... Đêm trở nên thê lương. Mây đen nghịt trời che kín trăng sao. Gió gào, mưa trút, điện chớp loang loáng, sấm nổ ầm ầm, quang cảnh rừng núi như cuồng loạn cả lên.
Một tiếng “hu... u... u... hú” kéo dài, lẫn vào tiếng sấm, tiếng mưa gió, truyền mãi đi, vang dội cả một vùng rừng nội.
Một lằn chớp loé lên, tiêu tan cảnh đêm tối trong nháy mắt đồng thời chiếu sáng một thân hình ăn vận áo bào văn nhã, với bộ mặt thanh tú đầy những hạt mưa đọng lóng lánh như hạt châu, tay xách ngược thanh trường kiếm, chân gấp bước, thần thái hớt hãi...
Vụt cái, nổi lên mấy tiếng thét dữ dội, trong lằn mưa gió tơi bời hiện ra ba cái bóng người ngược chiều chạy tới, đứng chặn lối đi người kia!
Ba người này ăn vận hệt nhau: đồ chẽn sắc đen, đầu cũng bao quấn lụa đen, chỉ lộ ra hai con mắt.
Người đứng giữa, bỗng đưa tay phách ra một chưởng. Chưởng phong hô gió, vén hẳn ra một khoảng trống rộng ước hơn một thướt đánh giạt cả lằn mưa gió đi!
Người vận áo bào ra vẻ văn nhã, dừng bước lại, tay trái đưa lên phẩy một cái từ trước ngực vạch thành một đường tròn tống ra, cất cao giọng, hỏi:
-Chư vị bịt mặt bằng khăn đen, kín kín hở hở! Sao đáng gọi anh hùng hảo hớn?
Câu hỏi chưa dứt, hai chưởng lực giập vào nhau. “Binh” một tiếng. Công lực của người áo bào hơi kém, bị đẩy lùi lại sau hai bước.
Người áo chẽn đen đứng phía tay mặt, cười lạnh lùng mà rằng:
- Năm hồ, Bốn biển, Đại giang Nam Bắc, nhân vật trong làng võ, ai cũng muốn giết ngươi đi!
Người áo chẽn đứng bên tay trái, đằng hắng rồi nói:
- Hiện ngươi đương bị hãm trong vòng bao vây trùng điệp rồi! Đừng nói là thân thể bằng xương thịt, dù là Kim cương La Hán, xương đồng da sắt,cũng không chống lại được cuộc vây đánh của những cao thủ trong làng võ hiện giờ!
Người áo đen đứng giữa, trầm giọng nói:
- Đây cũng là một cơ hội cuối cùng. Có hai đường sống và chết. Tùy ý ngươi lựa chọn.
Giữa lúc đương nói, trong màn mưa mù mịt, bóng người qua lại như bay trên mười kẻ áo chẽn sắc đen, đầu bịt khăn đen, như ong vọt tới, bao vây lấy người áo bào dài.
Chợt có tiếng một người già từ phía bên, nói:
- Sinh mạng con người đáng quý biết bao? Nếu như vì một vật ngoại thân mà lựa chọn con đường chết, quả thực đáng tiếc!
Giọng nói không lớn, nhưng rõ ràng, từng chữ lọt vào tai!
Người áo bào dài đưa mắt quét vòng một lượt nhìn bọn người bao vây, đoạn cất giọng lẫm liệt nói:
- Tiên tổ để lại! Hà có thể để huỷ mất về tay ta! Đại trượng phu coi sống chết là cái gì.
Chợt lại nghe có tiếng con gái dịu dàng nói tiếp vào:
- Trên còn cha mẹ, dưới còn vợ con, tuổi chưa mấy mà chỉ những nói chết. Rõ thực vô nghĩa!
Lại có tiếng oang oang, ra vẻ nóng nẩy:
- Hạng người này đến chết cũng chưa tỉnh ngộ. Khỏi phí lời vô ích!
“Vèo” một cái, cùng với câu nói, người ấy vọt tới tống ra một quyền nhằm giữa ngực đối phương:
Người áo dài bước sang ngang hai bước, tay trái phát ra một ngọn “Gió tây vén mành” gạt chéo đi, miệng cười nhạt nói:
- Coi lối quyền của nhà ngươi, có thể là môn hạ của Ngôn gia ở Thìn Châu!
Người to lớn vừa ra một quyền đó, bị chàng thiếu niên nói đúng tẩy. Hắn giật mình, hơi chậm tay lại.
Chàng thiếu niên áo dài vừa nói, tay trái vừa gạt vừa hoàn đòn, lẹ đến nỗi đại hán kia chỉ hơi ngừng chậm hơn một chút đã bị đầu ngón tay chàng quét trúng vai, lùi lại sau đến ba bước.
Lập tức từ mé trái, một giọng cười lạnh lùng âm hiểm nổi lên, một bóng đen bé nhỏ nhào tới liền với một ngọn “Phất móng lên năm dây đàn” đập chéo vào lưng thiếu niên.
Quay đi nửa vòng, thanh trường kiếm trong tay mặt thiếu niên đồng thời loáng lên, hàn quang rợn người trong màn mưa gió, chém tạt ngang vào cổ tay đối phương.
Người nhỏ bé kia nổi giận quát:
- Nhãi con! Trêu vào tay ta!
Vừa quá, vừa thâu tay mặt về, tay trái thuận thế ra một đòn “Phi bạt tràn chung” lẹ như chớp đánh vào vai tay mặt đối phương.
Thiếu niên áo dài có vẻ dè dặt, không muốn làm thương tổn người kia, nên mũi kiếm chuyển hướng múa lên một lằn kiếm quang che kín lấy mình, cất giọng trịnh trọng nói:
- Đường quyền của các hạ, về phần cứng, mạnh thì có thừa, nhưng phần nhu biến thì chưa đủ. Phải chăng là Lỗ lão tiền bối tức là Thần quyền Lỗ Bính ở phủ Tào Châu thuộc Sơn Đông?
Người nhỏ bé áo đen tự nhiên nhảy lùi lại, rút lui, lặng ngắt không nói nửa lời.
Thiếu niên nho sinh, ngửa mặt nhìn trời, cười ha hả:
-Chư vị dù bịt đầu, che mặt, ta tin rằng chư vị đều là những nhân vật có tên tuổi trong làng võ đương kim...
Chàng chưa hết câu, một cái bóng người vụt lao tới với hai tia sáng lóe điểm thẳng vào hai yếu huyệt trên mình chàng.
Chàng thanh niên đưa xiên lưỡi gươm dài lên, một ngọn “Thiết Thụ Ngân hoa” kiếm hoa loé ra, nổi lên mấy tiếng keng keng chát chúa, đánh bật hai ngọn Phán quan bút trong tay người kia ra một bên.
Người kia vội đổi đòn, đôi bút tức thời biến thành “Phượng hoàng gật đầu” cổ tay trái gằn mạnh một cái loá ra ba điểm hàn quang điểm vào ba nơi trọng huyệt, đồng thời tay mặt ngọn bút ngầm dùng ngọn “Quỷ vương điểm hồi” thình lình thọc vào huyệt đan điền.
Kiếm thế của chàng thanh niên lẹ như chớp, một ngọn “Tám phương mưa gió” vãi ra một lớp kiếm quang, giữ kín lấy mình, rồi bất thần nhảy lùi lại hai bước.
Người kia cười nhạt, xô vào theo. Hai ngọn bút liên hoàn vừa đâm vừa quật, nháy mắt tuôn ra năm đòn.
Thanh niên vận kiếm rít gió, khắp người trên dưới xung quanh đều như một màn kiếm bao phủ, mặc dù ngọn bút người kia tuôn đánh ra như mưa, cũng không tìm ra một khe trống để luồn đòn vào được.
Mưa càng như trút xuống gió reo ù ù, chớp nhoằng lẫn với những lằn kiếm quang bút ảnh vụt sáng, vụt tắt trong một trận mưa gió điên cuồng.
Hai ngọn bút của người áo đen giao hỗ công tập, phối hợp với cái thân pháp như mây bay nước chảy, trong một loáng tuôn ra đã mười sáu, mười bảy đòn.
Chỉ thấy khí kiếm thoát ra lạnh như băng văng, tung hoàng trên dưới, quả nhiên đã luyện tới cái bí quyết chữ “ổn” trong công phu võ nghệ. Dù chàng chỉ “thủ” chứ không “công”, vậy mà giữ mình hết sức kín đáo, mặc cho đôi bút người kia xoay trở đánh ra những ngọn kỳ lạ hiểm hóc, vẫn không lọt qua được làn kiếm kỳ diệu của chàng.
Sau hai chục ngọn liên tiếp của người áo đen, chàng thiếu niên bỗng vận kiếm hoàn đòn. “Soạt... soạt” hai nhát gươm lợi hại vô cùng, bức người áo đen phải lùi về mấy bước, chàng ngừng tay gươm nói:
- Hai ngọn bút của các hạ, đòn ra thần kỳ. Biến hoá rất hay nhưng thiếu trầm ổn. Các hạ là cao thủ trong phe Hình Ý môn! Phải thế không?
Người kia mặt lặng ngắt, môi mấp máy, quay mình đi ra.
Chợt một tiếng to lớn, oang oang cất lên:
- Tiếp một ngọn đao... này!
Giữa làn mưa xối xả, một đạo hàn quang cùng bóng người vọt ra. Lưỡi dao Khai sơn rộng bản, sống dao dầy như sống dao rựa hô gió, đập xuống đỉnh đầu chàng thanh niên, nghe véo một tiếng.
Sức đao trầm hậu, sức tay lại khoẻ, một lưỡi đao tận lực chém xuống, như xé gió gầm lên.
Thiếu niên cùng với lưỡi gươm cùng bay lẹ ra bên đến ba thước.
Lười dao chém hụt, người kia lắng cổ tay một cái như có máy hãm, đồng thời với chân tiến lên, lưỡi dao đương chém dọc, nay biến thành phạt chéo ngang lưng khí, thế càng mạnh mẽ!
Thiếu niên di bộ, lánh người để tránh, trong khi đó đã nhận rõ ràng tình thế phía bên mặt. Một hàng bốn người áo đen đứng ngang ra, cách xa chàng không đầy ba thước. Giả như chàng lánh đòn bước thêm một bước rộng, tất nhiên là bị đâm sầm vào họ. Tình thế buộc chàng không thể cứ nhường nhịn nữa lập tức gằn cổ tay một cái, thân kiếm rung lên thành một ngọn “Uyển để phiên vận”. Cùng với thân kiếm rung lên, ba lằn kiếm hoa sáng ngời tỉa thẳng vào nơi đại huyệt phản kích đối phương.
Ngọn kiếm ấy thần dị vô cùng. Tuy là phát ra sau ngọn dao, nhưng lẹ vượt mức không khác chi cùng với ngọn dao cùng thoát ra một lúc. Và kiếm hoa loang đi như chớp người áo đen không thể không kịp thâu đao nhảy lùi về, bởi lẽ nếu ham ăn người thì đồng thời cũng bị người ăn. Với cái lối đổi đòn ấy, một là đối phương đã dụng ý thì họ có lợi hơn, hai là cả hai cùng tổn thương hoặc “đồng quy ư tận”.
Người kia lùi ra rồi, chàng thanh niên cũng ngừng kiếm, cười và hỏi:
- Các hạ ra một ngọn dao, trầm trọng ghê gớm, thực hiếm có trên giang hồ. Chắc chắn các hạ phải là tay đao nổi tiếng Nhất đao Khai sơn Chư Ngọc Tường lão tiền bối?
Người kia ngạc nhiên, nói:
- Nhãi con! Khá thiệt!
Ngọn đao Khai sơn khoa lên một cái cùng với người nhảy lùi lại sau hơn năm thước.
Vì cả bọn đều bịt đầu bịt mặt bằng khăn đen, nên ngoài việc nhận xem thân hình cao thấp, béo gầy khác nhau, chỉ còn cách nhận ở đòn đánh ra để có thể đoán định họ thuộc môn phái nào!
Người kia vừa rút lui khỏi, thì một tiếng quát lanh lảnh nổi lên, cùng một bóng người mảnh dẻ, như một mũi tên bắn đi. Chưa nhận rõ ra người, một lằn ánh sáng lạnh đem theo tiếng thét gió, xé không khí xiên tới.
Thiếu niên hơi cau mày, trường kiếm quạt ngang vèo đi “keng” một cái ngân lên thành tiếng trong vắt, ngăn chặn thế kiếm đối phương lại. Đồng thời có tiếng nhỏ nhẹ rót vào tai:
- Ngươi giỏi đoán coi ta là ai? Nói mau...!
Tiếng oanh trong vắt, đúng là giọng con gái.
Thiếu niên cầm ngang ngọn kiếm, trầm ngâm nửa giây, đoạn cười gượng:
- Non sông thiếu gì người tài. Chỉ vì tại hạ lịch duyệt có giới hạn, há dám khoe rằng biết hết cao nhân trong thiên hạ. Tuy nhiên, cứ một đòn cô nương vừa ra, kiếm thế lặng lẽ, vả vận sức cổ tay trầm hùng kinh nhân, nhất định là lai lịch chẳng tầm thường...!
Ba tiếng “chẳng tầm thường” chàng chưa nói hết, thiếu nữ đã phì cười và quát:
- Nói chuyện dằng dai vớ vẩn! Coi gươm... ta...!
Cùng với tiếng “gươm... ta” cổ tay trắng nõn như ngô cẩn phất lên một cái “loằng... nhoằng... veo veo” trong nháy mắt tuôn ra một lúc bảy ngọn kiếm: ba đâm, bảy chém, có cái khí thế mưa dồn sóng giập khiến đối phương ngộp thở.
Thiếu niên nghe chừng đêm nay khó mà có kết cục tốt đẹp yên lành được, bèn không nhường đòn nữa. Một mặt vung gươm lên vùn vụt đi như “cầu vồng quán nhật” đánh chặn những ngọn ác liệt lại, một mặt lưu ý nhận xét đường kiếm, hòng tìm hiểu nàng thuộc môn phái nào.
Về phía cô nàng áo đen, hình như cố ý không để chàng nhận xét ra lai lịch mình, cho nên kiếm thế biến hoá hết sức ly kỳ, những đòn đánh ra nhiều khi dụng ý thêm bớt lai căng, không liên hệ đến môn học chính tông của nàng.
Qua lại, vào ra, xô lấn sau mười bốn, mười lăm hiệp liền, chàng thanh niên tức đến phì khói tai ra nhưng vẫn chưa nhận ra môn phái đối phương. Bụng nghĩ thầm:
- Chỉ cần gọi đúng lai lịch họ ra là họ lảng tránh liền. Nếu như con bé này, đánh dằng dai mãi, chung quanh còn vài chục kẻ khác lần lượt nữa thì đến bao giờ mới thôi.
Nghĩ vậy, chàng hăng tiết lên, kiếm thế chợt đổi, như ngàn cân, như sấm sét, dồn tiếp phản công.
Chàng chuyển thần lực, đánh đâm tới tấp tơi bời, khiến cô nàng không kịp thở, cốt buộc nàng phải thi triển tuyệt kỹ ra. Chỉ cần một đòn “lộ tẩy” là chàng đoán ra được!
Quả nhiên bị áp lực của chàng quá mạnh, nàng cuống cả tay chân lên. Tuy rằng thân bác học biết nhiều môn phái, nhưng đến lúc bị đòn quá gấp, cơ hồ rúm cả người lại, nàng không thể không đem hết gia truyền tuyệt học ra đối phó.
Thiếu niên phản công vài nhát gươm, lập tức tranh hồi được thế chủ động, một ngọn “Mây phong Ngũ Nhạc”. Kiếm ảnh tuôn ra trùng trùng lớp lớp chụp lấy cô nàng.
Một ngọn ấy uy thế kỳ cường, như núi sóng dồn tới. Nàng áo đen ngộp mình trong muôn trùng đợt sóng gươm ấy, vụt cái tay nâng gấu áo tung mình nhảy vọt lên, kiếm lan ra như cầu vồng ngang trời, “keng keng... reng reng” gươm đập vào nhau nẩy lửa ra, reo lên từng hồi, thân hình nàng như trái banh vọt đi xa ngoài một trượng, từ từ xà xuống... ngực nàng lên xuống, thở hắt hơi trở ra...!
Chàng thanh niên cũng rùng mình run tay, thâu kiếm, chép miệng thở dài mà rằng:
- Một đường kiếm “Cánh băng muôn dặm” của cô nương giống với những ngọn tâm pháp bí truyền của phái Nga My là một trong bốn phái kiếm lừng danh thiên hạ. Cô nương! Phải chăng thuộc phái Nga My?
Sau lớp the mỏng che mặt, lúc đó chẳng ai nhận thấy vẻ mặt vừa kinh ngạc, vừa thẹn thò của nàng. Chỉ thấy cổ tay trắng nõn buông lõng, mũi gươm chỉ xuống đất, nàng lặng lẽ không nói gì, quay mình lùi hẳn về phía sau.
Bỗng một giọng nói vang vang như tiếng chuông:
- Cả hai phái tà chính trong thiên hạ đều phát thệ không đội trời chung với ngươi. Vậy lúc này là cơ hội cuối cùng. Lúc này nếu ngươi không chịu, thì đêm này năm tới sẽ là ngày giỗ đầu của ngươi!
Thiếu niên chợt ngẩng mặt lên trời cười một tràng dài rồi nói:
- Tiên tổ đổi máu với mồ hôi mới có được chút vinh diệu há có thể do bàn tay tại hạ vứt bỏ đi sao? Đêm nay chư vị cố tình ép bức ta, hẳn là có ý quyết phải giết ta đi. Vì bảo vệ vinh dự của tổ tiên, ta xin thanh minh: Bắt đầu từ giây phút này, lưỡi gươm trong tay ta, quyết không nhân nhượng ai nữa...!
Một giọng âm trầm từ phía bên đông nổi lên:
- Đến chết ngươi vẫn chưa tỉnh ngộ! Đành vậy! Không thể làm gì khác hơn!
Ngừng một chút, lại tiếp:
- Xung quanh vây bọc đầy, có thể nói rằng toàn những tay cự phách bậc nhất trên chốn giang hồ. Ngươi lượng sức liệu có địch lại không?
Thiếu niên, mắt sáng như sao, đưa ngang một cái, nói một cách hào hùng:
- Có thế! Tại hạ biết rằng đêm nay khó thoát! Nhưng cũng tự tin rằng, các vị cũng phải trả bằng một giá rất đắt!
Lại có tiếng trầm trầm nói:
- Khẩu khí ngông cuồng! Khỏi nhiều lời nữa!
“Vù” một cái, một luồng kình phong quét tới.
Thiếu niên đưa mắt, nhận ra người kia thân hình cao lớn, vung cây gậy sắt lớn bằng bắp tay trẻ con, quạt ngang tới. Bụng chàng nghĩ, người này sức lực ghê gớm, gậy sắt hô gió, há tầm thường. Chàng vận sức cổ tay, lưỡi gươm xiên chếch gạt ngang một cái. Lửa loé lên như sao, “chát” một tiếng rùng rợn, binh khí chọi nhau, ngọn côn sắt lệch đi một bên, chàng cảm thấy cổ tay nhói lên.
Ngay đó, phía sau có tiếng binh khí gào gió đánh tới.
Chàng thét to một tiếng, một ngọn “Hồi quang phản xạ” lưỡi kiếm văng ra phía sau đánh bật một lúc một lưỡi dao, một lưỡi gươm, tà áo chàng bay lên, thân mình quay ngoắt nửa vòng ánh gươm loé lên một cái đâm thẳng vào cổ tay mặt người to lớn cầm côn sắt.
Kiếm thế biến hoá thần tốc như gió mây, luân chuyển tuyệt diệu.
Đại hán “hừ” một tiếng nhảy lùi hai bước, cổ tay mặt nâng lên đưa chiếc côn sắt dài hơn trượng đập vào đầu gối bên mặt đối phương.
Thiếu niên ngầm vận công lực, kiếm thế phát ra, điểm mạnh vào thân chiếc côn, miệng nói một cách trịnh trọng:
- Côn pháp các hạ tinh kỳ, giống với tuyệt nghệ Thiếu Lâm, trong lối trường côn Thập bát La Hán...!
Đại hán không trả lời, lẳng đôi vai một cái nhảy lùi về năm bước, thuận đà quai gậy từ dưới lên nhắm đầu chàng đập xuống.
Thiếu niên giận lắm, nói lớn:
- Ta nghĩ rằng đêm nay chỉ là những cao thủ trong làng “hắc” và “bạch” trên giang hồ! Không ngờ bao gồm cả các Đại môn phái trên chốn giang hồ. Đã có mặt phái Nga My, Thiếu Lâm, hẳn là có cả Võ Đang... nữa?
Chưa dứt câu, chợt nghe tiếng binh khí thét gió, từ bốn phía, tám mặt đao kiếm loang loáng như chớp, bóng người nhảy tới... lăn xả vào đánh chém.
Chàng thiếu niên gầm lên một tiếng, kiếm quang loé lên, bóng người vươn theo, tiếng binh khí giập nhau chát chúa. Lưỡi gươm của chàng múa lên như thần long xuất hải, một mình qua lại trong rừng đao núi kiếm, địch với mấy chục tay võ lâm quái kiệt, ngoài một trăm hồi hiệp rồi mà sức không nao núng.
Mưa từ từ thưa hột, gió cũng dịu dần, tiếng binh khí chạm nhau vang dội cả một góc núi.
Chợt nghe chàng thanh niên quát mắng:
- Đàn chuột nhắt giở trò hèn hạ..!
Thanh gươm trong tay chàng bỗng tự nhiên từ từ chậm lại.
Giữa lúc đó, một lưỡi gươm dài sáng loáng thừa dịp luồn vào, đâm một mũi trúng phía sườn bên tay mặt, máu tươi vọt ra.
Chàng thanh niên hú lên một tiếng dài, như rồng ngân chuyển động cả tầng mây, lưỡi kiếm của chàng thét gió quạt ra, một tiếng rú rùng rợn nổi lên cùng với một chiếc đầu lâu người phun máu, bay đi xa bảy tám thước, một thân người vận áo chẽn sắc đen đổ ập xuống.
Ngay lúc đó một ngọn thiết côn đập tới, thế lẹ như chớp. Lưỡi gươm chàng chàng thiếu niên lúc ấy đương chống chọi với hai mặt phía bên và phía sau, trong khi ngọn côn trước mặt giáng xuống một cách thần tốc, tránh né không kịp. Chàng vội vận khí ra cánh tay trái đưa phắt lên đỡ lấy.
Chỉ nghe đánh “rắc” một tiếng, ngọn côn bật sang một bên, chàng thanh niên rùng mình hơi nhăn mặt. Ngọn thiết côn đã đập gãy cánh tay chàng.
Bị thương khá nặng rồi, tự biết là khó lòng tiếp tục chiến đấu nữa, chàng thanh niên nghiến chặt hàm răng, trường kiếm tay mặt gấp rút quạt ra một đường “Liên hoàn Tam Kiếm”. Ba lằn kiếm như lồng vào nhau vạch ra ba vòng tròn, xung quanh trên dưới, trong phạm vi rộng gần hai trượng, mù mịt chỗ nào cũng có kiếm quang. Bọn người bao vây chàng đều rạt cả ra như bèo bị gió thổi. Chàng quát lên một tiếng, thân mình như lằn khói tuôn đi về phía những ngọn núi cao thấp trước mặt.
Mấy chục con mắt ngây ra nhìn theo. Họ đều thán phục cái khí hào hùng của chàng thanh niên. Bỗng một người trong bọn hô lên một tiếng, thế là cả bọn đều phóng chân đuổi theo.
Chàng thanh niên, lúc đầu chạy lẹ như gió, được một quãng xa thì tốc độ đã giảm trông thấy, vì vết thương do ám khí của bọn kia đánh lén trên lưng bắt đầu phát tác, làm cho người chàng như tê liệt dần đi, lại còn chỗ bên sườn, máu chảy, cánh tay bị giập gẫy. Chàng cảm thấy cái chết đã đến nơi rồi.
Quay lại nhìn, mấy chục cái bóng đen đương lao mình vùn vụt đuổi theo, tai chàng nghe rõ cả tiếng áo họ quạt gió phạch phạch.
Chàng dồn hết sức thừa lại, há miệng hớp một ngụm không khí, phóng mình đi, thêm tốc độ. Rốt cuộc, chàng vượt lên tới một ngọn núi trơ vơ, quay mặt lại, cầm ngang lưỡi kiếm, đứng đợi.
Liền đó, bọn người đuổi theo cũng lần lượt lên tới nơi. Thấy chàng quắc mắt, cầm ngang thanh kiếm, khí thế như thiên thần, thành thử không ai dám đương nhiên nhảy vào.
Một giây nghiêm trọng...
Bỗng chàng thanh niên trợn mắt lên, tinh quang loáng như điện từ từ quét ngang nửa vòng nhìn bọn kia, đoạn ngửa mặt lên trời cười dài một tiếng... Bất thần “vèo” một cái, một cái bóng người bật đi rớt thẳng xuống dưới vực sâu ngàn trượng...
Chuỗi cười của chàng thanh niên áo bào rộng cứ chìm xuống, xa dần, chỉ nháy mắt là biến mất vào trong lòng vực thẳm tối đen như mực...
Mặt trời từ từ chìm sau dãy núi phía tây, khắp trời mây ráng ửng đỏ, cảnh sắc đó thực là ngoạn mục.
