Bức chân dung của người đàn bà lạ
Tác giả: Chu Lai
Vào một buổi tối ảm đạm, có một người đàn bà chừng trên bốn mươi tuổi đến gõ cửa phòng họa sĩ Lưu An.
- Xin phép hỏi bà là ai? Bà muốn gì ạ? - Ông nói.
Người đàn bà đưa đôi mắt đẹp và buồn thăm thẳm nhìn khắp gian phòng một lượt rồi dừng lại rất lâu trên khuôn mặt họa sĩ, lát sau mới nói chậm rãi: - Tôi đến đặt ông vẽ một bức chân dung.
- Chân dung ai?
- Người đang ngồi trước mặt ông.
Lưu An buông cây bút vẽ, nhìn lên. Trong đời cầm cọ, ông đã tiếp xúc với không ít các loại người, đã chứng kiến khá nhiều nhân vật nhưng vẻ điềm tĩnh, giọng nói tự tin thái quá ở người đàn bà này khiến ông hơi lạ. Dáng người gầy guộc, ăn vận xoàng xĩnh, khuôn mặt bình thường nếu không muốn nói có phần còn hơi tiều tụy. Tất cả chỉ có vậy thôi mà cớ sao ánh mắt lại tỏa ra nhiều vẻ tự tạo đến thế? Một đôi mắt hơi dài dại của người nghĩ ngợi nhiều. Tự nhiên ông thấy bực mình.
- Xin lỗi! Tại sao bà lại đến chính tôi chứ không phải một ai khác?
- Bởi vì tôi đã xem tranh của ông, vì người ta đã nói nhiều về ông. Tôi muốn có một bức tranh hoàn hảo, vậy thôi.
Hoàn hảo ư? Bà ta là cái gì mà lại có cái lối nói năng như một mệnh phụ phu nhân như thế? Hoàn hảo! Buồn cười! Chắc là lại một con mẹ thần kinh ngộ nghệ đến quấy rầy đây.
- Xin lỗi! - Ông cố nói bằng một chất giọng mềm mỏng để che đi cái cười giễu cợt cứ chực hiện ra nơi khóe mép - Tôi không vẽ chân dung và nói chung từ lâu tôi không màng tới thể loại này nữa. Bà có thể cảm phiền đi nơi khác.
- Tôi sẽ trả ông gấp mười người khác nếu ông vẽ.
- Gấp mười? - Tự dưng ông nổi máu tò mò - Tức là bao nhiêu thế thưa bà?
- Ba triệu.
- Ba triệu? Trời đất! - Ông trợn tròn mắt - Thế bà có biết vẽ một bức chân dung giá bình thường là bao nhiêu không? Tất nhiên bức vẽ ấy ít liên quan đến chất liệu vàng bạc.
- Tôi không biết vì hình như nghệ thuật không có giá.
- Vậy tại sao bà lại trả vậy?
- Tôi nghĩ ông sẽ có đủ tiền sống một năm để hoàn tất bức vẽ của tôi.
- Hả?... Bà nghĩ rằng, để vẽ xong bức chân dung ấy tôi phải bỏ ra một năm?
- Tôi cho là thế hoặc lâu hơn.
Tới đây thì họa sĩ Lưu An không chịu nổi nữa:
- Tóm lại bà là ai? Và bà muốn gì ở tôi?
- Tôi là một người đàn bà bình thường muốn có bức chân dung cuối đời của mình - Người đàn bà vẫn trả lời bình thản, sắc thái trong mắt vẫn không hề thay đổi - Và tôi sẽ trả công cho ông sòng phẳng, đúng như tài năng ông bỏ ra, đơn giản vậy thôi ạ!
Gõ gõ ngón tay bết mầu xuống mặt bàn một lát, ông nheo mắt nhìn người khách rồi nhìn ra ngoài khung cửa sổ, rồi lại nhìn khách... Cuối cùng ông đấu dịu.
- Thôi được rồi. Bà ghê gớm lắm! Thế bà muốn chất liệu nào? Bút sắt, sơn dầu, bột mầu hay sơn mài? Hay cả bốn thứ gộp lại?
- Tôi không quan tâm nhiều đến chất liệu, thưa ông! Đó là quyền của người vẽ. Cái tôi cần là: TÔI ĐÚNG LÀ TÔI. Ông muốn vẽ kiểu gì cũng được, càng giản dị càng tốt.
- Vâng! Thế bao giờ bà có thể cho tôi cái quyền được mời bà ngồi để tôi bắt đầu công việc?
- Ngay bây giờ nếu ông muốn.
- Vâng, ngay bây giờ, tôi chấp nhận. Mời bà ngồi vào cái ghế ở cạnh nơi cửa sổ kia. Mời bà! - Ông nói như ra lệnh.
Buổi chiều hôm đó, với một chút thích thú, chút tò mò, hiếu thắng và cả một chút cay cú xáo trộn trong đầu, họa sĩ Lưu An lôi cái khung vải giăng đầy mạng nhện bị bỏ quên lâu ngày ở gầm giường ra và bắt đầu công việc mà không hề có một tý nào hứng thú...
... Họa sĩ Lưu An lâu nay chưa động bút vẽ một bức chân dung nào nghiêm ngắn, cũng như ông chưa vẽ được một cái gì cho ra tấm ra món theo ý nghĩa thường gọi của ngành nghề cả. Ông đang lụn bại. Lụn bại toàn diện cả về cuộc sống, kinh tế hạnh phúc gia đình lẫn sự nghiệp. Sau khi người vợ trẻ cùng nghề của ông bỏ ông ra đi cùng với đứa con trai mười hai tuổi, sau khi cái Gallery thứ hai của ông bị phá sản, bị giới phê bình chỉ trích, bị người đời quên lãng, không bán được một cái tranh nào, ông bắt đầu xa rời dần nghệ thuật. Buồn chán, thiếu thốn, cô đơn và nợ nần, ông không từ chối bất cứ một thứ gì có thể kiếm ra tiền mà ít phải đổ tâm huyết nhiều nhất: Kẻ biển, vẽ pa nô, áp phích, đắp tượng, viết khẩu hiệu... Cho tất cả các hội trường, nơi công cộng, đám cưới. Nếu có bạn bè giới thiệu, ông sẵn sàng đêm ngày lao động vào những sê-ri tranh lụa theo mô-típ quen thuộc: cây đa, bến nước, sân đình, nhằm thỏa mãn thị hiếu cho những người ngoại quốc lắm tiền ưa mốt lạ Đông phương yên ả. Tóm lại là ông làm hết, làm đúng theo nghĩa thợ mặc dù đã có một thời ông rất đỗi khinh miệt cái từ giẻ rách này, mặc dù đã có một thời ông là tay vẽ tài hoa, luôn đứng cạnh những họa sĩ bậc thầy, cây đa cây đề của quốc gia mà không thấy tủi hổ.
Tuy vậy, cùng với năm tháng nghiệt ngã, dẫu rằng những ngón tay nghệ sĩ nơi ông đã méo mó đi nhưng trái tim nghệ sĩ chân thật trong ngực ông vẫn thập thõm đập khôn nguôi ở một chỗ nào đó sâu kín lắm. Ông day dứt, ông khổ sở, ông đau đớn, ê chề mỗi khi phải ngửa tay nhận những đồng tiền gần như của bố thí của thiên hạ. Ông triền miên nhận thấy khoảng trống rỗng nhạt thếch ở trong lòng mình mỗi ngày mỗi nới rộng mà không sao vùng thoát ra được. Ông buông lơi mình vào những ly rượu sáng đêm và để hôm sau ngủ dậy, mồm miệng đắng nghét, lại tiếp nhận thêm một cái com-măng uốn sấy tóc, chữa truyền hình tủ lạnh, chuyên trị bệnh đái đường, đái buốt, đái ra mủ... khác. Công sản ra quấy quá, tiền thu vào rẻ mạt, lắt lẻo sống qua ngày, qua cái thời ly loạn của nghệ thuật, cái thời thứ rởm cưỡng dâm thứ thật, cái thời mọi giá trị tinh thần, vật chất đều hết sức lộn sòng, cái thời chứa chấp cuộc đồng tính luyến ái dữ dội giữa ăn xài và phá phách.
Vậy thì để có ba triệu cho một bức chân dung nhạt nhẽo như thế này là béo bở quá rồi còn gì. Cám ơn trời phật đã run rủi cho con mẹ trưởng giả học làm sang ấy đến đây để ông có thể sống được một năm sạch sẽ, không phải bán linh hồn cho hè phố, không bị ba cái đái buốt, đái ra mủ kia réo gào, úp chụp lên đầu. Và như thế biết đâu chả có thể trở lại, vẽ lai được một cái gì đó của chính mình chăng? Biết đâu!... Lây lan một chút khoái trá mơ hồ, ông mỉm cười huơ bút vẽ lên...
Nhưng sự đời lại không giống như ông tưởng.
Với một bức chân dung đơn giản như thế này, ông dự tính phác mộc mất một ngày, phẩy mầu hai ngày, vị chi chỉ cần khoảng ba ngày hoặc bốn ngày là xong, là nhận được tiền. Nhưng... Thật kỳ lạ! Ngay ở giai đoạn vẽ mộc, ông đã thấy cây bút trong tay mình vấp váp liên tục, vấp váp đến khốn khổ, như có một lực cản siêu hình nào đó cứ độc địa lái ngọn bút của ông đi chệch khỏi mọi thứ cảm nhận thông thường.
Người đàn bà vẫn ngồi đó, lặng phắc, cạnh cửa sổ, bình thản, đôi mắt nhìn xa xăm ra ngoài khung trời hình vuông, đôi môi mím nhẹ không ra vui cũng không ra buồn, có lúc lại nhạt nhòa vô cảm, ngồi đó mà cũng không phải ngồi đó... Chỉ thế thôi mà hai giờ đồng hồ đã trôi qua, ông vẫn không tài nào nắm bắt được cái thần sắc mà xét đến cùng là chẳng có chi đặc biệt ấy. Ông đã thay đến khung vải thứ ba, thay đến tờ crô - ki thứ tư mà khuôn mặt bình dị của người đàn bà kia vẫn vuột đi xa tít, vô hình vô ảnh. Mồ hôi ông vã ra, ngực nóng ran, sống lưng mỏi dần, hai bàn tay cóng ngọng lại tưởng chừng như là tay của kẻ khác. Ông có cảm giác mình sắp sửa lên cơn sốt rét rung võng như những ngày ở Trường Sơn năm nào... Và ông buông bút xuống, bất lực:
- Xin lỗi! Hôm nay tôi hơi... bị mệt. Hẹn bà ngày mai trở lại.
Người đàn bà chớp mắt đứng dậy, vẫn bình thản đến tê lạnh nhưng đôi mắt nhìn vào ông thật buồn, nét mặt cũng thật buồn, cái buồn sâu thẳm, xót xa mà chỉ thoáng nhìn vào, ông đã thấy mình bị ngợp.
- Ngày mai... Rất tiếc là tôi không thể trở lại được - Người đàn bà nói bằng cái giọng âm u thoảng nhẹ.
- Thế thì tôi biết phải làm sao bây giờ? - Ông gắt lên - Bà định đùa tôi chắc? Không có ai vẽ một cái chân dung nghiêm chỉnh mà người mẫu chỉ ngồi đó có hai giờ đồng hồ bao giờ, bà hiểu chưa?
- Tôi hiểu - Người đàn bà vẫn hết sức từ tốn, thậm chí lại có phần dịu dàng hơn - Chính thế mà tôi phải đi hai trăm cây số đến đây nhờ ông và tôi tin ở ông.
- Bà mang cái tin ấy đi mà thờ Chúa. Tôi chỉ là một thằng người.
- Vâng! - Người đàn bà nói sau một chút cắn môi ngẫm nghĩ - Tôi sẽ cố... trở lại. Nhưng nếu không trở lại được, tôi xin gửi ông tấm ảnh này. ảnh tôi chụp đầu năm, ông có thể căn cứ vào đó. Tôi xin phép đưa trước ông hai triệu. Sáu tháng sau, cũng ngày này, giờ này, sẽ có người tới đưa nốt cho ông một triệu và mang tranh về. Xin phép ông. Chúc ông thành công!
Đặt số tiền được nói trong một miếng dù pháo sáng mầu cỏ úa có chút phẩm đỏ loang trên mặt như cánh hoa niêm phong lên bàn, không để cho ông phản ứng gì, bà ta cầm lấy túi xách tay đi luôn ra cửa.
Phải mất một lúc lâu sau đó, ông vẫn chưa hiểu cái gì đã vừa xảy ra với mình và tự trong xôn xao tiềm thức, ông còn cảm nhận rõ cái hơi hướng lạ lẫm, vô hình của người đàn bà bí hiểm ấy vương lại trong lòng. Họa sĩ không bật đèn, ngồi lặng đi trong bóng tối rồi vỡ òa một tràng cười mà không hiểu mình cười cái gì?
*
Ngày hôm sau họa sĩ Lưu An treo tấm biển ĐI VẮNG ngay trước cửa rồi lặng lẽ ngồi vào góc nhà nơi có cái khung vải trắng sáp và tấm hình của bà ta để lại kẹp bên cạnh.
Ông làm việc âm thầm và nhọc mệt. Bà hàng xóm phòng đối diện chỉ thấy mỗi ngày ông láng giềng tốt bụng và hơi lẩn thẩn mở cửa đi ra ngoài một lần ăn uống cái gì đó rồi lại trở vào khóa trái cửa. Bà ái ngại thấy mỗi ngày ông mỗi gầy đi và đôi mắt cứ long lanh như đang lên cơn sốt.
Ông đang lên cơn sốt thật! Cơn sốt sáng tạo, cơn sốt đam mê vĩ cuồng. Ông đang cô độc trải qua cơn vật vã tinh thần mà đã lâu lắm rồi nó chưa hề trở lại với ông. Những cái khung vải được thay nhau nhét xuống gầm giường. Những tờ giấy crô-ki lem nhem liên tục bị xé, vo viên quẳng vào sọt rác. Nhưng bức chân dung vẫn chưa nhích thêm được một chút nào thậm chí, bằng bề dày kinh nghiệm ông cảm thấy nó không thể nhích thêm được nữa! Quái lạ! Khuôn mặt người đàn bà cứ phồng lên xẹp xuống, lúc xa lúc gần, khi mờ khi hiện, như ảo ảnh, như ma trơi, tưởng đã nắm bắt được rồi nhưng mở tay ra lại trống trơn chẳng có gì. Có lúc ông ghì mắt vào tấm ảnh căn theo từng nét, có lúc lại che nó đi bằng giấy báo để vẽ bằng ký ức bức sốt và cũng có khi ông vẽ bằng cả hai: Nhìn và nhớ nhưng tất cả đều vô hiệu. Vẫn không đúng, không giống, vẫn không phải bà ta. Bà ta... Đến bây giờ nghĩ lại, nhớ lại, chiêm nghiệm lại, ông mới chợt nhận ra rằng khuôn mặt ấy không nhợt nhòa như ông tưởng. Một khuôn mặt vừa dịu hiền vừa cương nghị, vừa u hoài vừa rộn ràng sức sống, sâu sa và bồng bột, vừa ấm nóng vừa lạnh tanh, đằng sau cái vẻ bình thản kia là cả một dòng lũ nội tâm chảy xiết, lặng tờ đấy nhưng lại thật nhiều giằng xé, yếu đuối vô cùng mà lại sắc sảo biết bao... Và đôi mắt nữa! Dường như có cả một trời những mâu thuẫn, những nét nghịch đảo cùng ẩn chứa đằng sau cái vẻ buồn dìu dịu ấy. Trời ơi! Có lẽ mọi điều nan giải, mọi điều bí mật về hạt nhân hình họa đều nằm cả trong đôi mắt này.
Thời gian lặng lẽ trôi qua trong căn phòng nhỏ. Một tháng... Hai tháng... Rồi ba tháng... Phần phác thảo mộc vẫn chưa xong. Người đàn bà cũng không thấy trở lại nữa!
Đã có lần ông đã quyết định đóng cửa phòng đi tìm nhưng ra đến ngã ba, ông lại quay trở vào. Bà ấy, con quỷ hiện hình ấy có để lại một mẩu địa chỉ nào đâu ngoài cái gói tiền chết giẫm có cánh hoa đỏ loang ra trên miếng dù xanh pháo sáng kia. Ông đã nghĩ. Nếu bà ta quay lại, dứt khoát ông sẽ trả lại tiền, nếu cần trả cả lãi suất luôn thể để thoát khỏi cái cảnh bẽ bàng này, để đêm đêm khỏi bị cái khuôn mặt có đôi mắt quái dị kia ám ảnh nữa. Đúng là quái dị thật! Người đàn bà hiện về từ cái thế giới hư vô quái dị nào để làm tình làm tội ông đây?
Mà cũng thật kỳ lạ! Đã có lúc mệt mỏi quá, ông quẳng ráo trọi cả đồ nghề ra vườn, quyết định không vẽ nữa. Nhưng nửa đêm, không hiểu sao, như có một ma lực hối thúc, ông lồm cồm trở dậy nhặt lại từng cái. Nỗi nhọc nhằn phi thực này lâu dần đã ăn sâu vào đầu óc ông, càng nhọc nhằn, ông lại càng thấy gắn bó vô hình với nó, rồi như không thể thiếu được nó. Nó và ông, hai thành phần ghét bỏ nhau đã nhào trộn vào nhau thành một. Tâm hồn ông cựa quậy, trái tim ông thắt bóp, mạch máu ông chảy mạnh hơn, trong ông đang biến cải, đang rục rịch sống lại một cái gì lạ lắm, thân thiết lắm nhưng cũng xa ngái lắm mà ông không tự biết...
... Cũng vào một đêm như thế, sau cả một ngày làm việc mụ mị, họa sĩ rơi người vào trong một vùng ký ức xa xôi mà đã lâu lắm rồi ông không còn nhớ đến... Đó là một đêm mưa rừng rơi không dứt, gió lạnh mang theo những hạt mưa li ti từ khắp nơi thổi qua kẽ lá. Trong lán chỉ có hai người: Ông, một họa sĩ trẻ mới từ nước ngoài trở về tình nguyện xin vào ngay chiến trường và cô gái giao liên đang trên đường dẫn ông đến binh trạm. Ngọn lửa nhỏ bùng lên, soi tỏ khuôn mặt trẻ thơ mịn màng. Quần áo cô ướt sũng, bó dính lấy cái cơ thể nở nang, tròn lẳn của độ tuổi đang sức mười tám đôi mươi. Lửa vẫn nổ tí tách. Không hiểu do lửa hay hơi ấm từ cái thân thể rừng rực kia tỏa ra, ông bỗng thấy nóng ran cả người. Đột nhiên ông muốn vẽ và khe khẽ yêu cầu cô cứ thế ngồi yên lặng. Rừng đêm... Mưa gió... Chiến tranh... Chết chóc... Đời con gái gian nan... Ngày mai cái gì sẽ xảy ra với cô? Liệu có còn được gặp lại nhau một lần?... Dòng cảm xúc lãng mạn và ngậm ngùi choáng ngợp, ông vừa vẽ vừa thấy lòng mình rung lên khác lạ... Cô gái vẫn ngồi lành hiền như con sóc, con chim bé bỏng ướt át tội tình bên ánh lửa. Một khuôn mặt cằm tròn, một nước da xanh mầu lá đang ửng hồng, một sống mũi xinh xinh, một đôi mắt nhìn đi đâu xa xăm về phía bên kia ánh lửa, lửa chơi vơi trong mắt, lửa viền quanh má cô một đường sáng tạo nao lòng... Rồi đột ngột đôi mắt ấy quay lại phía ông. Đôi mắt ấy không rời ông ra nữa. Đau đáu, khắc khoải, chới với, dạn dĩ và xót xa đến ngượng ngùng. Trái tim ông ớn lạnh. Thân thể cường tráng nơi ông hối thúc ông được che chở, được hong khô, sưởi ấm. Mắt ông bắt ánh lửa trong mắt cô, cháy lên. Ông tiến lại... Ai đã trải tấm dù pháo sáng mầu cỏ úa trên vai cô xuống nền đất ẩm? Em chết mất!... Khuôn ngực căng cứng của cô nâng ông lên, sưởi ông và dìm ông xuống, chìm lịm, ôi anh! Ôi anh!... Em chết mất!... Cô cắn vào vai ông đến rớm máu. Suốt đời em sẽ chờ anh! Cô nói lên, đôi môi nhỏ nhòa máu và nước mắt... Khi đỡ cô ngồi dậy, dường như ông thoáng nhìn thấy có một chút sắc đỏ vương lại trên lá dù mầu cỏ úa...
Sáng hôm sau trở dậy, ông không còn thấy cô gái đâu nữa! Một đoàn khách cần cô nhanh chóng dẫn ngược trở lại để tránh tọa độ B52. Còn ông, sau một chút bâng khuâng, ông tiếp tục hăm hở đi sâu xuống mặt trận. Sâu nữa... Và từ ấy, bao cảnh đời đã trôi qua, bao trận đánh đã ập vào, vài ba cô gái khác cũng đã đến với ông rồi lại đi, thú thật ông không có thời gian nghĩ đến, không kịp nghĩ đến cô nữa - Một cô gái giao liên ngẫu nhiên gặp giữa rừng mà vội vàng tới nỗi, cái tên cô ông cũng không hỏi kịp! Rồi hòa bình...
Tiếng nổ cháy rừng và mùi khét lẹt xộc lên khiến ông choàng tỉnh... Một ngọn lửa nhỏ đang phực lên nơi khung vải ông đang vẽ dở. Ngọn lửa đang liếm gần vào tấm ảnh người đàn bà. Tấm ảnh cong lên... Ông chợt nhớ đêm qua mất điện, ông phải đốt nến làm việc rồi mệt quá thiếp đi. Lát sau, khi ông cuống quýt dập rụi được ngọn lửa thì tấm ảnh đã cháy sém hết một phần ba!... Nhưng chính hai phần còn lại đã làm ông sững sờ!... Chao ôi! Dưới quầng sáng nhập nhòa của cây nến mới được đốt lại, trong cái mùi khen khét quá ư quen thuộc của rừng bị đốt cháy, của bom đạn còn vương vất đâu đây, khuôn mặt người đàn bà bỗng dưng mềm lại, trẻ thơ mịn màng, đang rọi về ông cái ánh nhìn bé bỏng, tội tình và có phần trách móc... Ông vồ lấy tấm ảnh đưa ra sát ngọn nến... Nhưng rồi ông lại buông rơi xuống, tuyệt vọng! Khuôn mặt có viền sáng nôn nao của cô gáo giao liên năm nào không còn nữa, trong hình vẫn chỉ là nét mặt bí hiểm của người đàn bà đang nhìn ông hết sức dửng dưng.
Nhưng như thế cũng là đủ.
Cái khoảnh khắc ma quái không rõ từ trong ông tỏa ra hay do chính tấm ảnh kia xuất thần, như một chớp lửa rừng già, đã làm đầu óc ông sáng bừng lên. Ông đã hiểu mình phải vẽ cái gì và vẽ như thế nào rồi. Trời ơi! Tất cả chỉ là một chút ánh hồng nơi khóe mắt và một nét phẩy nhỏ ở khóe môi. Chỉ thế thôi là khuôn mặt người đàn bà kia sẽ khác hẳn mà tại sao suốt ba tháng trời vật lộn mà ông không thể nghĩ ra? Phải chăng ngọn lửa rừng năm ấy và ngọn nến cháy lan vào ảnh hôm nay đã soi tỏ cho ông một chi tiết mà nếu có khổ công tìm tòi cả đời trong phòng kín chắc cũng không ra?
Toàn bộ cảm hứng nơi ông tưởng đã giá lạnh, giờ đây bỗng nóng bức trở ngược về quá khứ, trở ngược về những năm tháng đau thương và lãng mạn, những năm tháng quá đỗi nhọc nhằn nhưng cũng là những năm tháng trong trẻo, đẹp đẽ nhất đời ông, thế hệ của ông. Và ông vẽ. Vẽ đêm ngày mài miệt. Tấm biển ĐI VẮNG vẫn im phắc treo ngoài cửa. Những khung vải không còn bị vất xuống gầm giường, những tờ crô-ki dày dặn đã nằm yên trên giá. Bức phác thảo xong, ông định sử dụng bột mầu nhưng sau đó ông lại quyết định xử lý những gam mầu chói gắt và thâm trầm của sơn dầu. Tất cả chỉ là một chút ánh hồng thẳm sâu nơi khóe mắt, một nét phẩy nhỏ ngọt ngào nơi khóe môi, một đường viền tỏa rạng nâng cả khuôn mặt lên khỏi mọi nỗi gian truân và ngầu bọt. Cái gian truân của ngày hôm qua và cái ngầu bọt ngày hôm nay. Ông lại đang bồng bềnh trong một cơn sốt. Cơn sốt đam mê của sáng tạo. Cơn sốt quá khứ. Ông không chỉ vẽ một bức chân dung, sâu đậm hơn, ông đang sống lại và làm sống lại qua hình ảnh của người đàn bà đó một thời trai trẻ sống động, thuần phác tươi nguyên của mình. Đã lâu lắm rồi ông mới lại có những khoảnh khắc sáng tạo hết mình, sáng tạo thăng hoa đến tan chảy thế này.
Đúng sáu tháng sau, bức chân dung được hoàn tất bằng một nét chấm phá táo bạo cuối cùng. Họa sĩ gần như kiệt sức, thân thể gầy tọp đi đến năm ký lô, tóc bạc nhiều hơn nhưng riêng đôi mắt lại bàng bạc một cõi tĩnh lặng siêu phàm.
Tắm rửa sạch sẽ, cạo râu, thay một bộ đồ mới, ăn một bữa cơm tiệm thật ngon, ông trở về ngồi im lặng ngắm bức tranh, bồn chồn chờ chủ nhân của nó đến tiếp nhận. Nắng chiều từ ngoài cửa sổ tràn vào dịu nhẹ. Khuôn mặt người đàn bà sáng tỏa trong một vẻ đẹp nội tâm khác lạ. Vẫn là khuôn mặt ấy nhưng thấm đậm hơn, thần sắc hơn. Vẫn là cái ánh nhìn dìu dịu buồn ấy nhưng lại lom dom cháy những đốm sáng của sự vị tha nhân hậu, của sự sắt son chung thủy bên trong. Nhìn vào đó, tâm hồn ta bỗng tự dưng yên ả dù cuộc đời có ngang ngửa thế nào cũng chẳng nỡ đánh mất niềm tin. Đôi mắt biết nói, biết chia sẻ và biết tâm tình se sẽ. Đôi mắt của cô gái giao liên áo quần sũng ướt ngày nào pha trộn với cái nhìn điềm tĩnh thể tất của người đàn bà đã luống tuổi hôm nay.
Một tiếng gõ cửa khe khẽ vang lên... Cô ấy rồi! Bà ấy đến rồi! Người họa sĩ già reo thầm một tiếng trong đầu. Chao, tối nay nếu có thể được, ông sẽ nói với bà ấy thật nhiều, sẽ ôn lại, kể lại mọi thứ chuyện và nếu... Nếu bà ấy không để bụng, không ruồng rẫy, không oán trách thì biết đâu... Phải, biết đâu hai người có thể sống lại những giây phút đã lùi xa bên ngọn lửa giữa cánh rừng bom đạn ấy? Với tâm trạng hết sức bồi hồi, ông run run đặt tay lên nắm đấm cửa...
Nhưng hiện ra trước mặt ông không phải bà ta mà lại là một cô gái mảnh khảnh có cái nhìn tư lự. Cô ta mở to đôi mắt khá đẹp nhìn ông một lát rồi nói nhỏ:
- Bà hiệu trưởng nhờ cháu đến bác lấy bức tranh.
- Bà hiệu trưởng nào? - Ông hỏi với giọng có chiều hụt hẫng.
