Ngày Hoàng Đạo (Đêm Thánh Nhân I + II) - Nguyễn Đình Chính
Tên truyện : Ngày Hoàng Đạo (Đêm Thánh Nhân I + II)
Tác giả : Nguyễn Đình Chính
Nguồn : vnthuquan
Giới thiệu
Ngày hoàng đạo - thật mà ảo
Ngày hoàng đạo là câu chuyện dài về bác sĩ Trương Vĩnh Cần, một bác sĩ bị kỷ luật cấm hành nghề, chỉ được trông coi nhà xác ở một bệnh viện. Bị liệt dương từ năm 45 tuổi, nhưng 4 năm sau đó, bác sĩ Cần bị kết tội hủ hóa với một nữ bệnh nhân vị thành niên người Tày có tên Ma Thị Thảo. Vụ tai tiếng này đã khiến ông bị kỷ luật khai trừ Đảng, cách chức và ra khỏi biên chế Nhà nước. Vợ ông, bà Ngót, cũng vì thế mà bỏ đi khiến bác sĩ Cần rơi vào trạng thái tâm thần, bỏ nhà lang thang đến tận một trại cùi ở Tây Nguyên. Những ngày lang thang ấy đã đưa ông gặp nhiều nhân vật thật kỳ lạ, đem đến cho cuộc đời ông những phút giây kỳ lạ, có thật mà như hư ảo...
Nhà văn Nguyễn Đình Chính gặp “ngày hoàng đạo”
Lấy tên Đêm thánh nhân, sách của ông không ai dám in, nhưng khi đổi tên sách thành Ngày hoàng đạo thì mọi việc trở nên suôn sẻ. Cuốn sách đang thuộc hàng bán chạy nhất hiện nay.
Từng bị không ít nhà xuất bản (NXB) từ chối bản thảo vì không dám in, ít người ngờ rằng Ngày hoàng đạo (tên gọi khác của Đêm thánh nhân I), tiểu thuyết dài gần 1.000 trang của nhà văn Nguyễn Đình Chính, lại trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất ở thời điểm này. Gặp anh ở quán cà phê dưới chân Cột cờ, anh chỉ cười: “Chính mình cũng không ngờ sách bán được nhiều thế”...
.Phóng viên: Sau những ồn ào của Đêm thánh nhân I năm 1999, những tưởng phần II của cuốn sách sẽ không bao giờ tới tay bạn đọc. Điều gì khiến ông phải viết tiếp phần II để rồi in chung cả 2 phần thành tiểu thuyết Ngày hoàng đạo hiện nay?
- Nhà văn Nguyễn Đình Chính: Thực ra, tôi đã hoàn thành cả phần I và II của tiểu thuyết này từ năm 1999, nhưng mới chỉ in một phần thì đã gặp nhiều dư luận khác nhau nên đành bỏ lại, không in tiếp. Năm 2002, tôi có nhiều thời gian rảnh, lại không có việc gì làm nên quyết định lên trang trại của mình ở Phúc Yên chỉnh sửa, hoàn chỉnh tiểu thuyết này. Ở phần II, tôi sửa khá nhiều, phát triển thêm một số tuyến nhân vật. Khi gộp cả Đêm thánh nhân I và II để in thành Ngày hoàng đạo, tôi lấy lại toàn bộ những đoạn đã bị cắt bỏ của lần in trước. Cho nên những ai đọc bản sách lần này sẽ thấy hoàn chỉnh hơn.
Cũng thú thực là năm 2000, tôi đã định in phần II rồi, nhưng hồi ấy không NXB nào chịu nhận. Lúc ấy người ta phê phán sách của tôi nhiều lắm, Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương lúc ấy cũng làm bản giám định cuốn sách nhưng cũng kết luận chẳng có gì nặng nề. Thế là qua.
. Đã từng bị nhiều NXB từ chối, khi in Ngày hoàng đạo lần này, ông có phải chỉnh sửa tác phẩm theo “góp ý” của NXB?
- Không, vì việc in ấn bây giờ cũng thoải mái rồi. Lần này in sách là hai bên chúng tôi cùng thỏa thuận, nội dung như thế đấy, anh xem có in được thì in, không thì thôi. Và giám đốc NXB Văn học là anh Nguyễn Văn Cừ đồng ý ngay.
. Công bằng mà nhận xét, cái tên Ngày hoàng đạo kém ấn tượng rất nhiều so với Đêm thánh nhân, tại sao anh lại quyết định chọn một cái tên như vậy?
- Có nhà văn đã nhận xét "Đêm thánh nhân" cũng như "Ngày hoàng đạo", chính vì thế mà tôi muốn thay đổi để tạo nên cái nhìn mới cho tác phẩm của mình. Vả lại, tôi cũng muốn tạo ra sự bình yên cho tác phẩm.
. Vừa mới phát hành, Ngày hoàng đạo đã là một cuốn sách bán rất chạy. Khi viết nó, ông có nghĩ sách mình thu hút độc giả không?
- Đây là tác phẩm tôi viết rất tự do, hoàn toàn không nghĩ đến việc đặt hàng hay phải giật gân câu khách, cho dù nói thật, bất cứ ai viết sách cũng đều mong tác phẩm của mình đến tay bạn đọc. Nói cho công bằng, thời buổi này, một cuốn sách muốn bán chạy phải có những yếu tố ngoài văn học, ví dụ như bị cấm, hay đề cập đến chuyện tình dục... Sách của tôi bán chạy, tôi nghĩ là do nó ăn theo cuốn tiểu thuyết cũ. Năm 1999, khi in Đêm thánh nhân, tôi tự phát hành, đến từng cửa hàng sách gõ cửa mà chẳng ai mua. Nhưng sau khi người ta phê nó thì rất nhiều người tìm đọc. Lần này phát hành Ngày hoàng đạo, quả thực tôi không nghĩ nó bán nhanh như thế.
. Cả 1.000 trang tiểu thuyết của ông, đọc mãi mà chỉ thấy chấm (.), chẳng thấy phẩy (,). Sao vậy? Đó có phải là một cách viết mới của ông?
- Đúng, và tôi muốn thay dấu phẩy bằng các liên từ. Văn tiểu thuyết phải khác, nó không chỉ giải thích ý nghĩa, truyền tải thông tin mà phải truyền cho người đọc những cảm xúc trong câu chữ. Ban đầu tôi viết văn rất trong sáng, nên khi chuyển sang viết kiểu này, bố tôi (nhà thơ - nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi - PV) rất phản đối vì lôi thôi quá. Nhưng sau này thì ông cũng bằng lòng, vì đó là cách của tôi. Khi đưa bản thảo Ngày hoàng đạo cho NXB, có biên tập viên đã đánh dấu phẩy cho tôi đến gần 200 trang, nhưng sau đó thì đầu hàng. Có thể ban đầu độc giả đọc tác phẩm của tôi có thể khó khăn, nhưng rồi cũng quen và sẽ thấy thích thôi.
Đây là Đêm thánh nhân Một và tôi mong muốn được giới thiệu với độc giả vào năm 2000 Đêm Thánh nhân Hai vẫn do Nhà Xuất bản Văn học ấn hành.
Đêm thánh nhân là văn xuôi dài kể chuyện một ông bác sĩ già trông coi nhà xác, cuối đời bị mắc bệnh tâm thần phân lập thể nhẹ. Ông bỏ đi lang thang và gặp rất nhiều người trên lộ trình vô định của mình. Thông thường, người bị bệnh tâm thần, dù thể nhẹ mà cứ bỏ đi vật vờ quàng xiên như thế thì bệnh càng nặng hơn. Nhưng với ông bác sĩ già này thì không phải như vậy. Sau bao ngày tháng "phiêu bạt giang hồ", gặp gỡ chung sống với bao nhiêu người đời, cuối cùng thật may mắn ông lại khỏi bệnh. Vì sao lại như vậy Chẳng lẽ tình thương yêu đồng loại lòng đam mê muốn sống và sự thật thà sám hối lại chữa được bệnh tâm hồn con người ư. Tập sách "Đêm thánh nhân" cố gắng lấy cái đó làm ý tưởng tiểu thuyết của mình. Tôi viết tập sách này hình như là theo thể loại du ký chương hồi cũ rích, tất cả các nhân vật trong truyện đều là những người dân bình thường có cuộc đời vất vả, éo le, đầy những lầm lỗi ăn năn. Họ ở những bậc thang thấp nhất của xã hội, cả đời chỉ xoay xở quần quật để kiếm sống. Họ rất đông, và họ chưa bao giờ được gọi là thánh cả. Họa chăng chỉ có thể được gọi là thánh trong sự bông phèng hài hước mà thôi.
Nhưng đối với tôi, trong nhiều đêm nằm ngủ tôi lại mơ thấy họ được phong thánh. Vâng, đúng như vậy. Có thể trong giấc mơ của tôi, thánh chỉ là những người nghèo khổ, bình thường thua thiệt. Chính vì vậy, tôi dã đặt tên cho tập sách này là Đêm thánh nhân.
Đúng vào năm tròn bảy mươi tuổi thì bác sĩ Trương Vĩnh Cần mắc một căn bệnh rất quái dị. Bệnh này khó mà cắt nghĩa được. Nó vô lý đến nỗi bác sĩ Cần không dám xưng bệnh cùng ai. Ông giấu kín nó như đã từng giấu kín cái bệnh liệt dương mấy chục năm nay. Đã hàng trăm lần tự hỏi mà bác sĩ Cần vẫn bán tín bán nghi không tin là ông lại mắc căn bệnh ghê gớm bí ẩn đó. Thậm chí, nhiều lúc ông chui tọt vào phòng, khóa trái cửa lại tự đấm bồm bộp vào đầu rồi gào lên: Láo, láo, vô lý... Bố láo. Đời không thể bất công như thế được. Tôi đã tự chuộc mình bao năm nay. Phải tha thứ cho tôi chứ. Tôi không tin có Chúa, không tin có Phật... nhưng tôi tin cuộc đời bí ẩn có lẽ công bằng... Vì vậy... vô lý. Bố láo. Không, không thể như thế được. Trời ơi!!
Đấy là một ngày cuối năm mưa dầm gió bấc. Những cây sấu vặn mình rào rào rụng lá cuộn lên từng đợt trên đường. Buổi chiều hôm đó bác sĩ Trương Vĩnh Cần đang thay áo trong căn phòng trực rộng 9 mét vuông ở khu nhà xác của bệnh viện. Ông bác sĩ đứng gù lưng bên kia cửa sổ vừa cài cúc áo len vừa nhìn ra cái sân ảm đạm ướt xũng nước. Đúng lúc ấy ông nhìn thấy một người đàn bà quần áo lôi thôi đội nón xách một cái bị cói trong lồi lên mấy thẻ nhang len lén đi vào khu nhà xác. Nom thị giống một con chuột cống ướt lông đang cúp đuôi chạy trốn cơn mưa. Thị lục xục trong căn phòng để xác một lúc đúng khi bác sĩ Cần bước ra ngoài sân thì thị đẩy tung cửa lao bổ ngay tới. Trượt chân thị giáng mông xuống sân nghe oạch một cái tương đến vỡ đôi một viên đá lát sân. Nhưng thị vùng ngay dậy rồi xụp xuống trước chân bác sĩ Cần chắp tay cuống quít lạy lấy lạy để. Thị rên rỉ:
- Lạy bác sĩ. Lạy bác sĩ xin ông làm phúc cho cháu nó được lên nằm ở tầng trên.
Nếu như mọi ngày thì bác sĩ Trương Vĩnh Cần đã chối đây đẩy: "Hết giờ rồi khỉ ạ nhà chị về đi rồi sớm mai quay lại. Có việc gì cũng để đến ngày mai". Nhưng không hiểu sao đúng cái buổi chiều ngày hôm ấy. Cái buổi chiều mưa dầm gió bấc trời đất ảm đạm buồn tẻ cô quạnh nghe thị rên rỉ van xin bác sĩ Cần bỗng dưng động lòng. Ông lùi lại co chân đứng đờ ra một lúc rồi ôn tồn hỏi:
- Thằng bé mới vào chiều qua có phải không?
Người đàn bà méo xệch mồm:
- Vâng ạ.
- Đi theo tôi.
Bác sĩ Cần quay vào căn phòng để xác lạnh lẽo rộng thênh thang. Giữa gian phòng đặt một cái tủ lạnh 3 tầng to tướng, cao ngất ngưởng dễ tới gần 3 mét. Bác sĩ Cần xỏ đôi găng cao xu dúm dó nhẽo nhẹt lạnh buốt vào tay rồi nhẹ nhàng kéo ngăn tủ ở dưới cùng ra: Hơi lạnh trong tủ phì ra theo cuồn cuộn trắng xốp như sương muối buổi sớm. Bác sĩ Cần rùng mình sởn gai ốc bật ho khan một tiếng trong cổ họng. Hơn hai chục năm làm cái nghề này rồi mà ông bác sĩ vẫn không thể nào quen được cái mùi khí lạnh không thể nào tả nổi vẫn phì ra từ trong ngăn tủ lạnh đựng xác người. Bác sĩ Cần cúi xuống thận trọng nhấc lên một thằng bé con cứng đờ bốc hơi ngùn ngụt toàn thân được quấn kín mít chặt cứng trong một vuông khăn vai sặc sỡ lốm đốm những chấm đỏ chấm vàng hoa cà hoa cải. Bác sĩ Cần đặt thằng bé lên tấm phản gỗ rồi nói với người đàn bà: "Nhìn cháu nó một lần nữa đi. Có muốn sửa sang gì thì tranh thủ sửa sang cho nó". Rồi ông bác sĩ để nguyên cả giầy lộp cộp leo lên chiếc ghế đầu có kích cỡ hơi khác thường. Mặt ghế và bốn chân ghế to bản dầy dặn vững chãi hơn những chiếc ghế đẩu khác. Có lẽ chiếc ghế này được đặt đóng riêng đặc biệt chỉ dùng cho người leo lên nó để mở ngăn tủ trên cùng của cái tủ lạnh ba tầng cao ngất ngưởng chỉ chuyên để ướp xác người này. Bác sĩ Cần nhẹ nhàng mở ngăn tủ trên cùng. Cái kiểu mở của ông thật là thành thạo. Hơi lạnh trong tủ lại xả ra mù mịt cuồn cuộn trắng xốp. Lập tức một nửa người phía trên gồm lưng đầu vai và hay tai ông bác sĩ chìm lút mất hút trong luồng hơi lạnh buốt đó. Không biết ông bác sĩ làm cái gì mà chỉ nghe thấy những tiếng lục cục lục cục rồi lại nghe tiếng ông bật ho húc hoắc. Một lúc sau bất chợt cái đầu ông bác sĩ nhô ra khỏi đám hơi lạnh đang phun phì phì. Hai tay ông bác sĩ bê một cái xác bà già cứng queo eo quắp. Ông bác sĩ lầm bẩm "Vô phép cụ đổi chỗ cho thằng cháu vì mẹ nó chẳng quản mưa gió chạy vào đây xin xỏ như vậy!". Không để ý tới người đàn bà đang xông hơi mờ mịt. Rồi ông nhẹ nhàng bế thằng bé trèo lên cái ghế đẩu và cũng nhẹ nhàng ấn nó vào cái ngăn tủ trên cùng cũng đang xông hơi mờ mịt. Xong xuôi bác sĩ Cần co rúm lại lẩy bẩy tụt xuống khỏi ghế rồi cẩn thận đặt bà cụ vào cái ngăn tủ cuối cùng rồi lột đôi găng cao su nhão nhoét ném nó vào một cái rổ sắt rồi ngoái lại, hắng giọng định nói với người đàn bà câu gì đó đại loại: "Thế là xong rồi nhá. Vừa lòng rồi nhá". Nhưng ông bác sĩ bỗng trố mắt há hốc mồm chưng hửng.. Người đàn bà đã biến đâu mất. Hệt như thị là một bóng ma.
*
Nhưng chuyện chưa hết ở đó. Đêm hôm ấy tại căn hộ độc thân chiều dài ba mét chiều rộng ba mét vuông vức đúng chín mét vuông của bác sĩ Trương Vĩnh Cần ở khu tập thể Thắng Lợi vào khoảng hai mươi giờ trời vẫn mưa rả rích và gió bấc vẫn đang thun thút thổi. Bác sĩ Cần đang ngồi co ro trên giường chăn trùm tới cổ giương mắt kính đọc mẩu tin võ sĩ da đen Tôm Kinh đấm hộc máu mồm con tê giác 8 tuổi đăng ở tờ tạp chí "Thể thao mới" thì có tiếng gõ cửa cạch cạch. Cửa chưa khóa. Bác sĩ Cần vẫn ngồi co ro trên giường không thèm ngoảnh lại chỉ nói to: "Vâng mời vào". Vẫn tiếng gõ cửa cạch cạch. Bác sĩ Cần phải nói tới ba lần vâng mời vào thì cánh cửa mới cọt kẹt do dự từ từ hé ra. Một cái đầu trùm khăn thò vào. Rồi xạch một cái, cánh cửa bật mớ tung và một người đàn bà ào vào như luồng gió. Đúng là thi. Người đàn bà ban chiều mò đến nhà xác của bệnh viện nhờ bác sĩ Cần đổi chỗ cho thằng bé trong tủ lạnh. áo quần thị ướt lướt thướt. Thị trùm vuông khăn lốm đốm chấm đỏ chấm vàng hoa cà hoa cải giống hệt vuông khăn đang bọc thằng bé trong tủ lạnh. Thị hiện diện quá đột ngột. Cũng đột ngột như lúc thị vụt biến mất như bóng ma ở trong căn phòng liệm xác rộng thênh thang khiến bác sĩ Cần giật thót người. Ông há mồm trợn mắt ú ớ nhìn thị. Người đàn bà lắc người làm bắn tung những hạt nước xuống sàn nhà giống hệt một con chó rũ lông sau khi bị dội nước. Thị rón rén đặt mấy quá cam lên bàn rồi nhỏ nhẻ.
- Cháu tới để cám ơn bác sĩ.
Chưa hết ngạc nhiên bác sĩ Cần vẫn ngồi chồm chổm trên giường lắp bắp hỏi.
- Sao không để đến sớm ngày mai. Đêm hôm khuya khoắt mưa gió lạnh lẽo thế này...
- Mưa to mấy cháu cũng phải tới. Đêm càng khuya cháu càng phải tới.
Thị nói nói cười cười lả lơi rồi tuột vùng khăn hoa cà hoa cải xuống vai. Tóc thị rất dày đen nhánh nhưng ở giữa đỉnh đầu lại có một mảng tóc bạc trắng ánh lên như cước. Mắt thị lóng lánh dưới ánh đèn. Bộ mông căng mẩy của thị nhoay nhoáy quay phải quay trái. Nom thị chẳng có chút gì nỗi niềm đau khổ của một người mẹ vừa mất con đến nỗi bác sĩ Cần phải buột ra câu hỏi: "Vậy là thằng bé trong tủ lạnh không phải con của của chị?". "Vâng cháu chẳng phải là mẹ nó. Con nhặt con rơi con xin con mua đấy. Bác sĩ tinh lắm". Thị nhăn nhở cười cười ghé mông nhẹ nhàng xuống mép giường rồi ỏn ẻn kể tiếp:
- Thằng bé này cháu mua lại của một bà cụ dở người vẫn bán ngô nướng ở cửa ga. Cũng chẳng rõ nó là con cái nhà ai. Cháu mua nó những bảy chục ngàn đắt hơn những thằng bé khác trạc tuổi vì nó vừa chột bẩm sinh lại vừa khoèo tay bẩm sinh. Hiếm khi mà vớ được đứa bé có được cả hai cái tật xấu xí như vậy bởi vì trẻ con thì hầu như đứa nào nom cũng thích mắt. Bấn thỉu lấm láp như ma vùi nhưng trông kỹ thì vẫn cứ thích mắt. Lạ thế cháu mua thằng bé này cũng định mai đây dạy nó hát rồi đóng giả hai mẹ con lên tàu xuyên Việt Nam Bắc vừa hát xẩm vừa ăn xin. ái chà, cháu chưa nói để ông biết cháu hát nhạc vàng hay lắm nhá. Cháu đã toan tính sắp đặt đâu vào đấy. Ai dè ông trời lại hại cháu. Thằng bé mới về với cháu được non tháng thì lăn đùng ra chết. Thế là mất cả chì lẫn chài. Số cháu đúng là còn đen hơn cả mực tàu Quảng Đông...
- Chị làm nghề hành khất ư
- Ban ngày thôi còn ban đêm thì...
Nói đến đậy thị ngước mắt lên nhìn ông bác sĩ. Mắt thị đen láy như mắt chó. Rồi thị ỏn ẻn đứng lên đi tới bàn chọn một quá cam. Thị bóc cam rất khéo. Bác sĩ Cần giật mình khi chợt nhìn thấy trên mép giường đúng cái chỗ thị ngồi một khoảng ướt đang từ từ loang rộng ra ngấm dần xuống đệm. Thị tủm tỉm ngoái lại..
- Đừng ngại, nước mưa đấy mà.
Rồi thị dúi múi cam vào tay bác sĩ Cần.
- Ông ăn cam đi ngọt lắm. Cam Vinh đấy chứ không phải cam Trung Quốc đâu.. Ông không biết cháu chứ cháu biết ông đấy. Thỉnh thoảng tối chủ nhật, tối thứ bẩy ông vẫn mò ra ga chống đần độn đúng không nào? Thị phé lên cười. Điệu cười như suối chảy như kính vỡ như gió rít như chó hoang gào hú. Rồi thoắt một cái thị nhầy phốc lên giường. Múi cam tống vào mồm bác sĩ Cần. Nước cam ứa ra ngọt lừ. Hai cánh tay nầng nẫng của thị riết lấy cổ ông bác sĩ. Bộ vú thây lẩy ngai ngái hôi hổi của thị ấp vào mặt bác sĩ Cần. Tấm thân béo lần ướt át mà lại nóng ham hập của thị đổ xập lên người bác sĩ Cần khiến ông ngã bổ chửng ra giường. Thị hà hơi phả vào mặt bác sĩ Cần mùi tỏi mùi hành mùi hạt tiêu mùi gừng nướng cháy mùi mỡ béo ngậy của nồi nước dùng phở:
- Tối nay mưa gió dầm dề cháu ngồi mãi ở quán lão Tường dơ người mà chẳng tăm được thằng khách nào. Cháu về nhà trọ lăn ra giường toan làm một giấc đến sáng nhưng cứ trùm chăn lên đầu là thằng bé nó lại hiện ra trỏ thẳng tay vào mặt cháu. Nó bảo cháu phải đến đây để trả ơn ông. Thế là cháu đội khăn đi luôn. Ban nãy cháu đứng ở ngoài cửa cháu sợ lắm chẳng dám gõ cửa. Nào ông ơi ông chơi đi ông đi tàu nhanh cũng được mà tàu suốt qua đêm cháu cũng chiều. Ông cứ chơi hết cỡ cho thật đã thật sướng. Sức cháu cũng hơi siêu đấy. Hôm kia cháu chui vào cốp sau cái Ních xàn vào làm ăn ở một sứ quán. Bốn thằng hộ pháp thay nhau ** cháu mà cháu vẫn bất chấp khinh chúng nó mười lăm phút. Cháu nói thật đấy mời ông cứ xơi cho thật đã đời. Mà cháu cũng thích thế.
Bác sĩ Cần ngột thở dưới bộ vú hầm hập của ả. Tim ông đập huỳnh huỵch. Thái dương ông giật vô hồi. Máu như sắp sôi lên trong khắp người ông. Bàn tay ả giang hồ xần xùi nhơm nhớp sờ soạng lần mò trên người ông bác sĩ. Bác sĩ Cần co dúm người, ngẩng cổ lên. ả giang hồ đã trút bỏ áo quần từ lúc nào.
