phận hẩm hiu để cho mọi người, cả người thân thuộc lẫn kẻ dửng dưng đều hài lòng vì cậu không chê vợ. Nhưng thực sự thì đừng ai bắt, ngay Sài cũng không tài nào bắt mình phải nói cười, phải làm lụng, phải ăn uống, phải sai bảo và đi lại với cô ta được. Từ sáu bảy tháng nay Sài phải sống thành hai con người, mười bốn tuổi đầu đã phải sống hai cuộc đời thật và giả. Ban ngày, chỗ công chứng là con người giả sống cho vừa lòng mọi người: yêu vợ. Ban đêm khi có một mình là con người thật: không thể nào chung sống với con người mình ghét bỏ từ đầu đến chân. Thành ra, bất kể lúc nào, bất kỳ ai có hỏi: “Sài có yêu vợ không?” Sài sẵn sàng nói như cái máy: “Có”. Nhưng đêm đêm đi học, đi họp về, có ai cầm dao dọa giết cũng không thể bắt Sài leo lên cái giường ở buồng bên trái nhà. Dù có len vào đấy thì cũng không ai có quyền kiểm soát cái khoảng tự do cuối cùng của tình cảm và quyền làm người của Sài.
Sài cố dồn sức lực, cố phồng mình lên để cái phần sống ở chỗ đông người, chỗ ban ngày được khen ngợi trầm trồ, còn ban đêm với riêng mình, nó tự giết đi những xao xuyến thèm khát một hạnh phúc thực sự.
Nhưng khốn khổ thay, Sài cũng là một con người không thể nào triệt hạ được tình yêu khi con người đang sống, đang khao khát sống bằng sự dồi dào của mình. Bốn năm sau, khi Sài bước sang tuổi mười tám, tuy tốt nghiệp lớp bảy trường huyện và đỗ vào lớp tám của tỉnh nhưng anh lại bỏ về làm trưởng ban phụ trách thiếu niên xã. Năm ấy vỡ đê bồi, làng Hạ Vị thiệt hại chưa từng thấy. Sau trận lụt, chuyện của Sài còn to hơn chuyện vỡ đê bối, còn cuốn hút mọi người hơn cả dòng nước vỡ cuốn mất mười bảy ngôi nhà ở thôn Cam Bồi. Với riêng Sài, có thể đây là một điểm vỡ ra của những năm tháng chắp vá, gượng gạo chăng? Ai sẽ là người ủng hộ Sài dù đó là sự nhen nhóm. Nhưng mà cuối cùng vẫn là quyết định của Sài. Anh đã có một quyết định dũng cảm. Vậy mà biết đâu chính nó lại là sự hèn nhát.
Đã thành lệ, từ giữa tháng sáu ta, khi trời nắng đến mức nước trong giếng, trong bể, trong chum vại cũng như luộc chín đám rêu khiến nó nổi váng lều phều trên mặt và giông bão sẵn sàng nổ ra từ giữa oi ả nồng nặc thì làng phải gấp rút chuẩn bị đối phó với mùa lụt. Người ta bắt đầu pha tre, mua nứa, đi chợ Dầu, chợ Cháy mua sơn. Mỗi nhà phải cố chạy vạy để có một chiếc thúng câu. Những người cuốn vó bè, đánh lưới, thả rọ, đi chợ Cống, chợ Hồi sắm sửa đồ nghề. Trẻ con mua dậm, mua thời, uốn lưỡi câu. Người già chẻ lạt gác gác bếp đánh con xỏ, con nín sẵn sàng bắc gác. Đàn bà dỡ đống cây ngô ở đồng, nhổ hết cây đỗ gánh về đánh đống ở đầu nhà. Sự chuẩn bị vừa hốt hoảng lo sợ, vừa háo hức mong chờ, niềm vui và nỗi buồn xô bồ cẩu thả đang bừa bộn ngổn ngang thì nước sông đã ăn lên lem lém nuốt chửng cả cánh bãi xanh non mênh mông lúa lốc và vừng. Những ngày mưa ngâu ào đến, ào đi như một thứ trò đùa tai dai dẳng. Những đêm chớp nháy liên hồi ở chân trời đằng đông gọi nước lên nhanh như tát, chả mấy chốc mà tràn cả làng. Tiếng trống thúc ngũ liên, tiếng loa hối hả suốt ngày đêm gọi người lớn đi hộ đê quai, giục trẻ con người già, trâu bò, lợn gà chạy vào đê chính. Nồi niêu chăn chiếu gác lên sàn. Nhất thiết mỗi gia đình phải xay ngô lấy lõi đủ mười ngày ăn. Làng quay cuồng mù mịt trong nỗi hoảng loạn, riêng bà đồ Khang gần như mấy ngày hôm qua không hề ngả lưng. Thằng Sài đi thúc loa khản đặc cả cổ, chạy ngược chạy xuôi hò hét, khiêng vác khắp làng, khắp xã, không thèm nhìn nhận đến nhà. Con Tuyết đi hộ đê. Còn ông đồ chỉ quay ra, quay vào với vài cây cau ương mới nhú mầm không biết gác lên đâu. Mọi việc từ đánh lại đống ngô, san vò tương để bê đi gửi, đóng bè cho mẹ con nạ chó, làm gác đặt ổ gà đẻ, đến đào hố chôn phân gio, xúc ngô đỗ đi gửi, bó buộc quần áo, chiếu chăn, xanh nồi bát đũa, lọ nhớn lọ bé, chai to, chai nhỏ, thôi thì đổ hết lên đầu bà. Chỉ có bà, như một con ở của cái nhà này, chỉ có bà phải ăn, phải dùng những thứ đó nên bà lo chứ ai ngó ngàng đến. Thằng Sài mà vác mặt về đây bây giờ thì không yên được với bà.
Nhưng thằng Sài không về. Đến quá nửa đêm đê quai vỡ ở chỗ cây đa còng cách đầu làng đến dăm cây số mà nghe tiếng nước ầm ầm rung chuyển như bom. Tiếng kêu la truyền đi rùng rợn, thảm thiết, làng nọ ríu vào làng kia, tiếng kêu như ong, hàng mấy giờ đồng hồ vẫn chưa thấy được nước chảy đến, lúc ấy thằng Sài chạy về đứng ở đầu nhà hỏi: “Thầy mẹ đã chạy hết mọi thứ chưa?” Bà đồ uất đến lặng người, chỉ chờ nó bước vào sân là sẽ chết với bà. Nhưng nó lại biến mất hút rồi. Không trút được nỗi bực dọc cho con giai bà quát con dâu và chông, cả nhà cuống quýt gánh, đội, ôm, vác mọi thứ chạy lên đê quai. Trong khi đó Sài bế trẻ em, đội ngô, ôm quần áo hết nhà này đến nhà khác và cũng chạy lên đê. Nước đã tràn về ào ạt như gió, trong chốc lát cánhh đồng lởm chởm mấp mô đã trắng băng. Tiếng kêu ré lên, tiếng quát tháo của các xóm phía trong gấp gáp. Sài chạy trên mặt đê, gọi loa, yêu cầu thanh niên đẫn chuối bơi vào đồng cứu bà con chưa chạy sang bên kia sông nhờ đoàn sà lan sang cứu người, cứu của. Đêm ấy Sài cùng các công nhân, chở hết người chưa chạy kịp trong các xóm, xong lại chở nốt người, lợn, gà, trâu bò đã chạy lên đê quai vào đê chính. Chuyến cuối cùng họ “rà” từ đầu làng đến cuối xã nhưng không còn gì. Anh cởi quần dài cuốn lên đầu, nhảy ùm xuống bám vào đoạn chuối nổi mập mờ ở bên cạnh. Anh chỉ cần bơi dăm chục mét đã tới nơi anh định tới. Đó là cái cổng nhà tổng Lơi. Phía trên lối ra vào nó xây thêm một tầng nữa. Tầng ấy và sân thượng dùng làm nơi canh gác của hương dũng. Tổng Lơi chạy đi Nam, tòa nhà của nó ta tịch thu làm trường học và một nhà ngang tạm thời làm trụ sở ủy ban xã. Còn cái cổng được rào lại, phía trong đựng đầy rác rưởi, phân dơi, phân chuột và cóc nhái chết đã khô đen. Đã nhiều buổi chiều và đêm sáng trăng Sài bí mật leo ton tót lên sân thượng. Bước đến nơi quen thuộc Sài còn thích thú hơn cả về nhà mình. Trời gần sáng, trăng vẫn vằng vặc. Năm nào cũng thế, khi nước đã tràn vào đồng là lúc chấm dứt những ngày mưa, trời trở nên quang đãng khô ráo, trên thì vằng vặc về sáng. Khi anh tỉnh dậy mặt trời đã chếch sang tây, ánh nắng đốt vài khuôn mặt nằm nghiêng khiến anh vừa mở mắt ra đã thấy tối sầm lại. Cả nền xi măng, cả quần áo đắp lên người nóng rẫy, không thể nằm tiếp tục được nữa. Phải một lúc lâu anh mới như tỉnh, mới tin vào mắt mình khi nhìn thấy nước đã mấp mé mái tranh của những nhà cao. Những nhà thấp đều đã ngập lưng mái. Những vườn chuối tiêu cũng ngập bủm từ bao giờ. Những rặng tre lơ lửng vô số túi bọt bong bóng của ễnh ương, và kiến kéo nhau vón thành từng ngấn dài đỏ ối như đường ranh giới trên ngọn tre. Một con gà mái không hiểu của nhà ai đang từ nóc nhà “ủy ban” bay vọt lên, bay quá đà phải gắng gượng chới với mới bám được tầu cau. Nó lẩy bẩy khó nhọc mới lần tới sát bẹ, nép vào đấy nằm một lúc lâu lâu, cái đuôi cong dớn lên rồi cụp xuống, một quả trứng lộ ra, rơi tõm xuống nước. Con gà mãi không hề biết mình đã đẻ vào trống không, nó chỉ còn nhớ một thói quen là “cộc tác” một cách hốt hoảng như có ai đuổi bắt và vội vã bay lao vào bụi tre đầy gai góc, rắn rết.
Ngồi một lúc, anh quyết định phải đi kiếm cái gì ăn. Biết đâu mình chả phải ở đây vài ba ngày nữa mới có thuyền thúng qua lại. Anh vo tròn bộ quần áo dài nhét vào khe tường, nhao xuống ngâm mình trong nước đặc sánh phù sa. Anh có cảm giác đang ở trong một bể nước làm kem sắp sửa đông lại, khắp người thấy khoan khoái tưởng có thể sức này bơi độ hơn ba cây số vào tận đê chính còn thừa. Về đến nhà mình, nhẩy lên đầu hồi quanh quẩn mãi anh không tìm được lối vào nhà. Định rỡ mái chui từ khe đòn tay xuống, anh chợt nhớ trong nhà không có gác, mọi thứ gửi ở nhà mới ngập đến lưng chừng, nhưng cửa khoá, buộc không thể vào nổi. Sài rỡ tranh chui vào gian bếp. Bếp cũng sạch trơn, chỉ có nmột sàng khoai lang mới luộc tối qua, đổ ra gác lên đây cho nguội không kịp ăn và khi chạy bỏ quên. Sài đu mình lên quá giang, ngồi ăn chưa hết một củ đã nghẹn tắc lại. Khoai bở và anh lại ăn ngấu nghiến, làm sao chả bị nấc. Anh mỉm cười về sự tham lam vội vã của, rồi vươn tay xách luôn cái ấm đất thung treo ở tường. Nhét đầy ấm vẫn chưa hết một nửa chỗ khoai, anh giải phóng luôn chiếc quần đùi buộc túm lại. Trở về chỗ cũ trên cổng anh đặt khoai một góc, lấy ấm múc nước dựa nghiêng vào bờ tường đợi lắng, vắt nước quần xuống nền xi măng cho đỡ nóng rồi đội lên đầu dấu đậy điệm. Chợt có tiếng lao xao. Anh nhìn ra cánh đồng nước. Giữa mênh mông nổi lênh đênh những đống cây ngô, cây đỗ và những mảng tranh, những cây đòn tay, cây xoan, cây chuối, thấy chiếc đò ngang đang hướng mũi về phía mình. Vội vã mặc quần áo, chui xuống tầng lô cốt đầy rác và các thứ khác, chỗ con đò đã áp mạn vào đấy. Hương, cô bé duy nhất ngồi trên đò không giấu nổi sự mừng tủi :
- Trời ơi an Sài. Đi sang bên kia sông với tôi đi.
- Có việc gì đấy Hương.
- Sang chỗ anh trai tôi chơi, sáng mai về.
- Thôi có lẽ Hương đi. Tôi ở đây đợi lát nữa có đò vào trong ấy luôn. Hay là Hương lên đây chơi, đợi thuyền ra tôi đưa Hương đi.
- Có lâu không?
- Chưa biết nhưng chắc cũng nhanh thôi.
Đang chần chừ, một anh lái đò giục Hương định thế nào, quàng lên để họ còn về đón khách, Hương hỏi :
- Nhưng có đò thật chứ.
- Nếu lỡ, Hương có dám ở đây chơi lâu không?
Nói xong câu bóng gió ấy mặt Sài đỏ bừng, hơi cúi. Hương lướt nhanh đôi mắt to, rất đẹp, và thông minh nhìn Sài, hai má ửng đỏ, cô cũng mỉm cười hơi cúi. Một trong hai người lái đò khuyên :
- Cứ ở đây chơi, lát nữa thuyền thúng lại chả đầy.
Hương ngần ngừ rồi trả tiền, cám ơn, một tay giữ túi dết và nón, tay kia giơ ra cho Sài kéo lên. Khi con đò đã đi xa, cả hai người cũng nhìn chăm chú như thể mình là người phải lo lắng cho số phận của nó sắp phải ra giữa dòng sông cuồn cuộn sóng dữ. Biết mình im lặng là vô lý nhưng cổ họng cứ khô cứng lại, Sài không biết nên hỏi chuyện gì, nói gì với Hương bây giờ.
Hương là cô bé ở xã phía trong con đê chính, nơi vẫn quen gọi là nội đồng, nơi hàng mấy đời nay người làng bãi ăn thuê làm mướn, nơi đêm đêm những năm lên chín lên mười Sài đã vác vồ chạy theo người lớn vào ngồi dúi dụi vào nhau trên mặt đê hóng đơi người ta đến mướn. Cái nơi ăn trắng mặc trơn ấy con gái đẹp đã thành câu ngạn ngữ: “Trai tổng Thái, gái tổng Ninh”. Cái tổng Bái Ninh mà trung tâm là làng Bái Ninh, có chợ Bái sầm uất hơn cả phố huyện, con gái trăm người như một, trắng, thon thả và ăn nói dịu dàng như người trên tỉnh. Sài gặp Hương ở năm đầu tiên của trường cấp hai toàn huyện. Nói đúng ra, bốn huyện mới có một trường cấp hai, đi học lớp năm thời ấy còn oai vệ hãnh diện hơn, quan trọng và hiếm hoi hơn đi nước ngoài học phó tiến sĩ bây giờ. Sài là niềm hãnh diện duy nhất của xã Hạ Vị “lọt” lên được lớp năm, nhưng khi đến đấy, với bộ quần áo cánh nâu, đội nón, chân đất và một chiếc túi dết đã vá hai miếng của anh Tính cho, Sài thấy mình trơ trẽn trước tất cả các bạn trắng trẻo đi guốc, đi giày, đi dép, mặc quần phăng, áo trắng, áo len, áo khoác, đội mũ các kiểu. Con gái cũng mặc áo sơ mi cặp tóc, răng trắng. Sài nhìn họ như nhìn vào ánh nắng mặt trời, vừa rực rỡ lấp lá vừa chói chang phải tìm cách quay đi. Ngày khai giảng, Sài xếp hàng đứng sau cùng, phía trước anh là cô bé tên Hương. Thầy chủ nhiện vừa đọc đến tên cô ta, cả trường đều quay nhìn cô đi từ tốn và tự tin vào hàng. Cô ta còn thấp hơn Sài là khác, nhưng đi guốc cao mà Sài lại chân đất thành ra đứng chào cờ Sài chỉ nhìn vào cái gáy nõn nà của cô do hai hàng tóc rẽ ra cặp gọn ghẽ thành hai mảng đen mướt trùm xuống hai bờ vai. Ngay ngày thứ nhất của năm học mới ấy, Sài đã tìm cách tránh xa cô ta chỉ vì một lẽ giản đơn: Cho đến hôm ấy, Sài mới thấy một cô gái đẹp như thế, mà Sài lại là thằng bé quê mùa đã có vợ. Cả ba năm học cùng lớp, Sài ngồi bàn đầu tiên bên trái, còn cô ta ngồi bàn cuối cùng bên phải. Không bao giờ Sài nhìn xuống phía ấy, ngay cả khi cô ta lên bảng Sài cũng không nhìn. Lớp của Sài năm nào cũng đứng nhất trường vì trong đó có một lý do có lẽ là quan trọng nhất thầy nào giảng cũng hay, cũng tận tình sẵn sàng vất vả ngày đêm vì học trò. Mãi sau này, khi đã có thể coi nhau là bạn bè, anh em Sài mới biết cả mười một thầy trong ba năm học ấy đều bảo: “Vào lớp của cậu, thực ra mình chỉ giảng cho một người. Sài biết người đó là ai chứ. Mỗi khi bước đến lớp cậu, mình rất thấp thỏm sợ và không có gì buồn tẻ hơn nếu giờ ấy vì sao đó mà cô bé vắng mặt”. Tất nhiên, thầy nào cũng nói còn một người nữa là niềm tin, là chỗ tựa khiến không thể lơ là cẩu thả với giáo án, và giờ giảng của mình. Người ấy là Sài. Nhưng khi Sài không muốn và biét là không thể xếp sự hấp dẫn của anh ngang bằng với sắc đẹp của Hương. Hơn nữa anh chỉ giỏi tự nhiên, dù các môn tự nhiên của anh cùng ba học sinh của trường khác được coi là xuất sắc nhất tỉnh.
Hương rất ý thức được sắc đẹp của mình nhưng cô vào loại học giỏi. Cô kiêu kỳ nhưng sẵn sàng giúp đỡ bạn học kém. Tính tình kiên quyết đến tàn nhẫn và ngay cả lúc ấy vẫn thấy có duyên, thấy cô ta càng đẹp thêm lên mỗi khi tức giận và quyết đoán một việc gì đấy. ít nói, nhưng chàng trai nào định “nói gì”, cô đều mỉm cười và đôi mắt cũng cười như bảo: “Anh bạn ơi, thôi nói chuyện khác thì còn có thể ngồi nói chuyện được với nhau”. Riêng có Sài là cô mến. Nhưng cả Sài và cô đều cố “cương” lên một cách không cần thiết. Qua những người làm thuê trong xóm từ mấy năm trước, gia đình cô đã thương tình cảnh một anh Sài nào đó học rất giỏi phải sống ép buộc vì một lời hứa hẹn của bố mẹ, không ngờ đến nay lại cùng học một lớp và Sài vừa thông minh vừa cần cù đến thế. Hương rất thích cái tính chân thật, rụt rè của Sài. anh ta chỉ có một mình để học hoặc bạn nào đi cùng thì phải cùng học với anh ta. Hương tiếc mình bỏ phí đoạn đường đi về song cô lại không kiên trì học được như thế. Cô còn biết sáng sáng Sài phải dậy phải dậy từ ba giờ để học và nấu cháo độn ngô hoặc khoai lang, ăn xong bỏ vào túi dết vài ba củ khoai rồi chạy đi. Cả khi đi và về trên đoạn đường mười cây số, Sài học từng bước. Lúc tối thì nhẩm, nhớ lại bài cũ. Lúc trời sáng giở sách học bài mới. Chiều về chỉ có một bát bánh đúc ngô rồi đi họp, đi làm công tác đội đến khuya. Khi có thể ngủ yên lại phải trốn chạy lẩn tránh, nằm đất, nằm hè để khỏi vào với “vợ”. Nghĩa là chuyện gì xảy ra ở Sài các bà dến làm thuê ở làng Bái Ninh, đều kể và có phần thêm bớt cho ly kỳ hấp dẫn. Ai cũng bảo nếu thằng bé ấy nó được ăn uống đầy đủ, không bị cấm đoán quát nạt thì còn giỏi đến đâu!
Hương và hai cô bạn ở huyện khác về nhà cô trọ để cùng học với cô ngày nào đến gốc đa Phú Hòa cũng ngồi nghỉ để ăn mía và cắn hạt dưa. Họ ngồi ở đấy nghỉ và ăn đã thành lệ. Học sinh về đến đây và qua xã Hương chỉ có một mình Sài. Hương rất muốn Sài ngồi lại nghỉ và ăn cơm cùng nhưng không bao giờ cô mời. Lần nào không thể bỏ qua được, cô chỉ xui các cô bạn rủ anh. Không một lần nào trong ba năm học Sài ngồi lại đấy nghỉ với họ. “Đàn ông nhát thế là cùng”. Không phải như cô nghĩ. Tính Sài lủi thủi nó quen rồi. Ngoài cái lý do ấy ra, còn một điều Hương không sao hiểu nổi, chính những ngày ngồi trong lớp không qyay xuống nhìn phía bàn Hương thì Sài cũng rất buồn nếu chỗ Hương đi trước, Sài cứ muốn còn đường về đến đầu làng Hương dài ra nữa, để Sài đi mãi. Mải miết học đến đâu thì khi cách cây đa Phú Hòa chừng ba bốn trăm mét Sài cũng lướt mắt nhìn xem có Hương ngồi lại không. Về đến đây Sài vẫn không nhìn ra ngoài trang vở mà hai tai cứ nóng dậy lên. Và thật lòng, Sài rất muốn có cớ ngồi lại, nhưng không bao giờ thấy chợ huyện về trông thấy thì phiền. Thành ra Sài cứ phải nén mình lại vì Sài đã có “vợ” và không muốn mang tiếng là thấy cô này cô kia đẹp về ruồng rẫy vợ con...
Trong khoảng thời gian gần một giờ đồng hồ “chết”, đã ba lần Sài mời Hương ăn khoai và uống nước. Chỉ có lần đầu Hương từ chối còn hai lần sau cô im lặng và thở dài như ân hận một điều gì. Cũng trong thời gian ấy có hai lần anh đứng lên chống tay vào thành tường ngắm nhìn đồng nước như lạ lẫm, như mê mải. Cuối cùng chính Hương phải phá tan sự im lặng.
- Gần tối rồi liệu có đò không?
Nhận thấy vẻ sốt ruột có phần bực bội của Hương. Sài lo lắng thực sự. Anh đứng bần thần một lúc rồi mới nghĩ được cách :
- Hay là để tôi bơi ra đê quai. Thế nào cũng có thúng câu. Tôi nhớ tối qua khi mọi người lên xà lan hết rồi vẫn còn mấy cái buộc trên cây bằng chỗ chợ Quán.
- Có xa không?
- Chỉ độ nửa cây số.
- Thôi, Hương không ở lại đây một mình đâu.
Anh lại đứng đần mặt không biết sẽ bằng cách nào để đưa Hương về. Còn Hương thì vẫn cố nén những hơi thở buồn bã và lo lắng. Anh ái ngại :
- Cố đợi Hương ạ. Nếu tối không có thuyền thúng qua đây tôi tìm cách đóng bè chuối đưa Hương ra đê quai rồi ta lấy thuyền nan về, sáng trăng, lo gì.
Hương không đáp. Một lát sau cô mới hỏi :
- Hình như anh không thích Hương đến đây phải không?
- Sao Hương lại nói thế.
- Từ khi Hương đến anh tỏ vẻ không vui.
Lại đến lượt anh cố nén hơi thở, giọng anh buồn buồn của một kẻ yếu thế.
- Có những đêm một mình ngồi chỗ này ngắm trăng rất khuya, tôi chỉ ước có Hương ở đây.
Bỗng cô bé cười phá lên.
- Sài cũng mơ màng thế cơ à.
- Nhưng tôi chỉ ước ao thế thôi. Không bao giờ dám nghĩ là có chuyện đó.
- Thế anh Sài ước có nhiều không?
- Tôi biết thế nào Hương cũng cười tôi là viển vông.
- Nhưng anh có vợ rồi kia mà.
Dường như cô bé đã chạm vào chỗ đau nhất mà anh cố tìm cách dìm lấp nó đi, nhất là đối với Hương, anh cứ mong, một nỗi mong cũng rất viển vộng là cô sẽ hiểu rõ hoàn cảnh của anh hoặc là cô sẽ coi như không có chuyện đó ở anh. Như thế để làm gì? Anh không biết! Nhưng anh vẫn cứ mong như thế. Không ngờ cô bé tinh ma này đã giễu cợt và anh đã dại dột để cô ta biết được tất cả những ý nghĩ thầm kín của mình. Sau phút câm lặng vì xấu hổ, anh cố nói để cô hiểu rằng điều anh vừa tâm sự chả hề quan trọng gì đối với chính anh. Anh nói như một quyết định không cần bàn bạc.
- Thôi sắp tối rồi, Hương ngồi đây.
- Anh đi đâu?
- Mình đi tìm cây chuối quanh đây, đóng bè đưa Hương đi.
- Thôi, ngồi đây.
Thế là cái quyết định cứng rắn của anh tan biến ngay sau cái mệnh lệnh âu yếm của cô. Đợi Sài tần ngần ngồi xuống cô mới nói, không nhìn anh, cô nói như cho chính mình nghe cái tình cảm của mình.
- Anh biết không, từ sáng sớm, em đã đi dọc theo đê chỗ những người ở ngoài này chạy vào đêm qua mà không tìm thấy anh. Em hốt hoảng lo không biết anh đã có quyết định liều lĩnh nào đó hoặc vì sao đấy, mà hỏi những người quen đều không ai biết anh ở đâu, sau khi đã đưa mọi người lên đê. - Càng nghe cô nói, Sài càng cảm thấy giữa cô và Sài không có sự cách biệt nào nữa. Cô lo sợ tìm kiếm Sài như một người đã yêu nhau tha thiết, một người vợ lo sợ hoạn nạn của chồng! Cái tình cảm ấy trong cô có từ bao giờ và vì sao cô lại yêu anh, hay chỉ lo cho anh như một người bạn quý trọng nhau, một người em lo cho anh? Cô đi đò sang bên kia sông, nơi ông anh ruột cô ở bộ thuỷ lợi về phụ trách kè đá ở bến lở. Cô sẽ nhờ anh mượn ca nô đi tìm Sài. Nói được cái lý do để có quyền ấm ức khi gặp anh, cô mới kể vì sao cô lại thấy thương và sợ anh chết đến thế.