- Bà hiệu trưởng cách đây đúng sáu tháng đã đặt bác vẽ một bức chân dung.
- Nhưng... Thế bà ấy đâu - Giọng ông đã tỏ ra sốt ruột - Và cô là ai?
- Dạ, đây là thư của bà ấy, bác đọc sẽ rõ.
Mải cập rập xé chiếc phong bì dán rất cẩn thận, ông họa sĩ không để ý thấy cô gái đang quan sát căn phòng của ông cũng vẫn bằng đôi mắt chậm rãi dìu dịu buồn của người đàn bà cách đây sáu tháng kia.
Bức thư viết bằng nét chữ rời rạc, có đôi đoạn gẫy vụn:
"Anh Lưu An!
Chắc anh đã vẽ xong bức chân dung và chắc anh cũng đã nhớ ra em là ai. Xin lỗi đã làm cho anh phải nhọc lòng và phải nhớ những điều không nên nhớ. Anh biết không? Sau cái đêm ở lán ấy, em đi tìm anh khắp nơi, đi hỏi tin anh ở khắp mọi chỗ nhưng có người nói anh đã chuyển ra Bắc, người khác nói anh đi xuống sát ven đô, lại có người bảo anh bị thương, bị sốt rét ác tính chết rồi! Buồn quá! Em khóc suốt một tuần rồi làm một mâm giữa rừng giỗ anh. ít tháng sau em được điều đi học. Ra trường em lấy chồng, sinh con nhưng hình ảnh anh không lúc nào nguôi ngoai trong em. Đó là mối tình đầu, là lần hiến dâng thứ nhất, trọn vẹn và say đắm không bao giờ có được nữa. Anh có tin không? Có lẽ cái vết đỏ vương lại trên tấm dù mầu cỏ úa, dấu hiệu một đời trinh trắng hiến cho anh đêm đó sẽ nói hộ em nhiều hơn những điều em muốn nói.
Thế rồi một lần đọc báo thấy hình anh và phòng tranh GALLERY đầu tiên của anh, em đã mừng đến rơi nước mắt. Em đã lén đến đó để được nhìn anh, chứng kiến thành công của anh và cũng để biết anh có... gia đình, một gia đình thuận hòa, ấm cúng và đàng hoàng. Người ta bảo thế. Trước tình cảnh ấy, em tự cảm thấy mình thừa, thấy là rất vô duyên nếu đứng ra nhận anh. Nhận để làm gì khi giữa hai người không còn gì nữa, khi anh đang được vầng hào quang của thành công vây bủa bốn xung quanh và nhận làm gì khi nghĩ rằng, chắc gì anh đã còn nhớ em, một con bé giao liên mờ nhạt ngẫu nhiên gặp giữa rừng rồi sớm mai lại chia tay. Thì đến ngay cái tên của em anh đâu đã kịp hỏi kia mà! Thế là em ầm thầm đi ngược lại trăm cây số trở về...
Nhưng, giống như sự ám ảnh của vô thức của một thời sôi nổi không thể dùng lý trí thoát vùng ra được, thỉnh thoảng em vẫn đến với anh. Đến để không dám vào, đến để chỉ lảng vảng ngoài đường nhìn qua hàng song sắt vào phòng vẽ của anh rồi lại lủi thủi ra về. Chính trong những lần như thế, em đã được biết được gia đình anh không còn thuận hòa như trước. Vợ anh không yêu anh. Anh bỏ bê công việc, cái GALLERY thứ hai của anh không có tiếng vang... Có lần nhìn anh bơ phờ đi lại trong phòng, tóc bạc từng đám, hai mắt trũng sâu, tay cầm cái bánh mì mà không đưa lên miệng nhai nổi, thương quá, em đã định cứ liều vào với anh, chăm sóc anh, được nói với anh vài điều nhưng rồi em lại quay đi. Là đàn bà với nhau, dù có thế nào em cũng không thể nhân dịp này mà nhảy vào chiếm chỗ của cô ấy. Em không thể. Rồi vợ chồng anh chia tay. Rồi anh xa rời nghệ thuật, anh hoàn toàn không còn là anh nữa...
Đó cũng chính là lúc em bắt đầu phát bệnh do thứ chất độc da cam đã ủ trong thân thể từ hồi ở rừng mà không biết. Em biết mình không còn sống lâu nữa và càng cồn cào nghĩ đến anh. Và thế là em đã quyết định tìm đến anh để đặt vẽ một bức chân dung. Em đâu có thích chân dung nhưng thấp thỏm hy vọng rằng nó sẽ là cái cớ để nhắc anh trở về với những năm tháng tốt đẹp nhất của chúng ta, để mong anh tĩnh trí lại. Thế thôi. Và không hiểu sao em tin anh sẽ tĩnh trí được.
Anh Lưu An! Khi anh nhận được thư này thì em đã đi rồi. Đi xa lắm! Phận em thế là xong, hoàn toàn thanh thản. Chỉ áy náy về anh như áy náy về một cái gì thân thiết nhất nhưng cũng mỏng manh không có thật nhất của đời mình. Lạ thế! Trong trái tim yếu đuối của đàn bà chúng em, có những góc sâu lắng mà đàn ông các anh ồn ào không bao giờ hiểu nổi đâu.
Em đã đến giờ phải đi... Em cầu mong cho anh sức khỏe, niềm vui, nghị lực và trở lại đúng là anh những ngày ấy. Xin trả nốt anh số tiền còn lại nhưng không phải số tiền một triệu mà là mười lăm triệu. Cả cuộc đời, cộng thêm vài lần đi nước ngoài, em đã dành dụm được, chỉ có thế. Em để lại cho chồng em một nửa và anh một nửa. Anh có thể sử dụng nó vào GALLERY thứ ba của anh tới đây được không? Em mong...
Bởi vì, đây mới là điều hệ trọng nhất: Cô gái cầm số tiền này đến anh để lấy bức chân dung chính là giọt máu anh đã để lại trong em sau cái đêm rừng mưa rơi không dứt ấy. Tên nó là An!
Vĩnh biệt anh!"
Đọc xong lá thư, mắt nhòa lệ nhìn lên, người họa sĩ già bỗng thảng thốt rùng mình... Trời! Có phải cái cô gái giao liên áo quần ướt sũng có đôi mắt ngây thơ, khắc khoải bên ngọn lửa lán trại năm nào đang đau đáu nhìn ông kia không?
- Con!... Tiếng gọi thốt lên từ buồng phổi ọp ẹp không đủ sức thoát ra ngoài mà lại chìm sâu vào gan ruột.
Cho đến bây giờ đã ba năm trôi qua rồi mà chị vẫn không giận, không trách gì người ấy. Chỉ thoáng buồn.
Một nỗi buồn ngọt dịu như lần nào đó đi giữa đồng bưng đưa hạt lúa còn ngậm sữa lên cắn chắt cho cái hương vị làm đòng của nó cứ đọng lại mãi trong miệng. Nhưng chị nhớ. Nhớ như câu chuyện lạ lùng không thể hiểu được ấy mới chỉ xảy ra ngày hôm qua, hôm nay...
Đó là một buổi tối chị phải tiếp một đoàn khách ở ngoài Bộ vừa mới vào. Ôi dào! Cái sự tiếp khách này có cái gì là mới đâu, năm nào chả tiếp, tháng nào chả tiếp, tiếp đến mòn chân, đến mệt mỏi, đến thành chiếu lệ, cố cười, cố nói cho qua đi để rồi lại trở về công việc quá sức bận rộn của mình. Khách không đến thì buồn, thì như cái anh bị bỏ rơi chả ai thèm ngó ngàng tới; khách đến nhiều quá đôi khi lại thành ra cái tội, cái nợ nhưng không thể không tiếp.
Và đối với chị, khách nào cũng giống khách nào, hỏi han một chập, ghi ghi chép chép một chập, ăn ăn uống uống một chập nữa rồi chia tay, chả để tâm để ý làm gì. Nhưng đoàn này thì không.
Vì có người ấy.
Thoạt gặp, chị cũng chả có ấn tượng gì đặc biệt: cao lớn, ăn vận đúng mốt, trẻ trung, có lẽ phải trẻ hơn chị đến dăm tuổi, mặt mày sáng láng... thì cũng giống như mọi vị khách thuộc các cơ quan cấp trên khác, mặt mày ai chả sáng láng, có gì lạ đâu. Cái khiến chị thoáng có chút để ý là đôi mắt của anh ta. Đàn ông đàn ang gì mà mắt cứ ướt như mắt đàn bà, to, sâu chăm chắm, nhìn đó mà cũng như không nhìn gì cả. Một đôi mắt lãnh cảm và cả đa cảm. Lúc giá băng lúc lại như có lửa cháy nồng nàn. Nếu chỉ là nồng nàn hay nồng nhiệt không thôi thì chị cũng chưa lấy đó làm điều, vì bao năm qua cái sự nồng nàn của kẻ khác giới này chị đã phải hứng chịu quá dư thừa rồi. Chị biết hình như mình đẹp. Nói đúng ra chính những cái nhìn ngây ngây của đủ các loại khách thập phương tứ xứ kia đã giúp cho chị chợt nhận ra điều đó. Thậm chí có cả những câu tán dương nghe lần đầu thấy chếnh choáng nhưng nghe nhiều lại thành ra nhàm, đại để: “Nhân danh một kẻ đã đi khắp Bắc - Trung - Nam, xin mạo muội đưa ra một nhận xét: có lẽ chị là một nữ giám đốc thuộc loại đẹp và quyến rũ vào hàng bậc nhất quốc gia”. Hay: “Thưa bà, cánh chim đầu đàn về xuất nhập khẩu vùng sông nước, giữa nhan sắc và tài năng kinh doanh là một cặp đối lập, cái này sẽ tiêu huỷ cái kia, vậy mà ở bà lại có thể dung hoà được, không tiêu huỷ mà lại còn tôn nhau lên, xin bái phục!”. Bữa tiệc tối nay cũng vậy, cũng những câu nói, những lời chúc đầy vẻ ga lăng đến quá quắt như thế, và nữ chủ nhân cũng chỉ mỉm cười. Một nét cười mỉm mang đầy chất thường trực vừa độ.
Nhưng riêng người ấy lại chẳng nói câu nào. Uống rất nhiều mà lại không nói, vậy thì cái men rượu kia nó lặn đi đâu? Không nói nhưng đôi mắt ấy đã nói nhiều hơn tất cả. Một chút khao khát, một chút buồn thương, một chút tiếc nuối, một chút giận hờn và cả một chút kiêu bạc. Cái cung cách là lạ trong cả một đám thực khách xô bồ, ăn to nói to ấy đã gợi lên trong chị một chút tò mò, cả một chút áy náy e rằng hay là mình đã có cái gì sơ suất trong chuyện tiếp khách chăng. Với tất cả vẻ ân cần, mềm mại của chủ nhà, chị đem một li rượu đến gần anh, nói khẽ:
- Chúc sức khỏe tiến sĩ. Hy vọng sau chuyến đi này, tiến sĩ sẽ giúp cho tổng công ty tôi được nhiều ý kiến quý giá.
Không đáp lời, anh ta chỉ nâng chiếc ly lên, chạm nhẹ rồi uống cạn. Khi đáy ly không còn một giọt thì cũng là lúc đôi mắt của anh ta hiện ra, chờm ngợp, thăm thẳm, sát gần... Thoáng rùng mình trước cái nhìn xuyên thấu ấy, chị bỏ đi về chỗ. Đôi mắt anh ta nhìn theo, nhìn theo cho đến khi chị ngồi xuống với một chút chếnh choáng không tránh khỏi do ly rượu thứ mấy rồi không biết nữa buộc phải uống theo phép tắc ngoại giao đem lại. Chính cái chếnh choáng đó đã khiến chút kiêu kỳ của người đàn bà trong chị sống dậy. Nhìn à? Thích nhìn lắm à? Vậy thì nhìn đi, anh bạn trẻ! Lần đầu tiên chị chiếu thẳng cái nhìn vào anh, rất thẳng thắn và chắc mẩm rằng, cùng lắm chỉ vài giây là đôi mắt khó chịu kia sẽ phải cụp xuống hoặc nhìn lảng đi như không ít kẻ đã từng phải lảng đi.
Nhưng không, chị nhầm, người đàn bà từng trải và đáo để trong chị đã nhầm. Đôi mắt kia vẫn rọi tới, chai lì, trấn áp, xô đẩy và lạ hơn nữa là trong đám sương mù rối tinh đó có cả một chút thương cảm, ái ngại lấp loá. Và rồi chính chị lại không chịu nổi phải nhìn lảng đi. Sao thế nhỉ? Sao hắn ta lại tự cho phép mình có thể có cái kiểu nhìn hỗn hào ấy nhỉ? Thương cảm và ái ngại à? Hay là đâu đó đã rò rỉ cái gia cảnh chẳng mấy hay ho của mình? Cái gia cảnh có một anh chồng vô tích sự suốt ngày dựa vào tiền bạc, uy thế của vợ để tự dìm đời mình trong các bàn nhậu.
Suy nghĩ ấy khiến đầu óc chị oải ra, trống trải và thấy cái buổi tối nay sao quá dài, nặng nề, vô duyên và tẻ nhạt đến nỗi nếu như không phải là chủ nhà thì chị đã dứt khoát tìm cớ bỏ đi từ lâu rồi.
Cau mày, chị nhìn quật trở lại đôi mắt kia với một cái nhìn thô mạnh như một câu mắng. Thừa. Đôi mắt ấy vẫn không thay đổi góc độ, thậm chí còn hun hút hơn, chỉ khác lần này cái ánh mắt ái ngại, thương cảm mà chị tưởng tượng ra kia không còn nữa, thay vào đó là một đốm lửa cháy lom đom đang toả ra hơi ấm dìu dịu. Đến đây thì thực sự không chịu nổi cái đốm sáng ma trơi quái ác ấy, chị quyết định gạt bỏ anh ta qua một bên và quay sang trao đổi với vị trưởng đoàn có cái đầu hói bốc đến tận ót.
Câu chuyện chỉ dừng ở đó thôi thì chưa có điều gì xảy ra nếu như sau đó, theo lệ thường, đoàn khách được mời đến một điểm cách xa nội thành để thưởng thức một chương trình đờn ca tài tử. Lại rượu, lại ánh đèn mờ ảo, chỉ thêm những làn điệu mê hồn của một dòng dân ca đậm chất folklore có khả năng làm đắm chìm cảm xúc khách vãng lai.
Và điều bất ngờ ấy đã xảy ra. Xảy ra khi đoàn khách nhất định cứ nồng nhiệt đòi chị với tư cách là chủ nhân phải đứng lên hát tặng họ một bài vọng cổ sáu câu hay bảy câu gì đó. Tất nhiên là chị khéo léo chối từ với lí do mấy bữa nay trời chuyển lạnh, bị khô cổ nhưng thực chất là chị sợ, sợ phải hát phải hò trước cái nhìn không chịu nổi của đôi mắt kia. Nhưng họ đâu có nghe, bảo khan cổ cũng được, khan hát kiểu khan, miễn là một lần được nghe chính bà tổng giám đốc nổi tiếng hát. Thật sự bối rối chưa biết tính sao thì người ấy đã đứng dậy, lặng lẽ cầm micrô, mỉm cười: “Nếu quý vị cho phép thì tôi xin được hát thay”.
Nhiều tiếng hoan hô nổi lên, song họ đề nghị anh phải ca tài tử chứ không được hát tân nhạc, tân nhạc nghe đã chán ngấy rồi, đến đây thì phải ca theo điệu ở đây, nếu không ca được thì phải trả lại micrô cho người ta. Một thoáng lo ngại hiện lên trong mắt chị. Kiểu này chắc không thể từ chối được nữa rồi. Con người trông hiện đại nghe nói toàn đi Tây học thế kia, lại là dân Bắc chính hiệu thì làm sao có thể ca, biết gì mà ca. Chính lúc đó thì anh cất lời. Tất cả bỗng ngớ ra. Mọi tiếng lao xao nói cười biến mất. Anh ta hát thật, hay ai hát thế nhỉ? Đúng là sáu câu, đúng là một làn điệu vọng cổ ngọt lịm không sai đến một cái luyến láy nhỏ nhất. Anh ta đang ca bản “Văn Thiên Tường” quen thuộc mà người dẫu xa lạ với bản nhạc này thế nào chăng nữa cũng không thể không có chút động lòng xao xuyến trước cái âm ba thăm thẳm buồn thương của nó.
Trong đó có chị. Chị đâu có lạ gì bản nhạc này, thậm chí chả mấy để tâm đến nó, nhưng không hiểu sao đêm nay nghe người ấy ca chị lại bị chấn động đến thế? Do giọng ca trầm ấm hay lại do chính đôi mắt kia, đôi mắt vẫn hướng về chị chăm chắm, tha thiết và day dứt như một lời tâm sự, như chỉ để cho một mình chị nghe, chỉ một mình chị thôi. Đôi mắt và lời ca đã ngào vào nhau làm một, cùng lúc tạo thành những con sóng nhỏ vỗ khe khẽ vào lòng chị. Cạnh chị, vị trưởng đoàn không giấu được vẻ tự hào, quay sang nói vừa như khoe vừa như lý giải trường hợp hy hữu này: “Tay ấy hồi đi bảo vệ ở Đức đã có dịp sống chung với một tốp nghiên cứu sinh toàn người Nam đó”.
Nhưng chị không nghe thấy gì hết. Đôi mắt và giọng ca vẫn bủa vây, phong toả chặt lấy đầu óc chị. Phong toả mạnh đến nỗi, khi anh dứt giọng, giữa những tràng vỗ tay rầm rĩ, chị bất giác đứng dậy tìm cớ thoái thác rằng có chút vìệc ở văn phòng cần trao đổi qua điện thoại một chút, xin tất cả cứ tự nhiên. Vài tiếng lao xao, than phiền kể cả ngăn cản nổi lên nhưng rồi cuối cùng chị vẫn đi ra được khỏi phòng với nụ cười nhã nhặn, bối rối của người có lỗi.
Đêm đờn ca mới được nửa chừng, trăng thanh gió mát, giọng ca liêu trai của cô gái miền Tây tiếp theo kia lại dìu dặt cất lên như giọng hát ma mị của nàng mĩ nhân ngư đang quyến rũ những chàng thuỷ thủ nhào người xuống biển, nên cái sự thiếu vắng chủ nhân kia chỉ hơi hẫng một chút chứ không hề làm giảm đi nét hào hứng trong bàn tiệc. Hào hứng đến nỗi sự thiếu vắng ngay sau đó của anh cũng chẳng khiến cho ai để ý. Vui mà. Vui quá mà. Bay hai ngàn cây số vào đây được hưởng một cảnh sắc đồng quê yên ả thế này, được nếm đủ các thứ vật ngon của lạ thế này, cứ vui thả sức đi, cần chi đến chuyện ai còn ai khuyết. Cứ thoải mái!
Anh không đi về phía chị vừa ra mà bước ngược lên một cửa ngách dẫn ra cái hành lang chạy vồng quanh căn nhà lợp lá. Hành lang hun hút gió. Hơi lạnh. Ngoài kia là dòng sông đang mơn man vỗ sóng. Anh bỗng đi chậm lại. Chị đang đứng đó, tựa nhẹ vào lan can, lặng lẽ, mờ nhoà, mỏng manh dưới một cái tán cây vú sữa toả rợp. Gió thổi mái tóc dài thiếu phụ bay khe khẽ về sau. Dừng lại một chút rồi anh nhẹ chân đi đến. Rất nhẹ. Nhận biết được điều đó hay đang mơ hồ chờ đợi điều đó không rõ nữa, chị khẽ rùng mình. Nhưng vẫn đứng im. Anh đã ở ngay bên cạnh, cao lớn, phải cao hơn chị một cái đầu, vẫn không nói không rằng. Từ thân thể trẻ trung, tráng kiện của anh, chị cảm thấy rõ một luồng hơi ấm nồng nàn ngai ngái rất lạ toả ra. Gió vẫn không ngừng thổi. Có con dế nào kêu thật ảo não dưới kia. Tiếng chị cố làm ra bình thản, thậm chí còn hơi lạnh lùng, bề trên nhưng vẫn không tránh được một độ rung nhè nhẹ:
- Anh... anh không ngồi dự với mọi người nữa à?
Một câu hỏi chả đâu vào đâu nhưng nếu anh trả lời ào ào trôi chảy, sáo mòn như hầu hết những người đàn ông khác thì chắc câu tiếp theo của chị sẽ là một sự lạnh lùng thật kiểu như anh vào đi, tôi đang bận, tôi hơi nhức đầu, tôi muốn ở một mình... nhưng không, chàng tiến sĩ vẫn chỉ im lặng, dõi cái nhìn ra xa phía mặt sông, làm như không hề có chị bên cạnh, không hề có chuyện anh ta cố tình theo chị ra đây. Quái quỷ, chị ngước mắt nhìn lên. Bất ngờ chạm phải đôi mắt anh đang nhìn xuống. Vẫn cái nhìn chờm ngợp, nồng nàn, thu hút. Như bị điện giật, dù cố cưỡng nhưng chị vẫn không tài nào đánh mắt thoát khỏi được cái nhìn đầy vẻ bao vây, phong toả và chân thành đến ai oán ấy. Trăng lu hơn, gió vẫn vỗ về, trời đêm vẫn se lạnh, tán vú sữa trên đầu sao dường như cũng đang sà xuống thấp thế, như đồng loã, như chở che, khẽ gọi... Bị chói, đôi mắt chị bất giác nhắm hờ lại, khuôn cằm hơi ngểnh lên. Và chỉ cần thế thôi, khuôn mặt rất đàn ông của chàng trai đã từ từ cúi xuống, cúi xuống gần hơn nữa và, đôi môi khô ráp của anh đã áp nhẹ lên bờ môi đang hé mở của chị từ lúc nào.
Choáng người, chị vội đẩy anh ra, đẩy rất mạnh nhưng không kịp nữa rồi. Hai cánh tay đàn ông đã như hai gọng thép siết cứng chị lại. Ngạt thở, chị gần như lả đi... Đã lâu lắm rồi, phải kể từ cái ngày còn chưa lấy chồng, chị mới có được một nụ hôn say cuồng, đam mê, nóng rãy như thiêu đốt, như rút ruột rút gan như thế này. Đúng vào cái lúc toàn thân như tan chảy, như mụ mị không còn biết gì nữa, như sẵn sàng thả trôi cả hai mươi năm không tai tiếng, hai mươi năm nhịn miệng giữ gìn, hai mươi năm không có một ngày hạnh phúc cho nó muốn đi đâu thì đi thi một chút lí trí mỏng manh còn sót lại ở đâu đó khuất nẻo lắm trong tâm hồn đã khiến chị chợt tỉnh. Quằn mình ra khỏi vòng tay và đôi môi khô khát của anh, chị nói như nghẹn:
- Trời!... Sao lại thế này?... Sao có thể thế này được?...
Thay vì trả lời, tấm thân gần như trinh trắng của chị lại bị siết chặt trở lại và hơi thở nóng ran của chị lại bị một hơi thở khác nóng hơn phủ chụp lên. Chị lại quằn người ra, lần này thì nói như van như khóc:
- Đừng... đừng? Tôi xin anh... Thôi, vào đi anh... Vào đi!
Nhưng cánh tay của anh vẫn không nới rộng vòng ôm. Không nới rộng nhưng không siết ghì vào lòng nữa và bây giờ mới nói, một tiếng nói như vỡ ra tử một lồng ngực rớm máu:
- Xin lỗi... ở chị có một cái gì đó khiến tôi không thể nào cưỡng lại được. Có thể tôi là một thằng rất tồi tệ, một thằng chả ra sao nhưng giây phút này tôi biết là tôi đang sống thực với lòng mình, rất thực, thực như cái điều tôi sắp nói ra đây: Tôi đã đi khắp mọi nơi trên Trái Đất này nhưng chỉ đến đây, trước chị, trước tất cả những gì có ở chị, tôi mới hiểu ra rằng, người đàn bà, cái mảnh thứ hai của cuộc đời tôi có lẽ giờ mới tìm được.
Câu nói ấy một lần nữa lại khiến toàn thân chị muốn tan ra. Một câu nói không mới, hình như đã từng hơn một lần chị đã được nghe những từ đại loại như vậy rồi nhưng lần này nghe từ chính miệng anh sao lại khiến chị rung động mạnh đến thế. Như đưa như ru, như đưa lên rồi lại chìm xuống, chết lặng. Giây phút bồng bềnh, giằng xé và khổ đau ấy, chị biết người ấy đang nói thật. Nói sau khi đã được chị, có chị, dù chỉ là một nụ hôn khoảnh khắc và bất trắc thì không thể là một lời giả dối nhằm tìm đường tíếp cận khi chưa có gì. Và cả đôi mắt như đang cháy sáng lên kia nữa, tuyệt nhiên không thể là một đôi mắt giả nhân. Nước mắt chị bỗng chảy ra. Cả tuổi thiếu nữ lặn lội trong rừng chiến tranh, hoà bình đi học, học xong lấy chồng, rồi từ đó chỉ còn biết vùi đầu vào công vìệc và công vìệc, đã có khi nào tĩnh lặng được một chút để suy nghĩ mọi khía cạnh sâu xa về hạnh phúc, về thân phận, về cái lẽ cuối cùng của đời một người đàn bà đâu. Để rồi cùng với khối lượng công vìệc bộn bề, với triền miên thăng trầm lỗ lãi, với vinh quang và lòng tôn vinh đã được định vị mỗi lúc một chắc chắn trên thương trường, giữa lòng xã hội, cái phần mềm trái tim đàn bà trong chị cũng dần dà vô cảm, lạnh cứng theo cho đến tới nay, lúc này...
- Tôi... tôi phải vào đây. Anh... anh cũng vào đi, kẻo người ta...
Cũng đã lâu lắm rồi từ cái miệng chỉ quen với những âm vực quản lí, điều hành khô khan, chính xác của chị mới bật thốt ra những âm tiết đầy nữ tính e ấp như thế và rời nhanh ra khỏi anh, bước đi như chạy trốn. Anh vẫn đứng lại. Một mình châm thuốc hút, không ra vui cũng không ra buồn, lặng lẽ thay chị làm chiếc bóng tựa vào lan can.
Sáng hôm sau, đoàn khách được mời đi thăm khu thuỷ sản nổi tiếng cả nước của chị trước khi có buổi làm vìệc chính thức để ngày sau đó đoàn còn phải lên xe chuyển đến một địa bàn khác theo kế hoạch. Chiếc canô màu trắng bay như đệm từ trường trên những con sóng xanh biếc. Nắng miền Tây mới chói chang làm sao. Nắng soi tỏ vào mọi ngóc ngách cảnh vật đêm hôm qua còn bí ẩn, mờ nhoà. Nắng rọi vào tận đáy mắt phủ phê sau một giấc ngủ đẫy của những vị khách sang trọng đến từ phố phường bụi bặm.
Và nghiệt ngã thay, cái nắng quái ác ấy cũng làm hiện rõ trên khuôn mặt chị những nếp nhăn nho nhỏ, những dấu vết tàn phai, thoáng có chiều mệt mỏi không tránh khỏi của cái tuổi gần năm mươi. Những dấu vết mà tối qua dưới ánh đèn lung linh, trong cái lênh loang của men rượu không ai có thể nhận ra được, kể cả anh. Để giờ đây anh đang ngồi trước chị, chỉ cách nhau một cái đầu gối, đôi mắt vẫn mở to, hun hút, chỉ khác là đôi mắt ấy không đắm nhìn vào chị như tối qua nữa mà nó bối rối lảng đi phía khác, phía mặt sông rồi dừng hẳn ở đó như tối qua giữa hai người chưa hề có một chuyện gì xảy ra cả. Còn cái nhìn của chị, một cái nhìn ẩn sau đôi mắt trũng sâu cũng ngược hoàn toàn lại với với tối hôm qua, chốc chốc lại kín đáo săn tìm ánh mắt anh. Nhưng không một lần nào tìm được. Đủ cảm nhận ra điều ấy, đôi mắt chị hơi tối lại, trên đôi môi không thoa son thoáng một nét cười cay cay và nhẫn chịu.