Người ả trắng lốp, bóng nhẫy dưới ánh đèn. Đôi vú của ả thõng xuống. Một cái núm vú to tướng đen xì ấn vào lỗ mũi ông bác sĩ. ả nhe ra cười. Hai hàm răng ả thật là đều thật là trắng. Có một cọng rau xanh lét giắt ở kẽ răng của à. Đôi môi ướt nhoèn của ả chà xát trên mặt bác sĩ Cần. Lưỡi ả liếm tem tép như cá ăn mồi. ả hổn hển phì phò rên rỉ. Không sao đâu mà em khéo chiều khách có tiếng đấy ông ạ. Một lúc nữa là nó sẽ lên ngay thôi mà...
Con mèo vần vò con chuột như thế nào thì lúc này ả giang hồ cũng vần vò ông bác sĩ Cần đúng như vậy. Cơn dục vọng ngùn ngụt đã khiến ả giang hồ trở nên trơ trẽn thô lỗ mất hết vẻ e sợ, kính nể ỏn ẻn. Trần truồng lõa lồ như con nhộng ả hồng hộc cưỡi lên bụng ông bác sĩ Cần. Hai chân ả nhún nhẩy như kẻ đang phi ngựa. Tóc ả xõa xuống che kín gần nửa gương mặt căng đầy máu phừng phừng như một con bệnh đang tăng huyết áp đột ngột. Hai cánh tay lực lưỡng của ả hùng hục xờ xoạng nắn bóp. Lưỡi ả nóng rát chà xát lên da thịt ông bác sĩ. Cái giường cũ kỹ mọt ruỗng đã bốn lần rung lên ken két như sắp vỡ vụn ra đổ xập xuống sàn. Và cũng không dưới bốn lần thân xác ông bác sĩ Cần được dựng ngồi bật lên ném bẹp vào sát tường. Khắp người ông bác sĩ đau như dần, toát bồ hôi đầm đìa như người bị toát dương. Đầu óc ông tê dại trong nỗi khoái cảm mụ mị mê sảng.
Khi chiếc đồng hồ Fuji trên tường đổ mười hai tiếng tính tang tình tang thì ả giang hồ mới chịu buông ông bác sĩ ra và cuộc vật lộn vầy vò mới kết thúc. Đèn trong phòng vẫn sáng quắc. Lúc này ngoài trời vẫn mưa rả rích. Gió lạnh phù phù táp vào ô kính cửa sổ. ả giang hồ vật hai tay xuống giường chán nản tuyệt vọng phù ra một luồng hơi dài như rắn phì rồi lồm cồm bò dậy nheo mắt nhìn chăm chăm vào ông bác sĩ. Ả thở dài:
- Mít ướt triền miên rồi.
Bác sĩ Cần nằm im nhắm nghiền hai mắt dường như không còn dám thở nữa. Nom ông như một kẻ vừa mới qua đời. Vẻ im lìm bất động lạ lùng của ông khiến ả giang hồ ngây mặt ngắm nhìn ông đầy vẻ tò mò. Bàn tay ả lướt nhẹ trên cái bụng lép kẹp mỏng dính toàn da của ông bác sĩ. ả khe khẽ chọc ngón tay trỏ vào nách ông rồi ả cúi xuống sát mặt ông mỉm cười thỏ thẻ. Tuần trước cháu đi với một lão già cũng trạc tuổi ông. Già móm răng móm lợi rồi mà nghịch đểu còn hơn cả bọn choai choai chíp hôi. Cháu phải chửi cho lão ta một trận đấy. Già cũng có dăm bảy loại ông nhỉ. Bàn tay ả dịu dàng vuốt ve ngực bác sĩ Cần. Đôi mắt ả đen lay láy. Giọng ả thì thào rì rào như cơn gió.
- Ông đừng buồn. Ai uống bia uống rượu nhiều thì vẫn hay bị mít ướt như thế này. Chuyện nhỏ đấy mà. Ông phải uống ít thôi nhé. Vừa đỡ tốn tiền lại có lợi cho sức khỏe.
Bác sĩ Cần vẫn nằm ngay đơ hai mắt nhắm nghiền giả chết. Thị đâu có biết rằng ông bác sĩ đang nức nở khóc thầm. Ông khóc mà không có tiếng nấc và không chảy nước mắt. Hay nói đúng hơn là tiếng nấc và nước mắt đang nghẹn ngào chảy ngược vào tim ông. Đã mấy chục năm nay rồi, cứ sau mỗi lần có dịp khỏa thân ôm ấp vầy vò một người đàn bà bác sĩ Cần lại nằm chết lặng ngay đơ nhắm nghiền hai con mắt, lặng lẽ khóc thầm. Ông khóc vì sự bất lực cay đắng nhục nhã của ông. Ông khóc vì nỗi niềm túi hổ chua xót cho cuộc sống tình dục khiếm khuyết thua thiệt của đời ông. Ông khóc vì một nỗi buồn thăm thẳm hun hút như vực sâu tối đen không đáy. Nỗi buồn như luồng khí độc quấn chặt lấy tâm hồn ông thể xác ông không bao giờ chịu vữa ra tan ra. Và vĩnh viễn mãi mãi là như vậy. Vĩnh viễn mãi mãi là như vậy. Rồi ông bác sĩ thiếp đi.
*
Khi bác sĩ Cần tỉnh giấc mở mắt ra thì căn phòng chỉ còn mỗi mình ông. Cửa ra vào khép hờ hờ. ả đàn bà giang hồ đã biến đâu mất. Qua khung cửa sổ hẹp ở bên ngoài trời cũng đang từ từ sáng dần lên. Mưa đã tạnh và hình như gió bấc lạnh lẽo cũng đã bớt hú gào. Ông bác sĩ lồm cồm bò dậy giương mắt nhìn đống vỏ cam vương vãi trên nền nhà. Cái mùi ả giang hồ vẫn còn vương vấn phảng phất đọng lại ở đâu đây trong gian buồng dễ chừng như thị chỉ vừa mới rời bỏ nơi đây chạy ra ngoài.
Đó là mùi tương ớt, mùi hành tỏi, mùi nước béo, mùi mồ hôi mằn mặn toát ra từ một tấm thân béo lắn lúc nào cũng hầm hập toa ra hơi nóng đầy sức vóc của đời sống. Và trên hết cả, trộn lẫn với các thứ mùi đó là một mùi tanh tanh ngầy ngậy rất riêng biệt của các cuộc truy hoan cuồng loạn. Gian buồng nồng lên một thứ mùi tạp nham thô lậu nồng béo tanh tưởi tuy có hơi cặn bã bẩn thỉu nhưng nó thân mật và quyến luyến đến lạ lùng. Một dòng chữ phấn nguệch ngoạc trên cái nền nhà vương vãi vỏ cam và giấy vụn: "Cháu phải ra khỏi phòng của ông sớm kẻo hàng xóm của ông họ dị nghị. Khiếp ông ngủ say thế, ngáy o o lay mãi mà không tỉnh. Nếu không thấy bụng ông thở phập phồng thì cháu cứ ngỡ ông chết rồi. Kính chào, hẹn gặp lại. Lê Thị Tuyết Thìn".
Chiếc đồng hồ Fuji trên tường lại dóng dả đổ một hồi chuông tính tang ngân nga như đang thong tha xóa đi một giấc mơ. Bác sĩ Cần dụi mắt chợt nhớ tới công việc ngày hôm nay ông sẽ phải làm ở nhà xác. Ông mặc áo, đi giầy và chụp lên đầu cái mũ lông bù xù, loại mũ của người ếch-ki-mô xứ tuyết Bắc cực xa xăm. Cái mũ này bà chủ quán rượu đã biến ông. Đêm qua ả gái điếm chợt đến rồi lại lặng lẽ biến đi y hệt như một cảnh phim quay chậm. Cái mùi giống cái và những cú vuốt ve điệu nghệ của ả để lại trong tâm hồn ông bác sĩ như một kỷ niệm thảnh thơi, dịu dàng, vương vất một chút nhớ nhung nhẹ nhàng, sảng khoái. Không cần ăn sáng dù chỉ là nắm xôi xéo hoặc bát cháo lòng. Đẩy cửa bước ra đường, bác sĩ Cần đứng xững lại hít một hơi dài như muốn nuốt gọn luồng không khí buổi sớm trong lành tuy hơi se lạnh. Rồi ông đi thẳng một lèo đến bệnh viện đa khoa của thành phố. Ông không vào lối cổng chính mà đi vào lối cổng sau nơi có khu nhà xác nằm náu mình dưới bóng mấy cây long não cổ thụ um tùm, xanh tốt. Sáng hôm nay bác sĩ Cần phải liệm cả ba cái xác đang để trong phòng lạnh. Đó là bà cụ già và thằng bé đổi chỗ hôm qua và một người đàn ông hói đầu. Vốn là bác sĩ đã quá thành thạo cái việc liệm xác người mấy chục năm nay, nên loáng một cái ông đã bó gọn ghẽ xong hai cái xác người lớn. Đứa trẻ thì dễ dàng hơn. Ta sẽ quấn cho thằng cháu tội nghiệp này đẹp như một con búp bê Đài Loan. Ông bác sĩ lầm bầm như vậy Nhưng khi vừa kéo thằng bé ra khỏi ngăn tủ bốc hơi ngùn ngụt thì đúng lúc đó, bác sĩ Cần nhìn thấy một luồng khí màu da cam đặc quánh, oằn oại quấn tròn quanh chóp đầu thằng bé. Thoạt đầu, bác sĩ Cần cứ ngỡ đó là luồng hơi trong tủ lạnh quẩn theo. Nhưng mà tại sao nó lại nhuộm màu da cam nhỉ. Bác sĩ Cần nhẹ nhàng đặt thằng bé lên tấm phản gỗ thì vẫn thấy luồng khí màu da cam đó quẩn theo không chịu vữa ra. Mà hình như nó còn đặc quánh hơn, sôi chảy lục xục hơn. Ông bác sĩ đứng thần người trố mắt nhìn. Ông quờ tay tóm lấy luồng khí. Nó không lạnh mà lại âm ấm như khói bếp. Bác sĩ Cần ngây người. Tay ông run run. Luồng khí trườn nhẹ khỏi tay ông rồi lại cuồn cuộn quẩn trong quanh cái đầu cứng đờ của thằng bé. Bác sĩ Cần rợn người, lạnh buốt sống lưng. Hai mắt ông gần như lồi ra. Ông lùi lại. Vừa lúc đó cửa phòng xịch mở. Gã hộ lý lực lưỡng huỳnh huỵch bước vào:
- Cậu có nhìn thấy không?
Bác sĩ Cần líu lưỡi hỏi.
- Nhìn thấy cái gì ạ.
- Nhìn...
Bác sĩ Cần quay ngoắt lại trỏ vào cái xác thằng bé. Ông bỗng giật thót người. Luồng khí màu da cam đã biến đâu mất.
Gã hộ lý nhăn ra cười:
- Ối giời! Thằng bé được liệm đẹp quá. Cứ như con búp bê ấy. Chịu ông bác!
Nhìn bác sĩ Cần ngồi phịch xuống cái ghế sắt, gã hộ lý lại nhăn ra cười. Gã rũ vải mưa xoạt một cái rõ mạnh tưởng đến rách đôi tấm vải. Sức vóc gã ghê gớm lắm. Gã bắt chuyện:
- Năm nay rét muộn thế này thì bỏ bố cái làng hoa Ngọc Hà rồi.
Bác sĩ Cần vẫn ngồi chết lặng trên ghế. Hai mắt ông trừng trừng nhìn cái xác cứng đờ của thằng bé. Ông nhìn cánh cửa tủ lạnh mở toang hoác. Ông nhìn làn hơi lạnh buốt trắng đục đang phì phì từ trong tủ phun ra. Ông nhìn ra ngoài trời đang chầm chậm chuyển màu cao gấu. Rồi ông lại nhìn cái xác cứng đờ của thằng bé. Ông bác sĩ lẩm bẩm.
- Hoa mắt. Đúng là mệt quá rồi hoa mắt.
Gã hộ lý dạ một tiếng rồi nói...
- Vâng. Rét quá! Cháy mẹ nó hoa rồi. Tết này ối thằng mếu xệch mồm.
Nhưng bác sĩ Cần không hoa mắt.
Buổi sáng hôm sau vào khoảng 9 giờ, đúng lúc trời lộp độp cơn mưa rào thì cảnh sát giao thông đưa vào bệnh viện một xác người vừa bị xe nghiến nát. Ông đại úy trưởng phòng cảnh sát giao thông vỗ vai bác sĩ Cần nói: "Nạn nhân chưa có người nhận. Phiền ông bác cứ liệm cho rồi đưa vào phòng lạnh. Chúng tôi đã đo vẽ, chụp ảnh ở hiện trường đầy đủ lắm rồi. Tối nay sẽ có thông báo trên tivi để thân nhân đến nhận".
Nghe ông cảnh sát nói như vậy bác sĩ Cần vâng dạ rồi hối hả bắt tay vào công việc ngay. Ông đeo găng tay vào rồi xốc cái xác người nát bét lầy nhầy thịt máu đặt lên tấm phản gỗ. Thành thạo và chu đáo, trong chưa đầy một giờ cái hình hài đáng thương đó đã được quấn gọn trong tấm vải liệm trắng tinh không giây một vết máu. Liệm xong bác sĩ Cần giật chuông gọi gã hộ lý hộ pháp vào để thu dọn, lau chùi, nhặt nhạnh những mảnh quần áo bần thỉu. Nhưng đúng lúc đó. Đúng lúc bác sĩ Cần đang giật chuông thì ông lại nhìn thấy luồng khí màu da cam hiện ra sôi réo, quằn quại quẩn quanh cái đầu người bị nạn. Bác sĩ Cần ngớ ra dụi mắt. Ông giơ tay đập mạnh vào luồng khí. Luồng khí chẳng những không tan biến đi mà nó còn cuộn ngay lấy bàn tay ông bác sĩ. Nó ấm như khói bếp và cũng đặc quánh như khói bếp. Nó có thật. Bác sĩ Cần chết lặng người. Lưng ông ớn lạnh. Hai chân ông bủn rủn. Ông vỗ mạnh tay vào trán và buột miệng kêu lên: Lại hoa mắt nữa à.
Đúng lúc đó có tiếng xít-đờ-ca của cảnh sát phanh rít lên chói tai ở ngoài sân và tiếng một người đàn bà ré lên thảm thiết:
- Ối ông ơi là ông ơi ông bỏ mẹ con tôi...
Luồng khí màu da cam thoáng rùng mình rồi đột ngột vữa ra biến đi như một ảo ảnh. Tiếp ngay buổi chiều hôm đó nhà xác lại tiếp nhận một cái xác vừa được mổ pháp y đưa xuống. Đó là một ông cán bộ về hưu mà ngày xưa vốn là một quan chức cấp tỉnh cũng có tên tuổi. Cái xác được mổ pháp y, theo yêu cầu của ông con trưởng, để kiểm nghiệm xem ông bố già có bị bà dì ghẻ đầu độc để chiếm đoạt ngôi biệt thự ba tầng sáu buồng, sáu phòng toa-lét lát gạch men sáng choang với đầy đủ bồn tắm Japan, máy nước nóng Ariston và hố xí bệt Italia. Vì xác chết là một quan chức có cỡ nên cái sự khâm liệm cũng rộn ràng, náo nhiệt hơn người. Suốt cả buổi chiều khu nhà xác cứ nháo lên, tấp nập kẻ ra người vào. Mãi đến gần 10 giờ đêm bác sĩ Cần mới liệm xong và lúc này thân nhân người chết cũng đã kéo nhau về cả. Trong gian phòng rộng thênh thang, vắng tanh vắng. ngắt chỉ còn trơ trọi bác sĩ Cần râu ria lởm chởm, đang ngồi rũ ra bên cái lồng sắt úp cạnh tấm phản, trên đặt cái xác người cứng đờ vừa được liệm xong gọn gàng, sạch sẽ. Đúng lúc đó, luồng khí màu da cam lại bất chợt hiện ra. Bác sĩ Cần ngồi im thin thít, he hé mắt nhìn. Luồng khí màu da cam cuộn tròn quanh đầu xác chết, oằn oại, uốn éo như con rắn đang múa lượn điệu vũ kỳ dị quanh cái cổ của nó. Bác sĩ Cần từ từ thò tay ra nhè nhẹ vuốt ve con rắn kinh dị đó. Nó không cắn ông, không đớp ông mà còn oãi ra phủ lấy bàn tay ông bác sĩ. Mà hình như nó còn thè ra cái lưỡi mềm mại, âm ấm liếm vào mu bàn tay ông với vẻ biết ơn làm nũng. Bác sĩ Cần liếc nhìn cái xác đang nằm ngay đó trên phản. Buối chiều khi đưa vào đây ông lão chỉ còn gân xương chân tay co quắp, da xanh như đít nhái, bụng bị mổ tanh bành nom rất thương tâm. Bác sĩ Cần đã gắng hết sức liệm cho ông lão tươm tất. Giờ dây nom ông lão như đang nằm ngủ. Một giấc ngủ ngàn thu yên tĩnh đời đời, không còn bị ai quấy nhiễu. Bác sĩ Cần bỗng thấy chạnh lòng, ngậm ngùi. Ông cúi xuống nhìn kỹ cái mặt người chết lờ mờ khuất chìm trong luồng khí màu da cam đang quẩn réo. Bỗng nhiên ông chợt nghe thấy hình như có tiếng rì rầm than thở vọng ra từ trong luồng khí. Bác sĩ Cần ngạc nhiên nghiêng đầu lắng nghe. Đúng là từ trong luồng khí có vọng ra tiếng than thở rì rầm não ruột. Tiếng than thở đó như tiếng rên rỉ nghẹn ngào của một người đang bị nhốt dưới đáy vực sâu thăm thẳm, ngột ngạt, tối đen.
- Ô hay! Sao mà lắm chuyện lạ thế này. - Bác sĩ Cần bật đứng lên. Ông dụi mắt, ông ngoáy tai, ông chăm chăm nhìn luồng khí đặc quánh đang sôi sục vần vũ. Đúng là tiếng người rồi. Tiếng người khê đặc, nghẹn ngào, nức nở, đứt quãng: ôi ôi ôi... trời ơi... vợ con. Khốn nạn. Vì mấy gian nhà mà nó mổ xác tôi ra thế này... thảm quá trời ơi... Cô Hội ơi... Tôi có tội với cô... cái buồng... hố xí... phố Hàng Cháo... ngôi nhà số chín... Tôi đau lòng lắm... vì tôi mà cô hỏng cả một đời... ối giời ơi Tôi biết làm gì bây giờ... Xin cô thể tất cho tôi.
*
Sáng hôm sau đến giờ làm việc, gã hộ lý hộ pháp đầy cửa bước vào phong ướp xác thì thấy bác sĩ Cần đang ngồi ngủ gục cạnh cái lồng sắt ở góc phòng. Đầu ông bác sĩ gối lên mép phản. Ngay sát đầu ông là cái xác ông cụ đã được bó liệm tươm tất gọn ghẽ và đẹp như một cái xác ướp thời cổ. Gã hộ lý đứng thần ra một lúc rồi chép miệng: "Bố già sưa quá rồi. Đêm qua lại không về nhà". Rồi gã nhấc cái lồng sắt lên úp vào người chết. Tiếng động lịch kịch làm bác sĩ Cần ú ớ thức dậy.
Gã hộ lý hỏi:
- Bố qua đêm ở đây à?
- Hả?
Bác sĩ Cần dụi mắt ra khỏi giấc ngủ. Gã hộ lý chép miệng:
- May mà đêm qua chuột nó không khoét mắt ông.
Bác sĩ Cần không nói gì. Gã hộ lý cười:
- Đêm qua bố ngủ với ma.
Bác sĩ Cần vẫn im lặng. Gã hộ lý dịu dàng:
- Mặt bố xanh dớt. Bố về nhà ngủ đi. Người ta đang còn cãi nhau ngày hôm nay chưa nhập quan được đâu.
Buổi sáng hôm sau trời mưa lây phây. Gió lạnh. Vòm trời vẫn xạm đen ỉu xìu, vẫn giữ nguyên màu cao gấu. Ra khỏi khu nhà xác, bác sĩ Cần bước thất thểu như con chó già ốm đói. Bụng ông réo ùng ục. Ông đói. Nhưng ông lại sợ ăn, người ông mệt rũ. Đầu nhức như búa bổ. Ông đi lang thang qua hết gốc cây này đến gốc cây khác. Mắt ông cay xè lát lát lại ứa ra hai hàng nước mắt. Bước chân vô định đưa ông đi qua những đường phố nào? Cho đến một lúc bất chợt ngẩng đầu lên ông nhìn thấy tấm biển kẻ tên phố Hàng Cháo gắn trên cột điện. A! Phố Hàng Cháo. Bác sĩ Cần nghĩ vẩn vơ. Luồng khí màu da cam quẩn quanh đầu người chết. Tiếng rì rầm não ruột ai oán vẳng lên từ đáy vực sâu thăm thẳm tối đen. Bác sĩ Cần chầm chậm lê bước. Có một cái gì vô hình, túm lấy hai cổ chân ông như không muốn cho ông bước đi. Bác sĩ Cần thở dài. Ông nhổ ra một bãi nước bọt đắng ngắt. Rồi ông thấy ông đang chần chừ trước một ngôi nhà cũ kỹ gắn biển số 9 có những song cửa mục nát. Đó là loại nhà ống được xây cất từ đầu thế kỷ chỉ chuyên cho thuê làm cửa hàng ngày xưa mỗi cái ống nhà này chỉ có một gia đình thuê. Còn bây giờ mỗi một cái ống nhà này nhồi nhét tới hàng chục hộ vì vậy người ta phải lấy cót, lấy gỗ dán ngăn suốt dọc ống nhà để chừa ra một lối nhỏ đi lại tối hun hút như hũ nút chật đến nỗi có đoạn phải nghiêng người mới đi lọt. Bác sĩ Cần chần chừ trước ngôi nhà. Ông lấm lét nhìn trộm cái biển số 9 như một thằng ăn cắp! "Ta chui vào cái ống tối om này ư. Ta chui vào để làm gì. Có việc gì mà chui vào cơ chứ". Trong óc bác sĩ Cần reo reo một câu hỏi như thế. Rồi bỗng dưng như có ai đẩy vào lưng. Bác sĩ Cần cúi đầu chui vào cái ống nhà tối đen ướt nhoen nhoét đó. Bóng tối đen xì như bưng lấy mắt. Hai tay bác sĩ Cần sờ soạng. Chân ông bước thấp bước cao y như cách đi của thằng mù. Rỗi bỗng nhiên ông bác sĩ xộc ngay ra một cái sân nhỏ tí teo lủng củng toàn chum vại. Một người đàn bà không thể đoán tuổi da xanh lớt gày đét như con mắm đang chổng hai mông đít nhọn hoắt quạt lấy quạt để cái lò than tổ ong phun khói xè xè để sát cạnh bức tường đen sì ri rỉ nước của cái nhà xí công cộng. Loại hố xí đổ thùng lúc nào cũng ngùn ngụt bốc lên một thứ mùi *** đái tanh tưởi lưu cữu khai khắm đến không thể chịu nổi người đàn bà vừa quạt phành phạch vừa ho sặc sụa. Thấy ông bác sĩ cứ lúng ta lúng túng, chị ngẩng lên rồi cau có chỉ ra phía sau lưng.