Nghĩ về anh thì lâu rồi nhưng rất ghét vì anh lúc nào cũng có vẻ như sợ hãi trốn chạy bọn con gái. Mới hơn một tuần nay, kể từ hôm xuống thị xã đến giờ, trong người cô không lúc nào không nghĩ về anh, một con người đáng kính trọng vừa thấy thương hại tội nghiệp. Hôm ấy Hương gặp thầy Chởi, trước là hiệu trưởng trường này, bây giờ là trưởng phòng tổ chức của ty giáo dục. Thầy hỏi Hương: “Em biết tin gì chưa?” - “Thưa thầy chưa ạ” - “Em được vào học đấy. Đợi thầy đến chiều lấy giấy báo luôn”. Trời ơi, Hương không thể nào tin vào tai mình nữa. Hương đã viết vì sao mình không đỗ nên không hề nghĩ tới ngày đi xem báo điểm vào lớp tám. Cả mấy tỉnh mới có một trường cấp ba, được vào đấy là mơ ước của hàng vạn học sinh chứ riêng gì ai. Bằng học lực của mình, Hương có phần tin sẽ may mắn được cái vinh dự ấy. Nhưng không hiểu sao Hương lại chép sai đầu bài Lý. Một “chọi” với năm mươi, Hương biết là mình hỏng rồi. Thầy Chởi hỏi: “Em có thân Sài lắm không?” - “Thưa thầy, ngược lại” - “Thế mà Sài nó vô cùng tốt. Hôm đến xem điểm xong, nó tìm thầy, hỏi điểm của em. Thầy bảo là Hương thiếu có nửa điểm, thật tiếc cho cô bé. Nó buồn rầu hỏi thầy có cách nào để Hương được vào học. Thầy bảo huyện ta đỗ chính thức có ba và Hương thiếu nửa điểm, còn lại là thiếu từ hai điểm trở đi. Số học sinh thiếu nửa điểm có mười lăm em. Hội đồng nhà trường và các ty đã thống nhất: nơi nào thiếu sẽ được học dự bị ở nơi ấy. Hương chỉ được học với điều kiện một trong ba học sinh của huyện đỗ chính thức vì lý do gì đấy phải bỏ học” - “Thưa thầy em xin bỏ học” - “Em định thử thầy đấy à?” - “Dạ không ạ. Thưa thầy nhà em neo đơn, túng bấn không thể có tiền gạo lên tỉnh trọ học ạ” - “Thầy hiểu hoàn cảnh của em. Thầy sẽ hướng dẫn em làm đơn xin học bổng. Trường hợp của em thầy tin chắc là được.” - “Thưa thầy...” - “Lại sao nữa?” - “Thầy cho bạn Hương vào học ạ” - “Em không đùa với thầy đấy chứ” - “Em không dám thế. Em chỉ nghĩ bạn Hương học rất giỏi, giá không nhầm một câu trong bài Lý nhất định bạn ấy đỗ. Năm nay trượt, bạn ấy là con gái, sang năm thi lại khó đỗ. Như thế khỏi tiếc cho bạn Hương thầy ạ” - “Thật lòng thầy rất quý em, Hương ạ. Nhưng Sài bỏ học thì phí quá. Một cậu học sinh đỗ thứ hai trong năm nay phải bỏ học, thầy nghĩ cứ thấy ái ngại quá. Nhưng khuyên thế nào cậu ấy cũng không nghe. Thầy rất khó hiểu về cậu ta. Đêm ấy hai thầy trò nói chuyện mãi đến gần sáng thầy mới hiểu hết cảnh ngộ của nó. Trước đây thầy cũng có biết nhưng ngờ đâu bên ngoài càng nén bao nhiêu, bên trong càng muốn bật tung bấy nhiêu. Nó quyết định đi bộ đội em ạ. Dù có học tiếp thì đến kỳ tuyển bộ đội cũng đi. Cậu ta sẽ đi càng xa xôi, càng hiểm trở, càng tốt. Đi như thế chỉ cốt để không nhìn thấy cô vợ và những người có trách nhiệm trong gia đình không thể đuổi theo mà bắt cậu ta phải nghe theo ý họ. Thật tội nghiệp cậu bé. Nhưng chuyện ấy bí mật em nhé. Lộ ra, người ta biết động cơ không đúng đắn có khi không được đi nữa đâu. Tội cho Sài quá”.
Trời đã tối từ lúc nào không thể biết. Ngẩng lên đã thấy mặt nước cồn cào trăng sáng, thứ ánh sáng rập rờn lấp lánh như bạc. Phía trước mặt là đồng nước đầy ánh trăng thơ mộng, phía sau lưng, nước đã trùm lên các mái nhà, các vườn tược cây cối và sóng ngầm đang thúc vào tường và vách, thúc vào rễ cây để rồi khi rút ra, tất cả sẽ xiêu vẹo mục nát, vàng úa và lụi tàn.
- Nghĩ gì buồn thế anh Sài?
- Có lẽ cả nước này không đâu cực nhọc bằng làng tôi.
- Sài xưng anh sợ thiệt với em à. Nói xong câu đó, Hương như người bước quá đà, cô hơi cúi. Sài cũng trấn tĩnh lại.
- Hương ơi.
- Dạ.
- Em có yêu anh thật không?
Hương nhìn, đôi mắt như táp lửa vào mặt anh và cái đầu cô hơi lúc lắc. Sài như người bước hụt xuống một cái hố quá sâu, anh gục mặt trên hai cánh tay khoanh lấy đầu gối, kiểu ngồi như kiểu người vác vồ ngồi chờ trên mặt đê. Nhưng bây giờ thì không còn chờ đợi gì nữa. Hương chỉ thương hại mình như thương một kẻ ăn mày, một bà chủ thương tình một kẻ làm thuê? Hương vờn vỡn để an ủi mình. An ủi kiểu đó thì ác quá Hương ơi. Anh đang ngồi chết lặng, bỗng Hương nhoài người ôm lấy cổ anh, cô chườm khuôn mặt mắt lạnh vì nước mắt lên lớp da khô cứng ở cổ, ở mặt anh. Sài ngồi sát lại, hai cánh tay anh ghì lấy người con gái tưởng đến ngẹt thở. Lần đầu tiên được va chạm vào thân thể đàn bà, anh cứ run lên. Khắp người rần rật niềm sung sướng. Nhưng hồi ấy họ chưa biết hôn nhau. Nói đúng ra, anh chàng Sài làng Hạ Vị chưa biết hôn. Từ thuở cha ông cho đến thế hệ Sài, người ta chỉ biểu hiện tình yêu nơi tạo hóa đã làm ra như là sự dư thừa ở người con gái. Bằng cái tiềm thức sâu xa ấy, anh đã luồn tay lần cởi hết hàng cúc áo sơ mi. Cô gái cúi rạp người từ chối: “Em sợ. Đừng, đừng làm thế, Sài ơi!” Và hai tay nắm giữ hàng khuy áo tưởng không thể nào cậy nổi đều lơi lỏng mỗi khi bàn tay anh lần tới. Rồi Sài đang cậy cục lúng túng với chiếc áo con chật cứng ninh ních, bàn tay cô ẩy ra nhưng ẩy về phía sau như mách bảo chàng trai ngốc nghếch rằng cái mấu chốt của nó ở phía ấy cơ mà. Dưới ánh trăng vàng rực rỡ, bộ ngực căng phồng lên như chỉ chực bật ra khỏi cái thân thể nõn nà của cô, cô vội khoanh hai cánh tay trước ngực rồi lại ngoan ngoãn theo bàn tay anh tẽ nó ra hai bên, hơi quay mặt để anh thả sức ngắm nhìn nơi thần tiên đó. Chàng học trò làng lụt vốn ít nói bỗng ngây ngất kêu lên :
“Trời ơi, đẹp như tượng Phật!” cô hơi quay lại mỉm cười nhìn anh, đôi cánh tay trần mát lạnh hơi khép lại “Lạy Phật đi mới cho nhìn” - “Anh lạy Phật ạ”. Cô sung sướng ôm lấy cổ, ghì áp khuôn mặt anh vào bộ ngực căng đầy và cầm tay anh đặt lên phía ấy. Cô ngẩng mặt mỉm cười ngắm bầu trời đầy trăng, thanh thản như một người mẹ ngồi ôm con bú. Cái phút ngây ngất ấy cũng là giây phút đầu tiên trong đời cô, nó làm cô run bắn lên khi bàn tay anh chạm vào thân thể mình. Nhưng cái giây phút qua rồi, cô cũng như mọi người đàn bà ở trần gian, không còn gì để chống đỡ, để cự tuyệt. Cái sức mạnh phòng thủ vững chắc của người đàn bà phải ở từ xa, từ rất xa kia. Chứ để nó đến gần, rất gần, đã có thể nhìn thấy ánh mắt long lanh của nhau, có thể phấp phỏng về một lời nói, một tiếng cười của nhau thì chỉ còn chờ đợi vào thời gian cho một sự quen dần và lấn tới. Chờ đến một cơ hội có thể là rất tình cờ như đêm nay, cái đêm chỉ còn những tiếng kêu yếu ớt. “Em sợ. Đừng, đừng làm thế”. Và cái giây phút ấy có thể đánh đổi cả trời đất, đánh đổi cả cuộc đời để lấy một phút giây, cái phút giây tột cùng của người đàn bà là cái phút tột cùng của sự liều lĩnh và bất chấp. Đã không thể tự phòng vệ từ xa, bây giờ chỉ còn biết đợi chờ cái giây phút được ban phát ấy ở người con trai. Những áp mặt vào bộ ngực nở nang, được toàn quyền sử dụng bàn tay của mình ở nơi ấy là quá sức mơ tưởng, đã quá sức liều lĩnh rồi, anh cũng như người nông dân đang lúc giáp bát được mùa bội thu thì suốt cả đời chỉ có đứng trên thửa ruộng vừa thu hoạch của mình mà thỏa mãn, dù sự thèm muốn có đốt cháy cả người mình cũng không dám mơ tới một vùng đất mới lạ hết sức màu mỡ tốt tươi. Cho đến gần sáng, cả hai con người đều cảm thấy nhàm chán, trên bộ ngực dù căng mẩy, vẫn là đơn điệu, cả đêm thức trắng, họ nằm bên nhau, thiếp đi, không thể nào biết rằng lúc mặt trời mọc đã có một người leo lên sân thượng, lướt nhìn khuôn ngực còn lộ liễu của người con gái và người con trai, như một đứa trẻ, nằm úp mặt xuống bầu vú, một tay như là ấp ủ, như là giữ lấy bầu bên kia. Chỉ lướt nhìn, rồi rón rén tụt xuống. Hương linh cảm thấy việc gì đó nên khi nghe tiếng chàng bơi gõ vào thang thúng và câu nói: “Không còn trời đất nào nữa”, thì cô nhận ra ngay. Cô nhẹ nhàng khép hai tà áo, lay gọi người yêu: “Anh, Anh ơi, có người anh ạ” Sài vùng dậy theo một phản xạ tự nhiên, anh đứng thẳng người nhìn xuống. Một chiếc thúng câu do một lão đã có tuổi, anh không nhận rõ là ai, đang mải miết bơi đi như một tên ăn cắp chạy trốn.
Cả hàng tháng sau, chuyện “giăng gió” của anh Sài nhà ông đồ Khang được coi như chuyện hệ trọng bậc nhất phổ cập nhất trong toàn dân, từ đứa trẻ con còn nói ngọng cho đến ông bà già rụng hết răng đều thì thào như là giặc giã sắp tràn về, như làng Hạ Vị sẽ lụi bại vì chuyện ấy, như nước sông lại lên to cuốn đi hàng nghìn người, như là nhà nào cũng sẽ chết đói, chết rét vì chuyện ấy. Sức mạnh của những tiếng thì thào, mắt tròn mắt dẹt lan tới huyện, có khi cả người tận trên tỉnh cũng biết chuyện nhà ông đồ Khang gặp vận không may. Cũng cả hàng tháng, nhà ông đồ Khang âm thầm như có người chết. Không ai dám đi đâu xa. Nếu miễn cưỡng phải đi qua chỗ đông người thì hoặc phải che nón, cúi xuống mà đi, hoặc phải dầy mặt lên mới chịu nổi những cái nhìn nhọn như những mũi tên bắn. Tính cũng không về nhà. Phần anh không dám về, phần khác anh phải tiếp các nghành, các giới xung quanh cơ quan huyện đến hỏi thực hư ra sao, đến chia buồn và an ủi, phê phán và khuyên bảo, chỉ còn thiếu tội cơ quan không đem anh ra kiểm điểm vì đã có thằng em hư đốn, liều mạng.
Ông Hà đã được điều về công tác ở tỉnh từ hai năm nay. Nhận được thư Tính than thở, nhân ngày chủ nhật ông về tranh thủ. Qua huyện, ông kéo Tính về luôn. Ông mắng anh tại sao không biết lấy “độc trị độc” mà dẹp đi, lại để tai tiếng đến mức này. Đến nhà, ông cho con cháu đi báo cán bộ xã, nước. Kẻ “phát hiện” ra chuyện Sài cũng được gọi đến. Gần như đông đủ tất cả cán bộ ngành giới trong xã đến ngồi chật ních ở sân như một cuộc họp. Ai đến đây cũng chứng tỏ cho ông biết là mình rất buồn phiền, đã lo toan và nghĩ ngợi, đã làm bao nhiêu là việc cho chuyện đó êm đi nhưng vì nó lớn quá, chưa thể làm ngay được. May mà ông về v.v... và v.v... Ông Hà chăm chú nghe tất cả. Khi kẻ chứng kiến “chuyện ấy” định nói, ông nổi nóng chỉ vào mặt ông ta :
- Tại sao các đồng chí không cho bắt ông này?
Mọi người đang ngơ ngác thì ông tiếp :
- Tính nào vẫn tật ấy. Ông còn nhớ tôi đã tha tội cho ông mấy vụ rồi không?
- Dạ có ạ.
- Thế mà ông lại lợi dụng lúc bà con lụt lội chạy đi, ông chạy lại vơ vét. Tôi chỉ nói riêng hôm ấy, nếu không có thằng Sài hoa hoán đuổi, ông đã tẩu tán hai nạ gà ấp, một con ngan của dân.
- Dạ. Thưa ông không có, quả thật anh Sài lúc bấy giờ...
Các đồng chí đã ai trực tiếp gặp anh Sài để hỏi về chuyện này chưa?
Lúc bấy giờ mọi người mới ồn ào rằng thì ra chưa ai gặp Sài, rằng đúng là lão này đi ăn trộm bị đuổi rồi “vừa ăn cắp vừa la làng”. Rằng...
“Nhà phát hiện” nghe tiếng ồn ào của nhiều người vội vàng hoảng hốt.
- Dạ... Thưa các ông quả thật nhà cháu chỉ trót dại bẻ một buồng chuối tiêu của trường học sắp ngập nước. Còn thì...
Ông trưởng công an quát.
- Anh còn cái tội không thành khẩn, rồi tôi sẽ có cách để bắt anh phải nhận hết.
Xã đội trưởng.
- Ngày mai tôi sẽ cho du kích đến khám nhà anh. Chưa chừng còn nhiều chuyện khác.
Phó chủ tịch :
- Mười lăm giờ ngày mai anh phải có mặt ở trụ sở ủy ban.
Hội trưởng phụ nữ xã.
- Thế mà đi vu oan cho người ta có chết không.
Trưởng ban nông hội :
- Tôi sẽ triệu tập chi hội thôn Quán để kiểm thảo yêu cầu ông phải thành khẩn để sửa chữa tiễn bộ, nếu không, buộc phải khai trừ ông để khỏi mất thanh danh của Hội.
Trưởng ban thông tin :
- Tối mai tôi sẽ cho phát thanh ở tất cả các xóm nói về tội lỗi của ông và để toàn dân phải luôn luôn cảnh giác với mọi hành động trộm cắp phá hoại, tung tin đồn nhảm, mắc mưu kẻ địch. Báo cáo anh Hà ở trên tỉnh chắc anh cũng được nghe, chúng tôi vừa được phổ biến hiện nay bọn Mỹ Diệm đã tung gián điệp biệt kích, chúng giở mọi thủ đoạn xảo quyệt phá hoại ta. Việc ông này tung tin bịa đặt làm mất uy tín của đồng chí Sài. Trưởng ban phụ trách thiếu niên xã ta có khi cũng là do âm mưu của địch, ta phải có thái độ rõ ràng.
Đến đây thì ông ta không ngờ chỉ vì cái tính xoi mói, nhòm ngó đến mọi chỗ nên bắt gặp cái chuyện dan díu ấy. Bây giờ không ngờ to chuyện thế. Không biết cãi ai, không biết nói để ai tin, không biết làm thế nào để được nhẹ tội. Ông ta bỗng khóc oà, nức nở van xin mọi người tha tội cho. Ông Hà bảo ông cứ về suy nghĩ rồi xã quyết luận sau. Khi chỉ còn các cán bộ, ông pha những ấm chè mới, chè ướp sen, một gói thuốc lào Vĩnh Bảo bọc trong lá chuối khô đặt giữa chiếu. Những người phụ nữ đã cạo răng đen nhưng vẫn ăn trầu thì đã có những đĩa cau, trầu lá. Tất cả mới như bắt đầu, những người tâm tình mới gặp nhau. Ông Hà nói như một người anh nói với đàn em.
- Tôi muốn để các đồng chí rút kinh nghiệm. Việc gì cũng phải xem xét kỹ càng.Việc gì cũng phải lãnh đạo. Không phải thằng Sài là cháu tôi tôi nói thế. Thử hỏi nếu mai kia trong anh chị em chúng ta nếu ai bị tiếng xấu nào đồn thổi ầm ã một cách oan ức thì các đồng chí cũng mặc kệ à. Lẽ ra khi thấy chuyện này bùng ra, ta phải dập ngay. Một mặt dẹp dư luận, một mặt xem xét thực hư ra sao. Tôi nói, nếu đây không phải là chuyện bịa đặt của kẻ trộm cắp bị đuổi bắt mà cứ giả thiết là có thật một trăm phần trăm thì các đồng chí cũng phải tìm cách dẹp nó đi. Tội thằng Sài đến đâu ta xử lý nội bộ đến đấy. Xử thật nghiêm nhưng bằng những lý do khác, ở thời điểm khác. Thiếu gì lý do để ta cho nó nghỉ, để ta khai trừ nó ra khỏi đoàn. Chẳng hạn ba bốn tháng sau ta cho anh nghỉ, ta khai trừ anh ta bằng lý do điều đi khai hoang anh ta không đi. Đại loại như thế. Như thế có phải vẫn nghiêm khắck mà giữ được uy tín cán bộ không! Huống hồ đây là chuyện hoàn toàn vu cáo. Tuy các đồng chí còn nể tôi, nể anh Tính đây chưa kỷ luật nó nhưng nó còn mặt mũi nào dám đến chỗ đông người nữa.
Càng nghe ông Hà nói, những cái đầu tán thưởng càng gật gù nhiều. Những khuôn mặt đăm chiêu sâu sắc càng thâm trầm sâu sắc thêm. Cuối cùng ai cũng muốn tỏ thái độ ân hận vì mất cảnh giác, hoặc phẫn nộ với kẻ ăn trộm bịa đặt, hoặc phải có những biện pháp cứng rắn trừng phạt kẻ gian, tung tin đồn nhảm để lấy lại uy tín cho Sài. Những cán bộ già và trẻ, đàn ông và đàn bà là cơ quan lãnh đạo cao nhất của làng Hạ Vị trông mặt mũi ai cũng nghiêm trang, cũng như sắp sửa phải lao vào một công việc vô cùng lớn lao. Ông Hà pha một lượt nước nữa rồi cũng băn khoăn, đồng cảm và nỗi ân hận và bực bội của mọi người.
- Nhưng tôi đề nghị cần giải quyết thế này: ngày mai các đồng chí ủy ban cho gọi ông ta lên cảnh cáo về tội trộm cắp và tung tin bịa đặt. Không cần nói rõ ăn cắp gì, tung tin gì. Sau đó bắt ông ta phải về kiểm điểm nhận lỗi trước hội nghị Nông hội. Cũng không cần phải bới móc từng việc và đao to búa lớn làm gì. Chỉ bồi dưỡng để ông ta nói: Tôi đã có vụng trộm trong vụ lũ lụt vừa qua và tung tin đồn nhảm, bịa chuyện cho người khác, tôi xin lỗi hội nghị và hứa sẽ sửa chữa. Chỉ cần thế. Đừng sát phạt nữa, ông ta cũng là người túng đói. Còn với cậu Sài cũng không cần đồng chí nào hỏi han động viên gì, làm thế nào quần chúng lại bảo cán bộ mình cảm tình với nhau. Trong cuộc họp liên tịch nay mai đồng chí chủ tịch nói qua vài lời là chuyện đồng chí Sài chúng tôi đã thẩm tra nghiên cứu kỹ, đã xách nhận chuyện ấy do một người ăn trộm bị đồng chí Sài đuổi bắt đã đổ lỗi của mình người khác. Người ấy đã tự kiểm điểm trước hội nghị Nông hội. Ủy ban cũng đã gọi ông ta lên cảnh cáo về việc làm sai trái đó, còn đồng chí Sài không hề có chuyện gì nên vẫn tiếp tục công tác bình thường. Làm xong các việc đó coi như xong chuyện. Chúng ta đã tập trung vào việc chỉ đạo trồng khoai mùa, đừng mất quá nhiều vào việc không đâu vào đâu này nữa.
Thế là mọi việc cứ nhẹ nhõm như lông hồng, đâu sẽ vào đấy. Khi chỉ còn lại chú cháu, Tính trầm trồ khen không hiểu tại sao ông lại biết tất cả mọi việc rõ ràng đến thế. Ông cười nhạt, nói tục :
- Biết đếch đâu. Tôi chỉ biết bố anh ngày xưa dạy tôi câu chữ nho “Dâm tang gian tích”. Trong chuyện này chỉ mình lão ta biết mà không có tang chứng gì thì coi như không.
- Nhưng sao chú biết hôm ấy lão ta ăn trộm.
- Nó ở chỗ ấy. Lão ta ăn trộm đã thành tật. Bịa thêm một lần ăn trộm nữa cũng không sao.
- Ngộ họ lại căn cứ vào đấy bắt lão ta.
- Tôi ngồi đây mà để cho họ làm việc trẻ con ấy. Sao lại bắt người không tang chứng gì. Mà tôi nói nếu thằng Sài không đuổi thì lão ta mới bắt được gà, được ngan kia mà.
- Cháu không ngờ chú lại nghĩ được cách khẳng định là ông ta bắt trộm những thứ đó.
- Lão cũng khẳng định anh em rồi. Hai bên cùng khẳng định không tang chứng, người ta tin kẻ có tội là kẻ ăn cắp đã thành tật, không ai nghi người chưa mắc lần nào. Nhất là sau trận lụt nhà nào không mất gà, mất ngan, do chuột bọ rắn rết, do chết đói chết rét. Không ngờ lão ta lại có cắt trộm chuối và hốt hoảng nhận tội. Đã nhận một việc tức là anh có làm các việc khác và chuyện thật ông ta nhìn thấy trở thành chuyện bịa đặt. Nhưng anh ở nhà chạy đi chạy về nhắc các cậu ấy đừng làm cái gì quá đáng với lão ta. Chuyện em mình là có thật, mình chỉ tìm cách “rửa nhục” cho gia đình mình, nhưng đừng làm hại đến người khác.
- Đằng nào cũng phải tim cách cho thằng Sài thoát ly. Nếu được đi bộ đội người ta rèn cho thì yên tâm hơn.
- Tôi đã biên thư cho ông bạn làm chính trung đoàn và phòng quân lực Quân khu. Đợi một thời gian nữa, khi nào có đợt. Đi bộ đội chắc là được thôi. Trong thời gian ở nhà anh chú ý giữ gìn mọi chuyện về mối quan hệ của nó với vợ con, đừng để cái gì ồn ào lên.
- Qua đợt này chắc cậu ta cũng tỉnh ngộ ra rồi. Cháu cứ mừng mãi về cái kết quả của tôi hôm nay.
Ông Hà không nói gì trước sự trầm trồ của cháu, nhưng quả thật ông là người “lăn lộn” và mưu cao. Dư luận đã bôi nhọ thanh danh anh em con cháu nhà ông thì lại chính dư luận rửa sạch tất cả. Người tung tin đã tự thú nhận là mình bịa đặt. Thú nhận trước đoàn, có biên bản hẳn hoi. Chính quyền cũng đã công bố có chứng cứ hẳn hoi. Chính quyền cũng đã công bố có chứng cứ bằng lời khai và buồng chuối tiêu đã được đem ướm vào cuống, cứ khít như in. Thì ra “Cháy nhà mới ra ra mặt chuột”. Thật tội nghiệp cho anh Sài. ờ, mà cũng vô lý, không có nhẽ cả mấy cây số ngập bưng hà như thế không đò giang gì mà cô ta lại đến được đây? Mà ai trông thấy ngoài lão ta? Tại sao nghe cái chuyện vô lý ấy ai cũng tin được nhỉ?