Một thiếu niên anh tuấn, vận áo dài màu lam, đương bồi hồi đi lại trên bãi cỏ rộng. Có lúc chàng chợt cất đầu nhìn lên đầu ngọn núi cao, thần sắc có vẻ lo lắng.
Cảnh mặt trời lặn đẹp vô cùng, gần hoàng hôn cảnh sắc càng ngoạn mục, nhưng chỉ chốc lát, áng mây đỏ tía biến dần thành bóng tối bao trùm muôn vật.
Dưới một gốc bách cổ kính, hai thiếu niên áo xanh đương chăm chú vào nước cờ. Một thiếu niên, trên vai gài đôi Phán quan bút, ăn vận áo chẽn, ngồi bên lặng lẽ theo dõi từng nước.
Hoàng hôn tắt hẳn bóng. Trời tối sập hẳn.
Thiếu niên áo chẽn, vai gài Phán quan bút, bỗng thở dài:
- Trời tối rồi! Còn thấy gì nữa mà cứ...
Thiếu niên áo xanh ngồi quay mặt về hướng bắc cười ha hả:
- Liễu huynh à! Hết lối gỡ. Xe đệ lấp mất tượng. Pháo đập vào... hà hà...
Thiếu niên áo màu lam đương thơ thẩn đi lại trên bãi cỏ chợt quay lại, rảo bước tới bên, cất tiếng nói:
- Hai tay cùng cao hứng, chơi từ sớm tới giờ mà vẫn chưa hả... Nghỉ tay đi thôi!
Thiếu niên họ Liễu mỉm cười:
- Bạch huynh chớ giục! Mau gỡ cho đệ một nước.
Thiếu niên áo lam cười:
- Đệ bữa nay không có hứng thú! À! Ra xe hai nước giữ mã!
Cả bốn người đều có nhãn lực khác thường. Trời tối như vậy họ vẫn trông rõ từng tý!
Thiếu niên áo chẽn, tay mặt nắm chặt đập lên lòng bàn tay trái, gật đầu nói:
- Cao thật! Vừa giữ mã, vừa uy hiếp pháo!
Thiếu niên ngồi quay mặt về hướng bắc, tay mặt bóp trán, cau mày lại nghĩ. Nước cờ ấy khiến chàng đương thắng hóa bại.
Thiếu niên áo dài lam, lắc đầu:
- Thế cờ này còn lâu mới tàn cuộc được.
Thiếu niên áo chẽn ngẩng đầu nhìn trời:
- Trời tối lắm rồi! Mấy vị lão gia còn làm gì chưa về?
Thiếu niên họ Liễu sẽ đưa tay xoá bàn cờ, nói:
- Ván này đệ nhận thua! Không gỡ được!
Thiếu niên ngồi quay mặt phía bắc, nghiêng đầu nhìn thiếu niên áo dài lam, mà rằng:
- Bạch huynh nóng ruột làm gì? Võ nghệ của gia sư với mấy vị lão tiền bối, vả lại danh vọng của các vị trong làng võ, thiết tưởng chẳng có gì đáng ngại...
Một tiếng cú đêm kêu lên, tiếng vang dội lại, càng thêm ghê rợn.
Thiếu niên áo chẽn thở dài một tiếng:
- A! Đệ nhớ tới một việc! Mai là ngày sinh nhật sư muội của tại hạ. Chồng chưa cưới của nàng từ tận Tĩnh Xuyên đem đồ mừng tới. Gia sư dưới gối chỉ được một mình nàng, cưng như hạt châu trên tay, quyết không để lỡ việc sửa soạn bữa mai. Vậy mà tới giờ còn chưa về! Lạ thật!
Thiếu niên áo xanh ngồi quay mặt phía bắc, hình như bực tức điều gì, đưa mắt nhìn thiếu niên áo chẽn, cười nhạt mà rằng:
- Lệnh sư muội chê chỗ gần, kén chỗ xa... Tỳ bà thuyền ai.
Thiếu niên áo chẽn vội ngắt lời:
- Tống huynh! Xin tự trọng! Việc ấy không thể nói giỡn đùa đâu!
Thiếu niên họ Liễu chép miệng nói:
- Năm trước, tại hạ tới bái phỏng Diệp sư bá, nhân được chiêm ngưỡng ngọc dung của lệnh sư muội. Thực là hoa hờn nguyệt thẹn, đẹp tuyệt nhân hoàn... Chà!
Thiếu niên họ Tống, vốn tính tự nhiên thoát lạc, mỉm cười hỏi:
- Sao? Liễu huynh có vẻ khó quên đi được... hà hà...!
Chàng cười một trận, quay lại nhìn thiếu niên họ Bạch:
- Bạch huynh à! Bọn bốn người chúng ta đây, đã có hai người là kẻ... đau lòng...!
Thiếu niên áo chẽn cau mày, lườm:
- Tống huynh! Ăn nói phải có đức độ một chút! Nếu như đến tai gia sư thì phiền lắm đó!
Thiếu niên họ Tống cười ha hả:
- Diệp sư thúc vốn tánh hào phóng, sai thoát khác tục. Dù có đến tai người, chắc chắn cũng chẳng quở trách đệ.
Thiếu niên họ Liễu lặng ngặt một lúc, cất tiếng:
- Chắc hẳn vị hôn phu của lệnh sư muội phải là một nhân vật có danh tiếng lớn lắm!
Thiếu niên áo sắc lam đột nhiên nói gạt đi:
- Chúng ta ruột gan nào mà cứ lai nhai câu chuyện phiếm ấy! Việc cần kíp trước nhất là việc...
Thiếu niên họ Tống vụt đứng thẳng lên, nói:
- Bạch huynh, có gan hãy lên núi coi xem sự thể... Đệ tình nguyện chịu các vị tiền bối quở phạt.
Thiếu niên áo lam ngẩn mặt ra. Một lúc mới nói:
- Lệnh của gia sư nghiêm hệ vô cùng. Chưa được lệnh, sao dám...
Thiếu niên họ Vạn cười nhạt mà rằng:
- Bạch huynh đã không dám lên núi coi... vậy thì sốt ruột cũng vô ích...!
Thiếu niên áo lam nói:
- Đệ cảm thấy như có điều gì chẳng lành...!
Thiếu niên họ Tống cười hềnh hệch:
- Bạch huynh quá lo xa! Đừng nói là bốn vị lão nhân gia cùng họp ở một nơi! Giả như độc một mình thôi, thử hỏi trong làng võ đương kim, còn kẻ nào dám tới vuốt râu cọp...?
Thiếu niên áo lam sẽ thở dài, yên lặng!
Thiếu niên họ Liễu chợt giơ tay vẫy, hỏi:
- Nghe! Tiếng chi vậy?
Bốn người cùng lặng yên, vểnh tai lên. Quả nhiên có tiếng bì bạch bì bạch từ xa đưa lại.
Thiếu niên áo chẽn cau mày:
- Tiếng vó ngựa trên đường núi?
Thiếu niên áo lam lắc đầu:
- Không đúng...! Không phải..!
Họ Tống nối lời:
- Hoang sơn cùng cốc này, xa đường cái quan, đêm khuya làm gì có tiếng vó ngựa?
Tiếng “bì bạch” mỗi lúc một rõ, chốc lát chỉ còn cách vài trượng.
Thiếu niên áo chẽn có vẻ sốt ruột, nghiêng mình bước ra định xông lại coi, nhưng bị chàng họ Liễu nắm áo giữ lại!
Thiếu niên áo dài sắc lam, vận dụng hết sức mắt ra nhìn chỉ thấy như một đoàn bóng đen từ từ di động trong đêm tối mờ mịt.
Gió thổi ào đi, cành lá cây cỏ như múa lên, chỗ nào cũng có bóng đen lay động với tiếng sột soạt. Chàng vốn tính cẩn thận, chưa nhận rõ ra vật gì nên cứ yên lặng chờ!
Thiếu niên họ Tống hình như nhận ra cái hình bóng đen di động từ từ. Chàng cúi xuống lượm một cục đá.
Tính chàng ngổ ngáo, nhưng trước mặt ba người kia chàng cũng không dám làm liều hấp tấp, vì sợ họ chê cười, bèn cũng chú ý ngầm ngầm chuẩn bị.
“Bì bạch” “lộp độp” tiếng đó lại gần hẳn, mọi người nhìn rõ sự vật!
Một người ăn vận toàn sắc đen, nách chống nạng, men theo con đường nhỏ đi lên. Tiếng “bì bạch” là do chiếc nạng chống xuống đá, phát ra.
Bốn người cùng cảm thấy rằng sự xuất hiện của người chống nạng trên đường núi, đêm tối, có vẻ thần bí, khủng bố...!
Bất luận là ai trong bốn người, giả như một mình mà gặp sự kiện như thế, nhất định là nhảy tới chặn giữ người kia lại, hỏi cho rõ lai lịch. Nay bốn người đứng cả một chỗ, tự nhiên là chẳng ai bảo ai – không nhúch nhích – tám con mắt đều chú vào nhìn người kia, không ai nói năng gì.
Nguyên vì cả bốn người đều là học trò các bậc võ lâm cao thủ, họ giữ phong độ đứng đắn, nhất là trầm tĩnh. Trước sự xuất hiện đột ngột kỳ lạ của người chống nạng, ai cũng giữ tiếng, không nhảy ra tra hỏi làm gì.
Người chống nạng hình như cũng không trông thấy bốn chàng thiếu niên, nên cứ việc “bì bộp” từ từ tiến đi, cũng chẳng ngó nhìn xung quang làm gi. Một lúc tiếng “bì bộp” xa dần, biến thành tiếng “bạch... bạch...” rồi chìm mất vào trong yên lặng.
Thiếu niên có đôi Phán quan bút, chợt thở dài một tiếng:
- Tên thọt cẳng sao đi lẹ vậy...?
Chàng nói với giọng đầy ngờ vực. thiếu nữ áo dài lam cũng nói:
- Liễu huynh nói đúng lắm! Đệ nghe tiếng chiếc nạng chạm xuống đá... có vẻ là nạng bằng thép vậy...?
Thiếu niên họ Tống đưa mắt cho ba người, rồi nói:
-Chư huynh đã nhận ra người kia là tay võ công, với chiếc nạng bằng thép! Tại sao không lên tiếng hỏi và chặn ngay người ta lại?
Thiếu niên áo chẽn, nghiêm nét mặt nói:
- Chẳng lẽ Tống huynh cũng không nhận ra người thọt kia, với cử động từ từ, kỳ thực vẫn có vẻ như vội vã...?
Thiếu niên họ Liễu cũng thêm vào:
- Có thật Tống huynh không nhận ra chiếc gậy nạng của hắn ta bằng thép?
Thiếu niên họ Tống thở dài:
- Cả bốn chúng ta đều cảm thấy sự xuất hiện của người thọt có vẻ quái dị, đều biết chiếc gậy chống của hắn bằng thép, đều cảm giác hắn chẳng phải tay tầm thường – vậy mà cứ đứng ngẩn ra ở đây. Hắn đi xa rồi, còn nói với đuôi làm gì?
Vừa nói tới đây, chợt văng vẳng có tiếng hổn hển, phì phò...
Tiếng đó, có vẻ như trong tình trạng cực nguy cấp, thở hắt ra, đứt nối giữa sự yên tĩnh của rừng núi đêm khuya, thực là thê lương, hãi hùng.
Bốn người đột nhiên trầm lặng trở lại. Do kinh nghiệm vừa qua, mọi người đều ngấm ngầm chuẩn bị, cùng hết sức lắng tai nghe ngóng.
Tiếng thở nặng và gấp, cùng với tiếng chân bước trầm trọng từ xa lại gần.
Rõ ràng là có một vật gì to lớn đương đi tới.
Cách gốc cây bách chỗ bốn người đứng độ một trượng có một con đường tắt, nhỏ hẹp. Không rõ con đường này bắt đầu từ đâu và đi tới đâu. Một cái bóng đen, lớn, đương lù lù tiến lại. Dưới ánh trăng yếu ớt, mọi người nhận ra đó là một con trâu nước.
Trên mình trâu, một đứa con gái nhỏ, tóc bện thành đôi bím buông xuống vai, ngồi ngược chiều, quay mặt về phía đuôi trâu.
Đêm tối mơ hồ, càng không nhận rõ được mặt mũi, đại để chỉ đoán ra rằng đứa con gái cỡ mười ba, mười bốn tuổi.
Lần này, mọi người lại càng kinh ngạc hơn, cũng cảm thấy máu trong người chạy như cuồng, trái tim đập liên hồi.
Thiếu niên áo chẽn họ Vạn vốn tính cấp táp, không thể trấn tĩnh được, bất giác “hừ” một tiếng, đột nhiên rộng bước tiến ra, ngăn lối đi của thiếu nữ.
Chàng nhảy ra, thì cả ba chàng kia hầu như đồng thời cùng vọt theo thành một hành, chặn ngang lối.
Thiếu nữ quay phắt lại. Lúc đó hai bên chỉ cách nhau độ vài thước, sức mắt của bốn người lại sáng tỏ khác thường, nên nhận rõ hình dáng, diện mạo đối phương.
Đôi mắt nàng lớn, tròn thao láo dưới bộ lông mày cao, hơi xếch lên chân mái tóc. Hai bên mái tóc là hai chiếc bím, kết thành cánh bướm có đuôi buông xuống. Đêm tối, tuy không rõ màu da, sắc mặt, nhưng cứ hình dáng cũng ước đoán là một cô bé xinh xắn.
Ngồi trên lưng trâu, hai chân huy động cùng một lúc, nàng đã xoay ngược, ngồi ngay ngắn lại, dáng bộ rất trầm ổn, sẽ sẽ vỗ tay lên sừng trâu một cái. Con trâu ngừng ngay lại. Nàng đưa mắt nhìn mọi người ra vẻ ngạc nhiên, không nói năng gì hết.
Thiếu niên họ Vạn cười nhạt hỏi:
- Con bé con này! Đêm khuya còn cưỡi trâu đi đâu? Không biết sợ hay sao?
Đứa con gái lắc đầu lia lịa, đưa ngón tay bên mặt lên chỉ chỏ vào miệng!
Thiếu niên họ Vạn “a” một tiếng:
- Sao? Té ra câm à?
Con bé nhoẻn miệng cười, phô ra đôi hàm răng trắng nõn, vừa nhỏ vừa đều.
Vẻ mặt con bé tự nhiên, thơ ngây, chẳng ai hiểu là nó có nghe hiểu hay không.
Thiếu niên họ Vạn quay lại nhìn chàng họ Tống, sẽ gọi:
- Tống huynh!
Họ Tống cười tủm tỉm hỏi:
- Gì vậy?
Họ Vạn sẽ nói:
- Con bé này, lai lịch có vẻ khả nghi? Nó từ đâu tới?
Thiếu niên áo lam đưa mắt nhìn xa xa, lạnh lùng nói:
- Hình như nó từ phía núi cao kia tới?
Họ Liễu cũng nói tiếp vào:
- Đường núi chật hẹp, đi chân cũng khó. Nay cưỡi trâu mà đi thông suốt cả dãy núi kỳ khu hiểm trở thế kia...!
Họ Vạn nói:
- Chính vì thế mà đệ có điểm lấy làm ngờ!
Thiếu niên họ Tống cười nhạt, tay mặt lanh như chớp đưa ra chộp, miệng quát lên:
- Ranh con! Dám vờ vịt giở trò bịp bợm với ta.
Bất thần bị họ Tống đưa tay ra chộp, con bé ra vẻ kinh hãi vội ưỡn người về phía sau định tránh.
Nhưng trên lưng trâu chật hẹp, tránh sao thoát, cổ tay nó đã bị họ Tống chộp trúng, tê dại hẳn đi. Họ Tống xách cao nó lên khỏi mình trâu, bất thần buông xuống “huỵch” một tiếng, cát đá bay mù lên.
Bản tâm họ Tống nghĩ rằng khó lòng mà chộp bắt ngay được con bé. Không ngờ vừa ra tay đã tóm được cổ tay nó một cách dễ dàng. Chàng hơi giật mình, thuận tay buông ra, cũng chẳng ngờ rằng nó không gượng nổi, té lộn ngay xuống.
Một lúc sau con bé mới lóp ngóp bò dậy được. Trán nó bị sướt da, máu chảy đỏ lòm. Nhưng hình như nó gan lỳ, không thấy rên la, không thấy nước mắt.
Thiếu niên họ Liễu chợt thở dài:
- Chắc con bé chẳng biết chút võ nghệ nào.
Thiếu niên áo lam, lấy ở bọc một chiếc bình ngọc đưa ra và nói to lên vì sợ nó điếc:
- Thuốc trong bình này chữa thương tích như thần! Cầm lấy, dùng một viên, bóp nhỏ ra, rắc lên vết thương một lần là khỏi.
Con bé cầm lấy chiếc bình, cố sức leo lên lưng trâu, vỗ lên đầu nó một cái. Con trâu thở phì phò từ từ tiến bước.
Tám con mắt cùng nhìn theo. Người và trâu dần dần biến vào trong tối.
Thiếu niên họ Vạn thở dài, nói:
- Con bé! Thực là tai bay vạ gió! Ngã một cái khá đau.
Trong bốn người, chàng là kẻ thô bạo nhất, nhưng cũng là kẻ từ thiện nhất!
Chàng áo lam nói:
- Đệ quyết chẳng tin! Con bé đã từ dãy núi hiểm trở cao vót kia lại, thì dù nó biết võ hay chẳng biết võ, mà hành tung của nó cũng đáng ngờ lắm!
Chàng họ Tống bỗng quát to lên:
- Con ranh con lắm quỷ kế thiệt! Chúng ta lại bị nó bịp rồi!
Họ Liễu ngạc nhiên, hất hàm:
- Nó bịp cái gì chứ?
Họ Tống dậm chân:
- Con oe con ấy... (chàng bỗng im bặt...)
Họ Vạn cười hỏi:
- Con oe ấy sao chứ?
Họ Tống chép miệng:
- Nó... nó lừa chúng ta...
Họ Liễu cũng hỏi:
- Thì nó lừa cái gì chứ?
Họ Tống lại dậm chân:
- Nó khéo che mắt chúng ta. Và lừa... lừa lấy mất của Bạch huynh cả bình thuốc quý.
Họ Vạn nói:
- Bạch huynh tự ý cho nó, để nó rịt vết thương. Sao gọi là nó lừa được. Còn như nói rằng nó che mắt Tống huynh, điều đó cũng khiến ta không hiểu.
Họ Tống lắc đầu, cười nhạt:
- Anh em nghĩ lại coi! Thoạt tiên thấy nó, phải chăng anh em đều có cảm giác rằng nó chẳng phải hạng thường?
Họ Liễu gật đầu:
- Đại để ai cũng cảm thấy như thế?
Họ Tống cười nhạt, nói:
- Liễu huynh chớ ngắt lời nói ngang, cứ để đệ nói nghe xem! (Họ Tống đằng hắng một tiếng, tựa hồ nhắc mọi người chú ý nghe rồi nói tiếp:) Vừa rồi đệ ra một đòn khá nặng. Đừng nói là con ranh mới trên mười tuổi – ngay đến hạng trai tráng khoẻ như trâu, cũng không đương nổi, tất nhiên phải ngất lịm đi. Vậy mà con nhãi ấy tự động trở dậy được, lại leo được lên mình trâu?
Chàng áo lam đột nhiên ngắt ngang lời:
- Hàng năm, cuộc họp của bốn vị tiền bối chưa từng bao giờ quá canh một. Nay canh một qua rồi vẫn chưa về. Đệ muốn lên núi coi xem. Anh em nghĩ sao?
Thiếu niên họ Liễu gật đầu:
- Đệ cũng có ý ấy!
Họ Vạn nói:
- Đệ xin theo!
Họ Tống chậm rãi nói:
- Nếu như Bạch huynh không sợ bị trách phạt, thì đệ cũng xin theo.
Họ Bạch, chàng áo lam nói:
- Dù bị gia sư trách phạt nặng nề, cũng còn hơn là cứ đứng đây mà sốt ruột lo ngại!
Dứt lời, chàng quăng chân chạy đi trước.
Họ Tống, họ Vạn, họ Liễu cùng thi triển khinh công vọt theo.
Bốn cái bóng người bay nhảy trong bóng đêm, theo con đường ngoằn ngoèo ruột dê leo lên vách núi chênh chênh.
Họ đều ra sức thi triển thân pháp, không ai nhường ai đi trước. Mỗi người đều tự phụ ở công phu của mình.
Lên đến đầu ngọn núi cao hàng trăm trượng, người nào người nấy đều mồ hôi đầm đìa. Họ Tống với họ Bạch cùng lên tới đỉnh ngọn đầu tiên, chính ra họ Tống chạy sau, vậy mà lại cùng tới với họ Bạch, đủ thấy khinh công của chàng nhất bọn.
Họ Vạn với họ Liễu tụt lại sau vài ba bước. Bốn người bắt đầu chậm bước, thần sắc đều có vẻ nghiêm trọng, nghe nhìn.
Chỏm núi bất quá rộng chừng trên dưới mười trượng, bốn bề toàn là đá mọc lởm chởm đủ các hình dạng kỳ lạ, vây quanh lại nhưng một bức tường thiên nhiên.
Trong vùng quái thạch gồ ghề có một toà đá lớn vụt nhô lên. Bốn người đều dồn mắt nhìn lên phía trên toà đá ấy.
Dưới ánh sao mờ tỏ ẩn hiện có thể trông thấy xung quanh toà đá lớn ấy có bốn người vận áo bào chia ngồi ở bốn góc. Với sức mắt tuyệt luân của bốn người có thể nhìn rõ ràng sự vật ban đêm. Họ để ý coi không có gì kỳ lạ xảy nên cũng được yên dạ, không sốt ruột như trước nữa.
Chàng họ Tống dừng chân trước tiên, giơ tay chỏ, sẽ nói:
- Gia sư cùng ba vị sư bá, sư thúc hình như đương vận hành nội công. Chúng ta chớ ồn ào, càng không nên leo lên đó. Cứ ở đây canh chừng cho các vị luyện xong công phu.
Họ Vạn cùng họ Liễu cùng gật đầu, thì thầm:
- Tống huynh nói phải lắm!
Duy có họ Bạch, chỉ sẽ cau mày, lặng thinh.
Một trận gió lùa tới, thổi tung bốn bộ râu dài cùng áo bào rộng của bốn ông già lên. Trận gió qua rồi, đâu đấy lại yên lặng dưới ánh sáng thê lương, mờ mờ.
Chàng áo lam họ bỗng thở dài, lẩm nhẩm nói:
- Bốn vị lão nhân gia, nội công vào hạng tinh thâm bậc nhất, có thể lấy tai thay mắt, dùng tay thay cho tai. Tại sao chúng ta leo lên tới đây rồi mà các vị hình như không hay biết?
Họ Vạn gật đầu:
- Bạch huynh nói phải lắm! Gia sư bình sinh rất cưng sư muội, vô luận là có việc gì cần gấp không khi nào không lo về sớm để liệu lý công việc của sư muội ngày mai.
Họ Tống len vào giữa hai người nói góp:
- Trung Nguyên Tứ Quân Tử, sau mỗi lần tụ họp như thế này, thể nào cũng sáng tạo vài đòn lạ cho ra đời. Ba sư huynh đều là người từng được thấy qua hẳn cũng biết là đệ nói đúng... (ngừng một chút, cố ý nói to hơn) Hoặc giả bốn vị lão nhân gia, mới tìm ra được phương pháp nội công gì lạ, lúc này đương tụ tập cả tinh thần để thể nghiệm chăng?
Chàng như cảm thấy có điều gì chẳng lành, cố ý nói to lên làm kinh động bốn ông già đương ngồi trên toà bàn thạch.
Tám con mắt cùng với nhìn lên cao, chỉ mong các vị trên đó hoặc lắc đầu, hoặc vẫy tay ra hiệu là họ hết nghi hoặc.
Nhưng bốn ông già vẫn ngồi yên như cũ, không chút động cựa.
Chàng họ Bạch hình như sốt ruột, không phép nào tự kìm chế lại nữa, sẽ “hừ” một tiếng, gấp bước chạy vọt lên. Phía sau chàng tiếng áo quạt gió phạch phạch 3 người kia cũng vội theo lên. Họ cùng ngừng bước trố mắt ra nhìn. Bốn ông già ngồi xếp bằng tròn, đôi mắt hơi nhắm, tựa hồ như đương vận hành khí huyết, điều hoà hơi thở... Trên bàn đá, rượu với đồ nhắm còn thừa, bừa bãi ra đó.
Bốn chàng thiếu niên đưa mắt cho nhau, cùng quỳ xuống rập đầu lạy, miệng: “Thưa sư phụ!”
Theo lệ, Trung Nguyên Tứ Quân Tử mỗi năm có một cuộc tụ họp, đó là một thịnh sự rất lớn trong võ lâm. Bởi vì sau mỗi lần tụ hội như vậy, tất nhiên bốn người lại sáng nghĩ ra được một vài ngọn quyền cước, binh khí hoặc chưởng pháp, nội công tân kỳ. Có điều rằng cuộc tụ hội của bốn vị Quân tử này đầy vẻ thần bí, nghiêm túc, chẳng những không cho ai tham gia, cả đến tụi học trò cũng không được đi theo.