- Đấy cứ đi thẳng vào
Có lẽ chị ngỡ bác sĩ Cần là ông khách lạ đang muốn đi đái nhờ.
Bác sĩ Cần lúng túng xua tay
- Tôi... Tôi không... Tôi không hỏi...
Người đàn bà mỏi mệt hỏi lại:
- Cái gì cơ ạ.
Ông bác sĩ ấp úng:
- Dạ, tôi... tôi muốn hỏi chị Hội.
Cái quạt nan lấm lem trong tay người đàn bà thõng xuống. Khuôn mặt tàn tạ của chị thoáng ngạc nhiên.
- Tôi là Hội đây. Bác hỏi gì đấy ạ.
Bác sĩ Cần bỗng chùn lại. Ai xui ông chui vào ngôi nhà ấy hun hút đeo biển số 9 này. Ai xui ông mở mồm hỏi thăm nhà chị Hội. Và bây giờ đây cái nhà chị tên là Hội đó có thật đang đứng trước ông. Bác sĩ Cần chẳng còn biết phải nói gì với người đàn bà này. Có một cái gì mang máng như dòng bùn lệt xệt đang chảy nhão ra trong tâm trí của ông. Có lẽ vẻ mặt bác sĩ Cần lúc này nom lạ lắm nên thiếu phụ đứng hẳn lên chăm chú nhìn ông bác sĩ. Hai người cứ đang như vậy trừng trừng nhìn nhau vừa lúng túng vừa nghi ngờ đề phòng. Cái bếp lò được thể thả sức phun khói đặc sịt, khét lẹt. Bác sĩ Cần bật ho. Đúng lúc đó có vật gì đổ đánh ùng một cái như tiếng súng nổ rồi một tiếng rú lên ằng ặc như bị bóp cổ.
- Ối giời ơi đập mẹ nó cái bếp lò đi.
Từ sau tấm liếp loảng xoảng lao ra một cỗ xe đẩy bóng nhoáng ngồi lọt trong xe là một gã trẻ béo ụt ịt vai u lên như vai bò mộng nhưng hai ống chân bại liệt tong teo lẳng nhẳng như hai cái dẻ khoai. Cỗ xe lao thẳng lại phía ông bác sĩ. Tóc gã trẻ bóng nhẫy tua túa dựng ngược bết cứng sáp chải. Hai mắt gã tóe lửa điên dại. Răng gã nhe ra nhọn hoắt như răng chó. Một cây sắt móc lò đen sì vung lên. Bốp, cái bếp lò quay lông lốc than bắn tung tóe. Một mẩu than đỏ rực bắn vào cổ bác sĩ Cần khiến ông thét lên tắc nghẹn. Người đàn bà hốt hoảng ôm choàng lấy gã trẻ giọng chị lạc đi: "Con ơi, mẹ xin con". Bác sĩ Cần sợ tắc họng quay đầu lại lao vọt ra đường. Chân ông đá vào cái bếp lò nằm chỏng chơ. Một tiếng rít lên văng theo: "Cút. Mò vào đây ăn cắp à". Chạy thoát sang tới bên kia đường bác sĩ Cần mới như ra khỏi cơn mộng du. Mưa vẫn lây phây rắc xuống gió lạnh lùa vào cổ khiến ông rùng mình. Trời mưa thế lạnh thế mà phố xá vẫn đông nghìn nghịt người xe qua lại nom đến hoa cả mắt. Bác sĩ Cần lần ra sau một gốc cây lập cập moi thuốc lá ra hút. Hơi thuốc làm ông bình tâm lại. Nấp sau gốc cây vừa rít thuốc ông vừa he hé nhìn vào ngôi nhà số 9 có mấy song cửa gỗ mục nát. Cái lối đi hẹp quá tối quá cứ hun hút như lối đi vào cõi mê địa ngục. ở cuối cái lối đi tối om kia có một mảnh sân nhỏ hẹp có một hố xí ướt áy hôi thối có một cái bếp than tổ ong phun khói mù mịt có một người thiếu phụ da xanh lợt ốm o thiểu não tên là Hội. Có một gã thanh niên béo ụt da xanh lè như da nhái, hai chân tong teo có lẽ là con trai của người đàn bà tên là Hội. Tất cả đều có thật đều vừa hiện diện rõ mồn một trước mắt bác sĩ Cần. Trời ơi! Thế này là thế nào nhỉ. Có chuyện gì kì lạ đã xảy ra. Cái xác ông cụ bị mổ tanh bành. Luồng khí màu da cam uốn éo quằn quại. Tiếng rì rầm nghẹn ngào như vọng lên từ đáy vực sâu thăm thẳm tối đen... Mưa vẫn bay. Bác sĩ Cần đứng lặng bên kia đường. Lưng ông gù xuống như một dấu hỏi. Rồi ông uể oải bước đi. Một câu hỏi cứ thánh thót đều đều gieo vào óc ông: Thế này là thế nào. Thế này là thế nào. Có chuyện gì đã xẩy ra. Có chuyện gì đã xẩy ra. Giời ơi! Cài đó là cái gì đã xẩy ra với ông. Mê hay là thật đây Thật hay là mê đây.
*
Buổi sáng hôm đó bác sĩ Cần không về căn hộ độc thân của ông ở khi tập thể Thắng Lợi. Ông lang thang từ phố này sang phố khác. Mưa bụi vẫn rơi và gió lạnh vẫn không lúc nào ngừng thổi. Tới gần trưa thì bác sĩ Cần rẽ vào một quán rượu ở gần công viên trung tâm thành phố. Mấy chục năm nay ông vẫn thường lui tới quán rượu này. Ông mua cút rượu đĩa lạc rồi rúc vào một góc tối om. Ông rót rượu ra cái chén da lươn rồi làm luôn một hơi cạn ly. Ly đầu phải uống như vậy - Một trăm phần trăm. Uống như thế nó vào ngay. Ly thứ hai mới nhâm nhi. Bác sĩ Cần uống cạn ly thứ nhất. Ông rót ly thứ hai rồi lại cạn ngay. Buổi trưa hôm nay không như mọi buổi trưa. Có một nỗi lo sợ mơ hồ giống như bóng đen cứ loang dần loang dần trong tâm trí của ông khiến lòng ông hoang mang lắm. Hai ly rồi lại ba ly. Vẫn cứ cái điệu uống một trăm phần trăm. Chẳng mấy chốc cút rượu đã cạn. Và ông bác sĩ dộng mạnh đít chai xuống bàn bật kêu lên: Giời ơi Hay là tôi loạn trí rồi. Bà chủ quán rượu từ nãy đến giờ vẫn luôn để mắt tới bác sĩ Cần. Đã bao năm nay ông bác sĩ lui tới quán này. Ông là khách quen của quán. Bà thuộc tính nết ông và cũng hiếu rõ ngọn ngành hoàn cảnh đời ông. Một ông bác sĩ già trông coi nhà xác của bệnh viện đa khoa thành phố. Một ông già độc thân tính nết hiền lành nhu nhược. Một con người đã ngấm quá nhiều âm khí đến nỗi hơi ngớ ngẩn dị mọ cô độc không ai dám đi lại chơi bời. Bà chủ quán nghĩ về ông bác sĩ như vậy. Buổi trưa hôm nay nhìn bộ điệu uống của bác sĩ Cần bà chủ thấy có cái gì khang khác. Lành ít dữ nhiều. Ông bác sĩ có chuyện gì hốt hoảng lo sợ. Hết cút rượu thứ hai bà quay vào rỉ tai một cô hầu bàn mắt xanh mỏ đỏ tên là Thúy vẫn má má con con ngọt xớt với bà. Bà dúi vào tay cô Thúy một chục bạc rồi trỏ ông bác sĩ đang gật gù trong góc quán. Cô Thuý toét miệng cười dạ một tiếng lốp cốp đi tới kéo ghế ngồi xuống cạnh ông. Cô ỏn ẻn:
- Em đưa ông về nhé
Miệng nói tay làm. Cô Thúy choàng vai xốc ông bác sĩ đứng lên.
Bác sĩ Cần cưỡng lại:
- Không về.
- Má bảo dìu ông về. Và cứ thế cô Thúy kéo ông bác sĩ khỏi chỗ ngồi. Một chiếc xích lô đệm gỗ gọng mui bằng sắt loại xe chỉ chuyên chở khách Tây mắt xanh mũi lõ được gọi vào tận trong quán. Cô Thúy đỡ bác sĩ Cần lên xe. Cô đắp cho ông một chiếc khăn trải bàn vừa giặt xong. Cô nói với gã đạp xe xích lô:
"Nhớ chưa. Khu tập thề Thắng Lợi"
Chiếc xích lô bon bon trên phố. Mười lăm phút sau ông bác sĩ được đổ xuống một bãi rác khổng lồ giữa khu tập thể nhà cửa bẩn thỉu như ma. Cô Thúy hiện ra từ một quán cóc cạnh bãi rác lộp cộp chạy lại đón. Có lẽ cô Thúy đi xe ôm tới trước. Rồi cô dìu bác sĩ loạng choạng bước lên từng bậc cầu thang đầy túi ni lông bao bì và vỏ đồ hộp. Lúc này nom cô giống hệt cô con gái đang dìu ông bố say rượu về nhà.
Bác sĩ Cần nửa tỉnh nửa mê chân tay ông nhẹ hẫng. Thỉnh thoảng ông lại ợ mạnh rồi nhổ ra bãi nước đắng ngắt như thuốc độc. Lúc ngồi ở quán ông bác sĩ đã khạc một bãi nước dãi vào lá cây sống đời xanh biếc. Lập tức cái lá héo quăn lại. Lúc bước xuống xích lô ông lại nhổ một bãi lên nắp cống xi măng. Lập tức nắp cống sủi lên nham nhở. Cô Thúy đỡ ông bác sĩ leo từ tầng một tới tận tầng năm. Rồi cả hai dừng lại trước một căn hộ cửa sắt kiên cố như cửa nhà tù. Cô lục túi quần túi áo ông bác sĩ để tìm chìa khóa. Đúng lúc đó từ trong một hốc tối vụt nhô ra một người béo lẳn. Cô Thúy giật bắn mình lùi ngay lại.
- Ai đấy?
Bóng người cười hí hí như tiếng ngựa cái.
- Không phải bảo vệ đâu. Chị đây. Đưa chìa khóa chị mở cho.
Cô Thúy nheo mắt nhìn người đàn bà.
Bác sĩ Cần cũng ngóc đầu lên. Nước dãi ông ứa ra. Ông lè nhè:
- Nhà chị... chị đấy hả.
- Vâng cháu đây.
Cái bóng người đó là người đàn bà giang hồ ăn xin và cũng là ả gái điếm đêm trước đã cho ông bác sĩ ăn bánh không phải trả tiền. Thị thít lên trơ trẽn nhưng cũng thật dễ thương.
- Ông vẫn còn nhớ cái mùi của cháu chứ. Rồi quay sang cô Thúy, người đàn bà giang hồ vồn vã ân cần:
- Để chị giúp cho một tay nào.
*
Cũng cần phải nói sòng phẳng rành mạch dòng họ bác sĩ Trương Vĩnh Cần kê ngược từ đời ông cố nội là một dòng họ khỏe mạnh tông giống nên rất cường tráng. Đàn bà họ Trương mắn đẻ như lợn nái còn đàn ông họ Trương ông nào cũng phải dăm ba bà mới thỏa sức. Bác sĩ Cần cũng được thừa hưởng cái giống cái tông khỏe khoắn theo cái gien trời cho của dòng họ ông. Sổ sức khỏe của bác sĩ Trương Vĩnh Cần tới năm ông 44 tuổi còn ghi rất rõ: Mắt 11/10. Tai nghe rõ. Tim gan phổi dạ dày lá lách gan thận bàng quang bình thường. Phản xạ thần kinh gối trái giống như gối phải. Bộ phận sinh dục phát triển bình thường không có dị tật. Chính vì vậy khi phát hiện ra mình bị liệt dương bác sĩ Cần kinh hãi và xấu hổ vô cùng. Và tất nhiên ông giấu kín ăn bệnh oái oăm này không cho ai biết. Mèo giấu *** còn không kín bằng bác sĩ Cần che giấu căn bệnh liệt dương của ông. Vì là bác sĩ nên ông tích cực lao ngay vào tự chạy chữa cho mình. ông tiêm đủ các loại vi-ta-min. Ông truyền đủ các loại huyết thanh, nước đường và đạm. Ông uống đủ các loại rượu ngâm các cây cỏ biệt dược bổ thận tráng dương như ba kích cá ngựa bắc khởi từ đỗ trọng. Ông tìm đọc lén lút hàng đống họa báo khiêu dâm và hàng chồng các tiểu thuyết cẩm nang dâm ô kích dục như bí mật thành Pa-ri, Tố nữ kinh để hy vọng tạo ra một sự tự kích dục thủ dâm nào đó cho mình nhưng bác sĩ Cần vẫn mất công vô ích. Ông đã hoàn toàn tuyệt vọng cho đến một buổi sớm tháng mười đẹp đến nao lòng của cái năm ấy. Năm bác sĩ Trương Vĩnh Cần tròn 49 tuổi - cũng là năm thứ năm ông bác sĩ bị mắc căn bệnh liệt dương quái quí đáng xấu hổ chua chát như muối sát lòng...
Khi người đàn bà ăn xin kiêm gái điếm đầu đường xó chợ ân cần nói với cô gái mắt xanh mỏ đỏ như vậy thì cô Thúy toét miệng ra cười rồi gật đầu lia lịa: Thế thì chị khênh hộ hai cẳng chân ông bác sĩ đi kẻo ông ấy xỉu quá rồi. Người đàn bà giang hồ cũng toét miệng cười theo. Thị gạt cô Thúy ra. Để mình chị ẵm vào nhà cho. Ông ấy nhẹ như nắm cơm ấy mà. Nói rồi thị bế xốc ông bác sĩ lên nhanh gọn như người mẹ ẵm đứa con. Cô Thúy hú lên cười có vẻ thích thú lắm. Mặt cô gái mới rạng rỡ tươi tắn làm sao. Mọi nghi kị tiêu tan, Trong khi đợi ông bác sĩ tỉnh rượu cô lôi người đàn bà giang hồ ra một góc nhà nhỏ to. Người đàn bà ăn xin che mồm cười có vẻ ngượng rồi nhỏ nhẻ. "Chị kém em một thằng đấy. Nhưng bọn này không phải ba gác xích lô mà là bọn ria mép đen sì."
Cô gái nhí nhảnh:
- Đêm nay chị em mình chơi kiểu ba ông đầu rau chị nhé Nhưng mà chơi như thế thì ông cụ này chắc chết đứ đừ chị ơi má em chửi chết.
Người đàn bà ăn xin phì cười:
- Thế em chưa với ông bác sĩ lần nào à.
- Chưa.
- Thảo nào.
- Thảo nào là thế nào hả chị.
- Là ông ấy bị mít ướt quanh năm rồi.
Cô gái điếm phá lên cười rồi ngồi phệt ngay xuống sàn hai tay đập lia lịa. Ả đàn bà giang hồ cũng ngồi phệt xuống sàn xí xớn cười theo. Căn phòng rộng 3 mét dài 3 mét vuông vức 9 mét vuông của ông bác sĩ Cần rung lên vui vẻ tươi tắn vì điệu cười của hai người đàn bà giang hồ. Hồi lâu cô gái điếm ôm lấy vai người đàn bà ăn xin rồi nói:
- Thế thì đêm nay hai chị em mình thay nhau ấp ông cụ này vậy. Biết đâu đấy mít ướt lại khô cứng lại thành cái vòi ấm đất nung thì sao hả chị ơi.
Hai người đàn bà lại phá lên cười đập chân đập tay thình thịch xuống nền nhà cứ y như đây là nhà của các thị. Đêm hôm đó ả gái điếm và người đàn bà giang hồ ăn xin thay nhau ấp ông bác sĩ Cần như thế nào thì chỉ có ma biết vì đêm đó căn hộ bác sĩ Cần khóa chặt cửa và tắt điện tối om. Chỉ biết rằng đó là một đêm trời chuyển gió dữ dội từ nửa đêm về sáng. Gió giật đùng đùng khiến cả khu nhà tập thể 5 tầng rung chuyển ầm ầm như có giặc. 5 giờ 45 phút sáng đài thể dục vang lên cũng là lúc đất trời đột nhiên lặng gió. Căn phòng của bác sĩ Cẩn mở toang cửa. Bác sĩ Cần nằm thắng cẳng trên sàn nhà hai tay hai chân giang rộng. Một mảnh chăn chiên vắt ngang bụng. Ông bác sĩ đang ngáy o o đầy vẻ ung dung thanh thản. Cô gái mắt xanh mỏ đỏ đã biến đâu mất rồi chỉ còn người đàn bà ăn mày đang ngồi xuýt xoa đun nước. Thị khoác cái áo vét đàn ông cũ rích và đội cái mũ lông ếch ki mô sù sụ trên đầu. Cả hai thứ đồ vật đó đều không phải của thị. Nom người đàn bà giang hồ ban ngày đi ăn xin ban đêm đi làm điếm đầu đương góc phố lúc này giống như một người vợ tần tảo đoan trang đang ngồi đun nước nhẫn nại lặng lẽ đợi người chồng thức dậy súc miệng rửa mặt uống trà.
*
Có một điều không giải thích nổi là khi bị tật nguyền khiếm khuyết một điều gì trên thân thể khiến người ra đau khổ tủi nhục thì ban đêm người ta hay có những giấc mơ ngược lại rất kỳ lạ người mù thì mơ mình đã sáng mắt, người què cụt thì mơ mình đã lành lặn đầy đủ chân tay, người câm điếc thì mơ mình đã nói được huyên thuyên như con sáo. Bác sĩ Trương Vĩnh Cần cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ. Từ khi bị bệnh liệt dương, thỉnh thoang ông vẫn nằm mơ thấy mình đã khỏi bệnh hoàn toàn và đang làm tình với một cô gái rất xinh rất trẻ vẫn tự xưng là vận động viên bóng bàn. Tại sao cô gái lại tự xưng là vận động viên bóng bàn thì bác sĩ Cần cũng không thể nào hiểu nổi. Chỉ biết là đôi khi cô vận động viên bóng bàn đó lại đến ngủ với ông trong giấc mơ. Và chỉ một mình cô gái đó thôi lặp đi lặp lại nhiều lần chứ không phải một người đàn bà nào khác và đấy cũng là điều bác sĩ Cần cũng không sao hiểu nổi. Đă có lần tỉnh dậy nằm nhớ lại những canh làm tình với cô gái trẻ bác sĩ Cần đã tự hỏi phải chăng đây chỉ là một hành vi thu dâm quen thuộc trong giấc ngủ của những kẻ mắc bệnh liệt dương như ông. Cái đêm hôm đó nằm thắng căng trên sàn nhà dang rộng hai chân hai tay ngáy o o giữa hai bầu vú phốp pháp của người đàn bà ăn mày và ả gái điếm mắt xanh mỏ đỏ bác sĩ Cần lại nằm mơ gặp lại cô vận động viên bóng bàn tre trung xinh dẹp. Và cũng giống như mọi lần nằm mơ trước bác sĩ Cần mơ thấy mình mặc áo choàng trắng đeo ống nghe đang ngồi hí hoáy viết trong phòng khám bệnh thì cô gái nhí nhảnh đây cửa bước vào. Cô gái không chịu khai họ tên là gì chỉ mở to đôi mắt trong biếc như nước suối rừng buổi sáng và nhe ra hàm răng đều tăm tắp xinh xắn như đội quân bé xíu màu ngà voi. Cô gái dán vào trán bác sĩ Cần một tờ giấy giới thiệu có ghi rõ cần khám gấp sức khỏe để kịp đi thi đấu bóng bàn ở Trung Quốc vì thế mà ông biết cô là một cầu thủ bóng bàn. Bác sĩ Cần nhún vai sau một thoáng do dự rồi điềm nhiên bắt đầu khám bệnh. Ông bác sĩ làm cái việc đầu tiên là vạch hai mí mắt của cô gái ra. Ông nhìn thấy có hai con cá nhỏ xíu như hai đốm nắng mặt trời đang bơi lội tung tăng đú đởn trong mắt cô. Ông bèn ghi vào sổ y bạ: Mắt rất tốt. Thị lực cả hai mắt 11/10. Rồi ông xoi hai cái tai của cô gái. Hai cái tai bé con thơm tho như hai múi mít và cũng hồng như hai múi mít khiến ông bác sĩ bỗng ứa nước miếng ở tất cả các kẽ răng. Ông lén nuốt nước miếng rồi bình thản ghi tiếp: "Tai bình thường. Nghe tốt". Rồi ông bảo cô gái há mồm ra để ông khám răng khám lưỡi khám họng. Khi cô gái há mồm ra đúng lúc bác sĩ Cần đặt cái cán thìa chẹn lên cái lưỡi hồng hồng ướt át trơn tuồn tuột thì có một luồng hơi ấm áp trong lành sực nức mùi na chín từ trong cái mồm bé bé xinh xinh phả vào giữa mặt ông bác sĩ khiến ông choáng váng như bị ngộ độc. Bác sĩ Cần ngồi đờ ra thẩn thờ tận hưởng cái hương vị mùi na chín ấy rồi ông run run ghi tiếp vào sổ y bạ: "Họng răng lưỡi bình thường". Công việc tiếp theo của ông bác sĩ là khám tim phổi cho cô gái. Lúc này người bác sĩ Cần có một cái gì không bình thường rồi giống như là đã bị nhiễm độc ở giai đoạn đầu. Tuy vậy ông vẫn đủ tỉnh táo khe khẽ nhắc cô gái cởi áo ra. "Cởi tất cả ra ạ?" Cô gái nhí nhảnh hỏi lại rồi chẳng đợi ông bác sĩ trả lời cô lột phăng luôn chiếc áo pun cộc tay xanh da trời trước ngực áo có in một cái vợt mút đỏ sẫm. Cô gái không mặc áo lót cũng chẳng đeo xu-chiêng. Vừa nhìn thấy nửa thân phía trên của cô gái lột trần ra ông bác sĩ bật lên một tiếng kêu rồi tối tăm cả mặt mũi. Có tới một vạn con đom đóm bắn vọt ra từ hai hốc mắt ông lập lòe bay lượn tán loạn. Một vạn con đom đóm đó thoắt biến thành một vạn vì sao lấp lánh. Mỗi vì sao lại có hai chiếc cánh nhỏ xíu mỏng tanh đang vẫy vẫy Một vạn vì sao đó chao lên chao xuống tranh nhau ríu rít như đàn chim sà xuống đậu lại trên hai gò đất được phủ một lớp lông tơ mơn mởn thanh khiết đầy gợi cảm như những sợi ánh sáng buổi chiều. Bác sĩ Cần run rẩy khụy xuống ghế. Mặt ông nóng bửng như bị lửa táp. Nơi tinh mũi còn giữ nguyên cái cảm giác đau đớn như vừa bị xơi một quả đấm trời giáng. Và kỳ lạ thay đúng vào lúc khi chạm cái ống nghe vào hai quả gò đất nâu ấm áp mịn màng phập phồng ấy thì nơi háng ông bác sĩ có cái gì từ từ cương lên tưng tức. Tuy vậy ông bác sĩ vẫn cố thản nhiên di chuyến cái ống nghe qua hai bên bộ ngực trần của cô gái. Nhưng thú thật là lúc này hai tai ông bác sĩ đã ù đặc chẳng còn nghe thấy tiếng thờ của cô gái và cả tiếng tim của cô đập thình thịch. Lúc này không đợi ông bác sĩ nhắc phải khám thêm bộ phận nào nữa cô gái đầy nhẹ cái ống nghe ra lồi xoay nghiêng người từ từ tụt cái váy nhỏ màu vàng xuống. Một chiếc quần mỏng tanh như cánh hoa cũng rơi xuống theo. Tim bác sĩ Cần thắt lại đau nhói như bị nứt ra làm trăm mảnh. Tay ông quờ quạng. Răng ông va lập cập. Và khi cô gái quay ngoắt lại thì ông bác sĩ khụy hắn hai đầu gối xuống và chỉ còn đủ sức há hoác cái mồm ra hai mắt lác xệch. Cô gái vụt biến mất như một áo ảnh vụt tan biến giữa thinh không. Trước mắt bác sĩ Cần hiện ra một giải bình nguyên trắng lóa mịn như nhung từ từ dâng lên bầu trời mênh mông tít tắp không thế dõi được đâu là bến đâu là bờ. Một khu rừng tối om rì rào tiếng nước chảy tiếng đá chuyển mình tiếng thở than của cơn gió bị tù hãm tiếng sôi nho nhỏ của những con rắn chỉ có da và máu giữa nơi biên giới của hai thảo nguyên khu rừng ẩn mình kín đáo mà lộ liêu mỏi mệt mà không chán chường e lệ mà vẫn hăm hờ. Bác sĩ Cần ôm mặt quì xuống sàn nhà. Gian phòng lúc này tràn ngập một thứ mùi vị thần tiên say đắm lạ lùng không thế tìm thấy ngửi thấy ở trên cõi đời này. Quần áo khăn mũ và thậm chí cả cái ống nghe cứ tự động rời khỏi thân thể ông bác sĩ bay lơ lửng trong phòng như có trò phù thủy...