Sự đồn đại cũng đã lan đến tận tỉnh. Chính các thầy cô giáo đều đến an ủi sự oan uổng của Hương. Cô mừng đến nỗi phải đẩy cửa vào buồng nhà mình trọ ngồi khóc và cả đêm lo sợ mừng tủi. “Liệu ở nhà anh đã biết tin này chưa? Em không hiểu tại sao phúc đức lại cứu vớt chúng mình! Em cũng không hiểu chuyện chuyện thực hư nữa. Thầy Chởi bảo xã anh đã làm công văn có kèm theo các biên bản xác nhận việc của chúng mình là bị vu cáo, bị tay chân địch phao tin đồn nhảm. Em không còn nguy cơ bị đuổi học nữa. Gần một tháng nay kể từ khi đến lớp, em bị tai tiếng đi theo. Nhưng em cần gì. Ai muốn xa lánh em khinh bỉ em, em xa hẳn và khinh họ luôn. Em chỉ cần một mình anh yêu em, anh ở bên em... Hầu như không đêm nào em không khóc và đã có lần nằm mê thấy anh bị vây bủa, có hàng trăm hàng nghìn người cầm dao, cầm súng, vòng trong vòng ngoài xô vào chém và bắt anh. Em hét lên lao đến, ôm chầm lấy anh. Em đang giấu mặt anh trong ngực của em và quay lưng ra phía mọi người để che cho anh thì bà cụ chủ nhà lay em dậy. Anh thân yêu ơi, những ngày vừa qua bố mẹ, anh Tính và họ hàng làng xóm có đay nghiến, xỉ vả anh nhiều không? Em chỉ muốn chạy ngay về nhà anh, bảo với mọi người là tại em. Chính em đã tìm đến anh, sẵn sàng trao gửi cả cuộc đời em cho anh. Rồiai muốn băm vằn xâu xé em thế nào cũng được. Nhưng đừng ai hành hạ anh, phải “thả” anh ra cho anh được sống với sự yêu ghét của chính mình. Anh ạ, có lúc em định nghỉ học. Em về nhà làm tất cả mọi việc để anh có thời giờ, có điều kiện ăn học. Khi mọi việc qua rồi thì anh thi lại. Em tin là anh sẽ học để trở thành nhà toán học, vật lý, hóa học, sinh học như các thầy cô ở trường và chính anh đã có lần tâm sự với em điều khao khát ấy. Ôi, nếu được như thế thì còn gì hơn nữa hở anh yêu thương. Em đã dự định nói với gia đình em để nuôi hai chúng mình trong ba năm học, anh hoàn toàn không phải lo nghĩ gì cả, nhưng chú Hà bảo đã xin cho anh đi bộ đội. Hiểu ý định của anh, em nghĩ cũng được thôi. Mấy hôm vừa rồi chú tự tìm đến em. Thì ra chú và anh trai em rất thân nhau, từ thời còn hoạt động bí mật. Chú bảo rất hiểu và thương chúng mình”. “Nhưng cháu ạ, trường hợp này thật khó quá” - “Thưa chú đấy là ý của cha mẹ chứ anh ấy có yêu đâu ạ” - “Không những không yêu mà còn căm ghét là khác. Chính chú, cũng không bằng lòng việc làm của bố mẹ Sài và rất thương tâm cảnh ngộ của nó. Nếu không vướng vào chuyện này, chú rất hy vọng ở nó” - “Thưa chú, cháu mới được gặp chú lần này nhưng đã biết tiếng chú từ lâu. Anh Sài cũng đã kể với cháu về chú. Chú cho phép cháu được trình bày hết tình cảm và ý nghĩ vủa cháu có được không ạ” - “Chú rất muốn thế. Chú đã nói, chú thương cháu như thương thằng Sài, như con chú. Chú muốn nói tất cả mọi điều với cháu, có khi ngoài cả chuyện này” - “Cháu nghĩ, nếu chú đứng ra giải quyết việc này thì anh Sài sẽ được cứu thoát” - “Chú nghĩ nhiều rồi. Cứ liều thì cũng có thể được đấy, nhưng sẽ mất hết” - “Nếu chúng cháu sẵn sàng như thế” - “Đâu chỉ là các cháu. Còn cả bố mẹ, anh em, chú bác” - “Pháp luật làm gì có quyền làm như thế” - “Pháp luật thì không những dư luận sẽ lên án. Chú nói thật: ngay như bố mẹ anh em ruột của Sài không phải hoàn toàn ưa cô Tuyết, nhất là sự cách biệt giữa hai gia đình. Nhưng dù có ghét bỏ con dâu, thâm thù bố mẹ nó đến đâu thì cũng không dám cho Sài bỏ vợ vì sợ dư luận. Cả cuộc đời làm ăn tu chí, tu nhân tích đức, đấy là chưa kể có người đang phấn đấu để có một vị trí xứng đáng trong xã hội, thì không ai dại gì đánh đổi hàng mấy chục năm tháng gian truân để chịu mang tiếng về cái chuyện vốn dễ gây tai tiếng” - “Nhưng nếu con em mình được giải phóng?” - “Họ không cảm thấy thế. Hoặc có thấy thì phải tính toán cân nhắc giữa cái được với cái mất xem hơn kém đến đâu cho chính người đó chứ không phải cho thằng Sài” - “Ôi chú ơi! Đấy là những người ruột thịt của anh Sài!” - “Chú biết. Ông bà ấy và thằng anh trai rất thương con, thương em như một thứ mẫu mực đấy. Nhưng cháu ạ, ở đời này người ta chỉ sắn sàng chết đói, chết rét, chết bom, chết đạn để che chở, nuôi nấng cho con mình tai qua nạn khỏi, con mình được sung sướng, được vinh hoa chứ không ai chịu tai tiếng, chịu xỉ nhục để con mình được tự do theo ý nó” - “Trời ơi,cháu thật không thể hiểu nổi” - “Đấy là chú nói cái nhẽ đến cùng. chú biết có điều phải mươi mười lăm năm nữa cháu mới hiểu được” - “Cháu cứ nghĩ dự luận chỉ lên án những việc làm sai trái với lương tâm và pháp luật” - “Người ta lên án cả những gì người ta không muốn” - “Thế họ muốn cho người khác khổ à!” - “Không. Họ chỉ không muốn cho người khác sướng hơn họ. Tại sao họ có thể quên được, đôi khi phải cam chịu những gì đã sắp đặt, vốn đã là thế, như một thứ trời đã sinh ra mà có kẻ lại phá vỡ, lại vượt thoát khỏi nó để mãn nguyện, để sung sướng” - “Nếu có người sống không cần dư luận nữa?” - “Người khác sẽ buộc họ phải cần. Chẳng hạn như bố mẹ, anh em của Sài và cả chú nữa. Thực ra chú không phải là người độc ác nhưng chú cũng như đa số bây giờ. Người ta lựa theo dư luận mà sống, chứ ai dám dẫm lên dự luận mà đi theo ý mình!” - “Cháu tưởng bây giờ không ai có quyền ngăn cấm” - “Cá nhân thì không. Không ai có quyền đánh đập, dọa dẫm, nhưng dự luận sẽ lên án. Cái đó còn sợ hơn cả bị nhốt trong buồng, bị quấn tóc vào cột” - “Chú ơi, chú cho phép cháu hỏi một câu nữa có được không ạ” - “Chú đã bảo chú không tiếc bất cữ một điều gì, nếu điều đó giúp cho cháu hiểu ra sự phức tạp của con người và xã hội” - “Thế thì dư luận là gì ạ?” - “Điều này thì chú chịu. Có thể là chú, là cháu, là vô số người bàn tán, bình phẩm, xét đoán, khen chê về cái gì đó. Cũng có thể là chả có ai, không có bất cứ một cái gì mà vẫn có dư luận và người ta áo ào theo nó. Nhưng thôi, chú đến giờ phải về rồi. Hôm nay chú chỉ muốn nói với cháu là chuyện này rất khó, vô cùng khó, không thể nào thay đổi được đâu. Các cháu phải dũng cảm mà vượt qua, phải dũng cảm mà chấm dứt nó đi, cháu ạ”.
Anh thương yêu ơi, anh có nghe thấy hết cuộc đối thoại của em với chú không? Chao ơi, chú Hà quả là người hiểu biết sâu xa, chú thật rộng lượng và bình đẳng. Nhưng em phải nghe chú để dũng cảm mà quên anh không được phép yêu anh nữa ư? Em đã òa khóc ngay khi chú bước ra cửa và cả đêm nay em chỉ ngồi lau nước mắt và viết thư cho anh. Em viết tất cả sự khao khát của một người con gái lần đầu tiên đến với tình yêu (Có nghi ngờ gì cái chữ “đầu tiên” ấy ở trong em không anh?) Em biết rằng không ai hiểu em hơn anh, cũng như em tin ở sự mộc mạc và sức chịu đựng của anh, em tin vào quyết định dũng cảm của anh với tình yêu thiêng liêng của chúng ta. Hãy xuống chỗ em hoặc tìm cách báo tin cho em về trước khi anh đi bộ đội, anh nhé. Em hôn anh thật nhiều.
Có thể một trăm năm sau người ta còn tìm thấy lá thư này trong quan tài của anh!
Có thể trước khi nhắm mắt anh còn trối trăng lại rằng: “Đừng ai ngu xuẩn và hèn nhát như tôi mà giết chết tình yêu đầu tiên vào năm mười tám tuổi!”
Nhưng hôm nay, giữa bố và mẹ, giữa anh chị và chú bác, giữa bè bạn và xóm giềng, giữa cái lối đi quen thuộc với lầm lỗi từ làng Hạ Vị vào chợ Bái anh đã lên đường nhập ngũ với sự lặng thinh lầm lũi. Anh im lặng với tất cả mọi người. Anh im lặng với tất cả những đêm ngồi trên sân thượng chờ trăng lên giữa mênh mang đồng nước. Anh im lặng với cả giấc ngủ áp mặt vào khuôn ngực đầy ngồn ngộn ánh trăng! Im lặng với cả tiếng nức nở, tiếng gọi tha thiết yêu thương ở bức thư đang nằm trong túi áo. Anh đi như sự chui luồn chạy trốn với cả hôm qua, hôm nay và ngày mai mà tự bằng lòng với quyết định được coi là vô cùng “dũng cảm” của mình: Hãy im lặng chịu đựng!!!
Thiếu tá chính ủy trung đoàn 25 phòng thủ bờ biển người tầm thước, da trắng, tưởng dân thành thị hóa ra người nông thôn thuộc vùng Nam Định. Với cấp trên, ông là thành phần “cơ bản”, với cấp dưới “trông cũng nhẹ nhõm, chắc không đến nỗi”. Ông và Hà thân nhau từ Bốn sáu, khi gặp ở chiến khu. Khi ấy ông là bí thư huyện ủy, Hà là trung đội trưởng bộ đội huyện. Ông viết thư cho Hà nói rằng cứ “quẳng” nó cho tôi. Để làm quan thì khó, cho làm lính dù là lính “hảo hạng” nữa, có khó gì. Ông đã làm mọi thủ tục với quân lực Quân khu để đưa Sài về đây nhưng cả ông và Sài đều không biết nhau. Hà cũng không hề nói cho cháu biết ông có quen ai ở đây. Ba tháng sau, vào một buổi tối thứ bảy, chính ủy lững thững xuống đại đội 12. Đợi một chiến sỹ vừa mới vừa ở trong nhà ra ông hỏi thăm và biết Sài đang ngồi học trong câu lạc bộ. Ở một chái nhà thưng cót xung quanh, kê ba chiếc bàn ăn, và đặt lên đó mấy quyển họa báo, dăm quyển sách, ba cặp báo nhân dân, Quân đội, Tiền phong... Tất cả đều đệm miếng cao su đóng đinh chẹt xuống mặt bàn. Độ mười chiến sỹ chăm chú đọc sách báo đó. Sài ngồi phía trái trong cùng, quay mặt vào “xin lửa”. Vào tận trong cùng, ông đoán cậu đang ngồi làm toán là Sài. Chú nó bảo thằng này giỏi toán lắm mà. Ông cúi xuống nói nhỏ: “Có lửa cho tớ tí” - “Không” - “Này ngừng tay hút với tớ điếu thuốc”. Sài ngẩng lên: “Cháu xin bác” rồi đứng dậy đi xin lửa. Chính ủy lật quyển sách đang mở xem bìa đó biết là quyển bài tập lượng giác lớp chín. Sài vào đưa thuốc cho ông tiếp: “Bác ở đâu ạ” - “Tớ thủ kho trên trung đoàn bộ. Cậu tự học thế này có khó lắm không?” - “Cái gì chẳng khó, nhưng quen đi lại thấy thích. Bác học lớp mấy” - “Vào khoảng lớp ba lớp bốn hiện nay. Cậu đi bộ đội lâu chưa?” - “Ba tháng” - “Đã quen chưa” - “Thì cũng phải quen nhưng vẫn nhớ” - “Quê cậu ở đâu” - “Hà Nam” - “À thế thì đồng hương với tớ. Ta ra ngoài chút đi” - “Làm gì ạ” - “Để khỏi ảnh hưởng đến anh em khác, ta nói chuyện quê hương với nhau!” Sài chần chừ rồi gấp sách, cầm theo. Hai người ra ngồi ghế đá lạnh ngắt bên bờ biển thật không có gì vô duyên bằng hai người đàn ông ngồi với biển mùa đông suốt ngày đêm ầm ầm náo động như bao nhiêu lạnh buốt tái tê của cả đại dương thức ập vào bờ, hai người chỉ ngồi với nhau chừng nửa giờ. Sài biết bà ngoại ông cũng ở Bái Ninh. Anh hỏi những ai ở làng Bái, ông bảo chỉ về đấy có một lần cách đây mấy chục năm. Thành ra chẳng còn gì ở ông để anh hỏi thêm. Ông thì biết từ ngày vào đây Sài chưa nhận được thư của gia đình. (Tất nhiên anh không thể kể là chính anh chưa viết thư về báo địa chỉ cho ai). Đến đây chưa gặp ai quen nên rất buồn. Buồn thì anh dùng sách họ thêm vào lúc nghỉ. Anh cũng trả lời ông cái điều anh ngại nhất ở bộ đội là gác đêm. Anh không sợ “địch”, không sợ ma, mà chỉ sợ chỗ đêm tối bất thình lình có ai thụi cho mình một cái rồi chạy. Ông cười xui anh: “Thế thì nhận gác nhiều vào cho nó quen đi”.
Ông cho anh bao thuốc bông lúa rồi về. Bao thuốc với một thủ kho thì chẳng nghĩa lý gì, nhưng với anh nếu không chia hết chó bạn bè thì anh có thể hút hàng tháng. Sài nghiện thuốc lào nặng. Vào đây không có điếu phải hút thuốc lá. Lương có năm đồng, gửi tiết kiệm hai đồng. Mỗi ngày chỉ hút có nửa điếu. Hút vài hơi nuốt cả khói rồi lại rụi đi, lựa làm sao trước khi vào màn có cái để kéo vài hơi. Cái cảnh lính “năm đồng” mặc áo “ba mươi sáu đường gian khổ” này thì dù Sài không nói, chính ủy cũng biết. Khi ông mời điếu thuốc, châm lửa về cho ông tiếp cậu hút thêm hai hơi thật dài nữa rồi kín đáo dụi thuốc vào thành ghế, nhét phần còn lại vào túi quần. Ông biết. Ông biết cả vẻ mặt buồn buồn lặng lẽ của cậu ta đang chứa đựng một uẩn khúc gì đấy. Ngày hôm sau xuống quân lực. “Cho mình xem “trích ngang” các chiến sĩ mới”, phần nào ông lý giải được vẻ mặt buồn buồn ấy. Cậu ta đã có vợ. Vợ hơn ba tuổi. Ba năm học cấp hai đều xuất sắc nhất trường, được bằng khen của Ty giáo dục. Đỗ lớp tám vào loại ưu nhưng hoàn cảnh neo đơn phải nghỉ học. Về xã làm trưởng ban phụ trách thiếu niên rồi đi bộ đội. Tối qua cậu ta bảo cả ba tháng nay chưa nhận được thư gia đình. Nếu đúng như vậy mấu chốt của nỗi buồn là ở chuyện vợ con và gia định cô ta! Một loạt câu hỏi mới lại đặt ra trong ông: Ba học. Gia đình neo đơn sao lại gửi đi bộ đội! ảnh hưởng gia đình vợ không được học? Không phải. Anh trai và các chú ruột đều là cán bộ hoạt động cách mạng. Gia đình cũng là cơ sở bí mật của “Việt Minh”. Xem cung cách ngồi học tối qua thì thấy cậu ta vẫn còn thèm học lắm. Tại sao lại bỏ học? Tại sao? “Gia đình tôi muốn gửi cháu cho các anh rèn giũa giúp”. Tuy có gây nên những xáo động trong tình cảm của ông nhưng thói quen nghề nghiệp nhắc bảo ông hãy để cậu ta tự bộc lộ mình trong tình cảm đồng đội và trước những nhiệm vụ đại đội của nó. Nó là con người thế nào, hoàn cảnh gia định thế nào chỉ một thời gian sẽ rõ cả thôi. Đừng nên tác động gì để anh em ở đại đội nó khó làm việc ra. Ngay ở trung đoàn này đã mấy chiến sỹ, cậy bố hoặc chú mình là cán bộ, điều đi hết đại đội này đến đại đội khác. Ở đại đội nào cũng chỉ được vài tháng lại phá quấy, làm cho cán bộ đại đội khốn đốn lắm. Kỷ luật cũng bị phê phán: “Các cậu không chiếu cố đến hoàn cảnh của chúng mình, làm gì có điều kiện dạy bảo con cái tử tế”. Bỏ qua mọi chuyện lại bị quở mắng: “Căn bản các cậu không nghiêm đẻ cho nó nhờn từ đầu. Giá ngay từ đầu các cậu cứ rèn thật lực hộ tớ thì đâu đến nỗi tai tiếng như bây giờ”. Nhưng rồi ôn gcũng qưuên lãng ngay chuyện đó trước những bộn bề công việc của một chính ủy trung đoàn. Hai tháng sau, trong buổi giao ban, ông nghe báo cáo của ban chính trị, cái bào cáo mà ít lâu nay ông đã thấy nhạm chán với những lời lẽ sáo rỗng đã được sắp sẵn, lúc nào ở đâu công việc gì nói cũng được. Nhưng hôm nay sau “tình hình nói chung”, ông phải chú ý đến chỗ “đặc biệt”. Đặc biệt ở đại đội 12, tiểu đoàn 9 đã xuất hiện tư tưởng nằm ỳ thoái thác nhiệm vụ trong chiến sỹ mới. Chiến sỹ Giang Minh Sài đã có vợ nhưng vẫn quan hệ bất chính với một phụ nữ, có ý định đào ngũ. Đã ghi nhật ký rất bậy bạ, khoác lác, có đoạn mang tư tưởng phản động. Đại đội đã thu cuốn nhật ký đó. Chi đoàn thanh niên đã tổ chức diễn đàn. Hầu hết đoàn viên phát biểu ý kiến phân tích sâu sắc, đả phá mạnh mẽ tư tưởng tiểu tư sản, tư tưởng phong kiến bóc lột muốn “ngồi mát ăn bát vàng”, khinh thường lao động chân tay. Chiến sỹ Sài đã nhận rõ lỗi lầm của mình, hứa sửa chữa nhưng một tuần nay toàn báo cháo, không đi lao động. Đơn vị xác định là ốm “tư tưởng”. Tiểu đoàn 9 đã chỉ thị cho đại đội tiếp tục theo dõi diễn biến tư tưởng của chiến sỹ Sài. Không để tiếp xúc nhiều với các chiến sỹ mớilàm ảnh hưởng đến tinh thần hăng say và chí tiến thủ của họ. Các chiến sỹ trong tổ “tam tam” cũng được bồi dưỡng hàng ngày và phát hiện kịp thời những ý nghĩ tiêu cực. Chính ủy ngồi nghe như một bản luận tội về mình. Ông đã nhận và hứa với bạn sẽ giúp thằng cháu dù ông chưa biết giúp cái gì nhưng ông cứ nghĩ chắc là để nó thành người tốt. Nó đã xấu đến thế này sao! Ông nhìn người không đến nỗi tôi, cái cảm giác đầu tiên khkông đến nỗi tồi. Mà cảm giác đầu tiên của ông cách đây hai tháng lại thấy ở thằng bé ấy có cái gì đấy, ông chưa thể biết nhưng nhất định có cái gì ở thằng bé này đáng phải trân trọng... Hóa ra, ngược lại hoàn toàn.
Hết giờ làm việc, dặn cần vụ lấy cơm, ông đạp xe xuống đại đội 12. Hỏi thăm anh nuôi, được chỉ chỗ Sài nằm ông vào thẳng đấy. Lại chỗ câu lạc bộ. Một cái bàn dẹp đi kê vào đấy một cái giường, ngăn cách với phía ngoài bằng tấm tôn dựa vào cọc màn. Họ không cho nằm trong nhà để khỏi ảnh hưởng đến anh em đây mà. Ông lựa, hé tấm tôn và lật màn lên. Trời, không ngờ nó lại xanh và gầy như thế. Cậu ta nằm quay mặt vào, thở mệt mỏi. Ngay cả khi ông cầm lấy cổ tay nó nóng hầm hập, cậu ta cũng không buồn và không đủ sức quay ra nhìn xem người cầm tay mình là ai. Ông bỏ màn, sẽ sàng dựa tấm tôn vào cọc màn, xăm xăm đến nhà ban chỉ huy. Cả bốn người trưởng và phó, chính trị vả quân sự ngồi xỉa răng, uống trà, hút thuốc và nghe đài. Cậu liên lạc pha nước vào phích rồi bê chậu bát đi rửa. Thấy chính ủy, tất cả đứng dậy như giật lùi, như dạt vào tường. Ông đã cố hết sức bình tĩnh nhưng giọng vẫn không được vồn vã tự nhiên. “Các đồng chí cứ ngồi. Tôi xuống đây đột xuất có hai việc. Một, các đồng chí cho ngay người cáng đồng chí đang ốm nằm ở câu lạc bộ lên trạm xá trung đoàn. Hai, đưa tôi mượn cuốn nhật ký của chiến sỹ Giang Minh Sài”. Ông không hề nghe tiếng vâng dạ rối rít, tiếng mời chào ông uống nước, hút thuốc. Cầm cuốn nhật ký, ông cười: “Thôi các đồng chí nghỉ đi. Tôi có việc vội”. Đạp xe về trạm xá trung đoàn gặp trung úy bác sĩ đại đội trưởng quân y dặn dò gì đó, ông về đến nhà liễn cơm cần vụ ủ cho đã đóng chóc từng mảng không thể ăn đến bát thứ hai. Ông lại vội vã ra công trường giám sát nghiệm thu công trình của tiểu đoàn 8. Đêm về ông đọc toàn bộ cuốn nhật ký của Sài. Thật là xấu hổ khi đọc nhật ký của người khác. Trường hợp này lại không thể nào không đọc. Có phần lạ, cậu bé này không bao giờ ghi nhật ký về công việc và diễn biến tình cảm xảy ra ban ngày.
“Đêm... tôi quyết định phải ghi nhật ký từ đêm nay. Đây là công việc đầu tiên của đời tôi. Giá hồi đi học tôi cũng ghi nhật ký như các bạn khác hoặc học giỏi văn như Hương thì đâu đến nỗi chật vật khó khăn. Ngày ấy đã có bạn để than vãn kêu ca. Yêu ai, ghét ai, cáu giận ai có thể chạy đến hàng ngày, gặp gỡ hàng ngày, việc gì phải viết nhật ký cho mất thì giờ. Nhưng từ hơn nửa tháng nay thành “anh bộ đội” tôi không có ai để chia sẻ. Tổ “tam tam” ngày nào cũng “tâm sự” nhưng để tổ trưởng nắm bắt tư tưởng đi phản ánh, làm sao có thể nói rằng tôi đang khổ sở quá. Người tôi yêu không bao giờ được tới, kẻ tôi ghét không được phép tránh xa. Nhật ký có thể giúp tôi ghi nhớ những ngày tháng này. Tôi không có gì để ghi vào ban ngày cả. Ban ngày học xạ kích, làm công trình quốc phòng, toàn những điều bí mật không được phép nói, không được phép ghi. Với lại, tôi có nghĩ ngợi gì ban ngày đâu, không có thời gian và cũng không được phép nảy sinh tư tưởng”.
“Đêm...” Anh thương yêu của riêng em. Từ khi anh ra đi đến nay đã được sáu tháng, năm ngày. Em tự lần hỏi mà biết chứ anh có hề cho anh hay biết gì ngày anh ra đi! Sao anh tàn nhẫn thế! Anh có biết em khóc ròng rã hàng tháng trời không! Chỉ dám khóc về đêm. Vừa làm bài vừa khóc. Nhớ thương anh càng nhiều, em càng phải học giỏi. Em là người duy nhất của trường không có điểm 8 trở xuống trong tất cả các môn. Em được chọn là học sinh xuất sắc nhất, được bằng khen của bộ giáo dục. Cả thảy cô đều bảo chỉ có Sài ở đây thì Hương mới chịu đứng thứ hai, còn không ai có thể sung sướng đến phải chạy khắp đường phố mà gào lên cho ai cũng có thể nghe, ai cũng phải mừng rỡ chúc mừng hạnh phúc của chúng ta. Đấy là cái tin chú Hà và anh Tính đến báo cho em. Cả chú và anh đều rất âu yếm coi em như là đứa em, đứa cháu dâu thực sự: “Từ nay các em được hoàn toàn tự do rồi. Chú và anh đã đề nghị với tòa án. Người ta đã điều tra kỹ và nhất trí cho Sài được ly hôn để khỏi giết cả ba con người cùng một lúc”. Nghe xong em ôm chầm lấy cổ anh Tính, gục vào vai anh ấy mà khóc và nói: “Cháu vô cùng cảm ơn chú, em vô cùng cảm ơn anh”. Anh vuốt tóc dặn: “Chủ nhật này em xin phép về qua nhà, bố mẹ đang rất mong gặp em. Và đến hè ba chú cháu mình đi thăm Sài”. Còi báo động kiểm tra trang bị. May mà vẫn đi giầy sẵn và chưa mắc màn!...
“Đêm... toàn tiểu đoàn bắn đạn thật bài một. Có đến hàng trăm sĩ quan cấp uý, cấp tá và cả thiếu tướng Tư lệnh Quân khu cũng về theo dõi cuộc bắn thí điểm cho toàn quân khu. Chú Hà và đoàn thăm quan của tỉnh mình cũng đến. Mình không nheo được mắt trái, đại đội đã báo cáo dự kiến chỉ đạt chín mươi lăm phần trăm. Mình ở trong số năm phần trăm còn lại nên xếp mình bắn “vét” trong khi đoàn tham quan đã xáo xác quay ra xe. Nhưng đột nhiên thấy tin báo cả ba viên trúng vòng mười, tất cả đều đổ xô lại. Đây là trường hợp duy nhất của cả trung đoàn có một tân binh bắn đạt 30 điểm. Mình được bắn lại cho thiếu tướng trực tiếp xem. Cờ báo bia lại báo kết quả như cũ. Cả trường bắn hoan hô rầm rầm. Thiếu tướng đến bắt tay và quàng vai mình trước con mắt trầm trồ của hàng trăm người. Chú Hà nhìn mình cười và gật gật rất hài lòng....
Chính ủy cau mày vẻ bực bội. Ông đặt cuốn nhật ký của Sài xuống, mở túi lấy tập “lịch công tác” có ghi kết quả công việc của các tiểu đoàn từ bốn rồi lật từng trang so ngày giờ xem những đêm ghi trong nhật ký thì ban ngày đại đội 12 làm gì...
Ngày 25 đại đội 12 sàng cát và gánh nước trộn bê tông ở H1. Bảo đảm quân số 100%. Năng suất vượt 15% so với chỉ tiêu.