Để giữ cho cuộc tụ họp cho thực bí mật, kín đáo, mỗi lần họ tụ hội ở một nơi, có khi ở dưới thuyền, có khi trong rừng thẳm, và lần này trên tuốt đỉnh núi.
Cũng chẳng ai rõ vì sao họ lựa chọn ngày này tháng này, chỉ biết rằng mười năm như một, chưa năm nào gián đoạn.
Nhân đó, trên chốn giang hồ đồn đại ra nhiều giả thuyết. Có tin đồn rằng Tứ Quân Tử mượn tiếng là tụ họp để nghiên cứu võ công, thực ra để mưu toan việc gì bí mật. Có thể là theo tình hình làng võ hiện tại, các vị tụ họp là cốt để sáng lập ra một phái chủ yếu ngoài các Đại môn phái hiện hữu.
Người thì đoán rằng họ tiến hành một âm mưu oanh động giang hồ.
Lại cũng có tin loan truyền Tứ Quân Tử ngấm ngầm lãnh đạo các tay lục lâm đại đạo cả vùng Đại giang Nam Bắc và mỗi lần tụ họp mục đích là hoạch định mọi hành động cho bọn lục lâm phải theo trong mỗi năm.
Kỳ thực thì chỉ là lời đồn đại! Ngay đến bọn đệ tử thân cận cũng chẳng hiểu biết gì hết.
Lần này là lần họp thứ mười của Tứ Quân Tử, nơi họp là Bách Trượng Phong trên dãy núi chỗ tiếp giáp của hai tỉnh Triết Giang và An Huy tức là tỉnh Hoãn xưa.
Lại nói chuyện bốn thanh niên họ Tống, Vạn, Bạch, và Liễu tự biết rằng đã phạm vào cấm lệ của sư phụ sau khi leo lên Bách Trượng Phong, nên cùng quỳ cả xuống, miệng kêu “sư phụ” xin chịu quở phạt, trong bụng tin chắc rằng có thể nào sư phụ cũng nổi giận sấm sét và hình phạt hẳn là khốc liệt. Họ quỳ xuống rồi, một lúc sau không thấy động tĩnh bèn ngước mắt nhìn.
Bốn vị lão nhân vẫn ngồi yên như bốn toà bụt mộc, chỉ thấy râu tóc với áo bào lay động trước gió. Mỗi vị sư phụ đều có một mảnh lụa trắng đeo ở trước ngực.
Mảnh lụa trắng cột chặt trên hàng cúc áo nên dù gió to vẫn không chút lay động.
Dưới ánh sao mờ, phảng phất như có hàng chữ viết trên mảnh lụa. Thiếu niên họ Bạch thò tay vào túi lấy ra “ống mồi lửa” giơ lên phất tay một cái. Ánh lửa bừng lên, nhìn vào mảnh lụa thấy hàng chữ rằng:
“Truyền cho đồ đệ là Thiết Sinh: Cái tin thầy đã chết, tạm thời không được loan truyền trong làng võ lâm. Nhân đêm tối, đem xác thầy trở về quê, đình quan tài, đặt ở nơi thư xá sau vườn. Đợi ba tháng sau hãy phát tang.
Chu Thiên Thượng tuyệt bút.”
Nét chữ sương kính đúng là thủ bút của sư phụ.
Mỗi hàng chữ khác nào một nhát gươm đâm vào ruột gan Bạch Thiết Sinh, chàng cất tiếng khóc rống lên.
Một người khóc, ba người kia khóc theo, trong khoảnh khắc, trên đỉnh núi cao, giữa cảnh hoang lương, vang dội lên chỉ có tiếng gào khóc.
Trong bọn, có họ Tống là người sai thoát hiểu việc hơn cả. Khóc một trận rồi, chàng chợt gạt nước mắt, gọi to lên:
- Xin các bạn chớ khóc nữa! Lúc này phải lo sửa soạn mọi việc thì hơn!
Bạch Thiết Sinh tuy ngừng tiếng khóc, nhưng thương tâm đầy uất, nước mắt cứ tuôn ra như suối, không phép cầm lại.
Họ Tống trước hết tới gỡ những mảnh lụa trắng ra, trải ở trên bàn đá, gọi mọi người lại và nói:
-Chư huynh! Hãy nhận kỹ xem chữ viết ở đây có đích xác là nét chữ của các vị sư trưởng mình không?
Bạch Thiết Sinh để ý nhìn, thấy trên bốn mảnh lụa, ngoài trừ đề tên họ cho mỗi người học trò với tên ký của mỗi vị sư trưởng là khác nhau, còn lời lẽ, từng câu từng chữ đều hệt một điệu. Chàng hơi ngờ vực, nghĩ thầm:
- Lẽ nào trước khi chết, các vị sư trưởng còn bàn nhau cả đến cách viết nữa hay sao?
Chợt nghe họ Liễu nói:
- Nét chữ của gia sư, chỉ cần liếc qua là nhận rất được. Chữ này đúng là thủ bút của Người!
Họ Vạn cũng nói:
- Di thư này, đúng là tự tay gia sư viết ra!
Chàng họ Tống đưa mắt nhìn bốn mảnh lụa trắng, trầm ngâm giây phút rồi nói:
- Bạch huynh! Xin nhận kỹ lại. Trong hàng Tứ Quân Tử thìChu sư thúc nổi tiếng về thư pháp với nét bút già dặn có sức, khó ai bắt chước lối được. Bạch huynh nhận kỹ xem, may có tìm ra điều chi lạ. Đệ quyết không tin rằng, trước khi chết các vị còn bàn nhau cách đặt câu, dùng chữ hệt nhau như vậy...!
Lúc này ống dẫn lửa vừa hết mồi, phụt một cái, lửa bùng lên rồi tắt ngấm, đêm tối lại che phủ hết thảy.
Chỉ nghe tiếng Bạch Thiết Sinh thở dài, nói:
- Coi nét chữ đích xác là chữ gia sư rồi. Đệ cùng ý nghĩ như Tống huynh, không tin rằng bốn vị lão nhân gia, tới khi chết, còn ung dung thương lượng cách viết di ngôn giống hệt nhau? Ở trong hẳn là còn có điều gì khác!
Họ Liễu cũng góp ý kiến:
- Coi vậy thì bốn vị sư trưởng hẳn là đã có chuẩn bị sẵn. Trên Bách Trượng Phong làm gì có bút mực, làm gì sẵn lụa trắng?
Họ Vạn gật đầu:
- Liễu huynh nói có lý! Nếu chẳng phải bốn vị lão nhân gia cố ý tự sát, thì trong làng võ nghệ đương kim, ai mà dám động chạm tới các vị...
Bạch Thiết Sinh đưa tay ra vơ lấy một mảnh lụa trên phiến đá, đoạn cất tiếng gọi:
- Văn Quang huynh à!
Chàng họ Tống đương mải miết suy nghĩ, nghe gọi đến tên mình, vội hỏi:
- Việc gì thế! Bạch huynh?
Bạch Thiết Sinh ngửa mặt nhìn trời rồi nói:
- Giờ đã khuya! Nếu theo đúng di ngôn của các vị sư trưởng thì ngay lúc này ta phải làm việc, đưa di hài xuống núi trước khi trời sáng!
Tống Văn Quang quay sang hỏi Liễu sinh:
- Vân Phi huynh có ý kiến gì chăng?
Liễu Vân Phi nói:
- Tiểu đệ rối cả ruột lên, không có ý kiến gì khác. Tống huynh hẳn là có chủ ý, đệ xin theo!
Văn Quang lại nhìn chàng áo chẽn, và hỏi:
- Xung huynh! Thế nào?
Vạn Xung vén tay áo quết nước mắt, nói:
- Di thư đã do các vị lão nhân gia chính tay viết ra, chúng ta là học trò, chỉ việc tuân theo. Theo ý đệ, trước hãy lo đem thi thể các vị sư trưởng về quê quán, sau ra công truy xét nguyên nhân cái chết này!
Văn Quang nhìn mấy mảnh lụa trắng, rồi nói:
- Liễu huynh, Vạn huynh trước hãy thu những mảnh lụa lại, đó là tuyệt mệnh di thư, và là một tài liệu can hệ trong việc điều tra nguyên nhân sau này.
Liễu Vân Phi và Vạn Xung đều lượm lấy mảnh lụa trắng cất vào trong bọc.
Văn Quang nhìn đuôi sao Bắc Đẩu rồi nói:
- Giờ ước chừng canh tư. Còn một canh nữa trời sáng. Theo đệ nghĩ, đợi mờ sáng hãy dời khỏi cũng không muộn.
Vạn Xung lắc đầu:
- Giữa ban ngày, mỗi người vác một cái xác trên vai, đi trên đường cái lớn, thiên hạ chết khiếp cả đi!
Tống Văn Quang giơ tay ra hiệu:
- Xung huynh chớ nóng nảy! Nghe đệ nói hết đã. Bốn vị sư trưởng đột nhiên chết một cách thần bí, để lại tuyệt mệnh thư cũng có vẻ thần bí, thực là không ai có thể ngờ tới. Trước biến cố này, đừng nói là thiếu kinh nghiệm như bọn ta, ngay các tay có định lực và kinh nghiệm tuyệt luân, cũng phải hoang mang quẫn óc. Đệ tuy lòng đau như cắt, nhưng vẫn ức hận về cái chết này quá ư ly kỳ. Hồi tưởng lại vài tháng trước đây, không thấy có một dự liệu nào lạ hết, càng khiến đệ thêm ngờ vực. Nay giữa đêm tối, không tài nào nhận ra chút vết tích gì khác. Thầy chết vẫn y nguyên chỗ như kia, hoặc giả có thể tìm ra dấu vết gì khác nữa chăng. Nếu như di động đi ngay, e rằng phương hại đến việc tra xét vết tích. Cho nên đệ có ý đợi sáng rõ, xem xét cẩn thận lại xem. Sau đó chuyển vận di hài cũng không muộn.
Liễu Vân Phi gật đầu:
- Tống huynh trầm tĩnh suy tính như vậy, thực đáng phục!
Văn Quang quay sang nhìn Vạn Xung rồi nói:
- Còn như việc đem di hài đi, nên như thế nào, đệ đã nghĩ kỹ! Phải chờ Vạn huynh vất vả một phen!
Vạn Xung nói:
- Tống huynh cứ sai bảo! Vất vả cái gì!
Văn Quang nói:
- Xung quanh Bách Trượng Phong đều là núi cao liên miên lấy gì ra để chuyển vận bốn cỗ di hài. Lại còn lo giữ sao cho kín tiếng. Theo như di thư đã dạy, hẳn là có ý nghĩa gì đó. Vậy chỉ còn một cách là phiền Vạn huynh gấp đường trở về núi lao trúc, đem một chiếc xe ngựa nhẹ, có mui che kín, tới đây làm phương tiện di chuyển di hài.
Vân Phi gật đầu khen:
- Ý kiến đó quả nhiên là cao minh!
Văn Quang nói tiếp:
- Đệ ước lượng hành trình thì đêm mai, khoảng canh hai Vạn huynh đã trở về tới chân núi Bách Trượng này!
Vạn Xung đứng phắt lên, nói:
- Không nên chậm trễ! Đệ đi ngay!
Quay mình đi vài bước, chàng bỗng dừng chân quay đầu lại:
- Đệ đi rồi, đối với cái chết của gia sư, không được tự tay điều tra, coi xét lại....?
Văn Quang nói:
- Vạn huynh yên trí! Trong cái chết của bốn vị lão nhân gia dù có khác nhau, cũng chẳng khác mấy chút.Và chúng tôi cứ giữ nguyên như đây, đợi Vạn huynh về mới di chuyển mà!
Vạn Xung giơ tay chào, quay mình tung bước chạy xuống núi.
Trong khi đó Bạch Thiết Sinh ngồi lặng nghĩ. Chàng cố nén bi thương, để ý phân tách tình hình, bụng nghĩ:
- Bốn mảnh lụa vuông vắn hệt nhau. Nhất định là có sự sửa soạn từ trước rồi. Nhưng Tứ Quân Tử ngoài việc mỗi năm một lần tụ tập, ngày thường rất hiếm đi lại với nhau. Xét vậy trừ phi trong lần hội họp năm trước đã có ước hẹn cùng chết và đều dùng lụa trắng viết sẵn tuyệt mệnh thư. Xét ra việc đó vô lý hết sức. Nhưng ngoài cái lý ấy ra, chỉ còn có một lẽ nữa là giữa lúc Tứ Quân Tử tụ họp trên núi, đột nhiên có kẻ dùng võ công hoặc dùng thuật gì khác, cưỡng bách bốn người hạ bút viết vào bốn mảnh lụa do kẻ đó sửa soạn sẵn. Viết song, kẻ kia hạ độc thủ giết cả bốn người đi.
Nghĩ vậy, nhưng rồi chàng lại vội vã bỏ ý nghĩ ấy đi? Chàng luận lý rằng: Đừng nói là võ nghệ của Tứ Quân Tử ít kẻ nào đối địch nổi, dù là một chọi một. Giả như có kẻ nào võ nghệ cao siêu hơn cả bốn vị, thì bốn vị ấy quyết cũng chẳng chịu khoanh tay cho mà giết. Ít nhất cũng phải có một cuộc vật lộn đã. Nay bốn vị cùng ngồi xếp bằng tròn, bộ điệu êm ả như kia, không có di tích gì là kháng cự phản ứng hết. Giả thử như bị đầu độc đi nữa, thì ít nhất cũng phải lăn lộn với dáng điệu khác hẳn.
Chợt nghe Văn Quang thở dài, hỏi:
- Bạch huynh! Có tìm ra được đầu mối gì chăng?
Thiết Sinh lắc đầu, nhăn nhó:
- Trăm đầu ngàn mối! Không biết đâu mà lần gỡ...!
Tống Văn Quang nói:
- Hiện giờ chúng ta đều rối loạn cả óc. Theo đệ, xin hãy gác sự bi thương ra, ngồi lặng yên dưỡng thần đã. Chừng nào tâm thần lắng tĩnh, sẽ tìm xét nguyên nhân!
Bạch Thiết Sinh nói:
- Xin tuỳ ý nhị huynh!
Văn Quang nói:
- Vậy thôi, xin Liễu huynh đứng canh chừng cho Bạch huynh cùng đệ toạ công điều tức. Sau đó đến lượt Liễu huynh toạ công.
Văn Quang ngồi xuống, nhắm mắt nói:
- Bạch huynh hành công ngay đi. Chẳng mấy lúc trời sáng.
Bạch Thiết Sinh nhắm mắt lại, nhưng trong lòng thì lớp lớp sóng nhồi, không sao lắng tâm được.
Tai nghe gió thổi, thông reo, càng nghĩ càng thấy sự thể ly kỳ quái đản, càng như mê lạc trong sương mù vô hướng.
Chàng mở mắt nhìn, thấy Liễu Vân Phi tựa mình chống tay lên má mà ngồi, đương ngó nhìn sao trên trời, còn Văn Quang thì thở ra hít vào rất đều. Chàng vội nhắm mắt lại, điều hoà hơi thở, chợt thấy động tâm, nghĩ rằng:
- Lần này Tứ Quân Tử họp ở đây, các tay võ lâm khó mà biết được. Vậy trừ bốn người học trò chúng ta ra, không còn kẻ thứ năm nào rõ được nơi chốn tụ họp. Nếu bảo rằng Tứ Quân Tử bị kẻ nào ám toán, chỉ trừ một trong bốn người học đã tiết lộ tin tức ra ngoài...?
Nghĩ vậy bụng càng ngờ vực, chàng mở mắt thao láo nhìn vào mặt Tống Văn Quang.
Chợt nghe Văn Quang thở dài, mở bừng mắt rồi nói:
- Đệ suy nghĩ rất kỳ, càng thấy cái chết này khả nghi nhiều lắm!
Thiết Sinh gật đầu:
- Đệ cũng nghĩ vậy.
Văn Quang đưa mắt nhìn Liễu Vân Phi rồi nói:
- Việc tụ họp ở Bạch Trượng Phong này không ai biết tới!
Vân Phi gật đầu:
- Đúng thế...
Thiết Sinh nói luôn:
- Vậy là bọn anh em ta không tránh khỏi được sự hiềm nghi..?
Văn Quang nói:
- Đệ nghĩ hơi khác!
Thiết Sinh hỏi:
- Xin cho biết cao kiến?
Văn Quang hỏi:
- Theo đệ thì ngoài bốn ta ra, còn có kẻ khác cũng rõ việc này?
Thiết Sinh cau mày:
- Việc Tứ Quân Tử mỗi năm một lần tụ họp, thiên hạ võ lâm ai mà chẳng biết! Duy có thời gian với nơi tụ họp thì người ngoài không ai biết nổi. Theo đệ nghĩ thì lần này gia sư tới đây, trừ đệ ra, không ai biết hết. Cho nên nếu nghĩ rằng sự tình tiết lộ, thì đệ là kẻ duy nhất đáng ngờ mà thôi!
Liễu Vân Phi đưa tay lên vỗ vào đầu rồi nói:
- Gia sư cũng vậy! Lần đi này cũng chỉ một mình đệ biết!
Văn Quang nói:
- Về phần gia sư, trừ việc truyền dạy võ công cho đệ, rất ít gặp mặt người lạ. Lần này một tháng trước khi lên đường dự cuộc họp, chưa hề thấy một kẻ lạ nào tới gặp mặt. Ngay như việc đến Bạch Trượng Phong thì cũng tới khi lên đường mới nghe sư phụ nói ra. Như vậy, trừ đệ ra, không ai được rõ hành tung hết!
Liễu Vân Phi nói:
- Trong gia đình Diệp sư thúc, vì người nhiều, lắm miệng. Ngoài Vạn huynh ra còn có cô con gái cưng đã lớn. Nếu quả cái chết của Tứ Quân Tử đúng là bị mưu sát, thì việc tiết lộ thời gian với địa điểm tụ họp, về phía Vạn huynh có thể coi là quan hệ lớn!
Bạch Thiết Sinh nói:
- Theo đệ thì bốn chúng ta, không ai thoát khỏi hiềm nghi!
Văn Quang nói:
- Bạch huynh nói phải lắm!
Liễu Vân Phi cau mày:
- Bạch huynh nói vậy, không khỏi là võ đoán!
Thiết Sinh từ từ đưa mắt nhìn Vân Phi rồi hỏi:
- Liễu huynh có vẻ như trong lòng không yên?
Vân Phi nhảy chồm lên, quát:
- Bạch huynh! Ăn nói phải thận trọng...
Văn Quang vôi can:
- Hai vị chớ tranh chấp! Đợi Vạn huynh trở về, bốn chúng ta đều có lời thề rất độc trước di thể ân sư, để tỏ rõ lòng ngay thẳng....
Bạch Thiết Sinh cười nhạt:
- Thề thốt thì làm gì! Ở đời miệng nói một đằng, bụng nghĩ một nẻo! Giả thử bắt thề năm mười lượt thì cũng vẫn vậy thôi!
Văn Quang hỏi:
- Theo Bạch huynh thì...?
Thiết Sinh đón lời:
- Thì bốn người chúng ta kết nhà cỏ trên Bạch Trượng Phong, suốt đời coi giữ nấm mồ của bốn vị sư phụ. Một thằng trong bọn mà dời khỏi đây, thì ba thằng kia hợp lực lại giết quách đi!
Chàng gằn giọng, nói từng tiếng một, mặt mũi trang nghiêm cả quyết, mỗi lời là một uất hận phát ra từ gan ruột.
Văn Quang và Vân Phi đều ngẩn ra, cùng hỏi:
- Chúng tôi thực không hiểu Bạch huynh nói vậy là ý thế nào? Bên thầy ấp mồ, đó là việc đệ tử tận hiếu đạo với thầy. Nhưng suốt đời ở đây giữ mồ thì được việc gì...?
Thiết Sinh nói:
- Đệ tin chắc cái chết của bốn vị lão nhân là có nguyên do gì khác. Dù là tự tử, thì cũng là do tình thế... bức bách...
Văn Quang gật đầu:
- Trước khi tìm ra nguyên nhân, vô luận Bạch huynh đa nghi thế nào, cũng không thể đoán liều...
Liễu Vân Phi hỏi:
- Nhưng chẳng hay việc này có quan hệ gì đến việc anh em ta phải lưu ở đây để trọn đời giữ mồ?
Bạch Thiết Sinh nói:
- Có quan hệ lắm chứ! Việc bốn vị lão nhân tụ họp nơi đây, ngoài anh em ta ra không ai biết cả! Do đó ta tin rằng nguyên nhân cái chết này, nhất định phải có liên quan đến một người trong bốn anh em ta... (tia mắt lạnh lùng nghiêm lệ của chàng từ từ liếc qua, nhìn hai người kia rồi nói tiếp:)
- Nhưng chúng ta chẳng ai chịu nhận là hung thủ mưu giết ân sư! Ta tin rằng hung thủ đã có thể mưu sát ân sư, tất nhiên là có tác dụng gì đó. Có tác dụng thế tất xong việc là tìm cách xa dời nơi đây ngay. Cho nên, kẻ nào đi khỏi đây trước tiên, tức là kẻ có mưu đồ tác dụng. Dẫu kẻ đó chưa hẳn là chính tay giết người, nhưng cũng là kẻ có đồng mưu hay liên quan với hung thủ. Hãy tóm cổ kẻ ấy trước đã. Tẩn cho một trận đòn là ra manh mối!
Văn Quang và Phi Vân cúi đầu lặng yên. Họ đều nghĩ rằng lời chàng nói kể cũng có lý, nhưng cũng có điều quá đáng, không thể theo được.
Bỗng nghe Thiết Sinh cười vang lên, rồi hỏi:
- Hai vị có vẻ như sợ không dám ở ngọn núi hoang vu này chăng?
Liễu Vân Phi nói:
- Đệ rất kính phục tấm lòng Bạch huynh sùng kính sư trưởng. Nếu như không có cách gì khác tìm ra nguyên nhân câu chuyện này thì chỉ có cách y theo lời Bạch huynh là hơn!
Văn Quang nói:
- Hãy đợi Vạn huynh trở về. Ta sẽ bàn kỹ.... (chàng ngửa mặt nhìn sông Ngân Hà, rồi nói tiếp:) Nay nghĩ lại thì người chống nạng với đứa con gái cưỡi trâu, thực đáng ngờ quá...!
Liễu Vân Phi giậm chân, la:
- Đúng thế! Đệ đuổi theo, tộp cổ chúng đem về...!
Dứt lời, chàng vụt quay mình nhảy vọt đi xa đến ngoài trượng.
Bạch Thiết Sinh cau mày gọi:
- Liễu huynh! Chớ vội...!
Vân Phi quay lại:
- Sao? Anh sợ rằng ta không trở lại... ư?
Thiết Sinh nói:
- Nếu quả thực người chống nạng sắt cùng con bé cưỡi trâu có liên quan đến cái chết của các vị sư gia thì Liễu huynh chẳng tài nào đuổi kịp họ nữa. Nếu họ chỉ là kẻ thường, ngẫu nhiên qua lại, thì dù đuổi kịp, bắt về, có ích gì?
Vân Phi cố cãi:
- Nói vậy có lý lắm! Nhưng hãy cứ hết sức mình thử coi xem, càng không đuổi kịp, càng yên trí rằng hai người đó là có liên can, vậy cũng là có ích cho việc gặp gỡ sau này. Hai vị cứ đợi, trước khi trời sáng rõ, đệ đã có đây!
Tống Văn Quang nói:
- Đệ liệu trước, Liễu huynh đuổi theo, chẳng gặp ma nào hết!
Vân Phi không cãi nữa, quăng chân lên chạy. Chỉ thấy loang loáng vài lần lên xuống, bóng hình đã lẫn vào đêm tối.
Văn Quang đứng lên, đi đi lại lại, đôi mày cau nhìn, đầu óc đương chìm vào suy nghĩ.
Thiết Sinh thì ngồi xếp bằng tròn, ngửa mặt trông trời, âm thầm lặng ngắt. Cái chết của Tứ Quân Tử hiển nhiên đã gieo mối ngờ vực giữa bọn đệ tử!
Văn Quang bỗng ngừng chân, quay lại nói:
- Theo ý Bạch huynh đã xác nhận rằng cái chết này có liên quan đến bốn anh em chúng ta sao?
Thiết Sinh nói:
- Đệ không dưng có đặt điều ra làm chi! Bốn vị lão sư đều giữ bí mật thời gian, nơi họp. Trừ bốn chúng ta ra, ai mà biết được. Vậy chỉ có anh em ta đã hữu ý hay vô tình tiết lộ bí mật ra thôi! (Chàng thở dài, nói thêm:) Nếu như bốn vị ân sư định tự tuyệt mà chết thì cần gì phải lựa chọn nơi đây. Huống chi riêng đệ tin rằng sư phụ của đệ không hề có ý tự tuyệt ấy....!
Văn Quang nói:
- Đúng thế! Danh dự của các vị mỗi ngày mỗi lớn. Không lý gì....
Thiết Sinh nói tiếp:
- Vì thế đệ mới chủ trương cả bốn anh em dựng nhà ở đây. Chưa tìm ra manh mối, không ai được dời khỏi ngọn núi này!
Văn Quang hỏi:
- Nhưng di thư còn đây, đều ra lệnh cho bọn ta chuyển linh cữu về làng, định tang ba tháng. Bạch huynh muốn ở lại chẳng hoá ra trái di mệnh sao?
