Năm 1867, tại thành phố cửa sông Valăngx trên đất Tây Ban Nha, Tổ quốc của đại văn hào Xecvăngtex(1) lại sinh ra một người con để kế tục sự nghiệp văn chương của những thiên tài đi trước : VIXETE BLAXCO - IBANHEX (Vicente Blasco - Ibanhex). Lúc này, vừa đúng bốn năm trước ngày nổ ra cuộc đụng đầu lịch sử đầu tiên quyết liệt nhất trên thế giới giữa vô sản và tư sản, - CÔNG XÃ PARI- Và thế là, từ khi sắp ra đời cho đến suốt tuổi thanh xuân trong hơn ba mươi năm cuối cùng của thế kỷ XIX, Blaxcô - Ibanhex hoàn toàn được nuôi dưỡng trong cao trào đấu tranh giai cấp gay gắt trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, đến tư tưởng, triết học, văn học, nghệ thuật...
"Đây, cuộc đấu tranh lan toàn thế giới
Khuấy không trung hai chữ Tự Do"...
"Ta đứng dậy, không hề khuất phục
Ngã xuống rồi, lại đứng dậy hiên ngang"
"Đấu tranh này, là trận cuối cùng"...
Những khúc quân hành ấy từ đất Công xã vang sang Tây Ban Nha và khắp Châu Âu, hùng tráng và tha thiết, căm hờn và yêu thương. Ngọn gió tự do, dân chủ làm bừng dậy rất sớm tâm hồn giàu cảm xúc của Blaxcô, một tâm hồn khao khát tự do, thương yêu những con người bị đọa đày trong cuộc sống tối tăm.
Blaxcô Ibanhex lớn lên giữa những người nghèo bên dòng sông Guađalavia đổ ra Đại Tây Dương, trong vùng Anđaludi màu mỡ còn mang những dấu tích kiến trúc của một vương quốc Hồi giáo trước thế kỷ thứ XIII. Sông nước hòa với sóng dậy trong tấm lòng cậu thiếu niên thông minh. Trước mắt cậu là một đại dương bềnh bồng vô tận những đắng cay, những đọa đày và chết chóc, là một Tây Ban Nha nhức nhối những ung nhọt của một chế độ quân chủ mục nát, là một Châu Âu rạn nứt đang bàng hoàng trước tiếng sét của Công xã Pari.
Mới mười sáu tuổi, Blaxcô Ibanhex đã rời quê hương đi Madrit, thủ đô Tây Ban Nha, tìm một con đường lập thân phù hợp với hoài bão: Blaxcô muốn viết văn, nhưng trong môi trường anh mơ ước lại đang diễn ra một cuộc đấu tranh giữa hai trào lưu tiến bộ và suy đồi trong nền văn học phương Tây. Blaxcô bắt nhịp dễ dàng với trào lưu tiến bộ như một lẽ đương nhiên mang tính quy luật phát triển tất yếu của một bản chất nhân đạo. Ngòi bút trẻ tràn sức sống sôi động và lại giàu tưởng tượng được luyện trong các bài báo, truyện ngắn đầu tay, chĩa vào cái xã hội đang quay cuồng giữa cơn lốc điên loạn của đồng tiền, danh vọng và sa đọa, cái xã hội của những "Đông Xaluyxtơ", "Đông Xêda" trong Ruy Blax (vở bi kịch lịch sử nổi tiếng của Víchto Huygô về Tây Ban Nha). Tài năng của Blaxcô Ibanhex nảy sinh trong mối quan hệ khăng khít của ông với cuộc sống, trong hoạt động thực tiễn không tách rời với chính trị đương thời. Mối quan hệ này làm cơ sở cho những sáng tác của ông sau này và là một nhân tố quyết định vị trí của ông trên văn đàn thế giới. Hiển nhiên đó chính là một nguyên nhân cơ bản nhất khiến ông trở thành một trong những người thày của chủ nghĩa hiện thực trong nửa cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Giữa cuộc khủng hoảng suy đồi của các trào lưu văn học đang thoái hóa, Blaxcô Ibanhex đã nổi bật lên như một biểu tượng của một sức mạnh kiên cường trong hoạt động văn hóa Tây Ban Nha. Ông gây lại được cái cảm hứng đang mất đi về thời hoàng kim của nền văn học Nghệ thuật Tây Ban Nha trong giai đoạn Phục hưng cuối thế kỷ XVI. Ta lại thấy ở Blaxcô Ibanhex điều mà ta đã thấy ở nhà văn vĩ đại, ngôi sao sáng vĩnh cửu của Tây Ban Nha Xécvăngtex, sự đồng cảm sâu xa với nhân dân và lòng yêu nước nồng nàn xuất phát từ một trái tim nóng bỏng những yêu thương.
Chàng thanh niên ngoài hai mươi tuổi Blaxcô Ibanhex ấy đã lao vào, cũng say mê như anh say mê văn học, những hoạt động chính trị chống chính thể quân chủ Anphôngxơ đệ tam và Hoàng thái hậu Crixchin. Blaxcô Ibanhex gia nhập một Nhóm cách mạng. Bị khủng bố gắt gao, anh phải trốn ra nước ngoài, vượt qua vùng núi Pyrênê phân chia ranh giới Tây Ban Nha - Pháp, sang Pari, thủ đô hôm qua của nền tự do Công xã.
Hai năm sau, Blaxcô trở về nước tham gia Phong trào Cộng hòa cũng vẫn với ý thức chống chế độ quân chủ và tư sản tàn bạo đang đè nặng lên Tổ quốc ông. Ông lập ra tờ báo Nhân dân (El Pueblo) nói về nhân dân theo đúng cái tên của nó, về những đau thương, những khát vọng và rủi ro của họ. Ông muốn tái tạo qua cách nhìn của ông cuộc sống của quê hương ông theo đúng ý nghĩa thực chất của nó, nơi ông đã tích lũy được những tư liệu phong phú từ cây cỏ, sông núi đất Valăngx đến những con người địa phương Anđaludi. Tập truyện ngắn Những mẫu chuyện ở Valăngx (1893) ra đời mở đầu cho hàng loạt tiểu thuyết Gạo và thuyền (1894); Hoa tháng Năm (1895); Mảnh đất bị nguyền rủa (1899); Giữa những cây cam (1900); Bùn và sậy (1902).
Cứ xem những năm sinh của các tác phẩm đó cũng đã thấy cái sung sức của cây bút trẻ ấy đến nhường nào. Thường là mỗi năm một cuốn! Lúc Tập truyện về Valăngx ra đời, Blaxcô mới ngoài hai mươi nhăm tuổi; ông được bầu làm nghị viện thành phố. Cương vị này giúp ông có được những điều kiện vật chất cần thiết để tập trung vào sáng tác và hoạt động quần chúng. Năm 1898, cuộc đời lại thử thách Blaxcô với sự bùng nổ của cuộc chiến tranh Tây Ban Nha - Mỹ nhằm giành giật những đất đai Nam Mỹ mà Tây Ban Nha đã chiếm đoạt từ những thế kỷ trước. Máu dân lành Tây Ban Nha và dân thuộc địa lại đổ xuống cho túi vàng và thị trường của chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn cuối cùng của nó. Blaxcô không khỏi ngậm ngùi trước nỗi thống khổ của nhân dân. Lo sợ trước sự phản ứng của ông, bọn cầm quyền trong nước đã bắt giam ông ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Cánh cổng nhà tù lại một lần nữa ngăn cách ông với cuộc sống tự do và sáng tác.
Thực tiễn phong phú và những kinh nghiệm bản thân, dù cay đắng vẫn là những người thày dẫn dắt ông không lùi bước. Tính chiến đấu trong văn phong Blaxcô mang đậm nét cái bản chất chiến đấu của riêng ông; Blaxcô không dừng chân trên con đường của sự nghiệp mà ông đã theo đuổi từ lúc tuổi còn rất trẻ. Và, ông lại viết. Một chân trời phóng khoáng mở ra trước mắt ông cùng với sự phát triển của một quá trình nhận thức và căm thù đã được sàng lọc qua thực tế cuộc sống. Sự rung cảm của ông đi vào chiều sâu hơn. Ông muốn dựng lên những bức tranh đời thực sự phản ánh cái xấu xa, cái tàn ác, cái mặt trái bẩn thỉu phủ nhiễu điều của giai cấp phong kiến và tư sản đang sống giàu sang phù phiếm trên những đau khổ và nghèo đói của nhân dân. Blaxcô chọn loại truyện tâm lý xã hội và đi vào thể loại này với một bản lĩnh đã trưởng thành vượt bậc. Cũng vẫn gần như mỗi năm một truyện. Những tiểu thuyết Dưới bóng thánh đường (1903); Kẻ ngoại lai (1904); Hầm có rượu, Bầy lang thang (1905); Đấu trường đẫm máu (1908) kế tiếp nhau như những bông hoa mỗi buổi sáng lại thấy thêm một bông rộ nở.
Sang Châu Mỹ la-tinh, ông làm nghề kinh doanh, xây dựng một trang trại khá lớn ở Achentina nhưng chẳng bao lâu thì phá sản. Trở lại Tây Ban Nha với những cảm xúc mới và những vốn sống hải ngoại, Blaxcô lại viết một loại truyện dài rút ra từ những sự kiện lịch sử trong mối quan hệ Tây Ban Nha với Châu Mỹ: Mảnh đất của mọi người (1912); Những con bạch tuộc (1914)... Cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất bùng nổ, Blaxcô đứng dậy chống chiến tranh bằng ngòi bút tiến công, vạch trần những tội ác của đế quốc Đức. Ba cuốn tiểu thuyết sôi động tính chiến đấu và giàu tính nhân đạo nối tiếp nhau ra đời từ 1916 đến 1919: Bốn kỵ sĩ trong cuốn sách Khải huyền (1916); Biển của chúng ta (1918), Kẻ thù của phụ nữ (1919). Nhiều truyện của Blaxcô được dịch ra nhiều thứ tiếng ở nhiều nước, được chuyển thành những kịch bản điện ảnh và sân khấu. Quần chúng Tây Ban Nha cũng như quần chúng Châu Âu và Châu Mỹ la-tinh tìm thấy trong các truyện của ông những con người của họ và một nguồn vừa an ủi vừa cổ vũ toát ra từ tấm lòng nhà văn đã đặt vào tác phẩm. Tên tuổi Blaxcô Ibanhex nổi lên bên những nhà văn kiệt xuất trong lịch sử văn học phương Tây như một người kế tục kiên cường truyền thống hiện thực ở thời kỳ bản lề giữa hai thế kỷ.
Cuối đời mình, Blaxcô Ibanhex vẫn không rời hoài bão phấn đấu cho một xã hội Tây Ban Nha tự do, dân chủ và tôn trọng nhân phẩm. Ông công nhiên chống Primô đờ Rivơra (Primo de Rivera), một viên tướng quân phiệt, thâu tóm cả quyền hành, áp đặt chế độ độc tài trên đất nước Tây Ban Nha suốt từ 1923 đến 1930. Tiếc rằng Plaxcô không tiếp thụ được ánh sáng của chủ nghĩa xã hội khoa học, không nhận thức được vai trò lịch sử của giai cấp vô sản mà ông đã may mắn được chứng kiến trong đời mình hai sự kiện chấn động toàn thế giới: Công xã Pari và Cách mạng tháng Mười Nga. Thế giới quan của ông bị hạn chế, ông không chỉ ra được một lối thoát cho những số phận đau khổ; vai trò của nhân dân lao động, những người có sứ mệnh lịch sử toàn thế giới còn mờ nhạt trong các tác phẩm của ông.
Bị chế độ độc tài khủng bố, Blaxcô Ibanhex lại một lần nữa rời Tổ quốc Tây Ban Nha. Lần này, ông chạy sang Côt Đaduyva (Côte d' Azur) thuộc vùng duyên hải ở miền Nam nước Pháp. Tại đây ông viết những tác phẩm cuối cùng: Người chủ của biển cả (1925);Chuyến vòng quanh thế giới của một nhà tiểu thuyết(1927).
Blaxcô Ibanhex mất năm 1928 trong lúc ở đất nước ông chế độc tài Primô đờ Rivơra vẫn còn tồn tại thêm hai năm cuối cùng của nó. Nhưng rồi, hết họa Rivơra, được mấy năm dân chủ, Tây Ban Nha lại rơi vào một tai họa khủng khiếp hơn: họa phát xít Frăngcô. Blaxcô Ibanhex ra đi mà hoài bão cuối cùng chưa đạt được. Chỉ còn lại những tác phẩm, những vũ khí rèn bằng tâm hồn và trí lực không mệt mỏi của ông để cho hậu thế. Chúng tồn tại vĩnh cửu trong kho tàng văn học quý báu của loài người, mãi mãi là những nhân chứng không thể chối cãi về tội ác của một chế độ xã hội đã đi vào thời điểm cáo chung của nó.
ĐẤU TRƯỜNG ĐẪM MÁU là một trong những công trình nghệ thuật vĩnh cửu của Blaxcô Ibanhex. Nó phản ánh đúng cái thực chất của xã hội mà Mác đã nhận xét từ lâu rằng: "Ở Tây Ban Nha, giai cấp quý tộc đã tàn lụi vẫn còn cố bám lấy những đặc quyền xấu xa của nó". ĐẤU TRƯỜNG ĐẪM MÁU khai thác một phong tục trong lịch sử nhưng không dừng ở sự sao chép phong tục mà đã dựng nó thành một sáng tạo văn học với nội dung hiện thực giàu tính chiến đấu và sức truyền cảm mạnh mẽ. Nội dung ấy còn có giá trị như một bản án với đầy đủ nhân chứng sống: ở đấy nạn nhân là chàng matađo(1) xuất thân từ lớp nghèo và bị cáo là cả cái chế độ xã hội đang ngự trị Tây Ban Nha.
Đọc ĐẤU TRƯỜNG ĐẪM MÁU, người ta có cảm giác những quan điểm mỹ học của nhà văn hiện thực Pháp vĩ đại Hônôrê đờ Banzắc (Hônoré de Balzac) đã ảnh hưởng nhiều đến tư tưởng sáng tác của Blaxcô Ibanhex, từ tính chân thực của sự tái tạo cuộc sống đến phương pháp tư duy nghệ thuật, xây dựng và chọn lựa điển hình. Banzắc đã từng viết : "Trong khi miêu tả những điều xấu và những điều tốt, trong khi tập hợp những sự kiện chính của dục vọng, trong khi mô tả những tính cách, trong khi lựa chọn những sự kiện chính trong xã hội, trong khi xây dựng những điển hình bằng cách tập hợp những nét của nhiều tính cách tương tự, có lẽ tôi có thể viết được lịch sử đã bị các nhà sử học bỏ quên, đó là lịch sử của các phong tục". (Lời nói đầu - Tấn trò đời).
Blaxcô Ibanhex đã làm được cái việc bỏ quên ấy của các nhà sử học như Banzắc nói và viết lên bằng lời văn giản dị với sức tưởng tượng phi thường lịch sử của một phong tục: đấu người với bò mộng. Con người và những biến cố xã hội chính được Blaxcô tái hiện bằng những điển hình từ hai cực, bên này là những người lao động bị hy sinh, bên kia là những kẻ gây ra và hưởng thụ sự hy sinh ấy; bên này là những đấu sĩ đang vờn nhau với cái chết, bên kia là những chủ nhân ông các trang trại, các phu nhân theo dõi thích thú trên khán đài.
Khác với cái thú chọi trâu ở một số địa phương nước ta ngày xưa trong các ngày hội làng, chọi bò mộng ở Tây Ban Nha không phải diễn ra giữa vật với vật mà là giữa người với vật và cái chết được chọn làm trọng tài duy nhất. Đó là một trò chơi mang tính truyền thống Tây Ban Nha, một thứ nghệ thuật thượng võ rùng rợn thách đố tính mạng con người, được giới thượng lưu lấy làm trò tiêu khiển và một nguồn lợi kinh doanh. Các đấu sĩ thường xuất thân từ lớp dân nghèo phải liều thân để đổi lấy miếng ăn. Họ lo sợ nhưng vẫn phải lao vào, đúng như lời nhân vật chính Huan Gađacđô thú nhận: "Những cái sừng tệ hại nhất là cái sừng của con ma đói". Sau mỗi trận đấu khi các nhà quyền quý và các chủ trại thản nhiên ra về thì ở hậu trường lại là những tiếng rên của đấu sĩ và tiếng kêu khóc của người thân của họ.
Huan Gađacđô thuộc vào một số ít đấu sĩ có tài năng và may mắn. Nhưng rồi chính sự may mắn ban đầu này, sau khi dẫn anh tới phú quý vinh hoa, cuối cùng lại từ bỏ anh, buộc anh trở về với số phận chung của các matađo.
Từ một kẻ du đãng nghèo, Huan Gađacđô bỗng trở thành một đấu sĩ lừng danh cả nước Tây Ban Nha vì lòng dũng cảm rất liều lĩnh của anh. Và, một bước ngoặt diễn ra: đồng tiền danh vọng và những lạc thú vật chất của giới quý tộc đã hút anh vào quỹ đạo thượng lưu; anh tách dần con người mình ra khỏi cái gốc rễ giai cấp bần cùng đã sản sinh ra anh để bám vào sau cỗ xe choáng lộn của giai cấp thù nghịch; anh say sưa trước sự sùng bái anh như một thần tượng, luôn luôn nhìn mình và nhìn xung quanh một cách tự đắc. Ra đấu trường, anh cũng thơm nức mùi nước hoa giữa những mớ ruột gan vung vãi, những đống phân bò dính máu. Tác giả đi sâu vào sự phân tích tâm lý, chọn chi tiết tô đậm sự phát triển của tính cách và làm nổi bật tư tưởng của chủ đề. Blaxcô viết : "Anh xức nước hoa quá nhiều dường như vì thân thể anh vẫn còn giữ mùi cay đắng của thời niên thiếu nghèo khổ". Chưa đủ, anh còn ham thích một thứ nước hoa khác nữa, cái "mùi thơm của các phu nhân". Và chả còn lạ nữa khi anh sa vào cạm bẫy của Đônha Sôn, một phụ nữ quý tộc trẻ tuổi vừa đẹp vừa giàu, quen sống trên đời chỉ để ăn chơi phóng đãng. Ả hiến thân cho anh và rồi để như chả bao giờ biết đến anh. Huan Gađacđô phản bội mối tình trong sáng của người vợ nghèo giàu đức tính, phản bội cả những tình cảm thiêng liêng của quần chúng đã nuôi dưỡng, cổ vũ anh từ lúc còn hàn vi.
Blaxcô Ibanhex chứng minh cái thương, cái ghét sáng suốt và vô tư của quần chúng. Họ yêu người anh hùng của họ nhưng họ không yêu kẻ hãnh tiến đã tách ra khỏi mối quan hệ thủy chung với họ. Tuy nhiên họ vẫn thương đứa con bạc nghĩa mỗi khi thấy nó lâm vào những tình huống hiểm nghèo và họ quan tâm đến anh như đối với "một kẻ tử tù đã bị đưa vào nhà nguyện", họ nghĩ thế nào rồi cũng có ngày anh bị bò húc chết.
Nhân vật Cácmen, vợ Huan Gađacđô để lại cho người đọc một cảm giác thật tươi mát về một tấm lòng yêu không vụ lợi, hoàn toàn đối lập với Đônha Sôn: người này xuất thân từ lớp người lao động, kẻ kia từ một dòng quý phái; người này yêu chung thủy, kẻ kia sa đọa và phản bội. Cácmen bộc lộ một bản năng nhân đạo rất độc đáo của nàng; nàng là một trong những người ít có ở đất nước nàng chẳng thích cái trò chơi giết người: đấu bò mộng, nó là nguồn lo lắng, nguồn đau khổ thường xuyên đe dọa hạnh phúc của nàng và biết bao người mẹ, người vợ khác.
Bên cạnh Cácmen, nổi lên một nhân vật đáng yêu nữa "Người quốc dân", một bác banđêriđiêrô(Banđêriđiêrô: thành viên trong đội đấu bò, có nhiệm vụ cắm xiên vào cổ bò trước khi matađo hạ sát nó) cùng đội với chồng nàng. Đó là một hình tượng đẹp, phản ánh trung thành niềm suy tư tự đáy lòng tác giả. Trước cái chết thê thảm của Huan Gađacđô, Blaxcô viết : "bác banđêriđiêrô trung thực không nói một tiếng, không nhỏ một giọt nước mắt, nhưng trong thâm tâm bác, đột nhiên nảy nở một mối hận thù dữ dội đối với tất cả những gì ở quanh bác, một nỗi bất bình phẫn nộ đối với công chúng, một sự khinh bỉ pha lẫn hối tiếc với cái nghề đang làm cần câu cơm của bác. Chao ôi! Phải chết để mua vui cho đồng chủng thì thật khủng khiếp và kinh khủng". Huan Gađacđô giết con bò mộng và con bò mộng giết Huan Gađacđô, cả hai cùng chết trong trận đấu. Bác banđêriđiêrô cảm thấy thương xót sâu sắc và thốt lên:
"Tội nghiệp con bò! Tội nghiệp anh matađo!"
Đúng thế, người và bò cùng là nạn nhân của một cuộc thảm sát, nạn nhân của những kẻ đang ngồi trên khán đài sang trọng kia, những chủ nhân các trại ấp mênh mông và những lâu đài tráng lệ, những ông chủ các hợp đồng đã "mua" Huan Gađacđô và hết sức quảng cáo ca tụng anh. Đó là hầu tước Đờ Môraima thuộc một loại "người - ngựa thần thoại" nuôi dưỡng những con bò thật dữ để đấu với matađo, là Đông Hôsê, nhà quý tộc sống bằng lợi tức, là những hội viên Câu lạc bộ Bốn mươi lăm thuộc hạng con dòng cháu giống chẳng có việc gì khác ngoài việc tụ tập nhau đánh bạc và theo dõi kết quả các trận đấu, là Đônha Sôn, điển hình sa đọa của tầng lớp quý tộc đã suy tàn... Đó là cả một xã hội, cả một chế độ mà Blaxcô Ibanhex đã đứng về phía những nạn nhân của nó để lột trần nó ra ánh sáng. Ông đã cùng một lúc làm được hai nhiệm vụ rất cơ bản mà người thầy của chủ nghĩa hiện thực phê phán Hônôrê đờ Banzắc đã đặt ra cho nhà văn: nhiệm vụ "Người thư ký" xã hội và nhiệm vụ người nghệ sĩ thể hiện thực tế xã hội đó.
Sau ĐÔN KIHÔTÊ của Xécvăngtex, với ĐẤU TRƯỜNG ĐẪM MÁU của Blaxcô Ibanhex được dịch và xuất bản lần này, chúng ta lại có dịp tiếp xúc với văn học hiện thực Tây Ban Nha, thưởng thức một kiệt tác làm rạng rỡ truyền thống hiện thực đó ở đầu thế kỷ hai mươi. Văn phong của Blaxcô Ibanhex không mượt mà và bay bướm nhưng ở ông bao giờ cũng là một sự mộc mạc sắc sảo, nồng nàn yêu thương và hừng hực chiến đấu. Tư tưởng tiến bộ và bút pháp ấy đã đem lại cho tác phẩm của ông một giá trị tố cáo mãnh liệt. Và, đó chính là thành tựu quan trọng đưa Blaxcô Ibanhex lên hàng những ngôi sao tiêu biểu nhất cho nền văn học hiện thực Tây Ban Nha, một nền văn học đã có thời làm rạng rỡ cả Châu Âu.
Cũng như mọi lần có đấu bò mộng, Huan Gađacđô ăn bữa sáng rất sớm. Anh chỉ ăn qua loa một lát thịt quay, không hề nhấp một giọt rượu, vì anh cầÇn giữ mình cho thật điềm tĩnh. Anh uống hai tách cà phê đen thật đặc, rồi, sau khi châm một điếu xì gà to tướng, anh ngồi yên, khuỷu tay tì xuống mặt bàn, cằm đặt vào lòng bàn tay, đôi mắt ngái ngủ lim dim nhìn những người khác bước dần vào phòng ăn.
Từ mấy năm nay, nghĩa là từ khi anh được phong chức expađa(Expađa hoặc matađo: Hội trưởng một đội đấu bò mộng, người có quyền hạ sát bò mộng trong cuộc đấu) chính thức tại đấu trường Madrit, anh đến ngụ ở khách sạn này trong phố Ancala. Ở đây, chủ nhân coi anh như người nhà, còn bọn bồi phòng, gác cửa, phụ bếp, vú già thì cưng anh như hòn ngọc của khách sạn.
Và cũng ở đây, sau khi bị hai vết thương, người còn quấn đầy băng, anh đã sống những ngày dài dằng dặc trong một bầu không khí sặc mùi thuốc vàng(Thuốc vàng: thuốc sát trùng màu vàng, rất khó ngửi) và khói thuốc lá. Nhưng kỷ niệm đáng buồn đó không mảy may làm anh nao núng. Với óc mê tín của một người miền Nam quen gặp nguy hiểm, anh tin rằng khách sạn này đem lại may mắn cho anh. Ngụ tại đây, anh chẳng còn phải lo bị một tai nạn nghiêm trọng nào: mà nếu có bị thì bất quá cũng chỉ là một sự chẳng may không đáng kể của nghề nghiệp, ví dụ rách áo hoặc toạc da, chứ không đến cái thảm cảnh té ngã rồi không bao giờ đứng dậy được nữa như đã từng xẩy ra cho một số bạn anh mà, mỗi khi nhớ đến, anh lại cảm thấy xao xuyến, ngay cả trong những giờ phút anh sung sướng nhất.
Trong những ngày có cuộc đấu, người expađa ấy, sau khi ăn sáng rất sớm, lần chần mãi trong phòng ăn và giết thời giờ bằng việc quan sát người qua lại từ nước khác hoặc từ các tỉnh đến. Đầu tiên, họ không để ý đến anh lúc đi bên cạnh anh, nhưng rồi họ đều ngoảnh lại tò mò nhìn anh khi được chú hầu phòng cho biết cái anh chàng đẹp trai, có bộ mặt cạo nhẵn và đôi mắt đen, diện như một cậu công tử con nhà, chính là Huan Gađacđô, người mà ai nấy đều gọi thân mật là "anh Gađácđô", nhà matađo tiếng tăm lừng lẫy. Cho đến lúc lên đường ra đấu trường, Huan Gađacđô, đã tìm được cách giải trí đó để qua những giờ phút chờ đợi nặng nề. Thời gian mới chậm làm sao! Những giờ phút hồi hộp này mà, từ trong thâm tâm anh, chợt nổi lên những mối lo sợ mơ hồ làm cho anh nghi ngờ ngay cả bản thân anh, là những giờ phút khó chịu nhất trong nghề. Anh không muốn ra phố vì anh nghĩ đến những nỗi mệt nhọc chiều nay, đến điều cần thiết phải giữ mình cho được tươi tỉnh và nhanh nhẹn. Anh không thể kéo dài bữa ăn vì anh cần phải ăn ít, ăn mau để khi ra đấu trường anh không còn lo nặng bụng. Vì thế, anh vẫn ngồi ở đầu bàn ăn, hai tay ôm đầu, thả một đám khói thuốc lá thơm bay trước mắt và thỉnh thoảng hãnh diện đảo mắt bốn phía để liếc mấy phụ nữ đang chăm chú ngắm người tôrêrô(Tôrêrô: Phiên âm từ Tây Ban Nha chỉ những người làm nghề đấu bò mộng) danh tiếng.
Kiêu hãnh cho mình là thần tượng của công chúng, anh ngỡ đoán ra được trong ánh mắt những người phụ nữ ấy những lời tán tụng và những cử chỉ bợ đỡ. Chắc chắn họ thấy anh lịch sự và đẹp trai. Thế là anh quên bẵng những điều bận tâm và, tuân theo bản năng của một người quen lấy tư thế hiên ngang trước công chúng, anh vươn người đứng dậy, búng tàn thuốc rơi trên tay áo, sửa lại cái nhẫn nạm một viên kim cương cực lớn đầy hào quang che kín cả một đốt ngón tay. Anh đưa mắt nhìn khắp người anh một cách tự đắc về bộ complê may rất khéo, về cái mũ lưỡi trai mà anh hay đội khi đi lại trong khách sạn và lúc này anh đặt trên một cái ghế gần đấy, về sợi dây vàng đẹp đẽ vắt ngang từ túi bên này sang túi bên kia áo gilê, về những viên ngọc trai đính trên yếm áo sơmi dường như tỏa một thứ ánh sáng nhợt nhờ lên khuôn mặt màu nâu của anh, về đôi giày bằng da nước Nga để lộ từ cổ chân đến gấu quần vén cao đôi bít tất lụa thêu dua tựa hồ đôi bít tất của những cô gái ăn chơi.
Mùi nước hoa Anh thoang thoảng tỏa ra từ bộ quần áo, từ mái tóc đen bóng cuộn thành từng vòng trên hai thái dương. Trước con mắt tò mò của đám phụ nữ, anh ưỡn ngực với tư thế của kẻ chiến thắng. Quả thật trông mẽ anh không phải là một đấu sĩ hạng tồi. Anh rất tự mãn. Khó mà tìm ra một con người nào khác ưu tú hơn anh, có thể làm vừa lòng phụ nữ hơn anh. Nhưng chẳng bao lâu những điều bận tâm lại trở lại trong tâm trí anh; ánh mắt anh lụi tắt, cằm anh thưỡn ra trong lòng bàn tay. Anh rít thật mạnh điếu xì gà, lơ đãng nhìn theo làn khói thuốc.
Anh nóng ruột nghĩ tới lúc màn đêm buông xuống anh sẽ từ đấu trường trở về, mình đẫm mồ hôi và người mệt lử, nhưng lòng vui sướng vì vừa vượt khỏi nỗi hiểm nghèo, với bao nhiêu thèm muốn lại trỗi dậy, với dục vọng hưởng lạc điên cuồng và với lòng tin tưởng, chắc chắn rằng mình sắp có được vài ngày nghỉ ngơi yên ổn: Nếu chúa trời vẫn phù hộ anh như mọi khi, anh sẽ lại được ăn uống ngấu nghiến ngon lành như trong những năm anh còn là một kẻ bần cùng, anh sẽ lại được say sưa chút đỉnh và được đi kiếm một cô ca sĩ của tiệm ca vũ mà anh đã gặp trong một cuộc hành trình trước nhưng chưa có thời gian để làm thân thêm. Cuộc đời xê dịch không ngừng bắt anh phải chạy từ đầu này đến đầu kia bán đảo không để anh còn thời giờ làm cái gì nữa.
Đang lúc ấy, bỗng có mấy người bạn mến phục anh bước vào phòng ăn, họ muốn gặp anh trước khi họ đi ăn sáng. Đó là mấy tay mê đấu bò, sung sướng được đứng trong một phe phái và có một thần tượng. Họ đã chọn Gađacđô làm matađo, họ khuyên Gađacđô của họ nhiều điều khôn ngoan và không bao giờ quên nhắc đến những thần tượng ngày xưa của họ là Lagactihô và Fraxcuêlô(Lagartihô và Fraxcuêlô: tên hai nhà matađo nổi tiếng ở Tây Ban Nha).
Họ xưng hô cậu cậu tớ tớ với Gađacđô nhưng với vẻ thân mật của người bề trên, còn Gađacđô khi trả lời, không bao giờ quên nêu tiếng ngài trước tên của họ.
Cái đó bắt nguồn từ truyền thống phân biệt đẳng cấp giữa anh đấu bò Gađacđô xuất thân từ thành phần xã hội thấp nhất và những người hâm mộ anh ta. Trong khi tỏ lòng khâm phục anh, họ thường nhắc đến nhiều kỷ niệm xa xưa, cốt để đấu sĩ trẻ tuổi anh tài kia hiểu rằng họ có cái ưu thế của những con người lão thành nhiều kinh nghiệm. Họ thường nói tới đấu trường cũ của Madrit là nơi duy nhất đã chứng kiến những con bò mộng xứng đáng và những người đấu bò xứng đáng. Đối với thời kỳ gần đây nhất, họ cảm động đến run người khi nhắc đến tên anh "Đen", tên tục người matađo lừng lẫy Fraxcuêlô.
- Giá mà cậu được xem anh "Đen" nhỉ! Họ nói... Nhưng lúc ấy, cậu và những người trạc tuổi cậu hãy còn bé tí hoặc chưa ra đời.
Trong đám người ủng hộ Gađacđô bước vào phòng ăn, có một số trông thiểu não và có vẻ đói ăn: đó là những phóng viên nhà báo vô danh, chỉ quen mấy người đấu bò mà họ ca tụng hoặc chê bai; đó là những người không có nghề nghiệp rõ ràng xuất hiện ngay khi có tin Gađacđô tới và bám lấy anh để ca tụng anh, xin vé anh vào cửa. Nhiệt tình chung giúp họ làm thân được với những người khác là những nhà buôn lớn hoặc những ông công chức không quan tâm đến bộ cánh tồi tàn của họ, sẵn sàng bàn luận say sưa với họ về các vấn đề của môn đấu bò.
Tất cả mọi người tiến tới gần Gađacđô rồi ôm hôn anh hoặc bắt tay anh và hỏi anh dồn dập:
- Anh Huan!.. Chị Cácmen có khỏe không?
- Cám ơn, nhà tôi rất khỏe.
- Thế bà Aogutiax nhà ta có khỏe không?
- Cảm ơn, mẹ tôi cũng rất khỏe. Bà cụ đang ở trại Rinhcônađa
- Thế còn chị của anh? Và các cháu nhỏ, con chị ấy?
- Cám ơn, tất cả đều rất khỏe.
- Thế còn người anh rể tinh ma của anh?
- Cũng khỏe, vẫn liến thoắng như thường.
- Thế gia đình anh có thêm được ai nữa không? Triển vọng thế nào?
- Không. Chưa có triển vọng gì cả.
Và anh búng mạnh ngón tay vào hàm răng để tỏ ý rõ ràng là không có gì mới cả. Đến lượt anh hỏi lại người khách mới tới là người anh không biết gì cả ngoài việc người ấy là một dân mê đấu bò.
- Thế ông bạn và gia đình cũng mạnh khỏe cả đấy chứ?.. Tốt lắm!... Vậy thì ông bạn hãy ngồi xuống đây và hãy dùng một chút gì chứ?
Rồi anh hỏi dò về dáng dấp mấy con bò mà anh sẽ đấu trong vài giờ nữa, vì mới rồi ở bãi đấu mấy người bạn đó được xem phân chia bò vào từng lộ. Sau cùng, với vẻ tò mò của một người thông thạo, anh hỏi họ về tình hình Tiệm cà phê Anh, nơi tụ họp của nhiều người trong giới mê đấu bò.
Những người hâm mộ Gađacđô tỏ ra rất hy vọng, họ dẫn ra nhiều bài báo tường thuật những trận đại thắng gần đây của anh trên nhiều đấu trường Tây Ban Nha. Không có người matađo nào lại có nhiều hợp đồng như anh. Từ cuộc đấu tổ chức tại Xêvilơ trong dịp lễ Phục sinh là cuộc đấu quan trọng đầu tiên trong mùa đấu năm nay, anh đang phải đi hết thành phố này đến thành phố khác để hạ sát bò mộng. Sang tháng tám và tháng chín, anh sẽ phải đêm đêm ngồi xe lửa và chiều chiều đến bãi đấu, không còn lúc nào xả hơi. Người ủy quyền của anh bận bù đầu, vì thư từ và điện tín gửi tới dồn dập khiến ông ta không biết làm thế nào để gói ghém tất cả những đề nghị ký hợp đồng vào một mùa đấu ngắn ngủi.
Mới hôm qua, sau khi đấu ở Xiuđa Rêan, Gađacđô không có thời giờ cởi bộ quần áo đấu đã phải nhảy ngay lên xe lửa để sáng nay tới Madrit. Anh đã qua một đêm trắng hoặc gần như vậy, nằm co quắp trong một góc toa nhờ có những hành khách khác đã vui lòng ngồi thu lại để nhường chỗ cho một người sắp phải liều thân để giúp vui cho dân chúng được nghỉ ngơi đôi chút.
Những người hâm mộ anh ca ngợi sức chịu đựng của anh và sự can đảm đến liều lĩnh của anh lúc anh xông vào hạ sát con bò.
Họ nói với anh một cách tin tưởng nhiệt thành:
- Chiều nay chúng tôi sẽ lại được xem cậu đấu. Giới hâm mộ trông đợi rất nhiều ở cậu. Cậu sẽ làm lu mờ khối đối thủ. Cố gắng xuất sắc như lần ở Xêvilơ nhé!
Nói rồi họ đi ăn để còn đến bãi đấu cho sớm. Còn Gađacđô ở lại một mình chuẩn bị trở lên phòng của anh: anh thấy cần đổi chỗ vì sốt ruột. Bỗng nhiên một người đàn ông, tay dắt hai chú bé con, đẩy cánh cửa kính phòng ăn bước vào, không để ý đến những người phục vụ khách sạn hỏi ông ta muốn gì. Trông thấy người matađo, ông ta liền nở một nụ cười như người được ban phúc lành rồi tiến lại, kéo theo sau hai đứa trẻ, mắt nhìn chằm chặp người matađo danh tiếng. Gađacđô nhận ra ông ta. Ông ta chào:
- Thế nào người cha đỡ đầu của con tôi, bác có khỏe không?
Tiếp theo lời chào là cả một chuỗi câu hỏi thường lệ về tình hình sức khỏe của gia đình. Cuối cùng, ông ta quay về phía các con rồi nghiêm trang nói với chúng:
- Đấy, các con ngắm cho kỹ đi: bác ấy đấy! Các con cứ ao ước được gặp bác ấy mãi! Thế có phải hoàn toàn giống các bức ảnh không nào?...
Hai đứa bé ngắm nghía một cách sùng kính người anh hùng mà chúng hằng được chiêm ngưỡng trong những bức chân dung trang hoàng cho căn nhà nghèo nàn của chúng: một nhân vật siêu phàm mà thành tích và của cải đã từng là niềm kinh ngạc đầu tiên của chúng, lúc chúng bắt đầu hiểu những thực tế của cuộc đời.
- Huan, con hôn tay cha đỡ đầu của con đi!
Thằng bé ít tuổi nhất áp vào bàn tay phải của bậc danh nhân cái mồm đỏ nhỏ xíu của nó mới được bà mẹ chùi sạch nhân dịp viếng thăm này và Gađacđô lơ đãng xoa đầu thằng bé. Đấy là một trong số con đỡ đầu đông vô kể của anh ở Tây Ban Nha. Những người tôn sùng anh, ép anh phải đỡ đầu cho con cái họ, vì họ tưởng như vậy sẽ đảm bảo tương lai cho chúng. Phải dự hết lễ rửa tội này đến lễ rửa tội khác, cái đó thật là một hậu quả của vinh quang. Nhưng đứa con đỡ đầu hôm nay làm anh nhớ lại thời kỳ đen tối khi anh mới bước chân vào nghề, anh vẫn nhớ ơn cha nó vì ông ta đã tin tưởng anh trong lúc mọi người còn nghi ngờ tài nghệ anh.
- Thế hàng họ của bác thế nào? Gađacđô hỏi. Có khá hơn trước không?
Người hâm mộ nhăn mặt. Ông ta làm nghề chào hàng ở chợ Xêbađa và nghề đó chỉ vừa đủ giúp ông ta không chết đói. Gađacđô ái ngại nhìn quần áo thiểu não của ông ta, bộ cánh ngày hội của một người nghèo.
- Này bác! Chắc bác muốn đi xem đấu chứ? Bác hãy lên phòng tôi, Garabatô sẽ đưa cho bác một cái vé. Thôi tạm biệt bác nhé! Thế còn các cháu, các cháu hãy cầm lấy cái này để mua đồ chơi.
Gađacđô giơ tay trái treo cho thằng bé nhớn hai đồng đuarô trong khi thằng con đỡ đầu của anh hôn bàn tay phải anh. Thế là người đàn ông kéo đàn con của mình ra khỏi phòng, sau khi đã xin lỗi và cám ơn rối rít khiến người ta không thể biết ông cám ơn nhiệt liệt vì món quà của Gađacđô cho hai đứa bé hay vì tấm vé mà anh đầy tớ sắp trao cho ông.
Gađacđô chờ cho vài phút trôi qua để không phải gặp lại ở trên phòng anh con người hâm mộ anh và đàn con của ông ta. Anh nhìn đồng hồ: mới một giờ! Còn biết bao thời gian từ nay đến lúc có cuộc đấu!... Anh ra khỏi phòng ăn và đi về phía cầu thang bỗng một người đàn bà, đầu quấn cái khăn choàng tồi tàn, từ buồng người gác cổng đâm bổ ra cản đường anh một cách thân mật nhưng kiên quyết, bất chấp sự phản đối của nhân viên phục vụ khách sạn.
- Cháu Huan!... cháu Huan!... cháu không nhận ra bác à? Bác là Đôlôrêx tục gọi là mụ Sên, mẹ của thằng bé tội nghiệp Lêchughêrô đây mà...
Gađacđô vừa mỉm cười với mụ già người thấp bé, da ngăm ngăm và dăn deo, mắt đỏ rực như mắt phù thủy, miệng liến thoắng, vừa thò tay vào túi khi anh đoán ra mục đích của những lời nói vô hồi kỳ trận của mụ.
- Khổ quá đi cháu ơi! Bác nghèo quá, chết chẳng chết được!.. Bác nghe tin hôm nay cháu đến bãi đấu, bác mới nghĩ: "Ta đi thăm Huan đi, chắc nó chưa quên mẹ của thằng bạn tội nghiệp của nó!". Cháu ơi, cháu mới đẹp làm sao, khỏe mạnh làm sao? Chắc chắn tất cả bọn đàn bà đều mê tít cháu thôi, quỷ ạ! Còn bác thì, cháu ơi, bác rất khổ. Đến một cái áo sơ mi cũng thiếu. Từ sáng bác chưa có gì vào bụng, ngoài một giọt rượu hồi. Bà Pêpôna, quê ở mạn dưới, đồng hương với chúng ta, đã thương hại bác, cho bác trọ ở nhà bà ta. Chỗ ấy cũng khá lắm, mỗi tháng phải trả năm đuarô. Cháu đến thăm bọn bác đi. Ở đấy ai cũng thành thật, ca ngợi cháu. Bác sửa đầu tóc cho bọn con gái và làm những việc mà các ông sai đi... Ôi chao! Giá mà thằng con bác còn sống nhỉ!... Cháu còn nhớ thằng Pêpê(Pêpê: tên thân mật của Lêchughêrô) không? Cháu còn nhớ cái buổi chiều nó chết không?...
Sau khi dúi một đồng đuarô vào lòng bàn tay khô đét của mụ già, Gađacđô cố tránh nghe thêm những lời nói liến thoắng đã bắt đầu kèm theo những tiếng sụt sùi. Con mụ phù thủy chết tiệt này! Nó đến đúng vào một ngày có cuộc đấu nhắc anh nhớ tới Lêchughêrô, thằng bạn tội nghiệp của những năm đầu trong nghề đã chết tươi trước mắt anh khi bị một con bò mộng húc trúng tim ở bãi đấu Lêbriha vào thời kỳ cả hai đứa đều là nôviđiêrô(Nôviđiêrô: Phiên âm từ Tây Ban Nha, chỉ người đấu bò mộng tập sự chưa được phong chức matađo, chỉ được phép đấu với những con bò non 2-3 tuổi. Loại bò này gọi là nôviđiô, còn những trận đấu như thế gọi là Nôviđiađa): và cùng đấu chung với nhau. Thật đáng nguyền rủa mụ già mang điềm gở này!... Anh đẩy mụ ra. Nhưng đang xúc động mụ biến như bỡn thành vui vẻ và tuôn ra hàng tràng lời ca tụng những nhà vô địch anh tài, những người đấu bò dũng cảm biết chiếm cả đồng tiền của công chúng lẫn trái tim của phụ nữ.