Đêm 25... Hương đến. Cô ta bảo được đi trong đoàn học sinh giỏi tham quan biển. Đại đội mình được phân công đón tiếp “các em” học sinh. Khi cô thay mặt các bạn kể chuyện học tập xong mới nhìn thấy mình đang bê chậu cám cho lợn ăn. Hương chạy ào đến reo “Anh Sài. Trời ơi, anh ở đây ư?” Cô cười nói ríu rít. Khi các bạn ùa đến Hương rất hãnh diện giới thiệu: “Anh Sài, mình vẫn kể với các bạn đấy”. Quần áo mặt mũi mình đang nhem nhuốc cứ phải quay mặt đi. Hương nũng nịu: Anh ở đây, các bạn em rất quý anh. Bộ đội càng gian khổ chúng em càng thương. Tất cả cười vang lên. Anh em trong đại đội mình cứ tấm tắc. Không ngờ cậu Sài có cô người yêu tuyệt vời thế. Ai cũng quý mến, săn sóc Hương. Họ bắt Hương “cô dâu của đơn vị” phải tiếp khách hết rổ bứa họ đi bộ chín cây số lấy về từ tối hôm qua...”
Chính ủy bỏ cuốn nhật ký xuống, quay máy gọi điện cho trạm xá. Ông hỏi bác sĩ về bệnh tình của Sài xem có biểu hiện gì của bệnh tâm thần! Bác sĩ cho ông biết bệnh nhân chỉ bị suy nhược cơ thể và sốt cao do viêm phổi sơ nhiễm.
Ngày 29... đại đội 12 học xạ kích bài một cả buổi sáng. Chiều nghỉ. Đêm xe nước.
Đêm 29... Hương và tôi cùng đi thi vào đại học. Hương tốt nghiệp cấp ba thì tôi cũng tự học xong chương trình lớp 10. Em rất lo việc tự học của tôi nên khi thấy tôi đột ngột đến nơi tập trung em kêu lên: “Trời ơi, anh! Em không ngờ anh lại học hết chương trình trong ba năm ở bộ đội. Nhưng... thôi tối nay anh em mình “lược” toàn bộ kiến thức anh nhé”. Ngược lại, tôi lại lo cho Hương: “Em có bảo đảm chắc chắn đỗ không?” - “Học tài thi phận biết thế nào. Nhưng nếu có mười phần trăm số người thi đỗ, chắc là có em” - “Thế thì yên tâm. Đêm nay chúng mình đi chụp một kiểu ảnh anh nhé! Chiều em một chút cho em bõ những ngày vò võ trông chờ suốt ba năm qua”. Cả hai ngày thi, tôi chỉ làm hết nửa thời gian quy định cho mỗi bài. Còn Hương, sau mỗi buổi hỏi đáp số, kết luận ở tôi xong, lại reo lên: “Cứ nhìn thấy anh ra từ giữa giờ em tin anh sẽ xếp cao. Em cũng thừa thời gian nhưng phải ngồi xem lại, con gái bỏ ra sớm quá không tiện”.
Thi xong chúng tôi ở lại nhà nhà anh trai của Hương. Em bắt tôi phải may quần áo, tập đi xe đạp, rồi hai đứa đưa nhau về quê. Lúc bấy giờ mọi người mới biết tôi đã ra khỏi bộ đội. Tôi đi thi đại học và về nhà, cô Tuyết đã chết vì bệnh ung thư ở cổ. Tuyết chết, tôi lại thấy thương, thấy tội nghiệp cho cô ta. Giá cô ta đừng làm khổ tôi mấy năm đằng đẵng có phải tôi cũng quý mến cô ta như tất cả bao người khác không? Tôi bảo bố mẹ tôi bán cả nhà cửa làm ma cho cô ta thật to và năm nào đến ngày giỗ tôi cũng làm mấy mâm cơm mời cả bố mẹ, anh chị cô ta đến, như những người thân thiết khác. Ôi, không thể nghĩ gì tiếp được nữa. Kinh khủng quá.
Ngày 4... đại đội 12 tiếp tục vận chuyển đất đá ra cửa K5. Quân số: Trừ hai đi viện, một đi công tác còn đầy đủ.
Đêm 4... Tôi bỏ trốn khỏi đơn vị. Ngày lao động kéo dài từ sáng sớm đến chiều tối, có hôm mệt, tôi không ăn được. Đêm lại tập xạ kích và báo động. Vốn dân bùn lầy nước đọng làm thuê làm mướn nên vất vả gấp năm gấp bảy thế nào tôi cũng vẫn theo được. Tôi rất khổ tâm và nhiều đêm không thể ngủ được vì không biết Hương có hiểu hết việc tôi ra đi như thế này không. Tôi chỉ định về thị xã gặp Hương xem tình hình thế nào, rồi lại đi ngay ngày hôm sau. Nhưng Hương bắt tôi ở lại để đến thứ bảy cùng tôi lên đơn vị. Hương có ông chú ruột là trung đoàn trưởng trung đoàn này. Trung đoàn giữ cả hai chúng tôi ăn cơm với ông, nhưng tôi từ chối để về đại đội. Hương cũng chạy theo. Trung đoàn trưởng phải chiều chúng tôi. Cả ba xuống đại đội 12. Từ hôm ấy, anh em ai cũng nể, không “tra khảo” chuyện vợ con của tôi và hết sức vun vào tình yêu giữa tôi và Hương.
Chính ủy kêu thốt lên: “Một thằng điên!” Ông quẳng cuốn nhật ký ra bàn, tắt điện, nằm như kiểu nằm ngủ nhưng hai mắt vẫn mở trừng trừng nhìn vào khoảng tối mung lung trên mái nhà. Quả thật, nó đã như một thằng điên. Nhưng tại sao nó lại bịa ra tất cả những chuyện ấy! Cái gì thật, cái gì giả trong những trang nhật ký này và thằng bé ấy là người thế nào? Ông không thể hiểu nổi nữa. Ngày hôm sau cả chính trị viên và “xê” trưởng xê mười hai trả lời những câu lục vấn của chính ủy. Đại thể chính trị viên nói như thế này.
- Chúng tôi thấy có nhiều biểu hiện xấu trong cuốn nhật ký nên thống nhất trong ban chỉ huy phải thu lại. Sở dĩ biết được điều đó vì có một lần đang ghi, cậu ta đau bụng đi ngoài. Cậu ta thường ghi vào những đêm sau khi thay gác nên anh em biết phát hiện cho tôi. Tôi đã để ý theo dõi từ lâu nên tranh thủ đọc. Không thể ngờ được là cậu ta lại ghi như thế. Ngay hôm sau đợi cậu ta đi làm, chúng tôi giở ba lô xem thì tất cả anh em trong ban chỉ huy đều giật mình về những việc làm nguy hiểm và khoác lác của cậu ta.
- Cậu ấy đã làm gì như đã ghi trong nhật ký chưa?
- Báo cáo chưa! Chúng tôi bảo nhau thằng cha này tưởng tượng ra những cảnh nên cũng thơ lắm. Nhưng đặc mùi tư sản viển vông.
- Viển vông - Đại đội trưởng chen vào. Nếu không kịp thời ngăn chặn, nó sẽ thành sự thật. Báo cáo chính ủy, cậu này trông vẻ lì lì hiền lành, nhưng dễ làm những trò mạo hiểm lắm. Hôm diễn đàn thanh niên anh em cũng phân tích sâu sắc nguy cơ của nó. Chính cậu ta cũng phải công nhận như thế.
- Ý thức lao động và học tập của cậu ta như thế nào?
- Báo cáo có vẻ tốt.
- Thực chất là không tốt!
- Báo cáo, cũng chưa có biểu hiện gì xấu.
- Nghĩa là thế nào?
- Thưa, nghĩa là ngày nào cũng được biểu dương là chịu khó, hăng hái nhận việc nặng nhọc. Nhưng đến đêm...
- Thôi được rồi. Theo các đồng chí thì cậu ta ốm thật hay ốm tư tưởng.
- Có ý kiến cho là ốm tư tưởng.
- Tôi hỏi ý kiến đồng chí kia.
Chính trị viên.
- Báo cáo, lúc đầu chúng tôi cũng cho là cậu này nằm ỳ, nhưng sau này.
- Từ bao giờ?
Im lặng. Chính ủy :
- Từ hôm qua, đưa cậu ta đi viện! Chắc các anh cũng chưa biết là bệnh gì. Đại đội quân y người ta đã khám và phát hiện bị viêm phổi sơ nhiễm đấy. Bị từ hôm đơn vị các anh rửa đá. Cả một ngày cậu ta ngâm mình dưới nước lạnh, về không ăn được cơm, các anh còn xỉ vả nhốt riêng một chỗ sợ ảnh hưởng đến tư tưởng người khác. Đúng là các anh tinh thật. Không cách ly như thế bệnh lao là dễ lây nhanh lắm. Giọng ông nghiêm lại - Ngày mai các anh nộp cho tôi tất cả thư từ của người yêu và vợ các anh. Cả thư của các anh gửi cho các cô ấy. Nếu không đủ tôi sẽ cho trợ lý bảo vệ kiểm tra lục soát tất cả những nơi nghi ngờ là có những lá thư ấy. Tôi dám chắc trong những lá thư qua thư lại như thế sẽ có điều bậy bạ hoặc sự lừa dối. Tôi biết mỗi anh có yêu một vài cô trước khi lấy vợ. Khi yêu thể nào cũng hứa hẹn hàng trăm thứ nhất. Yêu nhau nhất, chung thuỷ nhất, đẹp nhất đời... Nhưng vì lý do gì đấy các anh đã chọn người yêu khác. Thành ra những lời hứa hẹn với người yê cũ trở nên giả dối. Nói tóm lại, bằng quyền lực của mình, tôi đã có lý do, biện pháp để làm cái công việc quái gở ấy nấp sau danh nghĩa là làm cho cán bộ chúng ta trong sạch, thật thà. Các anh không thể cãi được, hoặc có cãi, có kiện tụng cũng chỉ đem lại hậu quả xấu do sợ “trả đũa” tôi chứ kiện mà các anh “hạ bệ” tôi khó lắm. Với cấp trên, tôi có thiện cảm hơn các anh, gần cận hơn các anh, có điều kiện để dãi bày hơn các anh. Và phần chắc chắn là tiếng nói của tôi với cấp trên “trọng lượng” hơn các anh. Ông dừng lại. Sự im lặng ngơ ngác của hai người chưa biết điều gì sẽ xảy ra. Ông ôn tồn tiếp: Các anh nghĩ gì nếu tôi làm như thế thật. Dù có phải “về vườn” mà cày ruộng thì trong đời các anh có bao giờ phai mờ hình ảnh một lão chính ủy điên đầu thô bạo và như một kẻ bất nhân này không? Thế mà các anh đã làm như thế với một chiến sĩ của mình. Chưa nói đến sự cư xử cua con người, của tinh cảm đồng chí, đồng đội, chỉ nói lý với nhau các anh đã xâm phạm thô bạo đến tự do tối thiểu của con người mà luật pháp chúng ta đã quy định. Ai hướng dẫn các anh cách làm chính trị, nắm tư tưởng cái kiểu ấy? Tôi đồng ý là những ý nghĩ của cậu ta viển vông, cứ tạm coi như thế. Nó có thể dẫn đến những việc làm xấu và trước mắt bằng sự ghi chép ấy, chúng ta thấy cậu này không đơn giản, có phần phức tạp quá. Nhưng không thể hiểu như thể qua phản ảnh của tổ “tam tam”. Tôi không nghĩ có lẽ phải xem xét hình thức sinh hoạt này. Nó có giúp ta phần này nắm sát anh em nhưng không nghĩ cách nào để nó nội dung hấp dẫn, thật là cần thiết, đôi khi họ làm chiếu lệ cho xong, làm để khỏi bị nhắc nhở là không làm. Cũng có khi để trên được chú ý, họ đem thổi phồng chuyện nhỏ thành to, bịa ra khuyết điểm và bịa ra cả tiến bộ để trên thấy là qua tổ “tam tam” cũng phải xem xét cân nhắc, và kiểm. Kiểm tra không có nghĩa là rình rập, thập thò, mắt tròn, mắt dẹt hô báo nhau về những việc làm của cá nhân. Những biểu hiện nào của cá nhân, kể cả lời nói và việc làm xâm phạm đến kỷ luật quân nhân, đến phẩm chất người lính, đến ý chí chiến đấu và nhân cách con người, phải được theo dõi, quản lý chặt chẽ và xử lý nghiêm khắc. Nhưng những gì thuộc tình cảm riêng tư phải được tìm nhiều cách mà hiểu, phải kiên trì nhẫn nại và có khi phải nhẫn nhục gian khổ mới hiểu hết con người, nếu mình muốn hiểu và thực tâm giúp họ. Vội vàng, thô thiển, kết luận nhân cách người khác, rèn giũa người khác để đạt được mục đích cá nhân mình, có khi giết người ta mình mình vẫn phởn phơ như không hề can dự, không có tội tình, quá lắm chỉ là nhận khuyết điểm rút kinh nghiệm. Các anh đã chán tôi nói chưa. Nếu là cương vị một công dân, một công dân có quyền bắt người khác phải tuân theo luật lệ thì tôi đã đưa ra tòa các anh đã xâm phạm quyền làm người của người khác. Các anh đã dùng áp lực cái gọi là diễn đàn để truy bức người ta. Các anh đã tạo nên một định kiến xấu, đối xử thậm tệ, có thể nói như thế khi các anh không thèm nhìn ngó đến một chiến sĩ sốt 40 độ suốt cả tuần mà vẫn bị coi là ốm tư tưởng, phải “cách ly”. Thử hỏi nếu không có phản ánh “tư tưởng” của các anh để trên trung đoàn biết và rất may là đưa đi viện kịp thời thì một vài ngày sau, số phận của người chiến sĩ sẽ ra sao! Thật là phẫn nộ về việc làm của các anh. Nhưng với cương vị một chính ủy tôi cũng chỉ phê bình để các anh rút kinh nghiệm. Vì rằng không thể vì một chiến sĩ mà tôi phải đi cả bốn cán bộ đại đội, không thể bỏ cái thành tích lao động thứ nhất sáu tháng của đại đội 12 khi chúng ta cần làm xong công trình trước mùa mưa. Và quan trọng hơn, tôi không thể bỏ quá nửa số cán bộ trong đoàn có quan niệm về công tác tư tưởng con người như kiểu các anh. Thành ra cứ phải cho êm đi. Các anh cầm quyển nhật ký này trả cậu ta bằng cách nào cho “êm” để vừa đỡ xấu hổ, vừa không mất “khí thế” chung của đại đội. Nhưng tôi nói ngay rằng, tôi không để hiện tượng này lan tràn trong trung đoàn và không thể “tha” khi các anh không thương chiến sĩ thật lòng, không yêu nhiệm vụ thật lòng, làm việc cốt đối phó với thành tích từng ngày, cốt được khen, còn lính tráng “sống chết mặc bay”. Nhớ chưa. Thôi, quá trưa rồi, các anh về đi.
Sài đã ngồi dậy đi lại được. Vẫn là cố gượng đi lại cho quen. Nằm mãi, đau ê ẩm từng khớp xương, nhất là chân tay, tưởng như đã rời ra khỏi thân mình. Suốt một tháng qua, ngày nào cũng tiêm kháng sinh liều cao, làm hai cánh tay, hai bắp đùi và mông thành chai, rắn đanh lại. Có hôm người tiêm đẩy kim đến vã mồ hôi, thuốc vẫn không chạy. Rất nhiều đêm buồn, mỏi, vật vã Sài phải uống thuốc ngủ mới thiếp đi. Hôm nay anh cố lần tới ghế đá. Người thấy rã rời, nhưng ngồi không thì buồn, không chịu nổi, anh rút quyển lượng giác tròn bụng ra đọc lại các công thức, và kiểm tra lại bài tập đã làm. Đang mải mê đọc như kiểu đọc sách Sài bỗng giật mình: “Anh Sài. Em bảo chưa đọc được kia mà. Em lại thu quyển sách ấy cho mà xem”. Nói rồi, cô đến bên ngồi xuống cạnh Sài, dúi quyển sách trong tay anh xuống chứ không thu. Cô y tá ấy tên là Kim, Kim có dáng người nhỏ nhắn, và xinh. Ngay từ hôm Sài mới đến trạm xá, Kim đã taháy ở anh có thể tin cậy và cũng vào loại đẹp giai nữa. Càng về sau cô càng tự phục mình có tài nhận xét người. Sài ít nói, e dè như con gái, sẵn sàng phục tùng tất cả mệnh lệnh gắt gỏng và ngọt ngào của các cô. Nghe nói anh ta giỏi toán lắm. Kim chưa biết nhưng cứ mỗi lần anh ta mở mắt ra, nhắc được tay lên, lại thấy quyển lượng giác và quyển bài tập cũng là lượng giác. Anh ta mê mải khiến nhiều lần cô phải “tịch thu”. Tịch thu rồi trả lại, cứ tự cô quyết định, khi nào cô muốn. Còn anh, chỉ im lặng “nộp” và nhận lại. Bản tính của con gái là muốn khám phá và chiếm lĩnh sự bí ẩn ở người con trai, có thể theo hút nó cả cuộc đời mình, để cuối cùng nhận lấy sự thất bại nặng nề, cũng vẫn sẵn sàng. Đến ngày thứ bảy kể từ khi Sài đến đây, Kim đã lục tìm bệnh án của anh. Cô ngẩn người, ngồi lặng đi đến ba phút trước dòng chữ: Khi cần báo tin cho vợ: Hoàng Thị Tuyết. Nhưng cô phản đối mấy ông bệnh nhân lớn tuổi ở ban hậu cần và quân khí ngồi bàn nhau về vấn đề không có tình bạn lâu dài, không có anh em, chú cháu kết nghĩa giữa con gái với con trai, nếu không có tình yêu; đã và sẽ xảy ra hoặc lợi dụng lẫn nhau về một cái gì đó. “Đừng nhận làm cháu nuôi, cháu ơi”. “Chú sẽ “ăn thịt” cháu có ngày đấy”. Sao mấy ông đã già còn ăn nói phức tạp. Mặc. Kim thấy ai tốt, cứ chơi. Mình trong sáng, thì lo gì. Kim đã không lầm khi cô quý Sài như một người anh, dù Sài chỉ hơn cô chừng sáu bảy tháng tuổi. Nhưng sự “trong sáng” của Sài không giống như cô. Lòng anh đang “đen tối” về một cô gái không có ai có thể thay thế, nên với bất cứ người con gái nào anh cũng quý mến lịch sự như với một thằng bạn. Kim ngồi một lúc rồi hỏi :
- Anh có hay nhận được thư chị Tuyết không,
- Có.
- Cho em xem nào?
- Anh để ở đơn vị.
- Hôm nào khoẻ về lấy cho em xem nhé. Anh ghi thư bảo chị ấy ra đây đi.
- Chị đang bận. Sắp thi học kỳ rồi còn gì.
- Eo ơi, đang học đã lấy chồng.
- Chị bằng tuổi anh mà. Chị ấy học giỏi văn và hát hay lắm.
- Thế thì viết thư hay phải biết.
- Thư nào của chị ấy anh cũng thuộc từng chữ.
- Ôi, thích nhỉ, lúc nào anh đọc cho em nghe đi.
Sài hứa làm việc đó những không bao giờ anh đọc thư cho ai nghe. Cũng như quyển nhật ký, vẫn để trong ba lô, nhưng không bao giờ anh dám ghi nữa, dù chính trị viên có xin lỗi và bảo mãi mãi về sau không cho phép ai xem nhật ký của Sài nếu không được Sài đồng ý. Trước đây, đêm nào không ngủ được, Sài cũng nghĩ ra một chuyện gì đó có thể giúp Sài sống được ở đại đội những ngày bị hẫng, tưởng như không thể chịu nổi cuộc đời bộ đội tự mình buộc vào. Nghĩ đi nghĩ lại nhiều đêm, thấy cứ tiếc nó, anh dành những giờ hết phiên gác, ghi nó lại mà anh tự gọi là nhật ký. Tưởng đã phải đi tù về cuốn nhật ký đó (trời ơi, những đêm “diễn đàn” anh cứ run bắn lên vì những từ phản động, chống đối, phá hoại, tư sản, phong kiến, bóc lột, ăn bám...), không hiểu sao sau lại được trả và bảo “không có gì”. Cứ vài lần “không có gì” là hết đời chứ còn gì. Từ nay không ngủ được, Sài phải tìm cách mà học vậy. Chắc chả ai đấu tố, cạo vét người tranh thủ học lúc không có việc làm. Với lại, học đối với Sài là nỗi khát khao từ nhỏ. Không có niềm vui nào của trẻ con hấp dẫn Sài bằng học làm tính và đọc cái gì đó. Nửa tháng sau ra viện, anh được điều lên trung đoàn bộ làm tạp vù cho ban Năm và dậy văn hoá. Trợ lý văn hóa của trung đoàn đau răng nằm ở trạm xá mấy ngày, thấy việc ham mê học hành của Sài, anh đã phát hiện ra một “nguồn” rất có triển vọng bổ sung cho tổ giáo viên chuyên nghiệp của Trung đoàn sau này. Một tuần Sài dạy hai buổi cho các sĩ quan toàn trung đoàn học chương trình toán dạy lớp bốn và hai buổi được nghỉ để soạn giáo án. Anh dùng hai buổi được nghỉ để học và làm bài tập. Được lên trung đoàn bộ so với ở đại đội đã thấy sướng như tiên, anh có rất nhiều thời gian để học. Đêm có thức thêm vài giờ cũng không bị nhắc nhở, cấm đoán. Trước khi lên lớp, anh để mười lăm phút viết “giáo án” do tự anh thấy chỗ nào cần đi sâu và học viên cần nắm cái gì trong bài học hôm ấy và cốt cho đủ “lệ bộ” theo quy định chứ không bao giờ Sài nhìn vào đó. Những người thấp thoáng biết Sài đến lớp uể oải, tuy chưa nói ra nhưng cho là trung đoàn coi thường lớp học này. Chưa có lý do để phản ảnh, họ tạo ra lý do để nghỉ học. Ba buổi đầu chỉ có từ ba đến bảy học viên trong số hai mươi người. Vốn tính dút dát, lại con mắt khinh khỉnh của những cán bộ, ít ra cũng từ trung đội trưởng trở lên, buổi đầu mở mồm nói câu nào là Sài “Thưa các thủ trưởng” câu ấy, trợ lý dự giảng xong khen: “Được đấy. Hiểu khá kỹ và sâu. Nhưng bỏ: “thưa các thủ trưởng” đi. Thủ trưởng đâu mà lắm thế. Tất cả họ ngồi đấy là học trò, còn mình là thầy. Không việc gì phải khúm núm, xun xoe, cứ đàng hoàng mà dạy. Anh nào không lắng nghe, không chịu học, cứ phê bình thẳng thắn”. Sau ba buổi đầu, tức là gần nửa tháng Sài dạy học, chủ nhiệm chính trị gọi trợ lý văn hóa lên để hỏi.
- Cậu xem thế nào. Cái lớp bốn, anh em họ phản ứng ghê lắm. Họ bảo khinh thường họ, cho thằng trẻ con tâm thần dạy dỗ những anh đã từng đánh nhau sứt đầu mẻ trán.
Anh trợ lý nổi nóng, giọng anh lặng đi :
- Báo cáo anh, nếu nghĩ như vậy với hàm thiếu uý, tôi không thể dạy cho anh Mạnh và anh được nữa.
- Thì anh em họ phản ánh, mình cũng phải xem xét.
- Tôi muốn báo cáo với chủ nhiệm việc đó. Nếu xem xét kỹ những ý kiến ấy và kết luận, tôi đề nghị chủ nhiệm biết đích xác ai kêu ca phàn nàn, xin kỷ luật anh ta. Lý do như sau: Thứ nhất: những anh ấy đã bỏ học ba buổi liền bằng những lý do không chính đáng. Thứ hai: ngay buổi đầu tiên khôi phục lại lớp, có đến năm người trông thấy cậu Sài đã tự bỏ về. Như vậy vừa không tôn trọng con người, vừa vô kỷ luật. Còn những người đã học buổi đầu thì không ai bỏ buổi thứ hai, thứ ba, và họ không bao giờ nói như thế. Đã dự giảng buổi đầu tiên và thấy lớp đông dần hẳn lên, tôi rất yên tâm. Tôi xin đề nghị chủ nhiệm ký cho cái điện yêu cầu tất cả những đơn vị cán bộ học chương trình lớp bốn chiều thứ sáu này phải có mặt đầy đủ, hôm ấy mời chủ nhiệm đến dự lớp, cho ý kiến.
Không phải chỉ giảng riêng cho lớp bốn được yêu và tin cậy, những buổi giáo viên chuyên nghiệp đi vắng hoặc bận việc. Sài dạy thay cả lớp năm, lớp sáu, thậm chí ở lớp bảy nữa. Ở lớp nào, anh cũng để cho học viên một ấn tượng không thể là người mới tốt nghiệp lớp bảy phổ thông. Vì chương trình bổ túc trong quân đội có chỗ cao hơn phổ thông, làm sao giảng được trơn tru dễ hiểu và giải đáp được tất cả thắc mắc của học viên, không cần phải đợi đến buổi khác “nghiên cứu thêm”.
Sài được chuyển hẳn sang sinh hoạt với tổ giáo viên vì phải dạy nhiều hơn và để anh có nhiều thời gian tự học. Vừa dạy, vừa phải học thêm nhưng tất cả công việc từ đánh rửa thau chậu, giúp anh nuôi vào sáng thứ bảy hàng tuần, lấy gạo, kiếm củi, lao động xã hội chủ nghĩa ngày chủ nhật, chiều chiều xách nước tưới rau... nghĩa là phần việc gì của cả tổ giáo viên của cả ban chính trị, anh cũng được gọi đến và làm hết mà vẫn thấy như không hề vất vả khó nhọc gì. Yêu mến anh như một thằng em út, các giáo viên đã tốt nghiệp đại học sư phạm đều tận tình và sẵn sàng giảng cho anh hàng buổi liền. Tháng sáu năm sau, tức là anh đã công tác ở trung đoàn bộ được hơn một năm, trung đoàn cho anh đi thi tốt nghiệp lớp mười ở trường bổ túc văn hóa của Quân khu. Anh đỗ vào loại ưu, được chọn gửi đi học trường đại học sư phạm ở Hà Nội.