Nhưng chị vẫn không thể không nhìn vào khuôn mặt anh. Dưới ánh sáng trời, khuôn mặt ấy càng tôn rõ vẻ trẻ trung, sắc nét và đẹp đẽ hơn cả khi đêm. Một khuôn mặt giờ đây sao thật vô cảm, hững hờ. Chao ôi! Chị khẽ cúi xuống nhìn vào bàn tay có những ngón đã bắt đầu có chiều khô héo của mình. Bóng đêm giữ gìn tất cả nhưng bóng đêm cũng đã xé rách tất cả.
Đôi mắt kia vẫn buông thả đi đâu. Biết là không thể săn tìm được nữa. Càng biết là cái nồng nàn, thiêu đốt trong đôi mắt kia đã hoàn toàn nguội lạnh, vẻ như không chịu đựng nổi cái ngột ngạt ấy, chị đứng dậy, bước ra đầu boong làm như cuộc hành trình sắp đến đích. Nhưng phía trước dòng sông vẫn trải dài xa ngái và theo lịch trình đã được thông báo, ít nhất cũng phải nửa tiếng nữa canô mới cập bến. Đến lúc ấy anh mới đuổi cái nhìn theo chị. Người đàn bà vẫn đứng đó, mỏng manh, dong dỏng, mái tóc dài vẫn bay về sau, vẫn lặng thầm mà sao vẻ quyến rũ ma mị đêm qua đã biến đi đâu tất cả! Một chút ân hận và xa xót nhen lên, anh cũng lặng lẽ đứng dậy đi đến cạnh chị trước những con mắt vô tâm không hề đoán nhận ra điều gì của các chuyên viên kinh tế cấp cao còn đang mải phóng cái nhìn háo hức ra hai bên bờ sông ràn rạt gió nắng.
Giống như tối qua, cũng đã nhận ra anh, cũng đã biết cái thân hình trẻ trung tráng kiện kia đang ở ngay sát ngay cạnh mình nhưng ở chị không còn một cái rùng mình nào xuất hiện nữa. Và rồi chính anh lại là người buộc phải lên tiếng trước:
Không biết có nghe được những âm tiết khổ sở trái ngược hẳn với cách nói tự tin vốn có của anh hay không mà chị vẫn không hề quay lại, chỉ đưa tay chỉ về phía trước, nói to một câu như để cho tất cả mọi người cùng nghe:
- Vâng, thành phố đã có dự án đến năm 2005 sẽ cải tạo toàn bộ khu vực hai bên sông này thành một khu tổng hợp du lịch và kinh tế, vốn sẽ vay ngắn hạn của ODA...
Anh khẽ lặng người đi, chưng hửng và dù muốn cũng không thể nói thêm được điều gì nữa, đành trở lại vẻ im lặng nhọc nhằn. Chính lúc đó, tiếng chị lại vang lên bên tai anh, vừa đủ độ cho một người nghe:
- Không sao đâu... Chỉ có điều hôm qua tôi đã... đã mất ngủ suốt đêm.
Nói rồi, chị quay người bước trở lại khoang, vẫn cái cười lịch lãm với người này kẻ khác như câu nói vừa rồi chỉ là lời của gió vọng về chứ không phải là của chị. Chỉ còn người đàn ông cao lớn là đứng lại trên boong, bất giác thả cái nhìn xuống nước.
Dưới đó, muôn ngàn hoa nắng vẫn không thôi nhảy nhót trên những lưng sóng nhấp nhô, miệt mài.
Vậy là Việt đang ở dưới nó, nằm sấp ngay dưới chân nó, chỉ cách chiều cao của bức tường lô cốt trấn bao cát xù xì. Nó ngồi trên nóc ụ, còn Việt nằm dưới chân ụ. Nó chỉ cần hạ tay là mũi súng giá buốt chạm ngay da đầu Việt. Cũng thế, Việt khẽ nhổm lên một chút, cổ họng nó sẽ nằm gọn trong những ngón tay quắp chặt. Căng hết sức...
Hai đêm rồi, đột vào đột ra rất ngọt, êm ru. Ngay cả đêm nay nữa, lần luồn vào khảo sát cuối cùng này cũng vào tuốt luốt. Ai dè khi ra lại kẹt cứng ngắc ở đây!
Đêm đầu, anh Sáu Châu - đội trưởng kiêm bí thư chi bộ, với bộ ngực bị gai mắc cỡ quào rách nát, mò giáp vòng rào tới ba lượt cũng phải lắc đầu: Chịu! Không tìm ra điểm đột! Bọn bảo an "thổ công" này gác dày quá. Mắt nhìn chỗ nào cũng đụng vào lô cốt. ánh đèn buốt chói và những đường đạn hiểm độc dai dẳng bất thần cứ nhằm ngay những chân rào, lùm cây găm tới.
Việt dùng ngón tay vén nhẹ miếng dù che đồng hồ: hai thanh sáng nằm vuông góc - ba giờ sáng rồi! Chỉ còn hai tiếng nữa. Muộn lắm là bốn giờ phải ra hết rào. Trễ hơn, sao mà băng được qua năm rạch về cứ trước khi trời sáng? Rồi cái gan bàn chân bị rào lưỡi lam cứa nứt ra như khứa cá nằm trên thớt, liệu có phản lại mình không?
Anh nhẹ cà chân trên mặt cỏ: băng chưa tuột.
- Khựt!... Phì...
Cái thằng khó chịu thật! Ngồi lầm lầm, cứ chốc chốc lại khậm khịt rõ mạnh như có con vắt bít nhằng lấy lỗ mũi. Thấy nó im lâu lâu, Việt mừng thầm, chờ đợi một tiếng ngáy. Mày chỉ cần ngủ gục một tí ti thôi, tao sẽ thoát. Thế mà nó cứ "Khựt... phì! Khựt... phì!" như tạc đạn lép. Việt uất người lên. Gió mát như thế này mà mày không chợp mắt đi được một tí à! Đồ ngu! Gần một tiếng rồi chứ ít ỏi gì nữa!
Việt cảm thấy những thớ thịt trên cơ thể mình oải ra, ê ẩm. Cứ tình trạng chết gí này kéo dài thì sao đây!
"ái!" Tiếng kêu ẩn dưới lưỡi. Việt thấy nhói dữ dội ở nách... Những cặp chân li ti giẫm rào rào trên cỏ. Anh mở căng mắt: Một đàn kiến "mụn nhọt" (Loại kiến to, đốt vào là thành mụn nhọt) lòa nhòa, loằng ngoằng đang nhằm anh băm tới. Con đầu chắc đã gặp mồi. Chà! Việt như nảy lên khỏi mặt cỏ: anh nín thở chờ đợi những cây kim nhỏ xoáy vào da thịt. Con thứ hai... thứ ba... thứ tư... Anh rân rân cảm thấy tiếng bực!" khi cặp răng bé tí của nó bặp vào nhả ra nhoay nhoáy, để lại những dấu tròn mọng, tai tái... Hừ! Phải lúc khác tao sẽ bóp nát từng "đứa" một cho phọt máu, rồi búng tít lên trời cao cho mất xác luôn. Lợi dụng cái thế tao không cựa được, chúng mày làm tới à? Bực quá! Ngay cả cái thứ tự vệ chúng sợ nhất là nước bọt cũng chẳng lựa dịp nào trút lên đầu bọn cố chày này được nữa. Đó! Nách đó, lưng đó, cắn cho đã đi. Chán chê là tự khắc phải chuồn.
- Khựt... Phì...
Kệ mày! Thằng ở trên quan trọng hơn. Tao cứ cho mày là một loại muỗi... "Rắn là một loài bò...". Ơ! Cái câu ngồ ngộ từ thuở nào ấy lại hiện về, lảng vảng lơ vơ trong đầu Việt. Anh nhếch mép cười...
Muỗi sình lầy cắn như chó. Nó đạp gãi ngay bên tai. Sướng thật! Giá lúc này được lên gân cả mười đầu ngón tay mà gãi nhỉ. Không! Phải nhờ ông y tá dùng ngay lưỡi dao găm cạo đúng vào cái chỗ mòng mọng đó mới đã... Một cục gì tròn tròn cứ thỉnh thoảng lại lăn ngược lăn xuôi trong bụng Việt. Chết! Khéo không... Phải đổi thế nằm ngay! Cứ sấp bụng thế này, nó giở chứng sôi bụng ọc ọc bất tử có mà bằng thác đổ bên tai nó. Tai quái hơn, lại ra cái vụ như cậu Vũ tháng trước: đang ém sát cửa hầm chờ nổ lệnh, bỗng bật ra một tiếng giòn tan, làm thằng gác la hoảng đẩy trận đánh lên sớm hơn mười phút!
Việt chìa răng cắn nhẹ miệng dù: sắp bốn giờ rồi! Sao cái thanh sáng cứ trượt tuồn tuột thế này? Thời gian réo ù ù qua tai... Khéo nhỡ hết mất.
Đêm lặng tờ trong sào huyệt kẻ thù, con kiến bò cũng nghe rõ tiếng, ngọn cỏ gãy tưởng như bẻ củi...
Thực ra, theo thói quen đã nhuyễn thành bản năng ngay khi mắc kẹt, Việt đã xếp đặt gọn cả rồi. Tốt nhất là trườn thật êm ra phía sau lô cốt, có nghĩa là sau lưng nó. Nếu được (cũng gian nan đó, gần quá, liệu có lộ không nhỉ) chỉ việc uốn mình đứng dậy, xiết cứng lấy họng nó... và ung dung chui ra. Cùng lắm, cách thứ hai, sẽ vụt dậy tại chỗ, quất gọn một viên chì vào giữa cái mồm khậm khịt của nó. Còn hai trái tạc đạn nhét trong túi sau xi líp sẽ lướt tới nện vào hai căn hầm gần nhất, cũng hạ ít nhất chục tên. Nếu ngon, dành cho hầm chỉ huy một trái, rồi cứ cổng chính lao ra, lách khéo qua mấy cái cự mã (Rào gai trên khung gỗ để cản xung phong), gặp thằng nào cản đường, bắn! Chỉ yêu cầu cái gan bàn chân đừng... Chà! Sao nhức quá!
Nhưng nhất định chúng phải đổi ca hoặc ít nhất cũng đứng dậy đi lại cho đỡ chồn chân chứ? Chỉ cần thế thôi. Chín hàng rào đầy trái, chui mất chừng hai mươi phút, kể cả xóa dấu. Còn lại gần một tiếng, chạy gần cũng còn kịp...
Bất giác, Việt lim dim nghĩ tới cái phút sà vào lòng đồng đội. Sẽ cứ để nguyên thân hình đen thui màu than pin mà gân cổ rít một hơi thuốc, bắt cái tàn trắng phải ló ra phân nửa, rụng xuống mới phà khói. Mười mấy tiếng đồng hồ nhạt mồm nhạt miệng rồi còn gì nữa. Nhất định anh Sáu sẽ mang cho mình một can nước nguội đã quậy chanh đường sẵn. (Tính anh ấy vẫn vậy. Nhưng nếu ai nói anh là "chị hiền của bầy em trinh sát", dứt khoát anh sẽ gãi đầu: "Nói lạp xạp hoài... Bộ đội ai mà chị, em", rồi thế nào đôi mắt hiền khô cũng chớp nhìn chị Ba, bí thư chi bộ xã một cái cho coi). Gì nữa! Lúc ấy, mình sẽ coi như không có chuyện gì xảy ra, làm một bụng xứng đáng cơm nguội ăn với dưa leo chấm mắm nêm chẳng hạn; ăn đã, chuyện sau... Ơ hay! Ông Tôm, tổ trưởng Đảng sao cứ thấy nhìn mình mủm mỉm thế kia? Chắc có chuyện gì đây. Cùng lắm ông sẽ theo mình ra muội tắm rồi bẹo má (ông cứ làm như mình còn trẻ con lắm, khen mình kháu, lại còn hôn nữa chứ. Cằm gì mà râu... xấu hổ đỏ cả mặt):
- Việt ơi! Đêm qua, cả đơn vị không một ai ngủ cả, chờ Việt về. Anh Sáu nói với tớ: "Có lẽ sau trận này, về lo chuyển đảng chính thức cho cậu Việt là vừa, xứng đáng quá rồi".
Ôi! Mình trở thành người Đảng viên chính thức! Chỉ sợ khi ấy lại khóc, chị Ba chị ấy cười cho... Mẹ ơi! Kể từ ngày này, thằng Việt gồ bướng bỉnh của mẹ đã trở thành người cộng sản như bố ngày xưa đánh Pháp rồi đấy! Mẹ có vui không?
... Ơ kia! Sao đang nhiên mọi người lại lắng xuống thế này? ánh mắt của anh Sáu sao nghiêm quá, cả chị Ba nữa, chị cũng quay đi, ngón chân di di trên mặt hầm.
... Hình như anh Sáu vẫn gác chân qua võng mình như mọi hôm, nhưng cái giọng nghe khác quá:
- Hành động ấy can đảm đấy. Thực ra ít người làm được. Nhưng nếu rán thêm một chút, một chút thôi, biết đâu tình thế chả xoay ngược. Mục tiêu vẫn còn, phương án tác chiến không bị hủy - Đột nhiên anh đấm mạnh vào nóc hầm nói như quát - Chà! Thế là hư hết trơn rồi! Nghị quyết cả tháng trời, phong trào cả một xã đang chờ... Uổng quá! Bao công lao - Giọng anh lại đằm xuống - Thôi, đừng buồn. Bày keo khác chứ biết làm sao. Có điều, Việt ạ! Những lúc hiểm nghèo nhất phải biết cắn răng, nhích lên, quên mình đi. Nhất định sẽ đạp được lên đầu nó... Hút thuốc đi! Của chị Ba mua cho đó. Chị Ba... tội nghiệp chị quá! Chi bộ xã này chẳng còn ai, mỗi mình chị là bí thư kiêm nhiệm hết: tối dẫn mũi đưa bộ đội vào đồn, khuya dậy sớm chăm chút bữa cơm, trưa lại bám ra gò làm công tác tuyên truyền. Chị chỉ mong có một ngày... Thôi! Chiếc khăn này chị quàng đi, Việt đỡ rồi. Chị gầy quá..
- Khựt! Phì...
Có mùi thuốc đâu đây thơm quá! Anh nhướng mắt: Gió đánh tàn lửa bay tung trên miệng thằng gác. Khi nó rít vào, tảng mặt hốc hõm chứa đầy vũng tối trông như con quỷ đang ngồi trên cây phun lửa... Việt nhắm mắt lại. Cẩn thận không hai con mắt mình lại chứa lửa đầu thuốc nó sang rực lên thì hỏng cả.
Kiểu này không khá rồi. Nó chẳng gật gù, lại còn bập thuốc nữa thì biết khi nào mới ngáy cho? Xem cái mã nó hít vào nhả ra ngon lành thế kia là còn tỉnh táo lắm. Thật đen đủi cho mình, đêm nay lại vớ phải thằng lính già khó ngủ. Mày mà chịu khó thêm cái đái dắt nữa thì tao cảm ơn mày. Cái bọn già này thức đêm giỏi trời thần. Đánh đấm chẳng bằng ai mà gác sách xét nét như mụ dì ghẻ. Thà cứ như bọn trẻ lại hay: đùa giỡn tục tĩu, bắn vung tàn tán nhưng về khuya lại ưa ngủ bậy.
Nó hút cái gì thơm thật, Ru bi? Không! Cotab mới ngầy ngậy như vậy.
Không có thằng già này, chắc mình đánh đàn mồm rồi đây. Lúc này giá có nằm trên băng tuyết vẫn đổ mồ hôi.
Cũng lạ thật! Chính trong những giây phút mỏng tang này, sự sống và cái chết đã nhìn thấy, bắt hơi tiến đến nhau chỉ còn cách sợi chỉ, Việt luôn luôn nghiệm thấy sự xuất hiện kỳ lạ của một khoảng trống vắng dàn trải, tâm hồn rơi nhẹ nhàng vào cảm giác ung dung thảnh thơi của con người đang nằm duỗi dài đón gió trên đê, với niềm tin chắc rằng: mọi việc rồi cũng chiều theo ý muốn của mình.
Mớ suy nghĩ rối mù, nóng bỏng đột nhiên giảm xuống gần như không cần cầu cứu tới lý trí, nhường cho sự giãn ra của thần kinh là vươn lên... Đến một lúc, tiếng gõ của thực tại vang lên khắc nghiệt, cái cồn cào sẽ bất thần thức giấc thành bào xé.
Cái vòng luẩn quẩn của sự căng và chùng, chùng và căng diễn ra rất phức tạp lặp đi lặp lại nhiều lần thành sự tỉnh táo: tao càng gần mày thì mày càng xa tao. Bởi lẽ mày mù, mày không đủ sức để tưởng tượng nổi đối phương chỉ cách mày chiều dài của hơi thuốc.
Việt quên đi mối đe dọa như gầm ghì trên đầu và tua tủa nén chặt bốn xung quanh. Buồn cười, cứ ẩn hiện trong đầu cái điệp khúc lộn xộn: "Phải biết cắn răng... nhích lên... đạp lên đầu...". Nhiều khi chả hiểu nghĩa gì cả, như những đêm hành quân, lòng bâng khuâng trong bao kỷ niệm quê nhà, mà miệng lại hát những bản nhạc đâu đâu.
Gió từ bưng ùa về, cù cù mơn man trên da thịt... Sương đêm đậu nặng trĩu trên tóc...
Buồn ngủ quá! Ước gì được chớp mắt một tí nhỉ? Nhỡ ra ngủ
quên nó "đòm" thì sao? Chặc! Nghĩ cho cùng, cái đó cũng chẳng ghê gớm bao nhiêu. Đang ngủ nó "đòm" thì ngủ nữa, coi như ngủ luôn. Thế nhưng... ở truồng mà chết? Không ổn, mất tư thế quá. Bọn khốn nạn nó cười mình; và lại được dịp nói bố láo với bà con rằng đã bắn cháy thành than một tên "Việt cộng" sừng sỏ...
ồ! Lại còn chưa kịp chứng minh cho anh Tôm phải chấp nhận rằng: với cái đồn hình tam giác cân này dứt khoát phải đánh từ một điểm nào đó ở chính giữa lạnh thốc vào mới đảm bảo tốc độ và đường ngắn nhất tới chỉ huy sở...
... Mình với nó đã kề cận nhau hơn một tiếng đồng hồ rồi (Nhất định không thèm nhìn đồng hồ vặt nữa). Trận tuyến giờ đây được tính bằng chiều dài đốt ngón tay. Chà! Quần áo của thằng này chua quá. Khét nữa như mùi bã trà dính dầu hôi lâu ngày mưa nắng...
Tao biết mày, mày không biết tao. Tao đang nghĩ về mày, còn mày đang nghĩ gì trong đêm khuya thanh vắng ngan ngát mùi rau xanh cây trái đâu đây. ừ! Nếu mày không phải là thằng lính đeo súng Mỹ, tao sẽ từ từ đứng dậy vỗ vai mày cười xòa như trò ú tim. Lạnh thế này mà đốt một ngọn lửa ngồi kề cà thì tuyệt.
Bất chợt, thằng lính buông tiếng thở dài. Tiếng thở đùn lên từ trong lồng ngực, vấp phải lỗ mũi bị bịt, tạo nên tiếng trầm rề, rin rít. Tiếng thở dài nặng nề vất vả quá. Việt có cảm giác thở xong, toàn thân nó thành rỗng tuếch, xẹp dính lại, sụp xuống.
Mày đang có tâm sự gì u uất chưa thoát ra được. Thực ra mày già hay trẻ?
Quái! Sao vẫn chưa thấy nó đổi gác?
... Một sự liên tưởng xa xôi đột nhiên lâng lâng trong lòng... Cái thị trấn nghèo nàn bên con sông nhỏ mộng mơ và những tháng năm học trò ngọt ngào kỷ niệm...
Buồn cười nhỉ. Sao giống cái đêm mình leo lên cây bàng trước cửa nhà Thư thế! Tán bàng xòe vào tận cửa sổ bàn học cô gái. Đáng lý cô bạn học giỏi văn, có con mắt lá răm phải nhận từ tay mình mấy trái bàng chín vàng ngọt lịm, rồi nở nụ cười "ý tứ" chết người ra tặng kẻ hái quả; nhưng lại là ông bố, một giáo sư sử học nghiêm khắc, chuyên về khảo cổ! Ông mang cái ghế mây ra bao lơn, ngả người hút thuốc, mắt đăm chiêu. Có lẽ lúc ấy ông đang suy ngẫm về sự hình thành các bộ lạc sống du mục trước công nguyên hay sao mà ngồi lâu thế? Hai tiếng vẫn chưa chịu vào. Cách ông già trầm mặc nửa mét, ngay trên đầu, mình ngồi thu lu co quắp như con khỉ ở vườn thú. Có lúc ông đứng dậy, nhìn lên vòm cao suy tưởng. Run quá! Nhà trong con mắt lá răm nhấp nháy tinh nghịch, có vẻ thích thú lắm. Cô ta lại còn giả tảng, giở sách đọc váng lên: "Rắn là một loài bò... bò sát ngọn cây"... Sau này mà còn sống trở về, nhất định phải kể cái ý này cho Thư nghe mới được.
Sao như có ai đùa nhả, cứ lấy đít chảo nóng áp mãi vào bàn chân mình thế này! "Hãy cắn răng... Hãy nhích lên...".
Đáng ra, đêm đồng bằng lạnh lẽo này, mày phải ở nhà hú hí với vợ con mày. Còn tao, tao chưa có vợ, tao sẽ về với mẹ, cũng một miền đồng bằng có "cánh cò xanh bay mải sớm chiều" trong câu dân ca dân gian xa lắm... Mẹ lại bắt ăn đủ thứ cho coi... Mẹ ơi! Mẹ có vui không? Con đã trở thành người đảng viên rồi đấy... Con kể cho mẹ nghe nhé (ấy, để con têm trầu cho). ở một mảnh đất rất xa, có những chi bộ bị chà đi xát lại rất đau thương...
- Phì... phì! Khựt!
Tốt! Cái mũi trời đánh của mày thông báo mọi việc vẫn an toàn, trôi chảy.
Việt tính chờ cho nó hút xong điếu thuốc, bớt độ sáng đi, sẽ trườn ra. Trườn từng phân, từng tí một. Chỉ cần ra khỏi cái bùng nhùng chồng ba trước mặt là ổn. Mắc cỡ khô bít bùng, làm sao khỏi gãy tách tách đây? Trời ơi! Giá có phép màu biến mình nhỏ lại thành con mèo thôi, mọi việc đều đơn giản biết bao! Kìa! Đừng viển vông nữa, nó đã bắt đầu cầm mẩu thuốc bằng ngón tay cái và ngón trỏ rồi, sắp tắt rồi. "Phải nhích lên... phải táo bạo...". Thà chết trong hành động, trong dáng tiến công.
- Nè! Gác, ai cho hút thuốc đó hả?
Tiếng nói vỡ toác, đổ rầm rầm trên đầu Việt. Anh choáng váng. Một thằng khác từ trong hầm chui ra, quát lên bằng cái giọng nhừa nhựa giả tạo như cháo đặc. Ngay sau đó, nó lại cười hức
hức:
- Anh Hai chơi sang dữ vậy? Còn, cho điếu hút bậy coi!
Có tiếng giấy thiếc khua lạo xạo.
- A... Ru - bi - qeen! Nó ré lên như chào hàng giữa chợ - Lửa không?
Một giọng nói ồm ồm bí rị, không đủ sức thoát ra quay tròn trong mồm rồi lại chui đánh ực xuống họng:
- Rục rồi! Dưới đất ấy.
Thằng này lật đật bước xuống...
Việt lạnh toát người, tim như dừng đứng, ngón tay luồn vào
vòng cò...
Hắn cúi xuống, phả hơi rượu chua loét, nói chõ vào tai Việt:
- Giấc này bọn "cọp đen" (ám chỉ đặc công Quân giải phóng) nó hết dám vào rồi. Ông về hầm đi. Đến phiên tôi. Đa... ã... a ! Thuốc đã quá, giãn gân giãn cốt...
- Nghe đâu đêm rồi, bọn "lọ lem" (ám chỉ đặc công Quân giải phóng) lại vượt lộ tính vào ăn vùng này; mấy cha bắt gác lu bù...
Thằng trên thở hắt ra như muốn nhả cái gì xuống đất:
- Không biết tình hình này còn cù nhằng tới kiếp nào nữa? Đêm gác toét mắt, ngày càn bấy giò... Thiệt cực như con chó! Phì... Đậu sắp tỉa được rồi... Mày vô đi, tao chịu luôn cho.
- Khỏi! Gác bốn mắt càng ngon. Sơ sẩy, nó bò vào cho lỗ mũi ăn trầu bây giờ. Ô! Thằng nào nằm đen đen kia? - Nó bỗng quát toáng lên - Tao trông thấy rồi. Chui ra ngay, ra nga... y! Tao thẩy tạc đạn bể óc ra giờ. Đâu? Đưa "Con cóc" bấm mìn đây.
Chát! Ch... í... u - Đạn rít qua đầu Việt.
Việt nhếch mép: lại giở cái trò cũ rích. Được! Mày cứ la lối om sòm như vậy, tao thấy vui đấy. Chà! Hết xi-quách (Hết cách rồi) rồi; một thằng đã khó, hai thằng.... tính sao đây?
Cái gì thế này?... Sao cọng cỏ ba ngạch đang cà cà dưới cổ lại
chuyển mầu sáng xanh thế kia? Cái bao cát mà Việt đang gác tay cho đỡ mỏi, bỗng dưng bàng bạc dần ra? Cái gì chói chói mắt? Chết! Trăng!... Mảnh trăng gần sáng từ rất xa đang nheo nheo, thóc mách nhìn vào mắt Việt. Thật không ngờ mình lại quên mất điều chết người này! Trăng lên cao một chút nữa, dứt khỏi những nóc hầm ù lì góc cạnh, là toàn bộ cái hình hài này sẽ bày toẹt trước ánh sáng quái ác. Những mảnh lưng, mảnh đùi ngụy trang vằn vện, suốt từ đầu đã là mảnh giáp kỳ diệu che chở, lúc ấy chỉ càng tố cáo thêm cái cục đen đen kỳ dị
nằm trơ trẽn trên màu cỏ xanh nhạt...
- Khựt! ... Phì... khựt!
Cái tiếng động đều đều đó, lúc này cũng muốn nhảy xuống, chụp lấy tóc Việt mà gào:
"Dậy!... Dậy!"
Phải hành động ngay! Đừng... Nhưng... "Phải cắn răng lại một chút... chút nữa...".
- Chát... chát!... Ré... t!
Nó bắn náo động khắp các góc đồn. Bắn mừng trăng. Chúng đang reo vui: có trăng là mất sự chết chóc kinh hoàng bủa vây chúng.
Như một trò chơi hiểm độc, nhánh cỏ ba cạnh đột ngột mất mầu, tối sầm... Chắc con mắt thóc mách kia bị mây che khuất, nhưng sẽ lại hiện ra trơ tráo hơn. Bộp! Việt thót lạnh ở lưng. Nó kề họng súng vào mình rồi! Bộp! Bộp!... Không phải? Bộp! Mưa? Mưa thật rồi! Thế, thế, lớn nữa đi! Trời! Những giọt mưa quý giá quá!
Ra nào! Không thể có dịp nào thuận tiện hơn nữa. Lẹ lên! Lần này mà không ra được, mưa trôi hết vết hóa trang trên người, còn quá trăng!