- Thằng cháu điển trai của bác xứng đáng với Hoàng hậu nước Tây Ban Nha đấy! Chị Cacmen là cứ phải cẩn thận đấy! Không thì có ngày sẽ có người cướp mất cháu không trả lại đâu... Cháu Huan, chẳng lẽ cháu không cho bác một cái vé để đi xem chiều nay hay sao? Cháu yêu quý ơi, bác muốn xem cháu đấu lắm!...
Những tiếng xuýt xoa và những lời tán tỉnh quá đáng của mụ già làm cho các nhân viên khách sạn bật cười quên cả nhiệm vụ nghiêm ngặt của họ là ngăn lại ở bậc cửa một nhóm người tò mò và nghèo đói kéo đến vì thấy Gađacđô. Một đám ăn mày, du đãng, hàng rong đẩy nhẹ bọn đầy tớ và len vào phòng ngoài. Bọn trẻ con bán báo, tay cắp gói báo, ngả mũ chào Gađacđô với một vẻ thân mật nồng nhiệt.
- Anh Gađacđô ! Hoan hô anh Gađacđô! Hoan hô những người dũng cảm!
Những đứa bạo dạn nhất nắm lấy bàn tay người matađo siết chặt lắc đi lắc lại rất mạnh như để kéo dài càng lâu càng hay sự tiếp xúc vinh dự với người anh hùng dân tộc mà chúng đã được thấy hình ảnh trên mặt báo.
Rồi muốn cho đồng bọn chia sẻ niềm vinh dự ấy, chúng giục bạn làm theo chúng.
- Sờ tay anh đi mày! Anh ấy không giận đâu. Gớm, anh ấy đẹp trai ghê!
Thiếu chút nữa, bọn ranh con quỳ xuống trước mặt Gađacđô để tỏ lòng khâm phục.
Một số người tò mò khác, râu chải qua quýt, mặc những bộ quần áo cũ rích, trước đây có thể cũng lịch sự, lê những đôi giày cùn đế lượn quanh người Gađacđô, ngả cái mũ dây mỡ chào thần tượng, nói năng nhỏ nhẹ, và gọi anh là Đông(Đông: Từ Tây Ban Nha chỉ những người quý tộc hoặc những người giàu sang) Huan, để tự phân biệt với bọn lưu manh nhiệt tình nhưng vô lễ.
Sau khi than thở với Gađacđô về cảnh khổ của mình, họ ngỏ lời xin tiền, có kẻ còn liều lĩnh viện lý do mê đấu bò vật nài xin vé vào cửa tuy thật tình họ đã rắp tâm xin được vé là đem bán lại ngay lập tức.
Gađacđô vừa cười vừa chống đỡ làn sóng người xô đẩy anh và đè lên người anh. Các nhân viên phục vụ khách sạn phát hoảng về cách công chúng tỏ lòng hâm mộ anh, họ cố can thiệp nhưng không làm thế nào để gỡ cho anh thoát được. Anh lục đi lục lại các túi quần túi áo cho đến khi cạn trơn để lấy tiền phát vào bất kỳ bàn tay nào chìa ra.
- Tớ không còn một đồng nào nữa!... Tiền tớ để dành cũng cạn sạch rồi! Thôi, đừng đùa dai nữa, để cho tớ yên!
Nói xong, anh giả vờ chán ngán cách tỏ lòng hâm mộ tuy anh rất thích. Rồi bằng những bắp thịt lực sĩ của mình anh đẩy người này, gạt người khác, mở một lối đi và nhẩy ba bốn bậc một lên cầu thang với điệu bộ nhanh nhẹn của một giáo sư thể dục. Còn các nhân viên khách sạn chẳng nể nang gì nữa, liền kịch liệt đuổi bọn hạ lưu này ra ngoài đường.
Gađacđô đi ngang qua cửa phòng của Garabatô. Qua cánh cửa mở hé anh trông thấy người hầu của anh đứng giữa một hòm xiểng đang chuẩn bị quần áo đấu bò cho anh.
Cuối cùng, khi anh vào đứng một mình ở trong phòng mình, anh đột nhiên cảm thấy tiêu tan niềm phấn chấn mà nhiệt tình của công chúng đã gây ra trong lòng anh. Những phút tệ hại nhất của ngày đấu đã tới, những phút bồn chồn trước lúc lên đường đến đấu trường. Những con bò mộng hôm nay là bò trại Miura(Miura (Đara Êđuacđô Miura: một chủ trại bò mộng, chuyên nuôi những con nổi tiếng hung dữ) và công chúng hôm nay là công chúng Madrit! Sự nguy hiểm chẳng bao lâu nữa sẽ tới gần. Dường như ban nãy, nó làm cho anh say sưa và thêm can đảm, nhưng lúc này nó lại làm cho anh lo ngại ngay từ phút đầu anh đứng một mình, tựa hồ có một cái gì vô hình, khủng khiếp vì trạng thái hồi hộp của chính bản thân anh.
Anh cảm thấy rã rời dường như những sự mệt nhọc của các đêm thiếu ngủ vừa qua đột nhiên đè ép người anh. Anh thấy thèm ngả lưng lên một trong mấy giường ở cuối phòng nhưng, một lần nữa, mối lo lắng mà buổi chiều bất trắc và bí mật này gây ra, lại xua tan cơn buồn ngủ.
Anh đi đi lại lại trong phòng, châm một điếu xì gà Havan khác vào đầu điếu thuốc anh vừa mới hút hết. Mùa đấu này ở Madrit sẽ ra sao đối với anh? Các kẻ thù của anh sẽ nói gì? Các địch thủ trong nghề của anh sẽ làm ăn thế nào? Cho tới nay anh đã hạ sát nhiều bò của trại Miura và nói tóm lại chúng cũng chẳng khác gì những con bò mộng khác. Tuy nhiên, anh không thể không nghĩ tới những người bạn đã gục ngã trên đấu trường, hầu hết đều là nạn nhân của những con bò trại đó. Giống bò Miura yêu quái thật ! Không phải vô cớ mà trong hợp đồng, anh cũng như các matađo khác đều đòi thêm một nghìn pêxêta mỗi lần đấu với loại bò ấy.
Anh tiếp tục đi đi lại lại trong phòng, lòng bứt rứt. Đôi lúc anh dừng bước thẫn thờ nhìn một vật nào đó nằm ở mớ hành lý, rồi đột nhiên, anh cảm thấy tinh thần suy sụp, anh buông mình xuống một chiếc ghế bành. Anh nhìn đồng hồ nhiều lần: vẫn chưa đến hai giờ. Chẳng lẽ thời gian ngừng trôi rồi sao?
Anh mong chóng tới giây phút mặc quần áo và ra đấu trường, coi đó như một phương thuốc cho thần kinh anh: vì đám đông, tiếng ầm ĩ, sự tò mò của công chúng ý muốn tỏ ra mình thanh thản và nhanh nhẹn, và nhất là sự tiếp cận với nguy hiểm hữu hình và thực sự lập tức sẽ xua tan nỗi lo lắng gần như sợ hãi xuất hiện khi anh đứng một mình thiếu những nhân tố kích thích động viên từ bên ngoài.
Để giải khuây, anh rút từ túi trong áo vét tông ra một chiếc phong bì nhỏ, nhẹ, tỏa một mùi thơm dịu. Đứng bên một cửa sổ, qua đó ánh sáng mờ nhạt từ ngoài sân lọt vào, anh ngắm nghía chiếc phong bì mà người ta trao cho anh khi anh mới tới khách sạn, và anh thán phục vẻ thanh lịch của những dòng chữ nhỏ nhắn xinh xẻo đề địa chỉ. Rồi anh mở lá thư. Từ đó anh hít một cách khoái chí cái mùi hương say đắm ấy. Trời! Những người phụ nữ đại quý tộc đã đi nhiều nơi này! Vẻ cao quí không thể bắt chước được của họ thể hiện trong nhiều chi tiết nhỏ nhặt nhất!
Bản thân Gađacđô cũng xức nước hoa quá nhiều, dường như thân thể của anh vẫn còn giữ mùi cay đắng của thời niên thiếu nghèo khổ. Các kẻ thù của anh thường chế giễu anh chàng thanh niên lực sĩ thơm phức như một cô gái giang hồ này. Còn các bạn của anh thì mỉm cười trước nhược điểm ấy, nhưng đôi khi họ cũng phải quay mặt đi vì mùi thơm xông lên mạnh quá làm họ phát ớn. Anh đi đâu cũng như đem theo cả một tiệm nước hoa. Khi anh ra bãi đấu người anh cũng thơm nức mùi nước hoa phụ nữ giữa những con bò chết, những mớ ruột gan vung vãi, những đống phân dính máu. Mấy cô gái ăn chơi có cảm tình với anh, quen anh trong một chuyến anh sang miền Nam nước Pháp, đã truyền cho anh bí quyết pha chế vài thứ nước hoa đặc biệt. Nhưng vẫn không có gì so sánh nổi với thứ hương thơm của lá thư vừa ngát vừa dịu, vừa huyền ảo vừa rất đượm, cùng loại với thứ nước hoa thường dùng của người phụ nữ viết thư cho anh, một thứ nước hoa kỳ lạ, tuyệt diệu và không thể tả được hình như toát ra từ da thịt của người quí phái và anh gọi là "mùi thơm của các phu nhân".
Anh đọc đi đọc lại lá thư, miệng mở một nụ cười khoái lạc và kiêu hãnh. Thật ra lá thư có nhiều nhặn gì: dăm dòng chữ, một lời chào gửi từ Xêvilơ mấy câu chúc tụng nhân mùa đấu ở Madrit mong anh sẽ đạt nhiều thành tích rực rỡ. Một lá thư như thế người ta có thể để thất lạc mà không phiền lụy gì cho người phụ nữ đã viết: Mở đầu là "Thưa ông Gađacđô thân mến" và cuối cùng là "Bạn ông: Xôn". Từ đầu đến cuối viết bằng một thứ chữ xinh xắn hình như mơn trớn con mắt anh matađo, bằng một giọng tử tế nhưng không thân mật, một giọng lịch thiệp của người bề trên hạ cố nói với người bề dưới.
Trong khi đọc lại bức thư với thái độ kính cẩn của người thứ dân không thông thạo phép đọc, Gađacđô không thể không cảm thấy khó chịu như mình bị khinh thường.
- Cô ả này! - anh lẩm bẩm - thật là một người phụ nữ ghê gớm! Chẳng chút ngượng nghịu! Dám gọi mình là "ông"!...
Nhưng rồi nhớ lại những kỷ niệm êm ái anh mỉm cười khoái chí. Giọng thư lạnh lùng chỉ vì đây là thư từ: một thói quen của các bà lớn, một sự thận trọng của các bà đại sứ đã đi khắp thế giới. Tóm lại, anh matađo không thấy khó chịu nữa mà chỉ thấy cảm phục.
- Cô ả này mới khôn ngoan làm sao! Láu cá thật!... Nụ cười này của anh biểu hiện một sự thỏa mãn và hãnh diện có tính chất nghề nghiệp, sự hãnh diện của một người dạy thú dữ ca ngợi chính mình khi ca ngợi sức mạnh của con vật mà mình chinh phục được. Trong khi Gađacđô ngắm bức thư, người hầu của anh, Garabatô đi đi lại lại, mang tới nhiều quần áo, bao hộp và đặt tất cả lên giường.
Garabatô là một người có những cử động lặng lẽ, đôi tay khéo léo. Chú hình như không nhận thấy sự có mặt của anh matađo. Từ nhiều năm nay chú đi theo Gađacđô trong các cuộc hành trình với tư cách người đầy tớ mang kiếm. Xưa kia chú đã từng bắt đầu đấu bò trong những cuộc capêa() Capêa: một loại đấu, trong đó người đấu chỉ múa áo choàng để rỡn bò, chứ không được dùng kiếm để giết nó) với Gađacđô trên những bãi đấu vùng Xêvilơ, nhưng trong các cuộc đấu đó, mọi rủi ro đều rơi vào đầu chú, còn mỗi thắng lợi và lời ca ngợi thì về phần bạn chú hưởng cả. Chú có khổ người thấp bé, nước da xanh tái, gân cốt không chắc. Một vết sẹo ngoằn ngoèo, không kín miệng đã tạo thành một vệt trăng trắng trên khuôn mặt dăn deo và gầy guộc của chú. Cái sẹo ấy là do chú bị bò húc gần chết trên bãi đấu của một tỉnh nhỏ. Ngoài vết thương khủng khiếp đó, chú còn bị nhiều vết khác làm biến dạng nhiều bộ phận kín của thân thể chú. Điều đau đớn nhất cho chú trong thời kỳ ấy là mọi người cười những rủi ro của chú và lấy làm thích thú mỗi khi thấy chú bị bò xéo lên và xé rách người.
Nhưng thật kỳ lạ, bao giờ chú cũng qua khỏi sau những nạn đó. Cuối cùng vì chú cứ vụng về mãi nên chú đành chịu thua số phận không ra gì. Và đành làm đầy tớ bạn cũ, một người đầy tớ thân tín mà chủ đi đâu cũng đi theo. Chú là người hâm mộ nhiệt thành Gađacđô nhất mặc dầu chú đã phần nào lạm dụng tình thân để trách móc và chê bai chủ. Chú nói: "Chú mà ở vào địa vị của chủ trong trường hợp này hoặc trường hợp nọ, nhất định chú sẽ làm được hơn".
Các bạn hữu của Gađacđô dựa vào những tham vọng không thành của chú mà chế giễu chú, nhưng chú vẫn dửng dưng trước những lời nhạo báng ấy. Từ bỏ môn đấu bò ư? Không đời nào! Để khỏi thủ tiêu hoàn toàn kỷ niệm về quá khứ của mình, chú để mái tóc mai rễ tre bóng nhẫy của chú vòng xuống ở bên tai, và chú vẫn bảo tồn sau đỉnh đầu cái nạm tóc chí tôn, cái côlêta(Côlêta: nạm tóc dài và tết của những người đấu bò để mọc ở phía sau đỉnh đầu) của thời trẻ, cái phù hiệu cao quý phân biệt chú với những kẻ phàm tục khác.
Khi nào anh matađo nóng tính giận chú điều gì, anh đều nhằm vào cái nạm tóc trang điểm ấy để bộc lộ ra mặt cơn thịnh nộ.
- Thằng trơ trẽn này, mày dám để côlêta à? Tao thì cắt ngay nó đi, thằng đấu bò mạt hạng kia!
Garabatô nhẫn nhục nghe những lời xỉ vả ấy, chú trả thù bằng thái độ im lặng của người bậc trên, chú chỉ nhún vai khi Gađacđô từ bãi đấu trở về sau một trận đấu tốt đẹp vui vẻ hỏi chú một cách huênh hoang trẻ con:
- Thế nào mày thấy hôm nay tao đấu thế nào? Tốt, có phải không?
Tình bạn thời trẻ còn để lại cho Garabatô đặc quyền xưng hô "cậu cậu tớ tớ" với chủ. Chú không thể nào xưng hô khác đi với Gađacđô, nhưng tiếng "cậu" của chú bao giờ cũng kèm theo một cử chỉ nghiêm trang, một biểu hiện kính cẩn ngây thơ. Thái độ của chú giống thái độ của những kỵ sĩ tùy tùng thời xưa đối với người hiệp sĩ giang hồ chủ của họ.
Là người đấu bò từ đỉnh đầu đến gáy, nhưng ở những bộ phận khác của con người thì chú lại có vẻ vừa là một anh thợ may vừa là một người hầu. Chú mặc một bộ complê bằng dạ Anh của chủ cho, chú cài không biết bao nhiêu là đinh ghim trên ve áo và nhiều chiếc kim luồn sẵn chỉ trên ống tay. Đôi bàn tay khô khốc và rám nâu của chú chạm vào đâu, sửa cái gì cũng khéo kéo như tay phụ nữ.
Sau khi đặt lên giường mọi đồ trang phục của Gađacđô, chú kiểm tra lại các thứ linh tinh ấy, xem có thiếu gì không. Rồi chú đứng ở giữa phòng nói mà không nhìn chủ như một người nói một mình, với giọng khàn khàn và cấm cẩu:
- Hai giờ!
Gađacđô đột nhiên ngẩng đầu, dường như trước lúc đó anh không nhìn thấy người hầu của mình. Anh cất lá thư vào trong túi, chậm chạp bước về phía cuối phòng có lẽ vì muốn kéo lui cái giờ phút mặc quần áo.
- Xong cả rồi chứ? Anh hỏi.
Nhưng anh bỗng giật mình, bộ mặt tái nhợt của anh đỏ lên, cặp mắt anh mở to quá đỗi. Trông anh có vẻ một người choáng váng vì phát hiện ra một cái gì kinh khủng.
- Mày chuẩn bị cho tao bộ quần áo nào?
Garabatô chỉ lên giường. Nhưng chú chưa nói được lời nào thì chủ của chú đã nổi cơn thịnh nộ:
- Trời ơi là trời! Mày không biết tý gì về công việc của mày à? Phải chăng mày mới ra tỉnh? Một cuộc đấu ở Madrit với những con bò Miura, thế mà mày lấy cho tao một bộ quần áo màu đỏ? Cái màu quần áo của cậu "Manuen Bán chiếu"( Manuen Bán chiếu: tên một matađo Tây Ban Nha danh tiếng, bị bò húc chết ở đấu trường Madrit) chết dạo trước à? Đồ ba que, mày còn tệ hơn kẻ thù của tao kia đấy! Mày muốn tao chết ư?
Gađacđô càng ngẫm nghĩ thấy sự vô ý ấy nghiêm trọng bao nhiêu thì càng tức giận bấy nhiêu, vì đó thật là một sự thách thức số mệnh. Ai lại đi đấu bò ở Madrit với một bộ quần áo màu đỏ, sau chuyện xẩy ra dạo trước! Mắt anh căm tức long lên sòng sọc y như có người định hại ngầm anh, con ngươi của anh nẩy lửa y như anh sắp nhảy bổ lên người Garabatô để nện cho chú một trận bằng đôi tay matađo hộ pháp.
Một tiếng gõ nhẹ vào cánh cửa chấm dứt cảnh tượng này.
- Cứ vào!
Người bước vào là một người trẻ tuổi bận quần áo màu nhạt, thắt ca-vát đỏ, cầm một cái mũ dạ xứ Coócđu, ngón tay lấp lánh mấy cái nhẫn kim cương to tướng. Gađacđô nhận ra người này ngay, nhờ tài nhớ mặt mau lẹ của những ai buộc phải luôn luôn quan hệ với quần chúng. Thế là đột nhiên anh chuyển từ thái độ giận dữ sang thái độ thân ái tươi tỉnh, y như việc đến thăm này là một sự bất ngờ rất thú vị đối với anh. Đây là một người bạn ở Binbao, hâm mộ môn đấu bò và nhiệt tình ủng hộ anh. Đó là tất cả những cái mà anh matađo nhớ được về người bạn đó. Còn tên người ấy là gì thì anh không nhớ. Có điều chắc chắn đối với anh là anh phải xưng hô cậu cậu tớ tớ với người ấy vì hai bên là bạn cũ của nhau.
- Cậu ngồi xuống đây. Thật không ngờ! Cậu tới
Madrit từ bao giờ? Tình hình ở nhà cậu tốt cả chứ? Người hâm mộ Gađacđô ngồi xuống với sự khoái chí của một tín đồ được vào tới thánh cung của vị thần mình sùng bái và quyết tâm ở lì đấy đến phút cuối cùng. Hắn sung sướng được xưng hô cậu cậu tớ tớ với "bậc anh tài" mà hắn luôn luôn gọi bằng tên tục như để cho bàn ghế, tường vách và những người qua lại trong hành lang hiểu rõ là hắn quen thân bậc vĩ nhân ấy. Hắn từ Binbao tới sáng nay và hắn lại trở về đó ngay ngày mai. Hắn đi chuyến này cốt chỉ để gặp "Huan". Hắn xem báo nói về những thắng lợi kỳ diệu của "bậc anh tài" ấy. Mùa đấu này bắt đầu tốt đẹp. Cuộc đấu hôm nay sẽ hay. Sáng nay hắn đã xem phân chia bò vào các lô, hắn chú ý đến một con có bộ lông màu nâu xẫm, chắc chắn nó sẽ trả miếng ra trò trong tay Gađacđô.
Anh matađo hấp tấp cắt ngang lời tiên đoán của người hâm mộ đó:
- Xin lỗi cậu. Tớ ra ngoài một phút.
Nói đoạn anh ra khỏi phòng, đi về phía một cái cửa nhỏ không mang số ở cuối hành lang. Nhưng Garabatô ngăn anh lại và hỏi anh, giọng càng khàn đi vì chú muốn tỏ ra biết vâng lời chủ:
- Tớ phải chuẩn bị cho cậu bộ nào?
- Bộ xanh lá cây, bộ xanh lơ hoặc bộ nâu... Tùy mày.
Rồi anh biến mất sau cánh cửa nhỏ. Anh vừa đi khuất thì Garabatô mỉm cười hóm hỉnh ra vẻ đã báo được thù. Chú thừa hiểu vì sao Gađacđô vội bỏ chạy vào lúc mặc quần áo: đó là do anh "sợ vãi đái" như những người trong nghề thường nói. Nụ cười của chú biểu hiện nỗi vui thích của một người hầu nhận thấy thêm một lần nữa rằng những bậc vĩ nhân trong nghề, dũng cảm có thừa, bản thân họ vẫn có những mối lo sợ do sự cảm động gây ra, giống hệt chú trong thời kỳ chú còn đấu ở mấy bãi tỉnh nhỏ.
Một lát sau, khi Gađacđô trở về phòng, anh thấy một người khách nữa. Đó là bác sĩ Ruix, người thầy thuốc vẫn ký các biên bản y tế và chữa các đấu sĩ bị thương ở đấu trường Madrit từ ba mươi năm nay. Gađacđô kính phục ông, coi ông như người đại diện xứng đáng nhất của nền khoa học tổng hợp, song anh hay nói đùa một cách thân ái về tình hình quá tốt và cách ăn mặc quá cẩu thả của ông. Sự kính phục của anh là sự kính phục của lớp thường dân cho rằng những nhà thông thái nhất định phải ăn mặc lôi thôi và tính khí kỳ cục khác hẳn mọi người.
Bác sĩ Ruix, người béo lùn, bụng phệ, mặt to, mũi tẹt, chòm râu quai nón ngà ngà khiến ông hao hao giống Xôcrat. Khi ông đứng, cái bụng phệ cứ theo từng lời nói của ông mà nẩy lên trong chiếc áo gi-lê rộng thùng thình, và khi ông ngồi, cũng cái vùng đó của cơ thể ông, lại dâng lên tận ngực. Quần áo của ông bẩn thỉu và nhàu nát vì mặc nhiều ngày, lụng thụng như quần áo của người khác đối với thân hình không cân đối của ông, béo phị ở những bộ phận dành cho tiêu hóa và khẳng khiu ở những bộ phận dành cho cử động.
- Ông ấy thật là ngốc! - Gađacđô nói - Thông thái - đúng thế - hiền như bụt, nhưng gàn ơi là gàn! Không bao giờ ông ấy có được một đồng Pêxêta. Có cái gì là sẵn sàng cho ngay, và ai muốn trả bao nhiêu cũng nhận...
Ngoài việc mê đấu bò, bác sĩ Ruix còn mê cách mạng, một thứ cách mạng mơ hồ, dữ dội, sớm muộn sẽ phải nổ ra và sẽ không để cho bất kỳ một thể chế hiện hành nào ở Châu Âu đứng nổi. Đó là giấc mơ về một nền cộng hòa vô chính phủ mà ông chẳng chịu giải thích, chỉ biết rõ ràng rằng nó gồm những sự phủ định có tính chất hủy diệt.
Những người đấu bò coi ông Ruix như bố. Còn ông thì ăn nói thân mật với tất cả bọn họ; và chỉ cần nhận được một bức điện đánh từ bất cứ nơi nào trên bán đảo là lập tức ông bác sĩ nhân hậu ấy lên ngay xe lửa đi chữa cho một "cậu" bị bò húc, với số tiền thù lao bao nhiêu cũng xong.
Gặp lại Gađacđô sau một thời gian xa cách dài, ông ôm hôn anh, áp cái bụng sệ của ông vào mình đồng da sắt của anh. Hoan hô những chàng trai dũng cảm! Ông thấy khí sắc anh matađo tươi đẹp hơn bất cứ hồi nào.
- Thế nào, câu chuyện nước Cộng hòa đến đâu rồi bác sĩ? Gađacđô hỏi với vẻ mặt thản nhiên của người Øngđalu. Bao giờ thì tuyên bố thành lập đấy? Người Quốc dân có cho biết rằng nó sắp ra đời rồi chỉ một sớm một chiều thôi!
- Con người thích bông phèng, cậu thì cần gì việc đó chứ! Thôi cậu hãy để cho Người Quốc dân tội nghiệp được yên thân. Đối với hắn, tốt hơn hết là cắm những cặp banđêri cho khéo hơn nữa. Còn cậu, Gađacđô ạ, điều duy nhất mà cậu nên quan tâm là tiếp tục hạ sát bò mộng như Đức Chúa Trời... Này, hình như cuộc đấu chiều nay sẽ hay lắm. Tớ nghe nói rằng những con bò...
Đến đây, người khách trẻ tuổi ở Binbao, người đã được xem chia bò vào các lô và rất muốn cung cấp tin tức, ngắt lời ông bác sĩ để nói về một con bò lông màu nâu sẫm "đã lọt vào mắt anh" và chắc sẽ đấu rất hay. Bác sĩ Ruix và người trẻ tuổi ở Binbao, sau cái bắt tay, đã cùng ngồi đối diện nhau rất lâu ở trong phòng mà chưa hề nói với nhau một lời nào. Gađacđô thấy lúc này cần phải giới thiệu hai bên. Khốn nỗi anh không nhớ tên cái anh bạn mà anh xưng hô cậu cậu tớ tớ ấy. Anh gãi tai, nhíu lông mày, nghĩ một lúc. Nhưng anh trù trừ không lâu. Anh nói:
- Này cậu, tên cậu là gì nhỉ? Cậu tha lỗi cho tớ nhé! Cậu hiểu cho với biết bao nhiêu con người...
Người trẻ tuổi mỉm cười giấu nỗi chán ngán thấy mình bị "tôn sư" quên tên. Hắn xưng danh. Vừa nghe tên hắn, Gađacđô cảm thấy quá khứ đột nhiên tái hiện trong trí nhớ, và anh chữa lỗi lãng quên bằng cách thêm vào tên anh ta: "một ông chủ mỏ giàu có ở Binbao". Rồi anh giới thiệu "bác sĩ lừng danh Ruix". Lập tức hai nhà hâm mộ đấu bò, như thể đã quen nhau từ lâu lắm, xích lại gần nhau do một mối nhiệt tình chung, bắt đầu trao đổi ý kiến về những con vật sẽ đấu chiều nay.
- Mời hai vị ngồi xuống kia, Gađacđô vừa nói vừa chỉ cái ghế xôfa đặt ở cuối gian phòng. Ngồi đó, hai vị không còn lo quấy rầy ai. Hai vị cứ nói chuyện với nhau đi, đừng bận tâm đến tôi. Tôi phải mặc quần áo. Đàn ông đàn ang với nhau cả mà...
Gađacđô cởi áo vét-tông và áo gi-lê, chỉ còn mặc nguyên chiếc sơ mi. Ngồi trên một cái ghế, ở giữa cái cửa vòm nhỏ ngăn phòng khách nhỏ với phòng trong, anh phó thác thân thể anh cho đôi bàn tay của Garabatô; lúc ấy chú này đã mở một cái bao bằng da nước Nga và rút ra một bộ đồ hầu như của phụ nữ để trang điểm cho Gađacđô.
Mặc dầu Gađacđô đã cạo râu kỹ lưỡng, Garabatô vẫn xát xà phòng một lần nữa và cạo mặt cho anh, nhanh nhẹn như một người ngày nào cũng làm công việc đó. Gađacđô, sau khi rửa mặt, lại ngồi lên ghế. Người hầu của anh bèn tẩm đẫm sáp thơm và nước hoa lên mái tóc anh, xếp nó thành từng vòng trên trán và thái dương rồi bắt đầu sửa sang cái biểu trưng nghề nghiệp tức là cái côlêta vô cùng tôn quý. Garabatô kính cẩn chải và tết nạm tóc dài mọc trên đỉnh đầu chủ. Chú bỗng ngừng tay, vắt ngọn nạm tóc lên, gài nó vào đỉnh đầu bằng hai cái cặp tóc rồi ngừng công việc đó để chốc nữa sẽ làm nốt. Bây giờ chú còn phải sửa soạn cho đôi chân của chủ. Chú cởi quần dài và bít tất của Gađacđô ra, chỉ còn để lại trên người anh cái áo may ô và cái quần đùi bằng lụa thêu. Những bắp thịt cường tráng của Gađacđô nổi lên ở dưới lớp vải thành những múi khỏe mạnh. Đùi anh có một chỗ lõm sâu: một cái sẹo do bò húc. Mấy vệt trăng trắng che giấu những thương tích cũ để lại trên nước da nâu đôi cánh tay anh. Bộ ngực anh màu hung hung và không có lông hằn lên hai vạch không đều và tím bầm chạy ngang cũng nhắc lại những giai đoạn đẫm máu khác. Ở mắt cá chân anh, da lõm xuống như mang dấu một đồng tiền, màu đo đỏ. Cái cơ thể chiến đấu này tiết ra một mùi da thịt lành mạnh và hùng dũng pha lẫn mùi hương thơm nức của phụ nữ.
Garabatô, một tay ôm đầy bông băng trắng toát, quỳ xuống dưới chân chủ:
- Y như một đấu sĩ thời cổ đại! Bác sĩ Ruix kêu lên, ngừng nói chuyện với người chủ mỏ ở Binbao. Trông kìa, cậu đã trở thành người La Mã rồi đấy, Huan ạ!
- Tại tuổi tác đấy, bác sĩ ạ! Anh matađo đáp với vẻ buồn buồn. Chúng ta già đi. Xưa kia, khi tôi còn phải đấu cả với bò mộng lẫn ma đói, tôi đâu có cần tất cả những thứ này. Cặp chân tôi mạnh chắc và dẻo dai trong những lúc làm động tác với áo choàng ấy chứ! Garabatô nhét từng nắm bông nhỏ vào giữa những ngón chân của chủ, phủ bông lên lòng bàn chân và cổ chân thành những mảng của cái vỏ bọc mềm mại này, và quấn băng thành những vòng trôn ốc siết chặt giống những cái vòng quấn các xác ướp cổ Ai Cập. Sau đó anh lấy kim đã luồn sẵn chỉ gài ở tay áo anh, khâu kỹ càng những đầu dải băng lại.
Gađacđô nện xuống đất hai bàn chân trông có vẻ chắc chắn hơn vì được bọc kỹ. Anh cảm thấy khi chúng được nén chặt như thế, chúng thành mạnh mẽ và nhanh nhẹn. Rồi Garabatô luồn chúng vào đôi bít tất dài đến tận nửa đùi. Đó là những đôi bít tất dày dặn và mềm mại, giống như đôi ủng, cái bảo vệ duy nhất của chân anh dưới lớp quần áo chiến đấu bằng lụa.
- Đừng để có nếp nhăn nhé, anh nói. Mày biết đấy, tao không thích bít tất nhăn nhúm đâu.
Anh ra đứng trước gương, ngắm mình hết đằng trước đến đằng sau, cúi người vuốt tay lên đùi để kéo phẳng các nếp nhăn. Bên ngoài đôi bít tất trắng, Garabatô còn lồng cho chủ một đôi bít tất lụa hồng che lấp hoàn toàn đôi trước. Rồi Gađacđô xỏ chân vào một đôi giày mỏng mà anh đã chọn trong nhiều đôi xếp trong một cái hòm tất cả đều có đế trắng và chưa dùng bao giờ.
Bây giờ mới bắt đầu cái giai đoạn khó khăn nhất của việc mặc quần áo. Garabatô cầm phía trên một cái quần cộc chẽn bằng lụa màu hung thêu kim tuyến chằng chịt ở những đường khâu, mở phanh nó ra rồi giơ cho chủ xỏ chân vào. Những cái dải rút buộc ống quần cụt có quả kim tuyến ở đầu, buông lủng lẳng trên đôi bàn chân anh. Gađacđô bảo người hầu néo thật chặt các dải lại, đồng thời anh lên gân đùi. Công việc đó rất quan trọng vì người matađo cần phải thắt thật chặt. Sau khi chỗ thắt dải rút bị che khuất ở mép dưới quần, Garabatô tết nó thành những dây tua tủa nhỏ lủng lẳng rất mỹ thuật.
Tiếp đó, Garabatô đưa cho chủ một cái áo sơ mi bằng vải mỏng mịn và trong suốt như sơ mi phụ nữ, ở cổ áo có dải ren chếp nếp thành những hình ống. Chú cài khuy áo, thắt ca-vát thành một vệt dài đỏ rực chạy từ trên xuống dưới yếm áo và lẩn vào trong quần cụt.
Còn lại một phần quần áo cần mặc hết sức cẩn thận. Đó là cái thắt lưng dài ít nhất bốn mét hầu như làm ngập cả gian phòng. Garabatô sử dụng nó khéo léo lạ thường nhờ quen tay.
Anh matađo tới đứng ở một đầu gian phòng gần các bạn anh rồi anh nhét một đầu thắt lưng vào phía trên quần.
- Cẩn thận đấy! Mày phải khéo léo một chút đấy! Anh bảo người hầu.
Rồi anh từ từ xoay tròn người trên gót chân, tiến dần về phía Garabatô trong khi chú này cầm đầu kia của thắt lưng khiến nó quấn quanh thân người anh matađo thành những vòng tròn đều đặn. Bằng những động tác lanh lẹ của bàn tay, chú luôn luôn thay đổi vị trí của dải lụa làm cho nó khi thì gập đôi khi thì căng nguyên khổ, nhưng lúc nào cũng ăn sát vào người không có một vết nhăn vết phồng, nhẵn lì như chỉ có một lớp vải. Trong khi vừa đi vừa xoay tròn người như thế, Gađacđô vốn kỹ tính về vấn đề ăn mặc thỉnh thoảng lại dừng chân, lùi lại hai ba bước để chỉnh lại cái thắt lưng.
- Không phải thế này, anh gắt. Con khỉ! Phải cẩn thận chứ, Garabatô.
Sau nhiều lần dừng lại như vậy, cuối cùng Gađacđô hoàn thành cuộc hành trình là toàn bộ cái thắt lưng đã được quấn gọn vào người anh.
Trước khi đó, người hầu khéo tay của anh đã may nhiều đường chỉ, đính nhiều cây ghim ở khắp nơi, khiến cho tất cả các phần của bộ chiến phục liền lại với nhau thành một thể duy nhất. Muốn cởi bộ chiến phục đó, Gađacđô phải dùng kéo và nhờ tay người khác. Anh không có cách nào trút bỏ bất cứ thứ gì của bộ chiến phục ấy cho tới khi anh về tới khách sạn, trừ trường hợp một con bò lột bỏ nó ra hộ anh ở ngay tại bãi đấu khiến cuối cùng người ta phải cởi nó cho anh tại trạm xá.
Gađacđô lại ngồi xuống ghế và lần thứ hai Garabatô lại lúi húi sửa sang cái côlêta cho anh. Chú tháo các cặp tóc rồi ghép vào côlêta một cái mônha, búi tóc giả làm bằng những dải băng đen hao hao giống bao tóc của những người matađo trong thời kỳ đầu của lịch sử đấu bò mộng.
Gađacđô hình như chưa muốn giam mình hoàn toàn trong bộ chiến phục nên anh vươn vai, bảo Garabatô đi lấy cho anh điếu xì gà trên bàn ngủ, hỏi giờ và có vẻ nghi ngờ rằng đồng hồ nào chạy cũng nhanh cả.
- Còn sớm quá! Anh nói. Vả lại các cậu trong đội đã tới đâu... Mình không thích đến bãi sớm quá. Phải chờ đợi thì khó chịu vô cùng.
Nhưng một người hầu của khách sạn vào bảo rằng xe ngựa chở các đội viên của Gađacđô đã tới chờ ở trước nhà. Giờ đi đã tới. Không thể viện lý do gì để trì hoãn lúc lên đường được nữa. Gađacđô mặc ra ngoài thắt lưng một cái áo gilê có ngù kim tuyến. Ngoài áo gilê, anh mặc một cái áo vét-tông lộng lẫy với những đường thêu nổi và to, nặng như một cái áo giáp và đỏ rực như một lò than hồng. Màu lụa hung hung chỉ thoáng trông thấy ở phía trong ống tay và ở hai hình tam giác trên vai, còn ở tất cả những chỗ khác nó bị lấp dưới một lớp nẹp cài áo và hình cành lá thêu kim tuyến dày cộp cùng những đóa hoa có cánh làm bằng những hòn ngọc đủ màu sắc. Các cầu giảm đau nếu người matađo bị ngã vai được trang điểm bằng những hình thêu chỉ vàng to sụ. Các mép của nó cũng thêu kim tuyến và treo hàng chùm búp tơ vàng nhỏ rung rinh theo bước chân đi. Ở các cửa túi thò ra đầu hai cái khăn quàng lụa cũng đỏ rực như ca-vát và thắt lưng của anh.
- Đưa mũ chiến đây!
Garabatô thận trọng lấy trong một cái hộp hình bầu dục ra một cái mũ ống màu đen và xoăn có hai tai phòng lên ở hai bên để trang trí. Gađacđô đội mũ, cẩn thận để búi tóc giả lòi ra và treo đúng giữa hai vai.
- Đưa áo choàng đây!
Garabatô lấy trên lưng ghế cái áo choàng diễu hành rất sang, cái áo choàng quý giá bằng lụa ngày hội cùng màu với toàn bộ quần áo và cũng thêu kim tuyến rất công phu. Gađacđô khoác nó lên vai rồi soi gương, thỏa mãn về việc chuẩn bị. Quả thật trông anh rất oai. Thôi bây giờ thì ra bãi!
Hai người bạn vội vã cáo từ để đi kiếm xe theo anh ra đấu trường. Garabatô cắp một bọc vải đỏ to để thò ra ngoài những cái chuôi và đầu bao của mấy thanh kiếm.
Xuống tới phòng ngoài của khách sạn, Gađacđô thấy chật cứng ở cửa ra vào một đám đông ồn ào tựa hồ có một sự kiện quan trọng nào vừa mới xẩy ra. Anh còn nghe thấy tiếng lao xao của một đám đông khác mà anh không trông thấy vì nó tập trung ngoài phố, ở bên phải và bên trái cổng xe. Ông chủ khách sạn cùng gia đình ông chạy vội tới, tất cả đều giang rộng cánh tay như để từ biệt Gađacđô lên đường đi xa.
- May mắn nhé ! Đại thắng nhé!
Bọn hầu trai, phấn khởi đến quên cả sự cách biệt, cũng bắt tay anh:
- Ngài Huan, may mắn nhé!
Anh quay mặt ra bốn phía, mỉm cười không chú ý đến vẻ mặt đầy lo lắng của các nữ nhân viên khách sạn.
- Cảm ơn lắm, cảm ơn lắm! Lát nữa sẽ gặp lại! Anh trở thành một người khác hẳn. Từ khi anh vắt
lên vai cái áo choàng lộng lẫy, một nụ cười bình tĩnh làm nét mặt anh sáng hẳn ra. Da mặt anh tai tái nhơm nhớp như da mặt người ốm, nhưng anh cười khoái trá vì được sống và được đến với công chúng. Anh thay đổi vẻ mặt một cách dễ dàng do bản năng, như những người cần lấy dáng khi đứng trước công chúng. Anh ưỡn ngực một cách ngạo nghễ, miệng nhả điếu xì-gà cầm trong tay trái, vừa đi vừa lắc lư cái áo choàng sang trọng, bước vững chãi với vẻ tin tưởng của một người đẹp trai biết rằng thiên hạ đang trầm trồ khen mình.
- Xin lỗi các vị, cho tôi đi nào!... Cảm ơn lắm, cảm ơn lắm!
Anh cố giữ cho quần áo khỏi bị bẩn trong khi lên giữa đám đông ăn mặc rách rưới nhưng phấn khởi đang chen nhau ở trước cửa. Họ không có tiền đi xem nhưng họ tranh thủ dịp này để bắt tay người matađo lừng lẫy hoặc ít nhất cũng sờ được vào vạt áo anh.
Bên vỉa hè, một chiếc xe đang chờ anh, có bốn con la cương thắng lịch sự, đeo đầy những quả ngù và lục lạc. Garabatô đã tót lên bên người đánh xe từ bao giờ, với cái gói đựng mulêta(Mulêta: Mảnh vải đỏ hình vuông buộc vào một cái gậy dài khoảng 75cm, dùng để nhử và lừa con bò mộng) và kiếm. Ngồi trong xe là ba đấu sĩ đặt áo choàng trên đầu gối, mặc những bộ quần áo cũng rực rỡ và thêu chằng chịt như quần áo của người đội trưởng, chỉ khác là quần áo của họ thêu bằng chỉ bạc.
Gađacđô bị xô đẩy giữa đám người hâm mộ, buộc phải dùng khuỷu tay để chống đỡ những bàn tay khao khát quá. Cuối cùng anh tới được bên bậc lên xuống và đám đông nhiệt tình giúp anh leo lên xe bằng những cái xô đẩy dữ dội vào lưng anh.
- Chào các cậu! Anh nói vắn tắt với các đội viên của mình.
Rồi để tất cả mọi người có thể dễ dàng trông thấy anh, anh ngồi xuống cái ghế sau gần bậc lên xuống, mỉm cười và gật đầu đáp lại những tiếng kêu gọi của vài phụ nữ ăn mặc rách rưới và tiếng hoan hô do bọn trẻ bán báo khởi đầu.
Mấy con la dũng mãnh kéo chiếc xe phòng đi vùn vụt, trong tiếng lục lạc leng keng vang khắp phố. Dân chúng giãn ra cho xe qua nhưng một số người lại xông tới, dường như họ muốn lao mình vào bánh xe. Ai nấy run rẩy: đó là một sự phấn khích có tính truyền nhiễm thường làm công chúng trong một lúc nào đó bỗng nhiên rung động điên cuồng và gào lên nhất loạt mà không hiểu vì sao.
- Hoan hô những con người dũng cảm. Tổ quốc Tây Ban Nha muôn năm!
Gađacđô vẫn mỉm cười nhưng mặt tái nhợt. Anh tiếp tục chào mọi người và nhắc đi nhắc lại: "Cảm ơn lắm!". Tiếng hoan hô làm anh rất xúc động, anh hãnh diện nghe thấy tên mình được gắn liền với tên Tổ quốc.
Một đám trẻ con, cả trai lẫn gái, đầu tóc rũ rượi, chạy như điên theo xe, hình như chúng nghĩ rằng chạy mãi rồi cuối cùng sẽ được xem một cảnh phi thường.