Một trận mưa tầm tã kéo dài suốt ba ngày ba đêm khiến cả thành phố đầm đìa bùn nước và ướt sũng như một cái ổ gà bị vứt xuống ao. Mưa gió miên man đất trời u sầu tĩnh lặng gió bấc yếu dần khiến cho khí trời ấm dần lên. Cũng chính nhờ cái không khí ấm áp thuận hòa đó mà bác sĩ Cần thấy trong người dễ chịu yên ổn hơn. Có một điều hơi lạ là suốt trong ba ngày đêm mưa rả rích tầm tã đó bệnh viện tuyệt nhiên không có một bệnh nhân nào qua đời. Ba ngày đêm liền khu nhà xác vắng như chùa bà đanh vì không được tiếp nhận một cái xác nào.
Sự nhàn rỗi và cái tiết trời dịu dàng khiến bác sĩ Trương Vĩnh Cần cũng bớt dần nỗi dằn vặt tự dày vò căn vặn tâm trí mình. Sau cái đêm được mụ đàn bà giang hồ ăn xin và ả gái điếm mắt xanh mỏ đỏ ấp cho ngủ ngon lành ngáy o o bác sĩ Trương Vĩnh Cần lại đi làm bình thường. Suốt ba ngày mưa tầm tã rả rích lúc nào bác sĩ Cần cũng đi một đôi ủng Trung Quốc đen sì và sùm sụp cái mũ lông ếch-ki-mô dầy sụ trên đâu. Ngay cả lúc ăn, lúc đi đái đi ỉa và cả lúc leo lên giường đi ngủ bác sĩ Cần vẫn không lột cái mũ lông ra. Không phải vì ông ngại ông lười mà ông sợ bị trúng một cơn lành đột ngột có thể lăn quay ra tắc từ tức thì. Ba ngày đi lại trong gió trong mưa nhưng sức khỏe bác sĩ Cần vẫn bình thường. Huyết áp bình thường. Đầu không đau không nhức. Lưng không mỏi và chân không bị tê thấp. Cho đến ngày thứ tư trời quang mây tạnh cây cối đường phố khô ráo dần thì tự dưng bác sĩ Trương Vĩnh Cần muốn đi đi dạo chơi đâu đó. "Đi cho nó bớt căng cái đầu bớt nghĩ vớ vẩn". Bác sĩ Cần tự nhủ như vậy và không định trước đôi chân bác sĩ Cần thong thả đưa ông tới một khu phố tĩnh mịch có trồng hai hàng cây sấu già nua đang xạc xào rụng lá. Bác sĩ Cần đứng lặng trước một ngôi nhà Tây ba tầng lợp ngói có cổng xây cong cong nhai theo kiểu gô-tích cổ xưa. Một bụi hoa Ti-gôn ôm trùm lấy vòm cồng lòa xòa rủ xuống những đốm hoa tím bé liu tiu như lúc nào cũng sẵn sàng gợi lên bao kỷ niệm của thời gian ngày tháng đã phôi phai nếu như chính giữa trên vòm cổng người ta không treo sừng sững một tấm bảng sắt to tướng sơn đỏ kẻ nắn nót một dòng chữ vàng oai vệ: "Trụ sở tổ tuần tra khu phố". Đôi mắt bác sĩ Cần đăm đăm ngắm nhìn cái mái cổng gô tích và hai cánh cửa sắt vững chắc có những đường hoa văn rất cầu kỳ. Hai cánh cửa sắt đã rỉ quẹo đôi chỗ còn long cả dóng sắt, nom như hai hàm răng bị mẻ. Tuy nhiên nếu chăm chú nhìn thì vẫn thấy chính giữa mỗi cánh cổng vẫn còn được gắn hai chữ cái được uốn theo kiểu chữ cổ điển nom rất sang trọng cầu kỳ. Bác sĩ Cần đẩy cánh cổng sắt hoen gỉ kêu ken két rồi thong thả bước vào cái sân rộng thênh thang của ngôi nhà 3 tầng. Một đàn chim sẻ bay vù lên từ những bậc thềm gạch nứt toác phủ đầy rêu xanh loang lồ cạnh cái bang tin quét hắc ín nhòe nhoẹt hàng chứ phấn viết vì mấy ngày mưa tam tã. Bầu trời xỉn như miếng cao gấu và ngôi nhà 3 tầng đóng chặt tất ca các cửa sổ cứa ra vào khiến khung cành bỗng trở nên cô quạnh một cách khó hiểu. Thì ra hôm nay là ngày chủ nhật nên trụ sở tổ tuần tra không làm việc. Bác sĩ Cần chợt nhìn thấy một làn khói đùng đục đang đùn lên từ cột ống khói nhô lên trên mái ban công ở tầng hai. Màn khói đùn ra mỗi lúc một dầy chẳng mấy chốc nó đã phủ trùm lên những bậc cầu thang lộ thiên phủ trùm lên ngôi nhà phủ trùm lên cả mảnh sân vắng vẻ và cả những bức tường gạch nứt nẻ hao gầy. Hình như có ai đó đang ngôi trong ngôi nhà và đang đốt lửa trong lò sưởi. người đó đốt củi, đốt giấy báo vụn hay đang đốt những lốp cao su cũ. Khói xộc vào mũi bác sĩ Cần. Mùi khói khét lẹt hăng hắc ngột ngạt khiến ông bác sĩ chợt nhớ lại hôm nọ ông bị sặc khói trong mảnh sân ướt nhoen nhoét ở ngôi nhà ống số 9 phố Hàng Chuối. Bác sĩ Cần ngồi xuống chiếc ghế xi măng nứt vỡ lòi cả cốt sắt rỉ quẹo. Ông đăm đăm ngắm nhìn cảnh vật hoang vắng tuềnh toàng lạnh lẽo vô duyên của một nơi ở công cộng. Những hòn gạch lát sân nứt vỡ. Từng búi rêu xanh rì cũ kỹ giống như thời gian đang lên men. Bụi muồng muỗng già cỗi lá úa vàng ôm choàng lấy một gốc bàng xù xì cũng già đến nỗi không còn có thể đoán nổi tuổi. Những con chim sẻ vô tư giống nhau như lột đang nhầy nhót trên mái nhà nhô hắn ra cong cong như những ngón tay bị bỏng rộp. Tự dưng lòng bác sĩ Cần xe lại mũi ông cay xè và hai giọt nước mắt bỗng vô cớ ứa ra lăn trên bộ mặt dăn deo ửng đỏ lên vì gió lạnh của ông. Con người ta sinh ra ở đời ai cũng có một mái nhà của tuổi ấu thơ và thường thường mái nhà đó sẽ đeo đẳng che mãi trên đầu con người ta cho đến trọn đời dù đó chỉ là trong tâm tưởng hoài niệm. Buổi sáng hôm nay cái ngôi nhà Tây 3 tầng cũ mèm đang được dùng làm trụ sở tổ tuần tra khu phố đây và hai cánh cổng sắt rỉ quẹo của cái cong xây vòm uốn cong kiểu gô-tích và đàn chim sẻ và những bụi rong rêu xanh rì bỗng nhiên gợi lên trong lòng bác sĩ Cần một nỗi niềm rất khó tả. Cảnh vật xưa cũ tĩnh lặng của một nơi ở vừa lạ mà lại rất quen cứ chầm chậm đưa dắt tâm trí bác sĩ Trương Vĩnh Cần đắm chìm trôi dạt lội ngược về cái dĩ vãng xa xưa của đời ông. Ngôi nhà này gợi cho trí nhớ ông tìm về một ngôi nhà khác cũng có cỏ cây hoa lá rễ cành và những bụi rong rêu quằn quại và tiếng chim sẻ chíu chít quen thuộc như vậy. Cái dĩ vãng của tuổi ấu thơ tưởng như đã bị quên lãng bị vứt vào sọt rác giờ đây lại ngọ nguậy thức dậy len lỏi bò vào tim vào phổi ông bác sĩ khiến ông giống như một kẻ đang từ từ rơi vào chìm vào một thế giới mộng du thực ảo lẫn lộn. Rẽ bên phải là bước qua một ô ăn quan vẽ nghệch ngoặc bằng gạch non có ba ô nhà giàu và sáu ô nhà nghèo. Rẽ bên trái là bước qua núi qua sông qua hồ ba bể đắp bằng cát vàng cát đen cát trắng. Còn đây là cái đồn binh kê bằng dăm cây củi. Bước thêm dăm bước là ra tới biển trùng trùng sóng vỗ muốn bơi qua thì phải cởi áo cởi quần kết làm bè mảng mới bơi qua được. Cái góc sân kia đâu như là cung điện của nàng công chúa cóc vừa là nơi bá quan văn võ bày tiệc cũng là nơi chú học trò Trương Vĩnh Cần đã tinh nghịch tốc váy cô em họ lên rồi vứt nắm cát đen xì vào cái xi líp hoa bé tí không che nổi cái háng mịn màng trắng nõn trắng nà của cô em họ. Dĩ vãng xa xăm tít mù khơi của đời thơ ấu bác sĩ Trương Vĩnh Cần chỉ còn sót lại vẻn vẹn có như vậy mà thôi. Và bác sĩ giật mình mở choàng mắt ra. Những giọt mưa lác đác cuối cùng đã tạnh mặc dù bầu trời vẫn giữ nguyên màu cao gấu và màn khói khét lẹt dày đặc cuồn cuộn bao phủ cái sân cũng đã tan biến từ lúc nào. Một người đàn bà to béo đi bốt đen kéo lê ống cao su từ trong dãy nhà hố xí công cộng ở góc sân đi tới. Người đàn bà điềm nhiên bảo ông:
- Xong rồi đấy. Vào đi. Đừng có bậy be bét lên trên. Đi đúng lỗ vứt giấy vào thùng rồi nhớ phải dội nước trước khi ra. Đầy tràn cả hai bể nước đấy.
Bác sĩ Cần giật bắn người vâng dạ rối rít. Đợi người đàn bà kéo lê cái ống cao su lộp cộp bỏ đi rồi ông bác sĩ mới thở dài ngó quanh rồi đứng dậy len lén tập tễnh lẩn ra ngoài đường.
*
Dòng họ bác sĩ Trương Vĩnh Cần là một dòng họ khỏe mạnh lành lặn về thế chất và cũng còn có một đôi chút chữ nghĩa. Cụ nội bác sĩ Cần đã thi đỗ hương đỗ hội cuối đời làm tới quan huyện quan phủ. Đến đời ông bố bác sĩ thì bỏ Hán học xoay sang học chứ Tây rồi làm thư ký sở hỏa xa. Ông cụ là một viên chức nhút nhát cần mẫn chỉ biết sớm cắp ô đi tối cắp về chăm chỉ làm ăn nuôi một bà vợ và 11 người con có trai có gái trong đó bác sĩ Trương Vĩnh Cần là con thứ tám. Năm 1946 kháng chiến chống Pháp bùng nổ cũng là năm ông Cần đang học năm cuối cùng trường y sĩ Đông Dương. Ông theo gia đình chạy tản cư lên mạn Vĩnh Yên Phú Thọ rồi xin vào bộ đội làm quân y sĩ. Năm 1948 mẹ ông bị lao nên bố ông đành đem cả nhà hồi cư về Hà Nội rồi 2 năm sau đó cả nhà ông di tản sang Angiêri thuộc Pháp. Năm 1953 anh quân y sĩ Trương Vĩnh Cần được đi học một lớp bổ túc bác sĩ 6 tháng. Cũng năm đó ông cưới bà Phạm Thị Ngót là cán bộ cốt cán của một lớp chỉnh huấn chính trị. Bà Ngót là thành phần cố nông. Cuộc tình duyên của ông Cần bà Ngót sẽ bàn đến sau. Chỉ biết hai người ở với nhau được gần hai chục năm đến khi ông Cần bị kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng bị cách chức trưởng phòng khám và bị đuổi ra khỏi biên chế nhà nước rồi sau đó lại được tổ chức chiếu cố gọi cho đi làm hợp đồng trông coi nhà xác thì bà Ngót ly dị với ông Cần. Hai ông bà chia tay nhau cũng nhẹ nhàng vì không có con cái gì.
Cuộc tình duyên của anh cựu sinh viên trường y khoa Đông Dương và chị cán bộ cốt cán Phạm Thị Ngót là một cuộc tình duyên rất mãn nguyện. Mãn nguyện vì cả hai đều rất tự nguyện yêu nhau và tự nguyện đi tới hôn nhân. Ông Cần gặp bà Ngót trong một dịp chỉnh huấn tư tưởng tại trường bổ túc bác sĩ tại Việt Bắc. Ngay ngày đầu tiên gặp nhau họ đã để ý tới nhau để rồi mỗi ngày một say đắm hơn nể phục nhau hơn và chỉ bốn tháng sau đã đi đến một lễ cưới đời sống mới làm tưng bừng cả cái thôn nhỏ đang được chọn làm địa điểm thí điểm cho một khóa chỉnh huấn tư tưởng chính trị kiểu mẫu.
Cho mãi nhiều năm sau kể cả khi đã ly dị với bà Ngót rồi bác sĩ Cần vẫn băn khoăn không giải thích nổi vì sao ông lại tự nguyện mê đắm bà Ngót. Vì nhan sắc ư? Không phải rồi vì bà Ngót già hơn ông hai tuổi da đen răng vẩu hai vai vuông vức như vai một gã lực điền ấy là chưa kể bà có tật nói ngọng nhầm âm l với âm n và không thể nào nói được âm tr... Có một điều cuộc tình duyên này không hề bồng bột. Nó rất tự nguyện rất giác ngộ. Chính vì vậy gia đình ông Cần bà Ngót được tổ chức rất vững chắc từ năm này sang năm khác. Nó vừa là sự cảm hóa lẫn nhau vừa là sự tự nguyện cải tạo bản thân mình để cả vợ cả chồng cùng dắt tay nhau tiến lên trong cuộc đời. Nói như vậy không có nghĩa là hơn chục năm sống với nhau ông Cần bà Ngót không gặp phải những cái trục trặc khập khiễng khó xử. Có đấy, nhưng đó chỉ là những lục đục nho nhỏ về sinh hoạt ăn ở. Thí dụ bà Ngót có thói quen hay múc canh lên húp một nửa muôi còn thừa nửa muôi lại đổ luôn vào bát canh. Hoặc bà không thích rửa chân mà chỉ thích đập đập hai gan bàn chân vào nhau trước khi leo lên giường đệm mút để ngủ. Hoặc là nếu muốn soi mói kể thêm nữa thì bà Ngót còn có cái tật rất hay quên đánh răng. Và đến năm 40 tuổi thì bà nhất quyết bỏ luôn cái động tác đánh răng vào buổi sáng thay vào đó chỉ xúc miệng xòng xọc vài cái rồi nhổ toẹt ra thềm coi như là xong.
Tuy vậy đó chỉ là những trục trặc nho nhỏ vụn vặt. Nhìn toàn cục phải thừa nhận gia đình ông Cần bà Ngót là một gia đình mẫu mực. Nếu như họ có với nhau một hoặc hai đứa con thì đúng là một mẫu gia đình lý tưởng. Vì sao họ lại không có con. Tại ông hay tại bà. Đây là một bí mật mà cả ông Cần và bà Ngót không bao giờ chịu tiết lộ ra và không ai đổ vấy cho ai cả. Căn bệnh liệt dương mà bác sĩ Trương Vĩnh Cần mắc phải năm ông bước sang tuổi 45 không phải là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ của gia đình. Trong buổi tối nói chuyện tay đôi cuối cùng trước khi đưa nhau ra tòa bà Phạm Thị Ngót đã nói: Tôi chấp nhận chung sống với một người chồng đã bị bất lực vì sinh lý nhưng tôi không thể cùng chung sống với một người chồng bất lực về ý chí và hủ bại về đạo đức. Bác sĩ Trương Vĩnh Cần vốn là một người nhã nhặn ít nói. Ông rất ngại cái nhau to tiếng và sợ sự thô lỗ. Có lẽ luôn luôn ý thức được rằng mình là thành phần tiểu tư sản xuất thân trong một gia đình công chức dinh tê chạy sang nước ngoài theo địch nên ông Cần rất sợ cơ quan tổ chức. Cũng vì rất sợ cơ quan tổ chức nên ông Cần cũng rất sợ bị mắc sai lầm khuyết điểm. Từ khi tự nguyện xung phong vào bộ đội trở thành bác sĩ rồi được vào Đảng bác sĩ Cần sống rất cẩn trọng ý tứ giữ gìn. Hầu như không bao giờ ông mắc sai lầm khuyết điểm. Có thể nói cả đời ông chỉ duy nhất có một lần sa ngã phạm sai lầm. Nhưng oái ăm thay lần sa ngã sai lầm duy nhất đó đã tiêu hủy toàn bộ sự nghiệp của ông xô cuộc đời ông rơi xuống đáy sâu nhất của sự khốn cùng tủi nhục.
*
Người có công phát giác ra tội lỗi xấu xa nhơ bẩn của bác sĩ Trương Vĩnh Cần là một y sĩ gây mê hồi sức không làm việc ở phòng mổ mà lại làm việc ở phòng tổ chức của bệnh viện. Tên ông ta là Nguyễn Văn Sự. Y sĩ Sự quê ở một tỉnh đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Trời đất sinh ra y sĩ Sự gần như là để đối nghịch với bác sĩ Cần. Da ông Cần trắng trẻo thì da ông Sự đen nhẻm. Ngón tay ông Cần dài thon thì ngón tay ông Sự vuông vức và ngắn ngun ngún. Bác sĩ Cần đi đứng chậm chạp thì ông Sự đi lại thoăn thoắt. Bác sĩ Cần thích ngồi lỳ ở bàn giấy thì ông Sự suốt ngày không ngồi yên một chỗ được quá năm phút. Bác sĩ Cần có thói quen khi xỉa răng thì che mồm còn y sĩ Sự khi xỉa răng thì thường nhe cả hai hàm răng to tướng ra búng tăm tanh tách nghe rất vui tai. Một người làm việc ở phòng khám còn một người làm việc ở phòng tổ chức. Bác sĩ Cần và y sĩ Sự chỉ quen nhau ngoài mấy câu chào hỏi xã giao. Duy nhất chỉ có một lần trong đại hội công nhân viên chức y sĩ Sự đến bắt tay bác sĩ Cần vui vẻ: "Nghe tin chị Ngót trúng vào thành ủy viên khóa này xin thành thật chúc mừng anh chị. Cũng xin khoe với anh là tôi với chị Ngót là đồng hương đấy. Đồng hương rất gần cùng tổng khác xã mà thôi". Cũng cần phải nói rằng ông Cần và ông Sự chẳng có chuyện gì xích mích kèn cựa thù hằn lẫn nhau. Cái công việc phát giác ra tội lỗi xấu xa nhơ bẩn của bác sĩ Cần cũng chỉ là một tình cờ của y sĩ Sự. Khi lập biên bản hồ sơ kỷ luật bác sĩ Cần ông y sĩ Sự đã viết rất rõ ràng là ông chỉ tình cờ đi ngang qua phòng khám bệnh mà thôi. Vâng ông chỉ tình cờ đi ngang qua vào đúng buổi sáng một ngày tháng 10 trời đẹp trời ấy... Đã thành một thói quen cứ hai ngày một lần y sĩ Sự lại thu xếp công việc làm một tua thị sát từ phòng tổ chức đi khắp các khoa của bệnh viện. Đi tua hay nói cách khác là đi kiểm tra đôn đốc nhắc nhở tác phong đi đứng ăn mặc nói cười của anh chị em nhân viên y tá, hộ lý trong bệnh viện cũng là đi chào hỏi trò chuyện lắng nghe tâm sự nguyện vọng của các giáo sư bác sĩ các cán bộ thủ trưởng thủ phó các phòng ban. Đấy là trách nhiệm của người làm công tác tổ chức. Y sĩ Sự vẫn luôn vui vẻ nói như vậy. Trong những lần đi tua đó được lẳng lặng ghé mắt nhòm qua các khe cửa khép hờ hờ là một việc đầy hào hứng của y sĩ Sự. Vâng, đúng vào một buổi sáng ngày tháng 10 trời đẹp đến nao lòng đó ý sĩ Sự tình cờ đi ngang qua phòng khám bệnh của bệnh viện. Đáng lí ra thì y sĩ Sự không dừng lại nhưng bỗng nhiên ông ngửi thấy mùi rượu thơm rất lạ lùng đang từ từ phun ra từ khe cửa khép hố hờ. Cho đến mãi sau này y sĩ Sự vẫn không thể quên được cái mùi rượu đó. Nó nồng nàn ngầy ngậy ấm nóng mà lại thấm đượm hương vị không thể tả được của những loài thảo mộc bí ẩn nào đó chỉ có thể hái được trong các câu chuyện cổ tích từ những vùng rừng núi âm u hoang dại chưa bao giờ in vết chân người. Ngửi cái mùi rượu lạ hoắc bí ẩn đầy quyến rũ đó đang bay ra từ cánh cửa lại chỉ khép hờ hờ tự dưng y sĩ Sự thấy nước dãi ứa ra từ tất cả. các kẽ chân răng. Thế là ông y sĩ rón rén tiến lại ghé mắt nhòm vào. Nhưng cũng đúng lúc ấy cánh cửa bỗng đóng xập ngay lại trước mũi y sĩ Sự khiến ông y sĩ cụt hứng tức thì. Sau một nụ cười nửa miệng ra điều ta không thèm để ý tới ông y sĩ lững thững bỏ đi.