Mưa reo sảng khoái trên cây cỏ, trên nóc hầm. Hãy quấn chặt lấy tao nữa đi mưa ơi! Những sợi mưa hãy dệt thành màn che mắt chúng đi.
- Phì... khựt!
Việt sững người, thôi xong! Không cần quay lại, anh cũng biết chắc nó đang ở vị trí cũ, cái mặt day ngay vào hàng rào. Hết nằm xuống được! Trong cái thế khom khom bất động, đít chổng vào mặt nó, dồn toàn lực vào tay trái mỏi nhừ, Việt từ từ luồn tay theo thành bụng, chếch mũi súng lên: mày chỉ cần "á!" một tiếng tao nháy cò liền...
- Xẹ... t! Xẹt...
Nó đang bật que hút thuốc? Mày sẽ lóa mắt, Việt êm êm xoay người lại, khuỵu xuống... Cả người chìm trong vũng nước chân rào.
Mưa nhỏ giọt rồi tạnh dần. Cái miệng trăng ló ra cười nham nhở. Việt trừng mắt nhìn trăng, mày hãy nhắm lại đi, đồ xỏ lá! Anh gằm mặt xuống, chỉ ló hai lỗ mũi trên mặt nước.
Chắc hơn bốn giờ rồi. Con gà trống bên kia sông Đồng Nai vừa dứt tiếng gáy. Các đồng chí còn nằm chờ ngoài hàng rào không? Cứ về trước đi anh Sáu ạ. Các đồng chí cứ tin ở tôi... Chắc là các anh nóng ruột về mình lắm. Đừng! Đừng nhé! Đừng vội nghi binh thu hút sự chú ý của chúng để Việt thoát ra nhé! Thoát lấy người mà trận đánh bỏ thì thoát làm gì? Việt không phụ lòng tin của đơn vị, của chi bộ đâu.
Cái gì nằng nặng day day ở bụng? Việt khẽ luồn tay xuống... Anh rùng mình, mặt nước chao động: một cục thịt nần nẫn, trơn nhẫy nằm vắt ngang rốn. Anh nhịn thở, dứt ra: con đỉa mập mạp bằng cái chuôi thủ pháo ì ạch, khinh khỉnh trườn trên vệ cỏ.
Lại ngưa ngứa ở bắp đùi, ở hông... Bàn tay Việt định luồn xuống, lại kéo lên. Kệ!
Chết! Ngứa râm ran trong cổ, chả lẽ lại là đỉa! Không phải! Thôi đúng rồi, ngâm nước lạnh, cơn ho đang gãi trong cổ... Việt há mồm ra, vẫn ngứa. Đừng! Anh chụp cái mũ dù nhét vào mồm, khục... khục!
- Cái gì vậy?
- Cái gì đâu!
- Tiếng gì giống tiếng người, ông hả?
- Chắc vậy. Khựt!... Phì...
Ánh đèn sáu pin lóe lên. Tóc sáng quá. Việt gắn mũ lên đầu, tay kia dựt cụm cỏ nhồi đầy mồm... Đất nhão nhoẹt, mằn mặn ngai ngái...
Các loại xe gắn máy trong ấp thi nhau phát nổ rền rĩ. Có tiếng chuông nhà thờ ngân dài ngái ngủ, ẩn hiện tiếng kinh nguyện cầu dai dẳng...
Thằng trẻ đứng dậy vươn vai răng rắc, ngáp xé cổ:
- Á... á... ắp! Vậy là qua một đêm yên lành. Ra quán làm bậy ly cà-phê ông!
Nhìn theo cái bóng nhếch nhác, thất thểu của hai đứa đi ra cổng, con mắt Việt xếch lên. Muộn rồi! ém lại, chỉ còn cách ém lại ngay tại đây! "Nhất chạng vạng, nhì rạng đông". Nhằm một đám mắc cỡ rập rạp có cây khô cụt ngọn chọc xéo lên bầu trời tai tái, Việt trườn tới trong những thân cỏ gai góc. Bây giờ tao không ra nữa: ngược lại, tao sẽ vào gần thêm chúng mày.
Việt vén cỏ nhìn tò mò háo hức.
Chưa bao giờ anh lại được thấy kẻ địch rõ nét như sáng nay. Đêm tối, tất cả đều bí hiểm lạ lẫm. Giờ đây mọi ngóc ngách đều phơi ra tuệch toạc, dễ hiểu kỳ lạ.
Một... hai... ba... Ra tất cả là mười sáu hầm. Hồi đêm sao sờ thấy có mười ba? Hầm chỉ huy nó có cách cây ăng-ten xa vậy đâu, gần xịch à! Ơ, cái rào chống B.40 nào kia? Có phải bao quanh hầm điện đài không? Thôi đúng rồi! Chết thật! Không biết mà cứ nhào vào là tù mũi hết. Việt lẩm nhẩm soát lại toàn bộ các chi tiết một lần nữa thật chắc. Buồn cười, chín lớp rào ban đêm dòm thăm thẳm mênh mông thế, mà lúc này nó cứ xếp dồn lại một cách đơn giản.
Một hồi còi rít chói tai. Những thằng người bơ phờ xốc xếch từ những hầm sứt sẹo chuồi ra. Da trời trắng đục quết lên mặt chúng cái mầu nhợt nhạt, trông chúng như những thây ma từ
trong mồ ra.
Một phụ nữ ăn mặc xộc xệch từ hầm chỉ huy chui ra rồi lầm lũi đi ra cửa. Thằng đốc canh nói đổng theo:
- Bữa nào kẹt tiền xài, cứ tới đây bọn anh nuôi nghe cưng!
ả ta ngoẹo đầu cười méo xẹo.
- Ừ! Cứ tới đi, cho mày chết chùm luôn. Việt phì cái lá từ trong miệng ra, lờm lợm nơi cổ.
- Cái máu què!
Việt nhột người ngoái cổ lại: phía sau anh một đoạn xuất hiện một đám mũ sắt đang ngó nghiêng.
Vẫn cái giọng chửi đổng ấy làu bàu:
- Quay mẹ nó về đi! Cả ký lô *** ở giầy rồi đấy. Ông cố nội nó, ỉa với đái...
- Tao đã nói là khỏi! Khỏi cần kiểm tra dấu vết gì hết trơn. Gác kiểu đó, tía nó cũng lạy chứ nói gì nó.
- Khựt! Khựt! Đứng đó mà cự cãi nữa. Việc công vụ làm lộn xộn sao được. Phì... Cái giọng nói quay quay trong mồm? Việt chợt như bắt gặp người quen ở chốn hoang sơ. Đúng nó rồi! Cao to và trẻ hơn mình tưởng nhiều quá...
Ba cái mũ Mỹ nhấp nhô quay về hướng khác. Bỗng một thằng nhìn về phía Việt, reo khe khẽ:
- Im... im! Con cao-cáp (một loại chim to, mỏ lớn, rất nhiều ở miền Đông Nam Bộ) bự quá!
- Tao! Để tao!
- Tầm bậy mày! Để tay súng anh Hai mới chắc ăn. Lẹ không nó vù, anh Hai! Thằng "khựt phì" có vẻ miễn cưỡng, uể oải giương súng lên...
Việt ngật cổ, bâng quơ nhìn vuốt theo thân cây mốc thếch: con chim to thật. Nó vẫn vô tình chúi mỏ rỉa rỉa những cái lông mầu nâu... Rốp! Con chim nảy lên, đau đớn đập cánh, quay tròn nửa vòng rồi chúi xuống. Thân mình của nó va bịch vào những cành cây khô ráp và nặng nề đập mạnh bụng xuống đất, ngay trước mặt Việt, mắt nó hé mở nhìn anh bần thần. Đến lúc đó Việt mới thấy chới với rủn người...
Vẫn tiếng nói đó:
- Bọn mày ráng sục sạo một chặp nữa đi! Tao vô lượm, chút mang ra quán nước nhậu.
Điều ghê gớm ấy sắp xảy ra.
Như bị bản năng tự vệ thúc giục, Việt luống cuống cầm con chim định quẳng ra xa... Chậm rồi! Tiếng khậm khịt đã vang ngay bên tai. Lủi ra sau một chút! Không được, tiếng chân nó giẫm cỏ kế bên rồi... Chỉ còn cách "tiếp" nó ở chính tại đây thôi.
"Xoạt! Xoạt...".
Việt chà mạnh mặt xuống cỏ ướt, lấy mũ lau sạch vết lọ, vuốt tóc. Dù có chết chăng nữa, mặt mũi cũng phải cho sáng sủa.
Xuyên qua những thân cỏ lung lay, Việt đã nhìn thấy đế giầy gồ ghề đen đang từng bước vung sát mặt mình. Tai đã nghe thấy gai cào trên vải áo quần nó... Anh nhẹ nhổm người lên, thân hình lao ra phía trước trong cái thế nằm chuẩn bị vọt tiến. Anh đưa khoen tròn tạc đạn lên ghì giữa hai kẽ răng. Ngực Việt như có bàn tay khổng lồ bóp nén ngột ngạt, bắp chân tự nhiên run lên, anh nghe rõ tiếng răng mình va vào sắt lanh canh... Việt cắn mạnh vào ngón tay mình muốn đứt lìa. Sao chân tay nó không chịu nghe theo cái đầu nữa rồi. "Không sao, không có gì cả. Cắn răng lại... nhích lên... phải đạp đầu..." Mắt anh vụt quắc sáng...
Một bàn tay sần sùi, vàng khè khói thuốc, gạt mắc cỡ ra. Cái khuôn mặt râu ria vàng võ ngó vào lơ láo...
"Ớ!"... Khủng khiếp như bị phạng một thanh củi nặng vào giữa mặt, nó nấc giật lên, bật ngửa ra sau, cái mồm có hàm răng đầy xỉ há hốc. Chiếc mũ sắt văng ra để hở chỏm tóc dựng ngược. Một dây kim cang ngoằng vào chân, nó ngồi phệt xuống, con mắt tan mất lòng đen, hai chân chòi chòi đạp líu quíu cố sức dãy ra khỏi cái nọc lo le của con rắn độc đang liếm vào người. Nhưng ngay lúc đó, nó rùng mình chồm dậy, bốc cây súng găm thẳng vào ngực Việt, họng súng đen ngòm hun hút rung rung lên xuống theo khuy áo đưa lên hạ xuống trước ngực...
Tách! - Nó bật khóa an toàn!
Reng! - Việt nhả chốt tạc đạn xuống đất.
Hai ánh mắt bắn vào nhau.
Ánh xanh của cặp mắt sáng vung lên như hai lưỡi gươm chém nát tia mắt trắng dã, quấn lấy, đẩy nó thụt trở lại tròng mắt thằng lính.
Ngón tay nó lẩy bẩy trong sự cóng buốt cao độ, không ngoẹo nẩy cò được nữa.
Mày đang run bắn lên như con vật đã vặt trụi lông, sắp bị quẳng vào đống lửa. Tao nhìn rõ một giọt mồ hôi thật lớn đang lăn trên chóp mũi mày. Mắt mày đang dại đi kìa! Mày không ngờ trước mặt mày lại lù lù một con "cọp đen" chính cống phải không? Cái bắp thịt ở ngực, ở vai, ở bắp vế "nó" vằn vện dọc ngang làm mày ớn hả? Mày chớp chớp mắt. Chắc mày không ngờ Việt cộng "rừng rú" cũng một khuôn mặt như mọi người? Có khi chỉ bằng tuổi em út mày ở nhà nữa. Không! Tao không biết chớp mắt đâu. ở cái tình thế hiểm nghèo này, tao muốn con mắt tao, con mắt đã được ngọn lửa thiêng của tình đồng chí, đồng đội, của chi bộ thân yêu tiếp sức, sẽ là mũi khoan thép xuyên ngọt, nạo khoét vào tận tim óc mày, sẽ phà lửa vào mặt mày, khiến mày phải bắt buộc nhớ lại những tia chớp xanh lét của B.40 từ trên tay những đồng đội tao phóng ra, thiêu cháy cả chục thằng bọn mày, trong muôn vàn những vành nón tai bèo bay ra, lao vào đội hình chúng mày trong một trận phục kích nào đó mà chụp xé tả tơi.
Việt thấy tỉnh táo lạ lùng. Sau một đêm tránh né mệt nhoài, cuối cùng mình cũng giáp mặt nó, giữa ánh sáng ban ngày, như một sự sắp xếp khắc nghiệt của số mệnh.
Tao đã nhìn thấy quai hàm mày giật giật dữ dội, phía mang tai: bàn tay cầm báng súng của mày đang nổi gân... Không! Mày không dám bóp cò đâu. Tối thiểu mày cũng phải hiểu, trái tạc đạn trong tay tao có sức công phá gấp hàng ngàn lần chứ! Thì chính mày đang len lét nhìn "nó" kia kìa. Nhưng một trái mà chỉ chia có đôi... phí quá!
Mày chắc thấy đó, tao không đùa đâu! Nói gọn lại là tao không hề sợ mày: cả lũ chúng mày nhung nhúc ở trong kia nữa. Tao sẵn sàng cả rồi, và thấy hoàn toàn thoải mái. Tao đang đợi đây. Nào!
Tại sao mày lùi lại, ngón tay mày lỏng ra?
A... a...! Tao hiểu... "Nhích lên... nó đang lùi...".
Những thớ thịt trên mặt thằng lính nháy nháy, cái mồm uẻo sang bên nhắp nhắp như sắp lên cơn động kinh. Nước da chuyển từ đỏ qua xanh, rồi từ xanh đổ sang tím ngắt. Nó cúi đầu giống như kẻ bị khinh bỉ lăng nhục nặng nề.
Một tràng đại liên Mã lai hộc lên đe dọa, đạn bay về khoảnh rừng chồi xa xa.
Nó đảo mắt như chớp ra xung quanh. Mày muốn cầu cứu đồng bọn hả? Cũng phải, mày chỉ cần "ối" lên một tiếng, cả trăm thằng sẽ bu lại gầm gừ...
Ngón tay nó dè dặt xiết lại trong vòng cò...
Bàn tay Việt từ từ thả cần mỏ vịt...
"Phải cắn chặt răng lại... Ráng lên! Nhích lên tí nữa... nữa".
Đột nhiên nó nhắm mắt lại, bộ mặt rúm ró.
Kia! Một lần nữa mày lại không chịu nổi rồi. Mày có thể nháy cò được lắm cơ mà?
Thằng lính thở hồng hộc, hai đầu gối cứ dần dần khuỵu lại. Cánh tay như bị chuột rút, khẩu súng Mỹ chúi xuống... chúi xuống...
Nó sợ mình rồi, sợ thật rồi! Lòng mình đang reo vang, sướng quá! Chả lẽ sự việc đơn giản thế này thôi ư?... Không hiểu cái đêm mùa hè đầy sao ấy, ông giáo sư sử học thình lình phát hiện ra thằng trẻ ranh hàng xóm đang ngồi lù lù ngay trước bàn học cô con gái cưng của mình thì sao nhỉ? Ông sẽ đánh rơi cặp mục kỉnh và làm toáng lên như mọi nhà thông thái không chịu được sự lộn xộn trong cuộc sống, hay ông sẽ trầm lặng ngắm mình trong sự suy tưởng chưa dứt đoạn: một dấu hiệu của loài vượn chưa tiến hóa?
... Nhưng không nên để sự sợ hãi đốt cháy thần kinh nó. Thằng đã điên, không ai lường trước được phản ứng của nó cả. Phải cho nó hiểu rằng, nếu nó đã đầu hàng, mình không khi nào muốn giết nó.
Việt chuyển tạc đạn xuống ngực, anh dịu giọng:
- Hãm chốt lại!... Ngồi xuống! - Thằng lính làm theo như cái máy. - Nhìn vào mắt anh, tôi biết anh chưa đến nỗi nào. Anh hãy giúp tôi bằng cách im lặng. Chúng tôi sẽ là người chiến thắng cuối cùng. Cách mạng không quên anh đâu!.
Hắn ngồi chết trân, như không nghe thấy gì cả, không hiểu gì cả, nét mặt mềm lại, ngây ngây..
Có tiếng la oang oang:
- Làm gì mà lâu dữ vậy ông? Tìm thấy không?
Người lính choàng tỉnh như bị đổ nước lạnh vào đầu, mắt nhìn dáo dác.
- Anh ra đi! Tôi tin anh! - Việt nói.
Người lính bối rối, gục gặc đầu. Hắn xây lưng lại, mảng áo đẫm ướt, đôi chân bước đi như mê... Được mấy bước, một tiếng "sột" sau lưng, hắn quay ngoắt lại kinh hãi, láng quáng đưa súng lên... Không! Trước mắt hắn, Việt vẫn cười hiền hậu, tay cầm con chim giơ ra... Người lính nhếch miệng ngờ nghệnh, cầm con chim quay đi, bước chân mạnh dạn hơn...
Việt căng mắt nhìn theo hắn đi lại phía đồng bọn súng ống đầy người. Rất có thể hắn phản bội. Anh xếp tạc đạn ra đất, soát lại chốt hãm khẩu K54 trên tay...
Hắn đang mấp máy môi nói cái gì, tay chỉ về phía mình? Bọn kia chụm đầu bàn tán nghe chừng...
Việt lạnh toát người. Này! Nó bắn này!... Chỉ cần một phát báo động thôi là... Anh rút chốt một trái tạc đạn... Nhưng không! Đôi giày nặng nề của người lính bắt đầu lê đi. Anh ta đi giữa bọn lính như người mất hồn, tay lơ đãng vặt lông con chim...
Đến lúc ấy Việt mới nằm nhoài ra, mệt lả. Trái tạc đạn ướt nhoét mồ hôi rời ra khỏi những ngón tay tê dại...
*
Trưa trong đồn địch...
Không trung như bốc cháy, lửa phả xuống rừng rực. Việt tưởng tượng thấy mảng da lưng mình đang uốn cong lên, phồng rộp. Anh sờ sờ vào những cọng tranh âm ấm: nắng một lúc nữa, chắc nó cũng tự nhả khói rồi bùng cháy mất.
Việt chui sâu vào trong gai góc, anh không cảm thấy da thịt mình đang rớm máu. Đói, khát và nhức nhối vì suy nghĩ: bàn chân mình chắc đã cháy hết xương đang lồi ra; anh rủn người,
lịm đi...
Bỗng anh bật nhổm dậy: có hai con mắt đang nhìn anh chăm chú...
Người lính đã ra từ lúc nào, đang ngồi phía chân Việt, tay ôm lưng quần trễ xuống, khóa tuột khỏi dây lưng như người sắp đi cầu.
Anh lính lê lại, rụt rè lôi trong túi ra một ổ bánh mỳ, túi kia mấy trái dưa leo mòng mọng.
Việt cắn một miếng dưa nhai ngon lành, cặp môi chỗ nứt mềm ra, ươn ướt. Anh lính tần ngần ngó trộm Việt ăn... Đôi mắt ấy dừng lại miếng băng chân đã chuyển sang màu bùn, rồi lướt trên những mảng đùi, mảng lưng; cuối cùng vấp phải vết loét trên gáy Việt...
Việt cười, hàm răng nhóng nhánh nước:
- Tàn thuốc khi đêm của anh đấy.
Người lính day mặt qua phía khác... Nhìn nghiêng thấy một bên mắt anh ta hơi đỏ...
Việt nhìn sâu vào mắt người lính:
- Tại sao anh không bắn tôi?
Cái đầu nặng nề của anh ta trĩu xuống, một lát mới ngẩng lên, nói khó nhọc:
- Tôi... tôi không rõ... Con mắt của ông làm tôi sợ... Tôi thấy ông mạnh quá...
- Bây giờ thì sao, còn sợ không?
Người lính nhẹ lắc đầu, trả lời phào phào trong hơi thở đầy xúc động:
- Không... Bây giờ tôi... kính phục ông... các ông...
Nói đoạn anh ta run run đứng bật dậy như sợ hãi trước câu nói của chính mình. Người lính kéo quần lên, gài lại dây lưng, lặng lẽ đi vào...
*
Và đêm hôm đó, có hai người dìu nhau ra khỏi vùng kẽm gai. Một người to lớn mặc quần áo lính, còn người kia nhỏ nhắn, ở trần.
Tới bìa bưng, họ dừng lại chia tay nhau. Cái bóng to lớn quay lại, dáng đi ngập ngừng, chốc chốc lại nhìn về phía sau ra chiều áy náy. Cái bóng nhỏ nhắn khập khễnh đi thẳng tới, đầu ngẩng cao như đinh ninh rằng: mình sắp sà vào tay những con người thân yêu đang đón đợi ở đâu đây, rất gần.
Đêm vành đai vẫn lạnh sắc, thăm thẳm ẩm ướt. Nhưng từ bưng xa, gió đã đưa về cái hương vị ngọt ngào mới mẻ của một mùa cây trái tốt tươi.
Trong khoang lái chiếc xe tải lúc ấy có năm người. Người thứ nhất tất nhiên phải kể đến là anh lái cao to, nước da đồng hun, có bộ râu cằm cố tình không cạo, nhác trông như người nước ngoài. Bên cạnh anh là một người đàn ông khoảng trên ba mươi tuổi, vóc dáng thanh thoát, khuôn mặt hồng hào sáng láng, hay có cái mỉm cười ý nhị. Ngồi nép vào con người dễ mến ấy là cô gái mặc áo khoác nâu có một nhan sắc bình dị chỉ cần nhìn qua cũng có thể chấp nhận được ngay. Bên cạnh cô gái áo nâu là cô gái áo len xanh, cùng trạc tuổi nhưng dáng điệu, lời lẽ nói năng có vẻ sắc sảo hơn. Và ngồi ngoài cùng, gần như ép dính vào cửa xe là một thanh niên mặc quân phục không quân hàm, thân hình mảnh khảnh, cặp mắt trũng sâu hơi mệt mỏi. Anh ngồi như mới vào mép ghế trong khi người khác có thể ngồi thụt sâu vào, lưng dựa tạm gọi là thoải mái. Đường lên chót vót cửa khẩu Na Mèo vào những ngày cuối năm ngồi lên chặt như thế càng ấm. Xe Zin mà vẫn xóc đến khiếp? Cứ nhảy chồm chồm thỉnh thoảng người lại giật nảy lên, đầu va lốp cốp vào mui xe hoặc ngả nghiêng, xô dạt vào nhau như trong xe có bão lớn. Gió lạnh vút qua ô kính bật lên những tiếng tanh tanh. Sương mù trắng xóa làm con đường chập chờn, lúc rõ lúc nhòa. Cái gạt nước chuyển động hết sức uể oải ở trước mặt. Tuy vậy, tiếng xe nổ vẫn êm ru, thoang thoảng mùi xăng thơm nồng. Đôi lúc anh lái múa cổ tay của một đường ràn rạt mép vực khiến hai cô gái bật rú lên, mắt nhắm nghiền như sắp rơi ra khỏi trái đất. Cây rừng xào xạc, thác đổ vang vọng dưới thung sâu càng thêm tăng vẻ chênh vênh của một đoạn đường toàn leo dốc. Nhiều đoạn chiếc xe chở nặng gạo chòng chành giống như đi trên dây, nhỡ tay lái một chút là tất cả sẽ biến khỏi mặt đường rơi thỏm đi đâu không ai dám nghĩ tiếp. ấy vậy mà anh lái vẫn thản nhiên tru miệng huýt sáo Gặp đoạn đường phẳng một chút, anh lại còn hát nữa mà hát bằng thứ tiếng Anh khá chuẩn hẳn hoi. Nhìn nghiêng, những cọng râu cứng như rễ tre của anh lay động thấy tức cười. Cô gái áo xanh bấm nhẹ vào tay bạn, kín đáo đưa đôi mắt khá sắc về phía anh lái xe ngầm một ý thán phục và tin cậy: "A-ma-tơ gớm!". Anh con trai trẻ đẹp khẽ gật đầu mỉm cười, cái mỉm cười rất hóm và thông minh, pha thêm một chút thấu hiểu của triết nhân: "Tất cả những cái đó đều bắt đầu từ sự hiện diện của các cô ra cả đấy, cô bé ạ?". Cô gái áo nâu không có phản ứng gì, mắt vẫn nhắm hờ như lim dim ngủ, cũng lại như đang mải nghe tiếng hát trầm trầm rất đàn ông của anh lái xe vui tính mà dáng dấp hào hoa, ngang tàng hiện lên ngay cả ở bàn tay cầm lái. Rét quá? Càng lên cao càng rét. Một bàn tay đàn ông trắng trẻo sẽ sàng đặt lên những ngón tay con gái nhỏ nhắn, nắm chặt... Nét mặt cô gái không xao động. Gió rít như chó sói tru lưng trời.
Cô gái áo len xanh so vai rụt cổ lại một cách thật là bé bỏng:
- Ôi chao? Giá bây giờ có một chiếc chăn bông mà khoác nhỉ? -
Lắng một chút như tự nghe tiếng xít xoa của mình, cô lại duyên dáng hạ vai xuống - Thoa ơi? Mày ngủ đấy à?
- Giá mà ngủ được - Cô gái áo nâu vẫn không mở mắt, nói thầm thì vào tai bạn - Nếu bây giờ có một đống lửa và mấy cái bắp ngô nếp nướng nhỉ - Và khẽ cười. Cái cười không được tự nhiên nhưng để bù lại, một hàm răng trắng muốt, đều chằn chặn ló ra. Có cảm giác cái cười ấy làm ấm cả khoang lái. Cô gái áo xanh hơi ngửa mặt ra sau, mắt nhìn lơ mơ lên trần:
- Anh Phụng ơi (anh con trai khẽ nhướng mày tỏ vẻ sẵn sàng nghe). Em như anh thì em sẽ bắt quách cái Thoa sang ở hẳn với anh. Chàng là bác sĩ, nàng là kỹ sư chế tạo máy, cũng sống trong một thị xã nước ngoài xa lạ, hay đứt đi chứ lị. Rồi cưới luôn hay hết thời hạn về nhà cưới, điều đó có hề hấn gì, miễn là gần nhau. Dăm bận đi thăm thế này, họa có thành bà già.
Bác sĩ Phụng vẫn chỉ mỉm cười rồi hào phóng, móc từ túi xách ra một cây Du Lịch bóc rèn rẹt:
- Để sang một lần thử xem: Cái đó là hoàn toàn do Thoa quyết định thôi.
Cô áo xanh chép lưỡi, giọng nói cố làm ra cái kiểu ghen tị nhưng nghe tinh lại có chút ghen tị thật:
- Cái Thoa là sướng nhất trần đời đấy. Nghỉ phép người yêu về tận nhà đón sang chơi. Chưa đủ, sợ nàng buồn, người ta lại có nhã ý mời cả cô bạn gái cùng đi làm thần hộ mạng cho nàng nữa. Ghê! Anh Phụng, em bảo này: anh cứ giữ rịt cái Thoa ở lại về làm gì, xung quanh toàn những cái dớ dẩn, nhức đầu? Lúc này bứt đi đâu xa được một thời gian là tuyệt nhất. Xã hội biến động, không cẩn thận, chàng một nơi, nàng một nẻo rồi nàng cũng biến đi lúc nào không biết.
Phụng đáp lại với giọng nói bao dung:
- Tha hồ. Nhưng mà... nói cho cùng cũng mệt thật! Bây giờ các giá trị đều bị đặt trở lại cả. Sự thủy chung bỗng thành chớp nhoáng, cái yêu đương dễ hóa thành hận thù. Tìm một tình yêu bất diệt bây giờ còn khó hơn đi tìm dấu chân người nguyên thủy - Khoan khoái nhả một hơi thuốc, anh nói tiếp - Buồn thật? Cách đây chừng mươi, mười lăm năm, trong một đám tụ họp, giá thử có một anh kỹ sư, bác sĩ... tóm lại là một anh trí thức nào đó trót máy mồm khoe tao có cô người yêu làm nghề bán phở là lập tức bị chửi cho mất mặt ngay. Nhưng nay ấy à? Đó là tất cả sự vinh hạnh nếu không muốn nói là cứu cánh đấy. Ngược hết! Ngược lại hết!