Đã từ một giờ phố Ancala giống như một con sông xe cộ giữa hai bờ khách bộ hành đang vội vã đi về phía ngoại ô. Đủ mọi loại xe, cổ và kim, có mặt trong dòng người tấp nập ồn ào, từ chiếc xe ngựa chở khách cổ lỗ hiện ra như một hiện tượng lỗi thời đến chiếc xe ô tô. Các chuyến tàu điện chật ních, hành khách bám từng xâu trên bậc lên xuống. Các xe ngựa lớn chở khách đón người ở góc phố Xêvilơ, bác lái xe gào to từ trên cao: "Đi bãi đấu đây! Đi bãi đấu đây". Những con la, mình đeo đầy búp vải đỏ, chạy nước kiệu trong tiếng nhạc leng keng vui vẻ, kéo những chiếc xe mui trần chở những bà những cô chùm khăn choàng trắng muốt gài hoa đỏ. Chốc chốc người ta lại nghe thấy những tiếng kêu khủng khiếp: một thằng oắt con nhanh như vượn luồn ra từ giữa các bánh xe mà không việc gì, vọt từ hè bên này sang hè bên kia, bất chấp dòng xe cộ đang phóng nhanh đầy nguy hiểm.
Còi ô-tô rú, các xà ích quát tháo chửi rủa, các người bán chương trình rao to tờ chương trình giới thiệu hình ảnh và lý lịch những con bò mộng sẽ đấu, chân dung và tiểu sử những matađo nổi tiếng. Thỉnh thoảng, trí tò mò của quần chúng lại nổi dậy làm tăng sự ồn ào. Một bọn người oai vệ, mặc quần vàng bó sát đùi, áo ngắn thêu kim tuyến, đôi mũ dạ rộng vành có quai giữ cằm và một búp vải màu to tướng cài ở bên trái mũ làm huy hiệu, diễu qua trên lưng những con ngựa gầy thảm hại, giữa hai hàng cảnh binh da đen của đội cảnh vệ thành. Đó là các picađo(Picađo: thành viên của đội đầu bò mộng, cưỡi ngựa, mang dáo gọi là pica), những kỵ sĩ dữ tợn nom có vẻ rừng rú. Họ chờ trên mông ngựa, sau cái yên cao kiểu Môrơ, một người mặc quần áo đỏ, gọi là "con khỉ thông thái", đó là người lao công của bãi đấu đem ngựa đến cho họ.
Các đội đấu bò đi qua trên xe ngựa mui trần, những bộ quần áo thêu của họ phản ánh nắng chiều rực rỡ làm cho công chúng lóa mắt và hào hứng.
- Đấy, Fuentêx đấy!
- Đấy, Bomba đấy!
Mọi người khoái trí nhận ra như vậy, và tò mò nhìn theo đoàn xe, họ càng rảo bước hình như có một cái gì rất lý thú sắp diễn ra và họ sợ đến muộn quá.
Từ đầu phố Ancala, ta có thể trông thấy suốt chiều dài của con đường thẳng tắp và rộng rãi ấy, trắng xóa dưới ánh nắng, với những hàng cây xanh rờn trong gió xuân, với những bao lơn đen ngòm người đứng, với lòng đường chật ních người đi và vô vàn xe cộ chạy xuống phía bể phun nước Xibêlê. Bắt đầu từ bể đó, phố Ancala lại cao dần lên, giữa hai hàng cây và nhà lớn, rồi đến cuối phố, tầm mắt dừng lại trước cổng Ancala, một thứ khải hoàn môn đứng sừng sững với một lỗ hổng ở giữa, nổi bật trên nền trời xanh điểm mấy đám mây bồng bềnh trôi.
Hình như công chúng có linh cảm rằng đội đấu cuối cùng sắp đi qua để ra bãi đấu. Lúc này, chiếc xe ngựa của Gađacđô không còn có bọn oắt con chạy theo hộ tống nữa, vì chúng đã bị cuốn hút vào trong dòng xe cộ. Tuy nhiên, hình như công chúng cảm thấy rằng người matađo lừng lẫy sắp tới ở sau lưng họ, cho nên họ luôn luôn quay đầu nhìn lại, chốc chốc lại dừng bước, xếp hàng trên bờ hè để trông rõ anh hơn. Trong những chiếc xe đi trước xe Gađacđô, các bà các cô cũng ngoái cổ lại, tiếng lục lạc của chiếc xe anh làm họ chú ý. Thỉnh thoảng lại có tiếng ồn ào trong đám đông đứng trên bờ hè: họ hoan hô nhiệt liệt Gađacđô. Người thì lấy mũ vẫy, người thì giơ cao gậy lên khua tít để chào.
Gađacđô ngồi im lặng, chỉ trả lời bằng một cái nhếch mép bất di bất dịch và hình như anh không còn biết tới những sự hoan hô nhiệt liệt đó. Từ khi anh chào những người banđêridiêrô, anh không nói một tiếng nào nữa. Cả bọn banđêridiêrô cũng im lặng, mặt nhợt nhạt, rất lo sẽ xẩy ra chuyện không may mà họ chưa rõ như thế nào. Họ đều là cánh đấu bò với nhau cả, nên họ thấy chẳng cần làm ra bộ hiên ngang, cái đó chỉ cần thiết khi đứng trước công chúng mà thôi. Ngồi bên cạnh Gađacđô là người pêông(Pêông: thành viên của đội đấu bò, đi bộ, chuyên làm nhiệm vụ múa capêa (áo choàng) hoặc cắm banđêri (xiên). Trong trường hợp thứ nhất người pêông còn gọi là capêađo, trong trường hợp thứ hai còn gọi là banđêridiêrô) tín cẩn của anh được mệnh danh là Người Quốc dân. Bác này nhiều hơn đội trưởng của mình mười tuổi, người cao lớn gân guốc, có cặp lông mày giao nhau và bộ mặt nghiêm nghị. Bác nổi tiếng trong giới đấu bò về lòng trung hậu thẳng thắn và quan điểm chính trị của bác.
Người Quốc dân nói với Gađacđô:
- Này anh Huan, anh sẽ không phải phàn nàn về thành phố Madrit đâu nhé. Anh đã chiếm được lòng công chúng ở đây rồi đấy!
Nhưng dường như không nghe thấy Người Quốc dân nói, và dường như cần phải phát biểu những ý nghĩ khác đang đè nặng lên tâm trí, Gađacđô đáp:
- Tớ có linh cảm rằng chốc nữa sẽ có chuyện xẩy ra...
Đến gần bể phun nước Xibêlê, chiếc xe phải dừng lại. Một đám ma rất to đi từ phía Prađô(Prađô và Caxtêlanha: Prađô là một con đường dạo mát ở phía đông thành phố Madrit, còn Caxtêlanha là một con đường dạo mát khác ở đông bắc thành phố đó) lại và tiến về phía Caxtêlanha, làm gián đoạn dòng xe cộ đang đổ từ phố Ancala tới.
Gađacđô càng tái mặt hơn. Anh giương cặp mắt nhớn nhác nhìn cây thánh giá và những linh mục đi qua. Các linh mục đột nhiên cất tiếng hát một bài thánh ca ảm đạm, đồng thời nhìn bọn người quên Chúa và rong chơi bằng con mắt hằn học ghen tị. Anh matađo vội vàng cất mũ, các chú banđêridiêrô cũng làm theo anh, trừ Người Quốc dân.
Gađacđô hét lên:
- Trời đất ơi, cậu phải cất mũ đi chứ, đồ kẻ cướp! Anh giận dữ nhìn trân trân Người Quốc dân, tựa hồ muốn đánh bác này vì anh tin rằng thái độ vô đạo của bác có thể gây ra cho anh những tai họa ghê gớm nhất.
- Được rồi, tôi cất mũ đây! Người Quốc dân trả lời vùng vằng như một đứa trẻ hay cáu kỉnh, khi cây thánh giá đã đi xa. Tôi cất mũ, nhưng chỉ vì người chết mà thôi.
Đội đấu bò phải đợi lâu, để chờ đám ma dài vô tận đi qua.
- Xúi thật, Gađacđô lẩm bẩm với giọng nói giận run lên. Có ai lại gặp phải đám ma trên đường đi ra bãi đấu như thế này bao giờ không? Tôi đã nói với các cậu rằng thế nào chốc nữa cũng có chuyện không hay xẩy ra mà!
Người Quốc dân mỉm cười, nhún vai:
- Dị đoan và cuồng tín thật! Thiên Chúa hoặc Thiên Nhiên đều chẳng quan tâm đến chuyện nhỏ nhặt này đâu!
Câu nói đó càng làm cho Gađacđô tức giận. Còn các thành viên khác của đội đấu bò thì đều quên cả lo lắng và bắt đầu chế giễu Người Quốc dân cũng như mọi lần khác, khi họ thấy bác ta lên tiếng nói đến mấy tiếng ưa thích của bác: "Thiên Chúa hoặc Thiên Nhiên".
Khi lòng đường không còn vướng nữa, chiếc xe lại tiếp tục chạy theo nước kiệu của mấy con la và vượt lên trước các xe khác cùng tuôn về phía bãi đấu. Tới đây, nó rẽ sang bên phải để vào cái cửa gọi là "cửa chuồng bò" dẫn tới sân nghỉ ngơi và những chuồng bò mộng. Nhưng công chúng đông quá nên đội đấu bò phải đi bộ. Khi Gađacđô và đồng đội bước xuống xe, công chúng lại hoan hô nhiệt liệt. Còn anh thì dùng nắm tay và khuỷu tay thụi huých lia lịa để đám đông khỏi chạm bẩn quần áo. Anh mỉm cười với mọi người nhưng giấu bàn tay phải vì ai cũng muốn bắt tay anh.
- Xin các vị tránh ra cho tôi đi! Cảm ơn lắm!
Khu chuồng bò rộng rãi, nằm giữa hàng rào của bãi đấu và bức tường khu nhà phụ đông nghịt người. Trước khi vào chỗ ngồi, ai cũng muốn đến gần các đấu sĩ để nhìn họ cho rõ. Cao vượt lên trên đám đông ấy, hiện ra những anh picađo cưỡi ngựa và những angoaxilê( Angoaxilê: cảnh binh.) mặc đồng phục của thế kỷ XVII. Ở một bên sân của khu chuồng bò, dựng lên những tòa nhà gạch hai tầng có giàn hoa lá trước cửa ra vào và có chậu hoa ở các cửa sổ: đó là một cái xóm nhỏ gồm nào văn phòng, nào xưởng thợ, nào chuồng bò, nào chỗ ở của các người coi bò, các thợ mộc cùng nhiều loại nhân viên khác.
Anh matađo phải khó nhọc lắm mới lách mình qua được các đám đông. Tên anh truyền từ miệng người này sang miệng người khác cùng với những tiếng reo hò phấn khởi:
- Gađacđô!... Gađacđô đấy!... Tây Ban Nha muôn năm!
Và anh hoàn toàn say sưa khi thấy mình được công chúng sùng bái, anh đi nhún nhẩy, vẻ mặt trầm tĩnh như một vị thần, lòng phơi phới thỏa mãn như đang dự một ngày hội mừng anh.
Đột nhiên có hai cánh tay quấn chặt lấy cổ anh và một mùi rượu mạnh xông thẳng vào mũi anh:
- Thật đáng mặt nam nhi, anh bạn quý ơi! Hoan hô những con người dũng cảm!
Đó là một ông mặt mũi phương phi, một nhà tư sản vừa mới dự tiệc với bè bạn và tưởng mình đã thoát khỏi sự chú ý đùa nghịch của các bạn, nhưng thực ra họ đang theo dõi ông cách xa đó một chút. Ông ngả đầu vào vai Gađacđô và cứ đứng mãi ở tư thế đó, dường như ông muốn ngủ thiếp đi trong niềm hoan lạc ấy. Nhưng những quả thụi của "anh bạn quý", và những cái lắc mạnh của bạn bè đã làm cho Gađacđô thoát khỏi sự vồ vập dai dẳng đó. Thấy mình bị tách khỏi người mình sùng bái, ông say rượu thét lên những tiếng hô yêu nước :
- Hoan hô các hiệp sĩ ! Nhân dân của tất cả các nước hãy đến Mađrit mà xem, họ sẽ ghen đến chết! Họ có tàu, có tiền, nhưng tất cả những cái đó đều vô giá trị! Họ không có bò mộng, họ không có ai khả dĩ giật được của con người này danh tiếng dũng cảm! Người con thân yêu của Tây Ban Nha muôn năm! Đất nước của ông cha chúng ta muôn năm!
Gađacđô đi ngang qua một gian phòng lớn quét vôi, không có đồ đạc, trong đó những đồng nghiệp của anh đang đứng giữa những đám người hâm mộ. Rồi anh lách qua một đám đông đang đứng chắn cửa và bước vào một gian phòng nhỏ hẹp lờ mờ, chỉ có vài ngọn đèn yếu ớt chiếu sáng. Đó là nhà nguyện. Một bức họa cũ kỹ mang hình Đức Mẹ ngồi bên con chim bồ câu trang trí vách sau của bàn thờ. Trên bàn thờ có bốn ngọn nến cháy leo lét và mấy bó hoa giả bị mối xông, đầy bụi bặm cắm trong những cái lọ sành tầm thường. Nhà nguyện đông nghịt. Những người bình dân mê đấu bò đang chen chúc ở đấy để được nhìn rõ những vĩ nhân của cuộc đấu. Họ đứng trong bóng tối lờ mờ, đầu trần, người thì thu mình ở những hàng trên, người thì trèo lên ghế. Hầu hết đều quay lưng lại hình Đức Mẹ, họ tò mò nhìn về phía cửa; hễ thấy một người nào mặc bộ quần áo diễu hành óng ánh là họ lại thì thào nói tên người ấy.
Khi các chú banđêridiêrô và picađo vào thì chỉ có tiếng xì xào loáng thoáng trong đám người xem, mặc dầu mấy chú ấy cũng sắp phải dấn thân vào chỗ nguy hiểm y như những matađo, vì chỉ có những khán giả cực kỳ say mê môn đấu bò mới biết biệt hiệu của các chú ấy.
Bỗng nhiên một tiếng rì rào kéo dài nổi lên và tên một người được nhắc đi nhắc lại mãi:
- Fuentêx! Fuentêx!
Anh matađo đỏm dáng này, thân hình mảnh dẻ, dáng điệu thanh lịch, áo choàng vắt vai, đi tuột vào trước bàn thờ rồi quỳ xuống với điệu bộ rất kịch. Ánh nến được phản chiếu trong lòng trắng cặp mắt gitanô của anh trong lúc anh ưỡn bộ ngực thanh thanh, đẹp đẽ và nhanh nhẹn của mình. Sau khi cầu kinh và làm dấu thánh giá, anh đứng lên và đi giật lùi ra đến tận cửa, mắt luôn luôn nhìn ảnh thánh, như một ca sĩ vừa rút lui khỏi sân khấu vừa chào khán giả.
Gađacđô chất phác hơn Fuentêx trong việc sùng đạo. Anh bước vào nhà nguyện, chiếc mũ môntêra(Môntêra: mũ của đấu sĩ bò mộng khi ra bãi đấu) cầm tay, áo choàng gấp lại. Anh cũng làm bộ điệu vừa đi vừa nhún nhẩy, nhưng khi tới trước ảnh Đức Bà, anh quỳ gập người xuống và nhiệt thành cầu nguyện, không để ý đến hàng trăm cặp mắt nhìn anh chằm chằm. Tâm hồn mọi người theo đạo Thiên Chúa ngây thơ như anh hồi hộp vì lo lắng và hối hận. Với lòng chân thành của những con người bình dị luôn luôn sống trong nguy hiểm và tin rằng có đủ mọi thế lực ma quỷ ám ảnh cũng như có đủ mọi sự cứu giúp siêu nhiên, anh cầu Đức Chúa Trời che chở. Lần đầu tiên, từ sáng nay, anh nghĩ đến vợ và mẹ. Ở Xêvilơ vợ anh, chị Cacmen tội nghiệp kia, chắc hẳn đang mong bức điện! Và mẹ anh, bà Aoguxtiax, lúc nàu đang yên tâm trông nom gà vịt ở trại Rinhcônađa, chắc hẳn không biết rằng con trai của bà sắp ra đấu! Thật là kinh khủng khi ta có linh cảm rằng chiều nay sẽ có chuyện chẳng may xảy ra! Lạy Đức Mẹ ngồi bên chim bồ câu, xin Đức mẹ che chở cho anh một chút. Từ nay anh nguyện sẽ ngoan lành, anh sẽ quên hết "mọi cái khác", anh sẽ sống theo lời răn của Chúa.
Sau khi củng cố lòng mê tín của mình bằng sự hối hận vô ích ấy, Gađacđô bước ra khỏi nhà nguyện, vẫn còn xúc động, mắt mờ đi không nhìn thấy những người đang chen chúc trên lối đi. Bên ngoài, trong gian phòng đợi của các đấu sĩ, một ông có bộ mặt cạo nhẵn, mặc áo rơđanhgôt đen khá vụng về, chào anh:
- Rõ không may chưa! - Gađacđô lầu bầu bước tiếp. Mình đã bảo là thế nào cũng có chuyện xẩy ra mà lại!...
Ông là linh mục của đấu trường, một người rất mê đấu bò, mang bình dầu thánh trong túi áo. Ông từ ngoại ô Prôxpêriđat tới. Đi theo ông, có một người hàng xóm làm người phụ lễ cho ông, để đổi lấy một cái vé đi xem. Từ mấy năm nay, vị linh mục này bất hòa với một giáo xứ trong thành phố Mađrit vì giáo xứ này tự cho là có cơ sở pháp lý hơn để được độc quyền trông nom việc lễ bái ở đấu trường. Trong những ngày đấu bò, ông lên xe đi đã có nhà thầu đấu bò trả tiền, ông thu thu cái bình tôn quý trong cái áo rơđanhgôt. Trong số bạn hữu và những người được ông che chở, ông lần lượt cho chiếc vé dành cho người phụ lễ. Ở đấu trường, người ta dành cho ông hai chỗ ngồi ở ngay đằng trước, gần cửa vào khu chuồng bò. Ông linh mục bước vào nhà nguyện y như một người chủ nhà bước vào nhà mình. Ông phẫn nộ về thái độ của công chúng. Không ai đội mũ nhưng mọi người đều nói to, thậm chí có kẻ hút thuốc.
- Thưa các vị, đây có phải là quán cà phê đâu, linh mục nói. Xin mời các vị đi ra! Cuộc đấu bắt đầu ngay bây giờ đấy!
Cái tin ấy có tác dụng là làm mọi người nhanh chóng giải tán. Linh mục rút bình dầu thánh trong vạt áo lễ phục ra và vất nó vào một cái hòm gỗ sơn. Sau khi khóa kỹ vật báu đó, ông vội vã đi chiếm chỗ ngồi trên khán đài trước khi các đội đấu ra trình diễn. Quần chúng đã biến khỏi các khu nhà phụ. Trong sân bò chỉ còn những người mặc quần áo lụa thêu, những kỵ sĩ mặc áo vàng đội mũ rộng vành bằng da rái cá. Những angoaxilê cưỡi ngựa và những nhân viên phục dịch mặc quần áo xanh đỏ.
Ở chỗ cửa gọi là "cửa ngựa", dưới cái vòm dẫn tới bãi đấu, các kỵ sĩ đang xếp hàng, đứng đầu là các matađo rồi đến các banđêridiêrô đứng cách khá xa; còn dậm chân tại chỗ trong sân bò là các picađo vẻ mặt dữ tợn, người mặc giáp sắt, hầm hập mùi da ngựa và mùi phân bò, cưỡi những con ngựa ốm o bịt một mắt. Đi đoạn hậu cho đạo quân ấy là hai nhóm la, cứ ba con thắng với nhau thành một nhóm dùng để kéo xác bò xác ngựa ra khỏi bãi đấu. Những con la này hay hốt hoảng, nhưng mạnh mẽ, lông bóng nhoáng, mình đeo vô vàn búp vải màu và lục lạc, ngoài ra còn có một lá quốc kỳ cắm trên vòng cổ.
Ở phía cuối vòm, vượt lên trên cái hàng rào bằng gỗ bịt ngang lưng chừng lối vào bãi, hiện ra cái cửa tò vò để lộ một khoảng trời xanh đầy ánh sáng, mái khán đài và một phần các bậc ngồi đông kín người và phấp phới vô vàn quạt và tờ chương trình như những cánh bướm đủ mọi màu sắc. Một hơi thở mênh mông, như thoát ra từ một bộ ngực ghê gớm tràn qua lối vào đó. Một tiếng rì rào du dương, do làn sóng điện mang đến, làm cho mọi người đoán biết - chứ không phải nghe thấy - ở đâu đây đang chơi nhạc. Trên bờ cửa tò vò, hiện ra hàng dẫy đầu người, nhiều vô kể, đầu của cơ man khán giả, ngồi chen chúc, tò mò cúi xuống để sớm được trông thấy những con người anh hùng.
Gađacđô và hai người matađo khác chào nhau trịnh trọng rồi cùng đứng vào hàng của các đấu sĩ. Họ không nói không cười: ai nấy chỉ nghĩ đến bản thân và thả dòng tư tưởng trôi miên man, mà cũng có thể họ chẳng nghĩ gì cả vì trí óc đã khô cạn. Sự lo lắng bồn chồn của họ biểu hiện ở chỗ họ như một cái máy luôn luôn sửa sang lại nếp áo choàng, trải nó ra trên vai rồi lại quấn nó quanh người, làm sao cho dưới cái phễu đầy màu sắc rực rỡ đó, cặp đùi của họ được thoải mái, bó sát trong cái vỏ bằng lụa thêu vàng. Mặt ai nấy đều tái, nhưng không nhợt nhạt mà bóng nhẫy vì mồ hôi đã quét lên đó lớp sơn của sự cảm động. Họ nghĩ tới đấu trường tuy nó vẫn chưa hiện ra, họ không thể nào xua đuổi được nỗi lo sợ về những chuyện sẽ xẩy ra ở bên kia bức tường, về những cái vô hình vô ảnh, về những nỗi nguy hiểm mơ hồ đang tiến gần mà chưa bộc lộ. Buổi chiều nay sẽ kết thúc ra sao?...
Sau những hàng đấu sĩ vang lên tiếng chân của hai con ngựa đang từ các hành lang ngoại vi của đấu trường đi vào. Các kỵ sĩ là những angoaxilê mặc áo khoác nhỏ màu đen, đội mũ có sừng cắm những chiếc lông chim đỏ và vàng. Họ vừa mới xua những người không có trách nhiệm ra khỏi bãi đấu và bây giờ họ xếp hàng trước các đội đấu để dẫn đường.
Các cửa ra vào của cái vòm, cũng như các cửa rào chắn thứ nhất của bãi đấu đều mở toang ra. Thế là bãi đấu hiện ra: trên bãi cát tròn và rộng đó tấn bi kịch sắp được trình diễn để làm rung động và khoái trí một vạn bốn nghìn người xem. Tiếng rì rầm du dương nhưng hỗn tạp càng nổi to và biến thành một thứ nhạc vui nhộn, một hành khúc long trọng có tiếng kèn đồng vang vang thúc giục các đấu sĩ vung vẩy tay một cách hùng dũng và đu đưa bộ ngực. Những con người dũng cảm hãy tiến lên!
Các đấu sĩ, mắt nhấp nháy, chói lòa trước sự thay đổi đột ngột từ bóng tối ra ánh sáng, từ chỗ im lặng đến chỗ ầm ĩ của đấu trường, ở đó hàng vạn con người ngọ nguậy trên các bậc ngồi, rào rạt như những làn sóng tò mò và đều đứng dậy để nhìn cho rõ.
Các đấu sĩ tiến lên. Đột nhiên, ngay từ khi đặt chân lên đấu trường, họ cảm thấy bản thân họ nhỏ đi trước cảnh tượng mênh mông. Dưới ánh nắng phản chiếu màu sắc rực rỡ của bộ quần áo thêu, họ giống những con rối sáng long lanh. Các cử động uyển chuyển của họ làm người xem rất hào hứng khác nào trẻ em đứng trước một đồ chơi kỳ lạ. Toàn thể khán giả rung động trước trận gió điên cuồng làm công chúng kích động và run rẩy đến lạnh sống lưng vào một lúc nào đó. Người thì vỗ tay ầm ĩ, người thì phấn khởi hơn và hét lớn; dàn nhạc như gầm lên. Và giữa khung cảnh ồn ào ấy, từ cửa vào đấu trường đến chỗ ngồi của ông chủ tịch cuộc đấu, các đội đấu diễu hành một cách từ tốn, trịnh trọng, bước chân của họ tuy ngắn nhưng để bù lại cánh tay và thân hình của họ đu đưa rất đẹp. Trong khoảng trời xanh hình tròn lộ ra ở phía trên đấu trường, những con chim câu trắng bay lượn, sợ hãi trước tiếng gầm thét cất lên từ cái núi lửa xây bằng gạch đỏ.
Các đấu sĩ càng tiến sâu vào đấu trường bao nhiêu thì họ càng thấy bản thân khác đi bấy nhiêu. Họ dấn thân vào vòng nguy hiểm vì một cái gì quý hơn đồng tiền.
Những sự rụt rè, những mối lo sợ một cái gì chưa rõ, họ đã bỏ cả lại ở phía bên kia hàng rào. Bây giờ họ đang dẫm lên bãi cát đấu trường, họ đang đứng trước công chúng. Cái đó mới là hiện thực. Lòng ham vinh quang, ý muốn vượt chúng bạn, tính tự kiêu về sức mạnh và tài ba của mình, tất cả những cái đó làm cho những tâm hồn chất phác và man rợ ấy quên hết lo sợ và trở thành dũng cảm một cách hung tợn.
Gađacđô đã thành một người khác. Anh vừa đi vừa ngửng đầu ưỡn ngực. Anh cử động với thái độ ngạo nghễ của người đi chinh phục, anh liếc nhìn bốn phía bằng con mắt của người chiến thắng, dường như hai đồng nghiệp của anh không tồn tại. Tất cả thuộc về anh: cả đấu trường lẫn công chúng. Anh cảm thấy lúc này có thể hạ sát bất kỳ con bò mộng nào của các đồng cỏ Øngđaluđi và Caxtilơ. Tất cả những tiếng vỗ tay đều dành cho anh, anh không nghi ngờ gì hết. Ở các lô và dọc hàng rào, hàng nghìn con mắt phụ nữ, khuất dưới bóng khăn quàng trắng, chỉ nhìn anh, anh tin chắc như vậy. Chính anh mới là người được công chúng sùng bái. Anh vừa đi vừa mỉm cười một cách kiêu hãnh xấc xược dường như khán giả chỉ hoan hô một mình anh. Anh liếc nhìn một lượt toàn khán đài, hiểu rõ đâu là nơi tập trung những nhóm khản giả chủ yếu thuộc phe anh và anh không thèm để ý đến những nơi có những khán giả thuộc phe khác.
Các đấu sĩ cất mũ chào ông chủ tịch; rồi đoàn diễu hành trứ danh đó phân tán, các pêông và các picađo tản ra khắp các nơi trên bãi. Trong khi một angoaxilê lấy mũ đón chiếc chìa khóa chuồng bò do ông chủ tịch ném xuống, Gađacđô tiến về phía khán đài có những khán giả ngưỡng mộ anh nhiệt liệt nhất, anh trao cho họ giữ hộ cái áo choàng diễu hành. Lập tức nhiều bàn tay nhiệt liệt túm chiếc áo lịch sự đó, căng nó lên bờ hàng rào như một lá cờ hiệu, biểu tượng thiêng liêng của một đảng phái. Những người hăng hái nhất đứng lên, hoa tay múa can(Can: gậy cầm tay chủ yếu dùng cho lịch sự) hoan hô
Gađacđô, phát biểu ầm ĩ hy vọng của mình: mọi người sắp được xem người con yêu của Xêvilơ xử sự ra sao! Còn anh thì đứng tựa lưng vào hàng rào, mỉm cười thỏa mãn về sức mạnh của mình và luôn miệng nói:
- Xin cảm ơn! Tôi sẽ cố hết sức...
Không phải chỉ có những người hâm mộ Gađacđô mới hy vọng như vậy. Toàn thể khán đài chú ý đến anh, chờ đợi những cảm xúc mãnh liệt. Như giới hâm mộ môn đấu bò đã nói, anh matađo này sẽ có ngày biết "vải sơn" - nghĩa là vải giường bệnh xá. Mọi người tin chắc rằng anh sẽ bị bò húc chết tại giữa trường đấu, chính vì thế mà mọi người hoan hô anh một cách nhiệt liệt có tội, với một sự quan tâm độc ác, khác nào một kẻ yếm thế theo khắp nơi một người làm xiếc bằng thú dữ với hy vọng có ngày sẽ thấy người này bị thú dữ đó ăn thịt.
Gađacđô chê cười những người hâm mộ đấu bò kiểu cũ; đó là những nhà bác học nghiêm nghị về môn này, họ quả quyết rằng tai nạn không thể xảy ra miễn là các đấu sĩ chấp hành triệt để các quy tắc của nghệ thuật. Chà, các quy tắc! Riêng anh thì anh không biết các quy tắc, anh không hoài hơi học các quy tắc. Cái cần thiết để chiến thắng là sức mạnh và can trường. Và hầu như chỉ nhờ vào tính bạt mạng và liều lĩnh, không có khả năng nào ngoài những ưu điểm của cơ thể, anh đã xây dựng sự nghiệp một cách nhanh chóng. Công chúng say mê khâm phục anh và kinh ngạc trước sự dũng cảm như điên của anh. Khác với nhiều đồng nghiệp, anh không tiến lên qua nhiều giai đoạn nối tiếp, anh không phải đóng vai capêađo hoặc banđêridiêrô, phục vụ sư phụ trong nhiều năm. Anh không sợ sừng bò. Anh nói: "Những cái sừng tệ hại nhất là cái sừng của con ma đói". Vấn đề quan trọng là làm sao vượt lên cho nhanh. Thế là đùng một cái anh xuất hiện trước công chúng với tư cách matađo, và chỉ vài năm sau tiếng tăm anh đã lừng lẫy.
Công chúng khâm phục anh vì họ tin rằng anh thế nào cũng gặp tai họa. Trong lòng họ bừng bừng một mối nhiệt tình khủng khiếp vì họ thấy anh đùa với Thần chết một cách hết sức liều lĩnh. Họ quan tâm đến anh cũng như quan tâm đến một kẻ tử tù đã bị đưa vào nhà nguyện.
Gađacđô không thuộc loại người dè dặt thân mình. Anh hiến tất, kể cả tính mệnh. Anh xứng đáng với đồng tiền của người ta bỏ ra. Công chúng hoan hô và cổ vũ anh chàng liều mạng ấy, với tư tưởng thỏa mãn bỉ ổi của những kẻ ngồi ở nơi yên ổn để xem cảnh hiểm nguy của người khác. Còn những người thận trọng thì sầm mặt lại trước những kỳ tích dũng cảm của Gađacđô, họ cho nó thực là một sự tự sát. Họ thì thào:
- Mong cho tình hình này còn kéo dài!...
Tiếng chũm chọe và kèn đồng nổi lên và con bò mộng đầu tiên xuất hiện. Gađacđô, tay cắp chiếc áo choàng chiến đấu không có chút trang trí nào, vẫn đứng dựa vào hàng rào, gần bậc ngồi của khán giả trung thành với anh, anh đứng yên, cao kỳ, tin tưởng rằng toàn thể đấu trường đang chú ý nhìn anh. Con bò mộng đó là để cho một matađo khác. Còn anh, anh sẽ hoạt động khi nào đến lượt. Nhưng khi thấy công chúng hoan hô những động tác múa áo choàng khéo léo của đồng nghiệp, anh không thể đứng yên được nữa và, từ bỏ quyết định cũ của mình, anh tiến lại gần con bò và làm vài động tác thể hiện cam đảm nhiều hơn kỹ thuật. Toàn thể đấu trường hoan hô rầm rĩ, vì yêu thích một cách phi lý sự liều lĩnh của anh. Đến khi Fuentêx giết xong con bò đầu tiên và vừa chào khán giả vừa tiến về phía ông chủ tịch cuộc đấu thì Gađacđô càng tái mặt vì hình như bất kỳ dấu hiệu hoan nghênh nào không dành cho anh đều là thái độ lãng quên sỉ nhục đối với anh. Nhưng cuối cùng lượt anh tới! Mọi người sẽ được xem một cái gì rất hay đây! Anh không biết cái đó sẽ như thế nào, nhưng anh cảm thấy rằng nhất định anh sẽ làm cho khán giả phải kinh ngạc.
Con bò mộng thứ hai vừa mới bước vào bãi đấu, lập tức Gađacđô, nhanh như cắt với ý muốn tỏ ra xuất sắc, bao khắp bãi đấu. Áo choàng của anh luôn luôn múa sát mõm con vật. Một picađo thuộc đội của anh, tên là Pôtagiê, bị ngã ngựa rất nguy hiểm ngay cạnh sườn con bò. Thế là Gađacđô nắm chặt lấy đuôi con thú dữ kéo mạnh đến nỗi con vật phải quay ngược trở lại cho đến khi anh picađo ngã ngựa rút lui được vào nơi yên ổn. Khán giả hoan hô Gađacđô như sấm.
Khi đến giai đoạn cắm banđêri, Gađacđô vẫn ở trong hành lang giữa hai lớp hàng rào, để chờ lúc nổi kèn trống báo hiệu sang giai đoạn hạ sát. Người Quốc dân, tay cầm mấy chiếc banđêri, tìm cách khích con bò lúc ấy đang đứng yên giữa bãi đấu. Bác ta chẳng thiết làm những động tác khéo léo, hoa mỹ hoặc dũng cảm. Đối với bác, đây chỉ là việc bác kiếm cơm. Ở thành phố Xêvilơ kia, bác còn bốn đứa con nhỏ; nếu chẳng may bác chết đi thì chúng nó không thể kiếm ra một người bố khác. Làm đủ trách nhiệm của mình, thế thôi, cắm mấy cái banđêri một cách bình thường nhất trong nghề đấu bò, chẳng mong được vỗ tay khen, miễn là không bị la ó.
Khi bác cắm xong cặp banđêri vào bướu cổ con bò thì trên khán đài có người vỗ tay, nhưng cũng có người chê bai bác bằng cách nói bóng gió mỉa mai đến những tư tưởng của bác:
- Này, bớt chính trị đi và cắm mạnh lên nhé! Người Quốc dân đứng xa nên không nghe rõ lời chê trách. Bác tươi cười đáp lại như đội trưởng của mình:
- Rất cảm ơn!... Rất cảm ơn!...
Một hồi kèn đồng và chũm chọe báo hiệu giai đoạn hạ sát đã tới. Thế là Gađacđô lại nhảy vào bãi đấu. Lập tức khán giả nhốn nháo, lao xao vì xúc động. Anh là người matađo yêu thích của họ, họ chờ đợi ở anh cái hay nhất của buổi đấu.
Gađacđô giật lấy cái mulêta gấp lại mà Garabatô ở trong hành lang giơ ra cho anh; anh rút ra khỏi vỏ thanh kiếm mà người hầu ấy cũng chìa ra. Người thẳng đơ, tay cầm mũ, anh từ từ đi đến trước chỗ ngồi của ông chủ tịch cuộc đấu. Tất cả các khán giả đều nghển cổ, chăm chú nhìn thần tượng của mình. Không ai nghe rõ lời anh phát biểu(Lời phát biểu của người matađo trước khi hạ sát con bò mộng là một thủ tục gọi là brindix. Người ấy tuyên bố định hạ sát con bò để dâng ai. Công thức của lời phát biểu ấy như sau: "Tôi hiến dâng con bò này lên... Hoặc tôi sẽ giết được con bò này, hoặc nó sẽ giết tôi".). Nhưng dáng dấp hiên ngang, thân hình cân đối và lồng ngực hơi ưỡn ra để cho lời nói thêm mạnh, tất cả những cái đó tác động đến công chúng chẳng kém gì một bài diễn thuyết hùng hồn nhất. Khi anh phát biểu xong, xoay người lại và ném mũ xuống đất, công chúng hoan hô rầm rĩ: "Hoan hô người con yêu quý của Xêvilơ! Lần này nhất định chúng ta được xem một trận đấu thật sự!...". Và khán giả, người nọ nhìn người kia, như để bảo ngầm nhau rằng sắp có những cái phi thường. Ở khắp khán đài, mọi người run rẩy có vẻ chờ đợi một cảnh tượng tuyệt diệu. Bỗng toàn đấu trường im lặng, im lặng hoàn toàn, dường như nó vắng ngắt. Tất cả sinh khí của hàng vạn con người dồn vào các con mắt. Không ai thở nữa.
Gađađô thủng thẳng bước đến phía con bò mộng, một tay cầm cái mulêta gập lại như một ngọn cờ, một tay vung vẩy thanh kiếm như một con lắc ăn nhịp với bước chân anh đi. Thoáng quay đầu lại, anh thấy Người Quốc dân và một pêông khác đang bước theo anh, tay cắp áo choàng sẵn sàng giúp đỡ anh.
- Mọi người tránh ra xa! Anh ra lệnh.
Tiếng anh nổi lên giữa đấu trường im ắng, vang dội tới những hàng ghế xa nhất và làm mọi người tỏ lời khâm phục: "Anh ấy vừa nói: Mọi người tránh ra xa! Con ngừơi dũng cảm thật!".
Gađađo một mình tiến đến bên con thú, đấu trường đột nhiên lại im ắng. Anh bình tĩnh xòe mulêta rồi tiến thêm chút nữa đến sát mõm con làm nó kinh ngạc và sợ hãi trước con người táo tợn ấy. Công chúng không dám nói nữa, không thở nữa, nhưng con mắt của họ long lanh vì khâm phục. Can đảm thật! Đi đến sát sừng!
Người matađo dậm chân xuống bãi cát một cách sốt ruột, chọc cho con bò tấn công. Thế là khối thịt khổng lồ ấy với đôi sừng nhọn hoắt, vừa rống lên vừa xông lại. Chiếc mulêta đưa qua ngay trên cặp sừng, sừng quệt nhẹ vào các quả ngù và quần áo người matađo, nhưng anh vẫn đứng yên không cử động nào khác ngoài việc hơi ngã người về phía sau. Trước động tác ấy, công chúng gào lên hoan hô!
Con vật quay người lại, tấn công một lần nữa người cầm mảnh vải. Một động tác thứ hai giống lần trước, lại làm cho công chúng gầm lên. Con bò mỗi lúc một điên cuồng thêm vì thấy bị lừa, càng xông mạnh vào người địch thủ. Nhưng anh vẫn liên tục làm rất nhiều động tác bằng mulêta, chỉ di chuyển người trên một khoảng rất hẹp; sự nguy hiểm ở sát bên mình khiến anh thêm táo bạo, tiếng hoan hô của công chúng làm anh say sưa.
Gađacđô cảm thấy hơi thở dữ dội của con quái vật ở ngay bên mình, bọt dãi ướt át của nó rớt xuống bàn tay phải và mặt anh. Nhưng, có lẽ vì đã quen với sự đụng chạm đó, anh chỉ coi con bò mộng như một người bạn chịu hy sinh tính mệnh để góp phần xây đắp vinh quang của anh.
Cuối cùng con bò dừng lại, có vẻ mệt và trước cái trò chơi quái ác, nhìn người có mảnh vải đỏ bằng con mắt ra vẻ suy nghĩ lờ mờ; trong óc nó, nó nghĩ rằng người ta đang dùng một thuật gì để, từ đợt tấn công này sang đợt tấn công khác, dẫn nó đến chỗ chết. Bấy giờ Gađacđô cảm thấy trong tim sự hồi hộp của những ngày vĩ đại của mình:
"Tiến lên nào!..."
Anh nhặt cái mulêta và quay tròn tay trái, anh quấn nó vào quanh cái cán. Rồi anh giơ tay phải lên ngang tầm mắt và chúc thanh kiếm về phía u vai của con vật. Công chúng ngạc nhiên và ào ào phản đối.
- Đừng xông vào như thế! Đừng, đừng! Hàng vạn người hét lên.
Vì làm như thế sớm quá. Con bò chưa ở vào tư thế thuận lợi. Nó dễ xông lên và có thể húc trúng anh matađo. Gađacđô hành động thật trái với mọi quy tắc của nghề nghiệp. Nhưng anh chàng rồ dại này có đếm xỉa gì đến quy tắc, đến ngay cả sinh mệnh của mình. Đột nhiên, đúng lúc con bò chồm vào người anh, anh phóng lưỡi kiếm về phía trước. Thật là một sự va chạm dữ dội, tàn bạo. Trong một giây đồng hồ, người và vật họp thành một khối và cùng bước đi vài bước, quấn chặt lấy nhau, không ai có thể biết được là bên nào thắng: người thì mắc một tay và một phần thân thể giữa cặp sừng, còn vật thì cúi đầu, lồng lộn tìm cách đâm sừng nhọn hoắt vào con rối sặc sỡ đang nhẩy nhót cuống quýt để tránh đòn.
Cuối cùng hai bên rời nhau ra, cái mulêta rơi xuống đất như một miếng giẻ rách và người đấu sĩ kiệt xuất, hai bàn tay không còn vướng víu, ra khỏi trận đấu vẫn lảo đảo sau cuộc đụng chạm dữ dội. Nhưng chỉ sau vài bước là anh lấy lại được thăng bằng. Bộ quần áo của anh xộc xệch, cái ca-vát lủng lẳng ngoài áo gilê, rách toạc vì bị sừng bò húc trúng.
Lúc đầu con bò tiếp tục lao đi theo đà. Trên cổ rộng của nó chỉ hơi thòi ra cái tay nắm đỏ lòm của thanh kiếm cắm ngập tận chuôi. Rồi nó đứng sững lại, lắc lư như chào một cách đau đớn, quỳ gập hai chân trước, gục đầu xuống làm mõm chạm vào bãi cát, rống lên và lăn kềnh ra rùng mình hấp hối.
Đấu trường như sụp đổ, những hòn gạch như va chạm vào nhau, công chúng như lên cơn điên: họ đứng cả dậy, tái mặt và run rẩy, hò hét dậm chân dậm tay dữ dội. Con bò chết rồi! Nhát kiếm tuyệt quá! Trong một giây đồng hồ, mọi người đã tưởng anh matađo bị sừng bò húc trúng, mọi người đã tưởng anh sẽ lăn xuống máu trào ra, thế mà bây giờ anh đứng bình yên tuy còn choáng váng vì bị va mạnh nhưng vẫn khỏe mạnh và tươi cười. Sự ngạc nhiên và khâm phục làm cho khán giả hào hứng đến tột độ.
- Ôi chao! Cậu ấy mới hung chứ! Khán giả kêu lên như vậy vì họ không tìm ra lời lẽ nào đúng hơn để diễn tả sự kinh ngạc của họ. Cậu ấy mới hung chứ!
Mũ tung lên phơi phới và tiếng vỗ tay lại nổ ra như sấm, lan từ bậc ngồi này sang bậc ngồi khác trong lúc anh matađo bước đi trong bãi đấu dọc theo hàng rào đến trước chỗ ngồi của ông chủ tịch cuộc đấu.
Tiếng hoan hô càng vang dậy khi Gađacđô giang hai tay, cúi chào ông chủ tịch. Mọi người hét lên đòi phần thưởng thật xứng đáng cho người matađo kiệt xuất. Đó là cái tai của con bò. Chưa bao giờ có người matađo xứng đáng hơn với phần thưởng đó. Những nhát kiếm như thế mấy khi mà thấy được ! Niềm hoan hỷ của khán giả còn tăng thêm khi một chú lao công đem đến cho anh matađo một vật hình tam giác màu sẫm, đầy lông lá vào máu me: đó là một mảnh tai con bò.