Thiết Sinh nói:
- Chẳng dấu gì Tống huynh! Đệ rất ngờ vực mấy mảnh di thư ấy! Dù chính do tay các vị viết ra, nhưng đều là thế không đừng được, bị bức bách mà viết!
Văn Quang hỏi:
- Trong bốn anh em ta, Bạch huynh có thể ngờ vực ai nhiều nhất?
Không ngờ Văn Quang hỏi đột ngột như vậy, Bạch Thiết Sinh ngẩn người ra, ngẫm nghĩ một lúc mới nói:
- Bốn anh em ta, ai cũng có thể là hung thủ giết ân sư được hết. Nhưng cứ theo chỗ đệ với chư huynh chơi với nhau lâu năm rồi, thì bất luận là thế nào, trước khi rõ manh mối, đệ chưa dám bàn luận, suy đoán.
Tống Văn Quang nói:
- Cứ theo hành vi công việc mà xét thì Vạn huynh chất phác, vốn ít tâm cơ. Trừ Vạn huynh ra thì Liễu huynh, Bạch huynh với đệ đều là kẻ có cơ trí, láu lỉnh.
Thiết Sinh gật đầu:
- Bình sinh đệ trầm mặc ít nói. Gặp việc là suy xét kỹ. Cho nên cũng đáng chịu nhiều hiềm nghi hơn cả.... (chàng hơi ngừng một chút, nói tiếp:) Tống huynh thì bề ngoài hào phóng, mà trong lòng thì lo lắng đủ điều, được kể là đáng hiềm nghi bậc nhì...!
Văn Quang cười nhạt yên lặng.
Thiết Sinh đưa mắt nhìn bốn cỗ thây ma, rồi nói tiếp:
- Đến như Liễu huynh lúc thì thô lồ, hào hùng, chợt lại cẩn thận từng tý, khó mà xét được tâm tình. Vậy nên ngoại trừ Tống huynh và đệ ra, Liễu huynh là kẻ đáng ngờ nhất...
Văn Quang ngửa mặt cười nhạt mà rằng:
- Lối xét đoán của đệ với Bạch huynh đại để nhiều điểm hơi khác.
Bạch Thiết Sinh hỏi:
- Xin nghe cao luận?
Văn Quang nói:
- Theo đệ xét thì trong bốn người, Liễu huynh là đáng ngờ bậc nhất... (bỗng hạ giọng nói vẻ:) Trước khi nhắc đến người chống nạng với con bé cưỡi trâu, đệ đã nghĩ đến rằng một khi nhắc đến là Liễu huynh hăng hái đuổi theo ngay. Quả nhiên là đúng. Vả lại Bạch huynh từng có lời ngăn lại, Liễu huynh cũng nhất định cứ đi??
Nghe nói vậy, trong lòng Thiết Sinh hơi ngợ tuy trong lúc đó vẫn chưa thực hiểu ý Văn Quang nói vậy là thế nào, bất quá chỉ gật gù đầu làm như bộ lãnh hội điều gì!
Văn Quang đưa mắt nhìn xung quanh một vòng rồi nói:
- Nếu như đệ dự đoán không sai, thì tình cảnh trước mắt...
Đương nói thì bỗng có một tiếng “hú” dài đưa lại làm Văn Quang không nói nữa.
Thiết Sinh đứng phắt lên:
- Tiếng hú của ai?
Văn Quang nói:
- Nghe âm giọng lạ tai hết sức!
Sắc mặt Bạch Thiết Sinh biến đổi hẳn đi. Chàng cau mày lắng tai một lúc lại ngồi xuống. Rõ ràng là trong khoảnh khắc chàng đã lo lắng quá nhiều, cuối cùng chỉ còn cách ngồi đó đợi sự biến đổi.
Văn Quang cười nhạt mà rằng:
- Lấy tĩnh chế động – lấy dài đãi lao – lối đó rất hay!
Nói rồi chàng cũng xếp chân ngồi bằng tròn, từ từ nhắm mắt lại.
Chợt nghe từ dưới chân núi có tiếng trầm trọng, rất mạnh nói:
- Hân hạnh được mời, gấp đường để tới. Nhưng đường đất xa xôi, tới nơi đã khuya. Cũng may là chưa lỡ kỳ hẹn....!
Câu nói tới đây bỗng đứt, rõ ràng là cố ý đợi người phía trên trả lời...!
Bạch Thiết Sinh và Tống Văn Quang nghe nói, cảm thấy như ngực bị người ta đấm, rùng mình lên, sẽ đưa mắt cho nhau, cùng mở miệng định lên tiếng...
... Nhưng vừa sắp lên tiếng, cả hai bỗng vội ghìm giọng kín miệng lại.
Đại khái người ở phía dưới đợi mãi không thấy bên trên trả lời, liền tự động leo lên. Chỉ nghe tiếng chân trầm trọng, một lúc nghe rõ tiếng áo sột soạt.
Bạch Thiết Sinh sẽ hé mi mắt nhìn, thấy một người thân hình cao lớn, bộ râu dài phất phơ trước ngực, ăn vận gọn ghẽ, áo trùm ngoài rất rộng, theo sau là một thiếu niên ăn vận đồ chẽn, đương rộng bước đi tới. Họ như dụng ý làm kinh động mọi người cố tình giậm mạnh bước chân, nghe huỳnh huỵch.
Người cao lớn râu dài đi tới gần chỗ Tứ Quân Tử ngồi, ôm tay quyền lên cao, thi lễ rồi nói:
- Tại hạ là Đồ GiangNam , từ lâu ngưỡng mộ đại danh của các vị, cho nên nhận được thiếp mời, vội cùng thằng cháu tới đây gấp.
Vừa nói tới đó, ông ta chợt nhận thấy ngồi vây quanh sơn thạch có tới sáu người, bèn lại đổi giọng nói:
- Còn hai vị đây quý tính cao danh là gì? Tại hạ xin có lời chào!
Nói xong lại chắp tay vái dài một cái nữa!
Nhưng chỉ nghe tiếng gió núi thổi vào tà áo của họ phần phật, mà không nghe thấy tiếng trả lời.
Tống Văn Quang và Bạch Thiết Sinh tuy nghe ông khách nói rõ ràng từng tiếng, nhưng vẫn làm như người điếc, cứ nhắm mắt ngồi yên, chẳng nói chẳng rằng.
Đồ GiangNam cau đôi mày lại, đằng hắng một tiếng, rồi quay lại bảo người thiếu niên đứng phía sau:
- Hài nhi, Tứ Quân Tử đang vận khí điều tức, ta không nên làm rộn người. Chúng ta đi gấp đường lên đây, thành ra cha cũng thấy hơi mệt, hãy ngồi đây nghỉ một lúc đã.
Nói xong liền thủng thỉnh bước lùi lại chừng hơn một trượng, ngồi xuống xếp chân bằng tròn dưỡng thần.
Người thiếu niên cũng bước tới sát bên cạnh cha ngồi xuống.
Bạch Thiết Sinh tự nhủ thầm: “Quái lạ! Không biết tại sao ông già này lại biết việc bốn vị sư trưởng tụ họp ở đây? Nếu muốn tra nguyên nhân cái chết của bốn vi, thì đây chính là một đầu mối rất tốt.”
Tống Văn Quang sẽ hé mắt nhìn bỗng một cái, rồi thi triển công phu thiên lý truyền âm nói:
- Bạch huynh có biết hai người kia là ai không?
Bạch Thiết Sinh cũng dùng phép thiên lý truyền âm đáp lại:
- Hồi huynh đệ hay đi hầu gia sư, cũng có nghe người nói đến tên Đồ GiangNam một vài lần. Hình như ông ta ở trong Tam Thương Thất trạch, cũng có đôi chút tiếng tăm thì phải. Còn lai lịch của ông ta thế nào, huynh đệ cũng không rõ lắm.
Bạch Thiết Sinh mới nói tới đây, lại nghe thấy dưới chân núi đưa lên một tràng cười dài, kế lại nghe tiếng nói:
- Vị nào chấp sự ở trên núi thế? Tại ha là Cửu Giang Đàm Khiếu Thiên, mong ơn cho triệu nên đến bái yết đây!
Bạch Thiết Sinh giật mình vội hỏi Tống Văn Quang:
- Tống huynh! Thế là cái gì? Việc bốn vị sư trưởng tụ họp ở trên toà núi cao trăm trượng này, có lẽ đã truyền đi khắp giang hồ rồi hay sao?
Tống Văn Quang nói:
- Lạ thật! huynh đệ cũng chịu không sao hiểu nổi!
Kế lại nghe dưới chân núi có một giọng ồm ồm cất lên:
- Đàm huynh vừa đến đấy à?
Đàm Khiếu Thiên nói:
- Tứ Quân Tử gửi thiếp đến mời, huynh đệ đâu dám trái mệnh.
Người có giọng ồm ồm lại cười nói:
- Địa điểm và thời gian tụ hội của Trung Nguyên Tứ Quân Tử xưa nay vẫn giữ rất bí mật, không hiểu tại sao lần này lại gửi thiếp mời chúng ta, tất nhiên phải xảy ra sự gì quan trọng lắm chớ chẳng không!
Đàm Khiếu Thiên nói:
- Rất có thể trong vòng mười năm nay, trong những kỳ tụ họp, Trung Nguyên Tứ Quân Tử đã nghiên cứu sáng chế ra được môn võ công tân kỳ nào, nên muốn mời anh hùng thiên hạ đến chứng kiến chăng?
Người có giọng ồm ồm lại cất tiếng cười ha hả, rồi im không nói gì nữa.
Kế lại nghe thấy tiếng chân đi, rồi hai cái bóng người nhảy lên đỉnh núi.
Bạch Thiết Sinh sẽ hé mắt nhìn, trong bóng đêm lờ mờ chỉ thấy hai người sóng vai cùng đi.
Người phía trái hơi dong dỏng cao, để râu dài, mình mặc áo trường bào, sau lưng có hai món võ khí cài chéo qua nhau, trong bóng tối con hơi lờ mờ nhận thấy chiếc chuôi kiếm động đậy, hơi thò đầu lên khỏi vai bên phải. Còn món võ khí kia thì trông không rõ là vật gì.
Tống Văn Quang lại dùng phép thiên lý truyền âm nói:
- Bạch huynh, ta cứ mặc họ, đừng hỏi gì cả, ngồi yên mà xem đêm nay tất cả có bao nhiều người tìm lên ngọn núi này.
Chỉ thấy hai người mới tới bước lại gần tảng đá lớn chắp tay, rồi người đứng mé bên trái cất tiếng nói:
- Đàm Khiếu Thiên được Tứ Quân Tử rủ lòng yên hạ cố cho gọi, rất lấy làm vinh hạnh, xin đến bái hầu.
Người bên phải thân hình bé nhỏ, nói tiếp:
- Huynh đệ Lỗ Bình ở phủ Tào Châu tỉnh Sơn Đông là một kẻ tiểu tốt vô danh, may được Tứ Quân Tử hạ mình kết giao, thật là vinh hạnh cho tiểu đệ vô cùng.
Hai người báo danh xong, cùng cúi xuống vái một cái thật dài.
Gió đêm lồng lộng, làm cho hơi rượu thịt bốc lên ngào ngạt đưa và mũi hai người, nhưng không nghe thấy tiếng ai đáp lại.
Đàm Khiếu Thiên hơi biến sắc mặt, đứng thẳng người lên đưa mắt nhìn hết Tứ Quân Tử, rồi lại nhìn Tống Văn Quang cười nhạt nói:
- Đại trượng phu có thể giết chớ không thể nhục, các vị đã không có bụng muốn kết giao, thì hà cố gì lại gửi thiếp mời chúng tôi? Trung Nguyên Tứ Quân Tử tuy danh tiếng lừng lẫy một thời, nhưng thiết tưởng cũng không nên quá khinh đời, coi người bằng nửa con mắt như vậy!
Lỗ Bính ngoảnh lại nhìn Đàm Khiếu Thiên rồi nói:
- Đàm huynh, chúng mình bị người ta coi thường như thế, còn mặt mũi nào mà đứng ở đây nữa? Thôi, ta hãy về đi, rồi mọi chuyện sẽ tính sau.
Đồ GiangNam ngồi ở phía xa, lúc này mới lên tiếng:
- Trung Nguyên Tứ Quân Tử còn đang vận khí điều tức, hai vị không nên vội giận, đã đến đây thì hãy ngồi chơi chờ một lúc, có sao!
Đàm Khiếu Thiên nghe tiếng, liền ngẩng lên hỏi:
- À! Đồ huynh cũng đến đấy à?
Đồ GiangNam nói:
- Tôi còn đến sớm hơn hai vị một lúc.
Đàm Khiếu Thiên đăm đăm nhìn vào mặt Bạch Thiết Sinh và Tống Văn Quang rồi nói:
- Lỗ huynh, hai người trẻ tuổi này chắc là đệ tử của Trung Nguyên Tứ Quân Tử?
Lỗ Bình ho khan vài tiếng, rồi nói:
- Theo chỗ tiểu đệ biết, thì Tứ Quân Tử mỗi người đều có một đệ tử y bát, nhưng thật chưa trông thấy bao giờ.
Đàm Khiếu Thiên nói:
- Chẳng lẽ cả bọn họ cũng nhập định nốt hay sao?
Nghe giọng nói của ông ta vẫn đượm vẻ cáu kỉnh tức bực, chợt nghe phía sau nổi lên một giọng nói lạnh như băng:
- Các vị nếu không có hứng thú dự thịnh hội của Tứ Quân Tử mời, thì cứ việc về đi, hà tất phải đứng đây so kè bẻ măng, lại tỏ ra người nhỏ nhen, hẹp lượng.
Đàm Khiếu Thiên nổi giận nói:
- Ai thế? Ăn nói...
Vừa quay đầu lại nhìn, bất giác im bặt, không thốt ra được câu nào nữa.
Lỗ Bình liếc mắt nhìn qua người vừa tới, rồi cũng lẳng lặng cúi đầu, không nói gì hết.
Người vừa tới không biết đã bước đến bên hai người từ lúc nào, sau tuyệt không hề nghe thấy một tiếng động nhỏ.
Đàm Khiếu Thiên ngẩn người ra một lúc, rồi chắp tay cười hỏi:
- Ngôn huynh đã đến từ sớm phải không?
Người này cười một cách lạnh nhạt rồi nói:
- Đến sau hai vị một lúc.
Bạch Thiết Sinh nghe giọng lưỡi Đàm Khiếu Thiên tự nhiên đổi hẳn, biết người mới tới, tất phải là một vị cao nhân, bèn hé mắt ra nhìn, chỉ thấy người ấy thân thể vừa cao vừa gầy, mình mặc áo dài đen, vì đứng cách đấy tới bảy, tám thước, đêm tối tuy không trông rõ diện mạo, nhưng chỉ ngắm cái dáng điệu thần tình của ông ta, cũng đủ làm cho người ta cảm thấy rờn rợn.
Người đứng chết sững ở bên cạnh là Lỗ Bình. Lúc ấy, chợt cũng chắp tay thi lễ, hỏi rằng:
- Đại gia có phải vị Đương gia chưởng môn nhân của nhà họ Ngôn ở Thần Châu, quý danh là Ngôn Phượng Cương không?
Người mặc áo đen không đợi Lỗ Bình dứt lời, lập tức lạnh lùng đáp:
- Phải, tại hạ chính là Ngôn Phượng Cương.
Lỗ Bình vội nói:
- Huynh đệ vẫn ngưỡng mộ đại danh đã lâu.
Ngôn Phượng Cương thốt nhiên bước tới một bên, ngồi xuống xếp bằng tròn lại. Thấy ông ta đã ngồi, Đàm Khiếu Thiên và Lỗ Bình cũng phải bước theo, bắt chước cùng ngồi một lượt.
Chưởng môn nhân Ngôn nha môn đất Thần Châu, địa vị và danh vọng không kém gì Trung Nguyên Tứ Quân Tử. Việc ông thân hành tới đỉnh ngọn núi cao trăm trượng này không những ra ngoài ý liệu của bọn Đàm Khiếu Thiên và Lỗ Bình, cả đến Bạch Thiết Sinh và Tống Văn Quang cũng phải lấy làm sửng sốt, không hiểu đầu đuôi ra sao.
Trên đỉnh núi hoang vu lúc này lại khôi phục được cái vẻ u tĩnh của lúc bình thường. Luồng gió ban đêm ào ào từng trận điểm xuyết cho cảnh sắc thê lương càng tăng thêm phần tịch mịch.
Trong khi ấy, một bóng người nhanh như tên bắn, từ xa bay lại, tiếng gió thổi vào vạt áo phần phật, phá tan cảnh trầm tịch của canh khuya.
Người này dừng chân trên một mỏm đá, đưa mắt nhìn cảnh vật xung quanh, rồi chẳng nói chẳng rằng, lui ra một bên, ngồi xuống.
Bạch Thiết Sinh sợ lộ hình tích, không dám hé mắt nhìn, chàng biết là trên đỉnh núi lại mới có thêm một người nữa, nhưng không biết người ấy là ai.
Thời gian trôi qua trong cái khng cảnh ly kỳ huyền ảo đó. Bầu trời đã dần dần sáng.
Ở trong hoàn cảnh ấy, Tống Văn Quang và Bạch Thiết Sinh không thể ngẩng lên trông trời được, nhưng cũng đoán chắc là lúc này đã vào khoảng canh năm.
Trước khi bình minh, bao giờ cũng phải tối sầm lại một lúc, sắc trời tự nhiên đen như mực, gió đêm cũng theo đó mà thổi mạnh hơn, trên đỉnh núi cao tiết trời lại càng lạnh dữ.
Thật là một hoàn cảnh đầy vẻ bí mật, khủng khiếp, bảy tám vị võ lâm cao thủ, nín thở ngồi vây xung quanh bốn cái xác chết mà không biết.
Sau một thời gian ngắn, bóng tối qua đi, sắc trời lại dần dần hửng sáng, phía đông đã hiện lên một màu nhờ nhờ như ruột cá.
Liễu Vân Phi xuống núi đuổi theo người què chống nạng và cô bé cưỡi trâu, vẫn chưa thấy trở về.
Trong bọn người ngồi vây quanh xác chết đó, mỗi người đều có một cảm tưởng khác nhau nhưng chỉ có Bạch Thiết Sinh và Tống Văn Quang là khó chịu nhất. Trước mắt họ đều là những tay cao thủ đệ nhất giang hồ, cùng trong một lúc cùng chạy tới Bách Trượng Phong, thật không ai hiểu dụng tâm chân chính của họ ở chỗ nào? Hai người hết đau đớn lại buồn rầu, hết buồn rầu lại chuyển thành lo lắng.
Tuy họ lo lắng sốt ruột vô cùng, muốn mở miệng bàn tính với nhau, nhưng lại không dám.
Chợt nghe Ngôn Phượng Cương ho mạnh một tiếng rồi nói:
- Trời sáng rồi!
Giọng nói của ông ta vừa nặng nề, vừa lạnh lẽo, lại chỉ ngắn ngủi có ngần ấy tiếng, khiến không ai đoán được ý ông ta muốn nói gì, nên không ai tiếp lời.
Thốt nhiên, một tiếng niệm Phật oang oang từ dưới một chân núi truyền lên, trong ánh sáng rạng động, chỉ thấy một vị hoà thượng mặc áo xám, vai vác thiền trượng, phơi phới đi lên.
Trừ Trung Nguyên Tứ Quân Tử và Tống Văn Quang, Bạch Thiết Sinh ra, còn các người khác đều bị giật mình vì tiếng niệm Phật oang oang đó. Họ cùng mở choàng mắt ra nhìn vị hoà thượng mới tới.
Chỉ thấy tà áo tăng bào gió bay phấp phới, trên môi hoà thượng vẫn điểm một nụ cười, ung dung bước đến bên tảng bàn thạch, một tay đặt trước ngực, khom mình nói với bốn vị Trung Nguyên Tứ Quân Tử đang ngồi xếp bằng tròn nhập định:
- Tệ Chưởng môn vì đang thời kỳ bế quan, không thể thân hành đến ứng triệu được, nên phái bần tăng tới đây đại diện.
Một luồng gió ban mai lồng lộng ùa tới, làm cho những tà áo và mấy chòm râu của bốn vị quân tử đều tung bay phấp phới nhưng bốn vị vẫn ngồi im, chẳng nói chẳng rằng, cả đến rèm mắt cũng không buồn mấp máy.
Vị tăng nhân áo xám độ lượng thật rộng rãi, khoan hồng, thấy thế chỉ cười, quay lại nhìn mấy người đang ngồi xếp bằng tĩnh toạ bên cạnh hỏi:
- Các vị đến sớm quá nhỉ?
Ngôn Phượng Cương cười nhạt một tiếng, rồi nói:
- Lão thiền sư nhã lượng quá nhân, huynh đệ thật hết sức bội phục!
Khôi bào tăng nhân cười nói:
- Trung Nguyên Tứ Quân Tử danh trọng nhất thời, bần tăng dẫu bị khuất nhục một chút cũng không sao. Kẻ xuất gia đã trừ diệt tính nóng từ lâu. Ngôn chưởng môn có nói khích, cũng không làm cho bần tăng tức giận đâu mà!
Giọng nói của ông ta tuy vẫn uyển chuyển ôn hoà, nhưng ý câu nói đã lộ vẻ bất mãn.
Chợt lại nghe thấy một giọng giận dữ nổi lên:
- Trung Nguyên Tứ Quân Tử danh giá tuy lớn, nhưng cũng không thể khinh người như rác thế được!
Quần hào ngoảnh lại chỉ thấy một người mặc áo xanh đang xăn áo xăm xăm bước tới.
Người này tuổi chỉ chừng trên dưới hai mươi, mày thanh mắt sáng, mặt trắng môi son, thần thái cực kỳ phong lưu tiêu sái, tay cầm chiếc quạt, bước thẳng đến phía Tứ Quân Tử ngồi.
Quần hùng trên đỉnh núi, ai cũng bất mãn về thái độ lạnh lùng vô lễ của Trung Nguyên Tứ Quân Tử, nhưng lại khiếp vì uy danh của họ, nên đều không muốn đứng lên trách hoi trước nay. Bỗng dưng có người phát tác hộ thì còn gì hơn. Nên mặc cho chàng thiếu niên muốn làm gì thì làm, tuyệt không một ai ngăn trở.
Bạch Thiết Sinh và Tống Văn Quang nghe bước chân mỗi lúc một tiến lại gần bốn vị sư trưởng ngồi, bất giác sợ cuống lên, cùng mở choàng mắt ra nhìn.
Chỉ thấy một thanh niên văn sĩ đã bước tới gần hòn cổ thạch, rồi giơ chiếc quạt lên điểm vào mình một vị quân tử.
Tống Văn Quang thốt nhiên vùng đứng dậy, quát lên một tiếng:
- Dừng tay lại!
Tiếng quát chưa dứt, người đã đứng chắn ngang trước mặt chàng thiếu niên văn sĩ.
Thì ra người bị chàng thiếu niên điểm đó, chính là sư phụ của Tống Văn Quang, vì thế nên hắn càng lo sợ hơn Bạch Thiết Sinh, quên cả việc giả vờ tĩnh toạ.
Chàng thiếu niên áo xanh cười nhạt một tiếng mà rằng:
- Thì ra trong bọn ngươi vẫn còn có một người sống!
Tống Văn Quang giận dữ thét lên:
- Ngươi mở mồm ra là rủa xả người khác, dụng ý muốn gì?
Rồi lập tức giơ quyền đánh ra, nhưng quyền chưa chạm tới đối phương, lại chợt cảm thấy không ổn, bèn rụt vội tay về, bước lùi lại hai bước.
Chàng thiếu niên chỉ lẳng lặng đứng yên, nhưng đôi mắt sáng như điện vẫn đăm đăm nhìn vào mặt Tống Văn Quang.
Ngôn Phượng Cương chợt đứng lên bước đến gần, đưa mắt nhìn qua Tứ Quân Tử một lượt, rồi lạnh lùng nói:
- Bốn vị gửi thiếp mời, hẹn chúng tôi đi gấp đến đây, mà sao lại khinh thường khách quá vậy? Có lẽ các vị cố ý làm trò đùa...
Vừa nói tới đấy, chợt ho khan một tiếng rồi ngừng bặt không nói nữa.
Thì ra ông ta vừa nhận thấy Trung Nguyên Tứ Quân Tử người nào sắc mặt cũng trắng bệch như da người chết đã được mấy ngày, trong bụng lập tức cảm thấy tình thế có vẻ bất ổn.
Tống Văn Quang chợt chắp tay nói:
- Các vị sư trưởng tôi xưa nay tụ hội ở đâu, thường vẫn giấu không cho ai biết, không hiểu vì cớ gì mà các vị lại tìm đến đây?
Ngôn Phượng Cương đôi mắt vẫn chăm chú nhìn vào mặt Tứ Quân Tử, hình như không nghe thấy câu hỏi của Tống Văn Quang.
Vị thanh niên văn sĩ hình như cũng nhận thấy tình hình khác lạ, nên chỉ cau mày suy nghĩ, không nói gì cả.
Chợt lại nghe thấy một giọng oang oang cất lên:
- Nếu Tứ Quân Tử không phí thiếp mời, thì bọn ta cũng không tự nhiên đến đây quấy nhiễu, để mua lấy chuyện bực mình.
Người nói câu ấy chính là Đàm Khiếu Thiên, ông ta vừa nói vừa thủng thỉnh đi tới.