- Hay! Hay đấy! - Anh lái tán thưởng ồn ào.
Cô áo xanh cũng cười rất tươi, nhìn sang người bạn trai đầy vẻ tự hào: "Đồng chí lái xe thấy chưa? Đồng chí sẽ không phải ân hận khi đã cho những con người hay ho như thế này đi nhờ".
Phụng mồi thêm một điếu thuốc nhét vào ngón tay anh lái, tiện thế quăng luôn cả cây vào cốp xe rồi nghiêng mắt nhìn chếch xuống khuôn mặt người yêu. Cô gái vẫn nhắm mắt lim dim, đầu hơi tựa vào một bên vai vạm vỡ của anh nhưng nét mặt lại thoảng đi đâu.
Phụng hỏi nhỏ:
- Em mệt à?
- Cô gái khẽ lắc lắc đầu và mở mắt ra. Cặp mắt hơi buồn, có một cái gì bứt rứt ẩn thật sâu bên trong. Cô không ngước nhìn khuôn mặt đàn ông đẹp đẽ đang kề cận rất gần mà nhìn vuốt qua cửa kính ra ngoài. Xe đang đà xuống dốc. Không gian hiện ra thoáng đạt, rõ nét hơn. Mãi tận sườn núi bên kia, một vệt nắng vàng như rơm thoáng hiện rồi thoáng mất. Lát sau nó lại nhảy nhót trên một vùng săng lẻ thân dài thẳng thớm, xòe tán, xòe lá xanh biếc như thông.
- Đẹp quá! - Cô gái khẽ thốt lên.
- Bây giờ thế này - Anh lái xe như được cái vẻ thảng thốt của cô gái áo nâu đốt nóng, xướng to - Chuyến xe cuối năm không đi đâu mà vội, các vị thấy nơi nào có lý cần dừng, cần nghỉ lại cứ nói, tôi chiều hết. Cả đời tốc độ, thi thoảng cũng phải vẩn vơ ngơ ngác một tí chứ. Tiện thể thông báo luôn: đây đi Na Mèo còn qua đèo Phỉ, đèo Mây, đến được cũng phải chiều tối hoặc nửa đêm, đấy là nói đường thuận lợi. Còn đường xấu thì...
Anh huýt một tiếng sáo dài như vượn hót và nhấn thêm ga.
- Eo ơi! Đèo gì mà lại là đèo Phỉ? - Cô áo xanh thu người lại - Chắc nơi đó trước kia nhiều phỉ lắm hả anh? Làm như một cuộc hành trình đi Nam Mỹ không bằng - Giọng cô trong vắt, nghe rõ cả tiếng gió ở đầu lưỡi - May quá là gặp anh ở dọc đường chứ không thì chết, chả còn biết đối phó ra sao. Xe khách không có, xe con thì bất lực, bản làng lại xa tít mù khơi. Gớm? Đường với đất, đi một lần tởm đến già. Chắc anh chạy con đường này
nhiều?
- Ít thôi. Thiếu hai năm nữa là tròn... hai mươi.
- Úi giời!
Anh lái xe chìa bao thuốc lá lại phía anh bộ đội. Đang mải nghĩ ngợi đi đâu, người mặc quân phục giật mình quay lại, ngượng nghịu lắc đầu:
- Cám ơn? Tôi... Tôi bị viêm cổ.
- Xì! Viêm vủng gì! Lại mấy cha thầy thuốc lẩm cẩm dính vào đây! - Anh quay qua anh bác sĩ, cười ấy chết, xin lỗi đồng chí bác sĩ nhé. Tôi vốn ăn nói tứ tung.
Cô gái áo xanh ghé vào tai bạn nói thật nhỏ:
- Xương với xẩu! Đau quá!
- Cái gì đau?
- Cái xương hông ông ấy tì vào đùi tao đau quá!
- Con ranh! Thì ngồi dịch vào tao đây này.
Bất giác Thoa đưa mắt nhìn người mặc quân phục. Như mọi người đàn ông khác gặp trên vùng đất này: khắc khổ và lành hiền, chả có gì đặc biệt. Cô lại lim dim mắt.
Xe ì ạch bò qua một đoạn đường nhoe nhoét đất đá. Rải rác đó đây có những tốp chiến sĩ làm đường đứng ngập chân trong bùn nhìn chăm chăm lên xe. Vài ba cô gái nước da mai mái vui vẻ gọi bới lên:
- Anh tài ơi! Chở ai mà xanh đỏ tím vàng như đi hội thế?
- Con Thơm nó ghen đấy. Cho chết! Lính lục lộ mà cứ đòi yêu
anh... vi vu.
- Ừ tao yêu. Thì đã sao? Còn hơn đứa nào suốt từ sáng đến giờ, động một chiếc xe nào đi qua cũng hiếng mắt lên. Dơ!
- Cẩn thận cây cầu gỗ đó! Lăn kềnh ra đấy thì lại mất công ối đứa khóc.
Tiếng cười râm ran lan khắp mặt đường. Trên xe, anh lái cũng đáp lại bằng một tràng cười rất vang và giòn, hai ngón tay ám vàng khói thuốc thi nhau đưa lên môi hôn gió. Chiếc xe bậm bạch bò vào một đoạn đường khô hơn nhưng rải toàn đá hộ. Toàn bộ sắt thép trên xe cứ va nhau cục kịch tưởng như sắp long ra từng bộ phận.
Bác sĩ Phụng nheo nheo mắt nhận xét:
- Có vẻ tất cả các cô gái trên cung đường này đều mê ông cả?
Anh lái không trả lời chỉ nháy mắt một cái không ra phản đối, cũng chẳng ra tán thành. Tiếng thổi sáo càng véo von hơn. Bằng giọng trả lời, Phụng nói tiếp:
- Kiểu này là lại thêm một bà vợ phải chịu đựng cái bi kịch của sự cam chịu đây.
- Chưa! Tôi chưa có, chưa có một mụn vợ nào.
- Kén à? Hay ngại?
- Không kén, không ngại nhưng chưa đủ tư cách làm chồng, chưa đến tuổi.
- Anh bao nhiêu rồi?
- Gần bốn mươi.
- Quỷ thần ơi! Thế định đến bao giờ anh mới đủ tuổi?
- Khi nào các cô gái trên đời chỉ nhìn tôi như nhìn một cây gỗ mục đã. Hiện nay... sức quyến rũ cũng đang còn kha khá, chưa đến nỗi.
Cô áo xanh bĩu môi:
- Đàn ông các anh lắm lý lẽ thật. Sao mà giống nhau thế?
- Đâu có! Anh lái đáp lại trơn tru - Lý lẽ, lý luận gì đâu, tham
thôi.
Bác sĩ Phụng cười to, vỗ mạnh hai tay vào nhau.
Cô áo xanh nhoài người về trước, môi cong lên:
- Sao nữa? Nói tiếp nữa đi xem nào? Nghe nói đời tư mấy ông lái xe đường dài là phong phú lắm. Tự đặt cho mình những cung chặng người tình và suốt đường đi, cả chục cô tình nhân các cô ấy cung phụng cơm nước, nơi ăn chốn ngủ như ông hoàng?
- Chị biết nhiều nhỉ?
- Tôi còn biết nhiều hơn nữa kia.
- Có duyên quá?
- Duyên gì. Tôi...
Anh bác sĩ kín đáo bấm tay cho cô gái đừng nói nửa: "Đành hanh không đúng chỗ rồi. Đi nhờ xe người ta mà!... "
Nhưng anh lái đã cười ầm ầm, cười rung cả người:
- Biết ngay mà. Đàn bà đáng yêu thật! Đùa đấy. Quanh năm gió bụi lêu têu mà cứ ỉu ỉu như cô kỹ sư kia thì cầm cự thế nào được. Khai thật lòng đây: một vợ và ba nhóc rồi, toàn vịt giời cả. Và một năm dù chỉ ở với vợ con vài tuần nhưng trách nhiệm hết ga, không kém bất cứ một anh chồng chỉ biết quanh quẩn bên vợ nào.
Bỗng anh phanh két xe lại. Hú vía! Ngay trước mũi xe là một đoạn đường xói lở nham nhở, để lộ một miệng vực toang hoác nhớt nhát.
Người đàn ông mặc quân phục lặng lẽ mở cửa xe nhảy nhanh xuống tưởng như anh vẫn thường nhảy xuống như vậy trong những trường hợp tương tự.
Lúc này mới thấy rõ anh mảnh khảnh thật. Đứng trước mũi xe, áo quần bị gió táp tứ tung, người anh cứ xiêu vẹo đi. Uốn theo bàn tay xi-nhan khá thành thạo của anh, chiếc xe ì ạch bò dần từng nấc.
Cô áo xanh chép miệng:
- Đi đường này chính ra anh phải lựa một ông phu xe khỏe như vâm mới phải, khéo kìa? Coi chừng gió lạnh búng luôn ông ấy xuống vực bây giờ.
- Nhầm rồi cô gái đáo để ơi! - Anh lái vừa thận trọng đạp, nhả ga, vừa nói - Người ta không phải lơ xe đâu. Cũng khách đi nhờ thôi.
- Bạn anh à?
- Không? Nhưng cũng là bạn. Vùng này chỉ có dân lái đánh bạn với cánh biên phòng thôi.
- À thì ra đó là một chiến sĩ biên phòng đấy - Anh bác sĩ gật gù
- Bất ngờ nhỉ! Hồi về nước đi qua biên giới Hung, tôi đã từng uống bia đen với những tay biên phòng tướng tá nhìn phong trần, tráng kiện lắm.
- Trông còn trẻ quá! Chắc chưa vợ con gì : - Cô áo xanh chậc lưỡi - Hiền nhỉ?
- Đời lính quanh năm núi rừng heo hút kể cũng tội - Phụng lắc đầu - Chuyện vợ con chả biết thế nào? Con gái thời này họ thường nhìn vào thực chất.
Anh lái nói to:
- Ấy, đừng có đùa bác sĩ, mấy ông biên phòng ông nào cũng có duyên thầm cả đấy, đắt giá ra phết. Con gái từ đường Một trở lên đây là cứ say tít.
- Cũng có thể - Phụng cười nhân nhượng - Nhưng yêu và thương là hai cái khác nhau rất xa đấy nhé!
Những lời bàn tán xung quanh dường như đã kéo cô kỹ sư ra khỏi cơn ủ ê. Thoa khẽ cựa mình lơ đãng nhìn con người "tội nghiệp" mà thiên hạ đang sồn sồn nói đến. Con người đó lúc này hai vai áo mưa đã đậu trắng xóa, thỉnh thoảng lại khẽ rùng mình trước một cơn gió phũ phàng thổi tới. Anh đang đi thụt lùi trước mũi xe và bước đi chập chỗm không bình thường.
Khi mảng đường xói lở đã lùi xuống nằm ngang thân xe, anh lái thò đầu ra quát to:
- Thôi lên? Đi được rồi đấy. Khổ thật. Đã bảo cứ để mặc người ta, nhảy xuống nhảy lên làm gì nhiều cho vất vả.
Xe rồ mạnh máy. Anh bộ đội mở cửa chui vội vào. Toàn thân anh như một tảng băng không ngừng tỏa giá lạnh. Không hiểu sợ dính ướt hay có ý nhường chỗ, cô áo xanh xoay nghiêng người ngồi hẳn vào trong, trìu mến đưa cho anh lọ dầu nóng:
- Anh xoa mạnh vào cổ vào ngực cho ấm.
- Cảm ơn chị - Anh đưa tay đón lấy lọ dầu và thoắt trở nên lúng túng trước cái nhìn dịu dàng của cô gái.
Bác sĩ Phụng cũng mồi cho anh một điếu thuốc. Từ lúc đó hình như ánh mắt, thái độ của mọi người trong xe đối với anh khác hơn. Còn anh, sau khi đưa trả lọ dầu, lại nhích sát người vào cửa xe, im lặng, chốc chốc húng hắng ho.
- Ở đồn biên phòng, anh có biết ông Thân không? - Anh lái gợi chuyện - ông Thân đồn trưởng ấy?
- Có anh ạ? - Người lính trả lời.
- Một tay cự phách đấy - Anh lái nói to với cả khoang lái - Khét tiếng đấy! Bọn phỉ, bọn buôn lậu vùng này cứ nghe thấy tên đại úy Phạm Thân là rúm vó lại rồi. Cánh lái đường dài chúng tôi toàn những tay giang hồ bạt tử cả mà đố có thằng nào dám qua mặt ông ta.
- Anh biết à? - Cô áo xanh tò mò hỏi.
- À... Không? Là cũng nghe nói vậy thôi, này, hình như tháng trước trong một cuộc rượt đuổi mấy chú phản động đang tìm đường vượt biên, ông ta bị dính đạn phải không? Không rõ đi viện về chưa chả biết? Về chưa anh?
- Về rồi anh ạ! - Người lính trả lời mà không quay lại.
- Con người tuyệt vời đấy! Đợt này quay về phải ghé vào thăm ông ta một chút mới được. ấy, nghe nói trước đây cũng là một tay lái có hạng ở chiến trường Tây Nam, con người đầy mình chiến tích, ngang dọc một thời nhưng đời riêng cũng lắm cái lận đận! Cánh xế kháo nhau cô vợ chưa cưới của ông ấy đẹp kinh người nhưng... Hả?
- Chắc ông đồn trưởng này phải tài hoa, mắt sáng và râu quai nón xanh rì - Cô áo xanh phán đoán một cách háo hức từ đầu tới giờ cô luôn tỏ ra háo hức cực kỳ trước bất cứ một chuyện gì lạ xảy ra trên đường - Giá gặp được viên thủ lĩnh trấn ải ấy được một chút nhỉ. Chắc ối chuyện ly kỳ, rùng rợn.
Nghe cô gái xuýt xoa vậy, anh bác sĩ chỉ mỉm cười không góp chuyện. Còn người lính, núi rừng mù mịt vẫn hút lấy tầm mắt của anh. Xe đang gặp chỗ khó. Khoang lái thoắt chìm đi trong im lặng. Lát sau, người đầu tiên không chịu được bầu không khí gượng gạo này là Phụng. Bằng cách nói lưu loát hấp dẫn, anh cất tiếng:
- Thực ra tuyến đường này còn đỡ, tuyến đi qua Điện Biên mới thật gian nan. Trúng mùa mưa xem, phải hàng tuần, có khi cả tháng. Năm rồi nghe xì xào một câu chuyện tình sử bi kịch lắm? Một người vợ trẻ cũng đi nhờ xe như thế này lên thăm chồng tít mãi tận Tuần Giáo. Cuộc hành trình ròng rã suốt hơn mười ngày trời mà trên xe chỉ có hai người: cô ta và anh tài xế khỏe mạnh. Dù có là thánh thì cái kết cục tất yếu rồi cũng sẽ phải xảy ra... Vậy mà khi đến nơi, gặp chồng, cô ta bật òa khóc nức nở, khóc thực sự như bất cứ người vợ chính chuyên thủy chung nào. Oái ăm thay, anh chồng bộ đội thấy vợ lăn lộn vất vả lên tận đây thăm mình, xúc động quá cũng khóc theo. Bi kịch? Thật là bi kịch.
Anh bác sĩ lặp đi lặp lại kết luận ấy với giọng điệu ráo hoảnh. Cô kỹ sư rùng nhẹ người, cái sống mũi xinh xinh chun lại như bị tức ngực.
- Gớm! Làm gì có cái chuyện ấy - Cô áo len xanh phản đối yếu ớt - Anh nói đến cái tình nghĩa vợ chồng nghe ghê chết được!... Nhưng mà này, giá cái anh chồng bộ đội ấy biết được nhỉ? Đố tất cả xem cái gì sẽ xảy ra nào? Chắc phải dữ dội lắm nhưng... biết đâu họ lại ôm nhau khóc nữa. Em cũng có biết một chuyện tương tự như vậy nhưng tình tứ hơn. Một cô sinh viên Hà Nội lên tàu đi thăm người yêu bị thương ở mặt trận Tây Nam được chuyển về Sài Gòn điều trị. Dọc đường không biết nghĩ ngợi thế nào lại quay sang mê luôn một anh chàng đẹp trai ngồi cùng toa. Mê hẳn hoi chứ không vờ vịt, lấp chỗ trống đường dài gì đâu. Thế là anh thương binh cứ ngày ngày ôm bức điện chờ đợi, còn cô ta; gần như không cần tính toán, theo ngay anh kia về Lâm Đồng.
- Theo tôi - Phụng vẫn lạnh lùng - Trong cuộc sống hỗn tạp nhiều khi phải biết bỏ qua những tiểu tiết. Ví như đôi vợ chồng Tuần Giáo ấy, biết đâu đó chỉ là một cách trả công sòng phẳng của cô ta còn tình cảm thực vẫn luôn hướng về người chồng. Mất gì, được gì?
Như chợt thấy đã đi quá đà, anh dừng lại nhìn nhanh sang Thoa rồi bật lên một tiếng cười khe khẽ, không ăn nhập vào đâu.
Cô gái lại khẽ rùng người. Cô lặng lẽ rút những ngón tay nhỏ nhắn của mình một cách không tự giác ra khỏi bàn tay anh con trai vẫn đang nắm chặt. Bàn tay hồng hào ấy bị hẫng, chuyển dịch, quờ quạng một chút rồi để nguyên, lay động...
- Thằng khốn!
Trong suốt câu chuyện anh bác sĩ kể, anh lái xe tỏ ra thờ ơ, miệng vẫn huýt sáo vẩn vơ nhưng đột nhiên lúc này anh văng ra một tiếng gằn gằn nhưng cũng vẫn vu vơ, chẳng rõ ám chỉ ai. Tuy vậy cái tiếng gằn đó cũng làm cho Phụng thoáng giật mình, anh nhìn xéo qua người lái xe, chuẩn bị đón nhận những tiếng văng còn dữ dằn hơn nữa. Song cũng chỉ thế thôi vì ngay sau đó người lái xe đã lại phun mạnh mẩu thuốc lá còn khá dài ra ngoài sương:
- Chuyện như vậy thường - Tôi còn thấy một chuyện ác hơn - Anh hắng giọng - Cái bản bên kia kìa, có một ông già người Mông tóc dài tới vai, bạc phơ, suốt ngày ngồi ngậm pí bên cạnh bà vợ bị thần kinh nằm trong buồng, ấy vậy mà không hiểu tại sao có một cô gái dưới xuôi, trẻ lắm, mới tròn hai mươi tuổi, trông cũng được, lại phải lòng rồi nhận luôn làm vợ bé của ông ta và sống hạnh phúc hẳn hoi. ấy không? Không hẳn là bùa ngải gì đâu. Đàn bà họ bít bung không hiểu được. Ví như cái cô đi thăm người yêu ấy... rừng càng đi càng lạc, đố ai cắt nghĩa được, nào!
- Hoàn toàn đúng! - Phụng lại khẽ vỗ tay.
Cô áo len xanh nguýt dài một cái:
- Khiếp. Thì ra là thế đấy. Thảo nào ông bác sĩ phải lặn lội về tận nhà đích thân đưa bà chị đi.
- Loan! Tao không thích mày nói mãi thế đâu - Cô kỹ sư áo nâu bỗng gắt khẽ khiến cho miệng cười của cô bạn đang tươi chợt méo đi. Tiếng gắt đột ngột ấy cũng làm cho người lính biên phòng bất giác quay lại, cái nhìn đọng một chút trên khuôn mặt bứt rứt của cô gái. Vô tình đụng ánh mắt cô, anh vội ngoảnh đi, lại nhìn hun hút ra ngoài. Tiếng gắt ấy cũng khiến cho buồng lái chìm đi. Anh lái cất tiếng hát giả tạo, giai điệu và lời sai lung tung. Lát sau, chính người lính bật tiếng nói đầu tiên, anh nói nhỏ mà hình như cũng chỉ nói với chính mình:
- Đường còn ngổn ngang thế này, ít nhất một năm nữa may ra mới rải được nhựa. Thôi thì mong cho chóng xong... Vất vả quá, mỗi lần qua đây lại hình như thấy thiếu đi một vài khuôn mặt... Rét! Năm nay sao rét nhiều thế?
- Nhưng chắc cũng chưa ăn nhằm gì với chỗ của ông - Anh lái nói - Người ta bảo tuần trước khu đồn biên phòng nước đóng băng đấy. Bộ đội chẳng còn gì ăn, cơm toàn muối cục, đi kiết hàng loạt, thay nhau vào nằm chật trạm xá. Bọn xấu dễ lợi dụng cơ hội này để hành động lắm đây.
Cô kỹ sư hơi mở mắt nghe chuyện. Người ta thấy rõ cô khó nhọc nén đi một tiếng thở dài.
Bàn tay anh con trai một lần nữa tìm bàn tay cô gái nhưng lại bị hẫng. Những ngón tay nhỏ nhắn ấy đã giấu kín giữa hai cặp đùi tròn trịa rồi.
Đến gần cây cầu gốc, chiếc xe bất thần dừng lại. Phía trước nó cũng đã có một chiếc Zin ba cầu khác đang nằm sát lề đường.
Hai anh lái gặp nhau xô bồ và bổ bã. Sau một vài tiếng chửi tục, sau một hơi thuốc lá rít thật dài là những tiếng càu cạu:
- Cầu sắp gục cha nó rồi!
- Từ sáng đã qua được chiếc nào chưa?
- Qua hết rồi mới tức chứ. Nhằm đúng tới lượt mình thì nó giở
quẻ. Cái số chết tiệt.
- Thôi kêu vừa chứ, xem nào!
Hai anh lái khụng khiệng bước xuống đầu cầu. Người lính cùng lặng lặng theo sau. Trước mặt ba người là chiếc cầu dài chừng hơn bốn thước, bắc qua một cái khe nhỏ. Cầu được kết bằng những phiến gỗ kếch sù đặt nằm ngang, mới trông thấy còn chắc chắn. Nhìn kỹ đoạn ở giữa, kéo sang bên phải một tí đã hơi khấp khiểng. Chỗ ấy thấy rõ những vết nứt nhỏ, sâu, trên mấy thanh gỗ xơ xước đen mun.
- Thế thì còn hòng chó gì nữa. Mẹ! Chậm có vài giây mà đâm lỡ cả - Anh lái râu ria tung chân đá mạnh vào một tảng đất cho lăn xuống khe - Kiểu này cũng phải ngày kia, ngày kìa may ra mấy bố con giời mới cho người xuống sửa. Tối đến nơi rồi, hóa ra xe mình lại đi cuối cùng mới uất chứ. Mẹ! Nằm lại đây hai ba ngày thì buồn thối ruột. Biết thế cứ dừng bố nó ở dưới kia lại có cơm rượu đàng hoàng.
Bác sĩ Phụng cũng bước xuống, mái tóc đẹp bay tơi:
- Thế nào anh? Hỏng cầu à?
- Hỏng! Đến chậm có chút ít. Chuẩn bị dựng trại kiếm củi nấu cơm thôi!
Cô gái áo xanh tái mặt:
- Thôi chết! Thế không còn cách nào hả anh? Mưa gió thế này mà nằm lại giữa rừng giữa rú... Hay là ta kiểm tra kỹ lại coi. Có khi...
- Mời chị. Xin mời bà chị! Chưa lăn xuống khe còn là may đấy!
Trên xe chỉ còn lại mình kỹ sư Thoa. Cô hơi ngúc ngoắc đầu gối lại ngồi im. Thấy rõ chuyện đi được hay không đối với cô không có vấn đề gì.
Phụng bước xuống cầu. Vừa giậm giậm chân lên mấy thanh nứt, anh vừa lẩm bẩm:
- Hỏng! Hỏng thật! Thế này thì nguy! Chả lẽ không còn ai dòm ngó đến nó nữa à? Thế đấy! Cái tiêu cực vô trách nhiệm mò lên hoành hành tới ngay cả nơi rừng thiêng nước độc này. Lỡ hết kế hoạch. Phải tóm cổ những tay có trách nhiệm ra đây chớ!
Chỉ có tiếng nước chảy đến sốt ruột dưới khe, phù họa vào câu nói đó. Người chủ của chiếc xe trước to ngang, nét mặt thuần hậu rên rỉ:
Mình đâu có định đi chuyến này. Vợ sắp đẻ, chẳng có ai trông coi, đỡ đần ở nhà! Cũng tính cắm mày cắm mặt đi vượt cung đường may ra lúc quay về vừa kịp. Kiểu này thì... - Mặt anh nhăn lại như chính anh sắp đẻ.
- Thì tớ nhênh nhang à? Anh lái râu ria nói như quát lại - Bên kia hết gạo rồi. Tắc xe hai ngày là lính dám ăn cháo lắm chứ đừng nói chỉ đến tết nhất, bánh chưng bánh tét cả.
Đổ trút giận dữ vào nhau chán, hai anh lái, một cao to, một thấp lùn đều cùng hạ đít ngồi phịch xuống khúc gỗ lát đỏ thẫm bên lề đường.
Cô gái áo xanh nói nhỏ vào tai anh bác sĩ:
- Ta tính sao anh? Nằm ở đây hai ngày không chịu nổi đâu. Lại còn... Hay là ta xách đồ đi bộ sang bên kia cầu, gặp xe nào nhờ đi tiếp? Thế nào chả có chiếc xe nghỉ đêm lại.
- Ừ... Để xem sao đã - Phụng ngập ngừng - Để xem thái độ của ông tài ra sao đã. Mới vậy đã bỏ đi coi không thật tiện. Vả lại cũng do chúng ta lần chần mà xe đến đây chậm. Chờ chút! - Phụng lôi chai rượu ngoại xinh xắn dáng dẹt dẹt trong túi áo khoác ra, vui vẻ đi lại chỗ hai người - Nào! Làm một tý cho ấm bụng đã, mọi chuyện từ từ sẽ tính. Thỉnh thoảng có như thế này mới là cuộc đời chứ.
Hai anh lái đón lấy chai rượu uống luôn, không nói năng gì. Vừa lúc mưa có chiều nặng hạt, mọi người trèo vội lên xe, ập cửa lại. Dưới lòng đường chỉ còn người lính biên phòng đang lui cui ngó nghiêng xuống mặt cầu.
- Thôi lên đi ông ơi! - Anh lái gọi - Còn ngắm nghía cái gì nữa. Chắc không phải do phỉ nó phá đâu.
Bật lên một tiếng cười nhỏ của anh bác sĩ.
Người lính có vẻ không nghe thấy, anh vẫn nán lại thêm một chút nữa rồi mới đi lên, dáng đi phấn chấn khác hẳn lúc thường. Anh vẫy tay gọi cả hai anh lái xuống. Quái lạ! Không rõ cái vẫy tay ấy có ma lực gì mà hai ông tài vạm vỡ vội ngoan ngoãn nhảy ra khỏi khoang lái ấm áp bước đến cạnh con người mảnh khảnh ấy.
Trên xe, anh bác sĩ và hai cô gái chỉ thấy họ ngồi xuống, chụm đầu bàn bạc điều gì hăng lắm. Người lính lúc chỉ ra cầu, lúc vẽ xuống đường, lúc lại khoát rộng cánh tay về phía trước, lúc vỗ nhẹ vào tay vào ngực mình... Hai anh lái không biết nghe được gì mà cứ thay nhau một mực lắc đầu, thậm chí còn đưa sống tay lên phạt ngang cổ. Người lính tiếp tục nói, mắt sáng lên... Giây lâu thấy hai anh tài gật gật đầu không được dứt khoát lắm và cả ba cùng đứng dậy.
Anh lái râu ria trở về xe của mình mở toang cửa.
- Đánh thử canh bạc liều coi. Nào! Xin mời tất cả quý vị xuống!
Bác sĩ Phụng bồn chồn ra mặt:
- Sao? Ta nghỉ lại đây thật ư?
- Thì đã bảo cứ xuống mà.