Con bò thứ ba đã bước vào bãi đấu thế mà tiếng hoan hô Gađacđô còn tiếp tục, tựa hồ công chúng vẫn chưa bình tĩnh lại sau cơn xúc động, và tất cả mọi chuyện xẩy ra trong phần còn lại của buổi đấu chẳng có ý nghĩa gì cả. Những matađo khác, ghen tị đến tái mặt, cố gắng làm cho khán giả chú ý đến mình nhưng vô hiệu: có tiếng vỗ tay nhưng yếu ớt và rời rạc. Hình như khán giả đã kiệt sức sau cơn điên loạn mới rồi nên chẳng chú ý mấy đến tấn tuồng mới đang diễn ra trước mắt họ.
Nhưng chẳng bao lâu, nhiều cuộc cãi cọ om sòm nổ ra từ bậc ngồi này sang bậc ngồi kia: những khán giả ủng hộ các matađo khác, sau khi đã bình tĩnh lại và thoát khỏi cơn say sưa xâm chiếm toàn thể đấu trường, bắt đầu tiếc sự thán phục vô tình của mình và tranh luận về Gađacđô. Theo ý họ, Gađacđô tuy rất dũng cảm, rất táo bạo, coi rẻ tính mệnh của mình, nhưng tất cả những cái đó đâu phải là nghệ thuật. Và những khán giả khâm phục Gađacđô một cách nồng nhiệt nhất và hung bạo nhất vì bản thân họ cũng có tính hung tợn và liều lĩnh, nổi cơn tức giận như khi một tín đồ tôn giáo thấy có kẻ hoài nghi ông thánh của mình.
Mọi người ít chú ý đến trận đấu mới còn do nhiều chuyện lôi thôi đang xẩy ra ở các hàng ghế. Bỗng nhiên khán giả náo động ở chỗ này chỗ khác, quay lưng lại bãi đấu, vung tay vung gậy lên qua đầu.
- Đang đánh nhau ở khu 3 kìa! Người ta vui thích reo lên. Lại đánh nhau ở khu 5 nữa kìa!
Người ta kiễng chân lên cố nhìn qua đầu người bên cạnh nhưng chỉ thấy những cảnh binh đang từ từ leo lên nơi xẩy ra lộn xộn.
- Ngồi xuống ! Ngồi xuống ! Những người trầm tĩnh nhất kêu the thé vì không trông thấy các đấu sĩ đang tiếp tục hoạt động trên bãi đấu.
Dần dà đám đông bớt náo động, đầu họ lại trở lại vị trí bình thường ở phía trên những hàng ghế dài lượn cong. Nhưng thần kinh của họ đã bị kích thích quá độ rồi, và sự nóng nảy của họ thể hiện ra bằng một mối ác cảm bất công đối với một số đấu sĩ hoặc bằng một sự im lặng khinh khỉnh.
Công chúng trở thành khó tính sau cơn xúc động quá mạnh, nên thấy cái gì cũng nhạt. Họ nuôi dưỡng sự cáu kỉnh của mình bằng cách ăn và uống. Những người bán quà đi lại giữa các lớp hàng rào và ném quà bánh cho khách hàng một cách khéo léo kỳ diệu. Những quả cam trông như những búp chỉ đỏ thắm bay lên đến tận những bậc cao nhất của khán đài, chuyển từ tay người bán đến tay người mua thẳng một lèo dường như có một sợi dây vô hình điều khiển. Những chai nước giải khát mở kêu bôm bốp. Rượu vang Øngđaludi màu vàng óng ánh trong các cốc.
Một bầu không khí tò mò bỗng trùm xuống khán đài. Fuentêx sắp cắm banđêri vào bướu cổ con bò của anh, mọi người chờ đợi một cái gì cực kỳ khéo léo và mỹ thuật.
Fuentêx tiến vào giữa bãi đấu, tay cầm cặp banđêri bình tĩnh, bước từng bước chậm rãi như bắt đầu một trò chơi. Con bò theo dõi các cử chỉ của anh bằng con mắt nghi ngại, ngạc nhiên thấy trước mắt nó chỉ có một người duy nhất, sau cảnh náo động có những chiếc áo choàng tung ra, những cây banđêri cắm vào bướu cổ và những con ngựa còm đến dâng mình cho cặp sừng của nó.
Người matađo thực tế đã thôi miên con vật. Anh tiến lại gần đến mức mũi banđêri chạm vào trán nó, rồi anh chạy từ từ, dường như bị cám dỗ, con bò chạy theo anh. Người và vật chạy tới bờ bên kia của bãi đấu. Con quái vật hình như đã được dạy thuần thục nên làm theo mọi động tác của anh cho đến khi anh thấy nên chấm dứt trò chơi đó. Bây giờ anh mới dang hai tay, mỗi tay cầm một cây banđêri, kiễng chân ưỡn thẳng thân hình mảnh dẻ và cân đối, bước lại gần con bò với một vẻ tự tin trang nghiêm rồi cắm hai mũi kết tua rua vào cổ con vật đang bàng hoàng.
Ba lần liên tiếp, anh làm lại động tác trong tiếng hoan hô của khán giả. Những người cho mình là sành sỏi bây giờ mới trả thù việc Gađacđô được khâm phục. Fuentêx mới thật là đấu sĩ chứ! Và đây mới là nghệ thuật!
Đứng tựa vào hàng rào, Gađacđô lau mồ hôi trán bằng cái khăn của Garabatô trao cho anh. Anh uống một cốc nước, quay lưng về phía bãi đấu để khỏi phải trông thấy những kỳ tích của đồng nghiệp. Nếu ở ngoài bãi đấu anh đánh giá cao các địch thủ của anh vì sự nguy hiểm đã làm cho anh và họ thân nhau thì ở đây, ngay từ lúc anh bước chân vào bãi đấu, ai ai cũng trở thành thù địch của anh và những thắng lợi của họ làm anh buồn rầu chẳng khác nào những điều sỉ nhục. Lúc này những tiếng hoan hô của công chúng dành cho Fuentêx có thể coi như một việc đánh cắp vinh quang của anh.
Ngay từ lúc xuất hiện con bò thứ tư, con bò của anh, anh cố hết sức làm kinh ngạc khán giả bằng những kỳ tích của mình. Mỗi khi có một picado nào ngã ngựa là anh lại múa áo choàng, dụ con bò về phía bờ bên kia của bãi đấu, làm nó hoang mang trước những động tác nhanh nhẹn của anh, cuối cùng nó phải đứng yên. Bấy giờ anh mới lấy bàn chân chạm vào mõm nó hoặc cất mũ đặt vào khoảng giữa hai cái sừng của nó. Đôi khi anh thách thức một cách thật táo bạo: lợi dụng lúc con vật đang ngạc nhiên, anh giơ bụng ra hoặc quỳ xuống ngay trước mặt nó làm ra vẻ sắp nằm xuống ngay dưới mõm nó.
Những người hâm mộ đã có tuổi ngấm ngầm phản đối: "Thật là những trò khỉ, những trò hề mà ngày xưa không ai dung thứ!". Nhưng họ đành phải im, chịu thua những tiếng hoan hô rầm rĩ của công chúng. Lúc tiếng kèn báo hiệu giai đoạn cắm banđêri nổi lên, khán giả ngơ ngác thấy Gađacđô giật trong tay Người Quốc dân những cây banđêri và bước về phía con bò. Mọi người phản đối. Gađacđô mà cũng cắm banđêri à? Đừng! Đừng! Không ai còn lạ chỗ yếu của anh trong giai đoạn này của trận đấu. Việc đó là để cho những người đã tiến từng bước trong sự nghiệp của mình, cho những ai đã làm cái việc cắm banđêri trong một thời gian dài cạnh sư phụ trước khi trở thành matađo. Còn Gađacđô thì lại bắt đầu từ giai đoạn cuối, nghĩa là anh đã làm cái việc hạ sát con bò ngay từ khi anh bước vào đấu trường.
- Đừng! Đừng! Công chúng gào ầm lên.
Từ hàng rào, bác sĩ Ruix vừa vẫy tay vừa hét:
- Con ơi! Thôi thôi! Con chỉ biết làm việc chính là hạ sát con bò thôi.
Nhưng Gađacđô bỏ ngoài tai các ý kiến của khán giả, bất chấp những sự phản đối của họ khi anh thấy trong lòng bừng bừng dũng khí. Không để ý đến cảnh ồn ào, anh bước thẳng đến phía con bò và trong khi nó chưa kịp làm gì, anh đã cắm vèo cặp banđêri vào cổ nó. Nhưng cặp banđêri cắm vụng, không đúng chỗ, và con bò ngạc nhiên chồm lên. Thế là một chiếc bađêri rơi xuống đất. Nhưng có hề chi? Sự liều lĩnh của Gađacđô chỉ làm khán giả cười thích thú, vì họ vốn độ lượng với những người được họ yêu thích, sẵn sàng tha thứ và bào chữa mọi lỗi lầm. Gađacđô càng táo bạo, anh vớ một cặp banđêri khác rồi cắm nó vào cổ con bò, bất chấp những lời phê phán khuyên can của những người lo sợ cho tính mệnh của anh. Anh cắm đến lần thứ ba, vẫn cứ vụng, nhưng anh dũng cảm quá đến mức đáng lẽ khán giả huýt sáo chê bai thì họ lại hoan hô rầm rĩ: "Người mới ghê chứ! Nhộn thật và may mắn thật!..."
Trong sáu cây banđêri chỉ có bốn cây còn cắm trên cổ con bò, nhưng ẻo lả đến nỗi hình như con vật không cảm thấy sự "trừng phạt"
- Con bò vẫn còn nguyên vẹn, khán giả hét to trên các bậc ngồi trong khi Gađacđô nắm lấy thanh kiếm và mảnh mulêta tiến lên, bình tĩnh và oai hùng, tin tưởng vào vận đỏ của mình:
- Mọi người tránh xa ra! Anh lại thét lên.
Mặc dầu anh đã ra lệnh, anh vẫn thoáng thấy một người ở đằng sau mình. Anh quay đầu lại nhìn: Hóa ra là Fuentêx đang đi theo anh, tay cắp áo choàng, giả vờ lơ đãng nhưng sẵn sàng xông lại cứu anh, vì Fuentêx dường như linh cảm thấy sẽ có tai nạn xẩy ra.
- Để mặc tôi, Øngtôniô! Gađacđô nói với Fuentêx một cách nghiêm nghị nhưng kính trọng, như nói với một người anh cả.
Vẻ mặt của Gađacđô làm cho Fuentêx nhún vai như để nói rằng thế thì anh không chịu trách nhiệm nữa, rồi quay người lùi ra xa một chút, tin rằng sớm muộn anh vẫn sẽ phải can thiệp.
Gađacđô xòe cái mulêta ngay tên đầu con bò làm nó tấn công lập tức. Anh tránh thoát. Công chúng gào lên:
- Hoan hô!
Con vật quay lại chồm lên người matađo rồi bằng một cái húc mạnh, nó giật được cái mulêta. Gađacđô thấy mình mất vũ khí và bị con vật đuổi riết, đành chạy về phía hàng rào. Nhưng ngay lúc ấy, cái áo choàng của Fuentêx đã từ đâu tới chặn đứng con bò, còn Gađacđô đang chạy bỗng thấy con vật dừng lại thì anh không nhẩy qua hàng rào ra ngoài mà lại ngồi xuống thềm hàng rào và cứ ngồi như vậy bốn năm giây, ngắm địch thủ của mình ở cách có vài bước. Sự dũng cảm cố tình của anh làm cho cuộc tháo lui của anh kết thúc bằng những tiếng hoan hô rầm rĩ của công chúng.
Gađacđô cúi nhặt chiếc mulêta và thanh kiếm, sửa sang kỹ càng mảnh vải đỏ rồi đến đứng đối diện với con bò. Anh không thản nhiên như trước nữa mà hết sức tức giận và quyết tâm giết thật mau con vật đã khiến anh phải chạy trốn trước mắt bao nhiêu người vốn khâm phục anh. Vừa làm xong một động tác tránh, anh cho rằng phút quyết định đã tới: anh bèn đứng ưỡn ngực, cái mulêta hạ thấp xuống, cái chuôi kiếm giơ ngang tầm mắt. Khán giả lại phản đối, lo cho tính mệnh của anh.
- Đừng liều thế!... Đừng! Đừng! Trời ơi!
Một tiếng kêu khủng khiếp làm rung động toàn thể đấu trường. Công chúng kinh hoàng đứng bật dậy, mắt mở to, nhiều phụ nữ che mặt đi hoặc bíu chặt lấy tay người bên cạnh. Gađacđô, trong lúc lao vào con vật, vấp mũi thanh kiếm vào một cái xương của nó, chướng ngại vật đó làm cho anh chậm tháo thân nên bị một cái sừng húc trúng. Sừng móc vào ngang thân anh, tuy anh là một chàng trai khỏe mạnh và chân tay chắc nịch, anh vẫn bị nhấc bổng lên, tay chân múa men trên không như một con rối ẻo lả. Cuối cùng con vật hùng mạnh lắc đầu ném anh ra xa vài bước. Anh ngã vật xuống cát, tay chân dang rộng, khác nào một con nhái mặc quần áo bằng lụa thêu kim tuyến.
- Chết rồi! Sừng đâm thủng bụng rồi! Khán giả kêu lên.
Nhưng giữa những người cầm áo choàng chạy lại để che chở và cứu anh, Gađacđô đứng dậy mỉm cười, sờ nắn chân tay mình, rồi anh nhún vai để tỏ ý rằng anh vẫn bình yên vô sự. Anh choáng váng vì bị ném xuống đất và thắt lưng của anh rách bươm, nhưng chỉ có thế thôi. Sừng bò chỉ đâm vào cái vỏ lụa dày bọc người mà thôi.
Anh đi nhặt "những dụng cụ xử tử". Khán giả không còn ai muốn ngồi xuống vì tin rằng keo đấu sẽ nhanh chóng và dữ dội. Gađacđô tiến lại bên con bò như một người bị kích thích đến trở thành mù quáng. Sau khi thoát khỏi sừng bò anh không tin rằng nó ghê gớm nữa. Đối với anh, bây giờ chỉ có thắng hoặc chết, mà ngay lập tức không chậm trễ, không thận trọng. Hoặc con bò phải chết hoặc anh phải chết. Mắt anh đỏ ngầu như ứ máu. Anh loáng thoáng nghe thấy tiếng hò hét của khán giả khuyên anh thận trọng như tiếng gầm thét xa xôi từ một thế giới khác dội đến.
Anh chỉ làm hai động tác bằng mulêta với sự giúp đỡ của một capêađo đứng bên. Rồi đột nhiên, nhanh như tên bắn, anh xông vào con bò và phóng một nhát kiếm mà những khán giả khâm phục anh nói đó là một tia chớp. Anh đưa mạnh tay ra phía trước đến nỗi khi anh rút nó về, anh cảm thấy nó chạm vào một cái sừng, anh lảo đảo, bị hắt lại vài bước, nhưng anh vẫn đứng, còn con vật thì lồng chạy cuống cuồng rồi ngã ở bờ bên kia bãi đấu, bốn chân gập lại, đầu gục xuống cát cho đến lúc người puntiđiêrô(Puntidiêrô; loại đấu sĩ có nhiệm vụ dùng một mũi dao nhọn dài khoảng 30cm kết liễu đời con bò bằng cách đâm con dao ấy vào điểm nối sọ và xương sống con vật. Dao ấy gọi là puntidia) đâm cho nó một nhát để kết liễu đời nó.
Công chúng phấn khởi đến phát điên. Một trận đấu tuyệt diệu! Những xúc động không thể nào chịu nổi! Quả thật Gađacđô không để khán giả mất tiền hoài. Kỳ tích của anh đáng giá hơn tiền mua vé nhiều. Những người hâm mộ môn đấu bò sẽ tha hồ bình luận ba ngày liền trong các quán cà-phê. "Ôi chao! Cậu ấy mới liều mạng làm sao, mới hung làm sao!". Và những người khâm phục Gađacđô nhiệt liệt nhất, như bị một cơn sốt hiếu chiến, đảo mắt nhìn xung quanh để tìm những ai thuộc phe đối lập.
- Thật là nhà matađo số một trên thế giới!... Ai không đồng ý như vậy thì đã có tôi...
Khán giả chẳng chú ý gì nữa đến phần còn lại của buổi đấu. Sau những kỳ tích của Gađacđô, mọi thứ xem ra vô vị.
Khi con bò cuối cùng gục xuống, bọn trẻ con, khán giả hạ cấp trong xã hội và đấu sĩ tập sự, tràn vào bãi đấu như nước lũ. Họ vây quanh Gađacđô, đi hộ tống anh từ chỗ ngồi của ông chủ tịch đến tận cửa ra. Họ xô đẩy anh, ai cũng muốn bắt tay anh, chạm vào quần áo anh. Cuối cùng, những người nhiệt tình nhất, bất chấp những cái huých thụi của Người Quốc dân và những banđêridiêrô khác, túm lấy hai đùi của người matađo ưu tú, công kênh anh đi xuyên qua bãi đấu vào các hành lang rồi ra ngoài đấu trường.
Gađacđô bỏ mũ chào những nhóm người ca ngợi anh khi anh đi qua. Khoác chiếc áo choàng diễu hành, anh để cho khán giả khênh anh như một vị thần, vươn mình kiêu hãnh trên cái rừng người đội mũ kiểu Corđu và cát két kiểu Mađrit hoan hô anh như sấm. Khi chiếc xe ngựa của anh tới đầu phố Ancala, giữa tiếng reo mừng của rất nhiều người tuy không dự cuộc đấu nhưng đã biết tin thắng lợi, một nụ cười kiêu hãnh và thỏa mãn về sức lực của bản thân làm rạng rỡ khuôn mặt lấm tấm mồ hôi và hãy còn nhợt nhạt vì cảm động của anh. Người Quốc dân vẫn lo lắng về cái ngã ghê gớm của người đội trường, nên hỏi Gađacđô xem có đau ở đâu không và có cần gọi bác sĩ Ruix không?
- Không cần!... Bị xoa nhẹ một tý thôi mà! Không có bò mộng nào giết nổi tớ đâu!...
Tuy vậy, có lẽ đúng lúc say sưa tự đắc thì kỷ niệm về những nỗi lo sợ buổi sáng lại hiện ra trong ký ức và hình như anh thoáng thấy vẻ chế nhạo trong khóe mắt của Người Quốc dân, nên anh nói thêm:
- Có những ý nghĩ ám ảnh tớ trước khi tới đấu trường. Ám ảnh như hơi hướng của phụ nữ. Tuy vậy cậu có lý đấy, Xêbátchiêng ạ! Cậu nói thế nào nhỉ! Thiên Chúa hoặc Thiên Nhiên có phải không? ... Thật thế đấy, Thiên Chúa hoặc Thiên Nhiên đều chẳng dính dáng gì đến chuyện đấu bò cả. Bọn chúng ta phải tự mình lo lấy thân mình bằng tài ba hoặc dũng cảm, chứ chẳng có Trời Đất nào phù hộ mình cả... Này, Xêbátchiêng, cậu có năng lực đấy. Nếu trước kia cậu được học hành thì có lẽ đã thành công trong một nghề tự do nào rồi.
Trong lúc lạc quan vì sung sướng, anh coi người bạn banđêridiêrô kia như một nhà hiền triết, quên bẵng rằng trước đây anh luôn luôn chế giễu những bài diễn thuyết lủng củng của con người hiền lành thực thà ấy.
Về đến nhà, khi bước vào phòng ngoài, anh gặp không biết bao nhiêu là người hâm mộ muốn ôm hôn anh. Họ miêu tả chiến công của anh bằng những lời lẽ khoa trương làm cho anh tưởng rằng những thành tích ấy không phải là của anh nữa vì nó đã bị đưa lên quá đáng và biến hóa đi trong thời gian ngắn ngủi anh đi từ đấu trường về nhà. Lên tới phòng anh, anh thấy bạn hữu đông nghịt, toàn những ông sang trọng xưng hô cậu cậu tớ tớ với anh và cố dùng ngôn ngữ mộc mạc của dân quê, của những người chăn bò chăn dê. Họ vừa vỗ vai anh vừa nói:
- Cậu cừ lắm! Cừ lắm! Tớ chỉ biết nói thế thôi. Anh lảng tránh những người đón chào quá nhiệt liệt ấy, bước ra ngoài hành lang với Garabatô và bảo người hầu:
- Cậu đi đánh cho tớ bức điện về nhà. Cậu biết đấy: "Không có gì mới".
Garabatô muốn từ chối. Anh ta còn phải giúp người matađo cởi quần áo. Nhân viên của khách sạn sẽ đảm nhận việc đánh điện.
- Không ! Không ! Tớ muốn cậu đi đánh kia. Tớ sẽ chờ cậu về. Cậu còn phải đánh một bức nữa. Cậu cũng biết đấy: đánh cho người ấy..., cho phu nhân Xôn... Cậu cũng sẽ đánh: "Không có gì mới".
Khi chồng bà Aoguxtiax tên là Huan Gađacđô, thợ đóng giày dép có tiếng ở khu phố Fêria trong thành phố Xêvilơ và có cửa hàng nhỏ đặt dưới một cái cổng xe, mất đi, bà khóc ông một cách đau khổ, phù hợp với cảnh ngộ của bà; nhưng trong thâm tâm bà cũng cảm thấy ngấm ngầm hài lòng như khi người ta cất được gánh nặng và nghỉ ngơi sau một cuộc đi bộ dài.
- Tội nghiệp anh ấy quá! Lạy Chúa tôi, xin Chúa ban phúc lành cho vong hồn anh ấy! Lúc sinh thời, anh ấy thật là tốt, thật là chăm chỉ!
Trong suốt hai mươi năm chung sống, người chồng ấy không đem đến cho bà những sự phiền muộn nào khác những sự phiền muộn mà không một người phụ nữ nào trong khu phố tránh thoát. Trong số ba đồng bạc mà ông làm ra trung bình mỗi ngày, ông trao một đồng cho bà để bà chi tiêu vào việc nội trợ và nuôi nấng con cái, còn hai đồng kia thì ông giữ lại để chi vào những thú vui nho nhỏ và những việc giao thiệp của ông. Dĩ nhiên, ông phải đáp lại những cái "lịch thiệp" của bạn hữu mời ông đi uống rượu. Vả lại rượu vang xứ Øngđaluđi, vì lẽ nó là một niềm vinh quang của Đức Chúa Trời, nên không phải rẻ. Ông còn phải đi xem các cuộc đấu bò mộng, vì người đàn ông nào không biết uống rượu, không đi xem đấu bò thì sinh ra đời làm gì?
Bà Aoguxtiax phải nuôi hai con nhỏ, con bé Anhcacnaxiông và thằng bé Huan, nên phải thi thố tài năng để có tiền cho gia đình chi dùng. Bà làm vú già cho mấy nhà khá giả nhất trong khu phố, khâu vá cho hàng xóm, chạy hàng xách quần áo và nữ trang cho một người bán đồ cũ quen bà, quấn thuốc lá tay cho mấy ông sang trọng, cái đó lại nhắc bà nhớ tới nghề nghiệp của bà lúc còn trẻ, khi ông Huan, người chồng chưa cưới nồng nhiệt và khéo tán của bà, hàng ngày đến chờ bà ra về ở cổng xí nghiệp thuốc lá.
Không bao giờ bà phải phàn nàn ông chồng về chuyện phản bội hoặc đối xử tệ. Những tối thứ bảy, đến tận khuya ông thợ giầy mới về nhà, say mềm và phải có bạn hữu đi theo đỡ thì sự vui vẻ và âu yếm cũng theo ông về với gia đình. Bà Aoguxtiax phải thụi phát mãi mới đưa được ông vào trong nhà, vì ông cứ khăng khăng đứng trước cửa, vỗ tay và cất giọng lè nhè hát chầm chậm một bài tình ca để tặng bà vợ to béo. Và khi ông đã vào nhà và cánh cửa đã đóng lại làm hàng xóm không được xem trò vui ấy nữa, ông Huan đang lúc tình cảm bốc lên, cứ ngắm nghía mãi mấy đứa con đang nằm ngủ, hôn hít chúng nó, nhỏ nước mắt lã chã lên người chúng nó, rồi lại tiếp tục hát bài tình ca tặng bà Aoguxtiax "Hoan hô người phụ nữ đẹp nhất thế gian", còn bà thì thay quần áo cho ông, săn sóc ông như săn sóc một đứa trẻ ốm, cuối cùng bà cũng phải hết tức bực và bật cười.
Đó là cái tật xấu duy nhất của ông chồng đã quá cố. Con người thật tốt! Không bao giờ trai gái cờ bạc. Thói ích kỷ làm cho ông ăn mặc lành lặn trong khi vợ con rách rưới như tổ đỉa và cách chia không đều số tiền ông kiếm ra, những cái đó đã được ông đền bù lại bằng nhiều sáng kiến hào hiệp. Bà Aoguxtiax thường nhớ lại một cách hãnh diện những ngày hội hè, ông bảo bà choàng lên đầu tấm khăn Manila, tấm khăn cưới hồi xưa, còn ông thì đầu đội chiếc mũ dạ Coocđu màu nhạt, tay cầm cái can có núm bạc, đẩy mấy đứa con đi trước và đưa bà làm một vòng trên con đường dạo mát Đêlixia, y như một gia đình phú thương ở phố Rắn.
Than ôi! Những ngày sung sướng ấy chỉ còn để lại một kỷ niệm mờ nhạt và êm ái cho người đàn bà tội nghiệp. Ông Huan mắc bệnh lao, và trong mấy năm trời, bà vợ của ông phải chi tiêu rất tốn kém để chạy chữa cho ông, hàng ngày phải tìm thêm nhiều mưu mẹo thần tình để bù vào những đồng bạc mà ông chồng ốm không thể đem lại cho bà nữa. Cuối cùng ông mất ở bệnh viện, cam chịu số phận, yên chí rằng cuộc đời chẳng có giá trị gì nếu thiếu rượu măngđanila và thiếu đấu bò. Ông đưa con mắt âu yếm và biết ơn nhìn bà vợ lần cuối cùng như muốn nói với bà bằng con mắt đỏ: "Hoan hô người phụ nữ đẹp nhất thế gian!".
Cảnh góa bụa không làm cho bà Aoguxtiax khó khăn hơn trước. Trái lại, thoát khỏi người đàn ông trong hai năm qua là một gánh nặng cho bà, nặng hơn tất cả số người còn lại trong gia đình, bà cảm thấy thoải mái hơn. Là một người đàn bà có nghị lực và biết quyết định nhanh chóng, bà ấn định ngay lập tức nghề nghiệp cho con gái và con trai. Anhcacnaxiông đã mười bảy tuổi, sẽ vào xí nghiệp thuốc lá nhờ sự giúp đỡ của mấy bà bạn hồi trẻ của bà nay đã thành nữ giám thị. Còn Huan từ lúc bé tí đã suốt ngày ở dưới cái cổng xe để xem bố làm việc, sẽ thành thợ giày, theo ý muốn của bà mẹ. Thế là chú bé bị rút ra khỏi cái trường học khi chú mới mười hai tuổi, sau một thời gian học đọc học viết lỗ mỗ; chú vào học việc ở xưởng của một ông thợ giầy giỏi nhất Xêvilơ.
Từ đó bắt đầu cảnh đau khổ của bà mẹ tội nghiệp.
"Trời ơi! Thằng bé con nhà tử tế mà như vậy!...". Hầu như bất kể ngày nào, đáng lẽ đến xưởng giầy thì chú bé lại đến lò sát sinh cùng một bầy trẻ hư; các chú dùng một chiếc ghế dài trên con đường dạo mát Alamêđa Đê Ecculêx làm chỗ hẹn và dám tập múa áo choàng cạnh mấy con bò chẳng sợ ngã và bò dẫm lên người thường xuyên, làm cho bọn người chăn bò và làm việc ở lò sát sinh rất thích. Bà Aoguxtiax thường thường may vá suốt đêm để cho con đến xưởng giầy ăn mặc lành lặn sạch sẽ, thấy con đứng trước cửa nhà không dám vào nhưng không dám trốn vì bị đói, quần rách như bươm bướm, áo vấy đầy bùn, mặt mũi sưng vù và xây xát.
Ngoài những vết thương do con bò tai ác gây ra, chú bé Huan còn bị mẹ giáng cho nhiều cái tát và cán chổi. Nhưng người anh hùng của lò sát sinh chịu đựng tất, miễn là có cái ăn. "Mẹ cứ đánh, nhưng xin mẹ cho con ăn!". Càng đói bụng sau khi tập luyện dữ dội, chú ăn nghiến ngấu bánh mì cứng, đậu hư, cá thối, nghĩa là tất cả mọi thức ăn thải ra mà bà mẹ nghèo đã kiếm được trong các cửa hàng thực phẩm để nuôi con cho đỡ tốn kém.
Suốt ngày bận đánh bóng sàn nhà người khác, chỉ thỉnh thoảng vào buổi tối bà mới có thời giờ chạy đến nhà ông chủ của con mình để hỏi xem thằng bé có tiến bộ không. Nhưng khi bà từ xưởng đóng giầy quay về nhà, bà giận sôi lên và định bụng dùng những hình phạt ghê gớm nhất. Hầu như chẳng bao giờ chú bé mất dạy ấy đặt chân đến xưởng giầy. Suốt sáng chú ở lò sát sinh còn buổi chiều cùng nhiều đứa trẻ du đãng khác cùng loại chú, chú làm vướng lối đi vào phố Rắn và lởn vởn với vẻ thán phục quanh mấy tay đấu bò thất nghiệp tụ tập cở Cămpana. Bọn này mặc áo sacơtia bó sát người, đội mũ mới cứng nhưng không có một xu dính túi, và tay nào cũng khoe những thành tích của mình. Huan ngắm nghía họ như những con người cao siêu, thèm muốn bộ mặt dễ coi và phong cách thoải mái lịch sự của họ khi tán phụ nữ. Tưởng rằng mỗi người trong bọn họ đều có ở nhà một bộ quần áo thêu chỉ vàng và diện nó để diễu hành trước công chúng trong tiếng nhạc, Gađacđô cảm thấy kính nể họ đến run người.
Chú bé con bà Aoguxtiax đã được lũ bạn rách rưới đặt tên là "Dapatêrinh"( Dapatêrinh: nghĩa đen là thằng bé thợ giày). Chú rất thích có biệt danh, vì hầu như là tất cả các vĩ nhân của môn đấu bò đều có biệt danh cả. Rất cần bắt đầu bằng một cái gì chứ! Chú bé khoác vào cổ tấm khăn quàng đỏ mà chú đã xoáy của chị chú, và dưới cái mũ cát két chú để tóc xõa xuống tai thành những mớ to mà chú vuốt mượt bằng nước bọt. Chú muốn cái áo bằng vải chéo go của chú không dài xuống quá thắt lưng và có nhiều nếp. Về phần cái quần, vốn của bố chú để lại và được bà Aoguxtiax vá víu, chú yêu cầu nó phải lên thật cao, ống phải rộng, đít phải bó và chú uất ức đến phát khóc khi mẹ chú không chịu làm theo yêu cầu đó.
Còn cái áo choàng nữa! Làm sao có một cái áo choàng chiến đấu, khỏi phải van nài những thằng bạn tốt số hơn để mượn cái áo mơ ước ấy trong vài phút! Ở nhà chú còn một cái nệm trải giường cũ không còn ruột bị bỏ quên trong một phòng nhỏ. Một hôm túng bấn, bà Aoguxtiax đã đem bán cái ruột len của nó. Dapatêrinh lợi dụng ngày mẹ đến làm thuê ở nhà ông Rinh sĩ(Rinh sĩ: người giữ chức vụ khá lớn trong hàng giáo phẩm của một nhà thờ chính tòa đạo Thiên Chúa) đã ở lại nhà một buổi sáng. Mưu mẹo như một người đắm tàu không còn ai giúp đỡ trên cái đảo hoang vắng, phải dựa vào sáng kiến của bản thân, tự mình làm ra mọi thứ cần thiết, chú dùng mảnh vải ẩm ướt và xơ xác ấy để cắt may một cái áo choàng chiến đấu. Rồi chú nấu một nắm anilin đỏ mua ở hiệu thuốc và nhúng cái áo vải cũ ấy vào trong nồi phẩm. Sau đó chú ngắm nghía công trình của mình: một cái áo choàng đỏ rực hết chỗ nói, có thể làm cho lắm anh ghen tức trong những cuộc múa áo choàng ở nông thôn. Bây giờ chỉ còn có việc phơi khô cái áo lộng lẫy đó và chú bé Huan đem trải nó ra nắng, giữa đống quần áo trắng của bà hàng xóm. Nhưng gió đu đưa cái áo sũng nước ấy và làm cho nó dây phẩm vào đống quần áo trắng. Thế là không biết bao nhiêu người chửi rủa đe dọa, giơ quả đấm lên làm cho Dapatêrinh phải cất ngay chiếc áo oai vệ kia đi rồi chạy trốn, mặt mũi chân tay đỏ lòm y như chú vừa mới phạm tội giết người.
Bà Aoguxtiax - một phụ nữ kiên quyết, và có ria mép, không biết sợ hãi đàn ông và làm cho đàn bà phải kính nể vì bà đã quyết tâm làm cái gì thì không ai lay chuyển nổi - đành phải nhu nhược và thất vọng trước thằng con mình. Làm thế nào được? Bà đã đánh đấm khắp người đứa con hư ấy, bà đã làm gẫy không biết bao nhiêu cán chổi, mà chẳng được tích sự gì.
"Thằng mất dạy ấy, bà nói, da rắn hơn da trâu". Vốn quen bị bò bê húc và dẫm lên người một cách kinh khủng, và bị bọn chăn bò, đầy tớ ở lò sát sinh đánh đập không thương tiếc đồ mạt hạng trong giới đấu bò ấy, chú coi những cái tát của mẹ như một điều tự nhiên, như sự tiếp diễn trong gia đình cuộc sống của chú ngoài xã hội. Chú đã nhận những trận đòn của mẹ không mảy may có ý định tu tỉnh, coi nó như cái khoản chú phải trả để được nuôi ăn. Mặc dầu bị những lời chửi rủa và những cái bốp giáng xuống như mưa vào đầu vào cổ, chú nghĩ đến mẩu bánh mì cứng với tất cả niềm khoái lạc của một kẻ chết đói.
Vừa ăn no xong, chú lợi dụng ngay việc bà Aoguxtiax vội đi làm bắt buộc để cho chú được tự do và chú trốn ngay khỏi nhà.
Ở Cămpana, quảng trường tôn kính của môn đấu bò, người ta kháo nhau đủ mọi tin tức thú vị đối với giới hâm mộ môn ấy; tại đấy, lũ bạn của Huan báo cho chú biết một cái tin làm cho chú hào hứng đến hồi hộp:
- Này, Dapatêrinh, mai có cuộc đấu đấy!
Các thôn xã trong tỉnh tổ chức trong ngày hội Thánh bảo trợ những cuộc đấu áo choàng với những con bò mộng đã quen đấu, và bọn đấu sĩ oắt con kéo đến đó với hy vọng lúc trở về có thể kể những ngón hay mà các chú đã chơi trên các đấu trường oanh liệt ở Anancôla, Bunlulốt và Mairơnan. Các chú lên đường vào buổi tối, áo choàng khoác trên vai nếu là mùa hè hoặc mặc vào người nếu là mùa đông, dạ dày lép kẹp, miệng liến láu nói chuyện bò mộng. Nếu cuộc hành trình kéo dài tới mấy ngày, tối đến các chú ngủ ở ngoài trời hoặc trong kho chứa cỏ của những ông chủ trại từ thiện. Vào mùa hoa quả, thật không may cho những chùm nho, vườn dưa, vườn vả bị các chú gặp ở dọc đường.
Mối lo ngại duy nhất của các chú là bị một nhóm khác, một đội đấu khác cũng có ý nghĩ như các chú, bất thình lình đến cạnh tranh cùng một làng.
Khi các chú đến nơi, mặt mày đầy cát bụi, cổ họng khô khốc, người mệt nhoài, chân đi cà nhắc sau một cuộc đi bộ xa, các chú tới ủy ban xã trình diện. Đứa táo bạo nhất trong bọn đóng vai đội trưởng, khoe với ông xã trưởng tài ba của đội mình, và tỏ ý rằng đội sẽ mãn nguyện nếu xã rộng lòng cho ngủ trong chuồng ngựa của quán cơm và thết một bữa ăn xoàng mà chỉ vài phút sau các chú đã ngốn sạch.
Trong quảng trường của xã vây kín bằng những chiếc xe bò chở hàng và bục ván, người ta đem thả mấy con bò mộng già nua, trông như những pháo đài thịt, da sần sùi sứt sẹo, sừng mẻ và to tướng. Đó là những con bò đã đem đấu nhiều năm qua trong mọi cuộc hội hè của tỉnh, những con vật đáng kính lọc lõi, biết mọi mưu mẹo ma quái của nghề đấu bò. Đứng ở một nơi an toàn, bọn trai làng chọc phá các con bò ấy, và người xem không thích chúng bằng thích những chú bé đấu sĩ từ Xêvilơ tới. Các chú vung áo choàng, chân run lẩy bẩy vì sợ hãi. Nhưng con ma đói làm cho các chú thành can đảm. Mỗi khi các chú ngã, người xem lại ồ lên, vui thích. Khi một chú đột nhiên hốt hoảng, chạy trốn sau hàng rào, những người dân quê độc ác chửi mắng tới tấp; họ ghè vào bàn tay của kẻ chạy trốn đang bám chặt lấy thành gỗ hàng rào, họ nện gậy lên đùi chú để bắt chú phải nhẩy trở vào bãi đấu.
- Ê, ê, thằng nhát! Quay mặt vào con bò cơ, thằng khoác lác ạ!
Đôi khi, bốn thằng bạn phải khênh ra khỏi đấu trường một đấu sĩ mặt xanh như tàu lá, mắt đờ đẫn, đầu thõng thẹo, ngực thở phì phò như thổi bễ. Ông thú y chạy lại không thấy máu, ông bèn nói cho mọi người yên tâm. Cậu chàng chỉ bị chấn thương vì bị ném ra xa vài thước rồi rơi huỵch xuống đất như một mớ quần áo bẩn, lại có lúc một đấu sĩ oắt con phát hoảng lên vì bị con vật to tướng dẫm lên người. Khán giả đổ một xô nước lên đầu chú rồi cho chú uống một cốc vại rượu mạnh Cadala khi đã hồi tỉnh. Đối với chú, được săn sóc như thế thật sướng hơn ông hoàng. Sau đó, đấu sĩ lại bước vào bãi đấu.
Khi người chăn bò không còn con bò nào khác để thả vào bãi đấu nữa mà trời thì sắp tối, hai thành viên của đội đấu lấy chiếc áo choàng tươm nhất đội, mỗi chú túm một góc áo, rồi đi từ bục này sang bục khác để xin tiền thưởng. Những đồng xu ném xuống mảnh vải đỏ, nhiều ít tùy theo mức thích thú mà các đấu sĩ đem lại cho dân sở tại. Rồi các đấu sĩ lập tức lên đường đi Xêvilơ vì biết rằng nếu vào quán thì sẽ hết xoẳn tiền. Dọc đường, nhiều khi các chú đánh nhau trong lúc chia những đồng xu bọc trong một cái khăn tay.
Trong những ngày còn lại của tuần lễ, các chú kể thành tích cho những thằng bạn không tham gia cuộc ra quân, làm cho những thằng này phải trố mắt. Những vị anh hùng trẻ tuổi ba hoa về ngón vêrônica(Vêrônica: kiểu múa áo choàng trong đó đấu sĩ đứng trước con bò, hai bàn chân thẳng hàng với hai chân trước của con vật, căng áo choàng ra, rồi khi con vật xông vào húc thì anh ta khiến nó tạt sang một bên bằng cách đưa áo choàng về) của Garôbê, về ngón navara(Navara: kiểu múa áo choàng trong đó đấu sĩ cũng đứng ở tư thế như trên kia và căng áo choàng gần sát mặt đất. Khi con vật xông vào húc, anh ta nâng nhanh áo lên phía trên đầu nó) của Lôma mà mình đã chơi, về tai nạn khủng khiếp bỉ ổi Pêđrôxô, không quên học mót các kiểu cách và tư thế của những đấu sĩ thực thụ, đứng cách đó vài bước đang tuôn ra đủ mọi thứ khuếch khoác dối trá để tự an ủi tình trạng thất nghiệp của mình.
Có một lần bà Aoguxtiax bặt tin về Huan trong hơn một tuần lễ. Cuối cùng có người báo lờ mờ cho bà biết rằng Huan bị thương trong một cuộc đấu áo choàng ở xã Tôxina. "Lạy Chúa tôi! Bà kêu lên. Không biết cái xã ấy ở tận đâu? Tôi làm thế nào mà đi đến đó được?". Bà coi con trai của bà như đã chết, bà khóc nó, chuẩn bị đi và lúc bà sắp lên đường thì Huan lại xuất hiện, người xanh nhợt nhạt, gầy yếu nhưng thuật lại tai nạn của mình một cách vui thú hiên ngang. "Có gì đâu! Như kim tiêm vào đít thôi mà, thủng sâu có vài xăng-ti-mét!". Rồi trâng tráo như nhiều kẻ chiến thắng, chú vạch vết thương cho mọi người hàng xóm xem, quả quyết rằng họ có thể thọc ngón tay vào mà không chạm tới đáy. Chú hãnh diện về mùi thối của thuốc vàng xông ra khắp nơi chú đi qua và chú rất khoái về cách săn sóc ân cần ở cái xã mà chú cho là phía bên ấy tốt nhất nước Tây Ban Nha. Ở xã đó những người giàu nhất, tức là những nhà quí tộc như chúng ta nói, đã quan tâm đến số phận của chú. Ông xã trưởng đến thăm chú và trả tiền xe về nhà cho chú. Trong túi Huan còn cả ba đồng bạc mà chú biếu mẹ một cách hào phóng như những người cao cả. Vinh quang như thế vào lúc có mười bốn tuổi! Chú càng vui thích khi ở Cămpana vài đấu sĩ thực thụ hạ cố để ý đến chú và hỏi thăm vết thương của chú đã khỏi chưa.
Sau tai nạn này, Huan không đặt chân đến xưởng đóng giầy nữa. Bây giờ chú đã biết con bò mộng ra sao rồi. Vết thương của chú có tác dụng làm cho chú thêm can đảm. Phải thành một đấu sĩ, không thể khác được! Bà Aoguxtiax thôi không trừng phạt chú nữa, vì bà thấy có làm thế cũng vô ích. Bà coi như đứa con trai của bà không tồn tại nữa. Khi chú về nhà buổi tối, mẹ và chị đang ăn, hai người lấy thức ăn cho chú ăn, không nói với chú một lời, toan làm nhục chú bằng thái độ khinh bỉ. Nhưng cái đó không hề ảnh hưởng đến việc chú nhai bánh. Khi chú về nhà quá chậm, mẹ và chị không để phần cho chú một mẩu bánh nào nữa, chú đành lại ra đi đói vẫn hoàn đói.