Sự kiện ấy, cộng với lòng yêu mến của cán bộ đã học anh, cả trung đoàn 25 xôn xao, có phần quá đáng, về một tài năng, một tấm gương và những chuyện đồn đại về cuốn nhật ký hơn một năm trước đây được coi như là dấu hiệu của một tài năng suýt bị vùi dập. Nhưng những người điềm tĩnh hơn hiểu anh hơn như Hiểu, thiếu úy trợ lý văn hóa trung đoàn thì coi đó là sự tất nhiên của một người có chí, ham học và chịu đựng nhẫn nhục mà học. Anh, cũng như tổ giáo viên của anh, không hề bàn luận, xem như chuyện đó mình không tường tận cho lắm. Riêng chính ủy Đỗ Mạnh biết rõ từ chuyện cô Kim y tá trạm xá lo lắng cho “anh Sài” như anh trai mình (ừ, con bé ấy cũng thật là tinh) đến chuyện từ ngày đi bộ đội đến nay Sài không hề gửi thư cho ai, cốt để mọi người coi mình như đã “biệt tăm” và cô Hương có thật hay là sự tưởng tượng...! Nhưng ông lại coi như mình không hề biết gì. Ngoài ba người là: trưởng trạm xá và hai cán bộ đại đội 12 được ông nhắc nhở phê phán như là sự quan tâm đến một chiến sỹ bất kỳ nào đấy, không ai biết ông với Sài có mối liên quan gì đến nhau. Ông cũng chưa hề viết lá thư nào cho Hà. Chắc hiểu ông, Hà cũng không hề hỏi han gì cháu mình. Còn với Sài, khi lên trung đoàn, cậu ta nhận ra “ông thủ kho”, ông cũng coi như không có chuyện đó. Thái độ của ông hơn một năm qua là “kệ nó”. Còn ông thì cứ lặng lẽ mà tìm hiểu, lặng lẽ mà xem xét. Ngay hôm Sài mới ở trường văn hóa Quân khu về để chuẩn bị vào trường đại học. Hiểu bảo ông: “Tối nay tôi đưa cậu Sài lên báo cáo anh” ông cũng gạt đi: “Mình cũng như mọi người, mừng cho cậu ấy thôi. Các anh lo cho cậu ấy đi, đừng vẽ chuyện đến mìnhh, mất thì giờ của cậu ấy ra”. Những ngày còn lại ở trung đoàn đối với Sài quý như vàng, bao nhiêu việc phải làm, bao nhiêu người cần phải chia tay, bao nhiêu điều muốn nói với anh Hiểu và các anh trong tổ giáo viên đều chưa làm được. Đang chộn rộn rối bời bỗng Sài giật thót nghe Hiểu reo lên: “Sài đâu rồi ra chiêu đãi sơ, vợ đến”. Thật hay hư? Ai mách bảo địa chỉ để cô ta tìm đến đây. Mồ hôi vã ra như tắm, mặt tái đi, Sài đứng chết lặng giữa nhà. Hiểu từ phía nhà trực ban cười cười bước vào. Hơi sững lại một thoáng, giọng anh hờ hững: “Thôi chuẩn bị mà đi đi. Cơm chiều xong bọn mình kéo nhau ra”. Sài muốn gục mặt xuống giường òa khóc nhưng lại phải bật lên tiếng “vâng” nghẹn ứ giữa cổ.
Rất chi là may mắn, nhờ anh bộ đội đi cùng chuyến đò, Tuyết dò dẫm hỏi được địa chỉ, cô đi thăm chồng với sự trải chuốt ăn diện có thể gọi là nhất làng Bái hồi bấy giờ. Một áo sơ mi màu nõn chuối, một áo lót “đông xuân” màu hồng mặc phía trong nhưng vẫn thể hiện được cái màu hồng hoe ấy lộ ra ở cổ và cả một đoạn thừa chừng nửa đốt ngón tay thò dưới áo ngoài. Đầu chải bê xăng tin nhếnh nháng lật ngược và được đè ập xuống bởi vòng khăn vấn bằng vải toan nhuộm màu nâu non còn mới trông nó chặt chằng như một cái đai. Chiếc quần láng súng sính dài quét gót, nhưng lại xắn vận vào cạp kéo ống lên ngang cổ chân để lộ đôi bàn to bè bè, chi chít từng vệt đen như gai cào. Nó căng lên, nứt nở bởi những quai dép cao su chằng cả phía trước và phía sau. Mới đến trạm chưa được hai tiếng đồng hồ, cô đã chạy đi các phòng cười rối rít, gặp ai cũng chào, thấy việc gì cũng làm giúp. Sài đến cổng thấy cô đang chổng mông cúi xuống giếng thơi kéo nước cho một chị con mọn cũng đến thăm chồng. Cả áo trong, áo ngoài kéo lên để lộ mảng lưng đen, lằn từng múi thịt. Chị con mọn đợi cô đổ cho gầu nước vào thùng sẽ sàng nhắc: “Em cho áo trong vào quần cho nó gọn”. Cô cười thoải mái, nói như cho cả người ngoài đường nghe: “Ở quê em, người ta cứ để thế cho nó mát chị ợ” - “Muốn mát thì mặc áo ngoài không cũng được” - “Leo ơi, thế thì nó thồng thỗng, trong quỷnh lắm, em chịu” Thấy cô nói to, chị con mọn ngượng vội nhìn ra phía cổng chị quay vào nhắc khẽ: “Có chú bộ đội ở ngoài kia, xem có phải chú ấy không?” Cô quay ra reo: “Đúng nhà em rồi chị ạ. Em về chị nhớ”. Cô nói cười thoải mái khiến một vòng cốt trầu quành trên môi từ lúc nào cô vô ý chưa lau như kéo vào cái miệng rộng ra, trông càng toe toét. Cô son són đi trước, Sài lầm lũi theo sau. Anh định rẽ vào phòng câu lạc bộ đọc sách, cô gọi “Nhà mình đằng này cơ anh ơi”. Miễn cưỡng Sài quay theo, anh rảo bước như muốn chui tọt vào phòng để khỏi ai trông thấy. Trên mặt chiếc bàn con đầu giường, cô đã bày đủ thứ: ấm, chén, ca, chanh, đường, chuối, bọc thư, bọc quà, bó mía. Rót nước ra ca xong, cô chạy lạch bạch ra ngoài cười nói hớn hở cách ba bốn dãy còn nghe thấy.
- Bác có dao cho em mượn, em bổ quả chanh pha cho nhà em ca nước.
- Mời bác sang chơi. Nhà em ra rồi bác ạ.
- Anh chị mời cơm xong sang nhà em xơi nước.
- Nhà này lấy cơm sớm để tối đi xem phim hả? Dạ! Vâng! Ngoài bến xe có phim bác ạ. Lúc nào đi các bác gọi chúng em với. Hé, hé, còn cả đêm, xem phim một lúc, lo gì hả các bác!
Cô lại lạch bạch chạy về, nói cười hổn hển.
Sài đang bóp tay vào hai thái dương gục xuống mặt bàn vội đứng dậy cầm quyển sách đi ra cửa.
- Để pha nước cho anh uống rồi hẵng đi.
Nhưng anh không thể nói nổi lấy một lời, lùi lũi ra ngồi đọc sách ở câu lạc bộ. Ăn cơm chiều xong, anh em giáo viên và ban Năm, có cả Kim và mấy y tá trạm xá kéo đến chật ních phòng. Họ cứ hùn vào để cô ta nói huyên thuyên đủ mọi chuyện. Nào làng em đã vào hợp tác hết tất cả phần trăm (“chắc là trăm phần trăm đấy”). Vâng, tất ráo cả phần trăm đấy ạ. Nào lợn không thả rông ỉa đầy đường, đầy ngõ mà vẫn không có phân. Lợn đã có chuồng, người lớn trẻ con cũng phải đi nhà xí không được bậy bạ. Cánh đồng bãi là cứ chính sách giồng lúa lốc tất tật. Nào hai gia đinh thương binh liệt sỹ được một cái chăn bông, còn nhân dân mười gia đình một cái (tỷ lệ một phần hai và một phần mười). Vâng, hai phần một mười đấy ạ. Nào vụ ngô vừa rồi bội thực chưa từng thấy. Đến đây thì mọi người không thể nén được, họ bung ra cười rũ rượi, gật đầu lia lịa và tán thưởng. “Bội thu chưa từng thấy. Thế thì yên tâm, quê ta không bị đói nữa chị nhỉ” - “Khá khá, khá thật”. Tuyết là con nhà khá giả những lại là con vợ lẽ và bắt đầu đến tuổi thiếu niên cô đã đi làm dâu. Cô học bình dân hơn năm năm mới đánh vần sách in, một giờ được một trang, mà vật vã như người vật nhau. Còn đoàn thể: cô có tên trong đội thiếu niên nhưng chưa bao giờ đi họp. Lớn lên cô cũng lại có tên trong cả hội phụ nữ và đoàn thanh niên nhưng biết chẳng bao giờ cô đi họp nên người nào làm cán bộ cũng quên cô là người của đoàn thể mình. Tất cả chính sách, chủ trương cô nghe được ối. Nghe lõm bõm câu được câu chăng, nhớ đoạn này chắp và đoạn kia, được đến đâu hay đến đấy, chứ không dám hỏi ai vì cô dè dặt, không biết đối đáp. Hơn mọt năm nay, Sài đi bộ đội, chị em mới bảo Sài chê cô là ít nói và cả thẹn. Bởi thế cô phải luyện. Ra đồng cô cũng táo tợn tán tỉnh đủ mọi chuyện xô bồ tục tĩu, tán cả chuyện thời cuộc làm ăn đầy những danh từ mới lạ, có khi chả hiểu nó là cái gì, quen mồm thì nói. Mới lỵ cũng phải nói để không ai có thể chê cười mình là đần độn thu chị kém em. Nói lắm thành nghiện. Càng nghiện càng tưởng mình hay ho, càng tưởng mình hay ho, càng muốn nói nhiều. Đến hôm nay thì cô càng tin mình tiếp chuyện bạn bè của chồng cũng không đến nỗi nào. Bởi thế mới khổ. Giá cô ta cứ câm đi còn đỡ nhục nhã. Kim vừa bước ra khỏi cổng khu gia đình đã trách: “Thế mà ông Sài bịa là vợ học cấp ba, cấp bốn giỏi văn lắm”, cánh ban Năm và giáo viên thì tha hồ kể đến hàng tuần để cho cả cơ quan trung đoàn bộ cứ lăn ra cười. Nhưng ai cũng hết sức vun vào, khuyên Sài chính lúc này lại cần phải yêu vợ để khỏi mang tiếng được học hành tiến bộ chê cô vợ quê mùa. Có anh nói tục: “Ôi dà, cần thì úp cái chăn vào mặt là xong tất”. Nhưng Sài không thể nào “cố gắng” được. Ba đêm cô ta ở chiêu đãi sở, cả ba đêm Sài thức trắng ngồi đọc sách. Cô trở lại cái bản tính yếu đuối của mình. Không thể nằm yên, hết thở ngắn, thở dài, giở mình ra, giở mình vào, rồi ngồi dậy đi ra, khi trở vào thổi phụt ngọn đèn dầu. Sài lặng lẽ châm lại. Bao nhiêu lần vẫn thế, cô ta không dám nói một lời vì vẫn có phần sợ Sài. Còn Sài, cũng không thể như khi còn ở nhà, nghĩ là anh vẫn ngồi ăn cơm chung khi mỗi bữa cô mang cơm ở nhà bếp về phòng. Dù tự tay mình xới lấy, Sài vẫn phải trả lời những đòi hỏi của cô: “Người ta bảo trong kia đẹp lắm, mai vào xem đi” - “Cô thích thì cứ đi, tôi đang bận học” - “Ngày mai mua ít cua bể về ăn, nghe bảo bổ lắm, có tiền thầy mẹ cho rằng hai nhà cho đây” - “Tôi không thích loại đó” - “Thế anh thích tôm he không?” - “Tôi lạy cô, để im cho tôi nhờ một tý”. Chỉ đến hôm hai người “cùng về quê” là Sài phải mua vé chung. Đến khi ngồi, anh lại đổi chỗ xuống dưới cùng. Hôm ấy, chính ủy Đỗ Mạnh như là từ đâu về, qua bến xe rất sớm, ông chào cô rồi bảo Sài ra một chỗ vắng. Ông đưa cho Sài hai chục và nói một câu: “Cầm lấy đi đường uống nước”. Sài rụt tay lại, ông cứ đặt tiền vào tay anh và nói câu nữa: “Tất cả phải cố nén lại mà học đã”. Nói xong ông chào Tuyết rồi đạp xe đi, không để cho Sài kịp nói lời nào
Sài không về nhà. Anh đi thẳng lên Hà Nội, vào trạm 66 nộp giấy tờ, làm các thủ tục. Chờ ngày vào trường, anh đến trường cấp III của Hương. Năm nay Hương lên lớp mười. Học sinh đến trường trước một tuần để kiểm tra chất lượng học hè. Vừa xuống xe, nghe tin ấy, Sài không còn thậm thọt lo cho bao nhiêu câu hỏi suốt dọc đường về sự rủi ro không gặp được Hương. Hẳn rằng thầy Chởi, các thầy cô giáo và bạn bè của Hương không ngờ là Sài được vào đại học trong năm nay. Còn Hương, khỏi phải nói đến nỗi sung sướng mừng tủi của cô như thế nào! Sài đã không nhần khi các thầy cô và bạn bè Hương đều quấn quýt trầm trồ khen ngợi anh. Duy chỉ có Hương là lẩn tránh. Lúc ở lớp về đến đầu ngõ, đã thấy Sài ở trong nhà trọ của cô, cô quay đi ngay, để suốt ngày hôm ấy không ai biết cô đi đâu. Mãi đến khoảng tám giờ tối cô mới cùng một thanh niên trông trắng trẻo và hiền lành đi về. Trẻ con nhà chủ reo: “Chị Hương đây rồi, ối giời ơi, chị Hương bỏ đi đâu cả nhà mong. Anh Sài cũng đến có việc gì đấy”. Sài đứng chết lặng. Cả gia đình chủ nhà ngơ ngác. Mới thấy tháng trước, khi chưa về nghỉ hè, không mấy hôm là cả nhà không nghe cô kể một chuyện gì đấy về Sài, về cái làng Bái lụt lội của anh. Nỗi thổn thức, thấp thỏm của cô chờ tin Sài, nỗi đau khổ buồn rầu tại sao anh lại ra đi không hề viết cho cô vài dòng, cô cũng thổ lộ với người con gái lớn của nhà chủ mà cô coi như một người chị. Có lẽ nó giận quá đấy mà. Cả nhà nghĩ như thế.
Ba người ngồi ba hòn đá ở chiếc chiếu trẻ con đem dải ở giữa sân. Họ im lặng lâu đến mức không thề ngồi im lặng được. Sài hỏi :
- Hương về hè có vui không?
- Cũng vui.
- Mùa màng quê mình độ này thế nào?
- Cũng như mọi khi.
- Cụ ở nhà có khoẻ không.
- Bình thường.
- Chắc khi chú Hà tôi đi học Hương đã nghi hè rồi.
- Không rõ lắm.
- Nghe nói thầy đi học ở Hà Nội.
- Tôi cũng không được biết.
Những câu đối thoại nghe nhạt nhẽo đến mức có “cố đấm anư xôi” đến đâu cũng không thể tiếp tục được nữa. Sài đứng dậy vào nhà chào cụ chủ để ra đi. Mọi người ngỡ ngàng, khuyên anh. Cô gái lớn chạy ra sân. “Thế nào Hương?” - “Anh ấy chả có việc gì ở đây, để anh ấy đi thôi”. Từ hôm ấy đến đây, thấy Hương rầu rĩ im lặng, chị chưa có dịp hỏi “tình hình thế nào”. Vẫn tưởng chỉ là nỗi giận dỗi tích tụ của Hương khiến cô xử sự như thế. Chị quyết định: “Kệ mày, tao giữ nó lại” - “Nếu chị định đuổi em đi thì tùy chị” - “Nhưng đang đêm hôm thế này” - “Việc đó không phải của em”. Biết đã có chuyện gì xảy ra không thể can ngăn, chị con gái lớn nhà chủ đành đứng im. Sài bước xuống sân: “Chào Hương”. Hương như không nghe thấy, cô bảo người con trai kia: “Chúng mình đi đi”. Đến hai mươi mốt năm sau, cô còn ân hận những giây phút này. Nhưng cô rất thỏa mãn về câu nói cảu mình đã như một phát đại bác bắn vào Sài. Cô không thể ngẫm nghĩ, phân tích và chờ đợi khi có một hiện tượng, dù chỉ là sự đồn đại về người yêu mình không còn chung thủy. Huống hồ đang lúc cô đau đớn và hy vọng. Đã mấy năm trời đau đớn và hy vọng. về sự ra đi biệt tăm của Sài. Về nghỉ hè lại bỗng nghe tin vợ Sài sắp sửa đi thăm chồng. Cả hàng tháng nay người ngoài biết vợ Sài đã có địa chỉ của anh ta. Chỉ có riêng cô ấy biết và sắp sửa đến đấy. Rồi trước ngày xuống trường Hương đã biết đích xác sáng sớm ngày hôm ấy Tuyết gánh hai túi xách trên một cây mía rõ to đi thăm Sài. Nghe tất cả tin tức ấy, cô không phát điên lên là may. Cũng may cô đã đến đây hơn một tuần. Nhờ có bạn bè, thầy cô, và gia đình bác chủ vồ vập ríu rít, khuây khỏa được bao nhiêu. Nhưng không thể nguôi nỗi hận trào lên khi nghe tin anh ta đến. Cô bỏ đi lang thang cả ngày rồi “mượn” anh bạn cùng lớp vẫn được cô phụ đạo và sai bảo, châm chọc như đối với một thằng em mặc dầu anh ta hơn cả tuổi cô và Sài. Anh im lặng như chứa đầy mưu đồ, ngoan ngoãn như rất chiều nhau. Ra khỏi cổng anh lại rảo bước theo mệnh lệnh ngắn gọn của Hương: “Về nhé” Cô lặng lẽ giấu mình đi theo và chiêm ngưỡng nỗi đau đớn của anh chàng Sài. Phải đến tám giờ sáng mai mới có chuyến xe đầu tiên chạy về Hà Nội. Đêm nay anh sẽ đi đâu giữa cái thị xã của tỉnh mình mà không hề một người thân thuộc. Ngoài Hương ra rõ ràng anh không thể đến đây với người nào khác, với mục đích nào khác. Nhưng anh ta đến để thanh minh, xin lỗi hay là để tiếp tục một tình yêu song song với một người vợ. Máu trong người Hương lại sôi lên. ừ, nếu anh ta biết khéo léo giữ gìn kín đáo thì có cả gia đình, có cả tình yêu, vừa thỏa mãn được ý muốn bố mẹ, anh em chú bác lại không ảnh hưởng đến tiến bộ của bản thân. Còn Hương, cứ “đánh đu” với anh ta để mà chán chường! Chồng con và học hành! Hừ, đời hay thật. Kẻ hèn nhát không dám mất đi cái gì thì được tât cả. Người sẵn sàng đánh đổi tất cả cho một cái gì chỉ còn bản thân tàn ma dại. Cái anh chàng “rù rờ” làng bãi láu cá đến thế là cùng. Chả trách anh ra len lén ra đi và câm lặng với mình như kẻ mất tích. Hàng năm trời nghe ngóng thấy êm êm mới bí mật báo tin cho vợ đến thăm! Có thằng đàn ông nào đểu cáng, xảo quyệt như thế nữa không? Cô muốn chạy dấn lên, xé nát kẻ mất dạy ấy ra. Nhưng vốn là người không thể bước theo sự uất hận của mình nên cô đành đứng lại nhìn trân trân con đường tối mờ mịt phía trước. Nhìn mà không thấy gì, ngay cả anh ta đi đến chỗ nào cô cũng không thấy. Đứng rất lâu như thế, bỗng cô quay ngoắt lai, chạy như có người đuổi. Về đến nhà, cô gục xuống giường mà khóc nức nở khóc như vừa chôn lấp xong một người ruột thịt trở về.
Với Sài thế là hết. Chỉ có điều anh day dứt và mong đợi giá có ai đó, có một lần nào đó lại biết vì sao Hương đối với anh lại tàn tệ đến thế. Đã thấy yêu anh là dại dột, đã có một tình yêu khác thì cũng chỉ một lần “lịch sự” với nhau là anh sẽ tự hiểu, anh vẫn phải tự đi lang thang suốt đêm trong thị xã để chờ chuyến ô tô sáng ngày mai, nhưng Hương đừng hắt hủi đến mức như cầm bát nước mà hắt vào mặt anh ở cái đêm ấy. Ôi, tình yêu! Anh biết rằng anh cũng có một nỗi khát khao đối với những người con gái như tất cả bạn bè. Chỉ có khác, anh khác họ ở chỗ anh không có quyền, nói cho đúng anh không được phép có một tình yêu. Hương đã đến với anh như từ trên trời, Hương đến ban cho anh sự linh thiêng của tình yêu rồi lại Hương, tự Hương vứt bỏ không thương tiếc. Hương hoàn toàn có cái quyền ấy. Còn anh cũng đã ý thức được là một thằng con trai không có quyền ngửa mặt hứng chịu mọi sự nhục nhã để được bố thí một tình yêu. Cứ thẳng thắn với nhau đi. Đứng cạnh Hương anh có thể có đủ nghị lực mà nói một cách không run rẩy rằng: “Thôi từ nay chúng mình chấm dứt, chúc em sống hạnh phúc”.
Sài được nghỉ tết 2 tuần. Từ khi được đơn vị cử đi học đại học đây là lần đầu tiên anh về nhà. Sự có mặt của anh lần này là niềm hãnh diện của cả họ hàng nội ngoại. Cả vùng ngoại bối chỉ có một người học Đại học là quý, Sài không phải mang gạo mang tiền đi học, ở bộ đội gian khổ là thế mà tự học có hơn một năm vào được đại học càng quý giá hơn. Ai cũng chiều chuộng và kiêng nể. Ngay cả chuyện Sài không hỏi han gì đến Tuyết mọi người cũng chỉ thở dài “Khổ, cái số nó biết làm thế nào”. Bố và mẹ, anh và chú, họ hàng và làng xóm đều cảm thấy nó đã tuột khỏi tay mình. Cái quyền làm cha mẹ, trên dưới, chỉ còn ở chỗ tâm tình và khuyên bảo, nương nhẹ và âu yếm. Tất cả đang gá mình vào niềm vinh quang của chàng trai trẻ. Duy chỉ có bà đồ thấy con ngày nào cũng vác xe đap đi suốt ngày đêm, bà mắng con: “Mày cứ đi đâu cho vất vả? Từ mai ở nhà nghỉ con ạ”. Nhưng ngày nào anh cũng phải đi. Đi vào huyện để anh Tính dắt đi giới thiệu với các ban ngành, đoàn thể, đi chợ và đi thăm bạn bè. Tất cả những công việc ấy thực ra không hề có ý nghĩa gì nếu không có hai lần đi và về qua xóm nhà Hương. Không đi không chịu được. Nhưng có hai lần thấp thoáng thấy bóng Hương từ phía cổng nhà cô anh đều đạp dấn lên như chạy trốn để rồi khi trở về cứ đi quanh quẩn nhìn vào phía ngôi nhà có tường hoa xây quanh. Không chỉ là sự ngượng ngùng, còn nỗi ấm ức ghét bỏ khiến anh không thể gặp Hương, không thể nói gì kể cả cái điều đêm nào anh cũng nghĩ tới: Vì sao cô ta đối với mình lại tàn tệ thế!
Hương về nghỉ trước Sài hai ngày. Ngay hôm đầu me đã hỏi: “Lâu nay cậu gì ngoài bãi có đến chỗ con không?” - “Sao mẹ lại hỏi con thế” - “Vì mẹ sợ chẳng đâu vào đâu mà mang tiếng”. Hương càng thấy nhói đau và oán giận cái con người ấy. Thấy Hương ngồi lặng đâu đớn mẹ an ủi: “Thằng bé nó cũng tội. Gia đình nhà cô kia xui con làm đơn đề nghị đơn vị gọi cậu ấy về không cho học đại học vì tội chê vợ” - “Đấy là chuyện trước, mẹ thì cứ chắp chuyện nó với chuyện kia” - Trước đây, đến bây giờ các bà ngoài bãi mới bảo không ai bắt được nó phải đi lại với vợ. Khi đi thăm cậu ta về cô vợ sợ xấu cứ cười cười. Có người hỏi “thế nào” cô ta lại khóc với bà cô ruột vào làm cho nhà ta rằng anh ấy tệ lắm. Cả ba đêm anh ấy ngồi đọc sách, hỏi câu nào anh ấy mắng câu ấy. Khi đơn vị cho hai người cùng về quê, anh ta mua vé mỗi người ngồi một nơi đến nửa đường thì xuống bảo còn đi có việc! Rồi bà kể cho con gái biết chuyện vì sao cô Tuyết biết địa chỉ của cậu ấy. Cậu ấy đã nói thẳng với ông thủ trưởng tướng tá gì đấy là tôi không thể yêu cô ấy được, các đồng chí không cho tôi đi học thì thôi. Nhưng vì cậu ta giỏi quá không thể thay ai được, đơn vị đành cứ phải mời cậu ta đi. Không ngờ cái đoạn các bà làm thuê (họ vẫn còn làm thuê lẻ tẻ với tính chất “cái phân cái gió” giúp gia đình “người bà con”) người làng bãi bịa ra Hương lại có thể tin. Cô bảo mẹ: “Con bận học hành cũng chả hơi đâu mà nghĩ đến chuyện rắc rối ấy nữa. Mệt người lắm” - “Ừ thôi, thiếu gì người, con lại phải đi đâm đầu vào chỗ ấy”. Không hiểu sao sáu bẩy năm nay từ khi mới mười lăm tuổi không biết đã có bao nhiêu người đủ các loại “xô” vào Hương đều bị bật ra mà cô lại lao đầu vào Sài như một con thiêu thân. Ngay cả những ngày “căm thù” anh ta nhất cô cũng không thể nghĩ đến ai. Cô có thể lý giải được một phần lý do ấy vì cô còn trẻ và biết rõ cái thế của mình muốn yêu ai, lấy ai lúc nào mà chả được. Đã vội một lần gỡ mãi không ra, tội gì vội vàng nữa. Nhưng cô không lý giải được tại sao cô lại yêu Sài. Một cuộc tình không biết sẽ đi đến đâu vẫn không thể dứt bỏ. Người ta bảo mấy đêm nay, Sài toàn rủ bọn trẻ con vào chợ Bái. Cứ đi rong chơi chả thấy vào nhà ai. Đến quá nửa đêm mới kéo nhau về rúc vào ổ của bất cứ nhà đứa nào đó, năm bảy anh em nằm quay ngang, quay dọc chồng chéo lên nhau. Không hiểu sao bọn trẻ đứa nào cũng thích đi với anh Sài chơi xa thế. Mà có để làm gì đâu. Chắc buồn quá nên dẫn bọn trẻ con tha thẩn cho vui. Hương lắng nghe tất cả và hiểu cả. Cô cũng hiểu sự tác động những câu đối đáp của cô hồi đầu năm học đến đâu. Ngày nào cũng đi qua đây (và cả đêm nữa) mà anh không dám gặp Hương cũng phải thôi. Nếu ngày ây Hương biết rõ mọi chuyện như bây giờ thì đâu đến nỗi. Liệu mình có nên chủ động gặp không? Cô gạt bỏ ngay ý nghĩ này. Đã một lần chủ động rồi! Con gái như thế họ sẽ khinh thường mình. Không chủ động nhưng cô cũng đã “vô tình” đứng ở cổng mấy lần rồi. Cả mấy lần có lẽ anh vẫn qua đây nhưng có hẹn ai mà gặp. Cả hai tuần lễ, kể cả đêm 30 và ngày mùng một tết một người vẫn “vô tình” đi qua và người kia cũng “vô tình” mong đợi. Họ vẫn không gặp nhau. Suy cho cùng cũng cái nguyên do rất đơn giản và ngu ngốc: ai cũng muốn giành phần thắng về mình. Cả một thời ý thức về cái danh dự hão huyền đã trói buộc họ bỏ qua nhiều dịp khác nữa. Những giây phút có thể “hàn gắn” ấy để trôi đi ngờ đâu nó thành xa cách mãi mãi. Hai năm rưỡi nữa Hương đang học năm thứ hai của trướng Bách khoa cô tìm mọ cách đăng ký đi trại hè ở bờ biển nơi anh đóng quân. Cô biết rõ ràng như thế và không cần phải dè dặt. Cô cũng biết rõ ràng không có người con gái nào trong anh ngoài cô. Vì cô, anh đã sống những ngày tháng như đã “chết rồi”.