Hai hôm sau đúng vào lúc ông y sĩ đi một tua qua các phòng các ban để kiểm tra khi đi ngang qua phòng khám y sĩ Sự lại bất chợt ngủi thấy mùi rượu kỳ lạ bí ẩn quyến rũ đó. Và lần này ông còn nghe có cả tiếng cười khúc khích tiếng rên rỉ sung sướng thỏa mãn của một cô gái hình như còn non choẹt. Không thể cưỡng lại nổi ông y sĩ lại rón rén tới gần cửa ghé mắt nhòm vào qua lỗ khóa. Trong phòng trống trơn chỉ có chiếc bàn làm việc của bác sĩ Cần kê cạnh một chiếc tủ đựng hồ sơ cao độ hai mét. Và lạ thay lúc này mùi rượu kỳ dị đó cũng biến mất và tiếng cười khúc khích tiếng rên rỉ của cô gái trẻ cũng chẳng còn. Ông y sĩ Sự lắc đầu ngạc nhiên rồi lại lững thững bỏ đi. Nhưng rồi hai hôm tiếp sau cũng đúng vào cái ngày đi tua thông lệ khi đi ngang qua phòng khám của bác sĩ Cần thì ông y sĩ lại ngửi thấy mùi rượu kỳ lạ đó và lại nghe tiếng một cô gái trẻ đang cười đùa rên rỉ. Nhưng khi ghé mắt nhòm qua lỗ khóa thì ông y sĩ chẳng nhìn thấy có ai ngoài cái bàn và cái tủ câm lặng vô hồn và tất nhiên cái mùi rượu và tiếng cô gái trẻ cũng chẳng còn. Thế này là thế nào nhỉ. Trong phòng có ma à? Ông y sĩ là người vô thần không bao giờ mê tín nên ông hết sức băn khoăn và có phần còn hơi tức tối khi ông chẳng thế giải thích nổi tại sao lại có chuyện kỳ quái như vậy. Tuy nhiên từ sau hôm đó y sĩ Sự bắt đầu để mắt tới phòng khám của bác sĩ Cần giống như ông hay để mắt tới khoa nhi nơi có mấy cô hộ lý trực buổi trưa vẫn thường có tật xấu uống bớt sữa bột của tre con. Và trong một số báo cáo thường kỳ gửi lên ban giám đốc bệnh viện y sĩ Sự đã kể lại không thiếu một điều gì từ mùi rượu thơm khá nghi và tiếng cười đùa rên rỉ của cô gái trẻ ở trong phòng của bác sĩ Cần. Và ông y sĩ Sự kết luận: Có khả năng có hiện tượng hủ hóa thường xuyên trong phòng khám của bác sĩ Cần. Nhưng ai hủ hóa với ai thì chưa biết được vì chưa tóm được quả tang trai trên gái dưới. Cuối bản báo cáo sau phần kết luận ông y sĩ Sự hứa sẽ cố gắng điều tra vụ này đưa ra ánh sáng. Ông y sĩ Sự tin là ông sẽ tóm được thủ phạm của hiện tượng hủ hóa này vì hiện giờ ông đã có nghi vấn cho một người rồi. Nhưng người đó là ai thì ông y sĩ xin phép chưa nói ra mà ông sẽ để dành cho sự thật cung khai tên kẻ đó. Người bị ông y sĩ nghi ngờ đó chính là bác sĩ Trương Vĩnh Cần. Lý do thật đơn giản vì căn phòng này là nơi làm việc khám bệnh của bác sĩ Cần và cũng là nơi ông bác sĩ vẫn ngủ trưa tại đó. Để củng cố mối nghi ngờ này của mình ông y sĩ bèn tới tận nhà riêng của bác sĩ Cần gặp bà Ngót và tâm sự hết với bà. Khi nghe ông y sĩ Sự bày tỏ tinh thần trách nhiệm theo như ông nói để bảo vệ cán bộ của bệnh viện bà Ngót bỗng phá lên cười vui vẻ. Rồi chẳng giấu giếm gì bà Ngót mời ông Sự uống nước chè Hồng đào rồi nói toạc ra là chồng bà tức bác sĩ Cần đã bị liệt dương từ mấy năm nay khiến ông không còn khả năng chung đụng với phụ nữ nữa thì làm sao có thể hủ hóa được. Cỗ dọn đến tận miệng cũng đành chịu thôi. Để chứng minh cho ông y sĩ Sự tin hơn bà Ngót bèn lôi trong tủ ra quyển y bạ sức khỏe của bác sĩ Cần và cả một tập dầy hóa đơn mua thuốc tăng lực tráng dương bổ thận cúng cố chức năng bộ máy sinh dục nam giới mà bác sĩ Cần đã chăm chỉ tích cực tiêm uống xoa bóp ròng rã trong mấy năm nay. Khi thấy ông ý sĩ còn bán tín bán nghi bà Ngót cười bảo:
- Anh không tin vào giấy tờ chứ gì.
- Tin một nửa thôi ạ. Thế chị còn có một nhân chứng nào nữa ngoài cuốn sổ y bạ và tập hóa đơn mua thuốc này.
- Có chứ. Còn một nhân chứng cụ thể nữa chính tôi đây này. Nói đến đây bà Ngót hạ giọng che miệng tủm tỉm.
- Thú thực với chú - Bà Ngót thân mật, đồi xưng hô thản nhiên gọi y sĩ Sự là chú - Thú thực với chú bao nhiêu năm nay rồi anh Cần giống như con gà sống thiến ấy mà. Tôi là vợ nên tôi hiểu anh ấy hơn ai hết. Tuy không chung đụng vợ chồng sống ly thân nhưng anh ấy làm việc gì đi đâu quan hệ chơi bời với những ai ai nhất cử nhất động của anh Cần cũng không qua được mắt tôi. Chú lo lắng có trách nhiệm quan tâm tới anh Cần như thế tôi rất cám ơn chú. Về phần tôi thì tôi cũng rất có trách nhiệm luôn luôn có trách nhiệm với anh Cần. Trách nhiệm của tôi còn nặng gấp đôi gấp ba trách nhiệm của chú ấy chứ. Tôi phải bảo vệ hạnh phúc thanh danh của gia đình chúng tôi chứ. Bởi vì tôi là vợ của anh Cần nhưng đồng thời cũng là người giới thiệu anh ấy vào Đang. Tôi nói thế chắc là chú tin tôi rồi có phải không? ông y sĩ Sự vâng dạ liên tục. Rồi ông lễ phép cúi chào bà Ngót xin phép ra về sau khi đã có lời xin lỗi là dám đường đột đến làm phiền bà và ông Sự cũng không quên nói thêm là mong bà Ngót thông cảm cho vì ông phải có trách nhiệm bảo vệ ông Cần. "Sau buổi hôm nay được đến trực tiếp báo cáo với chị và cũng được nghe chị trực tiếp cho biết ý kiến thì tôi rất yên tâm rất tin tưởng rồi ạ". Ông Sự chân thành liến láu nói như vậy. Nhưng đấy là ông Sự nói ra đằng mồm còn trong thâm tâm thì ông y sĩ chẳng yên tâm chẳng tin tưởng gì cả. Làm cán bộ tổ chức không thể cả tin tình cảm nhẹ dạ đơn giản như vậy. Cần phải nhẫn nại và có phương pháp đúng thì mới tiếp cận được sự thật. Ông y sĩ Sự tự nhủ như thế.
Lại nói về bà Ngót sau khi tiễn anh y sĩ cán bộ tổ chức cửa bệnh viện về rồi bà Ngót bèn khóa trái cổng ra vào lại rồi lên phòng khách ngồi suy nghĩ. Ban nãy bà ung dung xởi lởi tươi cười bao nhiêu thì bây giờ bà lại nhăn nhó ưu tư và băn khoăn bấy nhiêu. Bà tự hỏi: Cái thằng Sự nó bày đặt ra cái trò này là định có dụng ý gì. Nó định lật đổ ông Cần à? Nhưng nó lật đổ ông Cần để làm gì. Ông Cần là cái thứ gì mà nó cần lật đổ. Hay là nó định "đấu đá" bà. Mượn chồng đánh vợ. Nhưng mà thằng Sự là cái thá gì dám dại dột chống bà. Một anh cán bộ tổ chức quèn ở bệnh viện tỉnh có mà phát rồ tự dưng lại trườn mắt ra công khai và ngang nhiên đấu đá với một cán bộ tỉnh ủy viên. Hay là có ai đang nấp sau thằng cha y sĩ dở người này. Bà Ngót thầm điểm lại tất cả các bạn bè và kẻ thù của bà ở cái tỉnh này. Không có một ai khả dĩ có thể nêu tên để bà nghi vấn. Va lại, theo kinh nghiệm của bà thì mọi sóng to gió cả chỉ nổi lên trước kỳ đại hội Đảng bộ mà thôi. Vậy thì tại sao bỗng dưng lại có chuyện khó nghe như thế này. Bất chợt bà Ngót nhớ tới một câu nói nổi tiếng: Không có lửa làm sao có khói. Vậy thì cái gọi là lửa ấy ở trong chuyện này là gì. Đặt vấn dề như vậy bà trả lời ngay tắp tự: Lửa ở đây là gái chứ còn gì nữa. Nhưng rồi bà Ngót lại băn khoăn tự hỏi: Vô lý. Chồng bà bị liệt dương cơ mà. Đã hỏng bộ phận sinh dục thì lấy cái gì mà hủ với hóa. Hay là ông Cần đang đổ đốn ra phải lòng mê con nào rồi. Mê gái ư? ông Cần đang mê gái ư? Không thể có chuyện đó. Hàng tháng ông Cần vẫn đưa tiền lương cho bà không thiếu một xu. Hàng ngày ông đi đâu làm gì quan hệ với ai bà đều biết rất rõ. Đối với bà ông vẫn chu đáo kính trọng lịch sự. Tình cảm của ông đối với bà tuyệt nhiên không có biểu hiện gì khác. Vậy thì tại sao thằng Sự lại đem khói đến nhà bà? Lạ thật. Khó hiểu quá. Bà Ngót cứ đi đi lại lại trong phòng quần quanh với mối nghi ngờ ấy. Đầu óc bà cứ rối bung lên. Bỗng nhiên bà đứng sững lại ngã bổ người ra: Thôi chết rồi, bà nhớ ra rồi. Các cụ ngày xưa vẫn bảo đàn ông đứng tuổi mà bị liệt dương thì lại hay tò mò háo hức thích nghịch gái tơ cứ y như là mấy thằng ranh con mới lớn. Kẻ nào càng liệt nặng cái bộ phận ấy thì càng dâm càng háu gái. Thế thì đúng rồi. Nhất định ông Cần đang bị mắc vào vướng vào một con bé bệnh nhân trẻ ranh nào đó. Vậy là thằng Sự nó tinh quái nhưng nó là đứa thành tâm muốn giúp bà nên nó mới đến đây thả khói ra. Thế là rõ cả rồi. Chiều tối hôm đó vừa ở bệnh viện về chưa kịp ăn cơm bác sĩ Cần đã được bà Ngót mời lên phòng khách để nói chuyện. Đối với bác sĩ Cần thì bà Ngót không chỉ là vợ mà còn là cấp trên của ông. Lương bà gấp rưỡi lương ông. Bìa của bà là bìa B loại bìa đặc biệt của cán bộ cao cấp. Bìa của bác sĩ Cần là loại bìa E - loại bìa của mấy anh cán sự quèn. Tất cả những sự thua kém hiển nhiên đó cộng với bản tính luôn mặc cảm về thành phần giai cấp trung gian của mình cho nên bác sĩ Cần rất sợ bà cứ y như là một anh cán bộ cấp dưới sợ một cán bộ cấp trên trực tiếp của mình. Nói hơi ngoa chứ một con chuột nem nép như thế nào khi bò trước một con rắn thì mỗi khi được bà Ngót nhẹ nhàng mời lên để vợ chồng nói chuyện ông bác sĩ Cần cũng giống hệt như vậy Tất nhiên là ngay trong buổi tối hôm đó bác sĩ Trương Vĩnh Cần đã thành khẩn thú nhận với bà Ngót là đã bốn tháng nay rồi ông mắc phải chuyện dan díu với một cô bệnh nhân tim mạch tên là Ma Thị Thảo. Ông buồn rầu và thật thà nói đi nói lại đây chỉ là một triệu chứng bệnh lý của bệnh liệt dương chứ không phải là vấn để tình cảm tình yêu. Vốn rất hiểu chồng tin chồng nên bà Ngót ngồi nghe bình tĩnh và độ lượng. Bà hỏi:
- Tại sao cô ấy là họ Ma?
- Vì là người Tày.
- Cán bộ sở nào ty nào?
- Không phài cán bộ. Cô Ma Thị Thảo là học sinh sơ cấp trường văn hóa nghệ thuật của tỉnh.
- Bao nhiêu tuổi?
- Mười sáu tuổi.
Nghe ông Cần nói vậy bà Ngót ngồi lặng đi không hỏi thêm một câu nào nữa. Đêm hôm đó khi hai người lên giường đắp chung chăn bà Ngót bèn nhẹ nhàng kể lại những điều ông y sĩ Sự đã báo cáo với bà rồi bà hỏi chồng: thằng cha Sự nó có nói láo không. Nghe vợ hỏi vậy bác sĩ Cần ngượng nghịu lắc đầu: không nói láo đâu. Cô Ma Thị Thảo có một nậm rượu bằng vỏ quả bầu khô.
Cái mùi thơm kỳ quặc đó là mùi rượu trong cái nậm rượu qua bầu khô đó. Tôi không uống rượu mà cô Ma Thị Thảo uống rượu. Còn tiếng cười khúc khích ở đâu à. ở trong cái tủ đựng tài liệu. Cũng vì sợ người ta nhìn thấy nên cô Thảo rủ tôi chui vào tủ cho kín đáo.
Bà Ngót điềm tĩnh bảo chồng:
- Tính ông như thế thì đến già vẫn dại dột thôi. Chuyện đã trót lỡ rồi không nên nói tới nữa. Tôi không oán trách ông đâu. Nhưng mà từ nay ông phải chấm dứt. Phải dùng nghị lực lý trí để chấm dứt ngay nếu như ông còn nê tôi còn quí tôi và còn trân trọng cái gia đình này. Ông phải hứa với tôi như vậy. Tất nhiên là bác sĩ Cần đã rất cảm động hứa với bà Ngót.
Đêm đó bác sĩ Cần ngủ yên giấc nhưng bà Ngót thì không sao chợp mắt được. Cái chuyện hủ hóa này mà vỡ lở ra thì hậu quả của nó nghiêm trọng nguy hiểm không thể nào lường nổi vì cô Ma Thị Thảo vừa là người dân tộc lại đang tuổi vị thành niên. Như vậy chồng bà sẽ không chỉ phạm tội hủ bại đạo đức mà còn vi phạm pháp luật về hôn nhân và chính sách dân tộc. Chồng bà sẽ bị khai trử Đảng bị đuổi việc và còn có khả năng bị truy tố trước pháp luật. Nếu ông Cần bị như vậy thì chắc chắn bà sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bao công sức phấn đấu của bà bấy lâu nay có khi đổ ra sông ra bể cả. Vậy thì bằng mọi cách là phải chuyển ông Cần đi khỏi bệnh viện càng nhanh càng tốt trước khi chuyện hủ bại này vỡ lở.
Bà Ngót thầm nghĩ như vậy và vạch sẵn một kế hoạch gấp rút chuyển công tác cho bác sĩ Cần. Việc này trong tầm tay của bà vì ông trưởng ban tổ chức chính quyền thành phố là bạn thân cửa bà lại cùng khóa thành ủy viên lần này. Nhưng bà Ngót đã không thể ngờ ông y sĩ Sự còn hành động mau lẹ hơn bà.
*
Một tuần sau cái buổi tối bác sĩ Trương Vĩnh Cần thành tâm thú tội khai ra chuyện dan díu với cô Ma Thị Thảo bà Ngót thu xếp công việc rồi đưa chồng ra biển nghỉ mát. Bấy giờ đã cuối thu trời đất đã chớm lạnh cái bãi biển hai vợ chồng bà ra nghỉ vắng vẻ như hoang mạc. Hai vợ chồng bà ở một phòng sang trọng trong khu nhà nghỉ mát đặc biệt. Cũng đã lâu rồi bà Ngót không đưa bác sĩ Cần cùng đi nghỉ mát. Lần đi nghỉ này hai vợ chồng bà lại có dịp bàn bạc tính toán công việc sắp tới của bác sĩ Cần. Bà Ngót gợi ý rằng trước mắt bác sĩ Cần nên xin chuyển về công tác tại phòng y tế một huyện gần biển thuộc tỉnh. Cứ thế đã rồi tính sau. Trước mắt là để tránh xa cô bé Ma Thị Thảo và y sĩ Nguyễn Văn Sự. Nghe vợ nói như vậy bác sĩ Cần đã khóc vì ân hận và cũng vì biết ơn bà Ngót. Ông cầm tay bàn Ngót rưng rưng nói: Tôi xin cám ơn mình. Lại một lần nữa mình đã cứu sống sinh mạng chính trị của tôi đã mang lại hạnh phúc và sự bình yên cho cuộc đời tôi. Hết tuần nghỉ mát sống cuộc đời bao cấp vương giả đầy những đặc ân ở bãi biển. Trở về nhà bà Ngót đến tìm ngay ông bạn Trưởng ban Tổ chức chính quyền thành phố để lo chuyển công tác cho bác sĩ Cần. Tất nhiên là bà Ngót đưa ra một lý do khác tế nhị kín kẽ và rất hợp lý. Nhưng hỡi ôi mọi thủ tục đang được tiến hành thuận lợi thì đùng một cái giống như một trái bom tấn nổ tung ngay giữa bệnh viện đa khoa của tỉnh. Bác sĩ Trương Vĩnh Cần đã bị bắt qua tang đang hủ hóa với cô bé Ma Thị Thảo ngay tại trong phòng làm việc của mình. Bị bắt quả tang khi cả hai không còn một mảnh quần áo trên người đang lúc trai trên gái dưới như đã ghi rõ trong biên bản. Cũng cần nói thêm là kẻ đã bố trí bắt quả tang vụ hủ hóa nối tiếng này không phải ai khác chính là ông y sĩ Nguyễn Văn Sự.
Vốn dĩ bản chất đã là một người nhút nhát mềm yếu nên sau cú "đánh úp" trời giáng của ông y sĩ Sự thì bác sĩ Cần hoàn toàn suy sụp. Sau khi bị bảo vệ ập vào phòng lôi thốc cả hai còn đang trần truồng ra khỏi tủ. Và lại cứ bị để trần truồng như thế cả hai trong suốt hơn một giờ đồng hồ để lập biên bản dưới hàng trăm đôi mắt nhạo báng khinh bỉ thương hại của y tá bác sĩ hộ lý trong bệnh viện. Bác sĩ Trương Vĩnh Cần đã rơi vào một trạng thái lú lẫn nửa điên nửa tỉnh. Những ngày tiếp sau đó chân tay ông giật liên hồi như động kinh. Mồm hơi méo đi và nước mắt cứ tuôn ra lã chã. Và hễ cứ mở miệng ra nói là ông lại lắp ba lắp bắp như người bị rụt lưỡi. Có lẽ cũng vì thể trạng như thế nên bác sĩ Cần không bị truy tố trước pháp luật. Ông chỉ bị khai trừ ra khỏi Đảng bị cách chức đuổi ra ngoài biên chế. án kỷ luật bác sĩ Trương Vĩnh Cần được công bố công khai trong tất cả các cơ quan ty sở các ngành trực thuộc tỉnh hoặc nằm trong địa bàn của tỉnh. Có lẽ đây là một cái án kỷ luật tội hủ hóa điển hình nhất gây nhiều sự căm phẫn khinh bỉ nhất từ trước đến nay. Sinh mạng chính trị của bác sĩ Trương Vĩnh Cần hoàn toàn bị vất vào sọt rác. Nhất là sau khi ly dị với bà Ngót bác sĩ Cần không thể ngẩng đầu lên mà đi lại được nữa. Ông đã cạn đường sống. Nhưng rồi không hẳn như thế, ông được gọi trở lại làm việc ở nhà xác của bệnh viện. Liệu bác sĩ Trương Vĩnh Cần còn có thể làm việc ở đâu thích hợp hơn yên ổn hơn khi bản thân ông đã là một cái xác thối rữa về chính trị đạo đức và nghề nghiệp.
Sau một tuần khô ráo quạnh quẽ thì lại bắt đầu một chuỗi ngày liên miên mưa phùn gió bấc. Gió bấc thổi về trời lại trở lạnh. Khí trời ẩm ướt và lúc nào cũng âm âm u u nặng nề cuộn đầy hơi nước khiến cho bệnh lao xương bệnh phong thấp và các bệnh đường hô hấp được thể tha hồ hoành hành. Tâm trí và tình cảm của con người trong những ngày này cũng trở nên u sầu buồn bã nghi hoặc chán chường tuyệt vọng. Bác sĩ Trương Vĩnh Cần vẫn đi làm bình thường. Những ý nghĩ quẩn quanh không thể giải thích nổi về bệnh tâm thần phân lập về luồng khí màu da cam hiện ra quấn quanh đầu các xác chết tưởng đã bị lãng quên thì nay lại hiện về ám ảnh giày vò bác sĩ Cần khiến ông lúc nào cũng ngơ ngơ ngác ngác như người mất hồn. Cũng vào những ngày này nhà xác tiếp tục nhận xác một bệnh nhân là một nhà thơ nổi tiếng bị đột tử vì uống quá nhiều rượu rắn đến nỗi vỡ bung cả dạ dầy gan ruột. Xác chết được chuyển từ hội trường trụ sở hội văn nghệ tỉnh tới nhà xác lúc 11 giờ đêm rồi đưa luôn vào tủ lạnh. 9 giờ sáng hôm sau bác sĩ Trương Vĩnh Cần và gã hộ lý lực lưỡng dở người mở tủ lạnh nhấc cái xác ông nhà thơ nổi tiếng ra đặt lên tấm phản gỗ để khâm liệm. Cũng đúng lúc đó cái lúc mà gã hộ lý lực lưỡng dở người vừa nâng đầu ông nhà thơ lên để luồn tấm vải trắng xuống dưới gáy ông ta thì đột nhiên bác sĩ Trương Vĩnh Cần lại nhìn thấy luồng khí màu da cam đặc quánh hiện ra sôi réo cuộn tròn quanh đầu người chết. Bác sĩ Cần không ngạc nhiên cũng không hốt hoảng. Ông đứng im nhìn chăm chăm luồng khí rồi bình tĩnh quay lại hỏi gã hộ lý.
- Nhìn rõ chứ?
Gã hộ lý dừng tay thán nhiên hỏi lại.
- Nhìn rõ cái gì ạ?
Bác sĩ Cần trỏ luồng khí
- Đấy thôi. Sờ sờ trước mắt kia kìa. Đặc quánh. Đặc như khói. Màu da cam nhé.
Gã hộ lý phì cười.
- Ông bác cứ khôi hài em.
Bác sĩ Cần nghiêm nghị
- Tôi không nhả. Nó đấy.
- Cái gì cơ ạ.
- Đây này. Chính nó. Đích thị là nó.
Bác sĩ Cần đẩy mạnh vào luồng khí. Tay ông tát vào mặt người chết. Gã hộ lý lùi nay lại trố mắt nhìn ông bác sĩ.
- Ơ kìa... Ông bác.
Bác sĩ Cần trợn mắt:
- Nó là ma thì cũng phải và vỡ mặt nó ra.
- Nhưng em chẳng nhìn thấy cái gì cả.
- Vô lý. Đấy. Nó đang cuộn sôi réo lên đấy.
- Ông bác hoa mắt à.
- Láo.
Bác sĩ Cần quát lên rồi chồm tới vồ lấy luồng khí màu da cam. Gã hộ lý há hốc mồm
Mắt gã lồi lên. Hai tay gã run bắn. Rồi từ từ rất từ từ gã lùi dần lùi dần ra cửa. Cặp mắt gã lúc này chỉ còn toàn lòng trắng.