Cùng với nhiều đứa trẻ hư hỏng khác có con mắt bất lương họp thành một bầy phạm nhân tập sự và đấu sĩ tương lai, chú là một trong những người đêm đêm đi dạo trên con đường Alamêđa Đê Ecculêx. Các bà hàng xóm có khi gặp chú đang nói chuyện ở ngoài phố với mấy ông sang trọng bé nhỏ làm các bà buồn cười khi trông thấy hoặc với vài vị đạo mạo mà miệng lưỡi thế gian đặt cho những tên đùa của con gái. Có những mùa chú đi bán báo; trong các hội lớn của tuần lễ Thánh, chú bán kẹo cho mấy bà sang trọng ngồi ở quảng trường Xăng Frăngxixcô; trong những dịp hội chợ, chú lượn quanh các khách sạn để tìm "người Anh" - đối với chú mọi người ngoại quốc đều là người Anh cả - với hy vọng làm người dẫn đường cho họ.
- Milo(Milo: Xuất xứ từ tiếng Anh, nghĩa là quý ngài, chỉ những người quý tộc) ơi Milo! Tôi là đấu sĩ bò mộng! Chú nói ngay khi thoáng thấy một người ngoại quốc, dường như nghề nghiệp đó là một sự giới thiệu chắc chắn trước mắt những người nước ngoài. Và để chứng minh lời nói của mình, chú bỏ mũ cát két ra, hất về phía sau đầu cái nạm tóc côlêta dài một gang tay mọc dựng đứng ở đỉnh đầu.
Chú có một thằng bạn nghèo tên là Siripa, cùng tuổi với chú, người nhỏ bé, mắt láu lỉnh, không cha không mẹ, lang thang ở Xêvilơ từ khi mới bắt đầu hiểu biết và rất có uy tín đối với Huan về mặt kinh nghiệm. Một bên má của Siripa bị bò húc rách thành sẹo và Dapatêrinh coi cái sẹo đó đáng tôn kính hơn vết thương bị che khuất của mình nhiều.
Ở ngoài cửa một khách sạn, lúc một nữ du khách thích màu sắc địa phương nói chuyện với mấy đấu sĩ tí hon, ngắm nghía mớ tóc côlêta của các chú, khoái chí nghe các chú kể chuyện về vết thương của mình và cuối cùng cho các chú ít tiền thì Siripa nói với bà ta với giọng tình cảm:
- Xin bà đừng cho nó vì nó còn mẹ. Trái lại tôi đây chỉ có một mình ở trên đời. Chao ôi! Khi người ta có một người mẹ, người ta có biết hạnh phúc của người ta đâu!...
- Thật thế đấy!... Thật thế đấy!... Huan rền rĩ. Phút mủi lòng đó không ngăn cản Huan tiếp tục
cuộc đời hư hỏng, chỉ họa hoằn nó mới ở nhà và thường làm những cuộc hành trình xa Xêvilơ.
Siripa rất tài sống bằng những phương kế tạm thời. Những ngày có đấu bò, chú quyết tâm chuồn vào bãi với thằng bạn chú, và để đạt nguyện vọng đó chú tìm ra nhiều mưu mẹo: trèo tường, len vào giữa đám đông, van lạy nhân viên đấu trường. Chứ chẳng lẽ những người trong nghề như bọn chú mà lại không dự những hội đấu bò hay sao!
Khi không có dịp múa áo choàng ở các làng trong tỉnh, các chú đi múa chiếc áo rách của mình với những con bê ở đồng cỏ Tablađa.
Tuy vậy, tất cả những cái hấp dẫn của cuộc sống ở Xêvilơ không đủ thỏa mãn tham vọng của hai chú. Đã đi nhiều nơi, Siripa kể cho bạn nghe những thú vui mà chú đã chứng kiến ở các tỉnh xa. Không có ai tài hơn chú để đi xa mà không mất tiền bằng cách lủi vào trong các chuyến xe lửa. Dapatêrinh rất khoái chí nghe bạn tả cảnh Mađrit, cái thành phố đầu tiên có một đấu trường có thể nói là thánh đường của môn đấu bò.
Để đùa bỡn hai chú, một thanh niên giàu có, một hôm, ở ngoài cửa một hàng cà phê trong phố Rắn, nói rằng hai chú sẽ kiếm được nhiều tiền ở Binbao, vì ở đó số đấu sĩ không lúc nhúc như ở Xêvilơ. Hai chú bèn quyết định đến đó, túi rỗng không, chẳng có hành lý gì ngoài những chiếc áo choàng, những chiếc áo thật sự trước đây của những đấu sĩ chính thức nhưng đã rách nát mà hai chú mua có mấy hào bạc ở một cửa hàng quần áo cũ.
Hai chú thận trọng len vào một toa tàu rồi nấp dưới ghế dài. Nhưng cái đói và một số nhu cầu khác bắt buộc hai chú phải lộ diện với hành khách. Cuối cùng họ thương hại hai chú, cười thú vị về bộ mặt kỳ cục, nạm tóc côlêta và cái áo choàng của hai chú, rồi làm phúc cho hai chú các thức ăn thừa. Khi đến một ga, hai chú bị nhân viên đường sắt đuổi bắt, hai chú chạy từ toa này sang toa khác, cố leo lên nóc toa, thu hình nấp ở đấy để chờ tàu lại chạy. Nhiều khi bị tóm, hai chú bị béo tai, tát, đá đít vô hồi kỳ trận. Hai chú phải nằm lại trên một sân ga hẻo lánh trong khi con tàu xa rời như một niềm hy vọng tiêu tan. Thế là hai chú chờ một chuyến tàu khách, ngủ đêm ở giữa trời. Nếu thấy mình bị theo dõi gắt quá, hai chú băng đồng lần đến ga sau, hy vọng ở đó sẽ gặp may hơn.
Sau một chuyến đi dài ngày bị ngắt quãng bằng nhiều đợt dừng chân lâu và nhiều cái đá đít, hai chú đến Mađrit. Tại phố Xêvilơ và quảng trường Puecta Đen Xôn, hai chú ngắm nghía những nhóm đấu sĩ thất nghiệp. Hai chú xin tiền những nhân vật thượng đẳng đó để tiếp tục cuộc hành trình, nhưng vô hiệu. Một người lao công của một đấu trường, gốc ở Øngđaludi thương hại hai chú cho phép hai chú ngủ trong chuồng ngựa và còn cho hai chú xem một cuộc đấu bò non trong đấu trường nổi tiếng ấy. Tuy nhiên hai chú thấy đấu trường này không nguy nga bằng đấu trường ở xứ mình.
Liều lĩnh mấy rồi cũng sợ và thấy cái đích của cuộc hành trình ngày một lùi xa, hai chú bèn trở về Xêvilơ bằng phương tiện đã dùng trong lúc đi. Nhưng bây giờ hai chú đâm nghiện những cuộc hành trình lậu vé xe lửa. Từ đó, hễ nghe nói có hội đấu bò cổ truyền ở một thị trấn xa xôi nào trong xứ Øngđaluđi là hai chú lại lên đường và cứ như vậy hai chú đi đến tận vùng
Mansơ và vùng Extơramađua. Và nếu chẳng may phải cuốc bộ thì hai chú xin vào trú ở các nhà nông dân là những người cả tin và hiếu khách, họ ngạc nhiên trước cái tuổi non nớt, lòng dũng cảm và những lời thiên hô bát sát của hai chú, họ tưởng hai chú là đấu sĩ thật.
Cuộc sống lang thang đó dẫn hai chú đến chỗ phải dùng những mưu mẹo của người nguyên thủy để thỏa mãn những nhu cầu của mình. Khi tới gần các trại, hai chú bò để ăn trộm rau quả mà không bị lộ. Hai chú phục hàng giờ liền, rình một con gà dại dột đi ăn lẻ, bẻ gẫy cổ nó, rồi lại lên đường, và đến chặng nghỉ chân, hai chú nhóm một mớ củi khô, nướng gà rồi ăn ngấu ăn nghiến nửa sống nửa chín như những người man rợ. Hai chú sợ chó giữ nhà hơn sợ bò mộng, vì chúng là những con vật rất khó chiến đấu, hễ thấy bộ mặt kỳ quái và người ngợm bẩn thỉu của hai chú là nổi hung và nhe nanh xông tới ngay.
Nhiều lần, trong lúc hai chú ngủ ở ngoài trời, cạnh ga để chờ tàu, hai hiến binh bước lại gần. Trông thấy gói quần áo màu đỏ mà hai chú dùng để gối đầu, mấy người phụ trách trật tự công cộng kia yên tâm, nhẹ nhàng nâng mũ cát-két của hai chú lên thấy lộ ra mớ tóc côlêta, bèn cười bỏ đi, không cần điều tra thêm: đó không phải là những thằng ăn cắp mà là những người trong giới đấu bò đi dự cuộc đấu ở đâu đó. Lý do của thái độ bao dung đó vừa là thiện cảm đối với nghệ thuật dân tộc vừa là lòng kính trọng đối với những người chưa rõ tương lai sẽ ra sao. Ai mà biết được mấy oắt con cùng cực xơ xác ấy sau này chẳng thành những ngôi sao sáng của nghệ thuật, những vĩ nhân hạ sát bò mộng để tặng các vị vua, sống như những ông hoàng và được báo chí thông báo mọi thành tích và lời phát biểu?...
Một buổi chiều, ở trong xứ Exơramađua, để làm ngạc nhiên hơn nữa đám cử tọa quê mùa đang hoan hô nhiệt liệt những đấu sĩ ưu tú "từ Xêvilơ đặc biệt đến đây" hai chú định cắm banđêri vào bướu cổ một con bò mộng già nhút nhát. Huan thúc cặp banđêri vào cổ con bò, rồi đến bên một cái bục để đón nhận sự hoan nghênh của công chúng mang hình thức những cái vỗ vai mạnh kinh khủng và vài cái cốc rượu. Đột nhiên có những tiếng thét khủng khiếp làm chú hết cả say sưa về thắng lợi huy hoàng. Siripa không còn đứng trên mặt đất của bãi đấu nữa. Tất cả những cái gì còn lại của chú là mấy cây banđêri lăn lóc trong bụi đất, chiếc dép và chiếc mũ cát-két. Con bò mộng thì lồng lộn tức tối như bị một vật cản đường và lắc rất mạnh một mớ quần áo mắc vào một cái sừng trông giống một con rối. Cái mớ không ra hình thù gì ấy bị con bò hất đầu đưa đi đưa lại dữ dội, tung lên trời và vọt máu ra. Trước khi rơi xuống đất, nó lại quàng phải cái sừng kia, nên lại lúc la lúc lắc một hồi lâu. Cuối cùng cái mớ đáng thương ấy rơi bịch xuống đất và nằm bẹp dí, bất động, máu sủi bong bóng tuôn ra lênh láng như một cái hũ rượu vang thủng.
Người chăn bò vội dùng những con cabextơrô để đưa về chuồng con bò mộng mà không ai dám lại gần. Siripa tội nghiệp được khênh vào một gian phòng xép dùng làm phòng giam. Bạn chú đến đấy thấy chú mặt trắng bệch, mắt lờ đờ, toàn thân đỏ lòm và máu vẫn chảy mặc dầu người ta đã chữa bằng vải chấm dấm, thứ thuốc duy nhất có lúc bấy giờ.
- Vĩnh biệt Dapatêrinh! Chú bé hấp hối thì thào - Vĩnh biệt Huan!
Và thế là hết. Kinh hoàng, bạn của chú bé chết trở lại Xêvilơ bị cặp mắt lờ đờ và những lời vĩnh biệt tội nghiệp ám ảnh suốt dọc đường. Chú sợ. Giá lúc ấy mà một con bò cái đi bước một từ trong một sân trại ra ắt chú sẽ chạy trốn ngay. Chú nghĩ đến mẹ và những lời khuyên nhủ khôn ngoan của bà. Bước hẳn vào nghề đóng giầy và sống bình yên chẳng hơn sao?
Những ý nghĩ tốt đẹp đó chỉ tồn tại chừng nào chú có một mình thôi. Về đến Xêvilơ, Huan lại chịu ảnh hưởng của môi trường. Bạn hữu vây quanh chú, bắt chú kể thật kỹ tai họa đã xảy ra. Ở Cămpana các đấu sĩ chuyên nghiệp cũng hỏi chuyện chú và nhớ lại với lòng thương hại thằng bé con mà họ vẫn sai vặt.
Huan thấy mọi người trọng mình như vậy cũng thêm can đảm. Để cho trí tưởng tượng tha hồ bay bổng, chú kể rằng chú đã xông ngay vào con bò khi thấy bạn bị thương, nắm lấy đuôi con vật và làm nhiều cái can đảm khác nhưng vẫn không sao cứu Siripa khỏi chết.
Mối lo sợ tiêu tan. Trở thành đấu sĩ, chỉ có một con đường là trở thành đấu sĩ! Vì có nhiều người khác đã là đấu sĩ, lẽ nào mình lại không là đấu sĩ? Huan nghĩ đến những hạt đậu thối, những mẩu bánh mì cứng của mẹ, đến những nỗi tủi nhục mỗi khi muốn có một cái quần mới, đến con ma đói, luôn luôn đi theo những cuộc hành trình của chú. Hơn nữa, chú thèm muốn vô cùng một cuộc sống sang trọng đầy vui thú, chú ao ước có xe có ngựa. Chú dừng chân bần thần trước những ngôi nhà giàu sang và ngắm qua cổng sắt những cái sân trông lộng lẫy kiểu phương Đông, những hành lang xây bằng gạch men, những nền nhà lát cẩm thạch, những bể nước róc rách suốt ngày đêm phun những tia nước bóng như hạt trai vào một cái bồn có cây lá xanh um bao quanh. Thế là số phận của chú được định đoạt. Hoặc giết bò mộng hoặc chết!
Nhất định phải giàu có, làm cho báo chí nói đến mình và mọi người chào mình, dù phải đem tính mệnh trả giá cho hạnh phúc đó! Chú khinh những cấp bậc thấp trong nghề đấu bò. Chú thấy người banđêridiêrô phải dấn thân vào vòng nguy hiểm chẳng khác gì người matađo, thế mà chỉ được lĩnh ba mươi đua-rô cho mỗi trận đấu, rồi sau một cuộc đời nhọc nhằn và xơi nhiều sừng bò, đến lúc già cũng chẳng có nguồn sống nào khác ngoài một cửa hàng cà khổ dành dụm mãi mới mở được hoặc một chỗ làm xin ở lò sát sinh. Nhiều banđêridiêrô chết ở bệnh viện và đã có khối người khác ăn mày những đồng nghiệp trẻ. Cần quái gì những cây banđêri. Cần quái gì lối học nghề dài dằng dặc làm con người phải chịu sự áp chế của một ông thầy dòng đã nhiều năm. Phải giết bò ngay lập tức, phải bước vào đấu trường với cương vị matađô ngay! Tai nạn của Siripa làm cho Huan có uy tín đối với bạn bè nên chú có thể lập ra một đội đấu bò ăn mặc rách rưới, đi theo chú đến các cuộc đấu áo choàng ở thôn quê. Người ta nể chú vì chú can đảm nhất và ăn mặc lành lặn nhất. Vài cô gái giang hồ, mê vẻ đẹp hùng tráng của Huan lúc này đã mười tám tuổi cũng như món tóc côlêta uy tín của chú, tranh giành nhau ầm ĩ cái vinh dự được săn sóc con người thanh lịch của chú. Ngoài ra chú còn nhờ cậy một ân chủ, một vị cựu thẩm phán yêu vẻ ngộ nghĩnh của những đấu sĩ trẻ tuổi. Quan hệ thân mật giữa Huan với ông già làm cho bà Aoguxtiax bực tức, bà gọi cái đó bằng những tiếng tệ hại nhất mà bà đã học được xưa kia khi bà còn là công nhân của xí nghiệp thuốc lá.
Bây giờ Dapatêrinh vênh vang diện những bộ quần áo bằng dạ Anh, những cái mũ mới toanh. Những người xuất tiền ra cho chú trông nom rất kỹ cổ và ngực áo sơ mi của chú, luôn luôn giữ cho nó trắng bốp. Có những ngày chú trưng trên áo gilê một sợi dây chuyền kép bằng vàng của phụ nữ. Vật trang sức này do ông bạn đáng kính của chú cho mượn và đã được dùng để trang điểm bộ ngực của nhiều "thanh niên mới vào nghề" khác.
Chú giao thiệp với những đấu sĩ thực thụ. Chú có đủ tiền để mời rượu mấy người pêông già và những người này kể cho chú nghe những thành tích của những đấu sĩ danh tiếng. Thiên hạ tin chắc rằng các ân chủ của chú đang vận động cho chú và hễ có dịp là chú có thể bắt đầu sự nghiệp trong một cuộc đấu bò của đấu sĩ mới ở Xêvilơ.
Bây giờ Dapatêrinh đã thành matađo. Một hôm ở Lêbrêgia, khi người ta thả vào bãi đấu một con bò mới lớn rất lanh lẹn, bạn hữu của Huan khuyến khích anh hãy thử làm cái trò cao nhất. "Cậu có dám chơi bóng không?". Và anh đã chơi. Từ đấy, thấy mình thắng lợi dễ dàng trong cuộc thử thách, anh thêm táo bạo, anh chạy tới mọi cuộc đấu với bò non và tới các trại có tổ chức đấu và giết bò.
Ông chủ trại Rinhcônađa, một trại giàu và có mấy bãi đấu nhỏ, là một người nhiệt tình sẵn sàng cho ăn ngủ bất cứ dân nghiện môn đấu bò nghèo đói nào đến giải trí cho ông bằng cách đấu với những con bò của ông. Trong một dạo túng đói, Huan tới đó cùng một số bạn để ăn mừng sức khỏe nhà quý tộc nông thôn, mặc dầu bị bò xô ngã mấy lần. Bọn họ tới sau hai ngày cuốc bộ. Trông thấy họ mình đầy bụi đường, ông chủ trại trịnh trọng tuyên bố:
- Đứa nào đấu khá nhất sẽ được tao mua vé xe lửa cho để trở về Xêvilơ.
Trong hai ngày liền, ông ngồi hút thuốc lá trên cái ban công nhỏ của bãi đấu để xem mấy thanh niên Xêvilơ đấu với những con bò non và bị húc xéo nhiều lần.
- Thằng bố láo kém quá! Ông nói, không bằng lòng một động tác múa áo vụng về.
Khi một chú bị bò dẫm lên người và nằm thẳng cẳng trên bãi đấu, ông thét:
- Thằng nhát như cáy đứng dậy đi thôi! Để tao bảo mang cho mày một cốc rượu vang là mày hết sợ!
Dapatêrinh hạ sát một con bò non trúng ý của ông chủ trại quá, khiến ông rất thích và cho anh ngồi ăn cùng bàn; còn các bạn của anh vẫn phải ăn ở dưới bếp với bọn chăn bò và thợ cày, vục cái thìa bằng sừng vào trong nồi thức ăn bốc khói.
- Cháu ạ, cháu được thưởng cái vé xe lửa để về nhà. Cháu sẽ tiến xa nếu cháu dũng cảm. Cháu có nhiều năng khiếu đấy.
Trong khi đồng đội cuốc bộ, Dapatêrinh ngồi chễm trệ trong toa xe lửa hạng nhì. Anh tự nhủ rằng mình đang bước vào một cuộc đời mới và anh ngắm một cách thèm thuồng cái trại mênh mông với những vườn ô liu bát ngát, những đồng lúa mì, những cối xay bột, những bãi cỏ thẳng cánh cò bay có hàng nghìn con dê đang gặm cỏ và không biết bao nhiêu là bò mộng và bò cái nằm yên nhai cỏ, bốn chân quặp dưới bụng. Giàu thật! Chao ôi! Nếu một ngày kia ta được làm chủ một gia sản lớn như thế này nhỉ!...
Sau khi đạt được thành tích vẻ vang trong các trận đấu bò non ở thôn quê, danh tiếng của Gađacđô bay đến tận Xêvilơ và gợi sự chú ý của những nhà hâm mộ môn đấu bò ưu tú và tham lam, luôn luôn hy vọng thấy một ngôi sao mới xuất hiện làm lu mờ những ngôi sao cũ.
- Xem ra cậu này có triển vọng đấy, họ nói khi thấy anh đi qua trong phố Rắn, chân bước nhỏ nhẹ, tay vung vẩy rất kiểu cách. Cần phải xem cậu trên "mảnh đất chân lý".
Đối với những người đó và Dapatêrinh, "mảnh đất chân lý" ấy là đấu trường Xêvilơ. Chàng trai không muốn gì hơn là được gặp gỡ mặt đối mặt với "chân lý". Ân chủ của anh đã mua cho anh một bộ quần áo diễu hành hơi cũ của một matađo không có danh tiếng thải ra. Một cuộc đấu bò non được tổ chức để lập quỹ từ thiện và nhiều nhà hâm mộ đấu bò có thế lực và chuộng cái mới đã vận động để tên anh được ghi vào chương trình với tư cách matađo nhưng đấu không lấy tiền.
Anh con trai của bà Aoguxtiax không thích người ta ghi tên áp phích cái tên đùa Dapatêrinh mà anh muốn mọi người quên đi. Không muốn có tên đùa và càng không muốn làm những chức vụ xoàng xĩnh. Anh muốn xuất hiện với tên thật là Huan Gađacđô, không có biệt hiệu nào nhắc lại nguồn gốc tầm thường của anh với những nhân vật cao sang nhất định sau này sẽ trở thành bạn anh.
Dân phố Fêria kéo rất đông đến dự cuộc đấu với tấm nhiệt tình ồn ào và yêu nước của họ. Dân khu ngoại ô Macarêna cũng quan tâm và thợ thuyền ở các khu ngoại ô khác cũng bị lôi cuốn.
Gađacđô múa áo, đâm kiếm, bị một con bò xô vào người, nhưng không bị thương và công chúng luôn luôn hồi hộp về cách đấu của anh vừa khéo léo vừa táo bạo. Một số người hâm mộ được ai nấy kính trọng ý kiến mỉm cười độ lượng. Chắc chắn anh thanh niên này còn phải học tập nhiều, nhưng anh ta có can đảm, thiện chí mà cái đó là cốt yếu.
- Vả lại, anh ta thực sự đã bắt đầu hạ sát bò và đã được thể nghiệm trên "mảnh đất chân lý" rồi.
Trong suốt trận đấu, những cô bạn gái hay giúp đỡ Gađacđô lồng lộn, say sưa, vặn vẹo người như phát điên, ràn rụa nước mắt, sùi bọt mép, tuôn ra giữa ban ngày tất cả những từ ngữ yêu đương mà thường thường các cô chỉ dùng ban đêm. Một cô ném cái khăn trùm đầu của mình vào trong bãi đấu. Để nổi bật hơn, một cô khác vứt luôn cả cái áo lót và coócxê của mình. Một cô thứ ba đi đến chỗ lột phăng váy ra, và khán giả vừa cười vừa nắm lấy các cô để ngăn các cô khỏi nhảy phốc vào bãi đấu hoặc cởi truồng ra.
Ở đằng kia đấu trường, vị thẩm phán già mỉm cười trong bộ râu bạc xúc động và thán phục đến đờ người sự dũng cảm của "bé xinh" và vẻ thanh lịch của anh trong bộ quần áo diễu hành. Nhưng khi ông ta thấy anh bị con bò xô lăn xuống đất, ông ngã ngửa người như sắp ngất. Ối trời, ông chịu sao nổi cái đó!
Người chồng của Anhcacnaxiông, chị ruột của nhà matađo trẻ tuổi, vênh váo tựa vào hàng rào. Bác tên là Angtôniô, làm nghề đóng yên ngựa, có cửa hiệu ở ngoại ô Macarêna. Bác là một người đứng đắn, rất ghét lối sống lang thang. Bác mê cô công nhân thuốc lá duyên dáng nên đã lấy cô với điều kiện dứt khoát là cô không được quan hệ gì với thằng du đãng Huan. Gađacđô tức mình về thái độ lạnh lùng của người anh rể, không bao giờ anh đặt chân đến cửa hiệu của Angtôniô mà anh chỉ gọi bằng ông mỗi khi gặp ở nhà bà Aoguxtiax vào buổi chiều.
- Để tôi đi xem khán giả ném cam vào cái thằng em lưu manh của mình như thế nào, Angtôniô nói với vợ lúc đi đấu trường.
Nhưng bây giờ, từ chỗ ngồi của mình, Angtôniô hoan hô người matađo kiệt xuất, gọi người ấy bằng cái tên âu yếm, xưng anh xưng em và kiêu hãnh đến phát run khi người matađo mới ra đời nghe tiếng gọi mãi cuối cùng trông thấy bác và giơ thanh kiếm lên để chào lại bác.
- Em vợ tôi đấy! Bác thợ yên ngựa giải thích cho những người bên cạnh để họ kính phục bác. Tôi vẫn nghĩ cậu ấy thế nào cũng có tên tuổi trong giới đấu bò. Nhà tôi và tôi giúp đỡ cậu ấy nhiều lắm...
Cuộc hành trình về nhà thật là một cuộc khải hoàn. Công chúng xông vào người Huan như muốn nuốt chửng anh để biểu thị sự hào hứng. May sao có Angtôniô ở đó để giữ trật tự, bác lấy thân mình che chở cho người thanh niên vào dẫn anh ra tận xe thuê rồi lên ngồi bên cạnh anh.
Khi hai người về đến căn nhà tồi tàn ở phố Fêria, một đám đông vẫn chạy sau xe miệng hoan hô ầm ĩ theo kiểu tỏ tình bình dân, làm cho mọi người trong phố xô cả ra cửa. Tin chiến thắng của người đấu sĩ ưu tú đã về đến đây trước anh ta, cho nên dân chúng chạy tới để nhìn anh tận mặt và bắt tay anh.
Bà Aoguxtiax và con gái đứng trên bậc cửa nhà. Bác Angtôniô hầu như nhấc bổng Huan lên để đưa anh xuống xe, bác muốn chiếm độc quyền về anh, bác khua tay khua chân, hò hét nhân danh gia đình để cấm mọi người đụng đến Huan, làm như Huan là một người ốm.
- Đây, cậu ấy đây, Anhcacnaxiông ạ! Bác vừa nói vừa đẩy Gađacđô về phía vợ, hơn cả Rôgiê Đê Flo đấy( Rôgiê Đê Flo: Tên một người phiêu lưu thời Trung cổ, gốc ở nước Đức, đến lập nghiệp ở Branhđơ trong vương quốc Naplơ. Ông cầm đầu một cuộc viễn chinh từ Métxinơ đến Côngxtăng- tinôplơ và được hoàng đế Angđrônic II ban cho phẩm tước cao nhất đế quốc. Sau đó ông cầm quân đánh nhau với người Thổ Nhĩ Kỳ và thắng nhiều trận lớn. Nhưng sau ông bị thái tử Misen Palêôlôgơ triệu về triều và chém đầu trong một bữa tiệc)
Anhcacnaxiông không cần hỏi thêm đấy là ai. Bác biết rằng chồng bác, qua một cuốn sách đọc lơ mơ từ lâu, coi nhân vật lịch sử này là kết tinh của tất cả những cái toàn thiện toàn mỹ của loài người và chỉ tự cho phép ghép tên ấy với những sự kiện vĩ đại.
Những người hàng xóm đi xem đấu về, lịch thiệp chúc mừng bà Aoguxtiax và vừa ngắm một cách sùng kính cái bụng đồ sộ của bà vừa nói:
- Cảm tạ bà mẹ đã sinh ra được một người con dũng cảm như vậy!
Các bà bạn hôn bà Aoguxtiax rối rít làm cho bà chóng cả mặt:
- Hạnh phúc biết bao! Con bà sắp kiếm ra vô khối tiền!
Cặp mắt của bà mẹ tội nghiệp lộ rõ vẻ ngẩn ngơ nghi hoặc. Có phải chính thằng Huan, con trai bà, làm cho mọi người khâm phục như thế không? Có phải họ hóa rồ cả rồi không? Bỗng nhiên bà ôm chầm lấy con, dường như quá khứ không có nữa, những mối ưu phiền và tức giận của bà chỉ là một giấc mộng và cuối cùng bà đã nhận ra sự sai lầm đáng hổ thẹn của bà; đôi cánh tay to lớn và mềm nhũn của bà quàng lấy cổ người đấu sĩ trẻ tuổi má ướt đầm nước mắt của mẹ.
- Con ơi!... Huan ơi!... Nếu bố con mà được trông thấy thế này nhỉ!...
- Mẹ ơi, mẹ đừng khóc. Hôm nay là một ngày vui. Rồi mẹ xem! Nếu Chúa thương con, con sẽ có một cái nhà thật đẹp cho mẹ ở, các bè bạn của mẹ sẽ thấy mẹ đi xe ngựa, mẹ sẽ có khăn quàng manila làm nhiều kẻ phải lác mắt...
Bác thợ yên ngựa nghe những dự kiến giàu sang ấy cứ nhìn vợ gật đầu lia lịa, còn vợ bác thì vẫn chưa hết ngạc nhiên về sự thay đổi hoàn toàn trong thái độ của ông chồng.
- Đúng vậy, nếu cậu này mà chịu khó, nhất định cậu ấy sẽ đạt được những điều mà cậu ấy vừa mới nói. Cậu ấy thật phi thường. Hơn cả Rôgiê Đê Flo đấy!
Tối hôm ấy, trong các tiệm rượu ngoại ô và các quán cà phê, mọi người chỉ bàn tán về Gađacđô :
- Quả là đấu sĩ của ngày mai đây!... Rực rỡ như đóa hồng!... Tay bố nhắng ấy nhất định sẽ làm cụp vòi tất cả các ông hoàng xứ Coócđu cho mà xem!
Những lời quyết đoán này biểu lộ lòng kiêu hãnh ngầm của Xêvilơ luôn luôn là cừu địch của Coócđu - một xứ cũng sản sinh ra nhiều đấu sĩ cừ khôi không kém.
Bắt đầu từ hôm ấy, cuộc sống của Gađacđô khác hẳn trước. Những thanh niên con ông cháu cha chào hỏi anh, mời anh ngồi với họ trên hiên các quán cà-phê. Những cô gái dễ dãi vẫn nuôi anh và may sắm áo quần cho anh bị anh bỏ rơi dần dần một cách cao kỳ nhẹ nhàng. Ngay cả vị ân chủ cũng khôn ngoan lảng xa, sau khi bị anh cự tuyệt mấy lần, và ông ta lại đem tình bạn âu yếm của ông tặng cho mấy "chú nhỏ" khác mới bước vào nghề.
Xí nghiệp đấu bò rất chuộng Gađacđô, chiều anh y như anh đã là một danh nhân rồi. Mỗi khi có tên anh trên áp phích, cuộc đấu chắc chắn sẽ thành công: đấu trường đông chật ních. Những người thường dân hoan hô nhiệt liệt "thằng bé nhà bà Aoguxtiax" và tán dương tài năng của anh. Chẳng bao lâu tên tuổi của nhà matađo mới vang khắp xứ Øngđaludi.
Và cũng từ đó, bác thợ yên ngựa tuy không ai yêu cầu giúp cũng can thiệp vào bất cứ việc gì và tự động làm người bảo vệ quyền lợi của em vợ. Bác tự nhận là một người khôn ngoan có nhiều kinh nghiệm về kinh doanh và đã nhận thấy rõ con đường phải đi tới.
Buổi tối, nằm bên vợ, bác ta nói:
- Cậu ấy cần có sự giúp đỡ của một người có óc thực tế để quản lý tài chính cho cậu. Mình có cho rằng nên nhờ tôi làm người ủy quyền cho cậu ấy không? Đối với cậu ấy, cái đó sẽ rất tốt. Hơn cả Rôgiê Đê Flo đấy... Còn đối với chúng ta thì...
Bác thợ yên ngựa đã nhẩm tính những món tiền kếch xù mà Gađacđô sẽ kiếm được; bác cũng nghĩ đến năm đứa con của Anhcacnaxiông đẻ với bác, không kể những đứa nhất định rồi sẽ ra đời: vì bác là một ông chồng trung thành không mệt mỏi và mắn. Biết đâu một ngày kia gia sản của người cậu lại chẳng chuyển sang các cháu?
Trong một năm rưỡi, Huan giết những con bò non trong những đấu trường nổi tiếng ở Tây Ban Nha khiến danh tiếng của anh lan đến cả Mađrit và những người yêu môn đấu bò ở thủ đô rất muốn biết "cậu bé thành Xêvilơ" được báo chí luôn luôn ca tụng và các người thạo môn đấu bò xứ Øngđaludi ca ngợi.
Đi giữa một nhóm người đồng hương yêu mến anh ngụ ở Mađrit, Gađacđô vênh vang trên hè phố Xêvilơ ở thủ đô, gần quán cà-phê Anh.
Những cô gái ăn chơi mỉm cười nghe anh tán tỉnh, ngây ngất ngắm sợi dây chuyền vàng nặng trịch và những hạt kim cương to tướng mà anh đã mua bằng những khoản tiền thu được đầu tiên hoặc mua chịu để rồi trả bằng những món thu nhập sau này. Bằng những đồ trang sức mang trên mình và bằng việc mời vung mọi người ăn uống, người matađo phải tỏ ra là mình giàu có thừa mứa. Đâu còn những ngày anh lang thang trên hè phố này với thằng Siripa tội nghiệp, sợ cảnh sát, ngắm các đấu sĩ bằng con mắt kính phục, trân trọng nhặt những đầu mẩu xì-gà của họ vứt.
Ở Mađrit, anh gặp may. Anh kết bạn với nhiều người. Chẳng bao lâu một nhóm người yêu thích anh tập họp lại. Họ gọi anh là "đấu sĩ của ngày mai" và bực mình thấy anh chưa được phong matađo chính thức.
- Cậu ấy sắp hái ra tiền! Người anh rể nói với vợ. Cậu ấy sắp thành tỉ phú, miễn là cậu ấy không bị rủi ro trên bước đường đi tới.
Cuộc sống của gia đình Gađacđô bây giờ biến đổi hẳn. Anh đã đánh bạn với tầng lớp thanh niên giàu sang ở Xêvilơ, anh không chịu để cho mẹ ở mãi căn nhà tồi tàn của những năm nghèo đói. Nếu gia đình nghe lời anh, thì cả nhà đã đến ở trong đường phố đẹp nhất Xêvilơ rồi. Nhưng cũng như đa số người bình dân khác khi về già thích nơi mình đã sống trong thời trẻ, bà Aoguxtiax muốn ở lại phố Fêria. Do đó, gia đình thuê một căn nhà khác đẹp hơn trước nhiều. Bà Aoguxtiax không phải làm gì nữa và các bà hàng xóm tán tỉnh bà vì bà hay giúp đỡ họ lúc túng thiếu. Về phần Gađacđô, không kể những đồ trang sức bằng vàng ngọc nặng trịch và rực rỡ đeo trên người, anh còn có một vật được coi như một xa xỉ phẩm đối với các đấu sĩ. Đó là một con ngựa tía rất hùng dũng với cái yên Thổ Nhĩ Kỳ có sườn cao và một cái áo khoác to có nhiều búp tơ sặc sỡ. Cưỡi trên lưng con ngựa ấy, anh diễu qua các phố không ngoài mục đích đón nhận những lời chúc tụng của bạn hữu, những người này vui vẻ chào anh bằng những tiếng hoan hô vang lừng. Lúc này được như thế cũng đã thỏa mãn lòng hiếu danh rồi. Nhiều lúc khác, anh nhập bọn với những thanh niên con ông cháu cha thành một đoàn kỵ sĩ lộng lẫy phóng ngựa tới cánh đồng cỏ Tablađa, trước ngày tổ chức những cuộc đấu lớn, để xem những con bò mà người khác sắp giết.
- Khi nào tôi được phong matađo chính thức thì... Anh nhắc đi nhắc lại câu này với quan niệm rằng sự kiện đó chi phối mọi kế hoạch của anh trong tương lai.
Hiện nay anh phải nuôi dưỡng trong lòng một loạt dự án, nếu thực hiện được, sẽ làm cho mẹ anh phải ngạc nhiên: Người đàn bà tội nghiệp này hãy còn ngơ ngác trước hạnh phúc đột nhiên vào nhà và bà cho rằng nó không thể nào lớn hơn được nữa.
Cuối cùng ngày Gađacđô được phong matađo chính thức tới. Một đấu sĩ danh tiếng nhượng lại cho anh thanh kiếm và cái mulêta của ông ta ngay giữa đấu trường Xêvilơ và khán giả khâm phục đến lặng người khi thấy anh hạ con bò "hợp thức" đầu tiên ra mắt anh chỉ bằng một nhát kiếm. Đến tháng sau, tấm bằng tiến sĩ môn đấu bò của anh lại được một sư phụ danh tiếng khác áp ký tại đấu trường Mađrit. Thế là lần thứ hai anh được phong matađo chính thức trong một trận đấu với những con bò mộng của trại Miura. Anh không còn là matađo dự bị nữa mà là matađo chính thức, được ghi tên trên các tờ áp phích cạnh tên của những matađo lão thành mà anh hằng kính phục như những vị thần không thể đến gần, khi anh còn múa áo choàng ở các thôn xã. Anh còn nhớ rằng đã có lần anh chờ một người matađo ấy ở một ga xe lửa gần Coócđu để xin ông ta giúp cho ít tiền khi ông ta cùng đồng đội đáp xe lửa qua đấy, và chiều hôm ấy, anh có cái cho vào bụng cũng là nhờ tình anh em hào phóng giữa những người cùng mang nạm tóc côlêta, một thứ tình đã làm cho một người matađo sang trọng như ông hoàng đưa đồng bạc và điếu xì gà cho một thằng vô lại tồi tàn mới bắt đầu đi múa áo choàng.
Những hợp đồng bắt đầu đổ như mưa xuống người matađo mới. Ở tất cả các đấu trường trên bán đảo, mọi người đều muốn tận mắt trông thấy anh. Các tờ báo đặc biệt phổ biến chân dung và tiểu sử của anh và không quên thêm thắt vào tiểu sử ấy nhiều chi tiết có vẻ tiểu thuyết. Chẳng bao lâu anh kiếm được rất nhiều tiền.
Ông anh rể đón nhận những sự thành công của cậu em vợ với vẻ khó chịu và phản kháng ngấm ngầm.
- Cậu ấy thật vô ơn! Antôniô nói. Đúng là chuyện của những người hãnh tiến. Mình đã khó nhọc biết bao vì cậu ấy, mình đã tỏ ra cương quyết trong khi mặc cả với những ông giám đốc đấu trường trong các cuộc thi đấu bò non! Thế mà từ khi cậu ấy được phong, cậu ấy trao ngay chức ủy quyền cho một ông mà cậu ấy chỉ biết sơ sơ, một ông Đông Hôxê nào đó không phải người trong gia đình nhưng được cậu ấy rất quý chỉ vì ông ta là một nhà hâm mộ đấu bò lão thành.
- Cậu ấy sẽ có lúc hối hận! Bác thợ yên ngựa kết luận. Người ta không thể có hai gia đình, người nào cũng chỉ có một gia đình thôi. Đào đâu ra được tình yêu thương bằng tình của những người trong gia đình biết nhau từ khi còn bé? Thôi mặc cậu ấy! Đối với tôi, cậu ấy là Rôgiê...
Nhưng bác ngừng lại, không nêu hết cái tên danh tiếng: bác sợ những người banđêridiêrô và những người hâm mộ đấu bò hay lui tới nhà Gađacđô chế giễu vì họ đã bắt đầu để ý đến việc sùng bái có tính lịch sử của bác.
Với cái lòng tốt của người chiến thắng, Gađacđô đền bù cho anh rể bằng cách cử bác trông nom công việc làm ngôi nhà của anh. Anh để cho bác toàn quyền hành động. Người matađo ngạc nhiên thấy tiền rơi vào tay mình hết sức dễ dàng, nên không giận khi thấy anh rể ăn cắp của mình chút ít, vả lại anh cũng muốn dùng cách ấy để đền bù bác ta về việc anh không dùng bác ta làm người ủy quyền.
Gađacđô sắp thực hiện được nguyện vọng thiết tha nhất của anh là làm một cái nhà cho mẹ ở. Người phụ nữ tội nghiệp ấy đã suốt đời cọ sàn của kẻ khác thì nay sắp có nhà của mình với một cái sàn có nền lát cẩm thạch và tường ghép gạch men, với nhiều phòng đẹp bày biện lộng lẫy như nhà tư sản và rất nhiều đầy tớ để sai bảo. Bản thân Gađacđô với một mối cảm tình sâu xa, cũng quyến luyến khu phố mà anh đã ở trong thời niên thiếu khổ sở. Anh muốn làm hoa mắt những người trước đây thuê mẹ anh làm vú già, anh muốn vốc hàng nắm tiền xu cho những người xưa kia đem giầy đến cho bố anh chữa và cho anh mẩu bánh mì những lúc anh đói, khi nào họ hết nhẵn tiền. Anh bèn mua mấy ngôi nhà cũ, nhất là ngôi nhà có cái cổng dùng làm cửa hàng giầy cho bố anh khi xưa, anh thuê phá sập và bắt đầu xây một toà nhà lịch sự có tường trắng, lưới cửa sổ sơn xanh, một phòng ngoài lát gạch men, một cái cửa làm bằng những thanh sắt uốn hoa mỹ qua nó người ta trông thấy sân trong và cái bể phun nước, những hành lang có những hàng cột bằng cẩm thạch và treo những lồng chim hót sơn vàng rực.
Ông anh rể rui vẻ thấy mình được quyền tự do mua vật liệu và trông coi làm nhà, nhưng ông bớt vui khi nhận được một tin buồn: Gađacđô có vợ chưa cưới. Hồi này Gađacđô đi khắp nước Tây Ban Nha, từ đấu trường này đến đấu trường khác, phóng nhiều nhát kiếm và nhận nhiều tiếng hoan hô, nhưng không mấy ngày anh không viết thư cho một cô gái ở cùng phố và trong thời gian ngắn ngủi giữa hai cuộc đấu anh thường rời các đồng nghiệp lên tàu về Xêvilơ để gặp cô.
- Mẹ và mình có thấy không? Bác thợ yên ngựa bực tức nói với mẹ vợ và vợ. Đời thuở nhà ai lại có vợ chưa cưới mà không hề nói nửa lời cho gia đình biết, làm như gia đình không phải là nơi duy nhất trên đời này có tình cảm chân thành với mình. Ông ấy muốn lấy vợ. Xem vẻ ông ấy chán chúng ta rồi. Phóng đãng thật!...
Anhcacnaxiông tán thành những lời chê trách của chồng bằng cách nhăn nhó bộ mặt xinh đẹp nhưng dữ tợn của bác. Bác hài lòng thấy mình có thể bộc lộ ý nghĩ về cậu em mà bác ghen ngầm số phận may mắn. Đúng thế! Xưa nay cậu Huan có ra gì đâu! Ngưu tầm ngưu mã tầm mã mà!...
Nhưng bà mẹ phản đối:
- Mẹ thì không nghĩ như vậy! Mẹ biết con bé ấy, mẹ nó ngày xưa là bạn của mẹ ở xí nghiệp... Con bé rất ngoan ngoãn, có giáo dục, có đức hạnh, ăn ở tốt. Mẹ đã nói với Huan rằng ý mẹ thế này... và càng sớm càng tốt!
Cô gái ấy mồ côi cha và ở với mấy ông chú có một cửa hiệu thực phẩm nhỏ ở cùng phố. Bố có lúc sinh thời bán rượu, để lại cho có hai căn nhà ở ngoại ô Macarêna.