Vừa đến nơi, bạn bè còn đang ngơ ngác trước ồn ào của sóng gió cô đã dò hỏi địa chỉ của anh và nhắn anh xin phép ra bãi biển trung tâm gặp cô. Chiều tối, một trung úy tìm đến. Anh tự giới thiệu với cô tên mình là Hiểu, trợ lý văn hóa của trung đoàn, người phụ trách trực tiếp của Sài. Anh có khuôn mặt đôn hậu, giọng nói rất thật và sự quan tâm cảu anh đối với Hương cũng rất thật. Giọng anh ngập ngừng ái ngại. Không may cho Hương lắm, đồng chí Sài lại vừa đi công tác sáng nay. Có lâu không anh? Hương ở đây thời gian bao lâu. Năm ngày với một ngày đi, ngày về. Nét mặt anh buồn buồn như có vẻ nhẩm tính. Có thể là không gặp được. Sài đi cũng phải hơn một tuần. Chỗ anh ấy công tác có xa lắm không ạ. Cũng hơi xa. Anh có thể làm ơn chỉ giúp em đến đấy! Hương đang còn phải tham gia các hoạt động của trại. Em sẽ xin phép đoàn trưởng. Gia đình anh Sài có việc rất cần em phải nói với anh ấy. Anh Hiểu nhìn lướt trên khuôn mặt sắp sửa bật lên lời cảm ơn tấm lòng nhiệt tình của anh. Anh lại ngẫm nghĩ như nhẩm tính, khuôn mặt anh cũng không giấu được nỗi băn khoăn cảm thông với cô. Hương ạ, chỗ quân sự không thể vào được đâu. Nếu Hương cho phép, tôi được coi như người anh của Hương, có dịp nào tôi sẽ nói chuyện với Hương nhiều. Còn bây giờ Hương thông cảm, tôi không thể chỉ cho Hương đến đấy được. Bỗng nhiên Hương thấy mình có lỗi, vì quá hăng hái gặp Sài, cô đã làm người thủ trưởng trực tiếp của anh phải lâm vào tình thế khó xử. Không sao đâu anh ạ, nếu khi nao anh Sài về anh nói giùm có cô em gái tên là Hương cần gặp anh ấy, nhưng thôi, để dịp khác cũng được. Vâng, tôi sẽ nói nhưng Hương phải hoàn toàn thông cảm cho tôi. Không, em hoàn toàn thoải mái thôi mà. Nói vậy mà cả năm ngày đi tắm biển cô chỉ múc nước giếng, và nhận chân “coi nhà” nằm đọc sách. Cô tự trách mình tại sao không chủ động viết mấy chữ báo tin mình sắp đến đây. Tự nhiên lù lù dẫn xác đến ai người ta biết đâu mà đón đợi. Ngày trở về Hương leo lên xe trước tiên. Một anh bộ đội đến gửi cô bạn ngồi sau Hương lá thư cho gia đình ở Hà Nội. Nghe nói anh ở trung đoàn bộ, Hương quay đầu lại vươn qua thành xe hỏi anh có thấy anh Sài về chưa. Sài ở nhà chứ đi đâu mà về, Sài văn hóa cơ mà. Thì “Sài Hương” mới tốt nghiệp sư phạm năm sáu tháng nay chứ gì. Cô bạn phía sau nháy mắt cho Hương. Sao lại gọi là Sài Hương hở anh. Không biết cô Hương cô khói nào đấy “úm” từ bao giờ đêm nằm mê hét “Hương, Hương chạy đi đâu em” cứ toáng lên nên anh em mới đặt là Sài Hương. Bộ đội các anh cũng thơ mộng thế cơ à. Ôi nghe nói ngày xưa cậu ta tưởng tượng ra cái cảnh hai người cùng học toàn là nhất nhì với nhau, yêu nhau rồi dắt nhau đi ăn kem quanh Hồ Gươm. Dắt nhau lên mây lên gió gì nữa. Thấy lãng mạn, viển vông quá nên anh em đại đội nó mới “cạo” cho một trận nên thân phải đi cấp cứu ở bệnh viện. Nhưng mà cậu ta quả là có nghị lực. Vẫn tự học, chỉ có năm rưỡi học ba lớp thi đỗ đại học toàn năm cộng, xuất sắc nhất trường. Công nhận nó ít tuổi mà có chí. Vẫn cô gái phía sau... Thế bây giờ anh ấy còn mê cô Hương nữa không? Trong ruột cậu ấy có giời biết. Cậu này kín lắm. Với lại chả ai để ý vì căn bản ai cũng quý mến cậu ta. Dạy đã giỏi, giải nhất quân khu, tháng trước được đi trại hè toàn quân ở đây để báo cáo kinh nghiệm dạy học đấy. Hết dạy lại đi tăng gia, phân gio tưới tắm. Đêm đến lại cặm cụi học, thành ra không ai nghĩ cậu ta là người không đứng đắn. Từ nãy Hương vừa muốn nghe vừa muốn rầu rĩ muốn kêu lên. Anh bộ đội cứ nói. Anh nói như muốn chứng tỏ cho các cô biết sự thành thạo của anh, một người chuyên môn chữa vô tuyến điện mà cũng thông thạo mọi chuyện, kể chuyện gì cũng hấp dẫn. Sao bảo anh Sài đi công tác ạ. Chả nhẽ tôi lại bay ngay về cõng câu ta ra đây để chứng minh cho cô. Cả tháng nay ngày nào cậu ta không ăn cùng mâm với tôi. Sáng nay hai thằng cùng nhá ngô bung với nhau chả nhẽ tôi còn nhầm. Nhưng có phải Sài đúng như tôi vừa kể không đã. Hương khẽ gật đầu. Cô là thế nào với cậu ta? Là em. Anh ta nhìn Hương gật gù: Kiểu này dễ là em con ông bác lắm. Sao đến đây hàng tuần không tìm ngay. Không biết là ở đây à. Hay để tôi chạy về bảo cậu ta mượn xe đạp chạy ra đây vậy. Như xe đã nổ máy rồi. Cảm ơn lòng tốt của anh. Xe chạy, Hương phải quay mặt vào gục xuống thành ghế phía trước, cố ghìm lại để khỏi òa khóc lên thành tiếng. Trời ơi, sao lại oái oắm đến mức này. Cả một tuần nay em chờ mong khao khát ước có phép tiên nào đấy để được gặp anh mà chỉ cách một cây rưỡi cây số anh không đến để gặp em. Cái anh Hiểu kia là ai mà độc ác vô cùng. Không, con người ấy từ cái nhìn, tiếng cười, giọng nói, cử chỉ, không thể là người âm mưu lừa dối được. Nhưng mà để làm gì! Anh ấy ra dự liên hoan bế mạc trại, đến ngồi nói chuyện với Hương như một người anh trai thực sự. Hương cũng đã hỏi một chú bộ đội được biết đó là trợ lý văn hóa của trung đoàn tức là người phụ trách việc giảng dạy của Sài. Giữa anh Hiểu và anh bộ đội lém lỉnh kịa ai đúng? Hương không ưa cái vẻ ba hoa bốc đồng của anh ta nhưng tất cả những điều kể về Sài thì không thể là bịa đặt. Anh ta cũng định chạy về gọi Sài thật sự kia mà. Vả lại biết chắc chắn bọn cô sẽ đưa thư đến nhà với địa chỉ ấy các cô có thể trách cứ, làm sao anh ta dám nói dối. Mà để làm gì kia chứ! Thế thì tại sao! Tại sao Hương lại chịu nỗi hẩm hiu đến mức này!!!
Từ rất sớm Hiểu và tổ giáo viên, tổ câu lạc bộ đi rỡ khoai sọ về cân theo yêu cầu của nhà bếp. Đây là ruộng khoai duy nhất của trung đoàn. Nó là chất “bột cao cấp”, lại có thể thay rau với tỷ lệ một “ăn” bốn. Với tờ chứng từ viết vào mặt trái bao “Tam đảo” anh nuôi trưởng nhận đã thu của ban chính trị sáu tạ khoai sọ làm cho cả ban vừa mừng rỡ sung sướng vừa kiêu hãnh. Bạn có mười bốn người thì anh giáo viên “dài lưng tốn vải”. Một anh thư viện kiêm sử dụng âm ly, loa đài, dây dợ, băng cờ khẩu hiệu, thủ kho của câu lạc bộ. Một anh chụp ảnh kiêm sáng tác kịch, chèo độc tấu, thơ ca cho đội văn nghệ nghiệp dư. Khi họ tập trung anh kiêm luôn cả nhạc trưởng, đạo diễn, kéo đàn accócđiông, đệm ghi ta và đánh trống. Nghĩ là “đa di năng”. Cả năm vị “anh hào” của hai bộ phận do trung úy Hiểu trợ lý văn hóa kiêm luôn trợ lý câu lạc bộ chỉ huy. Họ là những người trai trẻ nhưng lười biếng, thường “mất hút” mỗi khi tăng gia rau và “chất bột” mà cái “rấp” của nó lại là tại quân ông Hiểu.
Thực hiện nghị quyết của trung đoàn ủy mỗi cán bộ cơ quan phải đạt chỉ tiêu mười cân bột, hai mươi cân rau, hai cân thịt (bộ phận anh nuôi và ban Năm chịu trách nhiệm) trong năm nay thì không ai dại gì mà mấy “thằng già” lại đi cõng cả “cha con ông Hiểu”. Cái lý do ban chính trị tách thành hai bộ phận tăng gia cho “gọn” thực chất là thế. Đến hôm nay anh nuôi bảo khoai bộ phận anh Hiểu, Hiểu nói luôn: “Của cả ban chính trị”. Thế là mới sáu tháng, ban chính trị đã đạt tiêu chuẩn bột xuýt soát bốn ba cân đầu người. Họ cứ nằm khểnh mà chơi cuối năm chỉ cần “bắn” dăm bảy chục cân khoai “sang rau” là xong. Nhưng đời nào ban chính trị chịu thế. Rau của “ông Hiểu” đã được tạ mốt, cánh già cũng đã được mười bảy cân. Nếu đám rau của “cánh già” làm cỏ đi, nước giải tưới đều cuối năm thì phải hàng tạ chứ ít của. ấy là chưa kể quân ông Hiểu đã lấy phân ủ để sang thu trồng cải, trông xu hào. “Tốt, tốt quân ông Hiểu năm nay tốt đấy”. Nghe chủ nhiệm chính trị gật gù khen Hiểu cứ nghĩ trong bụng cười thầm. Ai lại ở một cơ quan chính trị mà hcỉ xem anh nào tốt hay xấu, cuối năm có được biểu dương khen thưởng hay không là ở chỗ có tích cực tăng gia hay không. Có khi sự tích cực ấy không đem lại kết quả gì vẫn còn hơn anh thức suốt đêm cả hàng tháng để viết một vở chèo. Cũng có lúc chẳng cần biết anh có tăng gia hoặc tăng gia được cái gì chỉ cần thấy anh tỉ mẩn buộc từng bó đóm tre ngâm mang theo khi diễn tập, cái bật lửa dùi nắp luồn dây dù qua rồi gài kim băng vào túi quần không bao giờ ai hỏi xin tăm mà anh lại không có sẵn cái ống đựng Appêrin bằng nhôm trắng đầy tăm, chiếc nào cũng tròn nhẵn đều tăm tắp. Người như thế nhất định có thể kết luận là chịu khó tăng gia, tăng gia nhất định giỏi. Không những Hiểu mà cả anh em ở hai bộ phận đều thấy việc tăng gia không phải khó đến mức họ không thể làm được. Đầu năm họ đã bàn nhau: cần thì giảm giờ làm việc chuyên môn để tăng gia. Không đạt chỉ tiêu tăng gia bị phê bình không thể chối cãi được, còn không đạt được hiệu quả cao trong chuyên môn chẳng mấy ai để ý. Mà thiếu gì lý do. Thôi, năm nay là năm tăng gia anh Hiểu ạ. Hiểu gạt đi. Nhất thiết phải làm chuyên môn giỏi. Còn tăng gia cũng phải nghĩ cách mà đạt chỉ tiêu. Trong cuộc bàn luận “quyết chí” ấy Sài trông có tướng nông dân hơn cả được bầu là tổ trưởng tăng gia của tổ câu lạc bộ và giáo viên. “Bầu chú Sài thì yên tâm rồi. Cần gì chú cứ hét một tiếng các anh theo răm rắp ngay. Anh nào lơ mơ là ăn đòn đấy. Chú cứ mạnh dạn chỉ huy cho nghiêm vào”.
Hiểu giao việc này cho Sài với ý định khác. Sài mới được phong hạ sĩ và cũng là người mới nhất trong số anh em ở đây nhưng lại là diện “cảm tình”. Chi bộ học viên quân đội ở trường đại học giới thiệu về. Chi bộ ban chính trị đánh giá Sài là quần chúng thành phần cơ bản tốt, có ý thức rèn luyện phấn đấu, nhất là trong học tập. Giao cho Sài việc này tức là tạo điều kiện cho Sài “thử thách” ở một lĩnh vực khác. Không ngờ Sài làm cho cả trung đoàn bộ ngạc nhiên và ban chính trị thì tự hào mình đã giáo dục được quần chúng có ý thức tự giác lao động cao đến thế. Với Sài, anh thấy không hề phải “cố” chút nào trong việc này. Đêm đêm anh thức từ ba giờ sáng lấy phân đem ngâm thì có vất vả gì hơn vác vồ chạy vào chợ Bái. Một mình anh làm cỏ, bỏ phân và tưới tắm cho khoai, cho rau cũng là cái sự “lủi thủi” nó quen rồi có gì phải phấn đấu. Hơn nữa ngoài việc học, đọc sách, dạy hoc ra Sài rất sợ những lúc nằm không ngủ được. Anh cũng tự đặt ra kỷ luật cho mình, không có việc gì thật cần thiết, không ra phố, không ra bãi tắm, thì giờ ấy không tăng gia còn biết làm gì nữa. Ngay cả đến Kim, cô “em gái” bao nhiêu lần trách, không thấy “tăm hơi” anh, anh cũng cố tránh để khỏi mang tiếng quan hệ phức tạp. Anh tránh né tất cả bởi vì không có ai để anh có thể san sẻ nỗi buồn về cú “đá” của Hương. Phần anh thấy nó đau như đã bị Hương “đá” thật, phần khác lại rất muốn nó không phải như thế. Có lẽ Hương chỉ hiểu lầm chuyện gì đó thôi. Nếu vậy, anh có thể yên tâm vì trước sau thế nào Hương cũng hiểu anh. Đấy là ý nghĩ thầm thì, cái nỗi đau dai dẳng từ mấy năm nay khiến khi trở lại trung đoàn công tác anh phải tự đặt cho mình cái kỷ luật “quên” để làm việc. Chỉ có công việc mới cho anh những niềm vui nhỏ nhoi. Không có nó anh lại trở thành bệnh nhân tâm thần của trạm xá, như người ta từng đồn đại về anh bốn năm trước. Những ngày năm nay thực sự anh rất vui trong kết quả một sào bắc bộ thu hoạch sáu tạ khoai sọ là năng suất chưa từng thấy. Các cán bộ của trung đoàn bộ gặp anh, ai cũng thân tình khác hẳn mấy tháng trước, khi biết anh đạt kết quả học tập cao và dạy cũng muốn rủ rê và sai bảo, muốn tâm tình và chỉ dẫn. Qua tình cảm của mọi người anh hiểu việc vào Đảng của mình, chỉ còn là ngày một ngày hai, gần như cả trăm phần trăm số đảng viên trong chi bộ đều sẵn sàng thông qua.
Chính ủy Đỗ Mạnh gọi anh lên chơi, cho bao thuốc và bảo: “Có việc làm chỉ giới hạn cho một dự luận, của một dư luận nhưng trước mắt thế là tốt, cố gắng mà phấn đấu”
Ngày thứ sáu kể từ hôm Hương rời khỏi vùng biển này, anh thợ chữa máy của tiểu ban thông tin đi “đại tu” những máy móc ở Quân khu về mới nói cho Sài biết chuyện cô sinh viên Bách khoa đau khổ không gặp được người yêu (“Tớ xem thái độ tớ biết”). Chỉ vì có ai đó lại nói cậu đi công tác. Anh ta đã thề sống, thề chết là không hề bịa.
Cũng may cậu ta không hỏi tên. Ăn cơm chiều xong, Hiểu rủ Sài đi “lang thang”. Chính anh là người đã nói với Hương như thế. Anh kể lại tỉ mỉ và chính xác những gì nghe, cả thấy và phán đoán tình cảm của Hương từ hôm đầu tiên đến đây. Càng nghe Sài càng đứng chết lặng. Có lúc Hiểu tự hỏi tại sao mình lại nỡ làm một việc độc ác, nhẫn tâm đến thế. Có hai lần đang đêm không ngủ được anh ngồi dậy định gọi Sài nói chuyện đó. Nghĩ đi nghĩ lại thấy trách nhiệm của mình lúc này khôgn thể nào làm khác được. Trước đây người ta đã láng máng chuyện của hai cô cậu nhưng do sự học tập đột xuất của nó át đi. Phần khác, người ta bảo là tâm thần, học nhiều nó “loạn” cứ tưởng tượng ra mọi chuyện nên không ai nhắc gì quan hệ nam nữ bất chính của cậu. Cố đừng để nó vỡ ra phiền lắm. Sài biết tất cả cái gì Sài có được như hôm nay là do anh, Sài gặp được anh như là cái số của người ta có đường may mắn. Với anh, Sài không phải nói gì, có khi không cần nói gì, anh cũng làm thỏa mãn sự mong muốn của Sài. Sài cũng biết trong tất cả mọi việc Sài phải tự hiểu, tự làm đừng để anh phải nói nhiều, băn khoăn nhiều về mình. Tất cả sự xấu, tốt của Sài có thể coi như sự xấu tốt của anh. Anh lấy Sài về, anh phản đối tất cả những ai đánh giá Sài không đúng. Anh tìm mọi cách xin cho Sài đi học và và trước đấy cùng tổ giáo viên luyện thi cho Sài. Hai năm học ở trường sư phạm mỗi lần qua Hà Nội anh đều đến thăm và “tiếp tế” quà của ban chính trị. Nếu chỉ đến ngày hôm nay rồi mãi mãi xa anh thì suốt cuộc đời Sài cũng không thể quên, không thể có phút nghi ngờ tấm lòng của nh dành cho Sài và mọi người. Anh đang là chi ủy viên trực tiếp theo dõi giúp đỡ Sài vào Đảng. Không thể trách việc anh đã làm. Với anh bây giờ Sài biết không cần e ngại giấu diếm bất cứ điều gì kể cả nếu anh muốn nghe kể lại cái lần đầu tiên hai đứa thổ lộ tình yêu với nhau Sài cũng sẵn sàng làm. Hai người đi bên nhau im lặng khá lâu: “Nếu viết thư cho Hương có được phép không anh” - “Về vấn đề gì?” - “Ôi, sao mà biết sẽ có vấn đề gì trong những lá thư gửi cho người yêu”. Hiểu biết mình hơi thô bạo, dù cái thô bạo chân thành anh vẫn thấy ngượng. “Theo mình hãy im lặng đã Sài ạ” - “Đến bao giờ hở anh” - “Mình cũng chả biết thế nào. Nhưng mình hỏi thật. Sài có thật sự tha thiết vào Đảng không đã?” - “Sao bây giờ anh vẫn còn phải nghi ngờ em chuyện đó” - “Vì mình sợ cứ bắt Sài cố làm một việc mà Sài thấy khó quá. Sài đã nói thì mình đề nghị thế này. Từ nay Sài phải kiên quyết cắt đứt quan hệ với Hương” - “Sao lại...” “Rồi sau này Sài sẽ hiểu dần. Theo mình chuyện này nó khá rắc rối đấy!”.
Từ đêm ấy Sài lại nằm nghĩ ra bao nhiêu chuyện thật và giả, những khả năng có thể xảy ra và ước ao có một ông giời nào đấy xuống đây cho hai người ly hôn, cô Tuyết được quyền sử dụng hết ruộng đất, vườn tược của anh, và đi lấy một người chồng không đẹp trai lắm nhưng rất khỏe mạnh giầu có, hai vợ chồng đẻ đến chục đứa con đứa nào cũng béo trắng, đi đâu cũng cả đàn cả lũ ríu rít cười đùa mãn nguyện. Còn Sài và Hương cùng xin đi Nam đánh giặc, Hương đi bên dân chính làm phóng viên cho một tờ báo nào đấy. Gặp Sài là dũng sĩ diệt Mỹ, họ giả vờ chưa hề quen nhau. Đên khi phỏng vấn xong, Hương mới òa khóc ôm chầm lấy anh mà bảo anh có biết em phải đi bộ nát cả hai bàn chân sốt rét rụng hết cả tóc và đói, và bom đạn, và muỗi vắt suốt một năm nay chịu đựng cực nhục mới đến được chỗ anh... Chỉ có điều khác khi còn ở đại đội 12 là Sài không dám ghi nhật ký, một chữ không ghi, dù biết rằng không ai xâm phạm đến. Không ghi, nhưng không đêm nào không nghĩ. Nghĩ những chuyện đó nó đỡ khổ hơn.
Hiểu nằm cạnh giường Sài, anh biết nỗi trằn trọc của Sài suốt mấy đêm liền. Bằng sự thăng trầm từng trải của một người lính anh biết rồi cũng qua đi thôi. Điều quan trọng là Sài đang được mọi người yêu mến, Sài đã có một cái nghề dạy học, mà khối bạn bè cùng tuổi thèm thuồng... Không dễ gì Sài vứt bỏ những cái đó nhất là với cái tính nhút nhát của Sài thì sẽ không có điều gì xảy ra. Cuối năm Sài được bầu là chiến sĩ thi đua duy nhất của trung đoàn bộ. Chi bộ họp nhất trí kết nạp Sài nếu hai điều kiện chưa được sáng tỏ: Đã yêu vợ thực sự chưa và kiểm tra lại vài điểm ở gia đình nhà vợ. Phó chủ nhiệm chính trị gặp riêng Sài ở phòng mình: “Cậu uống nước đi. Tình hình vợ con thế nào?” - “Báo cáo vẫn như cũ ạ” - “Nghĩa là thế nào?” - “Báo cáo thủ trưởng tôi không chê cô ấy. Nhưng vẫn khó nói chuyện với nhau” - “Thế thì không được rồi. Cậu nhớ mình là cơ quan chính trị mà vô chính trị là không được đâu. Bây giờ thế này, vừa rồi chi bộ họp đã thông qua lý lịch và đơn xin vào Đảng của cậu. Vẫn chỉ vướng mắc ở chỗ vợ con đấy. Nói thật, mình quý cậu, anh em ai cũng quý cậu. Đừng phụ lòng người ta. Bây giờ với tư cách thủ trưởng trực tiếp mình yêu cầu cậu phải yêu vợ cậu, có được không nào!” - “Dạ... được ạ” - “Có thế chứ lỵ. Nhưng mà phải thực sự đấy nhé” - “Vâng, tôi sẽ cố làm theo ý các thủ trưởng” - “Chả nhẽ chúng tớ lại xui dại cậu làm kiên quyết thì cậu được vợ được con chúng tớ được cái gì. Tớ cũng nói để cậu biết cho đến cậu là bảy anh, bảy anh ở ban chính trị từ trước tới giờ ngủng ngoẳng chuyện vợ con tớ đều dàn xếp xong hết. Bây giờ đâu vào đấy cả. Cậu còn trẻ rất nhiều triển vọng, để chuyện này lôi thôi thôi ra là mất sạch chứ chơi. Thôi mình chỉ muốn nói với cậu điều đó. Xác định được thế là tốt rồi. Cậu nói nhiều triển vọng, chúng mình tin lắm, rất tin!”