Tống Văn Quang trong bụng càng lo, tự biết những người này toàn là tay lão luyện giang hồ, nếu để họ đến gần các vị sư trưởng thì thế nào họ cũng nhận ngay ra là Trung Nguyên Tứ Quân Tử đều đã tắt thở, nhưng muốn ngăn trở thì lại không ngăn nổi, trong lúc thảng thốt, không biết tính thế nào, chỉ toát mồ hôi ra như tắm.
Đột nhiên Ngôn Phượng Cương hét vang lên như sấm:
- Diệp huynh, lệnh nữ không cùng đi với anh ư?
Mấy câu nói của ông ta vang vang như tiếng sấm, dẫu người đứng cách xa tới năm, ba trăm trượng cũng nghe thấy rõ ràng, vậy mà Trung Nguyên Tứ Quân Tử vẫn hình như không nghe tiếng.
Đàm Khiếu Thiên sẽ nói:
- Ngôn chưởng môn.
Ngôn Phượng Cương quay lại hỏi:
- Cái gì thế?
Đàm Khiếu Thiên đáp:
- Những người đến dự hội hôm nay chỉ có Ngôn huynh là danh tiếng lừng lẫy nhất, địa vị cũng cao nhất.
Anh chàng thiếu niên văn sĩ đã lâu không nói câu nào. Lúc này mới cười khẩy một tiếng, chửi liền:
- Đồ vô dụng!
Đàm Khiếu Thiên chợt cảm thấy hai tai nóng bừng, huyết khí bốc lên ngùn ngụt, rảo bước đến trước mặt chàng thiếu niên, sừng sộ hỏi:
- Thằng bé này giỏi, mày mắng ai thế?
Chàng thanh niên ngửng mặt lên trông trời, không thèm nhìn Đàm Khiếu Thiên, chỉ lạnh lùng nói:
- Ta thích chửi ai thì chửi người ấy, ngươi hỏi làm gì?
Thái độ lạnh lùng của chàng thanh niên còn hàm chứa một khí thế đủ làm cho người ta phải e dè sợ sệt, nên Đàm Khiếu Thiên vừa hầm hầm xông đến, trừng mắt nhìn chàng, rồi thốt nhiên lại bước lùi trở lại.
Ngôn Phượng Cương đôi mắt đang nửa nhắm nửa mở, chợt mở bừng lên, phóng ra hai luồng nhỡn quang sáng loáng như điện, lạnh lùng nhìn chàng thiếu niên một lượt, rồi lại nhìn thẳng vào mặt Tống Văn Quang, hỏi bằng một giọng lãnh đạm:
- Lão phu và Trung Nguyên Tứ Quân Tử chơi với nhau đã mấy chục năm nay chẳng lẽ các ngươi không nghe lệnh sư nói đến bao giờ ư?
Tống Văn Quang đáp:
- Cháu đã được nghe đại danh lão tiền bối từ lâu, chỉ vì vô duyên chưa được bái kiến, hôm nay tình cờ được gặp, vãn bối rất lấy làm hân hạnh.
Ngôn Phượng Cương ngoảnh lại nhìn quần hùng một lượt rồi nói tiếp:
- Không biết tại sao bốn vị lệnh sư trưởng lại gửi thiếp mời anh hùng thiên hạ đến đây họp mặt?
Ông ngừng một lát, lại thủng thỉnh nói:
- Cuộc hội họp của Trung Nguyên Tứ Quân Tử xưa nay vẫn hết sức bí mật, điều ấy khắp giang hồ không ai là không biết. Ngay cả tại hạ đối với bốn vị, giao tình không phải tầm thường, vậy mà cũng không biết mỗi năm một lần, các vị họp nhau ở đâu. Vậy nên khi thiếp mời, tại hạ vừa kinh ngạc vừa sung sướng vội vã đi gấp ngày đêm lên đây...
Nói đến đấy, ông ta chợt ngửa cổ lên trời cười ha hả một hồi, rồi lại tiếp:
- Ta tưởng các vị đến dự hội hôm nay, phần đông đều cùng một tâm trạng giống như lão phu. Ai ngờ lệnh sư gửi thiếp mời người ta lên họp ở trên một toà núi cao trăm trượng này, rồi chỉ mải ngồi điều tức, không thèm đếm xỉa gì đến khách! Hừ, đã thế lại còn phong bế cả huyệt mạch, đoạn tuyệt cả hơi thở! Hà hà! Cái trò này kể cũng hơi thái quá đấy! Lão phu với Trung Nguyên Tứ Quân Tử giao tình thâm hậu, không nói làm gì, nhưng còn người khác, chỉ e họ không kham nổi!
Ông ta nói bằng một giọng hách dịch, phách lối, tựa như không còn ai hơn mình nữa.
Anh chàng thiếu niên văn sĩ có thái độ lạnh lùng cao ngạo, lúc ấy chợt cất tiếng hỏi xen:
- Nhưng người ông chỉ đó, không phải là nói gồm cả tôi...
Ngôn Phượng Cương đôi mắt lại long lanh sáng quắc, lạnh lùng hỏi:
- Ngươi có biết ta là ai không?
Chàng văn sĩ nói:
- Trong con mắt tôi thì dù đương kim hoàng đế hay kẻ thứ dân cũng chẳng khác gì nhau!
Ngôn Phượng Cương giận lắm, cười nhạt một tiếng rồi nói:
- Ngươi mới một nhúm tuổi đầu, không đáng nói chuyện với lão phu. Ngươi là môn hạ của ai, mau nói tên ra, ta sẽ tìm lệnh sư tính toán.
Thanh niên văn sĩ cầm chiếc quạt xua xua, cười nói:
- Gia sư còn ở tận chân trời. Tìm tôi cũng thế!
Ngôn Phượng Cương giận đến tái xanh cả mặt, giậm chân xuống tảng sơn thạch, rên lên:
- Hỏng, hỏng! Nếu bữa nay ta không cho mày một bài học thì Ngôn gia môn mặt nào còn đứng được ở chốn giang hồ?
Trong khi nói, ông ta đã ngầm tụ sẵn công lực.
Chàng thanh niên không quay đầu lại, cũng không biết rằng Ngôn Phượng Cương rất có thể giận quá nổi xung lên đánh mình được, và hình như cũng không để ý gì đến câu chuyện ấy nữa.
Chỉ thấy chàng vung chiếc quạt lên trỏ một cái, rồi nói:
- Hôm nay đông ghê! Lại có người đến nữa kia!
Ngôn Phượng Cương vừa định xúc thế phóng ra, nghe chàng nói vậy, bèn dừng lại, ngẩng đầu lên trông xem ai.
Thì ra quả có một bọn ba người, hai vị trung niên đạo nhân và một ông già râu bạc dài tới đầu gối, tay chống gậy, đang sóng vai đi tới.
Ba người vừa xuất hiện, làm cho quần hào ngồi trên đỉnh núi đều giật mình kinh ngạc, cuộc phân tranh vừa rồi cũng vì thế mà lắng hẳn.
Cặp mắt quần chúng đều đổ dồn cả vào ba người mới tới, duy có chàng thanh niên văn sĩ vẫn thản nhiên như không trông thấy, chỉ ngửa mặt lên nhìn trời.
Tống Văn Quang vừa thấy ba người ung dung đi tới, đã biết ngay rằng, cái chết của Trung Nguyên Tứ Quân Tử không thể còn giấu ai được nữa.
Ngôn Phượng Cương từ lúc thấy ba người lên núi, cái vẻ cao ngạo ngông nghênh cũng lập tức tiêu tan mất cả.
Bạch Thiết Sinh thấy người đến mỗi lúc một nhiều, mà trời vẫn chưa sáng rõ, cứ xem tình hình này thì không biết chừng hôm nay còn bao nhiêu người lên Bách Trượng Phong nữa!
Cục thế biến đổi hoàn toàn ra ngoài ý liệu, Bạch Thiết Sinh trong bụng bối rối, không biết tính cách nào, bèn từ từ đứng dậy!
Lại thấy chàng văn sĩ áo xanh cất giọng sang sảng nói:
- Lại hãy còn người nín thở giả chết nữa à?
Ngôn Phượng Cương quay lại lườm chàng thanh niên một cái, rồi sẽ hỏi nhỏ Tống Văn Quang:
- Người ấy là ai thế?
Tống Văn Quang đáp:
- Vãn bối chưa từng gặp hắn bao giờ!
Trong khi hai người thì thầm nói chuyện thì ông già râu dài và hai đạo sĩ đã đi đến gần hòn giả thạch:
Ông già râu dài đảo mắt nhìn khắp hình thế xung quanh, rồi hỏi:
- Ở đây vừa có chuyện gì xảy ra, các vị đến toà cô phong hẻo lánh này làm gì thế?
Ngôn Phượng Cương chắp tay nói:
- Lâu lắm không được gặp Thượng huynh, không ngờ bữa nay may mắn lại...
Ông ta chợt nhân thấy câu nói của mình không ăn nhập gì với câu hỏi, liền ngừng một lúc, rồi nói tiếp:
- Huynh đệ tiếp được phi thiếp của Trung Nguyên Tứ Quân Tử liên danh, mời dự cuộc họp, nên vội đi gấp lại đây.
Quần hào cũng đồng thanh nói tiếp:
- Chúng tôi cũng tiếp được thiếp mời, nên mới tới đầy phó ước.
Ông già tay phải lên vuốt chòm râu, rồi tiếp:
- Trung Nguyên Tứ Quân Tử xưa nay hội họp ở đâu, thường vẫn giấu kín, không biết lần này tại sao lại làm trái hẳn thường lệ, phí thiếp mời các vị tới đỉnh núi này để làm gì?
Ngôn Phượng Cương nói:
- Đó chính là chỗ mà bọn tiểu đệ không sao hiểu nổi!
Tống Văn Quang chợt chạy đến bên Bạch Thiết Sinh, ghé tai nói sẽ:
- Bạch huynh, cứ xem tình hình này thi không khéo việc bốn lão nhân tạ thế, đã bị người ta biết cả rồi...
Chàng ngừng lại một giây, rồi lại tiếp:
- Ngần này người thiên nam địa bắc, mỗi người ở một phương, sao lại đồng thời cùng nhận được thiếp mời của bốn vị lão nhân gia, thật là ly kỳ khó hiểu!
Bạch Thiết Sinh nói:
- Tống huynh định tuyên bố cái chết của bốn vị sư trưởng ra cho mọi người cùng biết hay sao?
Tống Văn Quang nói:
- Mình không tuyên bố, chỉ sợ khó lòng che nổi mắt người ta!
Bạch Thiết Sinh nói:
- Nếu làm thế chẳng hoá ra trái với ý của bốn vị lão nhân đã dặn trong di thư sao?
Tống Văn Quang nói:
- Tình thế này còn làm sao mà nghĩ đến điều ấy được nữa?
Chợt lại nghe tiếng ông già râu dài nói:
- Việc này lão phu không sao có thể tin được...
Ông thò tay phải vào bọc lấy rất một phong bạch giản rồi lại tiếp:
- Các vị hãy lấy phong thiếp mời của Tứ Quân Tử ra đây, kiểm soát lại xem nào.
Hình như ông ta không tin rằng tất cả ngần này người lại cùng nhận được thiếp mời một lúc như thế.
Quần hào nghe xong, ai cũng thò tay vào bọc lấy phong giản thiếp ra, chỉ có chàng thiếu niên văn sĩ là vẫn đứng im không nhúc nhích, hình như không nghe thấy gì cả.
Ông già râu bạc xem xong ngần ấy phong bạch giản, lại nhướng cao đôi mày rậm, lẩm bẩm nói một mình:
- Quái lạ! Lạ thật! Thế này là nghĩa lý gì?
Bạch Thiết Sinh thấy tất cả quần hào đều lấy ra phong thiếp mời có chữ ký của Tứ Quân Tử, trong bụng lại càng mê hoặc, bất giác thở dài một tiếng, nói với Tống Văn Quang:
- Tống huynh, tình thế này quả không thể sao giấu được hung tin của bốn vị lão nhân gia, nếu để họ tự phát giác thì thà mình tuyên bố trước còn hơn!
Tống Văn Quang hỏi:
- Bạch huynh đồng ý chứ?
Đoạn chàng bước đến bên tảng sơn thạch, vòng tay nói với mọi người:
- Thưa các vi lão tiền bối, tại hạ có lời chào các vị.
Quần hào có mặt tại trường đều linh cảm thấy chàng sắp tuyên bố điều gì hết sức quan trọng, nên đều nín im thin thít, bao nhiêu cặp mắt đều đổ dồn vào Tống Văn Quang, lắng tai nghe chàng nói:
Tống Văn Quang vẻ mặt trang nghiêm, bằng một giọng đau đớn, nói:
-Chư vị lão tiền bối đều là những người có địa vị rất cao trong giới võ lâm đương thời, không quản xa xôi lặn lội tới đây phó ước, vãn bối rất lấy làm cảm tạ.
Chàng nói đến đây thốt nhiên không kìm nổi hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi.
Ông già râu dài ho khan một tiếng rồi nói:
- Bé con, thôi đừng khóc nữa, mau nói cho chúng ta nghe, Trung Nguyên Tứ Quân Tử gặp biến cố gì vậy?
Tống Văn Quang buồn bã nói:
- Gia sư và ba vị sư trưởng đều bị ngộ hại cả...
Việc này tuy đã ở trong ý liệu của mọi người, nhưng khi nghe Tống Văn Quang nói ra, quần hào vẫn cảm thấy xúc động, bàng hoàng.
Đỉnh núi cao vắng vẻ, đột nhiên như bị bao trùm bởi một đám mây đen thảm thê u ám, sắc mặt người nào cũng tỏ vẻ đau đớn ngậm ngùi.
Ta nên biết rằng Trung Nguyên Tứ Quân Tử ở trong giới võ lâm đều có một địa vị rất cao, danh tiếng lẫy lừng. Bốn người chơi với nhau rất thân, nghĩa đồng sinh tử, nay thốt nhiên bị người ám hại cả bốn, thật là một vụ án rất lớn, đủ làm chấn động nhân tâm giới giang hồ.
Một bầu không khí tịch mịch thê lương kéo dài tới chừng nguội một chén nước trà, chàng thanh niên văn sĩ thốt nhiên thở dài một tiếng mà rằng:
- Sóng gió nổi hề! Tai ương đã dấy...
Thốt nhiên chàng quay ngoắt mình, rảo bước đi ngay.
Ngôn Phượng Cương quát to:
- Đứng lại!
Rồi nhanh như cắt, bàn tay vươn ra, nắm lấy bả vai chàng thanh niên.
Chàng thanh niên làm như không nghe thấy tiếng quát, đầu cũng không buồn quay lại, hai chân bước thật nhanh, nhẹ nhàng tránh khỏi hai thế của đối phương.
Động tác của chàng cực kỳ nhanh nhẹn, vừa tránh thoát cái nắm của Ngôn Phượng Cương, người đã cách xa tới bảy, tám thước.
Đàm Khiếu Thiên đạp mạnh hai chân xuống đất, thân hình bay vụt lên, vòng ra phía trước, chắn ngang trước mặt chàng thanh niên.
Thanh niên không buồn liếc mắt nhìn, chỉ hơi vươn lưng một cái, thân hình chợt xông thẳng về phía trước, vừa vặn tránh khỏi cái thế của Đàm Khiếu Thiên.
Trên đỉnh núi chợt nổi lên những tiếng xôn xao, hành động kỳ dị của chàng thanh niên, hình như đã làm cho mọi người coi như cừu địch, chỉ thấy bóng người thoang thoáng, áo quần phấp phới, ùa ra đuổi theo.
Chàng thanh niên thốt nhiên quay lại, lạnh lùng hỏi:
- Các người muốn đánh nhau hả?
Diện mạo, thần thái của chàng tuy tuấn tú văn nhã, nhưng trong hai con mắt sáng như điện còn ẩn một luồng sát khí kinh người. Chàng vừa quay lại hỏi, quần hào đều lập tức dừng lại, trong phút chốc không một ai lên tiếng.
Ước chừng nguội một chén trà, ông già râu bạc mới gõ đầu gậy xuống đất, nói với mọi người:
- Hắn đã có thiệp mời tất nhiên phải có giao tình với Tứ Quân Tử. Vậy thì cùng là bạn đồng đạo cả, chúng ta không nên lỗ mãng!
Ông ta tuổi cao đức trọng, thanh danh vũ học đều vượt cả mọi người, nên khi thấy ông đứng ra can thiệp, quần hào đều lẳng lặng, không ai nói gì nữa.
Chàng thanh niên cất cao giọng nói:
- Lão tiền bối đoán sai rồi, tại hạ không được hân hạnh quen biết Trung Nguyên Tứ Quân Tử. Hôm nay tới đây chỉ là một sự tình cờ mà thôi!
Ông già đôi mắt long lanh, hình như cũng bị chàng văn sĩ áo xanh chọc tức, nhưng chỉ trong thoáng chốc, ông lấy lại được sắc mặt hoà nhã, mỉm cười một cách nhạt nhẽo:
- Những hạng thanh niên, tính nết hay bướng bỉnh...
Ông ngừng một lúc, rồi lại nói:
- Các hạ tự nhiên vô cố chạy đến chỗ hoang sơn vắng vẻ này đừng nói lão phu không tin, dẫu đến đứa trẻ lên ba, cũng chưa chắc đã loè nổi nó. Và trên ngọn núi này, toàn là những người có đôi chút tiếng tăm trong giang hồ cả, đối với thái độ ngông nghênh ngạo mạn của các hạ, ai không khó chịu?
Chàng thanh niên nói:
- Tại hạ đến cũng chỉ có hai tay không, mà đi cũng chỉ có hai tay không. Tại hạ không tin rằng có người dám coi tại hạ như hung thủ giết bốn vị Quân Tử Trung Nguyên.
Ngôn Phượng Cương cười nhạt một tiếng, rồi nói với ông già râu dài:
- Những hạng người ngông cuồng như vậy, Ngôn Phượng Cương này mới trông thấy là lần đầu. Thượng huynh hà tất phải nói với hắn cho phí lời. Trước hết ta hãy bắt lấy hắn, rồi sau sẽ tra xem hung thủ giết hại Tứ Quân Tử là ai. Dưới con mắt của ngần này người, không lẽ lại không tìm ra đầu mối?
Chàng thanh niên sắc mặt vẫn nghiêm nghị lạnh lùng nói:
- Nếu vị nào coi tại hạ là chướng mắt, thì xin cứ việc ra tay thử coi!
Ngôn Phượng Cương địa vị là tôn sư một phái, tuy đã biết võ công của chàng không phải tầm thường, nhưng trước mặt quần hào, chẳng lẽ lại cam nhịn nhục, bèn cười nhạt một tiếng, bước lên hai bước, định xông vào tấn công.
Ông già râu dài thốt nhiên cầm cây gậy trúc đưa ngang ra ngăn Ngôn Phượng Cương lại, nói:
- Ngôn huynh hãy thong thả. Trước hết chúng ta hãy tra xem Tứ Quân Tử chết vì cớ gì đã. Đó là việc cần thiết hơn cả.
Vừa nói vừa đưa mắt, ngầm bảo Ngôn Phượng Cương đừng vội lỗ mãng.
Ngôn Phượng Cương tuy chưa hiểu rõ ý ông già ngăn không cho mình động thủ là vì cớ gì, nhưng cũng không cố cưỡng.
Ông già thu gậy về, cất cao giọng nói:
- Việc Trung Nguyên Tứ Quân Tử bị người mưu hại, không những lão phu không ngờ, mà các vị dám chắc cũng đều cảm thấy ngạc nhiên. Điều ấy làm cho lão phu băn khoăn tự hỏi không biết trong những thanh giản thiếp có cái gì đáng ngờ không?
Ngôn Phượng Cương gật đầu khen:
- Thượng huynh nói có lý lắm!
Vị tăng nhân mặc áo xám lâu lắm không nói câu nào, lúc này chợt cất tiếng xen vào:
- Bần tăng phụng mệnh tệ Chưởng môn phương trượng đến đây, và các anh hùng trong thiên hạ ai cũng biết tệ Chưởng môn có tài nhận biết nét chữ. Nếu phong thiếp mời có giả tạo thì làm sao qua được mắt người? Vì thế nên bần tăng dám quả quyết rằng những phong giản thiếp đó toàn là thủ bút của Tứ Quân Tử cả.
Xem ý ông ta đối với Chưởng môn phương trượng thực đã bội phục vạn phần nên trong khi nói, thái độ vẫn tỏ ra hết sức cung kính.
Ngôn Phượng Cương nói:
- Vô luận thế nào, cái chết của Tứ Quân Tử cũng làm dao động nhân tâm trong giới giang hồ. Vậy ta cần phải tra xét cho đến nơi đến chốn.
Lúc này chợt nghe có tiếng khóc nức nở từ dưới chân núi đưa lên.
Quần hùng cúi đầu trông xuống, thấy một thiếu nữ mặc toàn đồ trắng, đang hấp tấp chạy lên.
Phía sau thiếu nữ lại có một vị thiếu niên anh tuấn, mày thanh mắt sáng, lưng đeo trường kiếm, theo sát chân nàng.
Tiếng khóc của bạch y thiếu nữ nghe rất thê thảm đau đớn. Vì nàng đưa tay phải lên che mặt, nên không ai trông rõ dung mạo, nhưng cứ coi cái thân hình uyển chuyển dịu dàng, với bàn tay trắng nuột như ngọc của nàng, cũng đoán biết đó là một mỹ nhân dung nhan tuyệt thế.
Người thiếu niên đeo kiếm đi sau thần sắc có vẻ nghiêm trang kính cẩn.
Đàm Khiếu Thiên trông thấy từ phía xa xa, đã chắp tay chào hỏi:
- Đường công tử, lâu lắm không gặp!
Chàng thiếu niên cũng chắp tay thi lễ, nói:
- Đàm huynh lâu nay vẫn mạnh chứ?
Bạch y thiếu nữ thốt nhiên rảo bước chạy nhanh đến chỗ Tứ Quân Tử, nức nở gọi:
- Gia gia!
Rồi nàng quỳ sụp xuống trước mặt người ngồi mé bên phải lạy luôn mấy lạy, đoạn lại phục xuống đất, khóc rầm lên.
Tống Văn Quang hỏi nhỏ:
- Có phải Diệp cô nương đấy không?
Thiếu nữ nghe tiếng, bỏ tay ra, ngửng bộ mặt phấn còn đầm đìa nước mắt lên cất đầu hỏi:
- Phải tôi đây! Huynh đài là ai?
Tống Văn Quang nói:
- Tại hạ là Tống Văn Quang, gia sư là Kim Thánh Nghi...
Tống Văn Quang trỏ Bạch Thiết Sinh giới thiệu:
- Vị này là Bạch huynh, học trò củaChu sư bá.
Thiếu nữ tuy đang trong cơn đau đớn, nhưng tâm thần vẫn sáng suốt, bèn gật đầu chào Bạch Thiết Sinh rồi nói:
- Tiểu muội vẫn được nghe gia phụ nói đến Bạch huynh luôn.
Bạch Thiết Sinh khiêm tốn vài câu rồi hỏi:
- Diệp sư muội đã gặp Vạn Xung huynh chưa?
Bạch y thiếu nữ đáp:
- Vì tiểu muội gặp Vạn sư huynh ở dọc đường, nên mới biết là gia phụ và ba vị bá bá đã bị ngộ hại, bèn vội đi gấp đường về đây. Tiểu muội nhờ có ngựa tốt nên đi được nhanh hơn, Vạn sư huynh chắc cũng sắp tới.
Ánh dương quang vàng hoe chiếu thẳng vào khuôn mặt diễm lệ tuyệt trần của người thiếu nữ, những giọt nước mắt long lanh trên khoé mắt và hai gò má, không những đã không làm giảm cái sắc đẹp thiên nhiên của nàng, trái lại những nét đau đớn bi thương, còn tạo thêm cho nàng một vẻ đẹp dịu dàng đáng mến.
Bao nhiêu làn nhỡn tuyến của những người ở trên đỉnh núi lúc này đều đổ dồn lên khuôn mặt ngọc của thiếu nữ, rõ ràng là cái sắc đẹp của nàng đã làm cho tất cả bấy nhiêu người đều bay hồn lạc vía, mắt choáng, hồn mê.
Tống Văn Quang thở dài một tiếng, rồi nói:
- Diệp sư muội đừng buồn nữa. Việc đã thế này ta nên thu xếp hậu sự cho chóng là hơn. Những người ở đây đối với cái chết của bốn vị sư trưởng, ai cũng đau xót. Họ đương bàn định với nhau để tìm cho ra hung thủ.
Bạch y thiếu nữ thở một hơi thật dài, gật đầu nói:
- Tống sư huynh nói rất phải.
Chàng thiếu niên đeo kiếm, thốt nhiên rảo bước đi tới, lạnh lùng nhìn Tống Văn Quang và Bạch Thiết Sinh một lượt, rồi đưa tay đỡ thiếu nữ dậy, sẽ nói:
- Diệp muội đã khóc suốt dọc đường rồi, bây giờ hãy nghỉ một lúc cho khoẻ.
Bạch y thiếu nữ sẽ kéo cánh tay bị chàng nắm lại, nói:
- Tôi muốn được ngồi bên gia gia, để ngắm kỹ di chung của người.
Nói đến chỗ thương tâm, hai hàng nước mắt lại tràn ra hai khoé mắt.