*
Ngay buổi trưa hôm đó bác sĩ Cần bỏ về nhà. Ông không ăn uống gì mà ngồi trùm chăn trên giường miên man suy ngẫm. Cái luồng khí dặc quánh màu da cam ấy là có thật. Ông không hoa mắt không mê muội. Ông đã sờ vào nó và nó đã liếm vào tay ông. Nó hiện hữu. ấy vậy mà tại sao gã hộ lý lại không nhìn thấy nó không nhận biết nó. Chẳng nhẽ chỉ có một mình ông là có thể nhìn thấy luồng khí màu da cam đó ư. Mà tại sao lại chí có một mình ông là có thể nhìn thấy nó nhận biết được nó giao lưu được với nó. Luồng khí màu da cam này là cái gì. Nó là linh hồn người chết. Vậy là trên cõi thế gian này có thực linh hồn con người. Và khi người ta chết đi thì nó thoát ra ngoài cái thể xác đó. Nó tồn tại quấn quít xung quanh đầu cái xác người. Ngày xưa các cụ vẫn nói khi con người chết ba ngày, hồn vật vờ quẩn quanh xác người. Bay ngày thì hồn bay lên trời và bốn chín ngày sau thì hồn đầu thai vào kiếp khác. Nhưng đấy là chuyện ngày xưa và bác sĩ Cần thực tâm không tin vào những chuyện như thế. Nhưng không tin vào những điều đó thì cắt nghĩa thì hiểu về luồng khí màu da cam này như thế nào. Đó là một trường vật chất mới lạ vượt qua sức hiểu biết của con người hiện nay. Nó ẩn náu trong con người khi người ta sống và nó xuất hiện tồn tại khi con người đã lìa bỏ cuộc sống sinh học. Vậy thì đây là một hiện tượng siêu nhiên.
Nhưng nếu tất cả những điều trên chỉ là sự suy luận viền vông và luồng khí màu da cam đó chỉ là một ảo ảnh không có thật mà bác sĩ Cần lại nhìn thấy nó sờ mó nó giao lưu với nó được thì rõ ràng chỉ có thể hiểu ông đang bị một căn bệnh tâm thần phân liệt thể đặc biệt. Có thể nó gần giống như thể trạng bệnh ảo giác hoang tưởng. Để tìm kiếm câu trả lời cho những ý nghĩ rối bời gần như hoảng loạn của mình bác sĩ Cần cáo ốm xin nghỉ ở nhà. Bảy ngày liền ông đóng chặt cửa tự giam mình trong căn hộ 9 mét vuông. Bảy ngày liền ông chỉ ăn mì hai tôm uống nước lã đun sôi và thỉnh thoảng mới làm một chén cuốc lủi. Bảy ngày liền ông đái ra thứ nước giãi đỏ lòm và ỉa ra những viên *** rắn đanh đen xì như *** dê. Bảy ngày liền ông trùm chăn ngồi chồm chỗm trên giường đọc ngốn ngấu như ăn cướp từng chồng sách giải phẫu sinh lý học huyết học da liễu học di truyền học miễn dịch học phân tâm học thần kinh học... Ông đọc đến mờ mắt choáng đầu hai tai ù đi mà vẫn không tìm thấy một dòng nào nói về cái luồng khí màu da cam bí hiểm đó.
Chán nản tuyệt vọng mỏi mệt sang ngày thứ tám bác sĩ Cần bèn xỏ bốt mặc áo ấm và đội lên đầu chiếc mũ ếch-ki-mô dầy sụ rồi lững thững. bỏ ra ngoài đường đi dạo cho đỡ căng óc. Đôi chân ông đưa ông lang thang khắp các phố ngắn phố dài phố chéo phố dọc phố ngang. Rồi cuối cùng ông dừng bước lại trước một ngã tư rộng thênh thang đường nhựa bóng lỳ đèn xanh đèn đỏ thi nhau chớp nhay nháy. Cái ngã tư này ngày xưa hẹp như lỗ mũi san sát những lều quán nhà cửa lụp sụp lấn chiếm dựng tạp. Hơn năm nay người ta đã ủi bay hàng quán phạt đường mở lối mở cái ngã tư ra thênh thang lắp đèn cao áp sáng trắng lóa mắt. Trên bốn mặt vỉa hè lát gạch đã thấy mọc lên bốn tòa nhà cao tầng lát kính cửa số cửa ra vào đủ màu sắc nom rất lạ mắt. Tuy nhiên giữa nơi cái ngã tư hiện đại mới tinh khôi xặc xụa mùi nước hoa mùi ét xăng mùi dầu luyn mùi các loại sơn ngoại cay cay bác sĩ Cần bỗng ngửi thấy mùi hương trầm thoang thoảng. Mùi hương trầm bay ra từ góc tối chân mấy cây cột thép giàn giáo cao ngất ngưởng dựng biển quảng cáo vẽ một cái xe Honda khổng lồ đang lao vút đi trên nóc nhà như một gã phù thủy. Bác sĩ Cần bước lại gần thì thấy có tới hàng chục hàng trăm thẻ hương đỏ li ti đang nhấp nháy xung quanh một cái miếu nhỏ mái vỡ toang còn sót lại sau một gốc si già rậm rạp lùn tè tè ngoằn ngoèo uốn éo như cây cảnh cây thế. Một gã đồng cô mắt tím môi đỏ từ trong hốc tối chân mấy cây cột giàn giáo nhô ra túm lấy tay bác sĩ Cần rồi eo éo:
- Bác dâng hương cho mẹ chúa mẫu đi. Mẹ chúa cho bác tài cho bác lộc thì bác đừng quên thằng em yêu quí này của bác nhé. Nào bác cho em chút tài bác cho em chút lộc đi nào.
Gã đồng cô ôm chầm lấy lưng bác sĩ Cần bàn tay gã nhanh như chớp thọc ngay vào đũng quần ông bác sĩ. Bác sĩ Cần như choàng tỉnh ông hất tay gã đồng cô ra giằng co với gã một lúc rồi mau chân chạy thoát ra một chỗ sáng trên vừa hè dưới một cây đèn cao áp ngất ngưởng.
*
Tối hôm đó sau khi đi dạo về bác sĩ Cần mua một bát cổ cánh gà lơ go một nắm rau thơm hành chẻ ít tương ớt rồi ông đóng chặt cửa ngồi uống rượu một mình. Mà ông đâu còn bạn bè để mời rượu. Hơn hai chục năm nay từ ngày về làm việc ở cái nhà xác này bác sĩ Trương Vĩnh Cần sống cô độc lủi thủi như con chuột già rúc trong lỗ cống. Hình như tất cả người đời đều e ngại xa lánh cái khu nhà tường quét vôi xi măng xám xịt cái ga chót của đời người mà rồi cuối cùng ai cũng phải ghé lại. Mọi người đều ngại đều né tránh mặt ông như là sợ lây nhiễm cái âm khí lạnh lẽo tanh tưởi âm u của những xác chết. Bác sĩ Cần ngồi gật gù uống rượu một mình. Ông đã quá quen cảnh cô độc lẻ loi như thế này rồi. Ông đã mất hắn các nhu cầu muốn giao lưu chia sẻ cười nói cùng với một người thứ hai. Ngay từ bé bác sĩ Cần đã là một đứa trẻ nhút nhát cô độc. Lớn lên đi học đi làm ông vẫn rất nhút nhát cô độc. Bác sĩ Cần ngồi một mình trong phòng đối diện với đĩa đồ nhắm và chai rượu cuốc lui. Bác sĩ Cần bắt đầu nghiện rượu từ khi vào làm việc ở nhà xác. Người cô độc nhút nhát thì chỉ biết làm bạn với chén rượu mà thôi. Có nhiều cách uống rượu, nhưng bác sĩ Cần chọn cách uống chầm chậm nâng chén lên chầm chậm uống chầm
chậm và đặt chén xuống cũng chầm chậm. Vì uống chầm chậm rượu ngấm vào cũng chầm chậm nên bác sĩ Cần cũng say rất chầm chậm. Đã bao năm nay rồi mình thế này trước tiên bao giờ bác sĩ Cần cũng rùng mình nhớ lại cô bệnh nhân bệnh tim mạch người dân tộc đã cùng ông thỏa thuê vui vầy nghịch ngợm những trò chơi tình ái rất tục tĩu nhưng cũng rất lạ lùng mà bác sĩ Cần chưa từng thấy ở quyển sách nào quyển kinh nào kể cả quyển Tố nữ kinh nổi tiếng của nước Tàu cổ xưa. Có thể nói cuộc sống sinh hoạt tình dục của bác sĩ Trương Vĩnh Cần từ khi lấy vợ đến khi bị liệt dương là rất khập khiễng tẻ nhạt và đơn điệu đến mức ỉu xìu như cơm thiu. Đời bác sĩ Cần có một chút ít ngày hả hê sung sướng thỏa mãn ấy chính lại là những ngày ông gian díu với cô bé Ma Thị Thảo.
Cho đến bây giờ mỗi khi nhớ lại bác sĩ Cần vẫn không thể hiểu được tại sao một cô bé người Tày mười sáu tuổi lại biết được nhiều ngón bài làm tình lạ lùng kỳ quặc đến như vậy. Và cho đến bây giờ đã là một bợm rượu rồi đã nếm không biết bao loại rượu trên đời này rồi mà ông vẫn cứ như vẫn còn ngửi thấy mùi rượu thơm kỳ quái bí ẩn tỏa ra từ trong cái nậm quả bầu khô cô Thảo vẫn đeo tòng teng ở bên lườn. Da cô Thảo không trắng người cô Thảo không mềm mại tóc cô Thảo không dài và hơi thở của cô thậm chí còn hơi có mùi hôi hôi nồng nồng ngai ngái như mùi cỏ dại bị giẫm nát. Nhưng bù vào tất cả những khiếm khuyết đó cô bé Thảo có những ngón tay thật kỳ diệu và cái lưỡi nóng rát ngọt quánh như mật mía. Những ngón tay đó và cái lưỡi đó đã ám anh bác sĩ Cần mấy chục năm nay ông không thể nào quên được. Sau khi án kỷ luật hủ hóa được công bố cô Thảo đã bị đuổi học tống về quê. Rồi khi đã về làm ở nhà xác bác sĩ Cần thỉnh thoảng vẫn lén lút mò tìm địa chỉ tin tức của cô bé Thảo. Nhưng lần nào ông cũng chỉ hoài công vô ích. Rồi đến một hôm tình cờ bác sĩ Cần nghe được cái tin cô bé Ma Thị Thảo đã lấy một anh cán bộ trung cấp lâm nghiệp người Nùng làm trạm trưởng một trạm kiểm lâm một huyện đồng rừng âm u ở sát cùng biên giới miền Tây giáp nước Lào. Bác sĩ Cần đã mua một chai rượu về nhà đóng cửa ngồi uống một mình không biết để khóc hay là để cười cho đời ông và đời cô Thảo. Hôm đó bác sĩ Cần đã uống một trận bò lê bò càng nẩy đom đóm mắt đến nỗi rúc cả đầu xuống gầm giường cho chó ăn chè. Trong cơn tỉnh say đê mê bác sĩ Cần bỗng thấy những ngón tay kỳ diệu của cô Thảo vuốt ve khắp người ông và cái lưỡi nóng rát ngọt quánh như mật của cô liếm tem tép khắp mặt ông như chó liếm bột.
Trời lúc này lại đổ mưa. Hơn năm nay con đường nhựa chạy quanh co trong khu tập thế Thắng Lợi đã được mắc đèn cao áp. Ngồi trong nhà nhìn qua khung cửa sổ hẹp thấy rõ mồn một những hạt mưa bay chéo nhau dưới ánh đèn sáng trắng nom cảnh đêm khuya bỗng nhợt nhạt khả nghi như trong một bộ phim trinh thám. Bác sĩ Cần nâng chai rượu lên. Ôi chai rượu mới vơi non nửa. Ông bác sĩ chầm chậm đưa miệng chai vào mồm. Người ông đã thấy nóng và ngứa ngáy như ngồi gần lò than. Có lẽ ta đã bắt đầu say rồi. Bác sĩ Cần đứng dậy co chân trái lên và chậm rãi đếm một hai ba bốn... Cơn ngứa chạy rần rật từ gan bàn chân lên bắp chân đầu gối bắp đùi háng bụng ngực cổ mặt và khi đếm tới sáu mươi hai cơn ngứa chạy thốc lên đỉnh sọ thì cũng là lúc chân bác sĩ Cần qụy xuống. Ta không lên tới một trăm có nghĩa là say rồi. Bác sĩ Cần lột phăng cái mũ lông ếch ki mô ném xuống sàn nhà. Chai rượu đổ nghiêng và ông lê tới trước một tấm gương ố vàng. Một cái mặt khỉ già dăn dúm hiện lên trong gương. Cái mặt thật bệ rạc hèn hạ và đáng khinh bí làm sao. Cái mặt của ông đấy. Bác sĩ Cần bật khóc òa ngã dập mặt xuống nền nhà hai tay cào cào một miếng gỗ. Ông khóc nức lên. Mặt mũi tai lưỡi của ông dính nhơm nhớp rượu và tương ớt.
Tử ngày bị kỷ luật bị tống cổ khỏi biên chế bị tước quyền hành nghề bác sĩ rơi xuống thân phận một kẻ vô danh chuyên làm cái việc ghê tay là lau chùi và khâm liệm xác người. Đời bác sĩ Trương Vĩnh Cần đã thực sự bỏ đi. Vốn là một kẻ thiếu ý chí nhu nhược nên bác sĩ Cần càng không thể ngoi đầu lên được nữa. Làm ở khu nhà xác hàng ngày chung đụng với xác chết dần dần bác sĩ Cần cũng đâm hơi đơ đơ ngơ ngác giống như bao kẻ đã trọn đời làm cái công việc này. Thỉnh thoảng sau những ngày tối tăm mặt mũi trong cái khu nhà xác hoang vắng lạnh lẽo vô tình đó bác sĩ Cần cũng lén lút mò ra ga ra chợ rúc vào những xó xỉnh tối tăm bẩn thỉu với mấy cô ả gái điếm để được giải thoát một phần nỗi thèm muốn sinh lý tình dục vốn hay ứa trào rất mạnh mẽ và bất ngờ ở những người chẳng may mắc bệnh liệt dương. Đời bác sĩ Trương Vĩnh Cần đã hoàn toàn rơi xuống và bị nhấn chìm trong nỗi khổ đau tuyệt vọng còn tối tăm hơn cả đáy địa ngục. Nhiều lúc ông đã định tự tử nhưng rồi bản tính nhút nhát hèn yếu lại cứu sống ông. Và ông cứ lặng lẽ cam chịu nhẫn nhại âm thầm sống như vậy qua ngày qua tháng qua năm mang nặng trên lưng nỗi ám ảnh ân hận xấu hổ của một kẻ tội lỗi đang tự trừng phạt mình. Bác sĩ Cần không biết cuộc đời ông sẽ kết thúc thảm khốc nhục nhã như thế nào nếu như ông không tình cờ nhìn thấy những luồng khí màu da cam kỳ dị đó.
*
Một tuần sau gã hộ lý hộ pháp dở người vẫn phụ việc cho bác sĩ Trương Vĩnh Cần ở khu nhà xác trong một buổi sáng mặc quần đùi cởi trần vác bát chiết yêu ra ga mua phở bỗng tình cờ nhìn thấy ông bác sĩ Cần chân đi giầy bốt đen Trung Quốc đầu đội mũ lông ếch-ki-mô dày sụ tay xách cái va ly da cũ kỹ đang gù lưng chen thục mạng trong đám người đông nghịt đang cào cấu dẫm đạp lên nhau trèo lên đu lên con tàu đỗ ở sân ga phía Bắc của thành phố.
Bác sĩ Trương Vĩnh Cần đi đâu vậy?
Đoàn tàu mà bác sĩ Trương Vĩnh Cần leo lên ngồi là một đoàn tàu chợ cũ nát còn sót lại từ hồi chiến tranh phá hoại. Tất cả các toa đều mục nát và bần thỉu đến phát lộn mửa. Ngay cái toa mà bác sĩ Cần đang ngồi được xem là toa sạch nhất thì cũng nồng nặc mùi *** lợn và ca mùi *** người. Trong cái toa dài ngoẵng bị đập vở hết các cửa sổ chỉ còn sót lại ba hàng ghế kê ngang còn thì toàn ghế băng và những miếng gỗ nối nhau kê dọc hai bên thành toa. Hành khách đứng ngồi ngả nghiêng lổn nhổn chật ních từ trên ghế tràn xuống sàn tàu rải kín từ đầu toa tới cuối toa. Do tình cờ mà bác sĩ Cần dạt tới gần một ô cửa sổ trống hoác. Ngồi chỗ này tuy hơi lạnh và có lẽ khi mưa thì sẽ ướt như chuột lột nhưng được cái thoáng đãng đỡ nặng mùi. Con tàu rời ga gốc từ buổi sớm tinh mơ thét còi thở khói phun hơi nước ra cuồn cuộn như sương mù khi chạy qua cây cầu sắt cong 13 nhịp liền nhau bắc ngang qua con sông Cái bốn mùa đỏ ngầu bùn đất phù sa. Ngồi bên cửa sổ ngoái nhìn lại cuối tàu bác sĩ Cần bỗng bật lên một tiếng kêu: Trời ơi! ánh bình minh đỏ rực chói lọi hùng vĩ như cơn mưa máu đang từ trời cao rưới xuống hàng vạn nóc nhà lô xô xám xỉn vì rêu phong và bụi đất. Không có một đôi mắt một cái vẫy tay một lời chào ném theo tiễn biệt ông bác sĩ. Trong cái tiếng sầm sập sầm sập đều đều của bánh xe tàu hỏa dộng trên đường ray bác sĩ Cần tái tê ruột gan tủi hổ. Bỗng chốc ông bác sĩ nhận ra thân phận ông khác gì con dế trũi lấm láp cứ chui ra chui vào một trong hàng vạn cái mồm méo mó đang mở hoác ra kia trong hàng chục năm trời đằng đẵng. Lông cẳng ông lấm đầy bùn râu ria vương đầy mạng nhện. Ngoảnh nhìn thành phố mà ông đã sống suốt từ ngày hòa bình lập lại ông chỉ thấy tê tái kinh hãi và ngậm ngùi. Và cái hình ảnh cuối cùng đọng lại trong mắt ông khi đoàn tàu chạy vào một đoạn đường của hai bên trồng toàn cậy hoa gạo xù xì đầy gai là một cái ống khói bằng gạch thủng lỗ chỗ đang phụt khói xám tứ tung mù mịt... Đoàn tàu chở bác sĩ Cần cứ xùng xịch xùng xịch chạy mãi và hễ cứ qua một cánh đồng rộng hoặc tới một thị xã một thị trấn hoặc một thành phố thì nó đỗ lại dăm mươi phút nửa tiếng để uống nước ăn thêm than rồi lại xùng xịch xùng xịch chạy tiếp.
Cái toa mà bác sĩ Cần ngồi đã không biết bao nhiêu lần chật ních rồi lại chỉ còn lơ phơ vài người rồi lại chật ních người. Có lẽ nó đã chạy được đến mười tiếng đồng hồ rồi thì phải. Bác sĩ Cần đã chén hết sáu quả trứng luộc bốn ổ bánh mì một cái bánh chưng và sáu đẵn mía đã róc vỏ và ông đã ngủ tới ba giấc khá đẫy. Ông chẳng cần quan tâm tới bất cứ một ga lẻ ga xép nào dọc đường vì ông mua vé tới tận ga cuối cùng. Nỗi buồn nhớ thương cảm bùi ngùi của kẻ lên đường gậm nhấm trong trái tim ông được hai tiếng rồi cũng tan biến đi đâu mất cả. Bắt đầu từ giờ thứ ba trở đi ông bác sĩ sống vô tâm thỉnh thoảng chợt nhớ ra thì chỉ bắt cái mồm và hai hàm răng làm việc cạp cạp một lúc rồi lại lăn ra ngủ. Nơi ông xuống là cái ga cuối cùng thì việc gì phải lo lắng canh cánh trong lòng. Nhưng bác sĩ Cần đã không tới được cái ga chót của đoạn đường. Vào giờ thứ ba mươi của chuyến du hành tức là vào khoảng 11 giờ sáng ngày hôm sau đoàn tàu chạy tới một ga xép thì dừng lại uống thêm nước. Đấy là một cái ga nhỏ nằm lọt thỏm giữa những quả đồi lùn cọc cằn. Đúng lúc này bác sĩ Cần cũng tỉnh dậy. Ngáp một cái đến sái quai hàm bác sĩ Cần lơ đãng nhìn xuống sân ga, ý chừng ông đang muốn lùng kiếm một thứ quà gì có thể ăn được như chuối tiêu bánh chưng hoặc là trứng vịt luộc. Trời gần trưa mà u buồn ảm đạm như buổi chiều vậy. Mây xám đóng vẩy cồm cộm ở trên trời và, sương bay dày đặc là là sát mặt đất. Bác sĩ Cần bỗng nghe thấy có tiếng kèn đám ma thổi í e ò e thảm thiết quá chừng. Hai tai dỏng lên như tai thỏ mắt cũng tròn xoe như mắt thỏ trừng trừng nhìn qua lớp sương mù. Cái tiếng kèn í e ò e như lời than thở chỉ để gọi riêng ông. ấy là ông bác sĩ nghĩ như vậy. Thế rồi cứ như người bị chài bác sĩ Cần từ từ đứng lên, từ từ xách cái va ly cũ rích lên. Và cũng cứ từ từ, ông bước ra cửa bước thấp bước cao mặc dù sàn tàu đâu có rồi lõm ổ trâu ổ gà gì cho cam. Bước ra cửa toa, tay vẫn xách cái va ly mấy sợi tóc cứng khô trên đầu bác sĩ Cần dựng hết cả lên như mấy sợi ăng ten đang dò tìm phương hướng. Rồi bác sĩ nhẩy xuống tàu lặng lẽ cum cúm đi về phía có tiếng kèn đang ỉ eo rên rỉ như tiếng mèo hen. Đây rồi trong làn sương lùng bùng dày đặc như khói có đám người lố nhố xúm xít quanh một cỗ quan tài kê trên hai cái niễng giường đặt ở trên hiên một ngôi nhà gạch đổ mái bằng có cổng sắt kiên cố. Cái tiếng kèn ỉ eo phát ra từ ngôi nhà ấy. Bác sĩ Cần đến gần, có ba thứ khiến ông phải để mắt đến ấy là trước ngôi nhà có cắm tấm bảng sắt kẻ hai hàng chữ rất rõ: Ga xép: Thuận Thiên. Cỗ quan tài to hơn kích cỡ bình thường, trên nắp có đặt một bát cơm nguội tanh một quả trứng một đôi đũa tre đã chẻ hoa và cắm chín nén nhang. Và cái điều cuối cùng là tất cả những người đang xúm xít chen chúc chung quanh quan tài không thấy có ai chít khăn vàng khăn trắng hoặc khăn xô cả. Một cái đám ma hơi lạ. Trong đám người xúm xít kia không có ai là họ hàng thân thích với người đang nằm trong cái quan tài kia hay sao?
*
Nhìn thấy bác sĩ Cần tay xách va ly đang lò dò ngơ ngác như con cò. Một gã chột mắt quần ống thấp ống cao áo bốn túi sĩ quan thả dài tới quá đầu gối tiến lại trợn mắt quát.
- Khách lên tàu hà. Quay lại. Hôm nay ga nghỉ đóng cửa. Không bán vé. Quay lại!
Bác sĩ Cần ấp úng:
- Thưa... Không ạ. Tôi là khách xuống tàu.
- Xuống tàu!