Có thể nói hàng chục năm nay chưa bao giờ làng Hạ Vị có được cái hạnh phúc vững chắc như ngày này, cũng lại năm hết tết đến nhưng nhà nào cũng còn vài chum ngô, dăm ba chục ký gạo nhà nước bán “bổ sung” cho vùng bãi, vài thúng thóc lốc, ổ gà đẻ, một vài con lợn... Thế đã là vô cùng yên ổn và mãn nguyện. Người ta sống rảnh rang sung sướng mỗi buổi sáng còn mù mịt sương muối nhà nào cũng đổ òa ra đầu bếp, góc sân nồi dong diềng luộc lẫn với khoai lang. Khi những rổ, những sàng khoai và củ dong còn bốc khói nghi ngút lũ trẻ đã xô đến lật vạt áo lên vừa thổi phù phù vừa nhót lấy những củ to, đặt vào vạt áo, hai tay túm giữ đầu vạt khom khom chạy như thể sợ cái nóng làm vạt áo tuột khỏi tay rơi xuống. Mỗi đứa chạy đi một xó xỉnh ngóc ngách nào đấy giấu làm của riêng để dành đến buổi trưa. Chúng hí hửng với những thắng lợi ấy, đi học, đi chăn trâu hoặc chơi đùa lêu lổng đâu đó cho đến khoảng xế chiều. Lúc ấy bố mẹ mới đào mương, đắp đường, vạc bờ, cuốc góc, làm cỏ trở về tất bật với bữa cơm trưa. Ai cũng vội vàng, hối hả, chạy lên chạy xuống, hò hét con cái, tưởng là phải mổ trâu, mổ bò, hóa ra bữa cơm nhà nào cũng chỉ có nồi bánh đúc bằng bột ngô xay (bây giờ phải làm theo quy củ giờ giấc của hợp tác rồi không ai còn thì giờ để giã ngô ngâm) với khoai lang cạo vỏ, xắt từng khúc như miếng dồi, khi chín đánh tơi lẫn với bột. Một bát rau muống hoặc rau cải xào hoặc luộc chấm tương. Chỉ có thế nhưng nhà nào cũng sôi nổi đầy khí thế. Nồi bánh đúc bắc ra lấy đũa cả “múc” vào đĩa, vào bát đầy rào lên miệng chảy cả xuống mâm. Những đôi đũa con quành một vòng tròn trên miệng bát thuần thục nhanh nhẹn như nhà họa sĩ, nhà toán học vẽ các vòng tròn. Mỗi cái bát “quành” xong, họ chọc đầu đũa dính bột vào bát tương rồi xuýt xoa vì cái cục bột khi đặt vào mồm vẫn nóng bỏng, tuột phồng cả lưỡi, nước mắt nước mũi trào ra xụt xịt, tạo cho bữa ăn nào cũng vất vả mà đầy sức hấp dẫn. Hối hả ăn xong bữa chính, bữa duy nhất trong ngày ấy, người lao động chính và phụ trong gia đình lại tất tưởi ra đi. Ai làm đất “phần trăm” thì tự ý mà ra ruộng ngay. Ai theo công điểm với đội, ra ngồi ở bờ tre đầu nhà ông đồ Khang tập trung. Cũng như mọi ngày, mọi buổi, phải tiếng rưỡi, hai tiếng đồng hồ những người đến trước thả sức tán chuyện trên giời và dưới đất, chuyện thanh cao và trần tục đến lúc van vãn mới tập trung đầy đủ theo người trong ban chỉ huy đội đi làm công việc gì đó. Cả khi đi và về và lúc làm, công việc gì được nhiều hay ít, còn phải làm nữa hay không, đã có “ông đội”. Không biết. Chỉ biết cười đùa và tán tỉnh, cánh đồng làng Hạ Vị quanh năm ròn rã tiếng cười và tiếng nói. Đấy là cái âm thanh bất diệt của đồng quê, là nét đổi mới kể từ khi Hạ Vị xây dựng được bốn hợp tác ở cả bốn thôn. Rất hãn hữu mới có người đi “giúp bà con” phía trong đê. Người ta phải theo công điểm, phải chăm lo thửa ruộng “phần trăm”, phải làm phân, chăn bò, chăn trâu cho hợp tác lấy thêm điểm dù rằng một năm một công chỉ có ba xu trong khi một cân gạo là năm hào. Nhưng người làng bãi có “lưng” ăn khi tháng ba ngày tám, có khoai, có dong riềng, có sắn ăn kham, ăn khổ mà vẫn vững tâm đàng hoàng, phởn phơ.
Giữa cái khí thế năm nào cũng “đi lên” của toàn xã (thực ra cũng có năm thất bát huyện phải “dựng nó” nhưng trong báo cáo của xã không năm nào chịu “đi xuống”). Gia đình ông đồ Khang có sự sum vầy đầm ấm chưa từng thấy. Sự rộn ràng hệ trọng bắt đầu từ khi anh công vụ của huyện ủy, người Hạ Vị, sang văn phòng ủy ban báo cho Tính biết có một thiếu úy trợ lý bảo vệ, chi ủy viên, của đơn vị, đang ở bên huyện ủy xin giới thiệu xuống xã thẩm tra kết nạp Sài vào Đảng, Sài cũng về. Mấy ông giáo đang kéo cậu ta vào trường cấp ba. Tính gọi điện thoại cho cô cháu bán hàng bên bách hóa sang ngay để anh dặn dò nó đạp xe về báo cho gia đình chuẩn bị. Đặt máy xuống anh lấy giấy bút viết thư cho cửa hàng ăn soạn cơm trưa cho sáu người ăn, cửa hàng bách hóa xin một tút Điện Biên bao bạc, năm gói Ba Đình. Xong xuôi, anh gọi liên lạc cầm thư đi và mươi phút sau cho anh biết kết quả. Với cương vị ủy viên trực, giải quyết nội chính, mọi yêu cầu của anh các cơ quan đều vui vẻ làm và làm đến mức anh phải ngạc nhiên. Chẳng hạn, cửa hàng ăn làm sáu xuất cơm, mỗi xuất một đồng rưỡi mà đặt lên bàn tới mười lăm chai bia.
Cá “bỏ lò”, vịt tần, gà luộc, giò chả, nem rán, chả thịt nạc, xào bóng xúp lơ. Món gì cũng dang dở thừa thãi. Ăn xong tráng miệng cam, chuối, cà phê phin... Cái chuyện nhà quê từ đầu đến chân, từ chủ tịch đến đứa mới đẻ, riêng chỉ có những bữa tiệc ở cửa hàng ăn là tỉnh thành cũng phải “nể”. Đấy là từ khi Tính chuyển sang ủy ban phụ trách nội chính, anh kiên quyết cho thuê làm phụ động hai người giã giò và hai người chuyên nấu cỗ trước đây ở Hà Nội nay đã trở về quê. Biết rõ công ơn của Tính nên những bữa cơm anh đặt ở cửa hàng ăn bao giờ cũng làm cho khách thỏa mãn và đến hàng tháng sau vẫn còn dư vị của bữa ăn. Nó gây ấn tượng đến mức chủ tịch tỉnh phải khen: “Cả huyện các cậu chỉ biết mỗi việc làm món ăn còn chả việc gì ra hồn. Cho chúng tớ vài người đi”.
ở nhà ngay từ non trưa được đứa cháu về truyền đạt ý định của Tính mọi người đều tíu tít mừng rỡ, cuống cuồng chạy ngược chạy xuôi. Việc đầu tiên là phải bốc hết chiếc ổ gian bên trái tràng kỷ chỗ bà đồ vẫn nằm, khiêng chiếc giường tây của nhà Tính lên trải hai lượt tranh rồi mới trải chiếu hoa. Cái ổ bên kia của ông đồ cũng được thay lớp lá chuối bằng rơm và dưới bàn tay tỉ mẩn cuả người anh cả nó phẳng phiu, gọn gàng, đẹp hẳn lên. Xong rồi, anh cả căng cái màn đôi còn nguyên hồ, xếp cái chăn bông ba cân, bọc vải hoa Trung Quốc. Cái gối trắng tinh thêu “tương lai sáng lạn” và hai con chim châu mỏ vào nhau bằng chỉ xanh, đỏ. Cái giường tây trông sang như giường khách của quan huyện ngày trước. Ở bàn cũng được đặt bộ xuyến, tách bằng sứ Giang Tây. Một phích mặt đá hai lít rưỡi, cái gạt tàn thuốc lá cũng bằng sứ, lọ đựng chè bằng sành màu nâu. Chỉ trừ có chiếc điều bát và ống đóm tre ngâm ở chân bàn là của thời các cụ để lại còn tất cả các thứ vừa kể trên kia là vợ Tính mới mở hòm mang lên. Cả cái hòm để gian giữa nhà toàn đựng chăn màn, ấm chén, mâm bát, cả gương lược, cả vải và lọ đựng hoa, con cá chuối bằng thủy tinh và con trâu trong cái đĩa sơn mài. Tất cả những thứ đồ dùng, đồ chơi, đồ ngắm ấy hoặc là của được phân phối, hoặc là đồ tặng, Tính đưa về. Đưa về để cẩn thận trong hom. Thỉnh thoảng chị vợ phải mở ra xem có suy xuyển, hỏng vỡ gì, chứ tuyệt nhiên mẹ con không được mó đến nếu không có ý kiến của anh. Thành ra những thứ đó nó giống như dụng cụ của nhà khách trên tỉnh, khi nào có khách thật đặc biệt và có lệnh mới được đem ra dùng. Quét tước, lau chùi, bầy biện, mọi thứ rồi mỗi lần quay ra, quay vào mỗi người trong nhà đều nhìn vào nó như nhìn vào nhà khác, ở tận đâu xa lạ.
Vào đầu những năm sáu mươi, một thiếu úy trong quân đội đã là quý. Với Tính, sự trang trọng quý mến nó ở chỗ khác. Cả huyện này có người chưa biết anh là ai nhưng từ cụ già đến trẻ con đều biết tên thằng Sài với sự đồn đại đôi khi hơi quá lên về việc học hành đỗ đạt của nó. Có thể đến ngày nay chuyện học đại học, chuyện đi bộ đội vất vả tự học một năm ba lớp, thi vào đại học đứng thứ nhất là chuyện bình thường, nhưng vài chục năm trước nó là chuyện hoàn toàn lạ lẫm như một giai thoại khiến ai cũng muốn mình có biết chuyện ấy, biết người ấy, biết anh em, họ hàng tung tích và cả những khuyết tật của người ấy. Với thằng em như thế anh có thể nhịn ăn sáng, bớt chi tiêu may sắm và mua sẵn cho nó cái xe đạp để khi nào cần nó cứ lấy mà đi. Bây giờ nó lại sắp vào Đảng trong khi có bao nhiêu người đi trước nó ba bốn năm, luyện tập quần quật vẫn chưa vào diện “cảm tình”. Anh hiểu sức rèn luyện và chịu đựng của nó đến mức nào! Cơm nước xong Sài và đồng chí thiếu úy về phòng anh ngủ trưa. “Khi nào dậy hai anh em lấy xe đạp của anh lai nhau về. Anh mượn xe khác về nhà trước”.
Hiền là trợ lý bảo vệ nhưng mặt mũi không đăm chiêu im lặng cảnh giác như ta thường nghĩ. Anh cười nói cởi mở tỏ ra xuề xoà. Trong chuyến đi này hầu như là để về thăm nhà Sài, anh không hề gặp khó khăn vất vả gì trong công việc của mình. Bữa cơm trưa nay có cả trưởng ban tổ chức huyện ủy và trưởng công an huyện, cả hai đều bảo anh cứ về xã rồi khi nào qua huyện họ sẽ kết luận thêm. Về xã cứ việc ở nhà Sài, buổi tối cả bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch kiêm trưởng công an đến ăn cơm sẽ mang con dấu theo “làm luôn”.
Anh và Sài về đến nhà khoảng bốn giờ chiều. Mùa đông vào tầm này trời đã tím lại, lạnh heo hút. Chiếc đài Oriontôn của kho câu lạc bộ Hiểu cho mượn, anh khoác chéo qua vai kêu oam oam, tiếng to tiếng nhỏ thập thõm theo độ xóc của xe trên con đường mấp mô chạy qua cánh đồng. Những người xã viên làm lụng bên đường đều ngửng nhìn thèm thuồng và ném lên đường những câu trêu ghẹo anh chàng Sài ngồi ở phía sau. Bọn trẻ con đi học về lốc nhốc chạy theo cùng với những đứa chăn trâu, chăn bò, quất roi tới tấp vào đít con vật để nó lồng lên theo cho kịp nghe đài. Đến đầu ngõ, chúng đứng cả lại phía ngoài bờ tre xầm xì bàn tán và tranh cãi xem đài này là gì, đã là oai nhất chưa, ông Hà nhà anh Sài có đài hay không? Còn ở phía trong những đứa em và cháu ở khắp xóm đã chạy đến ngửa mặt trịnh trọng nhìn từng cử chỉ của anh bộ đội lạ và nghe đài nói. Ba bốn chục đứa trẻ, đứa cõng em trên lưng, đứa bế ở nách, có đứa bê ở bụng, đứa mặc áo vệ sinh, áo bộ đội của người lớn dài quá đầu gối, đứa mặc quần thắt dải rút lên đến ngang ngực vẫn phải bện lên mà vẫn lòa xòa trùm xuống bàn chân như cái chổi quét nhà. Mặt mũi đứa nào cũng ngoen nguếch đầy mực. Đứa “mũi bắc qua mồm” thỉnh thoảng lại hút đánh thụt một cái nghe như húp nước canh. Khi Hiền và Sài vào nhà chúng bâu lại ở chân liếp, chân dại nhìn chỉ trỏ vào cái nơi chứa đầy bí mật mà chúng đang thi nhau khám phá. Tiếng tranh cãi ngoài sân rộn lên, tiếng trẻ khóc ồn ã. Tính phải ra quát chúng mới bồng bế nhau chạy như vịt. Nhưng tất cả vẫn thập thò bàn tán khiến Tính phải nghĩ ra cách bảo anh cả trèo lên cây cau ở đầu nhà khoác đài vào cuống buồng cau. Bọn trẻ reo lêm ầm ầm. Không những chúng nó được thỏa thích mà cả xóm đêm nay được nghe đài thỏa thích.
Ngay từ lúc mới đến Hiền đã chứng tỏ cho gia đình hiểu anh như một người con không cần phải khách khí. Anh gọi ông bà đồ bằng bố mẹ, xưng con và sà ngay xuống bếp mời bằng được “mẹ cứ lên trên nhà để con với cô Tuyết nấu nướng”. Anh vừa làm vừa hỏi han Tuyết chuyện làm ăn, chuyện ông bà bên nhà, chuyện hợp tác ở quê ta, chuyện có tranh thủ đợt nào đến thăm Sài nữa không và cuối cùng còn vướng mắc gì với Sài cứ tâm sự thật. Hiền chỉ hơn Sài có sáu tuổi nhưng trông anh già dặn cả con người, cả cung cách giao dịch, cư xử, khiến có cảm giác anh phải hơn Sài đến mươi, mười lăm tuổi, có đủ tư thế để người khác tin cậy, giãi bầy. Nhưng Tuyết, cũng như tất cả những cô gái ở quê đang yêu chồng, yêu một tình yêu suốt ngày đêm hốt hoảng thì dù có ấm ức đến cổ cũng không bao giờ hé răng nói nửa lời có hại đến chồng mình khi chưa có nguy cơ tan vỡ. Cô vui vẻ kể lể mọi chuyện nhưng khi đến chuyện “nhà em” cô vừa “tố cáo” vừa thanh minh “Nhà em chắng cũng bận bịu nhiều nên không viết được thư, em cũng thấy chẳng có gì thắc mắc” - “Cái hồi ra “chiêu đãi” chúng em vẫn vui vẻ với nhau. Vâng còn chuyện “kia” chúng em còn trẻ đã lo gì” - “Em cũng yên tâm thế. Có chuyện gì, đời nào các bác, các anh ở đơn vị lại để chúng em mất đoàn kết” - “Em cũng nghe đồn có cô này, cô khác nhưng “không túm được tay, day được tóc” em cũng coi như không”. Tính rất bực nếu cô em dâu lại loét xoét nói năng điều gì đó ảnh hưởng đến sự phấn đấu của em mình. Đã mấy lần anh vào cửa bếp: “Lên uống nước đồng chí ạ, mặc các em nó làm”. Nhưng Hiền cũng “cứ mặc em” Tính đành chắp tay đi đi lại lại ở đầu nhà. Vẫn sốt ruột, anh xuống nhà ngang bảo vợ: “Mẹ mày xuống làm với thím Tuyết hộ tôi đi. Coi như bây giờ mới lừa được con xuống xem thím xào nấu thế nào”. Vợ Tính ít nói và coi như không biết gì. Chị gọi chồng thầm thì khi anh quay ra “Tôi bảo bố nó này. Người ta cốt về điều tra em mình. Mình làm thế thành ra “có tật mới giật mình” à? Chú Sài không có tội gì cả. Nhà mình không ai vướng mắc gì cả. Có gì rắc rối là do liên quan đến bố, đến anh thím ấy. Nếu thím ấy lại bô báo chú Sài chê vợ, chú Sài hắt hủi, lãnh lẽo với thím ấy để chú Sài mất Đảng thì bố nó cũng đừng tiếc gì, cho chú ấy bỏ quách đi. Thầy mẹ nhà mình cũng thấy dại, tại mình làm khổ con mình. Thầy mẹ cũng không cấm đoán gì chú ấy nữa đâu. Bố nó liệu xem thế nào mà lo cho em”.
Cả năm không thấy vợ nói được câu gì ra hồn và thực tế anh cũng không để chj tham gia vào chuyện gì cần phải bàn bạc, suy nghĩ. “Biết gì mà bàn”. Bây giờ xem ra cô ta lại biết đến cả chuyện điều tra, kết Đảng của Sài. Cô ta nói có lý. Vừa bình tĩnh tỉnh táo lại vừa đối phó kiên quyết với tình huống xấu. Nhưng anh vẫn không thể làm như thế, vẫn phải mắng át đi “Tôi cấm mẹ mày hở ra với ai, nhất là chú Sài rằng mọi người sẽ cho chú ấy bỏ vợ. Cái mấu chốt đơn vị người ta đang xem xét là vấn đề vợ con nó, nó có xử sự đúng mức với đạo đức nhân phẩm của một người cách mạng không đấy”.
Cơm rượu xong, nước nôi chuyện trò đến chín rưỡi ban thường vụ Đảng ủy xã và Hiền kéo xuống nhà Tính làm việc cho đúng nguyên tắc. Tính bảo vợ bế các con xuống bếp nằm với bà còn anh và bố ngồi lặng lẽ uống nước chè và hút thuốc lào vặt chờ tiếp khi mọi người xong việc. Trước lúc đi làm việc Hiền kéo Sài nói nhỏ: “Cậu đi ngủ trước đi. Vào buồng mà ngủ. Cô ấy vất vả, cậu phải thương người ta. Chúc ngủ ngon”.
Sáng sớm hôm sau Tuyết dậy từ rất sớm nấu xôi và rang lại thịt gà tối hôm qua còn thừa để ăn sáng. Hiền dậy, qua cánh cửa mở anh thấy Sài đang ngồi trong buồng đọc sách. Anh rửa mặt, đánh răng bằng nước nóng do ông đồ đã pha sẵn. Xong xuôi anh vào bếp hỏi Tuyết giọng suồng sã: “Thế nào, vui vẻ chứ?”, Tuyết ngước mắt nhìn anh cười cười rồi cúi xuống, một lúc cô quay vào lấy vạt áo chấm nước mắt. Khi quay ra cô vẫn nhìn ngọn lửa của đám củi than chưa khô reo lên rèo rèo. “Chắc cậu ấy lại ngồi đọc sách!” - “Không ạ. Anh ấy ngủ từ tối đến sáng”. Hiền im lặng vẻ cảm thông. Anh nghĩ ngợi rồi an ủi: “Thôi được, cô cứ yên tâm!” - “Vâng, em cũng nghĩ, trăm sự chỉ còn nhờ các bác, các anh giúp đỡ nhà em”. Buổi tối, Hiền và Sài đi sát vào nhau như thể che đỡ cho nhau cái buốt lạnh mênh mang của cánh đồng táp vào da thịt mỗi người. Tuy cùng ở với nhau một ban, ăn cùng một bếp nhưng mỗi người một công việc, chả mấy khi ngồi tâm sự cho nhau tình cảm tâm tư của mình. Về đây, Hiền có dịp hiểu Sài và gia đình hơn. Anh đã bộc lộ thành thật nỗi lo lắng của anh cũng như mọi người trong ban, mà Sài đã biết là ai cũng muốn vun đắp cho Sài. Vì yêu nên mới lo. Đôi khi còn sợ nếu có chuyện gì không hay xảy ra sẽ làm ảnh hưởng đến tiền đồ vô cùng sáng sủa mở ra trước mặt. Ai cũng tin là Sài có thể “đi xa”. “Đừng để cái chuyện không đáng gì phá hết tương lai của mình, Sài ạ” Im lặng. “Kể ra thì có thể không hợp với cậu đấy, nhưng nó ngoan, chịu thương chịu khó. Mình đi vắng, bố mẹ già lúc trái nắng giở giời không có cô ấy ai trông non, đỡ đần các cụ. Các anh chị em ai cũng có phận có phần cả rồi!”. Im lặng. Anh còn hé cho Sài biết nhận xét của địa phương rất tốt. Gia đình vợ có hơi phức tạp nhưng người ta xác nhận Sài không có liên quan và chịu ảnh hưởng kinh tế, chính trị. “Nếu bản thân anh Sài phấn đấu tốt, đề nghị đơn vị vẫn có thể kết nạp. Sự tác động trực tiếp, có ảnh hưởng lớn đến anh Sài là bố mẹ, chú bác, anh em ruột thịt. Những người đó đều là những cán bộ đảng viên kiên cường. Gia đình cũng là cơ sở vững chắc của cách mạng”. Ngày mai qua huyện xin xác nhận thêm, chắc là cũng tốt thôi. Nó chung, lai lịch không có vấn đề gì lắm. Còn lại chỉ là chuyện quan hệ với vợ con. Nếu giải quyết chuyện này êm thấm, cơ bản coi như xong. Nói tất cả những điều tâm đắc, có thể gọi là rút hết ruột gan mình ra, Hiền thấy Sài vẫn im lặng. Từ lúc đi với nhau đến giờ, cậu ta vẫn im lặng, “Bây giờ mình mới nói điều này. Khi đi phó chủ nhiệm dặn mình phải tìm mọi cách để các cậu yêu nhau. Yêu thực, chứ không phải yêu chung chung như trước đây. Đồng chí ấy bảo cậu đã hứa với đồng chí ấy rồi. Tớ về kiểm tra xem có đúng lời cậu hứa không. Mình thấy làm cái công việc này nó khó nói quá. Nhưng cậu thử nghĩ, nếu kết nạp cậu xong, trong cơ quan trung đoàn người ta phát hiện ra cậu yêu vợ chỉ là đối phó, thì chi bộ ban chính trị này ăn nói thế nào!” - “Thôi, anh cứ yên tâm. Tôi biết các thủ trưởng và các anh ở trong ban ai cũng quý mến, lo lắng cho tôi. Tôi sẽ cố gắng để không phụ lòng các anh”, Sài còn muốn nói thêm rằng nếu tôi không làm đúng yêu cầu của các anh, khi về đơn vị thì tổ chuyên môn, chi đoàn thanh niên và ban chính trị sẽ mất thì giờ và tôi phải viết dăm bẩy bản kiểm điểm vì sao chê vợ. Cô ta không có lý do gì để tôi chê. Tình cảm không hợp ư? Tình cảm là cái gì? Bịa. Cậu chỉ bịa ra chứ làm gì có chuyện tình cảm không hợp. Nhưng anh im lặng rút khăn lau mắt. Hiền cũng an ủi, tỏ rõ sự cảm động và quý mến Sài nhiều hơn.
Tất cả đều không quan trọng gì nếu không có cái buổi sáng ngày hôm sau. Hiền đang rửa mặt ở đầu bể, thấy Tuyết ra múc nước, anh hỏi, câu hỏi như hôm trước: “Thế nào cô em, có vui vẻ không?”, Tuyết đỏ bừng mặt cười, đánh trống lảng: “Độ nào thì bác với nhà em đi ạ” - “Khi nào có dịp công tác qua đây mời bác vào chơi với thầy mẹ em” - “Bác ơi, ở chỗ đơn vị chắc độ này rét lắm nhỉ. Eo ơi, biển nó cứ ù ì suốt ngày, suốt đêm những gió là gió. Em thấy kinh kinh là”.
Bằng sự nhậy cảm của người phụ nữ, bà đồ biết là cái hạnh phúc cực nhọc vất vả đã đến với con bà. Hàng bảy tám năm giời “ép dầu ép mỡ...” tưởng cái số nó phải thế, không ngờ chúng nó lại bén được duyên nhau. Nói đổ xuống sông, xuống ao, giả thử trời có bắt tội ông bà làm sao thì cũng hể hả yên phận vì con cái nó không bị dang dở. Chỉ nghĩ đến thằng út long đong, mà cũng chả hay ho gì chuyện con cái “đứt quang, gẫy đòn gánh giữa đường”. Bà cũng phải nén, chứ con Tuyết vẫn còn theo cái nòi bố nó khinh người, láo lếu, bà chỉ muốn tống quách nó đi. Dưng thôi, được đơn vị người ta xếp đặt cho thế này là hơn nhất! Khi Sài và Hiền dắt xe ra ngoài đường bà còn tất tả chạy theo, ấp cả hai bàn tay vào tay Hiền và nói những lời có lẽ chỉ có bà và Hiền mới hiểu: “Cháu ơi, bác đội ơn cháu và các thủ trưởng lắm lắm. Chỉ có các thủ trưởng mới làm cho thằng Sài sợ, chứ bao nhiêu năm nay, cả ông lão nhà này, cả bao nhiêu người nói cũng chỉ như nước đổ lá khoai. Thế là nhà bác có phúc rồi. Nhờ ơn đơn vị vợ chồng nó được vui vẻ với nhau. Thôi trăm sự nhờ cháu, nhờ anh em đồng chí bảo ban kèm cặp em. Một nhời của các thủ trưởng bằng cả vạn nhời của bố mẹ anh chị ở nhà”. Bà nói to, dặn con đứng cách đấy mấy bước “Con đi mạnh giỏi. Đừng làm gì trái ý anh em, thủ trưởng, con nhá”. Hiền cười to, siết chặt tay bà: “Mẹ ơi, bộ đội chúng con mà rèn thì có dữ như hùm như gấu cũng phải lành như thỏ, mẹ lo gì”. Mẹ cũng cười theo cái niềm vui hào phóng của người chỉ huy. Nước mắt rào ra từ hai khoé mắt nhăn nheo, chảy xuống cả nếp nhăn như những đường rãnh, chảy vào miệng. Bà nuốt miếng nước mặn chát vào lòng, rồi lại cười, nụ cười như mếu, bà phải vội vã quay mặt đi kẻo mủi lòng con trước lúc xa xăm biền biệt.