Chàng thiếu niên đeo kiếm thở dài nói:
- Thôi đừng khóc nữa, phải giữ gìn sức khoẻ chứ!
Chợt chàng ngẩng lên chắp tay thi lễ với Bạch Thiết Sinh và Tống Văn Quang, rồi tự giới thiệu:
- Huynh đệ là Đường Thông, ngày thường vẫn được nghe nhạc gia nhắc đến đại danh của hai vị sư huynh, tiếc vì chưa có dịp bái kiến. Lần này nhân phụng mệnh từ mẫu xuyên trung xuốngNam thăm sức khoẻ nhạc gia, và thuận đường đếm bái vọng các vị trưởng bối. Không ngờ bốn vị lão nhân gia lại cùng bị ám hại một ngày, thật là đại bất hạnh!
Giọng nói của chàng tuy khiêm tốn uyển chuyển những một điều nhạc gia, hai điều nhạc gia, hình như cố ý tỏ cho mọi người biết thân phận của mình.
Tống Văn Quang vội chắp tay đáp lễ, nói:
- Thì ra là Đường huynh, tiểu đệ cam chịu tội thất kính!
Bạch Thiết Sinh cũng nói:
- Hôm qua vừa nghe Vạn huynh nhắc tới huynh đài...
Đường Thông than rằng:
- Nhạc gia và ba vị lão tiền bối đều là những vị danh cao vọng trọng trong giới võ lâm hiện thời, rút cuộc đều cùng bị bại một lượt, thật là một biến cố vô cùng quan trọng. Huynh đệ đã lập tức phái người đi gấp ngày đêm về bẩm với gia mẫu, để người tới đây chủ trì công việc tìm kiếm hung thủ.
Ngôn Phượng Cương nói chen:
- Vũ công và uy vọng của lệnh đường đều cùng tuyệt thế, nếu người chịu đứng lên cáng đáng việc này, thì lo gì không tìm ra hung thủ!
Ông già râu dài cũng nói:
- Lão hủ không biết hai họ Đường, Diệp đã kết thông gia với nhau. Vậy xin có lời mừng tới Đường thế huynh.
Đường Thông cười nói:
- Việc này do gia mẫu và nhạc gia quyết định, vãn bối được nhờ dư ấm tổ tiên...
Hắn định nói: “nhơ dư ấm Tổ tiên nên lấy được vợ đẹp” chợt lại nghĩ, nói thế không tiện, bèn ngừng lại không tiếp nữa.
Đồ GiangNam từ nãy vẫn ngồi yên, lúc này mới lên tiếng:
- Tục ngữ có câu:“Rắn không đầu khó luồn, chim không cánh khó bay” , chúng ta lắm người chỉ thêm nhiều điều, người này nói một câu, người kia chen một tiếng, rút cuộc vẫn chẳng đi đến đâu. Theo ý tại hạ thì bây giờ ta nên bầu lấy một hai người chủ sự đứng ra liệu lý việc tang sự cho bốn vị Quân tử, và cắt người điều tra hung thủ, đó là việc cần thiết hơn cả.
Đàm Khiếu Thiên nói:
- Đồ huynh nói phải lắm, tiểu đệ cũng đồng ý.
Mọi người ai cũng tán thành, cùng đồng thanh bầu Thượng Tam Đường và Ngôn Phượng Cương làm minh chủ đại cuộc. Hai người cố nhún nhường không được, Thượng Tam Đường vuốt râu cười nói:
- Các vị đã có lòng quá yêu, tín nhiệm lão hủ, lão hủ từ chối mãi cũng không tiện. Còn mong các vị giúp đỡ thêm vào, công việc mới có thể hoàn hảo được.
Nói xong, lại đưa mắt nhìn bọn Tống Văn Quang, Bạch Thiết Sinh và Đường Thông, rồi nói:
- Trung Nguyên Tứ Quân Tử bị hại, các vị tuy đau thương vô hạn, nhưng việc này còn quan hệ đến tình thế toàn thể võ lâm, không cứ gì những phong thiếp mời đó có phải thủ bút của Tứ Quân Tử không, lão phu trong nhất thời tuy không thể thấu suốt được mọi nhẽ, nhưng quyết không phải là do sự xảo hợp ngẫu nhiên. Kẻ hung thủ âm mưu ám hại Tứ Quân Tử, tất nhiên không coi bọn lão hủ và các vị anh hùng trong thiên hạ vào đâu...
Ông ngừng lại một chút, rồi lại tiếp:
- Vì thế lão hủ mong các vị, ai có chứng cứ gì liên quan đến việc này, xin bỏ ra đây, để tất cả mọi người cùng kiểm soát lại, họa may có tìm ra được đầu mối gì chăng?
Mọi người nghe nói, đều thò tay vào túi lấy phong thiếp mời ra đặt lên một tảng sơn thạch.
Tống Văn Quang chú ý nhìn kỹ, chỉ thấy trên thiếp viết rằng:
“Trước giờ ngọ ngày hai mươi ba tháng Tám, xin kính mời đại giá tới “đỉnh Bách Trượng Phong phía Bắc tỉnh Triết Giang hội họp. Quá “giờ ấy xin miễn chờ.
Ký tên,
“Lam Triệu Thường,ChuThiên Trượng,”
“Kim Thánh Nghi, Diệp Trường Thanh.”
Tất cả các thanh giản thiếp, thanh nào cũng viết đúng như thế, vừa giản dị vừa lạc thảo, hình như đều do tay một người viết ra, nhưng bốn chữ ký thì mỗi chữ một khác.
Thượng Tam Đường lại hỏi Tống Văn Quang và Bạch Thiết Sinh:
- Hai vị có tìm thấy vật gì khả nghi ở trong mình lệnh sư không?
Tống Văn Quang sẽ hỏi Bạch Thiết Sinh:
- Có nên cho họ xem tờ di chúc của các vị sư trưởng không?
Bạch Thiết Sinh cũng thì thầm đáp:
- Nếu quả họ có bụng tốt, thực tâm muốn truy cứu hung thủ, thì dẫu có bắt chúng ta phải nhảy vào lửa, lội xuống nước, ta cũng không từ. Việc gì phải giấu.
Nói xong liền thò tay vào mình, lấy ra một cái túi trong đựng tờ di chúc, đặt lên tảng đá, rồi nói:
- Chúng tôi lên tới đỉnh núi, thì bốn vị sư trưởng đã tắt thở từ lâu, trừ mảnh lụa viết thành di chúc này ra, thì không còn tìm thấy vật gì khả nghi nữa.
Thượng Tam Đường nhìn qua mảnh lụa, rồi lại hỏi:
- Hai vị có xê dịch thi thể của các vị lệnh sư không thế?
Tống Văn Quang đáp:
- Thưa không!
Thượng Tam Đường thủng thỉnh đi vòng quanh thi thể bốn người, chú ý xem xét một lượt, rồi mới cầm tờ di chúc lên coi, đoạn lại hỏi:
- Bức di chúc này, có phải đúng là thủ bút của Tôn sư không?
Bạch Thiết Sinh nói:
- Vãn bối tuy cũng hơi ngờ, nhưng nét chữ thì đúng lắm!
Chợt thấy chàng thanh niên mặc áo xanh cười nhạt một tiếng rồi nói:
- Điều tra theo lối ấy, thì có đến một năm nữa cũng không tìm ra nguyên nhân cái chết của Tứ Quân Tử!
Thượng Tam Đường buông mảnh lụa xuống, đứng lên vòng tay nói:
- Lão hủ quên chưa thỉnh giáo đai giá quý tính đại danh là gì? Tôn sư là ai?
Chàng thiếu niên đáp:
- Tại hạ là một kẻ vô danh, không dám đếm xỉa, còn gia sư thời ẩn cư đã lâu, nói ra chắc các vi cũng không biết.
Thượng Tam Đường biến sắc mặt nói:
- Lão phu đã đi mòn giày cỏ, vẹt gậy tre khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương, tự tin là đã biết người rất nhiều. Ba mươi năm về trước, các bậc võ lâm đồng đạo, đại phàm người nào hơi có danh vọng một chút, nếu lão hủ chưa gặp mặt thời tất cũng đã được nghe danh. Các hạ cứ nói cho ta nghe.
Chàng thanh niên chợt ngửa mặt lên trời, cười ha hả nói:
- Gia sư xưa nay không hề giao thiệp với các nhân vật võ lâm, nói ra cũng chẳng khác gì không nói. Nhưng về vụ án này, vãn bối có biết một hai điều, cũng xin góp ý kiến! Sao lão anh hùng không mở bàn tay phải của bốn vị Quân tử đặt trên đầu gối ra, xem lòng bàn tay có gì khác không?
Toàn trường ai cũng kinh ngạc sửng sốt về lối luận đoán quả quyết của chàng thanh niên, bất giác bao nhiêu cặp mắt đều đổ dồn vào mình chàng.
Thiếu nữ áo trắng Diệp Sương Y cũng ngước đôi mắt bồ câu đen láy lên nhìn chàng thiếu niên văn sĩ, chỉ thấy luồng nhỡn tuyến lạnh lẽo xa xôi của chàng đang trông thẳng về một góc chân trời, hình như không biết là mọi người đang đăm đăm nhìn mình. Cái thái độ lạnh lùng kiêu ngạo đó, hình như cách biệt rất xa với thế giới hiện tại.
Thiếu nữ nghĩ thầm: “Người đâu mà kiêu ngạo quá vậy? Chẳng lẽ trên đỉnh núi này không có ai đáng lọt vào mắt của hắn hay sao?” Nàng đã bắt đầu ghét cái mặt anh chàng khinh người ấy.
Thượng Tam Đường chống mạnh cây gậy tre xuống đất nói:
- Thì lão phu cũng tạm nghe láo một câu xem nào!
Rồi ông ngoảnh lại bảo Tống Văn Quang và Bạch Thiết Sinh:
- Các ngươi thử mở bàn tay phải của các vị lệnh sư ra xem sao?
Tống Văn Quang do dự một lúc, rồi cũng theo lời mở bàn tay phải của Tứ Quân Tử ra xem.
Nhưng khi nhìn kỹ, quả thấy lòng bàn tay mỗi vị đều có một cái dấu đỏ, vuông vắn đủ bốn góc.
Trong cái ấn đỏ ấy còn rất nhiều những vạch ngang vạch dọc nhỏ li ti, tựa như nét chữ, lại giống như những chỉ tay, nhưng vì nó nhỏ quá, mắt phàm không thể trông rõ được, nên không ai biết là cái gì.
Chợt nghe thiếu nữ áo trắng kêu lên:
- Ủa, thôi hắn chạy mất rồi!
Quần hào đều giật mình quay đầu lại, quả nhiên không thấy chàng ta đâu cả.
Ngôn Phượng Cương cau mày nói:
- Quái lạ, không biết tại sao thằng bé này lại biết là trong lòng bàn tay của Tứ Quân Tử có dấu?
Đồ GiangNam nói:
- Rất có thể hắn chính là một tên trong bọn hung thủ cũng nên.
Thần Quyền Lỗ Bình nói:
- Dù hắn không phải là hung thủ, thì tất cũng phải biết lai lịch của hung thủ.
Thượng Tam Đường gõ đầu gậy xuống đất, than rằng:
- Lão phu đã từng vượt qua bao nhiêu cơn sóng gió, không ngờ ngày nay lại bị chết đuối ở ngòi lạch.
Đường Thông nói:
- Chắc hắn đi cũng chưa xa, chúng ta đuổi theo may ra còn kịp.
Thiếu nữ thở dài nói:
- Chỉ sợ đuổi không kịp, hắn rút lui một cách rất nhẹ nhàng, không một tiếng động. Chúng ta tuy đông người, mà cũng không ai biết hắn chuồn đi lúc nào, thì còn nói gì đuổi theo?
Mấy câu nói của nàng làm cho cử toạ đều cảm thấy đỏ mặt.
Thượng Tam Đường lại gõ đầu gậy xuống đất nói:
- Việc cần thiết lúc này, là phải tìm một chỗ an toàn, rước thi thể Tứ Quân Tử quàn tạm, rồi lão phu và chư vị cùng liên danh gửi thiếp đi khắp Đại giang Nam Bắc, nhờ các bạn đồng đạo võ lâm tìm cho ra tông tích cái anh chàng văn sĩ hỗn xược ấy.
Vị tăng già Thiếu Lâm lúc này thốt nhiên đứng dậy, chắp tay ngang ngực, nói với mọi người:
- Bần tăng đến đây là do mệnh lệnh Chưởng môn phương trượng, sai tới tham dự đại hội của Trung Nguyên Tứ Quân Tử mời. Bây giờ Tứ Quân Tử đã bị hại, bần tăng phải lập tức trở về phúc mệnh. Vậy xin phép cáo từ trước.
Nói xong, vác thiền trượng lên vai, xăm xăm bước đi.
Vị đạo nhân cùng đi với Thượng Tam Đường lên núi lúc nãy, bấy giờ mới lên tiếng:
- Các dấu đỏ trong lòng bàn tay của bốn vị quân tử hình như là một loại dấu hiệu đặc biệt. Trông những nét ngang dọc ở bên trong, có vẻ giống như lối chữ Triện thì phải.
Ngôn Phượng Cương quay lại nhìn đạo nhân rồi hỏi:
- Dám hỏi đạo trưởng pháp hiệu là gì?
Đạo nhân mỉm cười đáp:
- Bần đạo là Huyền Nguyệt.
Ngôn Phượng Cương sửng sốt giây lâu rồi chắp tay nói:
- Tiểu đệ cam chịu tội thất kính!
Huyền Nguyệt cười nói:
- Bần đạo ít khi ra chốn giang hồ, nên Ngôn chưởng môn không biết là phải. Bần đạo đâu dám trách!
Tống Văn Quang, Bạch Thiết Sinh hình như cũng đã từng nghe danh Huyền Nguyệt đạo trưởng, nên vừa nghe thấy ông ta xưng danh, đều quay lại nhìn. Cả đến Diệp Sương Y cũng buông tay áo che mặt xuống, ngước cặp thu ba long lanh ngắm nghía phong thái của một tay đanh kiếm Vũ Đương khét tiếng một thời.
Huyền Nguyệt bước lại gần ba người, rồi nói với Tống sinh và Bạch sinh:
- Hai vị hiền điệt tuy chưa biết bần đạo, nhưng chắc đã nghe tôn sư nói đến tên bần đạo rồi chứ?
Tống Văn Quang chắp tay thi lễ rồi nói:
- Vãn bối quả có được nghe Tiên sư nói đến đại danh lão tiền bối, chỉ giận vì vô duyên chưa được bái kiến.
Huyền Nguyệt thở dài nói:
- Ôi, thật là một việc ghê gớm quá sức tưởng tượng, nếu bần đạo đến sớm một chút, thì may ra không đến nỗi...
Ông ngừng lại một giây rồi tiếp:
- Ba tháng trước, bần đạo tiếp được một phong thư củaChu huynh, trong thư có nhắc tới một chuyện rất quái lạ. Ông nói mấy tháng gần đây, hình như luôn luôn có người ngầm theo dõi hành tung của các ông ấy. Người đó hình như một cái bóng ma, ẩn ẩn hiện hiện không biết đâu mà dò. Trong thư cũng nhắc đến kỳ hội họp trên Bách Trượng Phong ngày hai mươi ba tháng Tám, và dặn bần đạo đến sớm để cùng bốn vị họp mặt.
Trung Nguyên Tứ Quân Tử tuy danh trọng một thời, nhưng những người bạn thật là tri kỷ thì lại không có mấy, giao tình của bần đạo đối với bốn vị lệnh sư trưởng có thể gọi là một trong những vị tri kỷ đó. Lẽ ra tôi đến đây từ hôm qua, không ngờ lúc sắp đi, chưởng môn sư huynh lại gọi đến, giao cho mấy việc vặt của bản môn, đến nỗi lỡ mất hành kỳ. Chỉ vì đến chậm một ngày, mà thành ra vĩnh quyết.
Bạch Thiết Sinh nói:
- Trừ những ngày bốn vị sư trưởng hội họp ở trên Bách Trượng Phong ra, thì nửa năm nay, vãn bối chưa hề rời gia sư một bước, sao không hề nghe thấy chuyện đó?
Huyền Nguyệt nói:
- Lệnh sư chỉ nói cho tôi biết sự lo lắng ngờ vực đó thôi, còn ngoài ra chưa từng nói cho ai biết cả.
Bạch Thiết Sinh đau đớn, ứa nước mắt nói:
- Vãn bối ngu xuẩn, không đoán được những nỗi lo lắng của gia sư, bây giờ nghĩ lại càng thấy xấu hổ.
Huyền Nguyệt đạo trưởng thở dài nói:
- Hiền điệt cũng không nên buồn bực, trong việc này ta còn tự trách mình hơn các hiền điệt. Ta nguyện xin tận hết khả năng để điều tra về nguyên nhân cái chết của Tứ Quân Tử. Khi nào cần, bần đạo sẽ thỉnh chưởng môn sư huynh phái thêm người trợ thủ.
Đoạn ông quay ra phía quần hào hỏi:
- Thế nào, các vị đã tìm thấy đầu mối gì chưa?
Thượng Tam Đường đáp:
- Đầu mối duy nhất chỉ là bốn cái dấu đỏ trong lòng bàn tay của bốn vị quân tử đó thôi. Chỉ vì nét chữ nhỏ quá, không sao nhận biết được rõ ràng. Lão phu đang định đi mượn thuỷ tinh kính về soi thử xem sao.
Ngôn Phượng Cương hỏi:
- Thuỷ tinh kính có phải của nhà “Vũ lâm đệ nhất gia” không?
Thượng Tam Đường nói:
- Chính đó. Một trăm năm về trước, anh hùng thiên hạ họp nhau trên đỉnh núi Thiếu Thất luận kiếm tỷ võ, đều quyết nghị Nam Cung Minh võ công cao nhất. Nên các vị chủ não mấy môn phái lớn làm một cái biển đề năm chữ “Thiên Hạ Đệ Nhất Gia”, cùng ký tên vào đưa tặng. Ngoài ra lại còn tặng thêm ba món bảo vật là Thuỷ tinh kính, Ngọc ngô công, Hiên viên đao và đính ước bốn điều, phàm các đồng đạo võ lâm đều phải tuân theo.
Đàm Khiếu Thiên hỏi:
- Thượng đại hiệp có biết ba món bảo vật ấy dùng vào việc gì không?
Thượng Tam Đường nói:
- Lão phu chỉ biết cái Thuỷ tinh kính có thể soi được những vật rất nhỏ. Ngọc ngô công có thể giải trừ bách độc. Còn dao Hiên viên thì nghe đâu như thời Hiên Viên Hoàng đế đánh Xuy Vưu, thường giắt bên mình. Con dao này chỉ được cái lâu đời, ngoài ra chẳng có công dụng gì đặc biệt.
Ông ngừng một lúc, rồi lại tiếp:
- Trung Nguyên Tứ Quân Tử uy danh lừng lẫy một thời, dẫu có đi đâu một mình, cũng chưa chắc đã ai hạ nổi. Huống hồ lại cả bốn người tụ họp một chỗ, thì dù đối phương võ nghệ cao cường đến đâu, nếu không qua một cuộc chiến đấu kịch liệt, vị tất đã có thể giết chết được cả bốn. Vì thế nên lão phu dám quả quyết rằng: trước khi bị hại, tất cả bốn người đều đã bị trúng thuốc mê, hoặc bị một lại ám khí gì rất độc. Nếu ta có Thuỷ tinh kính, thì có thể coi được những vết nhỏ ở trong cái dấu đỏ kia xem là cái gì, hoặc nếu có viên ngọc rết thì cũng có thể biết là bốn người bị trúng chất độc gì. Sau đó mới có manh mối mà điều tra ra hung thủ.
Huyền Nguyệt nói:
- Nghe đâu Nam Cung thế gia vì cớ bảo vệ thanh danh “Võ lâm đệ nhất gia” và ba món vật báu, nên năm vị chủ nhân năm đời đều bị ám sát. Bây giờ chúng ta đến hỏi, lại sợ phạm phải bốn điều cấm kỵ, ngộ lỡ họ không cho mượn thì đi đi về về mất công.
Thượng Tam Đường nói:
- Tại hạ và ông chủ đời thứ ba nhà Nam Cung đã từng cùng ngồi ăn uống với nhau một lần. Ông ta quý lão phu lắm, nên có mời phu nhân ra hội kiến...
Ông thở dài một tiếng, rồi lại tiếp:
- Đó là việc bốn chục năm về trước. Lão phu và vị tam đại chủ nhân nhà Nam Cung sau bữa cơm đó là thôi không gặp nhau nữa. Được ít lâu thì nghe tin ông ta bị ám sát.
Huyền Nguyệt đạo trưởng nói:
- Nếu Thượng lão anh hùng và nhà Nam Cung đã có tình thân hữu thì may ra có hy vọng mượn được hai món bảo vật ấy.
Ngôn Phượng Cương cau mày nói:
- Nam Cung thế gia cách đây hàng ngàn dặm, vừa đi vừa về ít nhất cũng phải mất gần một tháng. Huynh đệ trong lúc đi vội vàng, chưa kịp thu xếp việc nhà, chỉ sợ khó lòng đi theo các vị được.
Thượng Tam Đường vội nói:
- Ngôn huynh là người chủ sự đại cuộc, sao từ biệt dễ dàng thế được?
Ngôn Phượng Cương mỉm cười nói:
- Đã có Thượng huynh và Huyền Nguyệt đạo huynh, còn cần gì đến huynh đệ nữa?
Đồ GiangNam cũng ngoảnh lại bảo chàng thiếu niên ngồi bên:
- Chúng ta và Tứ Quân Tử không có giao tình gì cả, thiết tưởng cũng không nên tham dự vào việc này. Ta nên về thôi!
Lỗ Bình và Đàm Khiếu Thiên cũng nhấp nhổm muốn tháo lui.
Thượng Tam Đường không ngờ câu chuyện lại xảy ra như thế, mắt trông thấy mọi người đều kiên quyết muốn đi. Trong phút chốc trong bụng cũng bối rối, chưa biết nghĩ ra cách gì được.
Diệp Sương Y thấy tình hình như vậy, liền kêu to:
- Các vị tiền bối thong thả hãy đi, xin nghe tiện nữ trình bày một câu đã.
Giọng của nàng dịu dàng uyển chuyển như tiếng chim hoàng oanh, làm cho quần hào có người đã đi được vài bước, lại như bị tiếng nói thôi miên, đều dừng cả lại.
Chỉ thấy nàng sẽ cất gót sen, từ từ đi tới trước thi hài cha, quỳ xuống khấn rằng:
- Nữ nhi tài hèn, e không đủ sức báo thù cho cha, nhưng cha chết một cách vô cùng thảm khốc, phơi thây ở chốn núi hoang. Nếu con không báo được thù, thì mặt nào còn đứng ở trong trời đất? Cha có khôn thiêng, xin tha cho con cái tội rông càn.
Nàng khấn xong, đôi mắt long lanh, cặp má ửng hồng, nhẹ nhàng đứng lên. Đường Thông đứng bên đằng hắng một tiếng rồi hỏi:
- Diệp muội muốn nói gì?
Diệp Sương Y cười một cách đau khổ, nói:
- Anh để mặc tôi.
Đường Thông hơi biến sắc mặt, nhưng vẫn cố ôn tồn nói:
- Chỗ này không phải là con gái đứng ra mà cao đàm khoác luận được.
Thiếu nữ thốt nhiên quay phắt lại, trừng mắt nhìn chàng, sẵng giọng nói:
- Gia gia tôi đã mất, cuộc hôn nhân của chúng ta từ nay thôi không kể đến nữa!
Đường Thông ngẩn người ra, lắp bắp hỏi:
- Sao? Diệp muội nói sao?
Thiếu nữ nói:
- Việc báo thù cho gia gia tôi còn nặng gấp mấy nghìn lần việc hôn nhân của tôi. Vả gia gia tôi có trối lại bắt tôi phải lấy anh đâu...
Đường Thông giậm chân nói:
- Hoang đường, hoang đường...
Thiếu nữ cười khẩy nói:
- Tôi lo báo thù cho thân phụ, sao lại gọi là hoang đường?
Nói xong nàng tiến lên hai bước, tới trước mặt Huyền Nguyệt chắp tay vái, rồi nói:
- Sư thúc là một trong những người bạn tri kỷ của gia phụ, xin vì điệt nữ tác chủ.
Huyền Nguyệt đạo trưởng nói:
- Hiền điệt nữ có việc gì cần cứ nói, nếu có phải vì muốn tra cứu nguyên nhân cái chết của lệnh tôn, hoặc dò tìm hung thủ thì bần đạo xin cố sức.
Diệp Sương Y vái tạ, đưa mắt nhìn khắp quần hào một lượt rồi nói:
- Trong các quý vị, bất kỳ ai, nếu có thể tra xét được hung thủ giết hại gia gia tôi và các vị sư bá, lại thay tôi rửa hận thù, thì Diệp Sương Y này xin tình nguyện sung làm tỳ thiếp để báo đáp.
Giọng nói của nàng tuy nhỏ, nhưng ở trong tai quần hào nghe ra, thì chẳng khác gì tiếng sấm dội. Ai nấy đều sửng sốt đứng ngây người ra.
Diệp Sương Y sẽ lấy mấy ngón tay búp măng vén những sợi tóc mây loà xoà trước trán, hai hàng châu lệ cũng từ từ theo khoé mắt rơi xuống gò má.