- Cái đó chẳng đáng bao nhiêu, bà Aoguxtiax nói. Nhưng dù sao con bé không về tay không: nó góp phần của nó. Lại còn về mặt khâu vá thì trời ơi! Đôi bàn tay của nó là vàng đấy. Nó thêu quần áo mới giỏi chứ! Hòm quần áo cưới nó chuẩn bị mới đẹp chứ! Gađacđô nhớ mang máng rằng hồi còn nhỏ xíu anh vẫn chơi với cô gái gần cái cổng xe có hiệu giầy của bố, trong lúc hai bà mẹ chuyện vãn với nhau. Nhanh nhẹn, người khô và tóc màu hạt dẻ trông như một con thằn lằn, cô gái ấy có cặp mắt bôhêmiêng với con ngươi và lòng đen cùng một màu huyền, lòng mắt thì trắng xanh và khoé mắt thì hồng hồng. Cô ta chạy nhanh như con trai để lộ ra đôi chân nhỏ như ống sậy, tóc cô rối bù thành những mớ xoắn xuýt ngỗ nghịch giống như những con rắn đen. Sau thời gian đó, cô ta mất hút và mãi đến thời kỳ anh thành đấu sĩ và bắt đầu có tiếng tăm, anh mới gặp lại cô ta.
Hai bên gặp nhau trong một ngày lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là một ngày trọng thể hiếm có mà các phụ nữ Tây Ban Nha, thường chỉ ở trong nhà do thói lười nhác kiểu Á Đông, bước ra phố như những phụ nữ Môrơ tự do, đầu trùm khăn màu hung và ngực cài mấy bông cẩm chướng. Gađacđô trông thấy một cô gái người dong dỏng cao, vừa thanh mảnh vừa khỏe mạnh, thắt đáy lưng ong với những đường cong rộng và chắc của cặp hông biểu hiện tất cả sức sống của tuổi thanh xuân. Mặt cô trắng ngà bỗng đỏ lên khi trông thấy chàng matađo ưu tú, còn đôi mắt sáng của cô thì khuất dưới hàng mi dài.
"Con bé này biết mình, - Gađacđô hãnh diện tự nhủ. Chắc nó đã trông thấy mình ở đấu trường rồi". Anh bước theo cô gái có bà cô đi kèm và khi anh biết rằng đó là Cacmen, người bạn gái của anh hồi thơ ấu, anh rất ngạc nhiên một cách thú vị về sự biến dạng kỳ lạ của con thằn lằn nâu khi xưa.
Hai người phải lòng nhau và đính hôn với nhau. Tất cả xóm giềng đều bàn tán đến cuộc tình duyên của họ và cho rằng đó là một chuyện vui mừng cho cả phố.
Ra vẻ một ông hoàng nhân hậu, Gađacđô nói với những người khâm phục anh:
- Tôi như thế đấy! Tôi không muốn bắt chước những đấu sĩ cưới vợ con nhà quyền quý chỉ là cưới quần áo, cưới vòng xuyến. Tôi thì tôi thích những người thuộc giai cấp của tôi hơn: khăn quàng xinh, dáng dấp ưa nhìn, thân hình hay. Thế là nhất rồi!
Bạn hữu của anh nhiệt liệt ca ngợi cô gái:
- Trông như bà hoàng ấy, thân hình có nhiều cái làm cho đàn ông phát điên. Ôi chao! Lại còn cặp mông nữa chứ nhỉ!
Nhưng Gađacđô cau mày:
- Thôi đùa như thế đủ rồi nhé. Các anh nói đến Cacmen càng ít bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu!
Buổi tối, khi anh nói chuyện với cô cạnh tấm lưới cửa sổ và ngắm khuôn mặt Môrơ của cô hiện giữa những chậu hoa, chú hầu bàn của một tiệm rượu gần đấy bước đến, tay bưng hai cốc rượu Măngzanila đặt trên khay. Những người sai chú đến đang uống rượu ở tiệm của chú. Theo phong tục, người ta hay làm như vậy đối với những cặp người yêu đang nói chuyện với nhau bên cửa sổ. Gađacđô uống một cốc, trao cốc kia cho Cacmen rồi bảo chú hầu bàn:
- Chú nói với các ông ấy rằng tôi cảm ơn lắm và chốc nữa tôi sẽ sang. Chú lại nói với ông chủ đừng có thu tiền của ai cả, và Huan Gađacđô sẽ trả tất.
Tán chuyện với người yêu xong, Gađacđô vào tiệm rượu. Những người xử sự lịch thiệp mới rồi đang chờ anh. Trong bọn họ có cả những người quen anh lẫn những người không quen anh nhưng muốn chạm cốc với anh.
Sau chuyến đi thứ nhất với tư cách matađo chính thức, vào những ngày mùa đông, Gađacđô tối tối mặc cái áo choàng rất đẹp có cổ nhỏ, trang trí hoa mỹ với những nhánh lá và hoa văn thêu bằng lụa đen, đến nói chuyện với Cacmen bên cửa sổ nhà cô:
- Nghe nói anh hay uống rượu lắm, Cacmen thở dài nói, mặt áp vào chấn song cửa sổ.
- Ối chào!... Xã giao của bạn bè đối với anh và anh phải đáp lại thôi... Vả lại, em biết đấy, đấu sĩ thì phải thế nào, không thể sống như một ông thầy tu.
- Có người nói với em rằng anh đi với những phụ nữ lăng nhăng.
- Bậy nào! Đó là xưa kia, khi anh chưa biết em... A! Bọn hèn mạt! Anh muốn biết những đứa nào đã nói với em những chuyện làm cho em đau khổ như thế!
- Khi nào thì chúng ta cưới? Cô nói tiếp, cắt ngang cơn tức giận của người yêu bằng câu hỏi đó.
- Khi nào làm nhà xong. Xin Chúa cho nó xong thật sớm! Cái ông anh rể vớ vẩn của anh cứ kéo dài ra mãi. Ông ấy xoay xở vớ bẫm nên cứ lần chần mãi.
- Bao giờ em về làm vợ anh, em sẽ tổ chức lại. Anh sẽ thấy mọi cái đều đâu ra đấy. Anh sẽ thấy mẹ rất yêu em...
Và những cuộc chuyện trò ấy cứ tiếp diễn trong lúc chờ đợi ngày cưới mà khắp thành phố Xêvilơ đều nói tới. Chú thím của Cacmen thảo luận về vấn đề này với bà Aoguxtiax mỗi khi hai bên gặp nhau. Tuy vậy, rất ít khi Gađacđô bước chân vào nhà người yêu, dường như có cái gì ghê gớm lắm ngăn cấm anh. Thực ra theo phong tục, hai anh chị thích gặp nhau ở bên cửa sổ hơn.
Mùa đông trôi qua, Gađacđô cưỡi ngựa đi săn ở dinh cơ của mấy nhà giàu lớn đối xử thân mật với anh và ra vẻ che chở anh. Anh cần rèn luyện liên tục cho thân thể nhanh nhẹn phòng lúc bắt đầu mùa đấu mới. Anh rất sợ mất "khả năng" nghĩa là mất sức mạnh và nhanh nhẹn.
Người quảng cáo không biết mệt nhất cho Gađacđô là Đông Hôxê, một ông đứng làm người ủy quyền cho anh và gọi anh là matađo của ông ta. Đông Hôxê can thiệp vào mọi hành động của Gađacđô và tự cho mình những quyền lớn hơn cả quyền của chính gia đình anh. Đó là một tư nhân sống bằng lợi tức, chỉ có mỗi một công việc là tán chuyện về bò mộng và đấu sĩ. Đối với ông, những cuộc đấu bò là cái thú duy nhất ở trên đời và ông chia các quốc gia ra làm hai loại: một loại là các quốc gia được ưu đãi, có những đấu trường, một loại là các quốc gia quá nhiều, không có ánh nắng mặt trời, không biết thế nào là vui vẻ, không có rượu măngdanila ngon và đáng thương nhất là không được xem những trận đấu bò - ngay cả những trận xoàng nhất - thế mà vẫn tưởng nước mình là cường quốc.
Ông mê đấu bò bằng tất cả nghị lực của một chiến sĩ và đức tin của một pháp quan tôn giáo thời Trung cổ. Bụng phệ nhưng hãy còn trẻ, đầu hói, bộ râu vàng hoe, vui tính và hay cười trong đời sống hàng ngày, người chủ gia đình ấy lại dữ tợn và quyết liệt trên các bậc ngồi của đấu trường, mỗi khi người bên cạnh phát biểu một ý kiến khác với ông. Ông cảm thấy mình có thể đánh nhau với tất cả khán giả để bảo vệ một đấu sĩ bạn của ông, ông phá rối những tiếng hoan hô của công chúng bằng những lời phản kháng bất ngờ khi tiếng hoan hô ấy dành cho một đấu sĩ không có cái may mắn được ông ưa thích.
Xưa kia ông là sĩ quan kỵ binh vì thích ngựa hơn là thích chiến tranh. Cái bụng phệ và tính mê đấu bò đã làm cho ông xuất ngũ, và bây giờ mùa hè thì ông dùng để đi xem các trận đấu bò còn mùa đông thì để nói chuyện đó.
Làm người hướng dẫn, quân sư và người ủy quyền của một matađo! Khi tham vọng đó nẩy ra trong đầu, ông thấy tất cả các matađo bậc thầy đều đã có người ủy quyền rồi cho nên sự xuất hiện của Gađacđô là một điều tối may mắn đối với ông. Hễ ai tỏ ý nghi ngờ tài năng người matađo của ông, tức thì ông giận đỏ mặt tía tai và cuộc cãi vã nhau về đấu bò lập tức mang hình thức một cuộc xung đột cá nhân. Đã có lần trong một tiệm cà-phê, ông dùng can nện hai kẻ ngu dốt dám chê người matađo mới là quá táo bạo, và ông coi đó là một hành động oanh liệt. Đối với ông báo chí và quảng cáo in ra hình như không đủ để xưng tụng Gađacđô, vì thế những buổi sáng mùa đông ông đến đứng tại một góc hè có ánh mặt trời sưởi ấm, ngay đầu phố Rắn, nơi thường có một số bạn hữu của ông qua lại.
- Hoàn toàn như vậy! Chỉ có một người thôi! Ông nói to như nói một mình, vờ như không trông thấy những người đang đi tới. Người số một trên thế giới đấy! Ai không đồng ý như vậy thì cứ bảo tôi... Đúng thế, người duy nhất đấy!
- Người nào cơ? Các bạn ông hỏi lại với vẻ giễu cợt, giả vờ không hiểu.
- Người nào ư?... Huan chứ còn ai!
- Huan nào?
Đến đây, ông làm ra vẻ ngạc nhiên và tức giận:
- Huan nào à?... Thế ra có nhiều Huan ư?... Chỉ có Huan Gađacđô thôi!
- Xin nói thật, mình cứ tưởng cậu sắp cưới người ấy làm vợ?
Một lúc sau, trông thấy một số bạn khác đi tới, ông quên bẵng những người vừa mới đùa xỏ ông và ông lại bắt đầu nói:
- Hoàn toàn như vậy! Chỉ có một người thôi! Người số một trên thế giới! Ai không đồng ý như vậy thì cứ việc mở mồm: tôi sẽ cho biết tay!
Đám cưới của Gađacđô thật linh đình. Nhân dịp ấy, nhà mới được khánh thành. Bác thợ yên ngựa hãnh diện khoe với mọi người cái sân, hàng cột, lớp gạch men y như những cái đó do chính tay bác làm ra.
Lễ cưới được tổ chức ở nhà thờ Xăng Gin, trước tượng Đức Bà Đồng Trinh Đáng Trông Cậy thường gọi là Đức Bà Đồng Trinh Macarêna. Lúc ở nhà thờ ra, ánh mặt trời rực rỡ làm nổi bật những đóa hoa nước ngoài và những con chim màu lòe loẹt, trên hàng trăm chiếc khăn san có các hình vẽ Tàu của các cô phù dâu. Một nghị sĩ cũng đến "đỡ đầu" cho đám cưới. Trong số những chiếc mũ dạ trắng hoặc đen của những người trong giới đấu bò được mời đến dự, người ta chú ý đến những chiếc mũ cối cao bóng loáng của ông ủy quyền và các nhân vật khác vốn khâm phục Gađacđô. Ai nấy tươi cười, khoái chí thấy mình được thơm lây khi đi cạnh người matado.
Ở cửa nhà có phát chẩn suốt ngày hôm đó. Dân nghèo ở các làng bên cũng kéo đến vì nghe đồn về đám cưới linh đình này.
Đại tiệc được bày trong sân. Những nhà nhiếp ảnh đến làm vài "bô" cho các báo ở Mađrit, vì đám cưới của Gađacđô là một sự kiện quốc gia. Đến tận khuya, tiếng ghi ta vẫn còn réo rắt kèm theo tiếng vỗ tay và tiếng cátxtanhét(Cátxtanhét: một thứ phách Tây Ban Nha bằng gỗ hoặc bằng ngà). Các cô gái, tay giơ cao, dậm đôi chân nhỏ nhắn xuống sàn cẩm thạch, váy và khăn san quay tít xung quanh tấm thân xinh đẹp của các cô theo nhịp múa xêvinala. Những chai rượu vang ngon Øngđalu mở bôm bốp hàng tá và những cốc rượu giêrê ấm áp, rượu môngtila dễ say, rượu măngdanila vùng Xăng Luca màu nhạt hương thơm được chuyển từ tay này qua tay khác.
Ai nấy đều say sưa một cách êm ái, yên tĩnh và buồn dìu dịu, và cái đó biểu lộ qua những tiếng thở dài và những tiếng hát. Thỉnh thoảng nhiều người lên tiếng ca những bài buồn nói đến ngục tù, giết chóc và cả đến "bà mẹ tội nghiệp" tức là Nàng thơ bất diệt của dân ca xứ Øngđaludi.
Đến nửa đêm, người khách cuối cùng cáo từ, trong nhà chỉ còn đôi vợ chồng trẻ và bà Aoguxtiax. Ra về với vợ, bác thợ yên ngựa có vẻ thất vọng. Say rượu, bác càng tức giận vì thấy không ai đoái hoài đến bác hôm nay. Bác chẳng là một nhân vật quan trọng hay sao? Bác chẳng là người trong gia đình hay sao?
- Họ đuổi chúng ta đấy, Anhcacnaxiông ạ! Cái mợ giả vờ hiền lành ngây thơ ấy, có một bộ mặt giống Đức Bà Đồng Trinh Đáng Trông Cậy sẽ cai quản tất cả, chẳng còn gì cho chúng ta đâu! Mình sẽ thấy trẻ con đầy nhà!...
Ông chồng đông con này tức giận nghĩ rằng cậu em vợ cũng sắp có nhiều con, và bầy trẻ ấy ra đời chỉ để làm hại bầy con của bác thôi.
Nhưng một năm trôi qua mà lời tiên đoán của Øngtôniô xem ra không có chiều thực hiện. Gađacđô và Cacmen xuất hiện trong mọi cuộc hội hè với vẻ sang trọng thanh lịch của một đôi vợ chồng giàu có và được quý trọng: chị quàng những chiếc khăn san làm cho những phụ nữ nghèo phải trầm trồ kêu lên, còn anh thì trưng diện nhiều hạt kim cương và luôn luôn sẵn sàng móc ví để trả món gì đó cho bạn bè hoặc để bố thí cho ăn mày kéo đến hàng đàn. Những cô gái bôhêmiêng, da màu hồng và lắm mồm như phù thủy, vây quanh Cacmen để đoán cho chị nhiều điều may mắn.
- Xin Chúa ban phúc cho bà! Bà sắp có một cậu con trai, đẹp hơn thiên thần! Bà đã đi được gần nửa đường rồi đấy!...
Cacmen chớp mắt nhìn xuống, đỏ mặt, sung sướng, còn anh matođo thì ngẩng cao đầu kiêu hãnh về công trình của mình nhưng vẫn vô ích. Đứa con chờ đợi không đến.
Một năm nữa lại trôi qua mà cặp vợ chồng vẫn chưa thực hiện được điều mơ ước. Bà Aoguxtiax nổi giận, khi có người nhắc đến chuyện đáng buồn ấy với bà. Tất nhiên bà có những đứa cháu khác, con của Anhcacnaxiông, những đứa này theo ý muốn dứt khoát của bố, ở thường xuyên tại nhà bà ngoại và ra sức lấy lòng cậu mợ của chúng. Nhưng bà Aoguxtiax rất muốn chuộc lại sự đối xử nghiệt ngã của bà khi xưa bằng cách giành cho Gađacđô tất cả tình yêu thương ngày nay, vì vậy bà mong anh cho bà một đứa cháu để bà nuôi dạy theo kiểu của bà và để bà dồn cho nó sự trìu mến mà bà đã không đem cho bố nó thời còn bé và khổ sở.
- Tôi hiểu tại sao như vậy! bà buồn rầu nói. Cacmen lo lắng nhiều. Tội nghiệp con bé, phải trông thấy nó trong những ngày thằng Huan đi khắp các nơi!...
Mùa đông tới là mùa rỗi rãi, Gađacđô ở Xêvilơ hoặc về nông thôn để thử mấy con bò non hoặc đi săn.
Khi đó mọi việc đều êm ả. Cacmen rất sung sướng vì chị biết rằng chồng chị không gặp sự nguy hiểm nào cả. Cho nên chị cười luôn luôn và sắc mặt hồng hào. Nhưng mùa xuân lại tới, Huan lại lên đường đi đấu ở khắp nước Tây Ban Nha, thế là người phụ nữ tội nghiệp, mặt tái nhợt và đau khổ, luôn luôn ngơ ngác, hễ nghe ai nói bóng gió là đôi mắt kinh hãi mở to và ứa lệ.
- Năm nay anh ấy có tới bảy mươi hai trận đấu. Những khách hay đến nhà nói về các hợp đồng của Gađacđô. Không ai được chuộng bằng anh ấy.
Cacmen mỉm cười buồn bã. Trong bảy mươi hai buổi chiều lo sợ đó, chị sẽ như một tử tù đem tới nhà nguyện trước khi bị hành hình, chị sẽ vừa mong vừa sợ một bức điện gửi tới. Trong bảy mươi hai buổi chiều kinh hoàng đó, chị sẽ hốt hoảng cầu nguyện chỉ lo khi đọc kinh quên mất một tiếng có thể ảnh hưởng đến số phận của người vắng mặt! Trong bảy mươi hai buổi chiều ác nghiệt ấy, chị sẽ ngạc nhiên đau đớn thấy mình vẫn sống trong một ngôi nhà thanh bình yên tĩnh, trông thấy những bộ mặt quen thuộc quanh mình, cảm thấy cuộc sống vẫn trôi đi một cách bình thường êm ả như không có chuyện gì xảy ra, nghe tiếng các cháu chơi trong sân và tiếng người hàng hoa rao ngoài phố trong khi người chồng thân yêu của chị, trước hàng vạn con mắt, phải chiến đấu với những con thú dữ và thấy Thần Chết lướt qua mỗi khi anh múa mảnh vải đỏ.
Ôi! Trong những ngày đấu bò, những ngày hội mà trời có vẻ đẹp ra, mà phố xá vắng vẻ trong mấy ngày làm việc trước nay vang lên dưới những gót giầy của những người đi dạo chơi chủ nhật, những ngày mà trong cái quán rượu ở cạnh nhà tiếng ghi-ta rộn rã, tiếng hát và tiếng vỗ tay thì Cacmen ăn mặc đơn giản, chiếc khăn trùm đầu kéo xuống tận mắt, ra khỏi nhà để trốn những cơn ác mộng và vào ẩn trong các nhà thờ. Lòng mộ đạo giản dị khiến chị đâm ra mê tín vớ vẩn những khi lo ngại. Chị đi lang thang từ thánh đường này sang thánh đường khác tùy theo chị tin rằng ảnh thánh này hay ảnh thánh kia linh thiêng hơn.
- Có những hôm chị vào Xăng Gin, một ngôi nhà thờ bình dân đã chứng kiến những giây phút vui nhất của đời chị, chị quỳ xuống trước bức tượng Đức Mẹ Macarêna, ngắm rất lâu khuôn mặt màu nâu của pho tượng có đôi mắt huyền và những hàng mi dài, pho tượng mà người ta nói giống chị. Chị để hết lòng tin vào Đức Mẹ Đồng Trinh này chắc hẳn có lý do gì người ta mới gọi là Đức Bà Đáng Trông Cậy và chắc hẳn giờ này Đức Bà che chở cho Huan. Nhưng chẳng bao lâu sự nghi hoặc và lo sợ lại xuyên qua lòng tin và làm chị đau khổ. Đức Bà Đồng Trinh chỉ là một phụ nữ, mà phụ nữ thì có làm gì được mấy! Số phận của phụ nữ là đau khổ và khóc than, như bản thân chị khóc vì chồng, như Đức Bà khóc vì con. Vậy chị cần đến những uy quyền cương quyết hơn, phải van xin một sự che chở mạnh mẽ hơn. Đau khổ tạo nên ích kỷ. Thế là chị bỏ thẳng Đức Bà Macarêna như người ta quên lãng một tình bạn vô ích. Lần sau chị đến nhà thờ Xăng Lôrăngđô để tìm Chúa Jêxu Toàn Năng, vừa là người vừa là thượng đế, đầu đội mũ gai, vác cây thập giá, nhễ nhại mồ hồi và ràn rụa nước mắt, một tác phẩm của Môngtanét trông rất sợ. Tấn bi kịch của người vùng Nadarét kia vấp ngã vào những hòn đá, gục khuỵu dưới cây thập giá nặng trĩu có vẻ an ủi người phụ nữ đau khổ. Danh hiệu mơ hồ và huy hoàng của Chúa Jêxu làm cho chị an tâm. Nếu bức tượng của Chúa mặc áo lụa tím có thêu chỉ vàng kia đoái nghe những lời than thở của chị và những kinh mà chị cầu hấp tấp lạ thường để có thể cầu được nhiều lời nhất trong một thời gian ngắn nhất, chị chắc rằng Huan sẽ bình yên ra khỏi đấu trường, nơi anh đang đấu lúc này. Có những lần khác, chị cho tiền người giữ đồ thánh đã thắp cho chị vài cây sáp và chị đứng hàng giờ ngắm ánh sáng nhỏ của nó hắt lên pho tượng, tưởng đâu như trên bộ mặt sơn tranh sáng tranh tối kia thoáng qua một nụ cười an ủi, một dấu hiệu nhân từ báo trước hạnh phúc.
Đức Chúa Jêxu Toàn Năng quả không lừa dối chị. Về đến nhà, chị thấy mảnh giấy nhỏ màu lơ, chị mở nó bằng bàn tay run run: "Không có gì mới". Thôi thế là chị lại thở được, ngủ được, như một tử tù thoát khỏi cái chết trong một thời gian. Nhưng hai ba hôm sau chị lại phải chịu đựng cảnh đọa đầy của cái bất trắc, sự hành hạ của cái chưa biết.
Đôi khi, vì cùng cảnh sui nên đoàn kết, chị đi thăm vợ của những đấu sĩ trong đội của chồng chị, làm như mấy người phụ nữ ấy có thể cho chị biết tin tức.
Vợ của Người Quốc dân mở một tiệm rượu ở ngoại ô. Bác ta tiếp vợ của nhà matađo một cách bình tĩnh và ngạc nhiên về những sự lo sợ của chị. Về phần bác ta thì đã quen với cuộc sống hiện thời. Chồng bác chắc bình yên, vì không thấy tin tức gì cả. Các bức điện thì tốn tiền mà một người banđêridiêrô đâu có kiếm ra nhiều tiền. Vì những người bán báo không rao rằng có tai nạn, bác có thể kết luận rằng không có sự rủi ro nào xẩy ra hết. Và bác tiếp tục trông nom tiệm rượu, dường như mọi nỗi lo sợ không thể thấm vào tình cảm bọc kín của bác.
Có lần vượt qua cầu, Cacmen đến nhà vợ của chú Pôtagiê, một picađo trong đội của chồng chị, ở ngoại ô T'riana. Chị này là một người bôhêmiêng sống trong một căn nhà lụp xụp trông như chuồng gà với một đàn con bẩn thỉu da màu hồng và chị dọa nạt con cái bằng những tiếng thét oang oang như lệnh vỡ. Thấy vợ của ông đội trưởng đến thăm, chị ta lấy làm vinh dự, nhưng những giọt nước mắt của Cacmen làm chị suýt bật cười. Chị nói:
- Không việc gì phải sợ. Các đấu sĩ đứng trên mặt đất bao giờ cũng tránh được tai nạn, vả lại ông Gađacđô bao giờ cũng gặp may. Nói tóm lại, bò mộng mấy khi giết được người matađo. Đáng sợ nhất là ngã ngựa. Ai chẳng rõ các picađo cuối cùng sẽ đi đến đâu sau một cuộc đời toàn ngã là ngã một cách kinh khủng: người nào không chết tại chỗ trong một tai nạn bất ngờ và khủng khiếp, ắt chết vì phát điên. Anh Pôtagiê nhà tôi chắc chắn sẽ chết như vậy: anh ấy phải chịu đựng tất cả những cái đó chỉ vì mấy chục đồng đuarô, chứ còn nhiều người khác thì...
Câu cuối cùng này, chị không nói hết, nhưng ánh mắt của chị biểu lộ một sự phản kháng ngầm đối với những cái bất công của số phận và đối với những chàng trai đẹp đẽ ngay từ khi cầm thanh kiếm đã tranh hết những tiếng hoan hô, danh vọng và tiền bạc mà chẳng bị nguy hiểm gì hơn những người phụ tá vô danh của mình.
Dần dần Cacmen quen đi với tình cảnh của mình. Sự chờ đợi ác nghiệt trong những ngày có cuộc đấu, những cuộc đi cầu khẩn Đức Bà và các vị thánh khác, những sự e ngại có tính chất mê tín, chị coi như những điều tất nhiên phải có trong cuộc đời của chị. Hơn nữa, chồng chị luôn luôn gặp may và những câu chuyện mà người ta thường nói ở nhà chị về tình tiết của các cuộc đấu làm chị quen đi với nguy hiểm. Dần dần chị thấy con bò mộng man dại thành một con vật hiền lành cao quý, sinh ra đời chỉ để đem lại giàu sang vinh hạnh cho những người làm nghề giết nó. Cacmen không bao giờ đi xem đấu bò mộng. Từ buổi chiều chị trông thấy người tương lai của chị bước vào nghề trong một trận đấu của những matađo tập sự, chị không hề trở lại đấu trường. Chị cảm thấy không đủ can đảm để xem một cảnh tượng như vậy, kể cả khi Gađacđô không đóng vai trò gì ở trong đó. Chị sẽ sợ đến chết ngất nếu trông thấy những người ăn mặc như Huan đương đầu với nguy hiểm.
Ba năm sau ngày cưới, Huan bị thương trong một trận đấu ở Valăngxơ. Cacmen không được báo tin ngay. Bức điện vẫn tới vào đúng giờ của nó và mang dòng chữ thường lệ: "Không có gì mới". Cái đó là nhờ sự thận trọng tế nhị của Đông Hôxê, người ủy quyền của Gađađô, ngày nào ông cũng đến nhà Cacmen dùng mọi mưu mô khôn khéo để làm cho chị không đọc báo để khỏi buồn phiền, do đó trong suốt một tuần lễ chị không hề biết việc chẳng may.
Đến khi Cacmen biết chuyện do miệng bép xép của mấy người láng giềng, chị muốn lên tàu ngay lập tức để đến bên chồng, vì chị tưởng rằng Gađacđô bị mọi người bỏ rơi và không có ai săn sóc. Nhưng rồi việc đó không cần. Đúng lúc chị sắp lên đường, anh matađo về tới nhà, người mất máu xanh xao, một chân phải bất động trong một thời gian dài nhưng anh vẫn cố làm ra bộ nhanh nhẹn khoẻ mạnh vì muốn làm cho gia đình yên lòng. Từ đó nhà anh trở thành một cung thánh, hàng trăm người thành kính đi qua sân để vào chào "người số một trên thế giới" ngồi trong một chiếc ghế bành bằng cói, cái chân đau duỗi lên một cái ghế đẩu, bình tĩnh hút thuốc lá, dường như da thịt anh không bị một vết thương khủng khiếp làm rách nát. Bác sĩ Ruix, người đưa anh về Xêvilơ, tuyên bố rằng trong vòng một tháng nữa thì anh sẽ khỏi, sức sống của cơ thể anh làm cho bác sĩ ngạc nhiên. Mặc dầu đã lâu năm làm phẫu thuật, bác sĩ vẫn chưa hiểu tại sao các đấu sĩ lại có khả năng hồi phục lớn đến thế. Một cái sừng bò dây toàn máu và ***, nhiều khi còn toác ra ở đầu thành nhiều cái gai nhỏ, đâm vào da thịt làm nó rách nát, lõm vào gây ra một vết thương vừa sâu vừa bầm tím, vừa rứt thịt. Thế mà những vết thương kinh khủng đó lại khỏi nhanh hơn những vết thương bình thường.
- Tại sao như thế nhỉ? Nhà giải phẫu lão thành ngẩn ngơ nói. Tôi không biết. Thật là kỳ lạ. Hoặc những chàng trai này có những cơ bắp loài chó, hoặc cái sừng bẩn như vậy có một đặc tính chữa bệnh mà chúng ta chưa biết đến.
Ít lâu sau, Gađacđô lại bắt đầu đi đấu bò và trái với sự tiên đoán của các kẻ thù, tai nạn không hề làm giảm đi chút nào nhuệ khí của anh.
Sau khi cưới vợ bốn năm, Gađacđô tặng mẹ và vợ một món quà lớn bất ngờ. Gia đình sắp thành địa chủ, địa chủ lớn hơn nữa kia, có những đất đai rộng mênh mông, những vườn ô liu, những cối xay bột, những đàn gia súc, một cơ ngơi đẹp chẳng kém gì cơ ngơi của những người giàu có nhất Xêvilơ. Giống mọi đấu sĩ khác, Gađacđô chỉ mơ ước làm địa chủ, có nhiều ngựa nhiều bò. Sự giàu sang ở thành thị và các chứng khoán không hấp dẫn đối với họ vì họ chẳng hiểu gì về những cái đó, nhưng bò mộng làm cho họ nghĩ đến những cánh đồng cỏ xanh rờn, ngựa nhắc họ đến nông thôn. Việc luôn luôn cần vận động thân thể và tập luyện, việc săn bắn và đi bộ trong mùa đông khiến họ thèm muốn sở hữu vườn đất. Theo nhận xét của Gađacđô, người ta chỉ có thể coi là giàu khi có một cái trại và nhiều gia súc. Những năm nghèo đói phải cuốc bộ trên các nẻo đường giữa những vườn ruộng, trại ấp làm cho anh rất thèm một khoảnh đất rộng hàng nhiều dặm xung quanh cắm cọc nối lại với nhau bằng dây thép gai để cấm người ngoài vào.
Người ủy quyền của anh biết anh có nguyện vọng đó. Ông ta tất tả ngược xuôi vì quyền lợi của Gađacđô, thu tiền của nhà thầu, lập bảng chi thu mà ông uổng công giải thích cho người matađo của ông hiểu.
- Tôi chẳng hiểu gì về những trò ma ấy đâu! Gađacđô tuyên bố hãnh diện về sự dốt nát của mình. Tôi chỉ biết giết bò. Ông muốn làm gì thì làm, Đông Hôxê ạ. Tôi tin tưởng ở ông, tôi chắc ông sẽ hết sức cố gắng.
Đông Hôxê chẳng để ý gì đến tài sản của mình và phó mặc nó cho bà vợ ít kinh nghiệm của ông quản lý, nhưng lúc nào ông cũng lo lắng cho cơ nghiệp người matađo của ông và đầu tư vốn liếng của anh một cách hết sức tham lam để thu được nhiều lợi nhất cho anh. Một hôm ông vui vẻ đến bảo người được ông che chở:
- Tôi đã thực hiện được ước vọng của anh. Một cơ ngơi lớn như cả một xứ, và rất rẻ. Một dịp may tuyệt vời. Sang tuần sau, chúng ta sẽ lập văn tự.
Gađacđô muốn biết cái cơ ngơi ấy là cơ ngơi nào và nó ở đâu:
- Trại Rinhcônađa ấy mà, nơi anh đã đấu khi còn ít tuổi ấy!
Thế là tất cả những mơ ước của Gađacđô đều đạt được.
Khi Gađacđô cùng vợ và mẹ đến nhận trại, anh chỉ cho hai người xem cái ổ rơm là nơi xưa kia anh đã ngủ với những thằng bạn nghèo, cái gian phòng là nơi anh đã ăn cùng bàn với người chủ trại, cái đấu trường nhỏ là nơi anh đã thắng một con bò non nên lần đầu tiên trong đời anh được đi xe lửa không phải trốn dưới gầm ghế xe.
Mùa đông khi Gađacđô không ở trại Rinhcônađa, một nhóm bạn bè tụ họp ở nhà anh trong phòng ăn sau những bữa ăn tối.
Những người đến đầu tiên bao giờ cũng là bác thợ yên ngựa và vợ bác, không kể hai đứa con của hai bác ở thường xuyên tại nhà Gađacđô. Cacmen vui lòng cho hai đứa cháu nhỏ tuổi nhất ở với chị có lẽ vì sự im lặng của ngôi nhà rộng quá đè nặng lên tâm tư chị và chị muốn quên cảnh hiếm hoi của mình. Hai đứa bé, một phần do tình cảm tự nhiên một phần do bố mẹ chúng đã dặn kỹ, luôn luôn nũng nịu với người mợ xinh đẹp và người cậu hào phóng, hết hôn hai người lại khò khè trên đùi họ như những con miu con.
Anhcacnaxiông bây giờ cũng xồ xề như bà mẹ với cái bụng biến dạng sau nhiều lần chửa đẻ và mép bắt đầu có ria do tuổi tác. Bác vừa cười một cách xu nịnh với người em dâu vừa phàn nàn rằng mấy đứa con của bác làm phiền mợ quá. Cacmen chưa kịp đáp thì bác thợ yên ngựa đã nói xen vào:
- Mình đừng mắng chúng nó! Chúng nó yêu cậu mợ chúng nó lắm! Nhất là con bé, nó không thể sống xa mợ Cacmen của nó...
Hai đứa trẻ ở đây y như ở nhà mình. Với sự tinh quái trẻ thơ, chúng đoán biết bố mẹ chúng muốn chúng làm gì: chúng ra sức tán tỉnh, nhõng nhẽo cậu mợ giàu có mà chúng thấy mọi người kính nể. Bữa cơm tối vừa xong là chúng hôn tay bà Aoguxtiax và bố mẹ, ôm lấy cổ Gađacđô và Cacmen rồi rời phòng ăn để đi ngủ.
Bà cụ ngồi trong chiếc ghế bành ở đầu trên của bàn ăn. Khi anh matađo có khách khứa, hầu như bao giờ họ cũng là những người có địa vị trong xã hội làm cho bà mẹ không muốn ngồi vào ghế danh dự. Nhưng con trai bà phản đối:
- Thôi nào mẹ! Chỗ cao nhất là chỗ mẹ có quyền ngồi. Mời mẹ ngồi xuống đây, nếu không chúng con cũng sẽ không ngồi.
Rồi anh đưa cánh tay cho bà vịn, dẫn bà đến cái ghế bành của bà, nói với bà những lời âu yếm nhất, dường như anh muốn đền bù những cái vất vả mà anh đã gây ra cho bà trong thời niên thiếu của anh. Buổi tối khi Người Quốc dân đến chơi nhà đội trưởng, vì bác muốn làm bổn phận của người thuộc hạ, thì cuộc họp mặt vui nhộn hẳn lên.
Gađacđô mặc cái áo damara(Damara: áo ngắn có tay rộng bằng lông cừu mà những địa) sang trọng như một địa chủ nông thôn, để đầu trần và món tóc côlêta ốp xuống tận trán, tiếp người banđêridiêrô của mình với vẻ thân mật bông đùa. Anh nói:
- Giới hâm mộ nói thế nào? Họ phao những tin nhảm gì. Công việc nước Cộng hòa đi đến đâu rồi?
- Garabtô, anh nói tiếp, rót cho bác ấy một cốc rượu vang.
Nhưng Người quốc dân từ chối không uống. Bác nói:
- Tôi không uống. Tôi không uống rượu bao giờ. Nếu tình hình của công nhân lạc hậu một cách thảm hại như hiện nay, chính là lỗi tại rượu.
Mọi người cười ồ, dường như Người Quốc dân đã thốt ra một câu rất ngộ mà ai nấy đang chờ đợi. Rồi Xêbatchiêng lại tiếp tục nói kiểu đó.
Người duy nhất ngồi im với cặp mắt đầy ác cảm là bác thợ yên ngựa. Bác ghét Người Quốc dân mà bác coi như kẻ thù. Cũng là một người chồng thành thực và trung thành, Xêbatchiêng cũng mắn con và một bầy nhóc ríu rít trong tiệm rượu quanh gấu váy mẹ. Hai đứa bé nhất là con đỡ đầu của Gađacđô và Cacmen. Thành ra anh matađo và người banđêridiêrô gắn bó với nhau bằng quan hệ cùng là cha của mấy đứa trẻ.
"Thằng đạo đức giả! Chủ nhật nào nó cũng dẫn đến nhà cậu mợ Gađacđô hai đứa con ăn mặc diêm dúa nhất để hôn lên tay bố mẹ đỡ đầu!". Bác thợ yên ngựa tức uất tái mặt mỗi khi các con của Người Quốc dân nhận được một món quà. "Chúng nó đến ăn cắp của con mình, bác nói, Thằng láu cá ấy có thể nghĩ rằng một phần gia tài của Gađacđô sẽ về tay mấy đứa con đỡ đầu! Ôi chao! Thằng ăn cắp! Một kẻ không phải là người trong gia đình!...".
Khi nào bác thợ yên ngựa không trả lời những bài diễn thuyết của Người Quốc dân bằng thái độ im lặng lầm lì và con mắt đầy hận thù, bác tìm cách sỉ nhục người banđêridiêrô bằng cách tuyên bố rằng theo ý bác điều mà người ta cần làm và làm ngay tức khắc là xử bắn kẻ nào gieo rắc trong nhân dân những tư tưởng sai lầm và phiến loạn, vì đó là một mối nguy cơ cho những người lương thiện.
Người Quốc dân nhiều hơn đội trưởng của mình mười tuổi. Khi Gađacđô mới bắt đầu đi múa áo choàng, bác đã là banđêridiêrô trong những đội đấu chính thức. Bác đã làm một chuyến sang châu Mỹ, đã giết bò ở Lima. Khi mới vào nghề bác cũng có tiếng tăm phần nào vì khi đó bác trẻ và nhanh nhẹn. Trong vài tháng, bác cũng được coi là "đấu sĩ của ngày mai", và những nhà hâm mộ đấu bò ở Xêvilơ rất chú ý đến bác, hy vọng rằng bác sẽ làm lu mờ matado của các tỉnh khác. Nhưng tình hình đó không bền. Từ châu Mỹ bác mang về uy tín của những thành tích xa xôi và lờ mờ, công chúng đổ xô đến đấu trường Xêvilơ để xem bác giết bò ra sao. Chẳng may trong cuộc thử thách có tính chất quyết định ấy, bác "rét" như những người hâm mộ đấu bò thường nói. Bác cắm cây banđêri một cách vững vàng xứng danh là một người nghiêm chỉnh làm việc có lương tâm, nhưng đến khi phải giết con bò thì bản năng sinh tồn, mạnh hơn ý chí, khiến bác đứng quá xa con thú và không dám lợi dụng những ưu điểm về chiều cao và sức mạnh cánh tay của bác.
Thế là Người Quốc dân không dám mơ ước những vinh quang tột đỉnh của môn đấu bò nữa. Bác thành một người banđêridiêrô không hơn. Bác đành làm một cùng đinh trong nghệ thuật ấy, phụ thuộc vào những "sư phụ" trẻ hơn, chỉ kiếm được đồng lương xoàng của một pêông để nuôi sống gia đình và tiết kiệm ít tiền cần thiết để mở một cửa hàng nhỏ. Tính trung thực và sinh hoạt đứng đắn của bác nổi tiếng trong giới mang côlêta. Vợ đội trưởng của bác rất mến bác và coi bác như một vị thần hộ vệ trông nom lòng chung thuỷ của anh matađo. Về mùa hè, mỗi khi Gađacđô giết bò xong, và cùng đồng đội vào một quán cà phê có ca nhạc của một thị trấn, nôn nóng vui chơi và trác táng thì giữa các cô ca sĩ mặc đồ sa mỏng, mắt môi bôi xanh xanh đỏ đỏ. Người Quốc dân cứ nín lặng và nghiêm trang hệt một Đức Cha Sa mạc đứng giữa những cô gái giang hồ thành Alêchxăngđri. Không phải là bác khó chịu, mà là bác nghĩ đến vợ con đang chờ bác ở Xêvilơ. Bác cho rằng tất cả những sai lầm thói tật trên đời này đều do không có văn hóa mà ra và bác tin chắc rằng các cô gái tội nghiệp kia không biết đọc biết viết. Đó cũng là trường hợp của bác. Theo ý bác, khuyết điểm ấy mà bác cho là nguyên nhân của sự hèn kém và nông cạn của trí tuệ bác, đủ giải thích mọi cái khổ cực xấu xa trên đời này.
Thời trẻ, bác là công nhân ở một xưởng đúc và bác thường lắng tai nghe những đồng nghiệp may mắn hơn bác nên có thể đọc to lên những điều nói trong mấy tờ báo trung thành với lợi ích của nhân dân. Trong phong trào Quốc dân quân, bác đã nhập ngũ, xung vào một tiểu đoàn đội mũ đỏ tượng trưng cho ý chí liên hiệp không khoan nhượng. Bác đã đứng hàng buổi trước khán đài ở quảng trường, nơi mà các hội đoàn tổ chức họp liên tục và các diễn giả thay nhau diễn thuyết miên man từ sáng đến tối về tính linh thiêng của Chúa Jêxu và về tình hình lên giá của các nhu yếu phẩm.
Đến thời kỳ bị đàn áp, một cuộc đình công làm cho bác lâm vào cảnh khó khăn của một người thợ bị để ý vì tư tưởng cách mạng. Không có người chủ nào muốn thu nhận bác vào xưởng của mình.
Vốn yêu thích các cuộc đấu bò, bác quay ra làm đấu sĩ lúc hai mươi bốn tuổi, trong khi bác có thể chọn bất kỳ nghề nào khác. Bác hiểu biết nhiều và nói một cách khinh bỉ về những cái vô lý của xã hội hiện nay. Bỏ ra bao nhiêu năm để nghe đọc báo chẳng lẽ vô ích sao? Dù kém cỏi đến đâu trong ngành đấu bò, bác cũng kiếm được nhiều tiền hơn và sống dễ chịu hơn một người thợ, kể cả thợ giỏi. Để ghi nhớ thời bác còn cầm súng trong đội Quốc dân quân, người ta mệnh danh bác là Người Quốc dân.
Mặc dầu đã làm lâu năm trong ngành đấu bò, bác vẫn tỏ ý tiếc và thanh minh vì sao mình bước chân vào nghề đó. Quận ủy của đảng bác tuy ra quyết định khai trừ tất cả các đảng viên đi xem đấu bò vì đó là cảnh tượng dã man lạc hậu, nhưng đã áp dụng ngoại lệ đối với bác và vẫn để bác làm đảng viên chính thức.