Thư Hương viết ngày mười lăm tháng tám, tức là vừa đúng một tháng cô rời nơi đóng quân của Sài “... Vì kính trọng anh như người anh thực sự của em, nên em không dám có ý nghĩ nào khác và cũng chả giấu diếm anh điều gì. Em chỉ băn khoăn tại sao anh không nói thẳng với em. Nếu biết được vì lý do nào đấy, em và Sài không được phép gặp nhau, em sẽ đỡ phải ngong ngóng hy vọng suốt cả tuần lễ, để rồi khi ngồi lên xe mới giật bắn người nghe nói Sài vẫn ở nhà. Em muốn lao ra khỏi xe, nhưng không thể được. Một đứa con gái như em, nếu chưa thực sự phát điên, chưa thể làm thế. Viết mấy lá thư cho Sài để xem hư thực ra sao lại phải xé đi vì biết tính Sài rất rát, nhỡ đang có chuyện gì thì khổ thân anh ấy. Cũng may đang là dịp hè, nếu không em phải nghỉ học. Em không thể kể và chắc anh cũng không hình dung ra nỗi khổ tâm của em. Gần một tháng trời em cứ quay cuồng, quẩn quanh, không thể nào hiểu vì sao Sài không đến với em. Sài đi công tác thật hay ở nhà? Mãi hôm kia vào bệnh viện khám cái tội “suy nhược cơ thể” em mới gặp Kim y tá trạm xá của trung đoàn. Kim là em gái của bác sỹ khám bệnh cho em. Kim khẳng định, chắc chắn những ngày ấy Sài không đi đâu. Thú thực, em rất giận anh. Nhưng em nghĩ, một con người như anh chắc không nỡ nào lại “độc ác với em đến mức ấy” (tha lỗi cho em những lời lẽ khiếm nhã anh nhé). Kim cũng bảo anh là người rất đức độ vì chính anh đã cho Sài về chỗ mình và đưa Sài đi học. Em tin những ý nghĩ tốt đẹp của em về anh ngay từ phút gặp đầu tiên là đúng. Thế thì tại sao? Hay Sài vẫn còn giận em? Nếu vậy, em nhờ anh nói hộ là em có thể bỏ cả mùa hè đến với Sài và sẵn sàng làm bất cứ việc gì cho Sài, nhưng chỉ cần Sài bảo một câu: Tôi không cần những thứ ấy là em vui vẻ làm ngay, việc gì phải lẩn tránh. Em nói với riêng anh chuyện này, chưa chắc đã phải như thế. Có một lần em hiểu sai việc làm của Sài, em không muốn có điều gì để Sài phải khổ thêm nữa. Anh có thể coi em như một đứa em gái của anh, chỉ bảo cho em điều gì đã xẩy ra và em phải làm thế nào? Em biết là anh rất bận rộn, vất vả, cố dành thời gian viết cho em ít dòng, anh nhá. Em vô cùng cám ơn anh. Anh nhắc Sài hộ em đừng hút thuốc lào nhiều. Nếu không giận em nữa hãy viết cho em vài chữ. Anh cho em gửi lời hỏi thăm sức khoẻ chị và các cháu...”
Một tháng sau, Hiền mới gửi thư cho Hương. Anh nói là vừa đi công tác về (lại đi công tác). Nhận thư Hương anh phải viết ngay. Vì phải nghĩ ra cách nói dối cả một lá thư nên mới khó. Với Sài và Hương, nếu họ cần, anh sẵn sàng bán ngay cái xe đạp Thống Nhất mới được cung cấp và cái đồng hồ là tài sản duy nhất của anh để cho họ, không một chút ngần ngừ, suy tính. Nhưng bảo anh phải giải thích mọi chuyện vào lúc này, anh không thể làm được. Anh cũng không thể khuyên bảo cô điều gì. Bảo rằng cô phải cắt đứt quan hệ với Sài? Anh không đủ sức làm như thế. Tình yêu của họ trong trắng quá, sôi nổi quá. Bảo vệ sự tiếp tục của họ ư? Anh không dám và cũng không thể làm được. Thái độ của anh từ trước đến giờ là khuyên bảo, cấm đoán được Sài điều gì hoặc che chở được đến đâu thì cố hết sức mình đến đấy. Anh ở giữa cái nhân tình thế thái của một con người cụ thể và chức trách của một trợ lý chỉ huy Sài. Nếu chỉ biết có cương vị của người chỉ huy sẽ trở thành người không có mục đích. Nhưng tại sao hai cái đó không phải là một ? Lắm khi Hiểu tự mình hỏi mình như thế. Hỏi mà không thể trả lời. Chỉ biết nếu chuyện cậu Sài và Hương vỡ lở ra thì sẽ chẳng còn gì, dù cậu ta có tài hoa đến đâu cũng không thể chấp nhận được. Không có cả sự tin cậy lẫn tình yêu thương vồ vập. Hiểu rõ cái nguy cơ của nó, đôi lúc anh phải kìm chế thô bạo để Sài không được phép bộc lộ, không được làm theo ý mình. Nếu không, khi Sài trở thành kẻ bị sa thải, bị khinh rẻ, liệu Hương còn đủ can đảm yêu Sài nữa không? Nếu cô ta vẫn đủ can đảm thì chính mình cũng vừa khâm phục sự dũng cảm của cô ta, vừa lên án cô ta một kẻ mù quáng, liều lĩnh, chưa thể đồng tình. Cô ta sẽ sống với ai khi những người như mình là chỗ dựa tinh thần cuối cùng của họ! Định bất chấp tất cả ư? Anh chưa thấy trường hợp “ngoại lệ” ấy. Cả tháng giời nghĩ ngợi là thế nhưng viết gì cho cô bé đây, thật khó khăn, chật vật vô cùng. Đắn đo, cân nhắc mãi anh mới viết được lá thư cho Hương, né tránh tất cả những câu hỏi của cô, nhưng vẫn hết sức chân thành. Anh nói rằng kể từ nay anh chính thức coi Hương như một cô em gái của mình. Mãi mãi anh quý mến cái vẻ thẳng thắn cương nghị mà rất dịu dàng của cô. Còn chuyện cô muốn hỏi, sẽ có dịp nào đó, anh hứa nhất thiết khi có điều kiện cho phép, anh sẽ nói tất cả. Trước mắt, Hương phải bình tĩnh tập trung học tập. Dù hoàn cảnh nào xảy ra trong quan hệ của cả hai em. Cả hai em, anh đều quý mến, đều hết sức trân trọng và đáng học nữa. Gửi thư đi được nửa tháng, anh lại nhận được thư Hương. Cô bé rất mừng rỡ vì từ nay cô có một người anh, một chỗ dựa tin cậy, một niềm an ủi lớn để cô bớt đau khổ, cô đơn. Cô cũng hứa dù cô với Sài như thế nào thì vẫn thiết tha cho cô được là đứa em của anh, để nghe anh dạy dỗ, chỉ bảo.
Dù sao, những lá thư của anh Hiểu có làm cô mừng rỡ tin tưởng đến đâu cũng không thể thay thế được nỗi khắc khoải trông chờ Sài. Anh ơi, tại sao Sài vẫn không viết thư cho em. Anh nói với Sài là đã đến lúc em không cho phép Sài im lặng nữa. Sài có biết em chết từng giờ, từng phút vì Sài không. Sao Sài lại ích kỷ, lại nhẫn tâm “kiên trì” im ắng đến thế. Vì lý do gì? Sài không cần viết đến dòng thứ hai thì em cũng đã chấp nhận kia mà. Không có lý do gì để Sài im lặng nữa đâu? Anh kính mến ạ, anh sẽ thay mặt em nói cho Sài hiểu tất cả những đòi hỏi của em anh nhé. Em cám ơn anh rất nhiều.
Hiểu không thể viết thư cho Hương, vì anh không thể giải thích được nữa. Vì chính anh không cho Sài biết những lá thư này. “Hồi Tết về, em nghĩ cô ta cố tránh mặt em. Một năm rưỡi học ở trường, em đến bách khoa hai lần, cô ta đều “đi vắng”. Em cũng nghĩ Hương tìm cách lẩn tránh. Nỗi ấm ức đã làm cho em nguôi nguôi thì Hương lại chủ động ra đây tìm em. Hay là để em viết lá thư cuối cùng nói lại tất cả những cái đó và mong Hương thông cảm cho hoàn cảnh của em hiện nay, em khuyên Hương đi yêu người khác để Hương đỡ khổ” - “Chưa thể có lá thư cuối cùng được đâu. Cô ta cũng không cần đến lời khuyên bảo cho cô ta đi yêu người khác. Cái sách tốt nhất là cậu phải im lặng. Thôi, cố nén rồi nó quen đi, Sài ạ”.
Một lá thư nữa của Hương, Hiểu vẫn đành im lặng. Thư Hương đề ngày 15 tháng 3, tức là sau ba tháng kể từ lá thư thứ hai vẫn không được Hiểu trả lời. Cô viết như sau “Anh Hiểu kính mến, cho đến hôm nay thì em đã hiểu vì sao anh không giải thích cho em những điều em muốn nhờ anh từ trước tới nay. Em cũng hiểu sự im lặng của anh sau hai lá thư em gửi đến anh. Em thành thật xin anh tha lỗi cho em vì đã làm anh phiền lòng. Nếu không quá khinh bỉ và chê cười, em xin anh hãy giữ mối quan hệ anh em như anh đã cho phép qua lá thư trước. Lần này viết thư cho anh, em không còn gì để đau buồn, day dứt nữa. Em chỉ còn một cảm giác rất ngượng ngùng, xấu hổ với tất cả bạn bè, với những người thân thiết, với cả chính mình. Vì quá thương người, quá tin người, quá buông thả với tình cảm của mình, em đã bị lừa dối. Rất đáng tiếc là kẻ lừa dối phản bội em, đưa em xuống đáy vực lại chính là người em vẫn thương hại về sự ngây ngô thật thà, không thể ăn gian nói dối, không thể nắm lấy hạnh phúc khi nó đã nằm sẵn trong tay mình. Suốt hơn năm năm qua em đã điên cuồng dại dột tin vào sự im lặng của Sài, những tưởng một người có chí như Sài, sẽ đang âm ỉ, nung nấu phá vỡ một cái gì đó cho chính anh ấy, cho cả em. Em sẵn sàng chịu đựng, sẵn sàng chờ đợi đến bất cứ khi nào Sài được “Giải phóng”, dù chỉ mười ngày được sống tự do bên nhau, còn hơn năm năm sống kìm kẹp tù túng. Nhưng em đã quá lầm. Cũng may, mấy năm qua có thể là các anh đã giữ không cho Sài gặp em, vờn dỡn bên em với thứ tình cảm giả dối! Nếu không, hôm nay, em sẽ là gì trước sự phản bội của anh ta.
Anh Hiểu kính mến, một lần nữa xin anh tha lỗi cho những lời lẽ thiếu lịch lãm của em. Vì muốn dãi bày để anh hiểu rõ tâm trạng em, em không thể có lời lẽ nào êm nhẹ hơn mỗi khi nói về hắn. Hẳn rằng hôm nay Sài đang hí hửng với việc mình đã làm, thành tựu đã đạt được trong cái gian buồng mà ai cũng tưởng Sài sẽ phải đập đầu, cắn lưỡi mà chết. Thôi, cho em dừng bút vì nếu viết nữa, chắc chắn là em không thể ghìm nổi sự uất giận căm thù của mình. Cho em gửi lời kính thăm chị, chúc các cháu ngoan học giỏi. Nếu không thấy phiền, anh viết cho em ít dòng. Em gái của anh”.
Cô không hề giải thích về nỗi căm thù của mình. Hẳn cô cho rằng anh đã biết cả rồi, không cần nhắc lại cái việc cô cho là kết quả của một hành động ghê tởm. Vợ Sài đã có chửa được bốn tháng. Tháng trước nhận thư anh Tín, Sài biết tin ấy. Không buồn, không vui, không xao xuyến, anh dửng dưng như kẻ đi đường trông thấy người đàn bà khệ nệ vác cái bụng cao lên lùm lùm đi về phía mình. Lá thư đọc xong, lướt qua một lần xong được để giữa bàn như một thứ giấy công cộng. Ai muốn đọc chăm chú hay chỉ cần liếc qua cũng đều được cả. Có điều lạ là biết chuyện đó, anh em bè bạn trong ban không ai chúc tụng, tán tỉnh hay đùa cợt. Ai cũng có cảm giác nó như một vật dễ vỡ, dễ đổ đang để ở nơi chông chênh quá, hờ hững quá. Một tháng qua, Sài buồn hay vui, đau khổ hay sung sướng? Không cần bàn đến chuyện ấy. Chỉ biết Sài vẫn phải đều đặn lên lớp và soạn bài, sáng dậy tập thể dục và chiều tăng gia, ăn và ngủ, sinh hoạt Đoàn tối thứ sáu và học hát tối thứ năm, sáng chủ nhật lao động xã hội chủ nghĩa và tối sinh hoạt ban Năm, kiểm điểm thành tích trong một tuần qua. Cứ một nề nếp trật tự, không thể uể oải, vắng thiếu, nó sẽ quen đi, như Hiểu nói. Đêm nay, sau một ngày “thay mặt” cho bạn chính trị đi xúc than cho anh nuôi, Sài đã ngủ rất ngon lành từ lúc chín giờ. Hiểu nằm đọc thư Hương xong, ngồi dậy buông màn cho Sài, rồi ngồi nhìn khuôn mặt cau có dư tràn sức lực đang ngủ rất yên lành. Lẽ nào cậu ta phải hứng chịu tất cả những lời lẽ cay độc xỉ vả nặng nề của Hương? Anh lặng lẽ trút một hơi thở dài, lặng lẽ đứng dậy tắt công tắc ngọn đèn chụp ở đầu giường mình, buông màn năm. Gần hai giờ sau anh vẫn còn thấy tê mỏi ê ẩm cả một bên đầu. Anh dậy, lặng lẽ đi lên, đi xuống trên con đường rải nhựa chạy lên đồi, ban ngày trông như cái xoong khổng lồ đã cũ. Cậu ta đã “yêu” vợ để sắp sửa có một đứa con, để có một lá thư của Hương! Vốn là người điềm tĩnh, kín đáo, Hiểu chưa hé lộ chút nào để Sài biết đến lá thư thì gần hai tháng sau, anh nhận được giấy báo hỉ: Hương lấy chồng. Trước đó mấy ngày, chi ủy cũng đã được phổ biến quyết định của Đảng ủy liên chi “tham, chính, hậu” không kết nạp Sài theo đề nghị của chi bộ ban chính trị. Bản thân Sài rất tốt. Gia đình cơ bản, có ảnh hưởng rất tốt. Trước, sau cách mạng và hiện nay không hề có vướng mắc gì. Duy có mối liên quan đến gia đình vợ hết sức nặng nề. Bố vợ có nợ máu. Anh vợ cùng bố đã làm chỉ điểm bắt hàng loạt cán bộ cơ sở trong đó có chú và anh ruột Sài. Địa phương (kể cả xã và huyện) đều xác nhận Sài không chịu ảnh hưởng về kinh tế, chính trị với gia đình vợ. Nhưng muốn hay không đây là vấn đề xã hội còn đang tồn tại rất phức tạp, bắt buộc phải có thời gian để xem xét. Thời gian đến bao giờ? Sao lại có quyền hỏi và bất cứ ai cũng không thể trả lời được câu hỏi ấy. Phải có thời gian để xem xét mối ảnh hưởng với gia đình và vợ cũng phải theo dõi cả động cơ, xem có gì lệch lạc, hành động có gì thiếu dũng cảm không. Đến bao giờ? Là chi ủy viên trực tiếp phụ trách quần chúng, nếu Sài hỏi câu ấy thì mình phải trả lời thế nào? Tất nhiên, Hiểu không bảo cậu ta không có quyền hỏi như anh tự bảo mình, nhưng anh sẽ lại nói rằng hãy kiên trì, bền bỉ, đây cũng là một thử thách xem sức chịu đựng của Sài đến mức độ nào? Có thể mươi lăm ngày sau, Sài biết chuyện mình không được kết nạp, cả chuyện Hương đã lấy chồng! Đấy là cái khả năng xấu nhất mà Hiểu đã tính đến, khiến cả tuần lễ không bữa nào anh ăn nổi hai lưng cơm. Nhưng bếp ăn của các sĩ quan ở riêng, nên tuy những chiến sĩ như Sài, vốn tinh tường, để ý từng cử chỉ nhỏ nhặt của cấp trên vẫn không hề biết vì sao người Hiểu gầy rộc hẳn đi.
Chính ủy Đỗ Mạnh và trung đoàn trưởng ở ngôi nhà mái bằng trên đỉnh đồi. Đây là ngôi nhà duy nhất có sân trời ở khu đồi này nên anh em gọi đùa hai người chỉ huy là “người nhà trời”. “Người nhà trời” lắng nghe, thấu hiểu hết mọi chuyện. Không chỉ ở trong đoàn bộ mà ở tất cả ác đại đội trong trung đoàn đều không thể giấu nổi chính ủy một điều gì. Biết thì nhiều, giải quyết đến đầu đến đũa được là bao. Không phải ông không có đủ quyền hành và những quy chế kỷ luật điều lệnh để bắt họ phải làm cho đúng đắn, cho nghiêm ngặt, cho chính xác. Nhưng cũng có nhiều mối quan hệ dằng níu, chưa thể bất chấp bỏ qua. Nhiều khi, ông thấy mình bất lực với những việc mà ông nghĩ có thể làm khác hơn, tốt hơn nhiều, vừa thỏa mãn những đòi hỏi của con người, vừa đem lại lợi ích và sức mạnh cho quân đội, cho cách mạng. Chẳng hạn như việc vào Đảng của câu Sài. Với cương vị bí thư đảng ủy trung đoàn, cơ quan Đảng cấp trên của Đảng ủy liên chi “tham, chính, hậu” nhưng ông không thể lấy quyền bí thư để chỉ thị cho đảng ủy cấp dưới. Lại càng không dùng quyền tập thể của đảng ủy trung đoàn làm cái việc thuộc phạm vi đảng ủy cấp dưới có toàn quyền quyết định. Hơn nữa, việc không hoặc chưa kết nạp một quần chúng vào Đảng, không bao giờ có khiều nại kiện cáo. Chả nhẽ lại đi kiện là tôi tốt lắm, tôi cống hiến và hy sinh nhiều lắm, cấp trên phải chỉ thị cho chi bộ kết nạp tôi vào Đảng? Họa là anh chàng hâm! Mà dù có nhận được đơn từ ý kiến của xung quanh về việc đó thì cùng lắm cũng chỉ yêu cầu cơ sở xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng, công minh chứ làm sao mà thay thế được họ. Đã không làm thay, họ có đầy đủ lý do để cấp trên không thể trách cứ. Đa số thành viên của Đảng ủy liên chi đã quyết định và thành nghị quyết chung rồi, biết làm thế nào. Hôm ông chuẩn bị ra đi, không biết được thông báo từ bao giờ mà mãi đến khi chỉ còn hai ngày nữa rời khỏi trung đoàn, mọi người mới biết ông được điều động đi chiến trường. Sau buổi liên hoan chia tay với cán bộ trung đoàn bộ, ông bảo Hiểu và Hiền ở lại. Đêm ấy hai người ngồi với chính ủy rất khuya để nghe ông tâm sự những điều mà ông gọi là “nhân tình thế thái”, về cách ăn ở, đối xử và quan tâm đến nhau. Đến đêm nay, cả hai mới ớ người, nhận ra mình như một kẻ có tội trong niềm mãn nguyện về công lao của mình đối với quần chúng, cụ thể là chuyện vợ con của cậu Sài. Các anh là ai thế? Các anh ra điều kiện cho nó phải yêu vợ mới được vào Đảng. Nó “yêu” vợ nó theo ý muốn các anh thì lại không được vào Đảng nữa vì lai lịch nhà cô ta xấu quá. Các anh thử đặt mình vào đấy xem có phải là mình đã tạo nên bi kịch cho họ chưa? Chả nhẽ tôi lại xui nó, xui các anh là cho nó bỏ vợ đi. Tôi không làm được việc đó. Không phải tôi cũng sợ mình không có thành tích giáo dục nhân viên như các anh. Tôi sợ cái hiện tượng có vợ con, yêu đương tìm hiểu nhau hẳn hoi, kỷ niệm sâu xa và thề thốt sắt đá hẳn hoi nhưng khi đến nơi đóng quân mới, nhất là nơi phố xá đông vui, thấy con gái hơ hớ thì liền nẩy ra ý định tìm lý do bỏ vợ, bỏ con. Chuyện ấy đã có không ít đâu. Là chính ủy của trung đoàn, tôi không cho phép mình để trung đoàn phát sinh những chuyện ấy. Vì vậy tôi phải ngăn chặn, phải răn đe khi trong môi trường xã hội xuất hiện sự đe dọa ấy. Không ngờ, để được an toàn, đỡ khỏi xì xào mang tiếng về nhân viên của mình, các anh không cần để ý hoặc ngại liên luỵ, ngại hiểu nhầm, bằng cách này, cách khác, bất kể đúng sai “dẹp” luôn những khúc mắc riêng tư trong bộ phận mình, trong mỗi cá nhân quanh mình. Thế là gọn. Thế là nhẹ nhàng và khôn ngoan. Nhưng các anh có nghĩ các anh đã giết một tâm hồn trong sáng, một niềm tin, một tình yêu của một con người với cách mạng, với quân đội, với xã hội tươi đẹp của chúng ta không? Tôi nói với các anh khi việc đã rồi cũng chỉ là để rút kinh nghiệm thôi. Ôi chao, tôi làm chính ủy cũng có làm được vài ba việc cho trung đoàn, nhưng với những con người cụ thể thì toàn là chuyện rút kinh nghiệm. Khi mình rút kinh nghiệm thì đã kết thúc một con người, đã đẩy một con người từ tốt sang xấu, từ yêu thương sang thù ghét co khi đã hết cả đời người ta rồi còn gì! Các anh có cảm thấy thế không? Hãy kiên quyết, kiên quyết đến tàn nhẫn, đến độc ác, buộc tất cả mọi quân nhân chấp hành nghiêm ngặt những quy định của kỷ luật,của điều lệnh và pháp luật của Quân đội và nhà nước, của nhân phẩm và đạo đức con người xã hội chủ nghĩa. Nhưng không được phép bắt người khác thích thú với cái mình thích thú, ghét bỏ cái mình ghét bỏ. Yêu ghét ai đều do người khác chỉ huy. Ngưòi chỉ huy yêu ai, lập tức tất cả xúm vào người đó, cố áp mình vào cái danh dự của người ấy để được chú ý, được chứng tỏ mình cũng tân tiến, cũng thức thời, cũng đồng cảm sự yêu mến với chỉ huy. Chỉ huy ghét ai thì tìm cách xa lánh, ghét bỏ người, ấy là chưa kể nhân “dậu đổ” thì “bìm bìm leo lên”. Xin lỗi, tôi được kể ngay cái chuyện các anh. Mờy năm trước tôi để ý và cứ buồn cười một mình về sự “tiến bộ” của anh Hiểu. Anh Hiền mới về chưa biết. Hàng chục năm qua chắc anh Hiểu đã biết tình cảm của tôi với anh. Có thể nói gọn thế này: Nếu cần một cán bộ cấp dưới có trình độ làm việc, làm được nhiều việc một cách thông minh và tỉ mỉ, nhanh mà chính xác, một người sống nhường nhịn và chăm lo cho đồng đội và cấp dưới hơn cả chính mình, một người sống trung thực không có kẻ ghen tị đố kỵ... người đó là anh, anh Hiểu ạ. Hàng chục năm nay anh vẫn thế. Nhưng tự nhiên, anh “lạc hậu” rồi “tiến bộ” là thế này. Khi có chế độ quy định sĩ quan được phép mặc thường phục ngoài giờ hành chính và những ngày nghỉ, anh như mọi anh em khác sắm được một bộ “cánh”, cũng gọi là “kẻng”. Một sơ mi “đuôi tôm” trắng tinh, một quần kaki Pháp màu be, một săng dan quai vàng. Tất cả đều sát sỉnh, hợp với cái dáng cao thon và màu da trắng trẻo của anh. Có một buổi sáng chủ nhật, tôi nhìn thấy anh Hiểu ở phố, mê quá. Nghĩ bụng giá mình còn trai trẻ, có dáng, thì cũng phải “liều” làm một bộ “tủ”. Mình đen đủi, ục ịch, lại có tuổi, không thể “đua đòi”. Nhưng trong điều kiện của từng người cho phép và không ảnh hưởng gì đến điều lệnh kỷ luật thì việc gì mà không để anh em mặc đẹp như thế. Bỗng nhiên dăm tháng sau nghe cơ quan trung đoàn bộ xì xaoflaf anh Hiểu “biến chất”, “cắm đuôi tiểu tư sản”, “Hiểu xa rời quần chúng, không giản dị khiêm tốn”. Và bao nhiêu thứ chuyện xấu khác. Chủ nhiệm chính trị thì thào với tôi: “Tư tưởng cậu Hiểu có vấn đề, anh ạ”. Tôi cười phá lên bảo: “Khốn khổ, cả đời nó có mỗi bộ quần áo thường phục, cứ để nó mặc chứ tư tưởng cái gì. Tất nhiên mặt mũi như tôi với ông có quét sơn vào cũng không thể đẹp hơn thì đành chịu. Anh em nó có một bộ để diện ngày nghỉ, kệ nó, đừng làm gì để nó “chột” đi.” Tôi “dẹp” ngay chuyện đó, nhưng chính anh Hiểu, anh cũng không dám chịu trách nhiệm với sự thích thú của mình, với cái quan niệm thẩm mỹ của mình. Anh chiều chuộng mọi người, làm vừa lòng họ bằng cách cho chiếc áo “đuôi tôm” vào trong cái quần “quân dụng” rộng thùng thình, vá chằng vá đụp, để đi cuốc tăng gia, đi lấy phân, lấy gio, để ít lâu sau nó ngả sang màu khác, nhăn nhàu đầy vết ố. Còn ngày chủ nhật thì lại “diện phố” bằng chiếc quần màu be với cái áo quân phục đã lộn lại cổ và vá ở vai. Bằng sự cọc cạch, “phản bội” cái đẹp, anh Hiểu trở thành người “giản dị”, mộc mạc “hòa mình với quần chúng”, “lập trường vững vàng”, “đạo đức trong sạch”. Trở thành “tiến bộ” hẳn lên. Cái đó nó nguy hiểm ở chỗ là nó ngấm vào từ bao giờ, đã thành máu thịt, thành hệ tư tưởng rất sâu xa trong mỗi chúng ta, trên mọi lĩnh vực của xã hội, của đời sống con người. Vì thế, các anh mới yêu thương, lo toan cho thằng Sài như những việc các anh đã làm. Thú thật, tôi rất buồn cái cách “sống hộ” người khác, được gọi là “tập thể quan tâm” như thế. Hãy đòi hỏi ở mỗi con người sự cống hiến cao nhất khi xã hội cần, tập thể cần. Đến khi tập thể quan tâm đến người ta thì cũng phải quan tâm đến cái người ta cần, chính người ta đòi, người ta khát, chứ không phải mình quan tâm cái mình muốn ở người ta. Tóm lại, nhân việc của cậu Sài, tôi nói những suy nghĩ của tôi với các anh, chứ không phải những suy nghĩ của tôi sẽ giúp cậu ta được điều gì. Tôi đã nói với các anh ở đảng ủy liên chi là phải xem xét và vận dụng linh hoạt trường hợp này. Các anh cũng động viên, an ủi cậu ta và cái gì mình thấy đúng đắn phải bênh vực, dám chịu trách nhiệm về nhân cách và lai lịch của cậu ta.