Ngôn Phượng Cương chợt ngửa cổ lên trời cười ha hả:
- Thật là một cô con gái có hiếu, biết hứa thân để báo thù cha. Chuyện này có thể thành một thiên mỹ đàm trong lịch sử võ lâm được.
Đồ GiangNam ngoảnh lại nhìn con trai, rồi nói:
- Hài tử, chúng ta cũng nên lưu lại đây, may ra gặp vận may cũng chưa biết chừng.
Bao nhiêu người vừa rồi rục rịch toan đi, chỉ vì mấy câu nói của thiếu nữ, lại thay đổi chủ ý.
Đường Thông giận đến tái xanh cả mặt, máu uất bốc lên không sao nén được. Chàng cười gằn một tiếng bảo thiếu nữ:
- Được, để rồi ta xem kẻ nào bạo phổi dám đứng ra nhận lãnh việc ấy để mua chuộc lòng nàng.
Vừa nói dứt lời, tay phải chợt vung lên, tức thì ba cái kim châm nhỏ như ba sợi tóc tuột tay bay vút lên không.
Thốt nghe trên không nổi lên mấy tiếng kêu nho nhỏ. Ba con chim hoạ mi vừa bay qua đều bị rơi cả xuống đỉnh núi chết ngay tức khắc. Môn ám khí tẩm thuốc độc của nhà họ Đường đất Tứ Xuyên quả độc vô cùng, chỉ hơi rớm máu là chết, không còn cách gì chữa được.
Quần hào trông thấy ba con chim chết, trong bụng cũng đều kính sợ bội phục. Cái tiếng “ám khí thế gia của họ Đường” mấy trăm năm nay lừng lẫy võ lâm, thật là danh bất hư truyền.
Huyền Nguyệt đạo trưởng thở dài một tiếng rồi nói:
- Hiền điệt nữ có lòng hiếu muốn báo thù cha tuy đáng khen thật, nhưng cái hành động trái lễ giáo ấy, e rằng không hợp lý.
Thiếu nữ nói:
- Cái thù giết cha không đội trời chung, nếu chỉ tích chứa trong bụng, đến nỗi đau đớn quá mà chết, hoặc rút kiếm đâm cổ tự tử ngay trên đỉnh núi này, có lẽ lại được tiếng là hiếu nữ!
Huyền Nguyệt đạo trưởng nói:
- Cách đó tuy là hạ sách, nhưng cũng không thẹn với hai chữ “hiếu nữ”
Diệp Sương Y lấy tay áo lau nước mắt, thổn thức nói:
- Rất có thể điệt nữ làm việc này bị người đời chê là bội nghịch cương thường, coi rẻ luân lý. Nhưng cháu chỉ biết hết lòng thay cha báo thù, còn ai muốn chê trách chửi rủa thế nào mặc họ, miễn là cháu được thoả chí báo thù thì thôi. Kẻ nào làm cho cháu đau đớn vì mất cha, kẻ ấy sẽ phải đem máu ra mà bồi thường. Có gì là trái đạo?
Nàng nói đâu ra đấy, rõ ràng lý lẽ phân minh. Ngay trong lúc bấy giờ, không ai dám quyết đoán là phải hay trái.
Thượng Tam Đường gõ đầu gậy trúc xuống đất, nói:
- Lão hủ sống gần bảy chục tuổi đầu, những chuyện ngược đời thế này, bây giờ mới được nghe là một.
Đường Thông chợt dõng dạc tiếp lời:
- Việc hai họ Đường, Diệp liên thân, đã được gia mẫu và tiên nhạc quyết định, võ lâm xuyên trung ai cũng biết cả. Ai dám làm cho họ Đường, họ Diệp thay đổi ý kiến, huynh đệ xin vì danh dự họ Đường, hãy cho họ nếm thử mười ba mũi ám khí tẩm độc này cho họ biết tay!
Bạch y thiếu nữ lạnh lùng nói:
- Gia gia tôi chưa hề nói cho tôi biết việc hôn nhân của đôi ta mà trùng nhiên có việc ấy thật, thì bây giờ gia phụ đã mất, còn ai cai quản được hôn sự của tôi nữa? Hừ, nếu anh quả là một bậc trượng phu có chí khí thì tại sao không đứng ra nhận lãnh trách nhiệm rửa thù cho gia gia tôi? Hay còn hiềm vì võ công kém quá, không đủ sức đối địch với người ta chăng?
Đường Thông biến sắc mặt nói:
- Đường môn thế gia lập túc giang hồ hàng mấy trăm năm nay, phải sợ đứa nào? Đàn bà con gái, phải biết đạo tam tòng tứ đức. Nàng có mối thù cha, thì đã có họ Đường đứng ra thay nàng rửa hận. Việc gì phải phơi đầu lộ mặt ra chốn giang hồ, lấy sắc đẹp dụ người ta báo thù cho cha. Câu chuyện ấy đồn đi, còn ra thế nào nữa?
Diệp Sương Y vừa toan cãi lại, thì Ngôn Phượng Cương đã đón lời:
- Đường thế huynh không nên giận. Người ta có câu rằng: Đại trượng phu cũng khó giữ được vợ hiền con hiếu. Huống hồ Diệp cô nương cũng chưa về nhà họ Đường...
Đàm Khiếu Thiên cũng nói:
- Ngôn huynh nói rất phải. Diệp cô nương làm việc này tuy cũng có chút khác đời thật, nhưng cái đảm khí của nàng cũng đáng bội phục.
Kế rồi mỗi người một câu, nhao nhao phụ hoạ. Thượng Tam Đường thấy sắc mặt Đường Thông lúc thì xanh ngắt, lúc lại tái nhợt, biết chàng đã căm tức đến cực điểm. Nếu còn để chúng nói nữa, tất gây ra sự chẳng lành. Bèn vội gõ đầu gậy xuống đất, nói to:
- Thôi, tôi xin các vị. Lúc này không phải là lúc để chúng ta bàn chuyện phiếm...
Huyền Nguyệt đạo trưởng cũng nói với Diệp Sương Y:
- Hiền điệt nữ làm việc này dù phải dù trái, trong nhất thời lão phu cũng không sao đoán định được. Nhưng việc cần thiết lúc này, là phải điều tra nguyên nhân cái chết của Tứ Quân Tử. Nghe người ta nói nhà Nam Cung thế gia có viên ngọc rết, người bị trúng độc, dùng việc ngọc ấy thử, sẽ biết là trúng phải loại độc gì. Lại còn cái ấn đỏ trong lòng bàn tay của các nạn nhân, cũng cần phải mượn thuỷ tinh kính soi cho biết là dấu hiệu đặc biệt gì. Có biết rõ hai điều ấy, mới có đủ chứng cớ để truy tầm kẻ sát nhân. Vậy nên ta phải lập tức đi ngay, đến nhà Nam Cung thế gia mượn hai vật ấy, không nên chậm trễ.
Thượng Tam Đường hỏi:
- Thế còn bốn cỗ thi thể này thì sao? Chẳng lẽ cũng khiêng cả đến nhà Nam Cung thế gia hay sao?
Huyền Nguyệt đạo trưởng nói:
- Cố nhiên là phải mang đi. Nhưng tất phải thuê mấy cỗ xe ngựa.
Diệp Sương Y nói:
- Sư huynh cháu đang đi thuê xe ngựa, chắc đến chiều tối mới về tới đây?
Huyền Nguyệt trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Bây giờ chúng ta phải chia ra làm hai toán. Thượng đại hiệp và Ngôn chưởng môn đi trước đến nhà Nam Cung thế gia hỏi mượn hai món bảo vật đi đã, còn bần đạo và các vị khác sẽ hộ tống linh thể đi sau. Phải nói cho họ biết là mình chỉ mượn một lát, soi xong đem trả lại ngay. May ra họ nể mặt Thượng đại hiệp mà cho mượn chăng?
Thượng Tam Đường gật đầu khen phải. Đàm Khiếu Thiên nói:
- Tại hạ cũng xin đi trước với hai vị.
Kế rồi cả ba cùng cáo từ đi trước. Chờ cho bọn họ đi khỏi, Huyền Nguyệt đạo trưởng mới vẫy tay gọi Tống Văn Quang, Bạch Thiết Sinh rồi hỏi:
- Các vị hiền điệt lên tới đỉnh núi đã thấy lệnh sư tắt thở lâu chưa?
Tống Văn Quang nói:
- Gia sư và các vị sư trưởng chắc đã tắt nghỉ lâu rồi. Chỉ vì thấy dáng ngồi của các vị vẫn nghiễm nhiên như lúc còn sống, nên chúng cháu không dám kinh động. Vì thế mãi đến sau này mới biết.
Huyền Nguyệt đạo trưởng thở dài nói:
- Ta không thể nào tin được là trong khi bốn vị quân tử tụ họp một chỗ, mà lại bị giết một cách êm thấm như thế. Việc này bên trong còn nhiều uẩn khúc, khó giải thích quá!
Ngừng một lúc, ông ta lại nói tiếp:
- Con đường từ đây sang Nam Cung thế gia xa hàng mấy ngàn dặm. Bần đạo định lợi dụng đoạn hành trình đó, vừa đi vừa để ý dò tìm xem có thấy dấu vết gì chăng. Lát nữa hai vị hiền điệt nên giữ linh xa, để bần đạo núp trong đó cho tiện nghe ngóng. Các người ngồi ngoài, hễ thấy ai lảng vãng đến gần thì phải chú ý theo dõi hành động của họ.
Tống, Bạch đều kính cẩn vâng lời.
Không bao lâu, mặt trời đã ngả về Tây. Vạn Xung, đồ đệ của Diệp Trường Thanh đã thuê được một cỗ xe bốn bánh đem đến.
Trời đã gần tối, bốn cỗ thi hài của Trung Nguyên Tứ Quân Tử đều được đặt lên chiếc xe ngựa mà Liễu Vân Phi, người đi đuổi theo cô gái cưỡi trâu vẫn chưa thấy trở về.
Huyền Nguyệt đạo trưởng sai Bạch Thiết Sinh đánh xe, còn mình thì ngồi bên mấy cỗ thi thể, quần hào đều cưỡi ngựa theo sau. Một đoàn rầm rộ tiến sang Nam Dương.
Dọc đường, nhờ được ngựa khoẻ, xe nhẹ, đi gấp ngày đêm, nên đến cuối tháng Chín, tàn thu, giữa mùa hoa cúc nở, thì đoàn linh xa đã vào tới Nam Dương.
Phủ trạch của Nam Cung thế gia toạ lạc trong một khu đồi, phía ngoài thành Nam Dương.
Bữa ấy trời vừa xế chiều, cỗ linh xa đã đậu dưới góc sườn núi.
Bóng tà dương phản chiếu lên nền trời, qua những đám mây, biến ảo thành muôn màu rực rỡ. Hàng ngàn vạn gốc thuỳ dương thướt tha bao phủ quanh một khu thôn lạc, bên trong kiến trúc cực kỳ nguy nga vĩ đại.
Ngọn gió chiều thu đã có vẻ hơi lành lạnh, thổi những lá liễu vàng, bay phấp phới trên không, làm cho cảnh sắc đã tiêu điều lại càng thêm hiu hắt.
Thần Quyền Lỗ Bình đi đầu, chợt lắc dây cương cho ngựa dừng lại, rồi nói:
- Cứ theo lời đồn của thiên hạ, thì đã có quy luật nhất định là muốn vào “Vũ lâm đệ nhất gia”, cách năm dặm phải xuống ngựa đi bộ vào, cách ba dặm phải tháo bỏ vũ khí, không biết còn xe ngựa thì phải xử trí thế nào?
Huyền Nguyệt đạo trưởng nói:
- Bọn Thượng đại hiệp tất đã đến từ lâu, sao không thấy ra đón chúng mình?
Vừa nói tới đó, chợt nghe một tiếng đồng la nổi lên, rồi từ phía sau một cây bạch dương cao lớn nhảy ra một chú bé con mày thanh mắt sáng, hai tay vác một chiếc mộc bài trên đề bốn chữ thật lớn: “Mời ông xuống ngựa” giơ cao lên khỏi đỉnh đầu.
Cái thể lệ năm dặm xuống ngựa, ba dặm tháo vũ khí, là do anh hùng võ lâm thiên hạ, vì cớ sùng kính Nam Cung Minh là một tay võ công tuyệt thế, nên mới cùng ký tên lên một tấm biển vuông, trên đề năm chữ “Võ công đệ nhất gia”, ngoài ra còn đặt bốn điều quy lệ thông tri cho tất cả các bạn võ lâm đồng đạo trong thiên hạ đều phải tuân theo. Lại nhân những người ký tên trong tấm biển bao gồm cả chưởng môn chín đại môn phái giang hồ và các vị bá chủ nam, bắc hai đường thủy bộ. Vì thế nên mấy chục năm nay không ai dám đem thân thử phạm vào bốn điều đại quy đó.
Lỗ Bình đi đầu tiên, đưa mắt nhìn tấm mộc bài một lượt, rồi nhảy xuống ngựa, kế đó quần hào cũng lần lượt nhảy xuống theo.
Lỗ Bình vòng tay nói với chú đồng tử:
- Chào chú bé!
Chú bé lắc đầu, lấy tay chỉ vào miệng, rồi lại nhảy về phía sau cây bạch dương.
Lỗ Bình ngẩn người ra một lúc, rồi quay lại nói với Đồ GiangNam :
- Đồ huynh! Thằng bé xinh xắn thế mà bị câm à? Chả có lẽ?
Đồ GiangNam nói:
- Rất có thể là nó không muốn nói. Thôi thì chúng ta cứ tuân theo quy cũ, giắt ngựa mà đi. Hãy cứ thử vào quá bên trong xem sao, rồi sẽ liệu.
Thế là cả bọn đều giắt ngựa tiến vào. Tên đồng tử ngoảnh lại nhìn mọi người nhưng không ngăn trở gì cả.
Bên trong là một khu rừng rất rộng, nhưng trừ hai loại cây thuý liễu và bạch dương ra, thì chẳng có cây gì khác nữa. Có những con đường nhỏ lát bằng đá trắng, nằm vắt ngang vắt dọc trong khắp khu rừng.
Trừ những tiếng gió thổi vi vu, lá khô bay xào xạc ra thì trong khu rừng chu vi hàng mười dặm này hoàn toàn im vắng, tịch mịch như một cõi chết.
Lúc này, tiếng xe lộc cộc, tiếng chân ngựa dẫm lộp cộp đã phá tan bầu không khí tịch mịch đến rợn người.
Đại khái trông bốn điều quy chế, không nói đến việc cấm xe. Vì thế nên tên đồng tử trông thấy Bạch Thiết Sinh đánh chiếc xe mui đen tiến vào, chỉ lấy tay vỗ vào sau gáy, chớ không lên tiếng ngăn trở. Trông bộ dạng thằng bé, hình như nó cũng đang lấy việc đó làm khó xử.
Trừ thằng bé vác mộc bài ra, thì trong khu rừng rộng đó hình như không còn ai canh gác nữa. Quần hào đi sâu vào bên trong đến mấy chục trượng cũng không thấy ai ngăn trở.
Những cây bạch dương và thuý liễu cành lá rậm rạp giao nhau y như những bức bình phong. Bạch Thiết Sinh dong xe đi giữa rừng, cứ phải quanh bên nọ, quẹo bên kia, vất vả lắm mới tiến lên được một quãng.
Chợt nghe có những bước chân đang từ trong rừng sâu dồn dập tiến ra. Lỗ Bình đi đầu vội dừng lại.
Vì nhà Nam Cung thế gia không những đã đoạt được cái mỹ hiệu “Võ lâm đệ nhất gia”, ở biệt lập một khu rừng ngoại thành Nam Dương, bên ngoài lại còn bao trùm một lớp áo cực kỳ thần bí, nên người ngoài không ai biết rõ nội tình của những người trong toà nhà ấy. Chỉ biết rằng họ tuy được hưởng cái vinh dự đẹp đẽ mà thiên hạ ai cũng hâm mộ đó. Họ cũng đã phải trả giá bằng một sự thống khổ vô biên.
Các nhân vật trong làng võ đối với sự bí mật của nhà Nam Cung thế gia chỉ có hai quan niệm: ghen ghét và hâm mộ.
Tiếng chân đi mỗi lúc một gần, rồi có ba người sánh vai nhau từ trong rừng bước ra. Ba người đó chính là bọn Thượng Tam Đường, Ngôn Phượng Cương và Đàm Khiếu Thiên.
Thượng Tam Đường vòng tay nói:
-Chư vị đã đến đấy ư?
Rồi đưa mắt nhìn cỗ xe mui, chợt cau mày nói:
- Huyền Nguyệt đạo trưởng...
Huyền Nguyệt đạo trưởng thưa một tiếng, rồi từ trong xe nhảy xuống.
Hơn hai mươi ngày nay, vị danh kiếm phái Vũ Đương vẫn nằm núp trong cỗ xe mui đen, làm bạn với bốn cỗ thi hài. Chỉ trừ những bữa ăn, còn thì ban đêm cũng ngủ liền ở trong xe, không dời nửa bước. Hình như đối với bốn cỗ thi hài, ông ta có một hứng thú gì đặc biệt, đến nỗi ngày đêm kề liền bên cạnh mà không thấy chán.
Thượng Tam Đường sẽ hỏi:
- Di thể của Tứ Quân Tử đã biến mùi chưa?
Huyền Nguyệt lắc đầu:
- Chưa thấy mùi gì hết, thế mới lạ chứ! Chính bần đạo cũng rất lấy làm ngạc nhiên, không hiểu tại sao lại thế. Thượng đại hiệp đã điều đình với họ cho mượn ngọc rết và kính thuỷ tinh chưa?
Thượng Tam Đường cau mặt nói:
- Chưa. Vì chủ nhân Nam Cung thế gia đang bị đau nặng nên chưa nói được chuyện gì hết.
Huyền Nguyệt lại hỏi:
- Người chủ trương công việc gia đình nhà Nam Cung thế gia hiện thời là ai?
Thượng Tam Đường lắc đầu:
- Lão phu cũng không rõ lắm.
Huyền Nguyệt nói:
- Thôi, bây giờ đại hiệp hãy đưa chúng tôi vào trong nhà, rồi sẽ hay.
Thượng Tam Đường mấp máy đôi môi, hình như muốn nói gì lại thôi, rồi đi lên trước dẫn đường. Huyền Nguyệt và mọi người đều lũ lượt theo sau. Diệp Sương Y vẫn đi kèm bên cỗ linh xa.
Đi một lúc không lâu, chợt thấy khu rừng đột nhiên mở rộng, trước mặt hiện ra một khoảng đất không, vuông vắn chừng vài chục trượng. Hai bên khoảng đất trống có bày hai cái giá gỗ, giữa cắm một chiếc biển trên đề bốn chữ: “Xin bỏ binh khí.”
Trên hai giá gỗ đã cắm đầy dao kiếm, nhiều chiếc có lẽ vì đã quá lâu ngày, nên lưỡi đã hoen rỉ, chuôi đã mục nát. Ngôn Phượng Cương cười nhạt nói:
- Một trong bốn giới pháp là không được mang binh khí nào vào nhà Nam Cung thế gia, xin các vị bỏ đao kiếm xuống!
Huyền Nguyệt tháo thanh kiếm đeo bên mình, cắm vào chiếc giá gỗ mé tay phải. Quần hào cũng đều lần lượt làm theo.
Thượng Tam Đường gài cây gậy trúc lên giá rồi nói:
- Các vị có ai giắt ám khí trong mình, cũng xin bỏ ra để cả lại đây.
Miệng nói, mắt lại liếc nhìn Đường Thông. Đường Thông cười nhẹ một tiếng, thò tay vào mình lấy ra một chiếc túi da treo lên giá gỗ, rồi nói:
- Tất cả ám khí của tại hạ đều ở trong chiếc túi này.
Thượng Tam Đường nói:
- Bốn điều giới pháp là do anh hùng thiên hạ bàn định với nhau rồi lập ra, vậy nên lão hủ rất mong các vị tự động tuân thủ.
Nói xong rảo bước đi lên trước dẫn đường. Huyền Nguyệt đạo trưởng vừa đi vừa hỏi:
- Chủ nhân nhà này là nhân vật thế nào mà hách dịch quá thế?
Thượng Tam Đường lắc đầu:
- Điều ấy lão phu cũng không rõ lắm. Bọn lão phu ở đây mấy hôm, chỉ thấy hai con tỳ nữ đưa cơm nước, ngoài ra không thấy ai khác nữa.
Huyền Nguyệt đạo trưởng nói:
- Đã vậy ta cứ cho dắt xe ngựa vào thẳng bên trong, vì theo như bốn điều giới luật, không thấy khoản nào nói đến cấm xe. Dù họ bẻ, ta cũng có cớ mà nói!
Thượng Tam Đường gật đầu:
- Đạo trưởng nói cũng có lý.
Huyền Nguyệt quay lại vẫy Bạch Thiết Sinh bảo cứ đánh xe vào. Lại đi thêm chừng ba bốn dặm nữa, cảnh vật trước mắt chợt biến đổi khác hẳn. Hoa thơm cỏ lạ vây kín xung quanh một toà trang viện cực lớn, nóc lợp ngói xanh, cửa sơn màu đỏ, trên gác cổng treo một tấm biển lớn chữ vàng nền đen, viết năm chữ đại tự “VÕ LÂM ĐỆ NHẤT GIA”.
Phía trái chỗ góc tấm biển biên chi chít những hàng chữ nhỏ, chữ thì viết lối khải, chữ thì viết lối thảo, toàn là chữ ký của chưởng các phái, hoặc hùng chúa các phương.
Thượng Tam Đường sắc mặt nghiêm trang, dẫn quần hùng đi vòng qua vườn hoa, rồi bước lên thềm đá.
Huyền Nguyệt chợt quay lại dặn nhỏ Bạch Thiết Sinh:
- Hễ có xảy ra sự gì lạ, hiền điệt cũng đừng lên tiếng, cứ để mặc bần đạo liệu cách đối phó.
Bạch Thiết Sinh vâng lời, Huyền Nguyệt lại rảo bước đi lên sóng vai với Thượng Tam Đường, đi qua bảy bực thềm đá.
Hai cánh cửa sơn đỏ mở rộng bên trong bày la liệt những chậu hoa, qua một cái sân rất rộng, rồi đến từng cửa thứ hai, nhưng đây đó vẫn im lặng như tờ, không thấy bóng người qua lại.
Một tòa đình viện tráng lệ huy hoàng, hoa cúc hoa quế xông hương sực nức. Chỉ vì vắng vẻ trầm tịch quá, khiến cho người ta cảm thấy cảnh vật xung quanh như bị bao trùm bởi một tấm màn bí mật.
Tới trước cửa lớn, Thượng Tam Đường sẽ nói với Huyền Nguyệt:
- Đạo trưởng, xe ngựa không thể dắt qua thềm đá được. Ta hãy cho dừng lại ở đây thôi.
Huyền Nguyệt cau mày hỏi:
- Tại sao nhà Nam Cung thế gia không có một người nào thông báo cả nhỉ?
Nói vừa dứt lời, chợt thấy từ phía sau dãy chậu hoa có một người con gái mặc áo xanh, tuổi trạc mười bốn, mười lăm, mắt sáng mày thanh, tóc bện ngang vai, thủng thỉnh bước ra.
Huyền Nguyệt đưa mắt nhìn Thượng Tam Đường, chỉ thấy ông nghiêm trang đứng im, rõ ràng là ông cũng chưa biết thiếu nữ đó là ai. Bèn chắp tay ngang ngực, khom lưng nói:
- Xin kính chào cô nương.
Thiếu nữ áo xanh ngước đôi mắt to đen láy, nhìn khắp mọi người một lượt, rồi khom lưng nói với Huyền Nguyệt:
- Xin hỏi pháp hiệu của đạo trưởng, và người tới đây có việc gì?
Tiếng nói rõ ràng rành rẽ, tỏ ra một người có sức lực dồi dào.
Huyền Nguyệt đạo trưởng tươi cười nói:
- Bần đạo là Huyền Nguyệt, có chút việc cần, muốn được bái kiến chủ nhân Nam Cung thế gia.
Thanh y nữ tỳ lại ngước mắt nhìn cỗ xe ngựa, rồi lắc đầu thở dài nói:
- Đạo trưởng đã biết bốn điều giới pháp ở đây chưa?
Huyền Nguyệt gật đầu:
- Bần đạo đã hiểu, và chưa từng làm trái kỷ luật.
Thiếu nữ nói:
- Đánh xe vào thẳng trang viện nhà Nam Cung thế gia chưa hề xảy ra việc ấy bao giờ.
Huyền Nguyệt cười nói:
- Chúng tôi sở dĩ không quản xa xôi ngàn dặm tới đây, cầu kiến Nam Cung thế gia, chính chỉ vì muốn giải quyết những sự nghi nan ở trong xe này thôi.
Thượng Tam Đường cũng chắp tay nói:
- Bọn lão phu đến đây đã được ba hôm, mong ơn hậu đãi, ở lại quý trang...
Thanh y nữ lạnh lùng ngắt lời:
- Nam Cung thế gia đối với quý khách đến thăm, bao giờ cũng tiếp đãi tận lễ, nhưng quyết không dung những kẻ khinh thường bốn đại giới pháp.