Bác nói trong phòng ăn của Gađacđô:
- Tôi chẳng lạ gì rằng các cuộc đấu bò có tính chất phản động... có một cái gì nhắc tới thời kỳ Pháp đình tôn giáo. Tôi xin lỗi, nếu như không giải thích được rõ hơn... Biết đọc biết viết cũng cần cho mọi người chẳng kém gì bánh mì và việc bỏ tiền ra xem chúng ta đấu trong lúc trường học còn thiếu là một tội lỗi. Các báo ở Mađrit đã khẳng định như vậy và họ rất có lý... Tuy vậy các đồng chí của tôi mến tôi và quận ủy tuy bị Đông Hôxêlitô khiển trách về vấn đề này, vẫn để tên tôi trên danh sách đảng viên.
Thái độ bình tĩnh của bác không hề bị lay chuyển trước những lời châm chọc, khôi hài điên cuồng của Gađacđô và các bạn anh khi nghe bác nói như vậy. Điều đó chứng tỏ rằng bác rất hài lòng và kiêu hãnh về cách đối xử đặc biệt của các đồng chí của bác đối với bác.
Đông Hôxêlitô, một thầy giáo quèn trường sơ học, một người hay nói và đầy nhiệt tình, đứng đầu quận ủy. Đó là một thanh niên gốc Do Thái, hăng hái trong các cuộc đấu tranh chính trị giống bảy anh em Mắccabêô (Anh em Mắccabêô: tên của bảy nhân vật lịch sử gốc Do Thái tử vì đạo ở thế kỷ II trước CN. Kinh thánh của Thiên chúa giáo có kể sự tích này) và hãnh diện về bộ mặt xấu xí màu xanh vàng và rỗ chằng rỗ chịt của mình vì nó làm cho anh trông hơi giống Đăngtông(Đăngtông: Nhà cách mạng nổi tiếng Pháp, sinh năm 1759, bị xử tử năm 1794). Người Quốc dân cũng há hốc mồm ra nghe khi anh ta nói.
Mỗi khi ông ủy quyền và các bạn của Gađacđô công kích mỉa mai và phản đối quá đáng những quan điểm của Người Quốc dân thì bác ta lúng túng gãi đầu trông rất tội nghiệp:
- Các vị là những ông nọ ông kia, các vị đã được học, còn tôi thì tôi chẳng biết đọc biết viết. Chính vì thế mà những người thuộc giai cấp thấp mới dốt như bò. Chao ôi! Giá mà Đông Hôxêlitô có mặt ở đây nhỉ!... Cha mẹ ôi! Tôi rất muốn các vị được nghe anh ấy nói, anh ấy không chuẩn bị gì cả mà nói hay không chê vào đâu được.
Để củng cố lòng tin của mình hơi bị lung lay sau những trận tấn công kịch liệt của bọn người chế giễu, hôm sau Người Quốc dân đi gặp Đông Hôxêlitô. Là cháu chắt của những người tử vì đạo vĩ đại, Đông Hôxêlitô hình như cảm thấy một niềm khoái lạc chua chát khi cho Người Quốc dân xem "bảo tàng rùng rợn" của mình. Anh chàng Do Thái này khi trở về quê cha đất tổ, đã thu thập một số di vật thời Pháp đình tôn giáo rồi đem trưng bày trong một gian phòng của trường học. Anh làm việc đó một cách tỉ mỉ phục thù như một người tù vượt ngục lắp dựng lại từng mẩu xương của tên cai ngục. Ở gian phòng đó trong các ngăn tủ, xếp hàng dẫy những quyển sách bằng giấy da dê đóng gáy thuật lại những cuộc thiêu người, những lời thẩm vấn người bị cáo trong khi tra tấn. Trên tường căng một lá cờ trắng có hình cây thập giá xanh đáng sợ. Trong các góc phòng chồng chất những dụng cụ tra tấn kinh khủng, mà Hôxêlitô đã tìm thấy ở các cửa hàng bán đồ cũ, những đồ dùng để chém, để kẹp, để băm. Anh xếp ngay những vật ấy vào mục lục y như những đồ cổ lấy từ Ủy hội Pháp đình tôn giáo ở Rôma.
Người Quốc dân vốn hiền lành chất phác, dễ công phẫn nên rất giận khi trông thấy những đồ sắt gỉ ác nghiệt ấy và những cây thập giá xanh.
- Ôi chao ơi! Thế mà có kẻ nói rằng... Trời đất ơi!... Tôi chỉ muốn người ta đến đây mà xem...
Bác rất muốn cải giáo người khác, cho nên bác phô trương quan điểm của bác trong mọi trường hợp, bất chấp những lời giễu cợt của bạn bè. Nhưng ngay trong khi làm việc đó, bác tỏ ra rất hiều hậu vì không bao giờ bác dùng những lời lẽ kết tội cay độc. Theo bác, những người không quan tâm đến vận mệnh của nhân dân và không nằm trong danh sách đảng viên của đảng bác chỉ là những "nạn nhân đáng thương của chính sách ngu dân". Muốn thoát khỏi tình trạng đó, nhân dân phải được học đọc học viết. Riêng đối với bác, bác đành nhũn nhặn không dám tự cải tạo vì bác cho rằng đầu óc của bác đã quá rắn mất rồi, nhưng bác cho rằng toàn thế giới phải chịu trách nhiệm về sự dốt nát của bác.
Vào mùa hè, khi đội đấu của Gađacđô đi xe lửa từ tỉnh này sang tỉnh khác, người matađo ấy bước từ toa hạng nhất sang chơi với đồng đội ở toa hạng nhì, bỗng cửa toa mở ra, một cha xứ thôn quê hoặc vài thầy dòng bước vào. Thế là các banđêridiêrô lấy khuỷu tay hích nhau và liếc nhìn Người Quốc dân. Trông thấy kẻ thù, bác đột nhiên trở thành nghiêm trang hơn. Hai picađo Pôtagiê và Tragabuchơ vốn thô lỗ, hay gây gổ cãi cọ và rất ghét thầy tu, thì thầm kích bác:
- Họ rơi vào tay cậu đấy! Cậu cho họ một chùy đi!... Xổ cho họ một câu chế giễu kiểu của cậu đi!...
Gađacđô lấy quyền đội trưởng không cho phép ai chống lại, anh trừng mắt nhìn Người Quốc dân, nên bác đành ngậm miệng. Nhưng ở trong lòng bác có một cái gì mạnh hơn ý thức phục tùng, đó là nhiệt tình cải giáo người khác; thế là một câu nói chẳng đâu vào đâu đủ làm cho con người chất phác ấy bập ngay vào một cuộc tranh luận với mấy người mới đến và cố sức thuyết phục họ nhận ra chân lý. Nhưng chân lý ấy, theo sự hiểu biết của bác, giống một mớ bòng bong trong đó được nhắc đi nhắc lại một cách lộn xộn những tràng diễn thuyết của Đông Hôxêlitô. Các bạn của bác ngạc nhiên về sự hùng hồn của bác, giương to mắt, khoái chí thấy bạn mình đương đầu nổi với những người đã từng học tiếng la tinh và dồn họ vào chỗ lúng túng. Thực ra, cái đó chẳng khó gì vì những người trong hàng giáo phẩm Tây Ban Nha thường ít học.
Mấy tu sĩ, choáng váng trước biện chứng pháp hăng hái của Người Quốc dân và tiếng cười của các đấu sĩ khác, phải xoay đến luận điểm tối hậu của họ: "Sao thế nhỉ? Những người mà tính mệnh luôn luôn bị đe dọa lại không nghĩ đến Thiên Chúa và dám công nhận những điều vô đạo như vậy sao? Lúc này vợ họ, mẹ họ không cầu nguyện để họ khỏi bị nguy hiểm hay sao?...
Thế là các đấu sĩ nghiêm mặt lại với vẻ lo sợ, nghĩ đến những khánh bài và những bùa chú mà những bàn tay phụ nữ đã khâu vào trong chiếc áo đấu của họ lúc họ sắp rời Xêvilơ. Người matađo bị xúc phạm nặng đến lòng mê tín đã vợi đi, rất cáu Người Quốc dân, hình như hành động vô đạo của bác ta gây nguy cơ cho sự cứu rỗi phần hồn của chính anh.
- Im mồm đi đừng nói bậy nữa!... Xin các cha tha lỗi cho cậu ấy. Cậu ấy tốt, nhưng bị nhồi sọ những lời bố láo... Tôi bảo cậu im đi, không được cãi! Đồ quỷ! Cậu mà còn mở miệng thì tôi sẽ nhét...
Để xoa dịu mấy ông tư tế của Thiên Chúa mà anh cho là có quyền lực chi phối tương lai của mọi người, anh mắng chửi Người Quốc dân một thôi một hồi. Còn bác này bị rầy la nên im lặng một cách khinh khỉnh.
"Ở đâu cũng chỉ thấy dốt nát mê tín! Bác nghĩ. Vì sao vậy? Vì không biết đọc biết viết...". Với lòng tin không gì lay chuyển nổi của một người chất phác chỉ có vài ba ý nghĩ nhưng bám riết lấy nó ngay cả những khi nó bị lay động dữ dội, vài giờ sau bác lại tiếp tục cuộc tranh luận, bất chấp cơn thịnh nộ của người đội trưởng. Tư tưởng chống giáo hội của bác không rời bác ngay cả trên bãi đấu, giữa những capêađo và những picađo, là những người sau khi cầu khấn ở nhà nguyện của đấu trường, bước vào bãi đấu với hy vọng rằng những vật thánh khâu trong quần áo của họ sẽ làm cho họ tránh được tai họa. Khi một con bò mộng hạng nặng kếch sù, cổ bạch và lông đen kịp bước vào giai đoạn cắm banđêri, Người Quốc dân lại dang hai cánh tay cầm mấy cây banđêri, đi đến gần nó và chọc nó bằng những câu chửi xỏ:
- Ông cố, lại đây!
"Ông cố" nổi giận xông lại và đúng lúc nó phóng sát người bác, bác dùng hết sức cắm cặp banđêri vào bướu cổ nó, đồng thời hét to như tuyên bố chiến thắng:
- Kính tặng giáo hội!
Gađacđô cuối cùng phải bật cười về cái trò kỳ quái của Người Quốc dân.
- Cậu làm cho người ngoài cười tôi. Người ta sẽ để ý đến đội của chúng ta và bảo rằng chúng ta thuộc bè rối. Cậu thừa biết rằng có những khán giả không thích như vậy. Người đấu sĩ chỉ nên là người đấu sĩ mà thôi...
Nhưng tóm lại, anh matađo rất yêu người banđêridiêrô của mình, anh không quên tình quyến luyến của người đó, tình quyến luyến ấy đã nhiều lần đưa tới sự hy sinh. Chẳng sợ khán giả huýt sáo, những khi gặp một con bò nguy hiểm, Người Quốc dân cắm bừa cặp banđêri để xong cho mau. Bác chẳng mơ ước vinh quang, bác hành nghề chỉ để kiếm sống. Nhưng hễ Gađacđô kiếm cầm tay tiến lại gần một con bò dữ tợn, thì bác chạy lại đứng bên anh, sẵn sàng xông cứu anh bằng cái áo choàng to nặng và cánh tay mạnh mẽ đã buộc nhiều con bò phải cúi đầu. Có hai lần, Gađacđô ngã lăn dưới đất và sắp bị bò húc, nhưng Người Quốc dân đã xông vào con vật, chẳng nghĩ gì đến vợ con, đến tiệm rượu của mình, đến bất cứ cái gì, quyết chết để cứu đội trưởng.
Bà Aoguxtiax quý mến bác với tình cảm của những người bình dân đối với nhau và làm cho họ gần nhau, ngay cả khi một bên tiến lên địa vị cao hơn.
- Xêbatchiêng, bác ngồi xuống cạnh tôi đây... Thật à, bác không muốn uống gì à?... Bác gái và các cháu vẫn khoẻ mạnh đấy chứ?... Tiệm của bác làm ăn có khá không? Bác kể cho tôi nghe một chút về các chuyện đó đi!
Người Quốc dân kể cho bà nghe tình hình hàng họ trong mấy ngày qua, số rượu đã bán được ở tiệm và số chai trao tại nhà cho khách hàng. Bà chăm chú nghe, vì bản thân bà đã trải qua cảnh nghèo túng và hiểu giá trị của một đồng xu. Rồi bác nói đến khả năng phát triển việc buôn bán của bác. Nếu bác mở được một tiểu bài thuốc lá trong tiệm rượu của bác thì trúng cho bác quá. Chắc Gađacđô có thể xin cái đó cho bác vì anh quen nhiều nhân vật thần thế. Nhưng Xêbatchiêng ngại không muốn xin xỏ một ân huệ như thế.
- Thưa bà, bà cũng biết đó là một việc thuộc quyền chính phủ. Còn tôi thì có những nguyên tắc của tôi. Tôi là đảng viên, tôi là ủy viên ban chấp hành. Nếu tôi làm thế thì các đồng chí của tôi sẽ bảo sao?
Bà cụ trách bác sao lại ngại ngùng như vậy. Bổn phận thực sự của bác là đem về cho gia đình càng nhiều tiền càng tốt. Tội nghiệp bác gái Têrêxa có cả một bầy con!...
- Đừng có ngốc thế, Xêbatchiêng ạ. Bỏ những ý nghĩ gàn dở ấy đi... Không, bác đừng trả lời tôi, đừng tuôn ra với tôi những câu rồ dại mà bác vẫn thường nói. Bác hãy nhớ rằng sáng mai tôi đi lễ ở nhà thờ Macarêna.
Gađacđô và Đông Hôxê lúc ấy đang hút thuốc ở phía bên kia bàn, cốc rượu mạnh để bên cạnh. Hai người thích khêu cho Người Quốc dân diễn thuyết để giễu cợt những tư tưởng của bác và phá rối bác bằng cách nói xấu Đông Hôxêlitô:
- Hắn chỉ là một kẻ lừa bịp làm điên đầu những người ngu dốt như cậu, Xêbatchiêng ạ!
Người Quốc dân tiếp nhận một cách nhân từ những lời chế giễu của Gađacđô và người ủy quyền của anh. Nghi ngờ Đông Hôxêlitô ư? Nói vô lý như vậy không đời nào làm cho bác tức giận được. Có khác nào bảo Gađacđô - một thần tượng khác của bác - là không biết giết bò!
Nhưng khi thấy bác thợ yên ngựa mà bác ghét cay ghét đắng cũng dúng mồm vào việc giễu cợt đó, bác không giữ được bình tĩnh nữa. Thằng đểu ấy ăn bám vào đội trưởng của bác mà dám phản đối những ý kiến của bác à? Thế là bác không còn ôn hòa, bất chấp sự có mặt Cacmen và bà Aoguxtiax, bác xông ngay vào cuộc tranh cãi, trình bày những nguyên tắc của mình một cách nhiệt liệt chẳng khác nào lúc bác tranh luận ở ban chấp hành quận ủy của đảng. Thiếu những lý lẽ tốt hơn, bác thóa mạ vô hồi kỳ trận những điều mà những người thích pha trò kia tin:
- Kinh thánh à? Vớ vẩn!... Cuộc sáng tạo thế gian trong bảy ngày à? Vớ vẩn! Chuyện ông Ađam, và bà Evơ à? Vớ vẩn! ... Tất cả những cái đó, chỉ là lừa dối và mê tín!
Từ "vớ vẩn" mà bác dùng để tránh một từ bất kính hơn chỉ tất cả những gì mà bác cho là sai lầm, lố bịch, phát ra từ miệng bác, từ đó mang một âm sắc khinh bỉ kỳ lạ. Chuyện ông Ađam và bà Evơ, đối với bác, là một dịp châm biếm không bao giờ dứt. Bác đã suy nghĩ nhiều về chuyện này vào những lúc im lặng ngủ gà trong các chuyến đi với đồng đội, và bác đã tìm ra một lý lẽ không ai có thể chối cãi, một lý lẽ hoàn toàn của bác nghĩ ra. Làm sao có thể cho rằng tất cả mọi người đều là con cháu của một cặp nam nữ duy nhất?
- Tôi, tên họ của tôi là Xêbatchiêng Vênêga, có phải không ạ? Còn anh Huan, họ của anh là Gađacđo. Còn ông Đông Hôxê, ông cũng có một họ khác. Vì mỗi người chúng ta có một họ riêng, nên khi có những người trùng họ với nhau thì đấy tức là thuộc cùng một họ. Vậy nếu tất cả chúng ta đều là cháu chắt của ông Ađam và tôi giả thiết họ của ông Ađam là Pêrê chẳng hạn - thì tất cả chúng ta đều mang họ là Pêrê mới phải chứ? Cái đó đã rõ chưa ạ?... Vậy thì, vì lẽ mỗi người chúng ta đều có một họ riêng, chúng ta phải kết luận rằng có nhiều ông Ađam và tất cả những điều mà các cha cố kể đều là... vớ vẩn. Nhưng chúng ta quá ư lạc hậu! Chúng ta không có văn hóa và giáo hội lợi dụng sự dốt nát của chúng ta. Hình như tôi vừa mới trình bày rõ rồi.
Gađacđô cười đến lật ngửa người trên ghế, khen diễn giả bằng hai tiếng hoan hô bắt chước tiếng bò rống. Ông ủy quyền với vẻ trang trọng của dân xứ Øngđaludi chìa tay ra bắt tay và khen bác.
- Xin bắt tay cậu! Cậu nói hay lắm! Cừ hơn cả Caxtêla!( Caxtêla: Emiliô Caxtêla, một nhà chính trị cộng hòa kiêm nhà văn Tây Ban Nha (1832 - 1899).
Còn bà Aoguxtiax, một bà già đã kề miệng lỗ thì sợ hãi và nổi giận khi nghe thấy nói năng như vậy ngay trong nhà mình.
- Im đi, Xêbatchiêng! Bác đáng đầy xuống hỏa ngục! Ngậm cái miệng hư hỏng đi, nếu không tôi sẽ đuổi bác ra cửa!... Nếu tôi không biết rõ bác thì... Nếu tôi mà không biết bác là một người trung thực thì...
Nhưng chẳng bao lâu bà lại vui vẻ với người banđêridiêrô vì bà nghĩ tới tình cảm sâu sắc của bác đối với con trai bà và đến những cái bác đã làm trong những giờ phút hiểm nghèo. Hơn nữa, việc một người đứng đắn mô phạm như bác đứng trong đội cạnh những "tướng" ăn chơi là một bảo đảm lớn cho bà và cho Cacmen, vì Gađacđô rất nhẹ dạ, nếu được thả lỏng ắt bị tính thích được phụ nữ khâm phục lôi cuốn.
Người thù địch của các cha xứ và của ông Adam bà Evơ nắm được một bí mật làm cho bác thận trọng và nghiêm nghị mỗi khi bác thấy đội trưởng của bác ngồi cạnh bà Aoguxtiax và Cacmen. Chao ôi! Nếu mấy người phụ nữ ấy cũng biết cái chuyện mà bác biết!... Người Quốc dân không tán thành quan hệ của Gađacđô với Đônha Xôn mặc dầu một người ban - đêridiêrô như bác tất nhiên phải kính nể đội trưởng của mình. Một hôm, bác dám nói thẳng với Gađacđô, dựa vào việc bác nhiều tuổi hơn anh và thân thiết với anh từ lâu.
- Phải cẩn thận đấy anh Huan ạ! Ở Xêvilơ người ta biết hết cả rồi. Ai cũng bàn tán về chuyện ấy... Tin ấy rồi sẽ lọt đến tai gia đình anh và sẽ sinh ra lôi thôi to!... Anh nghĩ mà xem, bà Aoguxtiax sẽ buồn phiền còn chị Cacmen sẽ rầu rĩ như Đức Mẹ đau khổ... Anh dính phải một kẻ ma quái, nó sẽ gây rắc rối cho anh đấy. Anh phải cẩn thận.
Anh matađo vừa khó chịu vừa thích thú khi nghe nói khắp thành phố biết chuyện tình ái bí mật của mình, nhưng anh giả vờ không hiểu:
- Cậu định nói kẻ ma quái nào? Cậu định dọa tôi cái gì thế?
- Còn ai nữa nếu không phải là cái bà đại quý tộc làm cho dư luận nói rất nhiều về mình? Đó là Đônha Xôn, cháu gái của hầu tước Đờ Môraima, nhà nuôi bò mộng.
Anh matađo mỉm cười không nói gì, trong thâm tâm anh rất khoái thấy người banđêridiêrô của mình biết rõ chuyện, còn Người Quốc dân thì tiếp tục nói bằng cái giọng của một nhà thuyết giáo đã chán chường những cái phù họa của thế gian này.
- Anh Huan ạ, anh phải quên cái bà đó đi. Trên đời này không có gì quý hơn sự yên ấm trong gia đình, nhất là đối với bọn chúng ta không biết gẫy chân què tay về nhà nằm bẹp lúc nào. Vả lại đàn bà cũng là... vớ vẩn. Họ đều như nhau cả và đời ta sẽ hỏng nếu ta rồi bỏ người này theo người khác. Kẻ hầu hạ của anh là tôi đây, trong hai mươi lăm năm qua sống với mụ Têrêxa nhà tôi, tôi chưa hề lừa dối mụ một lần nào ngay cả trong tư tưởng, tuy tôi cũng là đấu sĩ, cũng có những ngày oanh liệt khối gái đẹp theo đuổi chứ không đâu!
Gađacđô chế nhạo những lời lên lớp của Người Quốc dân: "Cậu ấy nói như một vị tu sĩ, ấy thế mà cậu ấy định ăn sống nuốt tươi các vị ấy".
- Này Người Quốc dân, anh nói, sao cậu ngốc thế! Con người sinh ra làm sao thì cứ phải như vậy. Khi có đàn bà đến với ta thì tốt nhất là ta cứ để họ đến. Sống ở đời có được bao lâu! Một ngày kia biết đâu tôi chẳng bỏ mạng ở giữa đấu trường. Vả lại cậu không biết một phu nhân đại quý tộc ra làm sao đâu! Giá mà cậu được thấy phu nhân ấy! Kém gì những đóa hồng trong vườn Ancađa , kém gì những đóa nhài thơm lừng Thiên đường!...
Nhưng nhận thấy vẻ mặt rất buồn bực của Người Quốc dân, anh nói thêm một cách ngây thơ dường như muốn làm yên lòng bác:
- Tôi rất yêu Cacmen, cậu cũng biết đấy! Tôi yêu Cacmen chẳng kém gì hồi trước... Song tôi cũng yêu cả người kia. Nhưng không phải là yêu giống nhau... Tôi không thể nào giải thích cho cậu được... Không phải là giống nhau, có thế thôi!
Thế là qua cuộc nói chuyện với anh matađo, người banđêridiêrô chỉ nhận được câu trả lời mơ hồ ấy thôi. Trong mùa rỗi rãi, Gađacđô không thích gì hơn là được nằm nhà, không phải luôn luôn ngồi xe lửa. Mỗi năm giết một trăm con bò với tất cả những nguy hiểm vất vả của các trận đấu cũng không mệt nhọc bằng những cuộc hành trình kéo liên miên hàng tháng từ thành phố này sang thành phố khác.
Những cuộc đi xa ấy quả là gay go trong những tháng hè, dưới ánh nắng gay gắt, qua những đồng bằng nóng như lửa, trên những toa xe cũ kỹ mái bỏng rẫy. Cái bình nước của đội cứ đến mỗi ga lại được múc đầy nhưng vẫn không đủ để giải khát. Hơn nữa các toa xe đều chật ních, nhân ngày hội hành khách kéo từ quê ra tỉnh để xem hội và dự cuộc đấu bò. Nhiều khi Gađacđô, vì sợ lỡ tàu, vội vã giết con bò cuối cùng rồi vẫn đóng bộ quần áo chiến đấu óng ánh chạy thẳng ra ga và lao lên tàu như một ngôi sao băng giữa các đám hành khách và các xe chở hành lý. Anh thay quần áo trong một ngăn của toa hạng nhất trước mắt hành khách nhưng những người này lại thích vì được đi cùng chuyến tàu với một người có danh tiếng. Ban đêm anh gục đầu xuống gối và mọi người ngồi xích lại để nhường chỗ cho anh. Họ kính nể anh và bảo nhau rằng đến mai con người này sẽ đem đến cho họ cái thú được xúc động khủng khiếp mà không hề nguy hiểm đến bản thân.
Khi anh tới một thành phố đang hội hè, phố xá trang hoàng đầy biểu ngữ và cổng chào, anh còn bị sự tôn sùng cuồng nhiệt của công chúng hành tội trong lúc anh đã mệt nhoài.
Những người hâm mộ tên tuổi anh đón anh ở nhà ga và hộ tống anh đến tận khách sạn. Những người vừa ngủ đẫy mắt và tươi tỉnh ấy vây quanh anh, xô đẩy anh, muốn thấy anh cởi mở và hoạt bát, dường như sự gặp gỡ họ là một niềm vui thú rất lớn đối với anh.
Sau cuộc đấu, nếu không phải lại lên đường ngay chiều hôm đó để đến một đấu trường khác, những dân "sành sỏi" ở địa phương đến khách sạn chúc tụng anh:
- Thế là một lần nữa anh xứng đáng là người matađo số một trên thế giới. Chao ôi! Cái nhát kiếm đâm con bò thứ tư ấy mới ghê chứ!...
- Thế à? Gađacđô trả lời với vẻ lên mặt rất trẻ con. Tôi không đến nỗi tồi chứ?
Họ nói liên miên, chẳng quản ngại gì đến giờ giấc đang trôi đi. Trời đã tối, những ngọn đèn khi đã thắp, thế mà họ vẫn chưa chịu rời. Tuân theo một kỷ luật truyền thống, các đội viên đứng im lặng chờ lệnh của đội trưởng trong một góc phòng, không được cởi quần áo hoặc đi ăn chừng nào anh matađo chưa cho phép.
Các picađo mệt lử vì hai chân vẫn bị bó trong giáp sắt và do những lần ngã ngựa kinh khủng, vo tròn giữa hai đầu gối chiếc mũ dạ cứng queo của mình. Các banđêridiêrô, người nịt cứng trong bộ quần áo lụa và đẫm mồ hôi, rủa thầm những người khách ngồi dai như đỉa đói.
Nhiều khi không phải chỉ có một cuộc đấu duy nhất và trong ba bốn ngày liền anh matađo phải giết nhiều bò. Đến tối, anh mệt nhoài nhưng không sao nhắm mắt được vì những xúc động mới rồi vẫn kích thích thần kinh. Chẳng cần lịch sự nữa, anh ngồi hóng mát ở cửa khách sạn, chỉ mặc độc một cái áo sơ mi. Các đội viên trú ở cùng một khách sạn với anh, đứng bên cạnh "sư phụ" của mình như những học sinh bị phạt. Được một lúc, một người táo bạo hơn cả liền xin phép đi dạo chơi một vòng quanh những phố treo đèn và khu hội chợ.
- Không được! anh matađo kêu lên, đến mai chúng ta phải đấu với những con bò Miura. Tôi không biết cậu nói "một vòng" là thế nào. Rồi đến tảng sáng mai cậu mới về, bí tỉ và đã mất một phần khí lực trong một cuộc trai gái nào đó rồi. Không! Không!... Tôi cấm ra phố. Khi nào xong việc, cậu sẽ thỏa mãn cơn thèm của cậu.
Và một khi việc xong, nếu được vài ngày tự do trước khi đấu trận sau ở một thành phố khác, đội hoãn lên đường. Thế là diễn ra những cuộc chè chén lu bù của những người xa gia đình, những cuộc trác táng tha hồ rượu và gái cạnh những người hâm mộ đấu bò là những người cho rằng cuộc sống của các thần tượng của họ không thể nào khác được.
Lịch các ngày hội buộc anh matađo phải đi lại một cách kỳ quặc. Hôm nay anh rời một thành phố để tới đầu kia của nước Tây Ban Nha, rồi bốn ngày sau anh lại quay lại một nơi ở ngay cạnh thành phố ấy. Trong những tháng hè là những tháng có rất nhiều cuộc đấu, anh hầu như sống trên xe lửa, luôn luôn đi vòng vèo trên tất cả mọi tuyến đường sắt của bán đảo, ngày thì giết bò, đêm thì ngủ trên toa xe. Anh nói:
- Nếu đem xếp thành một hàng tất cả những cây số mà tôi phải vượt qua trong mùa hè, có lẽ ít nhất nó phải dài tới bắc cực.
Vào đầu mùa đấu, anh vui vẻ ra đi, khoái chí thấy các báo luôn luôn nói về anh và nóng ruột chờ anh tới, vả lại anh hy vọng sẽ có những cuộc gặp gỡ bất ngờ, những dịp may do tính tò mò của phụ nữ tạo ra, anh thích thú nghĩ tới những ngày sống ở hết khách sạn này đến khách sạn khác, luôn luôn xúc động. Ngay cả những cái khó chịu của cuộc sống ấy cũng khác cuộc sống buồn tẻ ở nhà tại Xêvilơ hoặc ở vùng núi hiu quạnh Rinhcônađa. Nhưng sau vài tuần sống cuộc sống náo nhiệt kinh khủng mà mỗi buổi chiều chiến đấu kiếm được năm nghìn pêxêta, anh bắt đầu than thở như một đứa trẻ sống xa bố mẹ:
- Chao ôi! Nhà tôi ở Xêvilơ mát biết chừng nào, sạch như lau nhờ bàn tay của vợ tôi. Chao ôi! Mẹ tôi nấu những món xốt mới tuyệt chứ, những món xốt làm người ta phải nhỏ dãi!...
Anh chỉ quên Xêvilơ trong những buổi tối rỗi rãi khi không có cuộc đấu nào vào hôm sau, và toàn đội ngồi với những người hâm mộ muốn để lại cho các đấu sĩ một kỷ niệm êm ái về thành phố của mình, trong một tiệm cà phê có ca nhạc mà tất cả phụ nữ - gái và cô ca sĩ - đều dành cho người matađo.
Sau mùa đấu, trong thời kỳ nghỉ ở nhà, Gađacđô hưởng cái thú của một vĩ nhân, tạm quên danh vọng để sống một cuộc đời bình thường như mọi người, thoát khỏi sự câu thúc của giờ giấc xe lửa, không còn phải lo nghĩ đến bò mộng. Anh dậy rất muộn. Anh không phải làm gì cả hôm nay, cả ngày mai, cả ngày kia! Những cuộc hành trình của anh không xa quá phố Rắn hoặc quảng trường Xăng Fecmanđô. Ở nhà anh, tình hình thay đổi hẳn: biết chắc rằng anh sẽ ở nhà được vài tháng, ai nấy vui vẻ hơn và khoẻ mạnh hơn.
Anh đi dạo, chiếc mũ dạ hất về phía sau đầu, chiếc can có núm vàng vung vẩy, anh thỏa mãn nhìn những chiếc nhẫn kim cương to tướng đeo ở ngón tay. Nhiều người đứng chờ anh ở phòng ngoài, gần cổng ra vào để lộ qua những chấn song sắt cái sân trắng toát sáng loáng và sạch như lau. Ở đó có những người da cháy nắng, mình nồng nặng mồ hôi, khoác chiếc áo lao động bẩn thỉu và đội cái mũ có vành rộng xơ xác. Đó là những công nhân nông nghiệp đi từ xứ này qua xứ khác và trong khi đi qua Xêvilơ họ thấy là hoàn toàn tự nhiên cái việc họ đến xin người matađo danh tiếng mà họ gọi là "Ngài Huan" giúp đỡ chút ít. Cũng có những người dân Xêvilơ xưng hô cậu cậu tớ tớ với Gađacđô. Gađacđô với cái tài nhớ mặt như hầu hết những ai quen sống giữa quần chúng, nhận ra những người ấy mà không phật ý về cách xưng hô ấy. Đó là những bạn học cũ của anh hoặc những người quen anh từ thời niên thiếu lang thang của anh.
- Chao ôi, chúng tớ làm ăn chẳng ra sao cả! Thời buổi này thật khó khăn.
Trước khi tình thân mật khiến họ mạnh dạn tâm sự sâu hơn, Gađacđô đã quay về phía Garabatô vẫn đang đứng giữ cái cổng mở.
- Mày chạy thưa với bà cho mỗi người này hai đồng bạc.
Rồi anh bước ra phố, miệng huýt sáo, vui thích thấy mình rộng rãi và đời đẹp. Trong tiệm rượu cạnh nhà, lũ con của người chủ tiệm và các khách hàng chạy ra cửa tươi cười, trố mắt nhìn Gađacđô dường như họ chưa trông thấy anh bao giờ.
- Chào các vị! Gađacđô nói.
Một người hâm mộ chạy lại, tay cầm cốc rượu. Nhưng anh từ chối:
- Cảm ơn, tôi không uống!
Anh tránh thoát người hâm mộ và tiếp tục đi. Một lúc sau, trong một phố khác, hai bà bạn cũ của mẹ anh bước tới. Hai bà xin anh đỡ đầu cho đứa cháu của một trong hai bà: con gái bà sắp ở cữ, rể bà vốn là một người cực kỳ hâm mộ Gađacđô và đã nhiều lần, lúc tan cuộc đấu bò, anh ta dùng gậy để bảo vệ thần tượng của mình, nhưng anh ta không dám đứng ra xin nhà matađo lừng danh đặc ân đó.
- Nhưng mà trời ơi là trời! Các người cho tôi là một vú em chăng? Tôi đã có nhiều con đỡ đầu hơn cả số trẻ con ở viện dục anh rồi!
Để đánh tháo, anh khuyên hai bà đi tìm mẹ anh: mẹ anh bảo sao thì anh sẽ làm như thế. Và anh lại tiếp tục đi không dừng chân nữa cho tới phố Rắn, chào người này, cho người nọ hưởng cái vinh dự được đi bên anh một cách thân mật trước mắt những người qua đường.
Anh đến Câu lạc bộ Bốn Mươi Lăm để xem ông ủy quyền của anh có tới đó không. Đó là một câu lạc bộ quý phái chỉ thu nhận một số hội viên rất hạn chế như tên nó chỉ rõ và chỉ bàn những chuyện bò mộng và ngựa. Các hội viên của nó đều là những người hâm mộ đấu bò giàu có hoặc những người nuôi bò nhiều tiền, đặc biệt là hầu tước Đờ Môraima, người giàu sang nhất mà ai cũng nghe lời như một nhà tiên tri. Một buổi chiều thứ sáu, trong khi đi dạo chơi, Gađacđô bỗng nảy ra ý ngông là vào nhà thờ giáo xứ Xăng Lôrăngdô. Lúc đó trên sân trước nhà thờ có nhiều cỗ xe lộng lẫy đỗ. Toàn thế giới quý tộc ở Xêvilơ đến đây để cầu nguyện trước tượng Chúa Jêxu Toàn Năng. Các phu nhân bước từ trên xe xuống mặc đồ tang, choàng những chiếc khăn quý, còn các ông thì vào nhà thờ bị thu hút vì thấy nhiều phụ nữ tới đó. Gađacđô làm như các người khác: một đấu sĩ phải tranh thủ mọi cơ hội để gần những người cao sang. Người con trai của bà Aoguxtiax cảm thấy hãnh diện khi các ông giàu sang chào anh và các bà lịch sự vừa thì thầm tên anh vừa lấy mắt chỉ cho nhau thấy anh. Hơn nữa, anh rất sùng kính Chúa Jêxu Toàn Năng. Anh không quá phẫn nộ và anh dung túng cho Người Quốc dân phát biểu ý kiến của bác về Thiên Chúa hoặc Thiên Nhiên chính vì thánh thần đối với anh là một cái gì mung lung mơ hồ giống một người mà anh chỉ nghe nói đến và do đó anh có thể bình tĩnh khi thấy người ấy bị bôi xấu. Nhưng đối với Đức Bà Đồng Trinh Đáng Trông Cậy và Chúa Jêxu Toàn Năng thì lại là vấn đề khác: anh biết rõ hai vị này từ khi anh còn nhỏ, vì thế anh không cho phép ai đụng đến. Tính đa cảm của một chàng trai mạnh khỏe như anh bị kích động trước nỗi đau đớn bi thảm của Chúa Jêxu vai vác cây thập giá vẻ mặt lo sợ, nhợt nhạt, đầm đìa mồ hôi nhắc anh nghĩ tới một số bạn mà anh đã trông thấy nằm trong trạm cứu thương của đấu trường. Anh thấy cần có quan hệ tốt với Chúa Jêxu Toàn Năng này. Anh bèn sùng kính đọc nhiều lần kinh Lạy Cha trước bức tượng của Người mà ánh nến phản chiếu thành những ngôi sao đỏ lung linh trong cặp mắt người Châu Phi của Người.
Cử động của mấy người phụ nữ quỳ gần anh làm anh sao lãng sự chú ý. Một phu nhân đi lướt qua giữa đám phụ nữ làm họ tò mò nhìn: phu nhân ấy người dong dỏng cao, đẹp lộng lẫy, mặc bộ quần áo màu nhạt, đội mũ cài lông chim để lộ mái tóc vàng óng rực rỡ. Gađacđô nhận ra người đó là Đônha Xôn, cháu gái của hầu tước Đờ Môraima, "bà đại sứ" như người ta thường gọi ở Xêvilơ.
Đônha Xôn đi qua đám phụ nữ không thèm để ý đến vẻ tò mò của họ nhưng thích thú thấy họ nhìn mình và xì xào tên mình dường như cái đó là một sự tôn sùng tự nhiên đối với nàng ở những nơi nàng tới. Nàng quỳ xuống, cúi đầu một lúc như để cầu nguyện, rồi cặp mắt trong veo, xanh biếc và ánh lên những chấm vàng của nàng nhìn quanh nhà thờ một cách bình tĩnh, y như nàng đang ở rạp hát và tìm trong đám khán giả những khuôn mặt quen biết. Ánh mắt nàng tươi cười khi nàng nhìn thấy một người bạn gái, rồi nó lại tiếp tục đảo quanh cho đến khi nó gặp ánh mắt của Gađacđô.
Anh matađo vốn tính không nhũn nhặn. Quen được hàng nghìn hàng vạn người thán phục nhìn anh trong những ngày đấu, anh cứ tưởng rằng con mắt nào cũng phải hướng về anh. Nhiều phụ nữ trong những phút phó thác hoàn toàn đã thú thật với anh rằng sự xúc động, tò mò và thèm muốn đã xâm chiếm lòng họ khi họ trông thấy Gađacđô lần đầu trên bãi đấu. Thế mà nay mắt của Đônha Xôn khi gặp mắt của Gađacđô lại không nhìn xuống, trái lại nàng tiếp tục nhìn xói vào mắt anh với vẻ lạnh lùng của một phu nhân đại quý tộc và chính chàng matađo, vốn lễ phép với những người giàu sang quyền quý, phải đưa mắt nhìn xuống.
"Cô này trông hay thật! Anh nghĩ thầm với tư tưởng tự mãn của một người quen được thiên hạ tôn sùng. Không biết rồi có về tay ta hay không?".
Ở nhà thờ ra, anh cảm thấy không thể nào bỏ đi được và để gặp lại Đônha Xôn, anh đứng lần chần ở gần cổng lớn. Như trong những buổi may mắn mà anh đã trải qua, tâm linh báo cho anh biết rằng đây là một cơ hội kỳ lạ. Tự nhiên anh hồi hộp như những khi ở bãi đấu, cảm giác đó khiến anh gác ngoài tai những tiếng kêu của khán giả muốn can ngăn anh và khiến anh vẫn cứ làm những hành động cực kỳ dũng cảm nhưng bao giờ cũng thắng lợi.
Khi Đônha Xôn bước ra khỏi nhà thờ, nàng nhìn anh lần thứ hai không hề tỏ vẻ ngạc nhiên, dường như nàng đã đoán biết rằng tất nhiên anh sẽ đứng chờ nàng ở gần cửa lớn. Nàng bước lên một chiếc xe ngựa bỏ mui cùng hai người bạn gái rồi khi người xà ích cho ngựa chạy, nàng lại quay đầu về phía anh trong một giây đồng hồ và trên đôi môi nàng thoáng qua một nụ cười.
Gađacđô rất bận tâm trong suốt buổi chiều hôm ấy. Anh nghĩ đến những lần may mắn trước, đến những chiến thắng mà phong cách đấu sĩ hiên ngang vẫn đem lại cho anh, đến những cuộc chinh phục đã làm anh vô cùng tự hào và tin rằng không ai có thể cưỡng lại anh nhưng bây giờ lại làm anh có phần nào xấu hổ. Một người phụ nữ như vậy, một phu nhân đại quý tộc, sau khi đi khắp nước Tây Ban Nha hiện đang sống như một bà hoàng ở Xêvilơ, một người phụ nữ như vậy quả là đáng chinh phục! Không những ngẩn ngơ trước sắc đẹp của Đônha Xôn, anh còn cảm thấy kính nể, đó là bản năng của một kẻ lưu manh cũ ở một nước vốn trọng dòng dõi và của cải, từ khi lọt lòng mẹ đã quen tôn kính những người quyền quý trên đời này. Chao ôi! Giá mà anh tìm ra cách làm cho người ấy chú ý đến anh nhỉ!
Ông ủy quyền của anh vốn quen biết tất cả những người danh giá ở Xêvilơ và là bạn thân của hầu tước Đờ Môraima đã mấy lần nói về với anh. Dư luận cho rằng nàng hơi khác người với cái tên lãng mạn của nàng rất phù hợp với tính tình độc đáo và lối sinh hoạt độc lập của nàng. Làm chủ một gia sản lớn sau khi mẹ mất, nàng đã lấy ở Mađrit một người nhiều tuổi hơn nàng nhưng làm đại sứ. Địa vị đó vừa ý nàng, vì cô gái đó nóng lòng muốn biết những cái mới lạ và rất muốn nổi bật trong giới quý phái nhất.
- Nàng đã chơi bời ghê lắm! Đông Hôxê kể cho Gađacđô nghe. Trong mười năm đi vòng quanh châu Âu, nàng đã làm khối người mê mẩn. Nàng có cao vọng lắm, cậu ạ. Các bà hoàng hậu đều sợ nàng, hễ ông đại sứ đến nước nào được sáu tháng là y như hoàng hậu nước ấy vận động bí mật để chính phủ Tây Ban Nha đổi đi nước khác cả ông đại sứ lẫn bà vợ đáng kiềng của ông. Cuối cùng ông đại sứ tội nghiệp ấy, sau khi nghiên cứu tại chỗ địa lý của toàn châu Âu, bèn từ giã cõi đời. Miệng lưỡi thế gian còn kể rằng các vị vua chúa cũng chưa đủ làm nàng vừa ý. Dư luận cho rằng khi ở Pari nàng yêu một nhà họa sĩ, ở Đức nàng thân với một nhạc sĩ, ở Nga nàng mê một người thuộc phe vô chính phủ thế mà người này chẳng thiết gì nàng cả.
Về Xêvilơ được vài tháng sau mười năm sống ở những xứ lạnh buốt và đầy sương mù, nàng đâm ra thích bầu trời trong xanh và cảnh mùa đông có ánh nắng ở nước ta, nàng yêu đến hóa cuồng tất cả những cái gì có tính chất dân tộc, mê mệt những phong tục dân gian và thấy nó rất kỳ, rất "nghệ thuật". Một phụ nữ mạnh khoẻ, quen chơi thể thao, một nữ kỵ sĩ có tài hay phóng ngựa quanh vùng Xêvilơ trong chiếc áo dài đi ngựa màu đen, ngoài khoác chếc áo ngắn của đàn ông, ca vát đỏ, mũ dạ trắng đặt trên mớ tóc vàng óng. Người ta còn thấy nàng đem theo một garôcha (Garôcha: một loại giáo dài giống loại giáo của picađo mà những người cưỡi ngựa chăn bò hay dùng) dắt trên sườn yên ngựa, cùng một đoàn bạn hữu cũng mang loại giáo ấy phóng ngựa đến cánh đồng cỏ Tablada để rượt và đâm ngã bò mộng, và nàng rất thích loại hội hè táo bạo và nguy hiểm ấy... Một phụ nữ thật lạ phải không Huan? Cô ta thật hay!