- Vâng ạ
- Thế thì xéo nhanh lên. Đi vòng ra phía đầu nhà lội qua luống sắn mà ra. Sáng nay ga có tang cửa ra vào không mở. Đi ra mau. Thấy gã chột mắt quát lác hách quá bác sĩ Cần cũng hơi hoảng. Ông đã toan quay lại lỉnh lên tàu thì có ai giật giật tay áo ông. Một ông cụ mắt sáng như mắt cáo râu bạc, người gầy quắt chỉ còn xương da, chân đi bốt, tay kéo lê cái chồi tre đang giật tay áo ông. Ông cụ lật cập.
- Thưa ông, tôi hỏi không phải chứ ông là cán bộ của nông trường Hạnh Phúc về đây ạ?
Bác sĩ Cần ngạc nhiên lắc đầu. Ông cụ buông tay áo bác sĩ ra rồi thở dài:
- Rõ khổ thân bà Nhàn nằm xuống hai hôm nay rồi mà chưa thấy cô con gái về vuốt mắt cho mẹ.
Thấy bác sĩ Cần giương mắt ra ông cụ đập cái chổi xuống đất, nói thêm cho bác sĩ Cần hiểu.
- Tôi nói bà Nhàn là nói bà trưởng cái ga này hiện đang nằm trong cỗ quan tài kia.
Thấy bác sĩ Cần dáng chừng chưa muốn đi vội, ông cụ ân cần:
- Mời ông vào nhà uống nước ăn thuốc. Tôi tên là Nguyễn Văn Võm nhân viên bảo vệ quét rác vệ sinh viên ở cái ga Thuận Thiên này.
Ông cụ dẫn bác sĩ Cần vào căn phòng nhỏ đồ đạc rất sơ sài chỉ có một rương gỗ một cái giường sắt. Giữa phòng kê bàn cúng. Trên bàn mới chỉ có bát cơm quả trứng nải chuối xanh mới chặt còn xùi đầy nhựa và một bó hương cháy nghi ngút. Ông cụ Võm mời bác sĩ Cần ngồi xuống ghế rót nước mời rồi thong thả:
- Đây là phòng của bà trưởng ga. Tôi cũng vừa dọn tạm cái bàn cúng cho bà ấy. Bà ấy tên là Nhàn mà vất vả quá ông ạ, nằm xuống hai hôm nay rồi vẫn chưa thấy mặt con về. Khổ thế. Bác sĩ Cần xin phép ông cụ Võm thắp một nén nhang rồi lom khom chắp tay vái. Ông vái cái bát hương và nắm nhang và bát cơm quả trứng cùng nải chuối xanh chứ đã có ảnh bà Nhàn đâu. Thấy ông bác sĩ thành tâm ông cụ Võm hỏi tiếp:
- Tôi xem chừng ông không phải là người ở vùng này có phải không ạ.
- Vâng.
- Vậy chứ ông có công việc gì mà xuống đây. Hay là tiện ghé thăm con cháu họ mạc ở trong thị xã.
Bác sĩ Cần thật thà:
- Tàu đỗ đổ thêm nước tôi nghe có tiếng kèn đám ma nên xuống viếng.
Nghe bác sĩ Cần nói vậy ông cụ xuýt xoa:
- Quí hóa quá. Quí hóa quá. Mời ông xơi nước... Ông ăn điếu thuốc cho ấm.
Mải ngồi uống nước hút thuốc chuyện vãn với ông cụ Võm khi nghe con tàu hú còi gọi vừa đứng lên ra đến cửa thì bác sĩ Cần đã thấy cái đầu máy đen xì hồng hộc như thằng kẻ cướp chạy qua trước mặt. Cả ông cụ Võm lẫn ông bác sĩ đều ớ ìng ra. Thấy bác sĩ Cần lúng túng cụ Võm đập vào vai ông bác sĩ rồi an ủi:
- Nhỡ chuyến này thì đi chuyến sau. Tám giờ tối nay lại có chuyến tàu chợ từ Bùng lên chả phải lo gì.
Rồi ông cụ Võm cười hai mắt lóng lánh tinh ranh đúng hệt như mắt con cáo.
- Như vậy là bà trưởng ga của chúng tôi thấy ông thành tâm nên giữ ông lại thêm vài giờ nữa đấy. Lát nữa mời ông xơi cơm với tôi.
Bác sĩ Cần lẳng lặng xách va ly quay vào phòng. Đối với ông đi hoặc ở cũng chẳng có nghĩa lý gì. Lúc này cái đám đông xúm quanh cỗ quan tài cũng thưa dần. Ông cụ quét rác dẫn bác sĩ Cần sang cái phòng của ông ở cạnh phòng bà Nhàn. Cũng một cái phòng nhỏ xíu chật chội như vậy. Đồ đạc trong phòng cũng chỉ có một cái rương gỗ và một cái giường sắt. Ông cụ quét rác mời ông bác sĩ nằm nghỉ trên cái giường sắt rồi bỏ đi đâu đó. Lúc này đã quá ngọ. Bầu trời ám đạm xám xịt. Sương mù càng dày càng đặc. Ngồi trong nhà nhìn ra ngoài chỉ thấy khói sương cuồn cuộn, cách vài mét là chẳng trông gì cả. Tiếng kèn ỉ eo cũng đã câm bặt từ lúc nào. Nằm khàn trên cái giường sắt duỗi tay duỗi chân cho đỡ mỏi một lúc rồi bác sĩ Cần nhỏm dậy lững thững đi ra ngoài hiên. Ông lại gần cỗ quan tài giờ đây đang nằm chỏng trơ một mình trên hai niễng gỗ. Và ông bỗng nhìn thấy một luồng khí đặc quánh màu da cam đang chậm rãi buồn rầu cuộn quanh một đầu cỗ quan tài! Bác sĩ Cần thoáng rùng mình vẫn những luồng khí màu da cam quen thuộc. Ông bước tới gần cẩn thận ngó quanh rồi vái:
- Có phải là bà Nhàn đấy không ạ.
Im lặng một lúc rồi có tiếng đàn bà mừng rỡ bật lên ở đâu đó:
- Dạ phải thưa ông làm sao ông lại nói chuyện được với tôi ạ. Bác sĩ Cần không trả lời ngay. Ông ngẫm nghĩ một lúc rồi ân cần:
- Tôi tên là Cần, là khách đi tàu ngang qua đây thấy có đám nên ghé xuống viếng xin được thắp một nén nhang cho bà. Trước lạ, sau quen. Bây giờ bà có điều gì cần nhắn lại, bà cứ nói với tôi. Sức tôi đến đâu tôi xin cố gắng giúp bà đến đó.
Bác sĩ Cần nói xong lại có tiếng thở dài ở đâu đó:
- Số kiếp tôi cũng còn được hương âm đức nên còn may mắn gặp được ông. Ông đã có nhời như vậy, xin cảm ơn ông nhiều.
- Xin bà đừng ngại.
- Tôi ngại thì tôi đã chẳng dám nói chuyện với ông có phải thế không ạ.
- Mời bà cứ tự nhiên
- Không dám, ông tử tế quá. Chắc ông phải là người thần tiên mới có thể nói chuyện được với hồn người chết dễ dàng như thế này.
- Bà chưa hiểu nên mới nghĩ về tôi như vậy chứ tôi cũng chỉ là một người hèn mọn chịu trăm nghìn cái nhục. Tôi nói không biết có đúng không chứ xem ra bà cũng đang muốn dặn lại điều gì.
Có tiếng đàn bà thở dài.
- Vâng ạ, quả là tôi cũng chưa thể nhắm mắt được. Chuyện này bao nhiêu năm nay khi còn sống tôi vẫn nghĩ sống để bụng chết mang theo. Nhưng bây giờ nằm xuống rồi tôi mới thấy không thể mang theo được. Bởi nó còn nặng hơn cả đá. Mà hồn người ta thì mỏng manh hơn cả khí trời ông ạ. Khí làm sao cõng được hòn đá tảng nghìn cân hả ông.
Bác sĩ Cần không nói gì chỉ cúi đầu lắng nghe.
- Ban nãy ông có bảo tôi có điều gì muốn nhắn lại thì cứ nói rồi ông sẽ cố gắng giúp tôi có phải không ạ.
- Bà nói đi tôi nghe.
- Cám ơn ông. Ông ngồi xuống cái ghế kia cho đỡ mỏi chân. Tôi muốn nhờ ông giúp cho một việc. Ông làm sớm cho lúc nào là giúp cho tôi trút bỏ được tảng đá ngàn cân sớm lúc đó Tôi nói vậy ông hiểu cả?
- Tôi hiểu.
- ở trong cái thị xã này chỉ có một hợp tác xã Vững Tâm sản xuất tăm tre xỉa răng. Cái hợp tác xã này ở số bốn đường Lê Lợi chếch với trụ sở ủy ban hành chính thị xã bên kia đường. Ông nhớ rồi chứ ạ.
- Nhớ rồi ạ.
- Tôi nhờ ông tới cái hợp tác xã sản xuất tăm đó hỏi hộ anh Trần Văn Tuấn là chủ nhiệm. Nhờ ông nói lại với anh Tuấn là Nhàn có lời hỏi thăm anh và nhắn hiện nay anh có đứa con gái đang làm công nhân trồng chè ở nông trường Hạnh Phúc. Nó khỏe mạnh, xinh xẻo, chưa có chồng con gì cả Ông cứ nhắn nguyên văn như vậy.
Bác sĩ Cán nghệt mặt chăm chú nghe.
- Tôi biết là ông sẽ ngạc nhiên mà. Nhưng chuyện đời nó thế đấy ông ạ. Oái oăm chua chát mà cũng mặn đắng như muối xát lòng. Chẳng nhẽ tôi lại kể hết cả đầu đuôi cội rễ ra cho ông nghe. Mà không biết ông có muốn nghe không hay ông sợ rác tai. Mà không biết nghe xong ông có thông cảm cho tôi không hay lại khinh thầm tôi. Đàn bà chúng tôi khổ lắm ông ạ.
Bác sĩ Cần có cảm tưởng ở ngay đâu đây thôi đang ứa ra những giọt nước mắt lạnh buốt. Và những giọt nước mắt đó bay lơ lửng trong màn sương dày đặc mờ mịt đang bủa vây quanh ông đây. Có một giọt nước mắt nào đó đã vô tình rớt vào tim ông khiến tim ông cứng lại giọng người đàn bà vẫn đều đều:
- Tôi tên là Phạm Thị Nhàn gốc người ở cái thị xã này. Cha tôi mất sớm nên tôi ở với mẹ từ nhỏ. Mẹ tôi chỉ là một người bán dưa ở chợ Hòa Bình của thị xã. Hoàn cảnh nhà nghèo vì gia đình tôi thuộc thành phần dân nghèo thành thị mà tôi cũng chỉ học hết lớp bảy rồi phải đi làm để đỡ đần thêm cho người mẹ già ốm đau. Tôi làm thợ dệt ở một hợp tác xã dệt khăn mặt bông. Năm hai tư tuổi tôi lấy chồng là một thợ tiện. Chồng tôi hơn tôi bốn tuổi. Anh ấy khỏe mạnh và rất thật thà. Chúng tôi là đôi bạn nghèo cùng cảnh. Lấy nhau được bay ngày thì chồng tôi xung phong đi bộ đội. Vì là Đảng viên nên anh được chọn vào đơn vị đặc biệt đi bê để mở tuyến đường năm chín. Cái tuyến đường chiến tranh xuyên Việt ghê gớm hồi bấy giờ còn được giữ bí mật như những bí mật quốc gia trọng đại nhất. Chúng tôi lấy nhau được bảy ngày nhưng chỉ chung đụng đời sống vợ chồng với nhau được có đúng ba đêm vì sang ngày thứ tư thì tôi có kinh mới khổ chứ. Có kinh sớm mất hơn tuần lễ. Hôm tiễn anh lên đường tôi đưa anh ra cái ga xép Thuận Thiên này. Kỷ vật lúc chia tay của chồng tôi mang theo chỉ là một túi đựng thuốc đánh răng và thếp giấy để viết thư. Cả hai vợ chồng tôi lúc đó đều đâu có ngờ đó là lần chia tay vĩnh viễn. Bảy tháng sau buổi sáng hôm đó tôi được khu đội mời lên báo cho biết chồng tôi đã hy sinh anh dũng ở ngã ba biên giới Việt Miên Lào trong khi làm nhiệm vụ. Hồi những năm sáu mươi một cái tin báo tử như thế không phải chỉ là của riêng cho gia đình liệt sĩ mà còn của chung tất cả mọi người trong thị xã. Nó vừa là nỗi đau đớn mất mát nhưng nó cũng còn na ná giống như một tài sản vô giá của xã hội không chỉ thuộc riêng bố mẹ vợ con người liệt sĩ nữa. Lễ truy điệu chồng tôi đã được tổ chức rất trọng thể ở nhà hát nhân dân của thị xã. Hôm đó người kéo đến đông lắm, cứ nghìn nghịt như một buổi mít tinh vậy, dễ thường phải đến ba vạn người. Có lẽ hầu hết dân ở thị xã này đều đến dự. Hương trầm đốt tới ba vạn bó có lẻ khiến cả một góc trời thị xã mờ mịt như có giông bão đổ về. ảnh của chồng tôi phóng rất to có băng đen bắt chéo ở góc khung ảnh. Một đội danh dự bồng súng đứng nghiêm suốt tám tiếng đồng hồ trước cỗ lư hương để chào tất cả các đại biểu của các cơ quan đoàn thể xí nghiệp hợp tác xã trường học trong thị xã đến viếng hương hồn người liệt sĩ đầu tiên của thị xã đã bỏ mình vì nước.
Thú thật là dự xong cái tang lễ ấy trở về nhà người tôi cứ ngây ngấy như lên cơn sốt. Nỗi đau thương vơi đi đâu mất mà chỉ còn niềm tự hào hãnh diện. Sau cái lễ truy điệu ấy, tôi đã thay chồng tôi trở thành người anh hùng của thị xã. Một ngày tới hàng trăm lá thư gửi đến tận tay tôi. Có tới hàng chục đoàn các em thiếu nhi quàng khăn đỏ xếp hàng ngay ngắn đến tận nhà giơ tay ngang đầu chào tôi. Tôi đi ra đường là có người vồn vã gọi tên. Tôi đến hợp tác xã dệt khăn bông là đang ủy công đoàn xúm ngay lại ân cần nồng nhiệt. Rồi thì ông chí bí thư thị uỷ tới tận nhà thăm mẹ con tôi. Đồng chí tặng một gói quà to và quay sang nói với anh thư ký đi theo: "Phải chú ý cô Phạm Thị Nhàn thành phần công nhân cơ bản vợ liệt sĩ. Tôi nói anh nhớ ghi vào sổ để nhắc tôi khỏi quên". Và tôi đã không bị bỏ quên. Sáu tháng sau tôi được đi học trường công đoàn của tỉnh. Khi mãn khóa tôi không về hợp tác xã dệt khăn mặt bông nữa mà được phân về ban hợp tác xã thủ công nghiệp. Rồi tôi được đề bạt phó ban nữ công. Và hai năm nữa lại trôi qua nhanh như con chim cuốc lủi ngoài đồng. Kể từ ngày chồng tôi hy sinh ở ngã ba biên giới Miên Lào Việt. Cuộc đời riêng của tôi đã hoàn toàn là của tập thể của công việc. Mẹ tôi đã mất. Và tôi bấy giờ đi ra đường hoặc gặp ai thì họ đều chào tôi đã được tổ chức lựa chọn để chuẩn bị giao cho trách nhiệm nặng nề hơn. Vong hồn chồng tôi đã phù hộ cho tôi. Cuộc đời của tôi đang như diều gặp gió tưởng chừng không có gì có thể chặn lại được. ấy vậy mà tôi có ngờ đâu một chuyện tình cờ vớ vẩn đã xẩy ra. Một chuyện mà tôi không bao giờ có thể ngờ tới. Vâng cái chuyện cỏn con vớ vẩn không ngờ ấy lại xẩy ra và chính nó - nó đã lật nhào tất cả. Còn khủng khiếp hơn là đổ ụp cả thùng *** thối khắm lên đầu tôi. Nó đã nhấn tôi xuống tận bùn đen. Xin ông cứ bình tâm ngồi xuống cái ghế đẩu long chân ấy. ở cái ga xép này chẳng có loại ghế bọc đệm da hoặc sa lông mây đâu. Ông cứ hút thuốc đi nếu ông thích. Tôi sẽ kể hết tất cả cho ông nghe. Tôi không giấu giếm điều gì đâu dù điều đó có đê tiện nhục nhằn bẩn thỉu. Giờ đây tôi đã chết rồi còn sợ gì nữa còn biết xấu hổ ân hận gì nữa. Sương mù dày đặc quá ông nhỉ giống như khói bếp tháng mười thế này.
Nhưng khói bếp quện dầy mùi thơm ấm áp còn sương mù thì lạnh giá vô hồn. Sương dày thế này sẽ chẳng có ai trông thấy tôi và ông đang trò chuyện và tôi kể tiếp cho ông nghe nhé. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in cái buổi chiều hôm ấy. Cái buổi chiều trời cũng bay đầy sương khói huyền ảo bung lung như thế này. Trên đường từ văn phòng ủy ban sau một ngày họp căng thẳng để chuẩn bị cho đại hội công đoàn chọn lựa bầu cử đại biểu đi dự đại hội cấp trên. Trên đường về nhà tôi có ghé vào thăm người chị kết nghĩa tên là Hạnh ở ngõ Hàng Cháo. Tôi và chị Hạnh thân thiết coi nhau như hai chị em ruột, chị Hạnh hơn tôi chín tuổi đi làm trước tôi có chồng có con trước tôi. Nhưng chị Hạnh cũng là người đàn bà có số kiếp dang dở. Hai anh chị hiếm hoi chỉ sinh được một cậu con trai tên là Tuấn. Khi Tuấn bảy tuổi thì bố bị chết đuối trong một chuyến thả bè từ rừng về. Chị Hạnh ở vậy nuôi con. Tuấn là một cậu bé rất thông minh đẹp như con gái. Da trắng hồng như trứng gà bóc. Tuấn học đỗ đầu toàn trường cấp ba thị xã và được chọn đi Liên Xô học chế tạo máy nhưng cậu ta lại gửi trả quyết định đi học nước ngoài mà cùng bốn cậu bạn cắt máu ở tay viết đơn xin nhập ngũ. Cái vụ này của mấy cậu học trò cũng đã làm chấn động cả thị xã bé nhỏ này làm biết bao ông bố bà mẹ sững sờ và làm biết bao cô nữ sinh lớp tám lớp mười rơi lệ vì cảm phục. Tất nhiên là những lá đơn tình nguyện đó được chấp thuận. Tuấn vào bộ đội, trên ưu tiên vì con một lại là học sinh giỏi nên cố tình điều động về một đơn vị phòng không thuộc lực lượng của thị đội đóng ở ngay ngoài vùng ngoại ô phía Tây thị xã để tránh cho cậu một xuất đi B. Nhưng rồi nào ngờ chiến tranh phá hoại lan tới vùng núi đồi này quá nhanh. Thị xã chúng tôi trở thành một trong vài trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ. Ngay trong trận đánh tập kích đầu tiên của bốn cái thần sấm vào trận địa phòng không mỏng manh ít ỏi của thị đội ở ngoại ô phía Nam thị xã, đơn vị phòng không của Tuấn bị tiêu diệt hơn một nửa. Tuấn bị thương cụt cả hai chân tới gần bẹn và bị hơi bom ép đến mất trí. Sau trận đánh đầu tiên và cũng là trận đánh cuối cùng của anh binh nhì mới nhập ngũ Tuấn được chuyển về quân y viện của quân khu chạy chữa. Rồi Tuấn lại được chuyển về bệnh viện của Bộ quốc phòng. Nằm viện ròng rã 2 năm trời chết đi sống lại nhiều lần cuối cùng Tuấn được chuyển về nằm suốt đời ở một trại an dưỡng đặc biệt với hai cái chân cụt tới háng và một cái đầu ngớ ngẩn lúc lành lúc điên. Nằm ở viện an dưỡng sáu tháng, chị Hạnh thương con quá chạy lên thị đội xin được đón Tuấn về. "Thôi thì có mẹ có con sớm tối vẫn còn hơn" chị Hạnh đã nói với tôi như vậy. Tất nhiên thị đội giải quyết ngay trường hợp này và còn lo cho rất chu đáo đầy đủ mọi chế độ ưu đãi đặc biệt với những thương binh đặc biệt như vậy.
*
Tuấn về nhà được hơn một năm thì tôi ghé qua thăm. Buổi chiều hôm đó trời mờ mịt lắm. Gió bấc thổi hun hút từ ngoài bờ sông đổ vào thị xã cuốn rụng từng chùm lá cơm nguội lá bằng lăng xơ xác bay tán loạn. Nhà Tuấn ở thụt tít tận cùng trong ngõ. Nhà chỉ có hai gian, lợp ngói ta tuy chật hẹp nhưng cũng còn có sân và một cái vườn, nhỏ trồng toàn na bốn mùa um tùm xanh mát. Khi tôi vào thì thấy chị Hạnh đang ngồi giã cua ở bếp. Tuấn ngồi trên cái võng gai sát cửa sổ nhìn chăm chăm ra sân. Mặt cháu tôi vẫn trắng ngời ngời, đẹp ngời ngời như mặt một thần đồng. Lúc này Tuấn như vừa qua cơn điên và đang hồi tỉnh. Cháu nhìn chăm chăm ra sân lặng lẽ ngắm cái vườn na. Nhìn thấy tôi cháu không hề động đậy. Khi tôi chào cháu thì Tuấn chỉ khẽ chớp mắt đáp lại. Lúc tôi đi ngang qua cửa số bỗng dưng tôi thấy có một luồng hơi lạnh toát như băng từ mặt cháu từ cái nhìn của cháu phả vào mặt tôi khiến tôi lạnh buốt cả sống lưng. Và tôi bỗng chợt nhận ra một nỗi buồn đến khủng khiếp giống như hơi sương lạnh từ đáy mồ sâu đang phủ lên gương mặt non trẻ đẹp rạng ngời ngời của cháu tôi. Nhưng cái cảm giác ấy qua rất nhanh. Thấy tôi lại chơi chị Hạnh mừng quýnh. Chị đon đả chạy ra đón và chiều hôm đó chị nhất định bắt tôi ở lại ăn cơm với mẹ con chị. Nghe lời kể đến đây, bác sĩ Cần bật lên câu hỏi cắt ngang: "Có phải cháu chị có ý định tự tử phải không". Nhưng không có tiếng ai đáp lại câu hỏi đó. Bác sĩ Cần biết mình đã lỡ lời. Ông ngồi im cố lắng nghe cái giọng đàn bà đang hổn hển:
"Hôm đó tôi ở lại ăn cơm với mẹ con chị Hạnh. Tuấn chỉ và vài đũa chưa hết lưng cơm là đã lết vào góc giường chùm chăn kín đầu nằm ngủ. Suốt cả bữa cơm cháu tôi vẫn chẳng nói một câu. Tôi và chị Hạnh đành ngồi ăn cơm với nhau. Hai người đàn bà góa ngồi ăn cơm cùng mâm trơ trọi trong một buổi chiều tối mùa đông gió rét mới thật buồn và nhạt nhẽo làm sao. Dường như cảm thấy rất sâu sắc điều đó vừa buông đũa bát chị Hạnh đã kéo tôi ra bàn lăng xăng bổ đu đủ và cắt chuối mời tôi ăn tráng miệng. Chị nói luôn mồm, toàn những chuyện đâu đâu không nhắc gì tới đứa con bất hạnh của chị. Nhưng rồi thì cuối cùng câu chuyện cũng phải xoay về Tuấn. Tôi phải gạn hỏi mãi chị mới ngập ngừng nói.