Huyền Nguyệt vẫn tươi cười nói:
- Bọn bần đạo ở xa đến, hoặc giả có xúc phạm đến bốn điều giới luật, cô nương trách cứ cũng không đàm oán. Chỉ mong cô nương thông báo với lệnh chủ nhân giùm cho một tiếng, bần đạo cảm kích vô cùng.
Thiếu nữ trầm ngâm một lát, rồi nói:
- Các vị dong xe vào trang viện, mặc có phạm vào bốn điều giới luật hay không, nhưng cái tội khinh thường nhà Nam Cung thế gia cũng không phải nhỏ.
Huyền Nguyệt nói:
- Để lát nữa được bái yết chủ nhân, bần đạo sẽ đương diện thỉnh tội.
Thiếu nữ nói:
- Vậy xin mời các vị vào trong sảnh ngồi chơi một chút, được để tôi vào bẩm với chủ nhân, chờ lệnh định đoạt.
Nói xong thủng thỉnh bước lên, vừa đi vừa nói:
- Xin các vị thứ lỗi, tôi xin phép đi trước dẫn đường.
Huyền Nguyệt ngoảnh lại dặn Bạch Thiết Sinh ở lại trông xe, còn mình thì cùng quần hào theo thiếu nữ vào trong sảnh.
Xuyên qua mấy dãy chậu hoa rồi tới tầng cửa thứ hai, thiếu nữ chỉ dãy phòng ốc mé bên trái, nói:
- Mời các vị hãy vào phòng khách nghỉ ngơi một lát, để tôi thỉnh mệnh chủ nhân xong, sẽ lại ra nói với các vị.
Thiếu nữ tuy nhỏ tuổi, nhưng nói năng lanh lợi, rõ ràng, đâu ra đấy, cử chỉ lại đứng đắn ung dung, tỏ ra một tay lão luyện.
Khách tuy toàn là các vị hào khách võ lâm, tiếng tăm lừng lẫy, nhưng đối với nhà Nam Cung thế gia thần bí này, trong bụng vẫn có một vài phần kiêng nể, nên không dám lỗ mãng, nhất nhất đều tuân theo lời thiếu nữ chỉ bảo.
Thiếu nữ chờ mọi người nồi yên đâu đấy, mới leo lên thềm đá, đi vào lớp cửa thứ hai.
Trong phòng khách bài trí rất u nhã, cửa sổ, bàn ghế đều được lau chùi bóng lộn, không có qua một mảy may bụi. Trên chiếc bàn bát tiên sơn đỏ đã bày sẵn những chén trà thơm, vừa đúng mỗi người một chén, chén nào cũng bốc hơi nghi ngút, rõ ràng là vừa mới pha xong, nhưng trong nhà thì tuyệt không thấy ai ra tiếp khách cả.
Bất cứ mọi vật, mọi việc gì ở trong nhà Nam Cung thế gia đều có vẻ thần bí khác thường cả.
Quần hào đều ngồi xuống ghế, nhưng không ai bưng chén trà lên nhấp giọng.
Ước chừng ăn xong bữa cơm, mới thấy phía ngoài có tiếng giầy nhè nhẹ tiến vào. Người nữ tỳ áo xanh lúc nãy lại xuất hiện.
Đối với cô bé thần thái ung dung, nghiêm nghị, quần hào không sao dám khinh thường, tất cả đều đứng lên nghênh tiếp.
Thiếu nữ cúi mình nói:
-Chư vị không quản xa xôi ngàn dặm tới đây, chủ nhân tôi rất lấy làm vinh hạnh, nên tuy lúc này bệnh nặng chưa khỏi, chủ nhân cũng gắng gượng ra tiếp khách. Vậy xin mời các vị vào nội sảnh tương kiến.
Trong khi nói, đôi mắt thiếu nữ vẫn long lanh đưa qua đảo lại, nhìn vào tận mặt từng người. Nhiều người bị cái nhìn soi mói sắc sảo của nàng đều cảm thấy bứt rứt khó chịu.
Huyền Nguyệt chắp tay nói:
- Xin phiền cô nương dẫn lối.
Thiếu nữ xin lỗi rồi bước lên trước.
Qua hai cánh cửa lớn tới một con đường nhỏ, hai bên trồng toàn hoa, hương thơm thoang thoảng, gió thổi hiu hiu, cảnh sắc mười phần thơ mộng, nhưng vì không khí quá lặng lẽ tịch mịch nên làm cho người ta chỉ cảm thấy rờn rợn sợ sệt.
Cô gái áo xanh đưa mọi người tới trước một toà nhà nguy nga tráng lệ, sẽ gõ nhẹ vào chiếc vòng đồng trên hai cánh cửa sơn son khép chặt.
Chợt nghe một tiếng “ké... ét” mạnh, rồi cánh cửa từ từ mở ra, quần hào ngẩng đầu lên trông vào bên trong, chỉ thấy trước mắt một màu sáng chói!
Thì ra trong toà đại sảnh rộng rãi mênh mông, bốn mặt lát toàn bạc mỏng, bàn ghế đồ vật đều bọc toàn gấm trắng, thành ra cả toà nhà đều sáng rực.
Thiếu nữ đưa khách vào tới cửa, liền đứng nép về một bên nhường lối. Huyền Nguyệt đi đầu, sẽ đưa mắt liếc quanh một lượt, thấy trong nhà từ đồ vật cho đến những thứ trang hoàng trần thiết, đều dùng toàn màu trắng, không lẫn một màu gì khác nữa.
Quần hào lũ lượt theo sau, mặt người nào cũng lộ vẻ nghiêm chỉnh, cung kính. Cách bài trí trang hoàng trong căn phòng này vừa đặc biệt vừa trang nghiêm, khiến ai mới bước chân vào tự nhiên cũng nảy ra cái ý tự ti mặc cảm.
Người con gái áo xanh chờ cho khác vào hết, mới cất tiếng hô to:
- Giai khách đã tiến vào nội sảnh!
Tức thì bên trong chợt đưa ra một tiếng thở dài, tấm màn trắng sẽ từ từ hé mở, rồi một bà cụ già tóc bạc da mồi thủng thỉnh bước ra.
Đó là một lão phụ thân thể gầy gò, nước da vàng khô. Rõ ra một người ốm đã lâu ngày, tay phải còn chống một cây gậy trúc.
Bà mặc áo trắng dài, mái tóc bạc được bọc gọn trong một tấm khăn lụa trắng.
Cách phục sức với cỡ tuổi của bà ta đều quá ư tương phản.
Theo sau bà ta còn có bốn vị phụ nhân cũng mặc áo trắng theo hầu. Sắc mặt người nào cũng lộ vẻ nghiêm trang và u uất, làm cho người ta trông thấy đều có cái cảm giác nặng nề bứt rứt.
Huyền Nguyệt đưa mắt nhìn bà cụ già một lượt, rồi nghĩ thầm: “Chẳng lẽ bà cụ già ốm yếu thế kia lại chính la Nam Cung phu nhân?”
Bụng tuy nghĩ vậy, nhưng ông ta vẫn đứng lên, chắp tay ngang ngực, cúi đầu nói:
- Bần đạo Huyền Nguyệt xin kính chào lão tiền bối!
Bà già gõ nhẹ đầu chiếc gậy trúc xuống đất, cười nói:
- À, Vũ Đương danh gia, lão thân cam thất kính!
Huyền Nguyệt hơi giật mình, nghĩ bụng: “Bà lão này rõ ra người đã lăn lộn giang hồ lâu năm, nên có vẻ lão luyện lắm.”
Bà già lại tươi cười nói:
- Xin mời các vị ngồi. Lão thân vì mới bị cảm, nên không thân hành ra đón quý khách được, mong các vị miễn trách cho.
Nói xong liền ngồi xuống ghế trước.
Bốn thiếu phụ mặc áo trắng, tuổi tác không đều nhau, đứng xếp thành một hàng dài, phía sau lưng bà lão.
Quần hào thấy chủ nhân đã ngồi, bèn cùng lần lượt ngồi xuống.
Ngôn Phượng Cương sẽ hỏi Thượng Tam Đường:
- Bà cụ già kia có phải là Nam Cung phu nhân không?
Thượng Tam Đường cũng thì thầm đáp lại:
- Huynh đệ chỉ quen vị chủ nhân thứ ba nhà này, ngoài ra không biết ai cả. Vị trung niên phu nhân đứng hàng thứ hai kia tức là vợ ông ta.
Hai người nói rất nhỏ, nhưng hình như cũng bị bà già nghe tiếng. Chợt nghe bà ta cười nhẹ một tiếng rồi nói:
- Nam Cung thế gia đã có quy cũ thành nếp, không bị lễ giáo của người đời bó buộc...
Nói xong, lại quay lại bảo người thiếu phụ đứng hàng thứ hai:
- Sao con trông thấy bạn cũ của vong phu mà không ra chào một tiếng?
Thiếu phụ cúi đầu sẽ nói:
- Tôn tức xin tuân lệnh.
Nói xong sẽ nhấc gót sen, đứng cách xa xa, đối trước Thượng Tam Đường, khom mình thi lễ, nói:
- Vị vong nhân Thường Tố Ngọc bái kiến Thượng đại kha.
Thượng Tam Đường vội đứng lên, chắp tay đáp lễ nói:
- Phu nhân trí nhớ tốt quá! Tại hạ không thể biệt tận tâm lực lo lắng hậu sự cho Nam Cung huynh, mỗi lần nghĩ đến, thực rất lấy làm ân hận.
Thường Tố Ngọc buồn bã nói:
- Thượng đại kha không quản xa xôi ngàn dặm tới đây phúng điếu vong phu, Thường Tố Ngọc rất lấy làm cảm kích.
Nói xong lại cúi mình thi lễ, rồi lui về chỗ cũ.
Huyền Nguyệt đứng lên chắp tay nói với lão phụ nhân:
- Bần đạo nghe tiếng Nam Cung thế gia đã lâu. Hôm nay rất lấy làm hân hạnh được các vị phu nhân tiếp kiến.
Lão phu nhân cười một cách buồn bã nói:
- Vong phu Nam Cung Minh, vì không nghe lão thân can gián, sinh dũng nhất thời, tranh hùng trên đỉnh núi Thiếu Thất, đến nỗi...
Thượng Tam Đường ngắt lời nói:
- Nam Cung lão tiền bối là một bậc nhân kiệt, khi ở trên Thiếu Thất sơn, một mình đánh bại anh hùng thiên hạ, khiến cho quần hào phải khuynh phục, đồng tâm phụng tặng vinh diệu “Võ lâm đệ nhất gia”. Thiết tưởng trăm ngàn năm nay mới có một nhà Nam Cung là được hưởng cái vinh diệu ấy...
Lão phu nhân ngắt lời:
- Vì được cái vinh diệu ấy nên mới khiến cho nhà tôi già trẻ lớn bé năm đời đều thành quả phụ. Chúng tôi đã phải mua cái vinh diệu ấy bằng một giá quá đắt.
Bà quay lại nhìn bốn thiếu phụ đứng sau lưng một lượt, rồi lại nói tiếp:
- Những nỗi đau đớn uất ức, lão thân đã phải ẩn nhẫn suốt mấy chục mùa mưa nắng, chưa từng hé răng than thở với ai. Chỉ đáng thương cho các con dâu, cháu dâu tôi, hết thảy lại dẫm cả vào vết xe đổ của tôi...
Bà nói đến đấy, giọng bỗng chìm hẳn xuống, hai hàng lệ già từ từ lăn xuống hai gò má.
Huyền Nguyệt đưa mắt nhìn bốn vị phu nhân đứng sau bà già, thấy người đứng đầu hàng mé phải tuổi trạc năm mươi, người thứ hai tuổi ước chưa đầy bốn chục, người thứ ba chỉ vào khoảng ba mươi hoặc ba mươi hai, còn người đứng cuối cùng có lẽ mới độ mười bảy mười tám. Người nào cũng mặc quần áo trắng, bịt tóc bằng khăn trắng, không tô son phấn, kẻ nhạt lông mày. Nói về dung sắc, thì người nào cũng đáng gọi là mỹ nhân cả.
Chợt nghe cái giọng ai oán của bà già lại cất lên:
- Nam Cung thế gia xưa nay vẫn ít đi lại với các nhân vật võ lâm, nên cũng không thể nói đến chuyện ân oán được. Chỉ vì vong phu tự ý sinh cường, chiếm được cái vinh diệu “Vũ lâm đệ nhất gia” thì cũng rước ngay cho nhà Nam Cung chồng tôi một cái thảm hoạ đứt ruột đau lòng, tuyệt nòi mất giống, một nhà toàn đàn bà goá. Các vị thử nghĩ xem trong các nhân vật võ lâm, còn có nhà nào cảnh huống thê lương hơn nhà tôi không?
Huyền Nguyệt đạo trưởng cũng ngậm ngùi than thở giây lâu rồi nói:
- Uy danh của nhà Nam Cung thế gia đã làm chấn động Đại giang Nam Bắc. Nhưng trong giới võ lâm, đã có mấy ai biết đến những nỗi đau đớn khổ tâm của năm vị phu nhân! Ôi! Danh lợi hại người đến thế kia ư?
Lão phu nhân chỉ thở dài một tiếng, lặng ngắt không nói gì nữa.
Một bầu không khí ảm đạm thê lương như bao trùm lấy toà nội sảnh. Một lát sau, Huyền Nguyệt mới lên tiếng:
- Anh em chúng tôi đến quấy nhiễu quý phủ hôm nay, trong bụng rất lấy làm thắc mắc, mong lão tiền bối tha thứ, và sẵn lòng giúp đỡ chúng tôi một chút.
Lão bà ngẩng lên hỏi:
- Đạo trưởng muốn lão thân giúp đỡ việc gì, xin cứ nói thẳng cho biết!
Huyền Nguyệt nói:
- Lão tiền bối có biết tiếng Trung Nguyên Tứ Quân Tử không ạ?
Lão phu nhân nói:
- Lão thân tuy chân không hề bước ra khỏi cửa, nhưng các bạn cũ của vong phu thỉnh thoảng lại chơi, bàn về các việc trong giang hồ, cũng có thấy nhắc đến tên bốn vị ấy.
Huyền Nguyệt nói:
- Trung Nguyên Tứ Quân Tử bị ám hại ở trên Bách Trượng Phong phía Bắc tỉnh Triết Giang cùng một lúc. Trước khi bọn họ bị hại, còn có người giả danh phi thiếp mời rất nhiều nhân vật cao thủ võ lâm tới Bách Trượng Phong dự hội. Nhưng khi quý vị cao bằng đến nơi, thì Tứ Quân Tử đã tắt nghỉ rồi. Khắp mình bốn người không có thương tích gì, chỉ thấy lòng bàn tay phải hơi hiện lên một cái dấu đỏ. Vì những nét bên trong nhỏ quá sức mắt không sao hiện nhận được, nên chúng tôi không quản xa xôi nghìn dặm tới đây, định mượn quý phủ viên ngọc rết và chiếc kính thuỷ tinh để soi cho rõ. May ra có thể tìm được vết tích gì của hung thủ chăng. Rồi lại xin phụng hoàn quý phủ lập tức.
Lão bà thở dài một tiếng mà rằng:
- Trung Nguyên Tứ Quân Tử có khôn thiêng, tất cũng phải cảm kích các vị đã tận tình tận nghĩa đối với bạn bè như vậy. Ôi! Gia đình Nam Cung nhà tôi ông cháu, cha con năm đời đều bị ám hại, thì chẳng thấy một nhân vật võ lâm nào tra cứu hộ cho.
Thượng Tam Đường nói:
- Năm xưa chín đại môn phái và hào kiệt bốn phương liên danh tặng tấm biển “Vũ lâm đệ nhất gia”, lại lập ra bốn điều giới luật bắt buộc các nhân vật trong võ lâm đều phải nhất luật tuân theo, thành ra lại vô tình mua cho gia đình Nam Cung thế gia một thảm hoạ tày trời, đến nỗi gia trưởng năm đời đều phải chết thảm. Nếu bây giờ lão phu nhân chịu phi thiếp mời tất cả các môn phái, giao cho họ trách nhiệm điều tra hung thủ. Tôi tin rằng không khi nào họ từ chối.
Đôi mắt lão bà chợt loé lên một ánh sáng kỳ dị, nhưng chỉ một thoáng qua, lại khôi phục được vẻ bình thường cười, nói:
- Chỉ lo sợ lão thân không mặt mũi nào...
Rồi quay lại bảo người đàn bà lớn tuổi nhất:
- Con vào trong nhà lấy cái kính thuỷ tinh ra đây...
Người đàn bà vâng lệnh quay vào. Bà ta lại bảo Thường Tố Ngọc:
- Cháu vào lấy cho ta viên ngọc rết.
Thường Tố Ngọc cũng vâng lệnh lui ra. Lão bà gõ chiếc gậy xuống đất, đứng lên hỏi:
- Linh thể của Trung Nguyên Tứ Quân Tử hiện nay ở đâu?
Thượng Tam Đường chắp tay nói:
- Xin lão phu nhân thứ cho chúng tôi cái tội mạo muội, bốn cỗ thi hài hiện đặt ở trong xe ngoài cửa phủ.
Lão bà “a” một tiếng rồi nói:
- Nam Cung thế gia trừ mấy mụ gái goá này ra, thì còn ai nữa? Cố nhiên là các vị không coi vào đâu?
Ngừng một giây, rồi lại tiếp:
- Lão phu bị cảm chưa khỏi hẳn nên không thể bồi tiếp các vị lâu được, xin cáo lui trước.
Rồi cũng không chờ bọn Huyền Nguyệt trả lời, bà già chống gậy thủng thỉnh bước vào nhà trong. Hai thiếu phụ cũng đi theo.
Thế là trong nội sảnh chỉ còn trơ lại bọn khách, cả tên nữ tỳ áo xanh, từ nãy vẫn đứng chờ ngoài cửa, lúc này cũng biến đâu mất nốt.
Một cơn gió nhẹ, thổi vào chiếc màn trắng, làm cho bức màn răn răn từng nếp sóng gợn, khắp gian phòng chỉ có một màu trắng toát, càng làm cho không khí tăng thêm phần khủng bố và thê lương.
Thượng Tam Đường se sẽ thở dài một tiếng, nói nhỏ với Huyền Nguyệt:
- Đạo trưởng, việc ta cho người dong xe, vào trong viện làm cho chủ nhân Nam Cung thế gia tức giận, có thể bất lợi cho mình.
Huyền Nguyệt lạnh lùng nói:
- Việc đã lỡ rồi, cũng chỉ đành ngồi mà đợi biến. Chủ nhân đã sai người đi lấy ngọc và kính, chẳng lẽ lại giở mặt.
Thượng Tam Đường tỏ vẻ lo lắng hỏi:
- Lão phu chỉ lo chọc giận chủ nhân Nam Cung thế gia thì phiền lắm.
Ngôn Phượng Cương cười nhạt nói:
- Trong mấy hôm ở đây, huynh đệ đã nhẫn nại đến cực điểm rồi. Nam Cung thế gia tuy vinh quy, nhưng huynh đệ dù sao cũng là chưởng môn một phái, bình sinh chưa hề để ai khinh dễ bao giờ.
Thượng Tam Đường vội xua tay nói:
- Thôi thôi. Ngôn huynh hãy nể mặt tiểu đệ, cố nhẫn nhục thêm ít nữa...
Bức màn trắng thốt nhiên lại hé mở, rồi người trung niên phụ nhân tay bưng một cái hộp nhỏ bằng gỗ, chạm trổ rất khéo thủng thỉnh bước lại gần bàn, đặt chiếc hộp gỗ xuống nói:
- Trong hộp gỗ này có cái kính thuỷ tinh, mà các vị hỏi mượn... Vị nào nhận vật này đây?
Thượng Tam Đường chỉ Huyền Nguyệt nói:
- Xin đưa cho vị đạo trưởng này.
Người đàn bà đưa cặp mắt lạnh như băng nhìn Huyền Nguyệt hỏi:
- Đạo trưởng xuất thân ở môn phái nào, xin hãy cho biết đã.
Huyền Nguyệt nói:
- Bần đạo là Huyền Nguyệt phái Vũ Đương.
Người đàn bà chỉ chiếc hộp trên bàn, nói:
- Cái kính trong hộp này xin giao cho đạo trưởng, trước khi mặt trời lặn, xin lại đem đến chỗ này mà trả.
Nói xong, không đợi Huyền Nguyệt trả lời, lập tức rảo bước, lẩn vào sau bức màn trắng.
Đàm Khiếu Thiên nói nhỏ:
- Đạo trưởng thử mở cái hộp ra xem nào.
Huyền Nguyệt mỉm cười nói:
- Theo tôi đoán thì quyết không sai đâu.
Ngoài miệng tuy nói ra giọng quả quyết như vậy, nhưng trong bụng vẫn không khỏi nghi ngờ, bèn thuận tay mở nắp hộp ra.
Tất cả ngần ấy người, tuy đã được nghe tên ba món bảo vật từ lâu, nhưng đều chưa trông thấy bao giờ. Thấy Huyền Nguyệt mở nắp hộp ra, liền lập tức xúm cả lại xem.
Chỉ thấy trong chiếc hộp gỗ lót một lớp nhung đỏ rất dầy. Giữa hộp đặt ngay ngắn một miếng đá thủy tinh, vuông vắn hai tấc, dầy chừng nửa tấc, trong suốt.
Đó là chính tấm kính thuỷ tinh, một trong ba món bảo vật trông chỉ tầm thường có thế thôi. Quần hào xem xong không khỏi thất vọng. Ngôn Phượng Cương cười khẩy nói:
- Thì ra chỉ là một miếng đá thủy tinh thường, thế mà cũng được liệt vào hàng bảo vật! Mới biết các cụ ngày xưa cũng hay phóng đại quá.
Huyền Nguyệt lại cầm miếng kính ngắm kỹ một lúc, tuyệt không tìm thấy đặc điểm của nó ở chỗ nào, trong bụng bất giác cũng hơi ngớ, tự nghĩ: “Miếng kính này có gì quý, mà được liệt vào hàng ba món bảo vật?”
Ông để kính lên mắt soi, mới thấy cảnh vật trong nhà không một tơ hào nào không bị thu vào miếng kính, bốn phương tám góc, một mảy tóc cũng trông thấy rành rành.
Ngôn Phượng Cương thấy thần sắc Huyền Nguyệt có vẻ say sưa mê mải, trong bụng lấy làm kỳ quái, bèn hỏi:
- Đạo trưởng có thấy gì lạ không?
Huyền Nguyệt tấm tắc khen:
- Tinh hoa của nhật nguyệt dựng đục nên, lại do tay thợ khéo mài giũa, liệt danh vào hàng ba món bảo vật, quả không phải là hư truyền.
Ngôn Phượng Cương kinh ngạc nói:
- Nếu vậy chắc là có ma thuật? Đạo trưởng đưa tôi mượn xem một chút.
Huyền Nguyệt nói:
- Chúng ta hãy đem ra ngoài này soi thử cái dấu đỏ trong tay Tứ Quân Tử đã, rồi Ngôn huynh xem sau cũng không muộn.
Vừa nói vừa đứng lên bước ra ngoài sảnh. Quần hùng vừa toan đi theo, chợt nghe một giọng đàn bà lạnh lùng cất lên ở phía sau lưng:
- Các vị hãy thong thả. Ngọc rết giao cho ai đây?
Mọi người ngoảnh đầu lại, thấy Thường Tố Ngọc tay bưng chiếc hộp sắt, vừa từ trong nhà bước ra.
Thượng Tam Đường vừa toan chạy lại đỡ, thì Ngôn Phượng Cương đã bước lên đón trước nói:
- Xin giao cho tại hạ.
Thường Tố Ngọc nói:
- Xin các hạ cho biết tôn tính.
Ngôn Phượng Cương đáp:
- Tại hạ Ngôn Phượng Cương, chưởng môn đời thứ mười Ngôn gia môn đất Thần Châu.
Thường Tố Ngọc nói:
- Trước khi mặt trời lặn, xin lại đưa đến đây cho.
Nói xong cúi đặt chiếc hộp xuống đất, rồi nói:
- Trai gái không được trao tay cho nhau. Xin Ngôn chưởng môn thứ cho tôi cái tội vô lễ.
Ngôn Phượng Cương ho khan mấy tiếng rồi nói:
- Đó là lễ giáo, tôi đâu dám trách phu nhân.
Thường Tố Ngọc lạnh lùng cười nói:
- Xin phiền chưởng môn.
Nói xong quay ngoắt mình lại rảo bước đi ngay.
Ngôn Phượng Cương nhặt chiếc hộp lên, mở ra xem, bất đồ một luồng hơi lạnh từ trong hộp xông lên ông ta lẩm bẩm khen:
- Chẳng trách người ta liệt vào hàng tam bảo, cũng phải chỉ riêng có cái hơi lạnh của nó cũng đã đáng quý lắm rồi.
Chú ý trông trong hộp, chỉ thấy một viên ngọc rết trắng muốt, dài ngắn chừng ba tấc, soi rõ cả tóc râu mặt mũi, không khác gì tấm gương. Toàn thân viên ngọc đều trong suốt duy có sống lưng, là hơi lờ mờ hiện lên một cái gân đỏ. Ngọc đã quý lại nhờ được tay thợ khéo mài giũa, nên trông rất linh động, chỉ hơi nhác đi một chút, là trông loạn mắt ngay.
Ông ta đậy nắp hộp lại, rồi rảo bước đi ra.