Ông ủy quyền còn nói rằng từ khi về Xêvilơ, Đônha Xôn sống rất gương mẫu, gia nhập hội thiện Chúa Jêxu T'riana(T'riana : Tên của một ngoại ô của thành phố Xêvilơ, nằm trên bờ phải con sông Goađankivia. Dân ở đó phần lớn là thợ thuyền và người gitanô (bôhêmiêng)) là hội có tiếng nhất. Ông nói thêm rằng nhiều buổi tối nhà nàng đầy những người chơi ghi ta và khiêu vũ, những người này đến cùng gia đình và cả những người bà con xa nhất, ai nấy chén no ô liu và dồi lợn, còn Đônha Xôn ngồi như bà hoàng trong một chiếc ghế bành to yêu cầu múa hàng giờ hết điệu này đến điệu khác, mà bao giờ cũng đòi múa những điệu của xứ Øngđaludi. Trong lúc đó, những người hầu của nàng, cứng nhắc trong bộ lễ phục và nghiêm trang như những nhà đại quý tộc nước Anh, đi đi lại lại tay mang những cái khay đầy rượu vang, rượu mùi và kẹo bánh.
Bốn ngày sau cuộc gặp gỡ ở nhà thờ Xăng Lôrăngđơ, ông ủy quyền đi tìm anh matado với vẻ bí mật:
- Chú mình ơi, chú mình thật là may mắn nhé. Chú mình có biết ai nói đến chú mình không?
Rồi thì thầm vào tai chàng matađo:
- Đônha Xôn đấy!
Nàng đã hỏi Đông Hôxê về người matađo của ông ta và tỏ ý muốn ông giới thiệu anh với nàng. Vì anh thật là một loại người rất độc đáo, hết sức Tây Ban Nha! Ông nói tiếp:
- Nàng nói rằng nàng đã nhiều lần xem cậu đấu bò ở Mađrit và nhiều nơi khác. Nàng đã hoan hô cậu. Nàng còn nhận rằng cậu rất dũng cảm... Cậu nghĩ đi. Hay là cậu đến cắm cho nàng một cặp banđêri! Nếu thế thì vinh dự cho cậu lắm. Cậu sẽ ngang hàng với tất cả các vị vua châu Âu hoặc gần gần như vậy.
Gađacđô mỉm cười nhũn nhặn va cúi nhìn xuống. Nhưng đồng thời anh ngoe nguẩy thân hình thanh lịch của anh như muốn nói rằng giả thiết của Đông Hôxê chẳng có gì là lạ lắm.
- Song cậu chớ có tưởng nhầm! Huan ạ! Ông ủy quyền nói tiếp. Nếu Đônha Xôn muốn biết rõ một người đấu bò như thế nào, cái đó chỉ vì nàng thích màu sắc địa phương, thật tình có thế thôi. Nàng đã bảo tôi: "Nhờ ông dẫn ông ấy đến Tablađa vào ngày kia". Hôm ấy có một cuộc thử bò ở ganađêria của hầu tước Đơ Môraima. Hầu tước tổ chức cuộc vui này cho cháu gái. Tôi cũng được mời. Chúng ta sẽ cùng đi. Hai ngày sau, vào một buổi chiều, anh matađo và ông ủy quyền của anh rời khỏi phố Fêria, ăn mặc theo kiểu những người cầm garôcha, giữa một đám đông chạy ra cửa, hoặc tụ tập trên hè để xem. Những kẻ vô công rồi nghề nói:
- Họ đi Tablađa đấy!
Đông Hôxê cưỡi một con ngựa trắng khỏe mạnh, ăn mặc kiểu ở nông thôn: áo ngắn rộng, quần dạ, ủng mầu vàng và đôi ống bằng da bọc lấy quần gọi là daiônơ. Còn anh matađo thì nhân dịp hội này đã mặc bộ quần áo kỳ lạ mà các đấu sĩ thời xưa vẫn dùng trước khi phong tục ngày nay làm cho cách ăn mặc của họ giống mọi người khác. Anh đội mũ calanê(Calanê: một loại mũ nhỏ, hình tròn, bờ gập lên) bằng nhung xù lông có quai. Cổ áo sơmi của anh không thắt ca-vát mà gài bằng hai hạt kim cương. Hai hạt kim cương khác, rất to, óng ánh trên ngực áo có chếp li hình ống. Áo vét và áo gilê của anh đều bằng nhung màu nâu xám, diềm và các thứ trang trí màu đen, thắt lưng của anh bằng lụa hồng; một chiếc quần cộc chẽn thêu màu xẫm bó sát cặp đùi nhỏ nhắn và gân guốc của anh và thắt chặt vào đầu gối bằng đôi nịt đen có dải băng lồng bồng; đôi ghệt màu hổ phách của anh có diềm bằng da chạy suốt khe đóng mở và đôi giày ngắn cổ của anh cùng màu với đôi ghệt, bị che khuất một phần trong những cái bàn đạp rộng kiểu A Rập có những đinh thúc ngựa lớn bằng bạc. Trên sườn yên ngựa, đặt lên trên tấm áo ngựa lịch sự bằng vải Pêrê có những búp lủng la lủng lẳng là một cái áo khoác xám phía trên lưng màu đen và lót màu đỏ.
Hai người cho ngựa chạy nước kiệu, vác trên vai cái garôcha bằng gỗ mịn và bền, đầu trên có một cái đệm bằng xơ gai buộc chặt và phồng lên xung quanh mũi sắt nhọn. Thấy hai người đi qua, ai nấy cất tiếng chào nhiệt liệt:
- Hoan hô những con người dũng cảm! Các phụ nữ vẫy tay:
- Chúa ban phúc cho các vị! Ông Huan ơi, đi chơi cho thật vui nhé!
Hai người thúc ngựa vượt khỏi một đám trẻ con chạy theo và chiếc chân ngựa gõ đều đều xuống mặt đường lát đá xanh của những ngõ hẻm có tường trắng bao quanh.
Trong cái phố yên tĩnh của Đônha Xôn, một phố có nhiều tư dinh quý phái với những rào sắt thắt cổ bồng và vọng lâu rộng, họ gặp một số người mang garôcha đang đứng đợi ở ngoài cửa, ngồi im trên mình ngựa và tựa vào cây dáo của mình. Đó là những thanh niên quý tộc, bà con hoặc bè bạn của Đônha Xôn. Họ thân ái chào anh matađo, họ vui thích thấy đám hội có cả anh dự. Cuối cùng hầu tước Đờ Môraima xuất hiện, ông lập tức nhảy lên mình ngựa.
- Tí nữa thì cháu nó sẽ xuống. Các vị còn lạ gì phụ nữ!... Bao giờ cũng chậm.
Ông nói như vậy với vẻ trịnh trọng thường lệ dường như mỗi lời nói của ông đều là những câu sấm truyền. Hầu tước là một người đã có tuổi, xương xẩu, với bộ râu má dài và bạc trắng, nhưng miệng và mắt vẫn giữ được vẻ hồn nhiên như của trẻ thơ. Lịch thiệp và mực thước trong ngôn ngữ, lanh lẹn trong dáng điệu, ít cười, đó cũng là một nhà đại quý tộc lối xưa, hầu như lúc nào cũng mặc quần áo đi ngựa, thù ghét lối sống thời thượng, ngán những cái bó buộc xã giao mà địa vị của ông bắt ông tuân theo những khi ông ở Xêvilơ. Ông chỉ thích ngao du ở nông thôn với các tá điền và các người nuôi bò của ông mà ông đối xử thân mật gần như là bạn bè. Ông chỉ còn hơi biết viết do ít khi cầm đến bút, nhưng khi có người nói về những con vật chiến đấu, về nuôi bò mộng và nuôi ngựa, về việc đồng áng thì mắt ông sáng lên và có vẻ quả quyết tỏ ra ông là một người rất thành thạo.
Vồng kim ô bị che khuất, và khoảng trời, như một tấm thảm vàng treo ở đầu phố, trên các bức tường trắng, bỗng mờ đi: một đám mây to bay ngang qua cái vùng xanh lơ nằm giữa hai dẫy mái nhà. một số khách nhìn lên e ngại.
- Xin các vị đừng lo, hầu tước trịnh trọng nói. Lúc nãy tôi đã trông thấy một mảnh giấy bị gió cuốn về hướng mà tôi biết: Hôm nay sẽ không mưa.
Ai nấy yên tâm : Trời không thể mưa vì hầu tước đã nói quả quyết như vậy. Hầu tước hiểu rõ thời tiết như một ông lão chăn bò, không bao giờ nhầm.
Hầu tước đến bên cạnh anh matađo và nói:
- Năm nay tớ chuẩn bị cho cậu những trận đấu rất tuyệt. Những con bò đặc biệt! Để xem rồi cậu giết chúng nó có cừ không. Cậu biết đấy, năm ngoái tớ bực quá: những con bò dạo ấy đáng được gặp những đấu sĩ khá hơn.
Đônha Xôn xuất hiện, một tay nâng tà áo đi ngựa màu đen để lộ ra đôi ống giầy cao cổ bằng da xám. Nàng mặc sơ mi đàn ông, áo gi lê bằng nhung màu mào gà, áo ngoài ngắn, thắt ca-vát đỏ, đội chiếc mũ nhung xứ Ăngđaludi duyên dáng lên những vòng tóc của nàng. Nàng từ từ lên yên và cầm lấy cây garôcha trong tay một người đầy tớ. Trong khi chào bạn hữu và xin lỗi đã để họ phải chờ đợi, nàng đưa mắt quan sát Gađacđô. Đông Hôxê thúc ngựa đến gần định giới thiệu. Nhưng Đônha Xôn đã vượt lên trước và tiến lại bên người matađo:
- Xin cảm ơn ông tới dự. Rất hân hạnh được quen ông.
Và nàng chìa ra một bàn tay nhỏ nhắn và thơm lừng mà anh chàng matađo ngạc nhiên và bối rối, nắm thật chặt trong bàn tay to tướng của anh đã quen đánh ngã những con quái vật. Nhưng cái bàn tay nhỏ nhắn và trắng hồng kia không những không bị nắm tay thô bạo của anh bóp bẹp mà còn đáp lại bằng một cái nắm mạnh mẽ rồi rút ra dễ dàng.
Mặc dầu xúc động, Gađacđô hiểu rằng anh phải có một câu gì đó để trả lời; anh bèn lúng túng mấy lời như nói với một ông hâm mộ đấu bò:
- Cảm ơn.. ở nhà bà bình yên mạnh khỏe cả chứ?... Đônha Xôn không thể nhịn được một tiếng cười kín đáo nhưng tiếng cười của nàng bị lấp trong những tiếng vó ngựa nện xuống mặt đường. Nàng phóng ngựa chạy nước kiệu lớn và cả đoàn kỵ sĩ phóng theo để hộ tống. Gađacđô xấu hổ đi lùi đằng sau, hãy còn ngạc nhiên và nghi nghi mình vừa nói một điều gì dại dột.
Trước tiên, đoàn người ngựa phóng tới bờ sông, để lại sau lưng cái Tháp Vàng, sau đó tiến vào những đại lộ trải cát chạy xuyên qua những khu vườn râm mát, rồi đi vào một con đường ở hai bên có rất nhiều tiệm rượu và quán nhỏ. Tới Tablađa, họ trông thấy trên cánh đồng xanh rì, gần hàng rào ngăn đồng cỏ với khu nhốt bò, một đám đông đen nghịt và rất nhiều xe cộ. Con sông Goadankivia chảy dọc cánh đồng cỏ này. Ở bờ bên kia, trên một đỉnh đồi hiện ra thị trấn Xăng Huan Đananphanátchơ nấp dưới bóng một tòa lâu đài đổ nát. Những ngôi nhà nông thôn phơi những bức tường trắng giữa những vườn ô-liu màu xám bạc. Ở nơi chân trời mở rộng trên nền trời xanh biếc vật vờ những đám mây xốp như bông, thấp thoáng bóng nhà cửa ở Xêvilơ và nổi bật lên trên hết là hình đồ sộ của nhà thờ và của công trình kiến trúc tuyệt vời Giranđa nhuộm màu hồng nhạt dưới ánh chiều tà.
Các kỵ sĩ phải khó nhọc mới len nổi qua đám đông. Những hành vi kỳ cục của Đônha Xôn đã gợi tính tò mò của các phu nhân ở Xêvilơ nên họ kéo tới gần như đủ mặt. Các bạn gái của Đônha Xôn ngồi trên xe chào nàng và thấy nàng rất đẹp trong bộ quần áo nửa nam nửa nữ. Các cô em họ của nàng, con gái của hầu tước Đờ Môraima, cô thì chưa lập gia đình, cô thì đến với chồng, khuyên nàng phải cẩn thận:
- Nhân danh Chúa, chị Xôn ơi, xin chị đừng liều quá!...
Những người đến thử bò cưỡi ngựa vào trong khu nhốt bò. Họ được những thường dân tới dự hội hoan hô nhiệt liệt. Những con ngựa trông thấy từ xa và đánh hơi ra kẻ thù, bắt đầu lồng lộn, dậm chân trước và hí lên dưới bàn tay cứng cáp của người cưỡi.
Lúc đó, đàn bò mộng đã được quây lại ở giữa khu nhốt. Có những con bình tĩnh gặm cỏ hoặc đứng im lìm trên cánh đồng đã hơi úa đỏ vì khí lạnh mùa đông, bốn chân chụm lại và mõm chúc xuống. Có những con nhát hơn đi từ từ về phía con sông. Những con Cabêxtơrô khôn ngoan đạo mạo lập tức đuổi theo làm cho nhạc đồng đeo nơi cổ kêu leng keng, còn những chú chăn bò thì giúp chúng tập hợp những con dưới thời các vua Môrơ đang lẩn trốn bằng cách dùng súng cao su bắn đá vào sừng.
Các kỵ sĩ đứng nguyên một chỗ rất lâu dường như để bàn bạc, trong khi công chúng nóng ruột xem những cảnh tượng kỳ thú.
Người đầu tiên tách ra khỏi nhóm kỵ sĩ là hầu tước Đờ Môraima, theo sau có một người bạn. Hai người phóng ngựa về phía các con bò mộng, dừng ngựa ở sát chúng, đứng thẳng lên trên bàn đạp, hoa cây garôcha lên và thét to để làm cho chúng sợ. Thế là một con bò đen, với cặp giò to khỏe, tách ra khỏi đàn và chạy về phía cuối khu nhốt bò.
Hầu tước Đờ Môraima kiêu hãnh về trại bò của mình là đúng: nơi đây chỉ nuôi những con bò đẹp đẽ được lai tạo khéo. Ở đây không có những con bò thịt da bẩn, dày cộp và xù xì, móng rộng, đầu gục, cặp sừng to tướng và mọc lệch. Ở đây chỉ có những con bò nhanh nhẹn, gân guốc, bắp thịt vạm vỡ, chân dậm làm mặt đất rung chuyển và bụi bốc mù mịt, lông mượt óng như lông ngựa quý, tai màu đỏ xẫm, cổ rộng và mập, chân ngắn, đuôi dài và thanh, sừng ngay ngắn, nhọn hoắt và nhẵn nhụi như có người thợ khéo nào đã nặn ra, móng chân ngắn, nhỏ và tròn nhưng đủ độ cứng để cắt cỏ như một con dao thép.
Hai người đuổi theo con vật, quấy rối nó từ hai phía và cản đường mỗi khi nó định lảng về phía sông. Cuối cùng, hầu tước Đờ Môraima thúc ngựa vượt lên gần nó, giơ giáo cắm vào mông nó. Con bò bị sức đẩy kết hợp của tay người và con ngựa, mất thăng bằng và ngã lăn xuống bãi cỏ. bụng tênh hênh, sừng lẫn vào cỏ, chổng bốn vó lên trời.
Nhà nuôi bò cắm ngọn garôcha này nhanh và dễ khiến cho một tràng vỗ tay vang lên ở phía bên kia hàng rào. Hoan hô các cụ già! Không ai thạo về bò mộng như hầu tước. Ông điều khiển chúng dễ dàng dường như ông tạo ra chúng. Cái đó cũng không lạ vì ông săn sóc chúng từ khi chúng mới đẻ cho đến khi chúng bị đưa đi giết ở đấu trường.
Ngay lúc sau đó, một số kỵ sĩ khác mong được tiếng khen của đám đông cũng đề nghị cho mình tấn công bò nhưng hầu tước Đờ Môraima muốn để cháu gái làm. Nàng nhất quyết đòi đâm garôcha cho nên tốt nhất là để nàng làm ngay, trước khi đàn bò nổi cáu vì luôn luôn bị khiêu khích.
Đônha Xôn thúc ngựa tiến lên, nhưng con ngựa sợ bò, nên cưỡng lại. Hầu tước định đi kèm cháu gái nhưng nàng không chịu. Không! nàng muốn Gađacđô đi với nàng vì anh là đấu sĩ. Gađacđô đâu rồi nhỉ?
Hãy còn xấu hổ về sự vụng về của mình, anh chàng matađo đến đứng bên cạnh Đônha Xôn không nói một lời.
Hai người phóng ngựa về phía đàn bò. Con ngựa của Đônha Xôn cưỡng lại, lồng lên, không chịu tiến, nhưng người nữ kỵ sĩ rắn rỏi bắt nó phải tiếp tục chạy. Gađacđô tay vung vẩy cây garôcha, miệng thét những tiếng nghe hệt bò rống, chẳng khác chi lúc ở đấu trường anh kích con thú dữ để nó đấu với anh.
Anh dễ dàng tách được một con bò ra khỏi đàn. Một con bò da trắng điểm những đốm hung hung, cổ bạnh, yếm sệ, sừng nhọn, rời xa những con khác rồi chạy về cuối khu nhốt bò, dường như đó là Kêrăngxia của nó và nó bị hút về đấy, không thể cưỡng nổi.
Đônha Xôn xông lên và cùng Gađacđô đuổi theo nó.
- Phu nhân nên cẩn thận! Anh kêu lên. Con bò ấy già nên qủy quái lắm đấy! Phu nhân phải chú ý kẻo nó quay lại!
Quả vậy, con bò quay mình lại. Đang lúc Đônha Xôn sắp sửa bắt chước hầu tước rẽ ngựa sang một bên để đâm garôcha vào mông và quật ngã con bò, thì nó đoán ra nguy cơ, xoay ngoắt mình lại và đứng hùng dũng, đe dọa trước hai kỵ sĩ đang chọc phá nó. Con ngựa của Đônha Xôn phóng vượt qua con bò mà nàng không thể ghìm lại, thế là con vật lồng theo. Nó đang từ chỗ bị người đuổi trở thành đuổi người.
Đônha Xôn không hề nghĩ đến chuyện chạy trốn. Ở đằng kia có hàng nghìn con mắt đang nhìn nàng, nàng sợ bị chị em bạn cười và bị nam giới thương hại. Vì vậy nàng giật dây cương và đối đầu với con thú. Như một người picađo, cây garôcha kẹp dưới cánh tay, nàng cắm mũi sắt của nó vào cổ con bò đang cúi đầu lao vào người nàng. Máu vọt ra như suối trên yếm trắng của nó, nhưng trên đà không thể kìm được, nó tiếp tục xông lại bất chấp vết thương và nó húc vào bụng con ngựa, lắc và hất bổng ngựa lên. Người nữ kỵ sĩ bị quật ngã xuống đất. Một tiếng kêu thất thanh từ trăm miệng người vang lên ở gần hàng rào. Con ngựa thoát khỏi cặp sừng, phóng đi như điên, bụng đẫm máu, đai bụng đứt, yên lắc lư trên háng.
Con bò sắp đuổi con ngựa thì một vật ở gần nó hơn làm nó chú ý. Đó là Đônha Xôn. Lẽ ra nên nằm yên trên bãi cỏ thì nàng lại vừa mới đứng dậy, nhặt cây garôcha và can đảm chĩa thẳng nó ra để lại đương đầu với con bò. Thật là liều lĩnh quá! Nhưng nàng nghĩ đến những người đang nhìn nàng. Quả là thách thức cái chết! Nhưng như thế còn hơn chịu thua cái sợ làm cho người khác chê cười.
Ở phía sau hàng rào không còn tiếng kêu nữa. Ai nấy kinh hãi đến lặng người. Cả đoàn kỵ sĩ vội vã phóng nước đại tới giữa những đám bụi bay mù mịt nhưng chắc chắn họ sẽ không kịp đến cứu. Con bò cào móng hai chân trước xuống đất, cúi đầu và sắp tấn công người phụ nữ táo gan vẫn trơ trơ chĩa cây giáo đe dọa nó. Chỉ cần nó húc một cái là xong! Nhưng ngay lúc đó một tiếng hú hung dữ thu hút sự chú ý của con bò và một vật gì đỏ rực chạy qua mặt nó như một tia lửa. Đó là Gađacđô vừa nhẩy xuống ngựa, vứt cây garôcha đi để vớ lấy cái áo khoác đặt trên sườn yên ngựa.
- Ố ối!... Lại đây!...
Con bò mộng bị một địch thủ xứng danh với nó lôi cuốn, chồm vào cái lót áo đỏ, quay lưng lại người phụ nữ mặc váy đen và áo nịt màu mào gà, tuy bàng hoàng trước cơn nguy hiểm vẫn chĩa thẳng cây giáo ra thủ thế.
- Đônha Xôn, phu nhân đừng sợ, tôi kìm nó rồi! chàng đấu sĩ nói, xúc động đến tái người, nhưng vẫn mỉm cười và tin tưởng vào tài ba của mình.
Không có vật phòng thân nào ngoài cái áo lót màu đỏ, anh chiến đấu với con thú, kéo nó ra xa, tránh những đợt tấn công hung dữ của nó bằng những động tác nhảy tránh duyên dáng. Công chúng không còn nghĩ đến cơn sợ hãi vừa qua nữa và vỗ tay khâm phục. Sướng thật! Đến xem một cuộc thử bò thế mà lại được xem một trận đấu hầu như chính thức của Gađacđô không phải trả tiền vé.
Người đấu sĩ, hăng lên vì thấy con bò tấn công mãnh liệt, quên bẵng Đônha Xôn và các người khác, chỉ chú ý đến việc tránh nó. Con bò quay lại, điên cuồng thấy người kia vẫn luồn qua sừng mà nó không sao chạm được. Nó lại xông vào nhưng bao giờ cũng bị cái áo đỏ chắn lại. Cuối cùng nó nhọc, không động đậy nữa, hai chân run run, cúi cái mõm sùi bọt xuống. Nhân lúc nó đang ngơ ngác, Gađacđô cất chiếc mũ Ăngđaluđi của anh ra và đập mũ vào đầu con quái vật. Tiếng hoan hô vang lên như sấm sau hàng rào để chào mừng động tác dũng cảm tài tình đó.
Bỗng sau lưng người matađo có nhiều tiếng kêu và tiếng lục lạc loảng xoảng. Những chú chăn bò và những con Cabextơrô hiện ra vây quanh con bò mộng, rồi đưa nó trở lại đàn.
Gađacđô nhặt cây garôcha, bắt lại con ngựa của anh đang quanh quẩn gần đấy vì đã quen với bò mộng. Anh cho ngựa chạy từ từ về phía hàng rào cố ý chậm chạp để kéo dài những tiếng vỗ tay ầm ĩ của công chúng. Các kỵ sĩ lúc ấy đã đưa Đônha Xôn ra khỏi khu nhốt bò. Họ chào mừng nhiệt liệt chiến thắng của Gađacđô, còn Đông Hôxê thì nháy mắt và thì thầm với anh bằng một giọng bí mật:
- Anh dũng thật! Cậu quả không phải là tay xoàng! Khá lắm! Khá vô cùng! Bây giờ nàng là của cậu rồi, tớ bảo đảm như vậy!
Ở ngoài hàng rào, Đônha Xôn đã ngồi vào trong chiếc xe ngựa của các con gái hầu tước. Mấy cô em họ của nàng hoảng hốt vây quanh nàng, sờ nắn người nàng, cố sức tìm xem có chỗ nào làm sao không, lấy rượu măngđanila cho nàng uống để hết sợ. Nhưng Đônha Xôn mỉm cười mơ hồ với vẻ bề trên, tỏ ý hơi lạnh lùng và cao kỳ trước những cử chỉ âu yếm quá đáng của đám đàn bà con gái kia.
Khi thấy Gađacđô cưỡi ngựa đi đến giữa đám đông đang vẫy mũ và giơ tay chào anh, nàng mỉm cười thân ái:
- Ông lại đây, Xit Cămpêađôrê(Xit Cămpêađôrê: Tên thật là Rôđêrigô Điax Đê Bivarê, hiệp sĩ xuất chúng Tây Ban Nha, chiến thắng quân Môrơ, chết năm 1099). Ông cho tôi bắt tay ông!
Và đôi bàn tay của hai người lại nắm chặt lấy nhau hồi lâu.
Buổi tối hôm đó, toàn thành phố Xêvilơ nói về sự kiện trên. Ở nhà anh matađo, người ta bàn tán rất nhiều. Bà Aoguxtiax nở mày nở mặt như sau một trận đấu lớn: Con trai bà đã cứu một phu nhân đại quý tộc mà bà kính nể vì bà đã quen như vậy qua bao nhiêu năm đi ở. Còn Cacmen thì im lặng, không biết nên nghĩ như thế nào về chuyện này.
Nhiều ngày trôi qua mà Gađacđô không nhận được tin tức gì về Đônha Xôn. Người ủy quyền của anh cũng vắng mặt ở thành phố: ông ta đi săn với vài người bạn.
Cuối cùng, vào một buổi chiều, Đông Hôxê lại xuất hiện ở tiệm cà-phê phố Rắn, nơi các người hâm mộ đấu bò thường tụ tập. Ông đưa Gađacđô ra một chỗ vắng, nói với anh rằng ông mới về sáng hôm đó và thấy ở nhà có một bức thư của Đônha Xôn mời ông lại nhà nàng và ông vừa mới đến đó về.
- Trời đất ơi! Cậu thật kém xã giao vô cùng, ông vừa kết luận vừa lôi Gađacđô đi! Nàng chờ cậu. Trong mấy ngày qua nàng ở nhà, nghĩ rằng thế nào cậu cũng đến thăm. Không ai qủynh như cậu cả. Sau khi tôi giới thiệu cậu và cậu làm cái việc trong hội vừa rồi, cậu phải đến thăm nàng chứ! Ít nhất cậu cũng phải đến hỏi nàng có được mạnh khỏe không chứ!
Anh chàng matađo dừng chân lại, thọc tay vào dưới chiếc mũ dạ, gãi đầu:
- Vì rằng... anh lẩm bẩm, tôi ngượng, vì rằng... Thôi được, tôi xin nói thẳng: tôi xấu hổ. Ông cũng biết rằng tôi không phải là một thằng vụng, tôi đâu có sợ đàn bà, tôi có thể tán gái hoàn toàn như ai... Nhưng đối với người phụ nữ ấy, một phu nhân đại quý tộc biết nhiều và học rộng như thế. Khi tôi gặp nàng, tôi hiểu rằng tôi thộn, hễ mở miệng là nói bậy ngay. Thôi thôi, Đông Hôxê ạ, tôi không đi đâu, tôi không thể đến đấy đâu...
Nhưng Đông Hôxê tin rằng cuối cùng ông sẽ thuyết phục được anh nên cứ kéo tuột anh đến nhà Đônha Xôn. Ông vừa đi vừa kể lại cho anh nghe những lời ông vừa trao đổi với nàng. Nàng hơi tiếc vì thấy Gađacđô hờ hững với mình. Tất cả những người giàu sang ở Xêvilơ đều đến thăm nàng, trừ anh.
- Cậu nên biết rằng người đấu sĩ phải có quan hệ tốt với những người thuộc giới thượng lưu. Nghĩa là mình phải có giáo dục và tỏ ra mình không phải là một kẻ chăn bò được nuôi dạy trong chuồng bò. Một phu nhân đại quý tộc như vậy chú ý đến cậu và mong đợi cậu!.. Cậu không dám đến một mình à? Thôi được, tôi sẽ đi với cậu.
- Ồ! Nếu ông đi với tôi thì...
Gađacđô thở phào nhẹ nhõm. Hai người bước vào biệt thự của Đônha Xôn. Cái sân trong kiểu A Rập có những cửa võng ngũ sắc rất đẹp, hao hao giống những công trình hình móng ngựa ở hoàng cung Alămbra(Alămbra: Hoàng cung của các nhà vua Môrơ ở Grơnađơ (Tây Ban Nha) có những vườn ngự uyển rất đẹp).
Một tia nước phun một cách hài hòa tuyệt diệu vào cái bồn nuôi cá vàng. Trong dãy hành lang đắp những hình rất đẹp trên trần và có những dãy cột cẩm thạch ngăn cách với sân, Gađacđô trông thấy nhiều bức ván chạm trổ rất cổ, những bức tường họa mầu thuốc đã đen xạm, những ông thánh có bộ mặt nhợt nhạt, những bàn tủ trang trọng nhưng có khóa sắt đã rỉ và gỗ thì chằng chịt những lỗ mọt đục như bị đạn súng săn bắn vào.
Một anh đầy tớ dẫn hai người trèo lên một cầu thang rộng bằng cẩm thạch. Anh đấu sĩ lại một lần nữa ngạc nhiên thấy những vách sau bàn thờ trong có những hình lờ mờ nổi bật trên nền mạ vàng, những tượng Đức Bà to lớn và hình như đeo bằng rìu đã nhạt màu và bằng vàng xỉn, chắc là lấy từ một bàn thờ cổ nào đó ra, những tấm thảm màu lá khô dìu dịu trang trí bằng hoa quả ở bốn xung quanh, còn ở giữa bằng cảnh Canvariô hoặc cảnh một bầy tiểu qủy, mình lông lá, đầu có sừng, bàn chân dê đang bị những cô gái ăn mặc hở hang chiến đấu như những con bò mộng.
- Thế mới biết tôi dốt thật! Gacđacđô nói với Đông Hôxê. Trước đây tôi cứ tưởng những cái đó chỉ dùng cho các nhà tu kín. Bây giờ mới thấy thiên hạ quý nó. Trời sắp tối. Hai người lên tới đâu thì có những ngọn đèn điện lại bật lên đến đấy để soi đường, trong khi những tia nắng cuối cùng của buổi chiều tà chiếu lên kính cửa sổ. Gađacđô đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Vốn hãnh diện về những bàn ghế của anh mua từ Mađrit, nhồi bọc lộng lẫy bằng những thứ lụa lòe loẹt, chạm trổ phức tạp, rất nặng, rất sang, rất đắt tiền, cho nên anh ngẩn người thấy ở đây những cái ghế nhẹ nhàng và thanh mảnh, màu trắng hoặc xanh lá cây, những cái bàn cái tủ có đường nét giản dị, những bức tường chỉ sơn một màu không có đồ trang trí gì khác ngoài những bức họa nhỏ treo cách xa nhau bằng những sợi dây dài. Tất cả vẻ lịch sự kín đáo chỉ dựa trên tài khéo của người thợ mộc. Anh thấy ngượng về sự ngạc nhiên của mình và vì anh cứ tưởng những thứ ở nhà anh đã là sang tột độ rồi. "Thế mới biết mình dốt thật!...". Khi anh ngồi xuống, anh lo ghế sẽ bị gẫy dưới thân hình nặng nề của anh.
Đônha Xôn bước vào làm anh thôi không nghĩ đến chuyện ấy nữa. Anh trông thấy nàng lạ hẳn như anh chưa hề gặp nàng bao giờ: nàng không đội mũ trùm khăn, mớ tóc rực rỡ tỏa hào quang làm cho nàng rất xứng với cái tên lãng mạn. Đôi cánh tay nàng trắng đẹp tuyệt vời, thò ra khỏi ống tay áo lụa dài kiểu Nhật, tà bắt chéo trên ngực để lộ cái ngấn cổ thanh tú màu hổ phách có hai nếp trông đáng yêu như ngấn cổ thần Vệ Nữ. Trên đôi bàn tay của nàng lấp lánh những hạt ngọc đủ mọi màu nhận trong những chiếc nhẫn hình thù kỳ lạ. Ở cổ tay xinh xắn của nàng kêu leng keng những cái vòng vàng cái thì chạm trổ kiểu Đông phương có những chữ và hình bí mật, cái thì to lớn đeo những bùa và hình lạ lùng, kỷ niệm những cuộc đi ra nước ngoài. Khi nàng ngồi xuống để tiếp chuyện, nàng vắt chân một cách thoải mái như nam giới và đu đưa ở đầu bàn chân một chiếc giầy đi trong nhà màu đỏ gót vàng thêu rất dày trông xinh như một thứ đồ chơi.
Gađacđô cảm động đến ngạt thở, tai anh kêu vo vo, mắt anh mờ đi. Anh chỉ còn thoáng nhận ra đôi mắt trong veo chằm chằm nhìn anh nửa như mơn trớn nửa như chế giễu. Để giấu sự xúc động, anh mỉm cười, để lộ hai hàm răng y như là bộ mặt ngớ ngẩn của một đứa bé muốn lấy lòng người lớn.Nàng cảm ơn anh về hành động hôm nọ.
- Không, thưa phu nhân, tôi không dám!... Có gì đâu... Chẳng đáng cảm ơn.
Tuy vậy, anh đã lấy lại can đảm được đôi chút. Rồi khi Đônha Xôn và Đông Hôxê nói chuyện với nhau về bò mộng, anh chàng bình tĩnh hơn. Nàng nói về những trận đấu của anh mà nàng đã xem, kể lại đúng như in những giai đoạn chính. Anh rất hãnh diện thấy nàng đã ngắm anh trong những dịp ấy và vẫn nhớ kỹ.
Nàng mở một cái hộp sơn có hình hoa lá kỳ dị và mời hai người hút những điếu thuốc lá đầu vàng thơm nức một hương vị rất đượm và kỳ lạ.
- Nó tẩm thuốc phiện đấy, nàng nói. Hút rất thích. Nàng cũng châm một điếu. Rồi ngước cặp mắt xanh nhạt mà ánh sáng chiếu vào lung linh như vàng lỏng, nàng nhìn theo những vòng khói uốn éo bay.
Anh chàng đấu sĩ vốn quen loại thuốc Havan nặng, tò mò hít khói điếu thuốc này. "Vô vị như rơm... Chỉ có phụ nữ là thích..." anh nghĩ thầm. Nhưng rồi lúc nào không biết, hương thơm tinh tế của khói thuốc làm anh mất hẳn ngượng nghịu.
Đônha Xôn mắt dán vào mắt anh, hỏi về cuộc đời anh. Nàng muốn biết những uẩn khúc của sự vinh quang, những bí ẩn của sự nổi tiếng, muốn biết cuộc đời lang thang nghèo khổ của anh lúc anh chưa chiếm được lòng mến yêu của công chúng.
Thế là Gađacđô nói huyên thuyên với vẻ tự tin đột ngột, anh kể lại giai đoạn bước vào nghề, nhấn mạnh một cách thỏa mãn và kiêu hãnh đến nguồn gốc tầm thường của anh. Tuy nhiên, anh cố ý bỏ qua những chuyện mà anh cho là đáng xấu hổ trong tuổi trẻ phiêu bạt của anh.
- Rất hay! Rất độc đáo! Người đẹp nhắc đi nhắc lại.
- Người số một trên thế giới đấy! Đông Hôxê nói xen vào một cách hào hứng thình lình. Xin phu nhân cứ yên chí rằng không có hai người như anh ấy. Bà chưa biết cơ thể của anh ấy chịu đựng những vết thương giỏi như thế nào!...
Hãnh diện về sức lực của Gađacđô y như anh ta là con ông, ông liệt kê những vết sẹo mà anh mang trên người, miêu tả nó như ông trông thấy qua áo quần vậy. Cặt mắt của phu nhân theo dõi cuộc dạo chơi cơ thể học đó với một vẻ khâm phục thực sự. Quả là một người anh hùng, giản dị, lúng túng, man rợ như tất cả những người thực sự can trường!...
Đônha Xôn muốn lưu hai người ở lại ăn cơm. Chiều hôm đó, nàng ở nhà có một mình. Hầu tước Đờ Môraima và các cô con gái của ông đã về nông thôn rồi, và nàng không đợi ai đến chơi cả. Nhưng Đông Hôxê trả lời rằng ông bận: Sáng nay, về tới Xêvilơ, ông đã mời hai người bạn. Nàng liền nài rằng ít nhất Gađacđô phải ở lại.
- Tôi mời ông một cách thân tình. Nhất định ông phải ở lại ăn với tôi cho có bạn. Tôi không chấp nhận bất cứ lý do khước từ nào cả. Ông phải chuộc tội với tôi...
Thấy nàng mời mọc ân cần như vậy, cuối cùng Gađacđô đành ở lại.
Tội nghiệp cho anh chàng đấu sĩ, anh rất ngượng nghịu khi ngồi một mình với Đônha Xôn trước một bữa ăn rất sang. Bất cứ cái gì cũng làm anh lúng túng ngơ ngẩn, từ cái vẻ huy hoàng của gian phòng rộng mênh mông trong đó hai thực khách lọt thỏm vào, từ những cây đèn kếch xù màu đỏ tía có những chao đèn màu hồng, làm dịu ánh sáng điện cho đến người đầu bếp bệ vệ, vẻ mặt nghiêm trang và thản nhiên, phục vụ hai người một cách trịnh trọng. Trước cảnh lịch sự quý phái đó, anh xấu hổ về con người của anh, về quần áo của anh, về sự ngu dốt trong cách giao thiệp của anh. Anh ngồi yên chỉ dám khe khẽ động đậy bàn tay.
Nhưng ấn tượng khó chịu ấy tan đi nhanh chóng. Đônha Xôn cười một cách dễ thương khi thấy anh ít uống rượu, sợ sệt khi đụng đến cốc đĩa, nàng ăn uống ngon lành để làm gương cho anh. Vì thế chẳng bao lâu, anh chịu ăn và nhất là chịu uống: rượu vang nồng đượm, nên anh hy vọng rằng hơi men sẽ làm cho anh mất ngượng nghịu, lưỡi anh mất tê liệt không còn như lúc đầu anh không nói được gì ngoài mấy tiếng
"Cảm ơn lắm!".
Rượu sâm banh làm cho anh lấy lại can đảm hoàn toàn. Đến khi Đônha Xôn ăn xong, anh lịch thiệp đưa tay cho nàng vịn và anh không khỏi ngạc nhiên thấy mình trở thành táo bạo đến thế. Trong giới thượng lưu người ta chẳng làm như vậy là gì? Tất nhiên anh chỉ là một đấu sĩ bò mộng; nhưng một đấu sĩ không nhất thiết phải mù tịt về môn xã giao.
Hai người vào phòng khách uống cà phê. Đônha Xôn uể oải ngả mình lên gối của một cái xô pha, rồi hút thứ thuốc thơm của mình, trong khi Gađacđô ngồi lọt vào trong một cái ghế bành êm ái, nhấm nháp điếu thuốc Havan quý mà một người đầy tớ mang tới. Chẳng bao lâu, sự tiêu hóa làm anh đờ đẫn. Anh chỉ trả lời Đônha Xôn bằng những tiếng một và một nụ cười ngớ ngẩn.
Đônha Xôn thấy Gađacđô im lặng nên cũng chán, nàng bèn ra ngồi bên cây dương cầm. Những ngón tay thon và mạnh của nàng dạo những bản malaghêna vui nhộn và đắm đuối. Tiếng nhạc làm cho Gađacđô tỉnh lại.
- Hoan hô! Anh kêu lên y như ở một quán rượu. Rất hay, tôi chỉ biết nói thế thôi.
Sau những bản malaghêna là những bản xêvilana và nhiều điệu khác của xứ Ăngđaludi âu yếm và mơ mộng mà Đônha Xôn chơi theo trí nhớ.
- Tuyệt quá!... Phu nhân có đôi tay ngọc... Một bản nữa đi!... Lại một bản nữa đi.
- Ông yêu âm nhạc à? Đônha Xôn hỏi.
Tuy chưa bao giờ tự hỏi như vậy nhưng nghe Đônha Xôn hỏi, Gađacđô cứ trả lời không ngần ngại rằng anh rất thích âm nhạc. Thế là Đônha Xôn chuyển từ những bài dân ca có nhịp nhanh sang những điệu chậm hơn, trang nghiêm hơn mà anh chàng đoán là nhạc nhà thờ. Nhạc này anh thấy không hay bằng. Anh không hoan hô nữa và lại buồn ngủ. Chốc chốc, anh thấy díu mắt lại không sao cưỡng nổi và biết rằng chẳng bao lâu nữa anh sẽ ngủ thật. Để tránh nguy cơ đó, anh ngắm người đàn bà đang ngồi quay lưng lại phía anh. Thân hình nàng mới đẹp chứ! Gáy trắng nõn và tròn trĩnh. Bộ tóc mới lộng lẫy làm sao! Giá mà anh được hôn vào da thịt ấy thì còn gì bằng! Nhưng trước mặt Đônha Xôn, anh cảm thấy sự kính nể không sao vượt qua đến nỗi những ý nghĩ xấu dần dần biến khỏi tâm trí của anh. Và anh lại thấy buồn ngủ, khiến anh phải cấu vào đùi để thức và lấy tay bịt miệng để che những cái ngáp.
Bỗng nhiên, Đônha Xôn cất tiếng làm anh giật mình. Nàng vừa hát vừa đệm đàn. Anh lắng tai mong hiểu lời của bài hát nhưng than ôi! Lời bằng một thứ tiếng nước ngoài mà anh mít đặc.
"Chúa phạt tôi đời đời! anh nghĩ thầm. Tại sao nàng không hát một bài tăng-gô? Chứ nghe thứ nhạc này có buồn ngủ cũng chẳng tội vạ gì..."
Lời mà nàng hát là lời cầu khẩn của Enxa, lời than vãn của một cô trinh nữ tóc vàng nghĩ tới người đàn ông hùng mạnh, đến người chiến sĩ rất đáng gờm cho kẻ thù nhưng lại dịu dàng e lệ đối với phụ nữ. Giọng nàng run run say đắm, tiếng hát của nàng hướng vào người đàn ông đang ngồi ở sau lưng nàng. Cố nhiên người này không có dáng dấp nhân vật dã sử của người kia, người này thô lỗ ngờ nghệch, hơi vụng về. Nhưng trong trí tưởng tượng nàng thấy anh đúng hệt như anh đã hiện ra cách đây mấy hôm, lúc đấu với con bò mộng hung dữ như các nhân vật của Vanhe đánh nhau với những con rồng khủng khiếp. Phải! Phải! người này chính là người chiến sĩ của nàng!
Trong khi đó, người chiến sĩ ấy, tay cầm một que diêm, đang cố châm lại điếu xì gà của mình đến lần thứ tư thứ năm. Nàng quay mặt lại phía anh. Gađacđô nhân dịp tiếng nhạc ngừng, bèn đứng lên và bước một bước về phía nàng:
- Xin chào Đônha Xôn. Xin cảm ơn lắm. Đêm đã khuya, tôi xin cáo.
Nhưng nàng cũng đứng dậy, cặp mắt dán chặt vào mắt người đấu sĩ.
- Không, anh ở lại với em! Nàng nói.
Đến tận tang tảng sáng hôm sau, Gađacđô mới về nhà.