Cả ba người lóng ngóng bước ra, nhường lối cho người lính và anh lái nhảy lên. Chỉ khác lần này, người lính ngồi vào chỗ anh lái, trước vô lăng, còn anh lái lại thế vào chỗ người lính, sát cánh cửa.
Một trao đổi ngắn nảy ra giữa hai người.
Người lính:
- Anh xuống đi. Mình tôi đủ rồi.
- Không! Tôi ngồi với anh. Dù sao tôi cũng đã quen tính quen
nết của nó.
- Không cần thiết. Tôi cần anh đứng bên kia cầu xi nhan kia. Đã tin nhau thì tin cho trót chứ.
- Thôi được. Rõ!
Anh lái miễn cưỡng nhảy xuống, chạy ù qua cầu.
Còn lại một mình, người lính ngoảnh mặt ra cửa dịu dàng nói với bác sĩ Phụng.
- Anh có thể đưa các chị đứng vào dưới tán cây cho đỡ ướt.
Ba người bất giác không ai bảo ai đều tự động làm theo. Anh lái to ngang cũng đứng nhập vào với họ. Khi chiếc xe bắt đầu nổ máy, cô gái áo xanh đột ngột tỏ ra hốt hoảng:
- Ấy? Sao lại thế? Sao lại để cho người ấy lái. Người ta là lính biên phòng chứ có phải lái xe đâu.
Phụng gạt đi với một cái chau mày:
- Loan! Em không nên dính vào công việc của người khác.
- Nhưng mà... Liều quá! Nhỡ ra thì sao?
Ngồi trước vô lăng, hình như người lính đã nghe được những lời ấy, thoáng thấy anh mỉm cười. Anh lái to ngang không tham gia vào câu chuyện, chỉ trân trân nhìn như bị hút dính vào chiếc xe. Cùng nhìn vào đấy người ta thấy cả ánh mắt bồn chồn của cô kỹ sư. Bác sĩ Phụng khẽ nhún vai rồi rút thuốc ra hút, lơ đãng nhả khói lên tán cây.
Chiếc xe rùng mạnh một cái rồi bắt đầu chuyển động. Trên khoang lái, xuyên qua màn mưa bụi, chỉ thấy vầng trán người lính căng ra, đôi mắt nhìn rất găm về phía trước. Xe tiếp tục thả trôi xuống dốc một đoạn như muốn dưỡng sức và khi cách chiếc cầu khoảng vài chục mét, nó hơi dừng lại gài số. Lúc đó ai cũng tưởng rằng nhất định nó sẽ lấy đà bay bổng lên, vọt qua cầu nhưng chiếc xe càng bò chậm hơn, lì lợm. Chạm thanh dầm đầu tiên, mũi xe hơi hất lên bướng bỉnh rồi lấy thăng bằng liếm nhanh hai bánh trước vào, thân cầu ọp ẹp. Cả cây cầu rung chuyển kêu cót két. Không cần biết, hai bánh sau tiếp tục nghiến lên. Thoáng chốc cả tám chiếc bánh xe đã cùng lăn trên cầu, lăn gượng nhẹ, lăn từng phân gỗ một, lăn sát mép cầu bên trái, sát lắm, gần như chỉ mớm nửa bánh vào thanh dầm, tưởng chỉ cần một luồng gió mạnh ào tới là chiếc xe sẽ mất thăng bằng lạng đi, đâm đầu xuống lòng khe... Bên kia cầu, anh lái râu ria vẫn cúi gập người xuống, vẹo đầu vẹo cổ nhìn trừng trừng vào từng lốp xe. Xe càng lăn, mặt anh càng căng chằng ra, mồ hôi đọng từng giọt trên sống mũi, ngón tay xi nhan có khoảnh khắc dừng lại, cứng đờ. Anh liếm môi.
Hai bánh trước đã nhích đến gần chỗ gỗ nứt. Chiếc xe chở nặng nhọc càng có ý bò xiêu về bên trái, bò tránh đi. Hình như có tiếng động không bình thường từ bụng xe phát ra.
Anh lái to ngang uốn người một cách kỳ quái tại chỗ, mồm miệng lắp bắp như niệm chú:
- Khoan!... Tí! Tí nữa! Rồi, hay lắm! Tí nữa! Rồi! Được rồi! Sắp được rồi ấy khéo... Đừng sang trái quá. Trời! May quá! ấy kìa...
Trên cầu, bánh xe đã lăn đúng tới chỗ hiểm nghèo. Đúng ra, chiều dài chiếc cầu cũng chỉ nhỉnh hơn độ dài thân xe chút ít nhưng thời gian như ngừng lại ở dưới sức đè của những chiếc bánh cao su lăn rất chậm ấy. Chỉ cần một bánh nào đó đè xuống chỗ gỗ nứt là cả chiếc xe năm tấn sẽ lật nghiêng... Nhưng chiếc xe vẫn như con quái vật bị mù, cứ gầm gừ nhích dần từng phân không cần biết điều gì sẽ xảy ra ở ngay trước mắt. Nó thở hồng hộc, phả khói mù mịt. Trong làn khói, người ta nhìn thấy cái đầu người lính im phăng phắc như tượng. Rắc! Chiếc cầu bật kêu lên và oằn xuống...
Cô gái áo xanh bưng chặt tay vào mặt, kêu lên:
- Ôi! Ghê gớm quá! Nói người ta dừng lại đi! Tôi không thể nhìn được nữa.
Nét mặt cô gái áo nâu cũng tỏ ra thất sắc, những ngón tay nhỏ nhắn xoắn vào nhau. Riêng anh bác sĩ vẫn không ngừng đốt thuốc, vầng trán nhăn lại trong một nỗi lo toan rõ ràng là không dính dáng gì đến cảnh tượng đang xảy ra.
Bất cần tất cả, chiếc xe vẫn mớm sát về bên trái bò tiếp. Một bên là khe, một bên là những thanh gỗ nứt, chiếc xe chỉ còn một khoảng rất hẹp để chuyển động, cái khoảnh ấy quá mỏng manh, tưởng như không được chênh đi bằng sợi chỉ.
Đột nhiên chiếc xe dừng lại như hút hơi, như thây kệ muốn đến đâu thì đến, rồi bất thần vượt nhanh lên. Trong tốc độ rối loạn ấy, hàng bánh xe bên phải có vẻ động lòng trắc ẩn, chỉ lướt êm bên rìa vết thương tích của cây cầu. Và không đầy mấy giây sau, chiếc xe đã bám lên được mặt đường, kiệt sức không hay rằng nó đã để lại phía sau một cảnh tượng rùng mình: những vết nứt ấy rộng hoác hơn, rung lên bần bật.
Xe tắt máy.
Anh lái râu ria như chỉ chờ có vậy là tung chân nhảy lên, mở toang cửa bế bổng người lính xuống đất. Anh lính cười ngượng nghịu, đẩy tay vào phản ngực vạm vỡ của bạn, chòi chân xuống, trên vầng trán xanh xao đọng lại những giọt mồ hôi lấm tấm. Sau giây phút bàng hoàng, người ta nhanh lên, xô lại với anh. Nhưng anh đã lại lặng lẽ đi xuống cầu. Người lính chăm chú quan sát lại thân cầu một lần cuối rồi nhanh chóng đi ngược lên, tiến đến chiếc xe thứ hai.
- Thấy vậy, anh lái to ngang vội chạy theo, kêu váng lên:
- Thôi, thôi! Như thế là đủ rồi, tha cho nó. Tim tôi đến vỡ mất.
Lần này chiếc cầu không chịu nổi đâu cứ để nó cho tôi, mọi người cứ đi trước đi! Đành vậy...
Câu cuối, miệng anh nói méo xẹo như sắp mếu!
Người lính vỗ vỗ vào mu bàn tay to bè của anh lái mỉm cười:
- Chưa đến nỗi đâu. Tin tôi đi? Hồi còn là lái xe tôi cũng đã gặp những trường hợp giống thế này, thậm chí đằng trước đằng sau còn đầy mìn nữa. Vả lại - Anh chỉ cây cầu - nó cũng tã quá rồi, cần để những chỗ hư hỏng đứt rời ra sửa một thể, để lấp lửng vậy nguy hiểm cho những xe sau.
Rồi không chờ cho người chủ xe thuận hay không, anh bước nhanh vào khoang lái. Ngẫm nghĩ một chút, anh lái cũng nhảy lên, mặt lì lì như sắp ra pháp trường, bàn tay chuối mắn xoa mạnh vào mặt kính mờ nước.
Tiếng nói của anh lái râu ria bỗng cất lên run run:
- Nào ông thầy thuốc, làm ơn cho tí lửa.
Chiếc xe lấy đà ngay từ lúc chuyển bánh và khác với lần trước, gần đến cầu nó đột ngột tăng tốc độ tối đa. Thế rồi trước sự hãi hùng tột độ của những người đi nhờ, nó phóng vọt qua cầu như một quả đạn khổng lồ. Chỉ nghe thấy "rầm" một cái rất mạnh, chiếc xe đã ghếch mũi bò an toàn trên mặt đường như vừa hoàn tất một trò chơi tinh nghịch. Sau nó, cả chiếc cầu đã bị sập xuống hoàn toàn, để hoác ra một lòng khe trắng sương.
- Hoan hô! Hoan hô! Đây là một trò xiếc chứ không phải là lái nữa - Anh lái râu ria nhảy choi choi lên như một đứa trẻ - nửa đời người qua lại đường này, đây là lần đầu tiên gặp một tay lái thần sầu. Sư phụ! Đàn em xin bái phục sư phụ! Kỳ này xin bỏ nghề về đuổi gà cho vợ thôi.
Anh cười ha hả, nắm chặt hai bàn tay người lính rung tít, không cần biết đến khuôn mặt xương xương ấy khẽ nhăn lại.
Anh bác sĩ cũng khoan thai đi tới, cố nở một nụ cười rất tươi, một tay chìa ra khoáng đạt, tay kia vỗ nhè nhẹ lên vai người lính:
- Khá lắm! Cho tôi xin được bắt tay con người dũng cảm một cái nào. Rất khá! Xin cám ơn!
- Có gì đâu anh! Nhớ lại một chút kinh nghiệm trước kia thôi - Anh lính tỏ ra bối rối trước sự vồ vập hơi thái quá của mọi người - Kìa! Mọi người lên xe cả đi không ướt hết.
- Anh quay người tìm đường đi xuống khe có vẻ muốn rửa tay chân. Trong bóng chiều, người ta thấy chân trái anh bước hơi hụt hẫng, cái thân hình gầy gầy đổ xiêu sang bên phải.
Anh lái râu ria nhìn theo bỗng kêu lên:
- Chết cha! Không khéo do cử động mạnh quá, chân anh ấy bị đau rồi!
- Thế nào anh? Đau chân à? Phải bóp dầu nóng cho anh ấy
chứ!
Cô gái áo xanh đã hoàn toàn lấy lại được vẻ duyên dáng đáng yêu vội vàng săn đón hỏi và có ý định trèo lên xe lục tìm cái túi xách.
- Loan! - Anh bác sĩ nhắc khẽ, mặt nghiêm lại.
Cô gái khẽ "hứ" một cái rồi mỉm cười bẽn lẽn trong cái tư thế phục tùng vừa ngoan ngoãn vừa nũng nịu.
Kỹ sư Thoa quay lại nói nhỏ với người yêu:
Anh Phụng!.. Hay là anh chạy theo đỡ người ta xuống một chút. Đường trơn lắm!
Phụng chớp chớp mắt:
- Hả?... Anh cũng chợt nghĩ như thế. Nhưng... em kìa! Anh ta sắp xuống tới nước rồi. Vả lại... tính cách những con người như thế thường không thích phụ thuộc, cái gì cũng muốn tự mình. Nhiều khi sự can thiệp không đúng lúc lại trở thành xúc phạm.
Cô gái nhìn theo người lính đang lần tìm những bước khó nhọc trên đá trơn, nhíu mày lại:
- Anh có thể ít bình luận và ít triết lý đi được một chút không? Em nhức đầu lắm!
- Anh đưa em lên xe nhé! Lạnh quá đấy mà - Anh bác sĩ sượng lại, nói át đi - Đường đất này đáng lẽ không nên bắt tội em đi. Đáng lẽ phải để em...
Cô gái không nghe hết câu, quay lưng bước đến xe.
******
Hai chiếc xe cặp kè nhau chạy được một đoạn đường nữa thì trời ụp tối. Trong buồng lái chiếc đi sau, chuyện trò lại nổi lên râm ran. Có lẽ sau những việc xảy ra như thế, người ta trở nên gần gũi, thân mật với nhau hơn. Người lính cũng bắt đầu tỏ ra linh hoạt, tuy chỉ thỉnh thoảng anh mới trả lời phải chăng những câu hỏi của mọi người. Đèn ca-bin được bật sáng, tạo nên sự thu nhỏ tuyệt vời của một căn phòng ấm cúng.
Anh lái hất mặt về phía chiếc xe trước nói:
- Đó là một thằng chồng yêu vợ chưa từng thấy. Đi đâu cũng chỉ nhắc đến vợ, nghĩ về vợ, vợ là tất cả, nhất vợ vậy mà vợ con nó có yêu đâu, sểnh ra là phải lòng thằng khác. Thằng chồng như ăn phải thuốc ngải, càng bị đòn lại càng say như điếu đổ. Và những đứa con cứ tiếp tục ra đời.
- Không có lý! Làm sao mà tin được kia chứ. Các anh là chỉ hay phịa - Cô gái áo mầu xanh lên tiếng phản đối và tỏ vẻ sẵn sàng được tranh luận - Thế hóa ra đàn bà chúng tôi không yêu chồng chỉ vì người chồng quá tốt, quá đại lượng với chúng tôi à? Vu cáo!
- Ơ hay...! Anh lái bỗng ngân nga như bài ca cải lương - Tôi không yêu anh ấy được vì anh ấy tốt quá! Đơn giản thế mà mình không nghĩ ra.
- Có đấy! Từ lúc đi đến giờ, Phụng giở một tờ báo nước ngoài ra đọc lãnh đạm, lúc này mới cố lấy lại vẻ chủ động tự nhiên lúc đầu - Đàn ông đẹp ở khát vọng. Thông thường những phụ nữ có trí thức, có tình cảm mãnh liệt sẵn sàng làm nô lệ cho người mình yêu còn hơn những kẻ mình không yêu làm nô lệ cho mình.
- Như kỹ sư Thoa của anh chẳng hạn - Cô gái áo xanh chen vào.
- Tất nhiên có rất nhiều ngoại lệ - Anh bác sĩ dừng lại.
- Ôi chà? Rắc rối! - Anh lái nhăn nhó - Theo tôi ấy à đối với người đàn bà, anh cứ hết lòng là họ hết lòng lại, còn nếu anh đểu, họ sẽ đểu gấp mười lần. Mà họ cũng hay đáo để. Nếu họ thực sự yêu thì dù anh tốt hay thỉnh thoảng có "vấp" một chút, họ cũng vẫn yêu, tha thứ hết, như bà mẹ già ấy. Đàn bà họ chúa ghét sự lộn sòng thiếu thành thực. Được không?
Nói dứt, anh lái thở phào một cái như sắp bị đứt hơi. Cô áo xanh không chịu:
- Vậy thì anh giải thích thế nào về vợ chồng cái anh ở Tuần Giáo kia? Cả cô sinh viên bất thần đổ bộ lên Lâm Đồng và cả ngay vợ chồng ông tài kia nữa?
Bim! Bim!... Có vẻ đuối lý, anh lái nhấn còi om sòm mặc dù đoạn đường này không có cái gì đáng phải bấm còi như thế cả.
Tiếng còi ấy làm chiếc xe trên dừng lại.
- Cái gì thế - Anh lái to ngang ngoái cổ lại hỏi. - Buồn ngủ bỏ mẹ! Tớ nghỉ lại đây... Đằng ấy có vội cứ dông trước đi, không rồi... Hả?
Im lặng một lát rồi một tiếng nói to:
- Đành vậy, tớ bay luôn nhé! Con đầu lòng! Thông cảm. Gửi lời tớ chào ông bạn biên phòng tốt bụng, nói ông ấy sau tết mình sẽ ghé, đón xuống nhà chơi và kiếm cho một cô vợ thật giòn, nếu quả thật chưa có vợ. Gửi lời chào tất cả. Đi an toàn! Tha lỗi, tớ không xuống xe được, cóng chân quá!...
- Đi đi! Nhưng mà khi về rửa mặt nhìn cho kỹ đấy không khéo lại ra... con lão hàng xóm.
- Gớm! Ông này ăn nói ác miệng thế - Loan buột miệng kêu lên.
Anh lái cười khà khà. Thoáng chốc, chiếc xe trên đã mất hút, chỉ còn tiếng động cơ vọng vào khe núi nghe âm âm.
- Bây giờ thế này - Anh lái tắt máy - Hiện ta đang ở chính giữa đèo Phỉ. Gần đây có một cái chòi quân báo, tôi đề nghị tất cả vào đó kiếm chỗ nấu ăn rồi nghỉ. Gạo và thực phẩm trên xe có, đừng lo. Riêng tôi ở lại trông xe, mai sớm đi tiếp.
Mọi người nghe nói vậy gật đầu liền. Người lính từ nãy ngồi im, bây giờ mới rụt rè đề nghị:
- Vùng này không nên ở lại xe một mình. Anh cũng cần phải ngủ để lấy sức cho ngày mai. Tôi ở lại với anh, người thức kẻ ngủ càng vui.
- Không được! ông trông đuối lắm. Vào đó kiếm đống lửa mà
sưởi cho hồi sức. Tôi thức đêm quen rồi. Hơn nữa, hôm nay ông có quyền được nghỉ ngơi kỹ càng.
- Thôi thế thì trừ đồng chí bộ đội, ta cũng ở cả lại cho vui. Thức một đêm để nhớ - Cô áo xanh nói:
- Theo tôi - Bác sĩ Phụng nói át luôn - nhiệt độ gần bằng không thế này, không thể đùa cợt được. Lá phổi của chúng ta chưa thích nghi được ngay đâu. Có lẽ nên thế này: tất cả cứ vào lán ngủ và cứ thứ tự thay nhau trực xe, tất nhiên ưu tiên cho phụ nữ trực giờ đầu - Nói xong anh ta ghé tai cô kỹ sư nói một câu gì đó nhưng không thấy cô gái trả lời.
- Thôi được rồi - Anh lái sốt ruột khoát tay - ăn đã! Đói bỏ mẹ, trước hết phải làm một bụng cơm đã. Có cái xe ranh, bàn tán chi cho nhiều.
* * *
Nhưng rồi cuối cùng cũng chỉ có anh lái và người lính biên phòng ở lại ngoài xe. "Bọn mình sương gió quen rồi, bắt mấy ông mấy bà trí thức ấy ra xe thấy không nỡ". Anh lái nói vậy. "Hơn nữa cái tay bác sĩ đẹp trai ấy nói thì nói vậy nhưng trong bụng cũng không thích thú gì". Anh nhận xét thêm.
Họ đi rút, lượm củi rác ở xung quanh về chụm thành đống lùm lùm rồi xòe diêm nhét vào giữa. Ngọn lửa khó nhọc bò lan tí tách rồi phụt lên.
- Sống rồi. Anh lái xoa tay cực kỳ khoái trá - Chà! Bây giờ có cút rượu với mấy hạt lạc rang giòn nhỉ? Chắc tay bác sĩ còn rượu?... Nhưng thôi, cách rách?
Chưa tới chín giờ, còn sớm quá không biết làm gì anh lái lóc cóc lôi cây đàn ghi-ta trong ca-bin ra đánh xèng xèng. Cây đàn chắc cũng rong ruổi nhiều nên xây xát, cũ mèn như chính cái khoang lái lem nhem của anh ta. Anh đàn không hay, thậm chí còn khá dở nữa nhưng bù lại, giọng hát của anh lại rất quyện với nó nên nghe cũng đỡ buồn. Vả lại, giữa bốn bề sương gió, chỉ có một ngọn lửa hồng làm điểm tựa cho tâm hồn, tiếng đàn nào mà chẳng gây xốn xang? Sự quạnh vắng làm cho tiếng hát hay hơn, ngọn lửa nhỏ đưa đẩy tiếng đàn vào chiều sâu khác lạ. Tất cả cảnh sắc nơi đây phủ khoác lên người anh lái xe một hình hài nghệ sĩ đẹp dị thường. Có lẽ bị thu hút bởi tiếng hát của bạn, người lính dừng tay cời lửa, mắt trượt đi đâu trong những suy tưởng bâng quơ.
- Này - Anh lái ngừng tay - Hai cô gái ấy đẹp ác đấy chứ? Chậc! Mà cũng chắc gì đã đẹp. Sướng! Đàn bà... kỳ lạ thật?
Người lính bật cười nhìn vào mắt bạn, với vẻ thấu hiểu.
- Nhưng mà này, - Anh lái nháy mắt - cái cô áo xanh xanh ấy có vẻ khoái ông tợn. Chỉ cần nhìn khóe mắt, cái miệng của cô ta là có thể đoán ra ngay. Cô ta đang lệch đôi hay là ông...
- Lại tầm phào nữa rồi. Thôi đi ngủ đi ông tướng - Người lính lại cười - Mệt quá nên toàn nghĩ nhảm. Ngủ một chút đi, để tôi trông cho...
- Ừ thì ngủ. Hai tiếng nhé. Đúng mười hai giờ nhớ gọi mình dậy. Mà này! Cái cô kỹ sư ấy sao trông buồn thế, nhìn vào mắt cô ta, mình cứ thấy héo cả ruột. Chắc là...
- Ơ hay! Đã nói đi ngủ mà. Ngày mai xuống phố Việt Kiều rồi tha hồ mà nói.
Anh lái xe đi rồi còn ngoái lại.
- Còn điều này nữa: cái lúc ông ngồi lái, cô bé áo xanh có tiết lộ ngày xưa bạn của cô ta cũng đã có lần từng yêu mê mệt một tay bộ đội nhưng không thành, chẳng biết tại sao?
Trời như càng thêm lạnh. Lúc lúc cơn gió thổi đến kéo rạp ngọn lửa xuống đất. Cơn gió đi qua, ngọn lửa mỏng mảnh và yếu ớt leo lên, ngúng nguẩy. Đâu đó dưới thung sâu, có con chim gì kêu đêm nghe buồn đứt ruột. Người lính đi ôm thêm một nắm lá khô về rải vào đống ủ rồi ngồi ôm gối nhìn sâu vào ngọn lửa, tư lự. Chắc giờ này đã quá nửa đêm? Trong xe, anh lái không được đánh thức vẫn ngủ ngon lành. Gió lật cây đàn rơi nghiêng xuống đất, anh cầm lên dựng trở lại. Gió lật nữa anh ôm luôn cây đàn vào lòng, rồi như một hành động không tự biết, tiện tay anh lơ đãng gảy nhẹ vào dây. Sợi dây đàn rung lên, vang xa, ngân mãi... Âm thanh ấy quyến rũ, thúc đẩy anh nâng cần đàn lên ngang ngực. Những ngón tay lạnh cóng của anh tự nhiên chuyển dịch như một sự nhớ nhung quen thuộc. Một hợp âm vang lên mềm mại. Một hợp âm khác... Rồi liên tiếp những hợp âm xuất hiện. Trong chuỗi âm thanh xô bồ ấy, người ta nhận rõ được một giai điệu đứng hơi tách ra; nổi dần lên, rõ nét hơn; cái giai điệu rì rầm như một lời tâm sự. Trăm nghìn đốm lửa lúc quẩn quanh, lúc long lanh dồn tụ vào tiếng đàn. Con mắt anh lúc ấy tỏa sáng, tràn trề sinh khí đang mở to nhìn sâu vào chính lòng mình. Anh không hề biết rằng hai cô gái đã đi ra, đứng sau anh tự bao giờ.
Cho đến một lúc dường như cảm nhận được sức tỏa ấm của thân thể hai cô gái, người lính dừng lại, hạ đàn xuống.
Hai cô gái ngồi xuống bên lửa.
- Anh đàn nữa đi...
Người lính thoắt giật mình.
- Chết! Các chị... Sao các chị lại ra đây?
- Trong ấy lạnh quá cũng không ngủ được - Cô áo xanh cúi đầu xuống khe khẽ trả lời - Anh đàn nữa đi? Anh đàn hay lắm.
Ngồi buồn chẳng biết làm gì gẩy bậy bạ cho qua đêm ấy mà.
- Hình như anh đang có tâm sự gì, nghe tiếng đàn...
- Chị cứ hay tưởng tượng ra thế thôi - Anh lính lúng túng - Lính tráng chúng tôi đơn giản lắm? Có gì là buột ra hết, có lưu cái gì trong bụng đâu.
Anh chợt dừng lại khi bắt gặp cái nhìn của cô kỹ sư từ nãy vẫn im lặng rọi thẳng vào mắt anh. Cái nhìn ngay thật, hồn hậu nhưng sao mà thấu đáo.
- Chết! - Anh đứng dậy - Lửa sắp tắt rồi, tôi đi kiếm ít củi gộc đốt thêm. Chà! Mưa xuân mà dữ thế!
Bóng anh vừa khuất vào sương, anh lái xe đã nhảy phốc xuống, giọng tỉnh khô:
- Tôi cũng không ngủ được. Ta cùng ngồi cho ấm. Anh xoa xoa tay lên ngọn lửa hết sức tự nhiên.
Cô áo xanh kê guốc ngồi hẳn xuống mặt đường:
- Sao cái ông bộ đội của anh ít nói thế? Muốn gợi chuyện cũng khó khó là.
Anh lái nhón một hòn than đỏ rực đặt gọn vào lòng bàn tay, châm thuốc:
- Biết đâu anh chàng lại đang gặp sự cố gì trong tình cảm? Tôi để ý thấy lúc các người luận về yêu đương trai gái, mắt anh ta cứ tối sầm tối sì. Coi chừng đấy, không khéo lại chạm lòng người ta.
Suýt! Cô áo xanh vội đưa ngón tay trỏ lên môi như vừa làm điều gì đó dại dột.
- Chết không! Thế mà em không biết. Suốt buổi cứ... Bọn mình nhiều khi vô ý quá Thoa nhỉ?
Cô bạn gái không trả lời.
Có bước chân người lính sào sạo dẫm trên đá sỏi lộn về. Anh lái đứng dậy, vặn lưng răng rắc...
- Thôi, nói đùa vậy thôi, thức cả đêm với nhau ở đây để thành hấp cả à? Mấy chị trở về vị trí đi! Hai đứa tôi cũng đi kềnh đây, trực làm quái gì. Nằm tráo trở đầu đuôi trong ca-bin cũng vừa chân. Chỉ ngại hơn một tuần rồi... cái mùi bít tất... khà!
Hai cô gái làm như không nghe thấy vẫn im lặng tiếp lá cành vào lửa. Hai khuôn mặt sáng hồng lên, hai đôi mắt dựng lửa cháy long lanh. Tự nhiên anh lái đứng ngây ra một chút, khuôn mặt râu ria mềm hẳn đi... nhưng tiếp liền đó là một cái hất tóc khá khinh bạc, anh lừng lững đi lại xe.
Người lính đặt xuống đất một ôm củi gộc, nói vui:
- Ngồi trên xe lúc sáng chị Thoa có nói thèm một cái bắp ngô.
- Đụng ánh mắt cô gái nhìn lên anh hỏi nhỏ - Chị có lẽ mệt?
Nên vào lán mà nằm, đừng ngồi đây, sương muối độc lắm?
Cô gái không nói gì, chỉ khẽ lắc đầu.
Vừa lúc đó có tiếng giày bước nhanh tới:
- Kìa Thoa! Em ở đây à! Cả cô Loan nữa! Liều thật đấy, vậy mà anh đi tìm khắp. Vào ngủ đi, anh vừa mượn được chiếc chăn không sạch lắm nhưng đắp cũng được. Vào đi!
Bác sĩ Phụng từ bóng đêm đi ra, người co ro, mắt mòng mọng sau một giấc ngủ chưa đẫy. Loan tươi tỉnh hẳn lên:
- Biết ngay mà. Em đoán thế nào rồi anh cũng phải mò ra đây thôi, chắc đang ngủ nằm mơ thấy nàng biến hả? Thôi quá nửa đêm rồi, ta ngồi cả đây trò chuyện cho vui, anh! Đã mấy khi có một đêm hoang dã. Ngồi xuống! Ngồi gần lửa đây cho ấm, anh! - Giọng cô gái bỗng trở nên nũng nịu, và khéo léo dịch người nhường chỗ.
Chính lúc đó, cô gái áo nâu đứng dậy:
- Thôi về lán đi Loan? Tao buồn ngủ lắm rồi!
- Ơ... Cái con này hay nhỉ? Vừa mới lúc nãy... Ma phỉ nó nhập vào người mày phỏng?
Nói thế nhưng cô cũng miễn cưỡng đứng dậy đi theo bạn. Anh bác sĩ ngần ngừ một chút rồi cũng cáo từ hai người về theo, dáng đi vồi vội...
- Cái thằng! Chỉ được cái phá quấy!
Anh lái văng theo một câu rồi cũng xít xoa leo lên xe. Dưới mặt đường, bên đống lửa, chỉ còn một mình người lính.
** *
Sáng hôm sau, đất trời có quang quẻ hơn nhưng gió vẫn nhiều. Những chỗ nào trên da thịt bị gió thổi vào đều tím ngắt đi cả.
Chiếc xe tiếp tục nổ máy vào lúc sương bắt đầu tan. Có lẽ suốt đêm qua trừ anh lái, không ai ngủ được nên sáng nay nét mặt người nào cũng phờ phạc.
Xe chuyển bánh với một tốc độ thật dễ chịu mặc dù vẫn tiếp tục lên dốc. Trong khoang lái, như hôm qua, những tấm lưng ê ẩm ngả hẳn vào thành ghế, riêng người lính vẫn chọn cho mình một tư thế ngồi mớm mép ngoài chân phải liên tục bắt chéo lên nhau vì cô gái áo nâu không còn tự nguyện bớt đi một chút diện tích của chính mình bằng cách nghiêng vai nép sát vào người yêu như trước nữa.
Khoảng gần trưa, chiếc xe bỗng nhô đầu vào một vùng thoáng đãng đến ngỡ ngàng. Những đỉnh cao chất ngất triền miên bưng lấy mặt con người bất chợt nứt ra, toác rộng thành bầu trời. Bầu trời xuân.
- Đã đến cổng trời, thưa quý vị!
Anh lái xe xướng to, mặt mũi rạng rỡ như một nhà vô địch thế vận hội đã về tới đích. Tất cả thở phào nhẹ nhõm. Thế là đoạn đường khổ ải nhất đã nằm lại phía sau. Từ đây tới cửa khẩu không còn là vấn đề gì nữa, cứ nhắm mắt xe cũng êm ả bon tới nơi.
Sau một phút nhấp nhổm, người lính biên phòng quay sang anh lái:
- Anh cho tôi xuống đây.
- Xuống đây? Sao không đến khẩu luôn?
- Cũng... có chút việc.
- Lại có chiến dịch gì nữa rồi? Gớm! Mấy ông làm ăn vừa vừa thôi chứ, muốn tự sát chắc. Thôi được, xuống thì xuống.
Mọi người quay lại nhìn anh. Chỉ đến lúc ấy họ mới kịp nhận thấy sự ra đi của anh bất ngờ quá! Họ cứ chắc mẩm rằng con người đã có những kỷ niệm gắn bó ấy sẽ đi cùng với họ đến điểm cuối cùng đông vui, tấp nập rồi sau đó... Nhưng chiếc xe đã dừng lại ở điểm cao rộng thoáng.
- Nghỉ! Nghỉ xả hơi luôn thể! - Anh lái tắt máy - Nào! Xin mời tất cả xuống xe làm một động tác tiễn biệt bạn bè.
Người lính loay hoay lôi ở gầm ghế ra một cái balô bạc phếch, nắp có nẹp một chiếc chiếu hoa đã cũ, khoác lên vai. Mọi người đã đón đợi sẵn anh ở dưới đất.
Vẫn cái dáng điệu ngượng nghịu không quen bộc lộ tình cảm, anh chìa tay ra với từng người, miệng cười thật hồn hậu:
- Đi mạnh khỏe an toàn! Chúc các anh các chị đi mạnh khỏe an toàn. Đường từ đây đi dễ rồi. Bữa nào có dịp, mời các anh các chị ghé vào chỗ tôi chơi. Mùa hè cảnh đẹp lắm, mát lắm!
Không ồn ào, không chúc tụng, người ta siết chặt bàn tay lạnh cóng của anh. Duy chỉ có anh lái là vẫn tỏ ra thật vô tư:
- Tôi chả bắt tay đâu. Tháng nào chẳng gặp mà bắt với bớ. Cứ làm như tiễn nhau đi "B" không bằng. Khóc bây giờ đây này - Nói vậy nhưng anh cũng ôm lấy bạn siết chặt, giọng chìm đi - Nhớ giữ gìn sức khỏe nhé! Có thiếu món gì cứ nói với tôi...
Tính tặng anh cây đàn nhưng sợ mang đi khó, để lượt về, tôi sẽ tự tay mang đến, mang quà tết luôn. Cho gửi lời thăm ông đồn trưởng.
Đến lượt cô gái áo xanh không cần giấu sự bịn rịn:
- Anh còn phải đi bộ xa không?
- Khoảng hơn năm cây.
- Chao ôi! Xa thế kia ư? Chắc toàn đèo dốc, gập ghềnh, chân anh đau thế đi thế nào?
- Cám ơn chị! Bọn tôi đi bộ quen rồi.
Với tất cả sự đỏ đắn, tráng kiện, bác sĩ Phụng lại đặt bàn tay lên vai người lính, giọng nói cố tỏ ra ấm áp mà cái miệng cười sao vẫn truội đi:
- Thôi, đồng chí bộ đội đi nhé! Mong gặp lại nhau. Nếu có dịp, mời đồng chí đến làm khách chỗ chúng tôi. Cứ hỏi bác sĩ Phụng, chuyên gia y tế ở Phôn - xa - vằn hay Lê Thị Thoa kỹ sư cơ khí cũng được. Chào! Chúc thượng lộ bình an.
Người cuối cùng anh bắt tay là kỹ sư Thoa. Cô hơi đứng lùi lại sau mọi người một chút và từ đầu đến giờ chưa nói một câu nào, chị lặng nhìn anh.
- Chị Thoa đi nhé! Sang bên ấy ấm trời hơn, chắc chị sẽ vui vẻ trở lại. Chúc chị một kỳ nghỉ phép hạnh phúc.
Cô gái vẫn chỉ lặng nhìn. Cái nhìn ấy khiến người lính thấy ngột ngạt, anh nói khẽ:
- Có thể không bao giờ tôi còn gặp lại chị... các chị nữa... Chị có một đôi mắt rất giống... Thôi tôi đi!
Anh quay nhanh người lại, cười vẫy tay với tất cả, rảo bước... Và chỉ đến lúc đó, mọi người mới chợt nhìn thấy trên nắp ba-lô có buộc chiếu của anh có viết một dòng chữ bằng mực đen tô đậm: "Phạm Văn Thân - Đồn biên phòng số..." Họ đưa mắt nhìn nhau... Anh lái lầm bầm, mặt nhăn quắt lại:
- Khổ tôi chưa? Tôi mù!... Chắc anh ấy vừa ra viện? Khổ!...
Anh lính vẫn rảo bước... Dáng anh đi khập khiễng trên chiếc cầu treo đang lung liêng theo chiều gió, chốc chốc chiếc ba-lô buộc chiếu lại tuột xuống bả vai. Bóng anh khuất dần trong sương. Thỉnh thoảng ngoái đầu nhìn lại, thấy mọi người vẫn dõi theo mình, anh lại như vấp nhẹ một cái, người hơi chao đi.
Chợt cô gái áo xanh kêu lên:
- Tôi đề nghị hay là chúng ta cùng đi tiễn anh ấy một đoạn. Dù sao cũng mang đỡ được cái ba-lô và cho anh ấy đỡ tủi.
Anh bác sĩ cười rất lạnh, giọng nói không chỉ còn là khúc chiết nữa mà rắn đanh lại, nhọn hoắt:
- Thật là một sự lãng mạn khờ khạo. Tiễn ư? Thật là quá dễ dàng và rất nên làm nhưng thử hỏi đưa nhau một đoạn ngắn cũn trên cả đoạn đường dằng dặc năm ki-lô-mét, phỏng có ích gì? Chưa nói đồng chí lái xe tốt đây có đủ kiên nhẫn để chờ chúng ta kết thúc trọn vẹn màn cải lương mùi mãn ấy không? Đúng thế chứ đồng chí lái xe?
Đang mải suy nghĩ điều gì, anh lái hạ luôn một câu:
- Tùy!
Không khí lặng hẳn đi. Gió thổi qua cổng trời ào ào như bão. Bóng dáng người lính khuất dần xuống dốc, nơi ấy có một cái khe khá sâu phải vượt qua. Đúng lúc mọi người chuẩn bị quay lại bước lên xe thì cô gái áo nâu bỗng xuất hiện từ phía sau. Mặt cô gái tái nhợt đi rồi thoắt đỏ bừng, tất cả lửa đêm hầu như đều bay về dồn tụ vào đôi mắt buồn buồn ấy, tạo nên sắc thái sáng rực của người đang lên cơn sốt cao. Dường như có chứa cả sự giận dữ tức thì và cả những điều chất chứa từ lâu, tiếng nói cô ngạt đi:
- Nếu mọi người không ai đi thì tôi đi. Tôi sẽ đưa tiễn người ấy... Không thể vô tình như thế được.
Nói rồi cô hất mạnh mái tóc cắt ngắn ra phía sau, bước đi luôn. Dáng cô đi thoăn thoắt như không phải để cho mau tới điểm trước mặt mà cho mau xa cái điểm sau lưng. Bước lên cầu treo, bước chân cô hơi dừng lại... ngập ngừng rồi lại đi nhanh hơn. Cái thân hình con gái cân đối, uyển chuyển sớm chìm dần vào sương.
Anh lái cho tay lên miệng gọi với theo:
- Đi cẩn thận đấy! Cái cầu!
Nhưng không có tiếng đáp lại, chỉ có giọng anh âm vang giữa cổng trời.
Cạnh anh, bác sĩ Phụng ngớ ra một chút và khi chợt hiểu, anh há miệng định kêu lên một tiếng gì đó dữ dội lắm nhưng không được, ở đó chỉ có một làn hơi nước trắng đục bay ra... Nhìn theo bóng dáng cô gái đang mất hút ở phía bên kia cầu treo, mắt anh sẫm lại, bạc đi. Giây phút thất thần ấy chỉ có một mình anh hiểu: cái bóng dáng đáng yêu kia sẽ không bao giờ còn là của anh nữa, dù cho ngay bây giờ, cái con người ấy có quay lại, có ngồi cạnh anh đi tiếp chặng đường.
Qua cổng trời, gió lạnh vẫn từng đợt từng đợt lồng lộng thổi về.
Tất nhiên căn phố dài một ngàn hai trăm mét đó có tên gọi đàng hoàng nhưng lâu nay, do quen miệng, người ta cứ kêu là phố Nhà binh cho khỏi lẫn với các khu phố dân sự khác.
Chỉ mới cách đây chừng đôi ba năm thôi, cảnh sắc nơi này còn vắng lặng thâm trầm lắm. Dường như tất cả các căn hộ to nhỏ, ngắn dài đều bảo nhau khinh khỉnh xây lưng ra đường, khiến cho dãy phố đã tăm tối lại càng hun hút nỗi đe dọa rập rình mỗi khi ai đó có việc phải đi sớm về khuya qua đây. Chao ôi là những đêm đông khuya khoắt, cả dãy phố chỉ độc tôn còn lại tiếng giày đinh quân cảnh gõ uể oải hai bên hè, tiếng trai gái run rẩy thì thầm nhòa chìm vào những vùng tối gốc cây và tiếng cành sấu khô rụng đơn côi xuống mặt đường mỗi khi có làn gió lạnh thổi qua...
Vậy mà bỗng một ngày, lại như tuân thủ nhất loạt một khẩu lệnh của đấng toàn năng, sau vài đêm hỗi hả đục tường, trổ cửa, nới mái... phắt một cái, các căn hộ rùng rùng chuyển động ngỡ ngàng quay mặt ra với cuộc đời. Bao mảng tường rêu phong tựa hồ đã bị bỏ quên hàng ngàn năm in nhờ nhờ dấu chịn ngọt ngào của thân người bỗng phát khởi thành những khuôn sáng vuông tròn chan hòa đủ màu đỏ, vàng, xanh, của đủ loại kiốt thấp cao: mỹ phẩm, uốn sấy tóc, photocopi, giày dép da, điện lạnh, cà phê Berr, cà phê Noa, bún phở, xe máy, thuê và ghi hình video và sự sang trọng đến ngốt người của các đại diện giao dịch Mếch này, Tếch kia... Phố nhà binh ngày ngày bị phá vỡ cấu trúc từ bên trong để hóa thân thành một khu phố thương mại náo hoạt. Và người nhà binh cũng tự vặn mình phá vỡ mọi mặc cảm, định kiến, mảnh giáp trụ quân phục, vị thế cố hữu của phẩm hàm tướng tá, gia phong gia phả... để cố gắng hòa nhập vào dòng đời đang cuộn chảy bên ngoài, mong tìm được cuộc sống khả dĩ còn gọi được là... Cuộc sống.
Tôi cũng có một anh bạn thân ngụ tại một căn hộ trong phố đó mà mỗi khi về Hà Nội, tôi không thể không ghé qua ăn nghỉ. Sau một ly rượu ngà ngà, nhìn Thẩm (tên người bạn) trẻ trung, cường tráng, lanh lợi và có đôi phần viên mãn, lại liếc nhìn căn hộ hai buồng không to tát nhưng xinh xắn, tiện nghi và ấm cúng, tôi bất giác buột miệng nói ra một câu mà đáng lẽ ở vào cái tuổi tôi chẳng nên nói:
- Giả dụ như mình Thẩm ạ... Tất nhiên nói theo cảm nhận cá nhân thì... thì mình...
- Thì dù có ăn rau ăn cháo, một thằng đàn ông chân chính không bao giờ được phép để vợ đi như thế chứ gì? - Thẩm nói tiếp hộ tôi với cái cười dễ dãi, rất tươi - Khỏi lo đi! Mỗi người một quan niệm, mỗi người một hoàn cảnh, một phận số, mình tin ở cô ấy. Mà... Hả? Dù có thế đi nữa thì đã làm sao nào? Miễn là khi cô ấy trở về, bọn mình sẽ sống ổn hơn, nhân quyền hơn, tương lai con bé Hương Thảo sẽ được đảm bảo. Ðó là cái chính, chứ ông bảo lứa bọn mình còn làm được gì nữa, coi như bỏ đi rồi. Hả?
Nó "hả" cái kiểu nện quả tạ vào mặt người ta như thế thì còn cách nào khác là lặng lẽ gật đầu. Rồi tôi cũng bỗng dưng bật cười vì cái suy nghĩ ngồ ngộ rằng không còn nhận ra thằng Thẩm ngày xưa nữa. Một thằng Thẩm to cao như lực sĩ, cười ha hả, giọng oang oác, vui chửi tục, buồn cũng chửi tục, mặt mày lúc nào cũng tươi tỉnh rỡ ràng như sắp sửa vào cơn hưng phấn. Còn giờ đây, bộ pi gia ma trưởng giả đã thay thế cho chiếc quần cụt thể thao nó thường mặc ở nhà, thoạt trông giống như cái thằng đàn ông mắc bệnh phong tình, bữa cơm đã có cốc nước đá lạnh để cạnh mâm, vừa ăn vừa chiêu dần dà, xem ra lời ăn tiếng nói, dáng đi dáng đứng đã mềm mại khoan thai lên nhiều lắm. Còn Hương, vợ Thẩm, vốn là con một vị tướng tư lệnh binh chủng, Căn hộ hai buồng dễ thương này là ông cho con gái rượu. Trước đây hai người cùng công tác trong một đơn vị công binh cầu đường, chỉ khác kẻ ở văn phòng, người nằm sâu dưới đơn vị. Yêu cái vẻ yêng hùng chiến trận, yêu tính cách đàn ông khoáng đạt bạo liệt của chàng kỹ sư tiểu đoàn trưởng vốn gốc gác con nhà làm ruộng, cô đã lạnh lẽo khước từ không ít chàng trai tốt người đẹp mẽ, học vị đến nơi, lại con nhà môn đăng hộ đối để chấp nhận tình yêu của Thẩm, tất nhiên sau khi đã quần cho cu cậu chỉ còn thiếu nước đập đầu vào tường.
- Này - Tôi hỏi - Ðằng nào thì cậu cũng đã trót khoét tường, trổ cửa rồi, cớ sao không cho thiên hạ thuê mở cửa hàng mỗi tháng kiếm vài trăm ngàn nuôi con?
- Chả bõ. Thà đất đai rộng rãi như mấy ông tướng về hưu ở
phố này, mỗi tháng ít nhất cũng trên dưới một triệu tiền cho thuê mặt bằng thì lại đi một nhẽ. Nói đùa! Chờ mẹ bé Hương Thảo về đã. Hình như cô ấy có ý định làm ăn lớn, cứ nhắn về là đừng ham lợi nhỏ, tập trung cho con bé có khoảng tĩnh tối thiểu để học hành, chớ để con sớm va đập vào chuyện buôn bán lời lãi, méo mó đầu óc đi. Mình ô kê ngay! Nàng còn dặn: ba tháng sẽ gửi về một va li, nửa năm gửi về một cái kích, cứ bán đi mà tiêu, đừng dành dụm.
- Cậu hạnh phúc thật!
- Thật lòng đấy chứ?
- Hương vẫn như ngày nào, đảm đang, tốt bụng và rộng rãi.
- Còn cậu - Ðôi mắt khá đẹp của Thẩm ánh lên vẻ cảm động chấp chới - Cũng phải tìm đường làm một cú mã hồi về Hà Nội đi. Hơn bốn chục tuổi mà vẫn cứ thanh gươm yên ngựa mãi?
- Stop - Tôi lấy lại cái giọng của Thẩm - Mỗi người một quan niệm, một lối sống. Dòng người còn trôi chảy dài dài, cứ thử xem từng số phận sẽ lênh đênh đến đâu. Dẹp! Kiếm rượu uống bậy cái đã.
Thế đấy! Không gặp thì nhớ, gặp rồi lại thường cãi lộn những chuyện không đâu và bao giờ cũng được kết thúc bằng mấy chén rượu cay nồng ở cái quán chè khuya gần đầu đường như thế!
Phố vắng, gió lạnh, ngọn đèn dầu cháy thắc thỏm, các cánh cửa chính, cửa sổ của mọi ngôi nhà đã lần lượt được khép kín, xa lắm mới có một tiếng rao bán bánh khúc nóng khàn khàn vẳng đến. Có lẽ chỉ về đêm, cái phố nhà binh đang biến tướng này mới yếu ớt phục hồi lại cái vẻ thâm trầm xưa cũ. Vẫn lại tiếng cành sấu rơi, tiếng đế giày quân cảnh, tiếng quét rác... Chỉ khác, cả chiều dài dãy phố không còn những cặp tình nhân đứng lả người trong tay nhau.
Khoảnh khắc ấy, tầm mắt đã có chiều bảng lảng của tôi không hiểu sao lại vô cớ ngập ngừng dừng ở góc phố, nơi có một gia đình nhỏ đang loay hoay tìm chỗ ngủ đêm. Một luồng đèn pha xe máy từ đâu đó xa lắm quét tới, đủ cho tôi kịp nhận ra đó là một cặp có vẻ là vợ chồng, một cởi trần vận quần đùi hay vận khố gì đó, một bế đứa con đang ngủ tựa một cái xác trên tay. Vang lên tiếng nhai mía rôm rốp của người đàn ông và tiếng nựng à ơi vụng dại nhọc nhằn của người đàn bà...
- Uống đi, để ý làm gì, cảnh đời thường ở đâu chẳng có.
Mặc Thẩm huých nhẹ vào vai, mắt tôi vẫn dán vào đấy.
- Ðôi vợ chồng từ quê lên ăn xin à? Hay dân Phúc Xá chạy lụt?... Nhưng mùa này đâu có phải là mùa lũ?
- Không biết!
- Hay dân chạy chợ, dân lỡ độ đường? Có cả đứa bé nữa kia kìa!
- Ơ hay cái cậu này! - Giọng Thẩm đã cao lên - Ra đây uống rượu hay điều tra xã hội học đấy?
- Ờ... Vừa có tốp quân cảnh đi qua, sao không thấy họ xua đuổi như mọi bận?
- Ðuổi cả tỉnh, cả nước - Thẩm gắt khẽ - Nếu xỉn rồi thì mời ông về ngủ, ông ạ!
Có lẽ động lòng trước cái vẻ ngơ ngơ của một kẻ ở xa đến như tôi, chị hàng nước lúc này mới cất tiếng khẽ khàng.
- Họ đã cư trú ở đây gần một năm rồi đấy chú ạ! Tội lắm! Mưa thì chạy vào núp trong hàng hiên toà báo, tạnh lại dắt díu nhau ra đây. Mùa hè còn đỡ, đông về, cha con vợ chồng ôm nhau thành một cục tránh gió. Cũng có đận họ bỏ đi đâu cả tháng, tưởng đi luôn cũng mừng, nhưng rồi lại thấy họ trở về xơ xác, tiều tụy hơn. Ðứa bé này mới sinh được có sáu tháng. Con gái, còi cọc chỉ bằng đứa mới nở.
- Sinh ngay trên hè phố ạ? - Tôi buột miệng.
- Còn chỗ nào khác nữa!
- Trời đất! �n ở vật vã thế này mà lại còn bày chuyện đẻ đái! Rồi đứa bé sẽ ra sao? Rồi họ lấy gì mà sống?
- Vậy mà vẫn sống đấy - Chị hàng nước cười hiền từ - Sống quấn quít đáo để. Còn đứa nhỏ, dường như ông trời cũng thương, cấm có bệnh tật sài đẹn bao giờ.
- Hết chưa? - Thẩm đột ngột đứng dậy.
- Cái gì hết?
Thẩm bật cười:
- Là tôi hỏi cái cơn tò mò của cậu đã qua chưa?
- Cậu về trước đi! - Ðến lượt tôi gắt lại - Cứ mặc tôi ngồi đây một mình.
- Tuỳ! Cấp thêm cho cậu một thông tin để có cớ mà tò mò: người đang ngồi chuyện trò với cậu là một giáo sư đại học vừa về nghỉ tạm không ăn lương.
Nói xong, Thẩm quay người đi vào. Ðến lúc này tôi mới chú mục nhìn chị bán quán. Khoảng bốn mươi nhăm tuổi, tóc uốn cao, cặp mắt hay nhìn lơ đãng lên vòm cây, miệng thi thoảng lại cố tạo ra một cái cười mỉm nhẫn nại.
- Xin lỗi! Chị dạy ở trường nào ạ? - Tôi hỏi.
- Thôi! Biết làm gì chú. Mỗi người một cảnh, chẳng nên nói ra,
mà có nói cũng đâu có ai thông cảm, có khi còn gây bực mình. Ðấy, cứ ngẫm như cái đôi vợ chồng khốn khổ kia kìa. ở đã mòn cả vỉa hè rồi nhưng tịnh chưa thấy một ai tỏ ý giúp đỡ, chưa thấy một ai hỏi han trò chuyện nửa câu. Thiên hạ coi đó như việc tất nhiên, dễ hiểu. Buồn không? Ôi dào! - Chị thoắt thở dài - Cũng một kiếp người, đêm ôm nhau ngủ còng queo như con sâu cái kiến, ngày chồng bế con èo ẽo cho vợ đi kiếm tiền.
- Chị ta làm ở tổ sản xuất thủ công nào ạ?
- Tổ thủ công... chợ. Ra chợ, ai thuê gì làm đó, không ai thuê, nói phải tội, đành phải chôm chỉa, con móc túi. Miễn là có tiền. Nói vô phép chú, thậm chí có lần ông nhà tôi còn bắt gặp cô ta đi bắt khách ngoài ga. Khổ! Người ngợm cóc cáy, thịt da tong teo như thế có ma nào nó màng. Nếu có thì lại là mấy gã du côn, say rượu chơi quỵt, vừa chơi vừa trấn, có đồng nào mất hết.
- Anh chồng chấp nhận?
- Sao chú lại hỏi thế? Trên thế gian này thử hỏi có người chồng
nào lại chấp nhận cho vợ mình đi làm cái việc kia, nhưng đói thì đầu gối phải bò thôi. Song cũng sầu thảm lắm! Hầu như không đêm nào cậu ta không đánh vợ, có bận đánh thâm tím cả mặt mày, tôi phải đỡ vào nhà lấy rượu mật gấu xoa bóp cho. Vậy mà chị ta không hề hé răng chửi lại, cãi lại một câu, cứ như con nô lệ tận tụy, cung cúc. Tối tối vẫn mang về cho chồng nào rượu, nào thuốc, có bữa còn khệ nệ cả một xoong to thứ bốc mả toàn xương bò.
- Vậy ra anh chồng lại chỉ lo làm nhiệm vụ trông con ạ?
- Cũng tùy lúc. Những buổi chiều mưa, nhìn cậu ấy bế con, mắt nhìn ảm đạm ngọn sấu già, thương lắm! Lại còn thỉnh thoảng ru con nữa chứ. Tiếng ru như tiếng nấc khan. Vào những ngày đông gió hay cô vợ ốm mệt, không ra chợ được, cậu ta trao con lại, một bị một gậy đi trèo sấu. Trèo cả ngày, có bận ngã trẹo xương vai, may lắm mới kiếm đủ tiền mua một vài cân gạo.
Nghe tới đó, tôi đứng dậy:
- Chị cho tôi mua gói thuốc.
- Thuốc gì?
- ... Du lịch thôi. Thuốc ngon hơn không đủ tiền. Lính mà.
- Ðừng lo, chú cứ cầm gói Hê rô, tất cả đã có chú Thẩm thanh toán. Chú ấy là con người đàng hoàng, trọng nghĩa khinh tài, thỉnh thoảng vẫn sai con bé Thảo đem ra cho đôi vợ chồng kia lúc thì hộp sữa, khi lại gói thuốc, cân đường. Mà... gói này vẫn đang còn nhiều, chú mua làm gì nữa?
- Muốn ra chuyện trò với họ một chút.
- Thôi đi chú ơi! Cậu ta chả mở miệng đâu. Suốt ngày lầm lì, buồn thì nhai mía, vui thì ngơ ngẩn cười, mắt lúc nào cũng gườm gườm như sắp sửa đánh nhau với ai. Có lẽ cậu ấy mặc cảm?
- Ðã khi nào chị nghĩ rằng cậu ta là người đã từng có tiền án chưa?
- Ôi giời, mấy cái ông này! Nhìn đâu cũng thấy tội phạm cả. Cậu ấy là bộ đội đấy, bộ đội đóng ở biên giới hết nghĩa vụ trở về. Nhà ở cách đây vài dãy phố thôi, nghe nói cũng khá giả và nền nếp. Vậy mà chả rõ phải lòng phải dạ, bắt tình bắt thóp nhau thế nào mà lúc trở về lại dẫn một cô gái giang hồ, gia đình làm nghề trồng mía về theo. Tức là cô gái này đấy. Tất nhiên là gia đình không chấp nhận, đuổi thẳng. Vậy là kéo nhau ra tá túc ở đây. Công an khu vực cũng đã có đôi phen làm dữ, tống xuất họ ra khỏi thành phố, đưa đi tập trung cải tạo ở tận đẩu tận đâu nhưng cũng chỉ ba bảy hai mốt ngày là đâu lại nguyên đấy. Rút cuộc công an họ cũng chán, thây kệ không phải chỉ có một gia đình này đâu. Ôi, thời buổi nó vậy. Chả nhẽ thiên hạ đua nhau đục tường trổ cửa, kiếm tiền ngàn tiền triệu như chơi mà lại nỡ khép những con người khốn khổ vào khuôn vào phép? Ðằng kia có ánh sáng, đằng này cũng phải nhường cho người ta một khoảng bóng tối chứ. Tất cả còn đang bung bét, tất cả đang đòi hỏi phải sắp xếp lại kia mà.
Tôi chán nản đứng dậy. Ðành rằng câu chuyện chị kể là có thật, lại kể bằng một cái giọng hết sức xót xa nhưng sao tôi vẫn không muốn nó được nói ra từ chị, từ một người đàn bà đã giảng dạy qua cấp đại học. Lạ thế!
- Chào anh!
Tôi cố dọn một nụ cười thân thiện, một giọng nói bỗ bã có thể và chìa gói thuốc ra trước mặt người đàn ông đang gặm mía. Nhìn cái cách anh ta gặm mía mới khiếp chứ! Gần như ăn cả vỏ, ăn cả bằng răng hàm lẫn răng cửa, chỉ ba cái rốp rốp là bay gọn một đẫn dài, bã mía đùn dưới chân cả đống. Anh ta lầm lì rút một điếu thuốc giắt chéo lên vành tai. Im lặng... Vẫn chỉ là tiếng nổ rốp rốp trong cái miệng khá rộng.
- Rét vậy mà ăn mía không cóng răng sao ông bạn? - Tôi ngồi hẳn xuống.
Ông bạn không trả lời, chỉ gúc goắc cái đầu to tướng. Lại im lặng... Lại rốp rốp... ánh sáng đèn cao áp xanh lét vừa đủ để soi tỏ một khuôn mặt không ra già, không ra trẻ, xanh bợt, tóc gần chấm vai, cặp môi dày trễ ra, thâm xì như cái vẻ lúc nào cũng thèm ăn thèm uống. Tóm lại là một khuôn mặt hơi bệnh hoạn và gần như không có tư duy. Anh ta chỉ mặc độc một chiếc quần đùi rộng ống đã rách te tua ở gấu, để lộ đôi bắp chân dài thõng sần sượng nhưng có vẻ còn săn rắn, vắt trên vai là chiếc áo bộ đội nhàu nát đang bốc ra mùi chua lòm khen khét.
Lui về sau một chút, chị vợ đang âm thầm ngồi ôm con sát chân tường. Nghe được cả tiếng muỗi vo ve bay ra từ đó. Cũng là khuôn mặt nửa già nửa trẻ, tiều tụy, không rõ hình nhưng đường nét gãy gọn, nhìn kỹ thấy cũng có duyên. Bất ngờ, chị ta nháy mắt với tôi và làm một động tác xin thuốc rất láu bằng hai ngón tay đen đúa, khô xác.
- Cái gì?
Bất thần anh chồng quát lên một tiếng quát hùng dũng, có lẫn cả đờm, có cả nước mía bắn ra. Như bị điện giật, hai ngón tay kia vội thụt lại, cùng lúc mái tóc xơ xước chắc tới hàng tháng nay không được chải gội gục xuống cam chịu như một tội nhân tử hình.
- Này - Tôi vỗ vỗ vào xương vai hắn - Cô ấy muốn hút thuốc thì để cô ấy hút, cũng là một cách chống lạnh.
Không thèm trả lời, hắn chuyển ánh mắt gườm gườm dài dại từ người vợ lên cành cây rồi lại... rốp rốp...
Biết rằng có nán lại cũng vậy thôi, có khi còn làm cho cái gã quân chủ độc tài đầy quyền uy này nổi quạu, tôi lén để gói thuốc xuống mép chiếu rồi lẳng lặng đi trở về. Ðuổi theo tôi là tiếng ru con nghèn nghẹn như nói mơ của người vợ, và trên cao, trong một căn hộ còn sáng đèn, có một nét nhạc gầm gào vọng xuống.
Thẩm vẫn thức chờ tôi bên bản vẽ thiết kế.
- Ðã chưa? - Không ngẩng lên, nó hỏi.
- Chưa.
- Cậu vẫn như cũ, ngớ ngẩn và lành bụng. Hơi khó chịu một tí nhưng ít nhất tôi cũng còn có một thằng bạn ra bạn để chơi.
- Cám ơn!
- Cám ơn cái con khỉ. Rượu nữa không? Hay nước mát?
- Cậu vẫn vẽ thuê đấy à?
- Không! Vẽ công trình thứ thật. Lạy Phật! Từ ngày cô ấy đi đến giờ, mình đã thoát được cái kiếp gục đầu đi nhận vẽ cầu tiêu hố xí cho bọn trọc phú mới. Mặc sức đi sâu vào nghiên cứu, cũng thú. Hả?
Tôi gật đầu ừ hữ và rón chân đi đến giường bé Hương Thảo. Nó đang nằm nghiêng, một bàn tay kê dưới má, tay kia buông xuôi theo người, thỉnh thoảng lại chun mũi một cái như vừa ngửi thấy mùi kẹo thơm trong mơ, đôi mi dài và cong tự nhiên của nó khẽ động đậy tưởng chừng sắp mở bừng đôi mắt to giống mẹ ra mà quàng cánh tay mũm mĩm ôm níu lấy cổ tôi:
"A!... Chú Hà! Chú Hà bế Thảo... ". Trời đất! Thì ra cái sinh vật xinh xắn dễ thương này mới là lý do chính yếu và sâu xa để mỗi lần về Hà Nội không thể không ghé qua chứ chưa hẳn đã là tính tình của bố nó, vẻ dịu dàng đoan trang của mẹ nó cũng như sự tiện lợi, ấm cúng của căn hộ mặt tiền.
- Cậu có thấy con bé khi ngủ, nó bỗng khoác một đôi cánh thiên thần như thế nào không? - Thẩm cũng khẽ đến bên tôi, giọng nói không giấu được một chút tự hào chìm đắm - nếu đẻ thì nên đẻ con gái đầu lòng cậu ạ! Vừa ngoan, vừa là bạn tâm sự của bố lúc chẳng may cơ nhỡ. Mà cuộc đời, cơ nhỡ nhiều chứ may mắn được mấy... Mình nhớ có khi tiễn cô ấy ra sân bay, cả hai mẹ con đều thi nhau khóc. Lúc máy bay cất cánh rồi, nó còn thất thanh hét với theo: "Mẹ Hương ơi!... Mẹ Hương đừng bỏ con nhé!". Mình cũng khóc.
Tôi tin điều đó vì lúc này kể lại, cặp mắt của Thẩm cũng đang rơm rớm ướt thật. Bị lây cái cảm xúc muôn thuở ngậm ngùi của nỗi chia ly, tôi nói rì rầm như cầu nguyện:
- Cầu mong cho cô ấy mau trở về. Cứ về cái đã rồi mọi chuyện tính sau. Trẻ con có thể sống xa bố nhưng xa mẹ, trông tội lắm! Cậu có để ý thấy ngấn nước còn đọng ở khóe mắt nó không?
- Không... Làm gì có. Không có!
Thẩm trả lời yếu ớt và vội vàng. Bỗng dưng tôi khẽ rùng mình khi chợt thấy một vệt xám nhờ bay rất nhanh trong đôi mắt vừa mới đây thôi còn trong trẻo, rờ rỡ yêu thương của Thẩm.
Tôi bỏ vào phòng trong, buông màn đi nằm. Ðêm ấy, trong giấc ngủ nặng nề, dường như bên tai tôi lúc nào cũng nghe văng vẳng tiếng ru còn ngàn ngạt của người mẹ trẻ trộn hòa vào tiếng muỗi ong ong dưới chân tường. Rồi cuộc sống của họ sẽ đi đến đâu? Bình ổn dần? Ði tập chung vĩnh viễn? Hay một ngày nào đó lại cùng rủ nhau vào nhà giam trong một tội danh hình sự giết người cướp của nào đó? Hoặc... Tôi bỗng ngồi phắt dậy, mồ hôi túa ra khắp lưng khi cái hình ảnh đứa bé chết cóng trên tay mẹ vụt nóng đỏ trong đầu.
Sau đó phải bẵng đi đến hơn một năm, do công việc của quân khu quá bận rộn nên tôi không lựa được dịp nào rảnh rang để về thăm bé Thảo.
Vào khoảng trung tuần tháng giêng, khi công việc đã vãn vãn, tôi nhận được thư của Thẩm. Vẫn cái giọng bỗ bã:
"...Này bỏ ngay cái lối phản bạn phản bè ấy đi nhé! Hiện giờ cậu đang ở đâu, làm gì, đang phải lòng con nào, vẫn công việc cũ hay đã bỏ đi đào vàng, đào đá thì kệ cha cậu, tôi đếch biết! Nhưng cậu không được mất mặt như thế chứ. Sư cậu! Chỉ khổ cho đứa con gái bé bỏng của tôi nó cứ nhắc tới thằng bạc tình bạc nghĩa hoài. Lại còn ăn cắp thuốc lá của tôi nhét đầy gối cho hôi sặc lên, bảo là để dành cho cậu nữa!".
Ðọc đến đây, sống mũi tôi cay cay, nước mắt chực ứa ra... Những dòng tiếp theo, tôi chỉ lướt mắt gọi là...
"... Tin vui đây: tháng sau mẹ Hương Thảo sẽ về! Có nên soạn một mâm tế sống ngài Hen-mút Côn không nhỉ? Nhờ ngài và sự chuyển động chính trị thần thánh trong tổ quốc ngài mà bà xã của tôi sẽ làm cú mã hồi với một lưng vốn kha khá. Hai mươi ngàn đê mác, gần mười tám ngàn đô la, tức là tương đương 150 triệu tiền mình, cậu nghe rõ chưa? Từ nay đến ngày về, cô ấy nói sẽ cố kiếm thêm vài nghìn đô nữa. Chịu đàn bà thật!
Vì thế, chúng tôi muốn cậu, cha đỡ đầu của bé Hương Thảo sẽ có mặt trong ngày ấy. Phải có mặt! Tiền của tôi cũng như tiền của cậu, thằng bạn duy nhất còn sót lại của tiểu đoàn công binh đã cõng tôi vượt suốt mười cây số đường rừng. Chỉ bằng một phần mười số tiền trời cho đó, chúng tôi sẽ lấy vợ cho cậu, kiếm cho cậu một căn hộ và buộc cậu từ bỏ núi rừng ở lại phố luôn với chúng tôi. Ðược chưa?
Bù lại, cậu chỉ cần làm độc một việc: thiết kế cho tôi một căn hộ ba tầng với đầy đủ tiện nghi ở ngay trên nền nhà cũ. Có ban công uống trà, sân thượng trồng hoa, có các cánh cửa sắt đóng mở tự động bằng điện tử, có ga ra xe máy, có máy lạnh, bồn tắm và có cả nơi nuôi vài con chó giống ngoại cho vui, có... Mà thôi, để cậu về, ta bàn kỹ. Tóm lại, hai tầng để ở, còn bảy chục mét vuông tầng trệt sẽ cho một công ty, một đại diện sang trọng, làm ăn đứng đắn nào đó thuê. Có thể là hãng JVC hoặc hãng VIETRONICS của Sài Gòn, theo ý của cô ấy. Tôi muốn chính tay cậu vẽ bởi vì trong đó có cả diện tích của... vợ chồng cậu.
Tin thêm: Tôi vừa nhận hàm thượng tá. Thượng tá! Khỉ không? Ðáng lẽ phải đại tá luôn cho rảnh một chuyện. Ðang thượng chuyển sang đại bây giờ đang đại lại hất xuống thượng. Không hiểu các cụ nhà ta còn ngẫu hứng điều lệnh đến tận bao giờ? Cũng chẳng sao. Tôi dự định nếu cô ấy về, vui thì a lê hấp! Tôi sẽ xin về hưu, giã từ binh nghiệp. Giã từ cơ chế bụi bặm luôn. Phần đời còn lại lo đọc sách, thăm thú bạn bè, trồng tỉa mấy cây hoa và cái chính là chăm bẵm cho bé Hương Thảo nên người.
... Ðừng nôn! Chắc thằng bạn lẩn thẩn của tôi lại đang cáu kỉnh muốn biết về thân phận cảnh đời? Thí dụ: Phố Nhà Binh (tên gọi của cậu) đã sắp sửa thành một thứ Hàng Ngang, Hàng Ðào. Gia đình ông tướng Ðiều Lệnh vẫn bán cà phê, ông tướng Bảo Vệ vẫn cho thuê hàng điện lạnh, ông tướng Cán Bộ đợt này nới rộng cho thuê cả hai mặt tiền - nói chung, khi đã làm ông tướng thì đời nào cũng sướng - Và, gia đình đôi vợ chồng kẻ khó ấy (đúng tủ chưa?) vẫn kiên trì bám trụ ở đầu đường. Hình như cô vợ lại đang có chửa đứa thứ hai, sức sống của nhân dân bất diệt thật!
Ðiều chót cùng: sự phá vỡ kiến trúc của một dãy phố là phản ánh cái trở dạ đau đớn của lề thói suy nghĩ cũ, đồng thời sẽ dẫn đến phá vỡ sự ổn định cổ kính trong từng gia đình, từng số phận, có thể tốt lên nhưng cũng có thể xấu đi. Ví dụ như gia đình tớ...".
Rút cuộc cô ấy đã trở về. Dù sao cũng đã trở về. Chỉ cần như vậy thôi. Tôi thở phào, trút được cái day dứt nặng nề đã mai phục kín trong lòng bấy lâu nay.
***
Ấy vậy mà tôi vẫn về chậm mất gần một năm so với cái thời điểm hệ trọng đó. Một công trình xây dựng liên doanh với Bạn đã giữ chân tôi suốt một mùa mưa bên kia biên giới Việt - Lào.
Trở lại Quân khu, tôi tính nhảy ô-tô về Hà Nội luôn nhưng hỏi cậu văn thư không có lá thư nào gửi cho mình, lại ngần ngừ. Nó giận ư? Hay Hương chưa về? Không về? Hoặc... Ðã nghĩ thì nghĩ cho đủ hướng theo đúng tác phong tác chiến người lính, hoặc nó đã nghĩ lại về cái gọi là một phần mười tính sẵn cho tôi? Không có lý. Nó không phải là người như thế và tôi cũng chẳng phải là cái thằng dễ chấp nhận mọi sự cưu mang của người đời. Khổ! Khi còn nghèo, bạn bè đến chơi với nhau dễ dàng biết bao, bây giờ khá giả rồi, mỗi sự đến là nỗi đắn đo hèn cả người. Song tôi vẫn quyết định đi, bởi lẽ có một sinh vật đứng trên mọi đắn đo tầm thường đó. ấy là bé Thảo, hơn hai năm không gặp nó rồi.
Ðến Hà Nội, trời vừa sập tối. Tôi bước về phía nhà Thẩm mà chân tay líu ríu như bước về chính ngôi nhà của mình, bụng dạ cứ cồn lên không hiểu giờ đây ngôi nhà nó ra sao?
Muốn đến Thẩm, tôi buộc phải đi qua các gia đình của kẻ ăn mía đêm độ nào ở góc phố. Ðúng là phố Nhà Binh năm nay đã ra cái dáng vàng son choáng ngợp của một vị thế thương trường buôn bán lắm! Mải nhìn ngó, tôi đập mắt vào góc phố lúc nào không hay. Và hơi dừng lại. Góc phố trước trống trơn nay đã mọc lên vài ba hàng quán, đèn điện sáng trưng. Nơi có chiếc chiếu rách trải ra năm nọ lúc này là một điểm chữa xe máy bình dân với đầy đủ các loại đồ nghề vá chín, cờ lê, mỏ lết... nằm xếp lớp trong thùng gỗ. Gần đấy, có chừng hai, ba chiếc cúp xanh đỏ đang chờ đến lượt mình được sửa chữa. Quái lạ hơn, quái lạ đến nỗi tôi khó có thể tin vào mắt mình được nữa; tay thợ xem ra có vẻ đầy uy tín nghề nghiệp đó lại chính là... gã đàn ông hay ăn mía đêm ngày nào! Thùng thình trong bộ quần áo bò Liên Xô lem luốc mỡ dầu, một hàng râu quai nón chạy lộn xộn xuống tận cằm, anh ta rõ ràng ra phong thái một tay thợ lành nghề đang hết sức càu cạu vì cớ sao cho đến tận giờ này vẫn còn khách đến quấy rầy! Quả thật nếu không nhờ vào cặp môi dày phồn thực vẫn đang trễ xuống kia và cái lối nhìn gườm gườm đầy tính quân chủ độc tài ấy thì có lẽ tôi đã không tài nào nhận ra anh.
Lia mắt sang phòng nhỏ tuềnh toàng như chiếc lô cốt còn nguyên màu vôi ve nham nhở quét ẩu bên cạnh, tôi lại vấp tiếp phải một điều quái lạ nữa: người đàn bà cóc cáy làm nghề chôm chỉa giờ đây đang ngồi trước bàn bán tiết canh cháo lòng, gọn gàng, tươi tắn và không ngơi tay múc cháo cho khách. Tất nhiên, cái để tôi nhận ra vẫn là đôi mắt lá răm liếc xéo xéo qua mặt mọi người và điếu thuốc lá loại rẻ tiền ướt nhoèn đang gắn trên môi.
Chưa hết! Bên trong, trên một chiếc giường ọp ẹp, giữa vùng ánh sáng đỏ quạch, có hai đứa nhỏ, con chị nựng con em đang cười rinh rích. Cha trời! Chả lẽ đây là hai sinh mạng đã được ra đời trên cùng một vỉa hè võng vãnh muỗi bay?
Bất giác tôi quay người đi nhanh sang bên kia đường. Chán quá! Thì ra người ta không chỉ chạy trốn những ấn tượng nặng nề mà còn có xu hướng trốn chạy cả những cú sốc ngọt ngào mà trái tim chai sạn ít khi được nếm trải.
Quán nước quen thuộc có ngọn đèn dầu thắc thỏm dường như đang chờ tôi trong vẻ buồn tênh cố hữu của nó. Người đàn bà giáo viên không còn ngồi ở đó với nụ cười cố tạo ra nữa. Chị đã được người ta mời đi dạy trở lại. Thay chị bây giờ là ông chồng, vốn là đạo diễn phim tài liệu vừa nghỉ hưu hoặc do công việc làm nhiều người khôn của khó mà xin về nghỉ sớm (?). Chính nhà đạo diễn đã có một thời tên tuổi này kể cho tôi nghe đoạn đời kế tiếp của gia đình gã đàn ông hay gặm mía kia. Từ nơi đóng quân cạnh vườn mía. Anh ta quyết định thuê dài ngày một chiếc xe đạp Vĩnh Cửu ngày ngày thồ mía từ Ðan Phượng đi buôn bán ở các huyện. Sau mấy tháng kèo kẽo, người gầy rộc đi đến năm cân, anh ta đã có một khoản tiền để đầu tư vào lò đường của chính ông bố vợ trên mạn ngược. Lỗ cùng chịu, lãi chia đôi, lại trúng. Một năm sau, anh ta rút chân ra khỏi nghề đường, tạm biệt vợ con, nhảy tàu vào Ðà Nẵng tìm gặp một người bạn cùng đơn vị cũ, học nghề sửa chữa xe máy. Hai tháng sau trở về, anh ta bỏ tiền thuê dài hạn cái nhà kho bỏ đi này, sang sửa một chút ít và quyết định sống suốt đời ở đây, nơi góc phố có nhiều kỷ niệm...
Câu chuyện giống như một dòng sông mùa hạ mát mẻ mà tôi vừa được trầm mình xuống. Tôi không muốn hỏi thêm về Thẩm bởi lẽ tôi muốn dành cho chính tôi một sự bất ngờ mới mẻ tiếp theo. Vậy là dòng đời đang xuôi chảy thuận chiều. Gia đình kẻ khó đã có bát ăn bát để, bà giáo thạo việc đã trở lại bục giảng và Thẩm, chắc chắn đang tồn tại ở một cấp độ khác hơn.
Tôi bước đến ngôi nhà ba tầng của nó... Chao ôi, màu sắc, đường nét, sự bề thế mới gợi lên dáng dấp một cái vila sang trọng làm sao! Chợt thấy buồn... Rốt cuộc, nó vẫn có được tất cả mà khỏi cần đến tôi. Thôi được, miễn là nó đã có. Thế là mừng.
Phía bên cánh cửa xếp bằng sắt sơn nhũ bạc là tấm bảng đề: đại diện hãng X thành phố Hồ Chí Minh. Chà! Gớm thay cho vợ chồng nhà này, nghĩ gì làm đó, ghê thật! Tôi bấm chuông... Cùng với tiếng chó hộc lên ồm ồm, một khuôn mặt thiếu niên chất phác ló ra trên khoen tròn cánh cửa nặng nề đang đóng kín.
- Bác tìm ai ạ? - Cậu thiếu niên hỏi, tiếng nói vẫn còn ngầy ngậy chất quê.
- Mình là Hà, bạn thân của ông chủ nhà đây.
- A... Bác là bác Hà! Cô chú cháu nhắc đến bác luôn. Bác tránh ra tí để cháu mở cửa... Thế!
Sao lại phải tránh? Tôi lùi lại và nghe tức khắc tấm cửa đồ sộ được dồn xếp sang hai bên ngọt xớt. Khá, hóa ra cửa tự động thật! Tôi thầm kêu lên và không thể không né người đi tránh qua mõm con béc-giê lông xám to tướng đang nằm phục ở góc nhà, bên cạnh những đống vỏ đồ hộp JVC rỗng không. Khá! Tôi lại thầm kêu lần nữa.
- Chú cháu có nhà không? - Tôi hỏi khẽ.
- Có ạ!... - Nó trả lời ngập ngừng - Ðể... Ðể cháu lên báo.
- Vẽ! Tao là chiến hữu ruột, báo biếc gì.
- Dạ, nhưng...
Vừa lúc đó, từ trên tầng gác sáng xanh ánh đèn nê-ông bay xuống một tiếng trẻ khóc ré, liền đó là một cái bát hay cái cốc đập choang vào tường. Rồi một tiếng rít nhừa nhựa:
- Mày có câm đi không, cái con tội nợ kia! Không ăn thì cút xéo đi chứ không phải bữa nào cũng chống đũa, nước mắt ngắn nước mắt dài như thế.
Tiếng khóc được kìm nén khổ sở, chuyển sang tức tưởi. Tiếng khóc của bé Hương Thảo! Bỗng dưng thấy xót ruột, tôi bước nhanh lên cầu thang... Trời ơi, cái gì thế kia? Trước mặt tôi, qua cánh cửa khép hờ là một người đàn ông râu ria xa lạ, tóc dài bờm xờm, áo quần nhàu nát ngồi bên mâm cơm lỏng chỏng mấy cái bát, cái đĩa lạnh ngắt, bên cạnh có chai rượu trắng đã cạn gần sát đáy. Bằng đôi mắt đỏ quạch và u tối, ông ta gằn gằn nhìn vào góc tường, nơi bé Hương Thảo tội nghiệp của tôi đang đứng khoanh tay, mặt úp vào cánh cửa sổ đóng kín, đôi vai thon nhỏ cứ từng chập từng chập rung lên... Tôi vẫn đứng chết sững. Sao lại thế này? Thằng Thẩm đâu? Mẹ Hương nữa đâu? Gã đàn ông phàm phu điên dại kia là ai?
Chả lẽ lại là bố dượng ư?
- Mày còn thương lắm à? Hừ? - Tiếng quát tiếp tục bật ra từ bộ râu lùng nhùng nửa trắng nửa đen.
- Cút! Cút đi theo con ** mẹ mày! Cút! Giời ạ! Sao tôi khổ nhục thế này?
Lão ta lúc lắc cái đầu to tướng, mặt nhăn quắt lại ghê sợ và, thật bất ngờ, từ hai hốc mắt sâu hoắm của lão, anh ánh hai giọt nước mắt rịn ra... Tôi bỗng rủn người! Thằng Thẩm!... Chính thằng Thẩm chứ không phải ai khác. Ngày xưa, trước nấm mồ đồng đội, mặt nó cũng nhăn quắt lại tột cùng đớn đau và nước mắt cũng chỉ âm thầm rịn ra như thế này.
- Mẹ ơi!...
Tiếng con chim non bật lên ai oán gọi mẹ đây đó đã đẩy tôi lùi nhanh trở lại. Tôi không đủ can đảm đứng đó lâu hơn nữa và cũng không đủ tỉnh táo để bước vào với cha con Thẩm lúc này.
Cậu thiếu niên chất phác ngửa mặt đón tôi ở chân cầu thang, đôi mắt mở to đầy vẻ dáo dác:
- Ồ bác... Bác sao lại xuống ạ?
Tôi kéo nó ra một góc sát cửa.
- Này! Nói đi! Cái gì đã xảy ra ở đây thế?
Da mặt cậu bé thoắt tái nhợt, khẽ rùng mình một cái rồi nhìn lảng đi, nước mắt rơm rớm:
- Ðã một tháng nay rồi, tối nào chú cháu cũng như thế này! Khổ lắm! Trước kia...
- Trước kia làm sao? Cháu là thế nào với chú Thẩm?
- Chú Thẩm là em ruột bố cháu, ở mãi tận dưới quê kia, khi cô cháu về, bố cháu cho cháu lên đây phụ giúp công việc với chú. Lúc ấy cô chú cháu vui vẻ lắm, lúc nào cũng nói cười như nhà có hội, thỉnh thoảng lại cho bé Thảo lên xe máy đi chơi, có bận đi đúng hai, ba ngày mới về. Khi cái chú gì tre trẻ, nói tiếng Nam Bộ, nghe nói là giám đốc hãng điện tử cùng với ba người nữa đến thuê nhà làm cửa hàng, lại càng vui, không ngờ...
- Không ngờ cái gì? - Tôi gắt khẽ - Nói nhanh đi!
- Có một lần cô cháu bảo đi thăm bạn gái cùng ở bên kia hai ba ngày nhưng đến ngày thứ tư cũng không thấy về. Ngày thứ năm thì chú cháu có giấy khẩn gọi ra Sầm Sơn nhận thân nhân bị nạn... Lúc trở về, chú cháu bỗng trở nên như thế này.
- Biết rồi, nhưng ai bị nạn? Bị nạn thế nào?
Cậu bé cúi gằm đầu xuống, nói lí nhí:
- Chết đuối... Chết đuối cả hai! Chỉ tại không biết bơi mà lại đưa phao ra xa nên bị sóng đánh tuột tay... Mãi ba ngày sau xác mới nổi, vẫn đang còn dính cứng vào nhau, bụng nghe bảo trương to lắm...
- Ai dính cứng? - Tôi gần như nắm lấy ngực áo cậu bé - Dính cứng cái gì?
- Dạ!... - Mắt cậu ta nhớn nhác nhìn lên gác - Dạ, dính vào chú giám đốc thuê nhà ở tầng dưới ạ!... Khi cái phao không giạt vào bờ, mấy ông đánh cá đêm còn bảo... Nói bác bỏ lỗi, vẫn còn giắt lại hai cái đồ lót đàn ông và đàn bà...
- Thôi... Im đi!
Tôi gần như nhao ra mặt đường, đầu óc choáng váng không hiểu mình đang ở đâu, mình vừa nghe thấy gì nữa. Phố Nhà Binh lúc ấy vẫn đang chan hòa ánh sáng và ngan ngát hương thơm mỹ phẩm.