- Thú thật với cô Nhàn đã mấy lần chị cũng định đến tìm cô để nhờ cô giúp cho. Nhưng rồi cứ thấy cô bận công việc lút đầu lút cổ nên chị lại ngại. Chứ cháu Tuấn thì mấy tháng gần đây làm chị hãi lắm. Có lúc rối ruột chị đã nghĩ hay là lại phải gửi cháu trở về điều trị tại trại an dưỡng đặc biệt.
Tôi động viên chị.
- Tối nay em ở lại đây với chị. Có chuyện gì chị kể hết cho em nghe để em còn biết đường mà giúp chị và cháu. Nghe tôi nói vậy chị Hạnh nghẹn ngào bắt đầu kể. Chị kể là về điều kiện ăn uống bồi dưỡng thuốc men thì chẳng có gì phải kêu ca. Tuấn có tiêu chuẩn trợ cấp đặc biệt. Và chị cũng được quân đội cho hưởng lương hộ lý chăm sóc riêng cho Tuấn cộng với nhà cửa cũng còn mảnh vườn có luống rau con gà con lợn nên kinh tế cũng tạm đủ. Nhưng cái lo nhất là bệnh tình của Tuấn. Tôi hỏi có phải là cái bệnh điên không thì chị lắc đầu. Nếu Tuấn bị điên thì chị lại không lo. Chăm nom người mất trí cũng như là trông trẻ con mà thôi. Nhưng cái đáng sợ nhất là mấy tháng gần đây bệnh điên của Tuấn giảm rõ rệt và Tuấn rất tỉnh táo. Tỉnh táo như một người bình thường. Cái đáng sợ lại chính là ở chỗ đó. Thấy tôi còn lúng túng chưa hiểu chị Hạnh khẽ nắm lấy tay tôi rồi lại hổn hển nói tiếp.
- Không lên cơn điên gào thét nữa thì suốt ngày nó chỉ ngồi câm lặng nhìn ra vườn. Nó ngồi như một tảng đá từ sáng đến chiều, từ ngày này qua ngày khác. ối giời ơi cô ơi! Nhìn nó ngồi như thế mà tôi phát sợ. Nhiều khi tôi có cảm giác nó không còn thở nữa. Nó đã chết ngồi. Có lúc chịu không được tôi phải kiếm cớ chạy ngang qua mặt nó sờ tay lên mũi nó một chút để chắc là nó vẫn còn thở. Cô có hiểu vì sao nó lại cứ ngồi hóa đá như thế suốt ngày không.
Tôi se sẽ lắc đầu. Chị Hạnh lại nghẹn ngào rưng rưng.
- Vì nó buồn cô ạ. Nó thất tình. Tôi phải kể cho cô nghe rõ đầu đuôi. Hồi còn đi học lớp mười nó chơi thân với cái Phương con gái một ông y sĩ làm ở bệnh viên tỉnh. Hai đứa vẫn rủ nhau đi học. Bạn bè chẳng ra bạn bè. Anh em kết nghĩa chẳng ra anh em kết nghĩa. Thằng Tuấn quí và chiều cái Phương lắm. Đã bao nhiêu lần nó hái trộm na ở vườn giấu trong cặp trong túi quần túi áo để cho cái Phương. Và cái Phương cũng quí anh Tuấn lắm. Có cái gì cũng thu thu giấu giấu cho anh Tuấn. Một vài lần đi chợ gặp bà Thu mẹ cái Phương tôi và bà ấy cứ cười cười hẹn với nhau nửa đùa nửa thật mai này cho hai đứa lấy nhau. Nói thật ra chứ trông hai đứa đẹp đôi lắm. Khi thằng Tuấn đi bộ đội cái Phương đã đến đây chia tay tiễn bạn. Hai đứa ngồi nói chuyện với nhau rất khuya ở ngoài vườn đến nỗi tôi phải ra giục cái Phương về. Thế rồi cháu Tuấn bị thương được tặng thưởng huân chương chiến công hạng nhất qua mấy năm được quân đội chạy chữa cho đến ngày nhờ cô can thiệp giúp với thị đội tôi lên trại đón cháu Tuấn về. Những ngày đầu thì cô cũng biết rồi tôi chẳng nói nữa. Nhà tôi chả lúc nào ngơi khách. Bao nhiêu đoàn thể đến úy lạo hỏi thăm. Bao nhiêu bạn bè xa gần ghé vào an ủi. Cái giường của cháu Tuấn đang nằm kia lúc nào cũng có mấy cô mấy cậu ríu rít cười đùa trò chuyện trêu chọc với thằng Tuấn. Nhưng rồi thời gian phôi phải nửa năm đầu vui vẻ cũng qua đi. Người đến thăm mãi thì cũng đến lúc phải hết. Căn nhà này vãn khách dần. Tôi cũng chẳng dám trách mỏ gì ai. Cảnh con mình như thế được ai đến là quí lắm rồi. Trong đám bạn bè đến thăm nom Tuấn tất nhiên là có cái Phương rồi. Tuấn đi bộ đội Phương ở nhà thi trượt lớp mười thế là ông bố xin cho vào bệnh viện học ý tá rồi làm việc ở ngay khoa cấp cứu hồi sức. Khi cháu Tuấn về con bé đến thường xuyên. Nó ngoan và nhẫn nại lắm. Nói thật với cô chứ nhiều lúc thằng Tuấn lên cơn không có cháu Phương tôi cũng mệt với nó. Hồi xưa trông hai đứa ríu rít bên nhau tôi vui bao nhiêu thì bây giờ thấy hai đứa quấn quít bên nhau là tôi buồn muốn khóc rỏ máu mắt. Rồi đây hai đứa sẽ là thế nào với nhau? Tôi không dám nghĩ nữa bởi vì chúng nó lấy nhau nên vợ nên chồng hay không thì cũng đều là những điều khủng khiếp ghê sợ quá không thể chịu nổi. Cô cứ nghĩ mà xem: Chúng nó lấy nhau hay là không lấy nhau. Ca hai điều đó đều không thể xảy ra được. Cả hai đứa trẻ đều không có quyền được lựa chọn bất cứ cách nào. Nghĩ thật nát ruột nát gan. Năm nay con tôi mới hai hai tuổi và cái Phương mới mười chín tuổi chứ đã nhiều nhặn cứng cáp gì cho cam. Chúng nó có tội gì mà trời đày dọa chủng nó như vậy.
Kể đến đây nước mắt chị Hạnh lã chã tuôn rơi. Và hình như để phù họa theo ngoài trời cũng bắt đầu lộp độp có hạt mưa. Nhìn những giọt nước mắt của chị Hạnh rỏ xuống tôi có cảm tưởng những giọt nước mắt đó là những giọt máu. Những giọt máu đỏ tươi nóng hôi hổi từ trái tim chị ứa trào ra. Thế rồi chuyện ắt đến rồi cũng phải đến.
Chị Hạnh lau vội những giọt nước mắt ngồi thần ra một lúc rồi xùi xụt kể tiếp. Vào một buổi sáng chủ nhật tôi đang thau cái bể nước thì mẹ cháu Phương ghé vào cho cháu Tuấn mấy qua đu đủ và cũng để "chào chị và cháu để ngày mai gia đình chúng tôi chuyển đi Quảng Ninh". Mọi chuyện thế là đã rõ. Hai đứa trẻ không lựa chọn được thì người lớn buộc phải lựa chọn cho chúng nó. Tôi không trách gì gia đình cháu Phương. Họ chọn cách như thế là sáng suốt hơn cả. Cuộc chia tay giữa Phương và Tuấn diễn ra hết sức bình tĩnh. Đó là điều ngoài sức tưởng tượng của tôi. Trước hôm theo bố mẹ ra Quảng Ninh Phương đến giặt giũ cho Tuấn rồi hai cháu ngồi chơi với nhau cho đến tận chiều tối. Chúng nó chẳng nói chuyện gì mà chỉ rú rỉ chơi tam cúc. Thỉnh thoảng lại còn cãi nhau chí chóe như hai đứa trẻ. Rồi cái Phương về. Lúc đưa cháu đi ngang qua vườn na tôi cứ nghĩ: Cháu nó đang về nhà giống như mọi lần ngày mai ngày kia nó sẽ lại đến. Nhưng đó chỉ là ý nghĩ của tôi. Từ sau buổi hôm đó cháu Phương không bao giờ đến nhà tôi nữa. Vì một lẽ rất rõ ràng: Cháu đã theo gia đình ra Quảng Ninh ở. Cháu đã phải lựa chọn theo sự lựa chọn của bố mẹ. Tôi đã nói với chị rồi tôi chẳng trách gì cháu Phương và bố mẹ cháu. Tôi hiểu: Chỉ còn một cách như thế mà thôi. Phương đi rồi tháng đầu tiên Tuấn sống bình thường thậm chí hình như nó còn vui hơn. Thỉnh thoảng cháu còn cười đùa với tôi và còn có một điều lạ nữa là cháu bắt đầu chịu tập di chuyển bằng hai cái ghế con một kiểu đi mà cháu vốn rất ghét: "Người chứ có phải là cóc đâu" cháu vẫn nhăn nhó như vậy. Nhưng rồi tất cả những cái gọi là bình thường ấy của Tuấn cứ mất dần. Tuấn không còn hay dỗi hay cáu như trước mà trở nên trầm lặng. Cháu bảo tôi mua, cho cháu một cái võng đay mắc cạnh cửa sổ rồi từ đó suốt ngày suốt tháng cháu chỉ ngồi trên võng chăm chăm nhìn ra vườn na. Tôi sợ cái kiểu ngồi như đá ấy của cháu Tuấn sợ lắm cô ơi mà nào đâu chỉ có một nỗi sợ ấy còn một nỗi sợ khác nữa lại ập đến nỗi sợ này trời ơi tôi biết kể cho cô nghe như thế nào bây giờ. Tuấn bắt đầu bị xuất tinh liên tục. Vì phải giặt rũ cho con trai nên tôi biết được điều đó. Thoạt đầu tôi nghĩ đó cũng chỉ là chuyện bình thường của đàn ông. Tuấn chỉ bị cụt hai chân bị thương vào đầu nhưng cháu vẫn là một người đàn ông như mọi người đàn ông khác. Nhưng rồi thấy cháu xuất tinh nhiều quá tôi đâm nghi. Một người đàn ông khỏe mạnh chưa vợ thì một tháng cũng chỉ hai đến ba lần là cùng. Đằng này hầu như đêm nào cháu cũng xuất tinh. Hay là cháu bị bệnh rồi. Tôi đã định đưa cháu đi bệnh viện để khám nhưng rồi một đêm dậy cài lại cửa sổ tình cờ tôi nhìn thấy cháu đang thủ dâm.
*
Chị Hạnh đã thôi không xùi xụt nữa. Nỗi đau hiện trên nét mặt chị như một đám mây đen. Nghe chị kể những chuyện đó tự dưng tôi cứ gai hết cả người. Có một luồng điện nhỏ bỗng len lỏi chạy khắp người tôi. Luồng điện chạy đến đâu là người tôi nóng lên tới đó. Tôi phải cúi xuống uống nước để tránh ánh mắt chị Hạnh. Lúc này đã gần chín giờ tối. Chị Hạnh vào buồng trong buông màn cho Tuấn. Tôi cũng vào theo chị. Tuấn đang nằm ngủ rất ngoan trên giường. Cháu nằm ngửa ngay ngắn chăn đắp ngang ngực. Dưới ánh đèn nom cháu tôi đẹp và nghiêm nghị lạ lùng. Đúng là vẻ đẹp và sự nghiêm nghị của một người đàn ông chứ không phải là của một đứa trẻ nữa rồi. Chỉ ba ngày sau buổi tối hôm đó tôi đang làm việc ở văn phòng ủy ban thì được tin chị Hạnh bị tai nạn giao thông. Một chiếc U-oát đã đâm vào chị cạnh nhà máy cám. Hay nói đúng hơn vì đeo bao cám quá nặng đằng sau xe đạp nên chị đã loạng choạng tay lái rồi lăn cả người và xe đạp vào gầm ô tô. Chị Hạnh bị gãy chân và chấn thương sọ não rất nặng. Đơn vị có chiếc U-oát đã chở thẳng chị Hạnh về quân y viện để cấp cứu. Nghe tin đó tôi sởn hết cả gai ốc. Nhưng thật lạ lùng người đầu tiên tôi nghĩ ngay tới lại là cháu Tuấn chứ không phải là chị Hạnh. Dù Tuấn không phải là cháu tôi thì gia đình chị Hạnh cũng đã ở trong diện đặc biệt do ủy ban thị xã quản lý Tôi nhờ đồng chí ủy viên công đoàn đi ôtô lên quân y viện để nắm tình hình cụ thể về chị Hạnh. Còn tôi ngay trưa đó đạp xe đến nhà Tuấn. Để tránh cho cháu khỏi bị sốc tôi lựa lời báo cho Tuấn biết là mẹ cháu bị ngã xe đạp gãy chân hiện đang được bó bột ở bệnh viện tỉnh phải nằm lại vài hôm mới về được. Rồi tôi lại nói luôn chẳng nghĩ ngợi gì cả: "Mẹ cháu có dặn cô lại đón cháu về nhà cô ở vài hôm để có điều kiện chăm sóc cho cháu". Nghe tôi nói như vậy Tuấn ngước mắt nhìn tôi. Đôi mắt trong vắt. Đó là đôi mắt của một chàng trai chưa bao giờ được ngủ với đàn bà. Đó là đôi mắt của một đứa trẻ con và cũng của một người điên. Tuấn nhìn tôi thoáng một cái rồi vui vẻ gật đầu. Có trời mà hiểu được cái nhìn của Tuấn lúc đó. Và cũng có trời mà hiểu được lúc đó Tuấn đã nghĩ những gì mà lại vui vẻ thuận đi theo tôi. Có lẽ hơn năm nay Tuấn bị nhốt mãi ở trong nhà núp dưới cánh mẹ nay có dịp được ra khỏi cái lồng là cháu ưng liền. Còn tôi tại sao lúc đó tôi không cho người đến trông nom Tuấn hoặc là gửi tạm cháu vào khoa chỉnh hình ở bệnh viện tỉnh mà lại nảy ra cái ý định đón cháu về ở cùng nhà. Tại sao như vậy? Tôi cũng chẳng thể cắt nghĩa nổi. Mấy ngày đầu tiên hai cô cháu ở với nhau vui lắm. Ban ngày tôi đi làm sau khi đã ủ cơm canh bữa trưa cho cháu ăn ở nhà. Buổi chiều tôi về sớm một chút tạt vào chợ mua thức ăn về nấu bữa tối. Cơm nước xong chưa kịp dọn mâm bát là có người ở cơ quan tới chơi rồi.
Tối nào cũng phải hơn mười giờ khách mới về. Nhà tôi khá rộng có tới ba buồng. Đó là ngôi nhà gần chợ mẹ tôi để lại cho. Tôi dọn riêng cho tuấn ở buồng trong vốn là buồng riêng của tôi từ ngày xưa tuy hẹp nhưng rất ấm cúng và kín đáo. Anh ủy viên công đoàn cũng đã ở viện trở về báo cho biết chị Hạnh bị khá nguy kịch. Bệnh viện đã chụp sọ thấy có máu đọng ở trong hộp sọ. Họ đã hội chuẩn nghi nhũn não và đang chuẩn bị chuyển chị Hạnh về viện ở Hà Nội để mổ sọ. Tôi cố tình giả vờ quên đi không cho Tuấn biết tin tức gì cụ thể về chị Hạnh mà chỉ nói đại khái bên quân đội đã đưa mẹ cháu về một bệnh viện của quân đội để tiện trông nom thuốc thang và giải quyết chế độ bồi thường. Có lẽ tin tôi nên Tuấn cũng chẳng đòi đi thăm mẹ nữa. Vả lại hình như Tuấn cũng thích nơi ở mới và cũng thích ở với tôi thì phải. Tuy bị cụt cả hai chân đến tận bẹn nhưng Tuấn rất ít khi chịu nhờ tôi giúp làm hộ việc gì kể cả việc vệ sinh cá nhân. Mấy ngày này mặt mũi cháu rất tươi tỉnh. Luồng khí lạnh buốt của tử thần không còn pha ra từ cái nhìn của cháu nữa.
Còn tôi cũng rất vui. Tôi tự bảo mình phải có trách nhiệm nuôi dưỡng chăm nom động viên cháu. Tôi chỉ nghĩ như vậy thôi và dứt khoát chỉ nghĩ như vậy thôi. Kể đến đây tiếng người đàn bà bỗng dưng im bặt. Có bóng ai đó đi về phía cỗ quan tài ư. Không. Không có ai cả. Sương mù vẫn dày đặc. Sương thấm ướt đẫm cả người bác sĩ Cần. Ông thấy lạnh. Tuy vậy, ông vẫn ngồi im trên ghế và lấy thuốc lá ra hút. Ông chờ đợi. Một lúc sau, giống như sau một tiếng thở dài giọng đàn bà buồn rầu kể tiếp.
- Có lẽ sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra nếu không có cái buổi sáng chủ nhật hôm ấy tôi nghi ở nhà đun nước tắm. Phòng tắm ở ngay gần cửa sổ phòng của Tuấn đang ở. Buổi sáng hôm đó tôi hòa một chậu nước ấm thật to bê vào buồng tắm rồi bắt Tuấn vào tắm. Tuấn tắm xong đến lượt tôi. Cái phòng tắm lâu nay vốn dĩ chẳng có cửa. Vì ở một mình thì tôi cần gì cửa. Nhưng từ hôm đón cháu về tôi có lấy một miếng gỗ dán che tạm làm cửa. Cũng định hôm nào nhờ bác thợ mộc ở cơ quan đến đóng cho cánh cửa chắc chắn bằng gỗ. Tôi đang tắm chẳng biết vô ý đẩy cái chậu va vào hay là bị cơn gió bất ngờ thổi tới tấm gỗ dán đang che cửa đổ bẹt ra ngoài. Tất nhiên lúc đó tôi đang trần truồng tóc tai người ngợm ướt loáng nước. Thấy tấm gỗ bị đổ tôi giật mình vội đứng lên định kéo tấm gỗ đậy lại nhưng cũng đúng lúc đó tôi bỗng nhìn thấy Tuấn đang ngồi bệt trên giường cạnh cửa sổ nhìn ra. Ông có biết lúc đó cháu tôi nhìn đi đâu không. Nó chẳng nhìn đi đâu cả mà lại nhìn vào tôi. Tuấn nhìn chằm chằm vào tôi mặc dầu lúc đó đúng ra cháu phải cụp mắt xuống hoặc là giả vờ ngoảnh đi chỗ khác. Nhưng không. Tuấn cứ chằm chằm nhìn vào tôi Đôi mắt cháu cứ như bị thôi miên vào cái thân thể không còn một mảnh vải nào của tôi. Tôi rú lên một tiếng nho nhỏ, ánh mắt của Tuấn đã làm tôi chết đứng. Và tôi cứ đứng như thế mãi cho đến khi Tuấn từ từ cúi mặt xuống. Lúc đó tôi cũng ngã ngồi xuống run rẩy và hốt hoảng lết dần vào cái góc khuất của buồng tắm.
*
Đúng ra thì ngay sau buổi sáng ấy tôi và cháu tôi phải dời xa nhau ngay hoặc là tôi phải cương quyết gửi Tuấn vào nằm trong bệnh viện tỉnh. Nhưng tôi đã không làm như vậy. Vâng thưa ông đó là một sai lầm một sự ngu xuẩn mà tôi không thể nào hiểu nổi. Ông không biết chứ hồi tôi ngoài ba mươi tuổi tôi đẹp lắm. Mặt mũi tôi thân thể tôi còn đẹp hơn các cô gái mười tám đôi mươi. Lấy chồng bảy ngày chỉ được ngủ với chồng ba ngày. Mà ba ngày chung đụng ấy, chúng tôi tắt đèn tối như hũ nút vì cả hai đứa đều ngượng. Hai vợ chồng tôi cứ mò mẫm như hai đứa mù. Duy nhất có lần cuối cùng đêm thứ ba không hiểu nghe ông bạn nào xui chồng tôi chui vào chăn có bật đèn pin lên. Nhưng lúc đó vừa thấy ánh đèn pin lóe lên tôi đã giằng ngay lấy cái đèn ném vọt qua cửa sổ. Từ khi lớn lên chính xác là từ khi mười sáu tuổi đến giờ ngay cả mẹ tôi cũng chẳng bao giờ được nhìn cái ấy của tôi chứ đừng nói đến người khác. Vì vậy Tuấn chứ không phải một người đàn ông nào khác đã là người đầu tiên nhìn thấy cái bộ phận kín đáo nhất của tôi. Sau cái buổi sáng chủ nhật kinh dị ấy tâm trạng của tôi giống như tâm trạng của một người con gái đã bị cưỡng hiếp. Rời khỏi buồng tắm tôi len lén ra khỏi nhà như chạy trốn rồi tôi đến thẳng cơ quan. Ngày chủ nhật cơ quan đóng cửa chỉ có bác bảo vệ đang ngồi đánh cờ với ông Trưởng phòng thuế vừa về hưu. Tôi loanh quanh ở cơ quan một lúc rồi cứ thế đi thẳng ra ngoại ô. Tôi lang thang trên mấy quả đồi trồng bạch đàn rồi rẽ xuống bờ sông ngồi xem bọn trẻ con đang câu cá. Chiều tối tôi mới mò về nhà người mệt nhoải hai ống quần chỉ chít cỏ may. Tuấn đang ngồi trên giường đợi tôi với mâm cơm đã dọn sẵn nguội tanh nguội ngắt. Khi thấy tôi Tuấn mở to nhìn. Mắt cháu trong như mắt trẻ con mới đẻ Tôi không dám nhìn vào đôi mắt đó. Hai cô cháu ăn cơm với nhau như hai người lạ. Đây là bữa cơm đầu tiên chẳng có lời mời chẳng có tiếng cười tiếng nói, kể từ khi hai cô cháu sống với nhau. Một bữa cơm câm điếc. ăn xong tôi bỏ vào phòng riêng lên giường trùm chăn ngủ. Nhưng nào tôi có ngủ được. Có một cái gì cứ đập thình thịch trong người tôi. Nó đập ở khắp nơi, ở trong bụng trong ngực ở trong đầu. Rồi tôi cũng thiếp đi có lẽ vì quá mỏi mệt. Khoảng nửa đêm tôi bỗng choàng dậy vì có tiếng cửa mở nhè nhẹ. Một cái bóng ngắn cũn cỡn đang lộp cộp lẻn vào. Đó không phải là một bóng người mà là bóng một con cóc khổng lồ. Cái con cóc người đó bò dần về phía giường tôi. Bóng nó đen xì lừng lững đổ trên nền nhà. Lê đến sát giường thì cháu dừng lại. Hình như là nó dừng lại để nghe ngóng rồi vươn cổ lên nhìn vào chỗ tôi nằm. Rồi nó quẳng hai cái ghế đi bíu hai tay vào giường nhẹ nhàng đu người lên nó cứ ngồi chồm chỗm mở to mắt nhìn tôi. Ôi bộ mặt của Tuấn lúc đó thật kì dị. Đó là một bộ mặt của một cái xác chết đang bốc cháy. Tất cả các đường nét của một vẻ đẹp thần đồng ngời ngời đã biến đâu mất cả. Giờ đây chỉ còn một cái thớ thịt đang giần giật tóe vọt ra những tia lửa. Và những tia lửa đó bắn vọt sang mắt tôi khiến tôi bỗng bật lên một tiếng rú nghẹn trong cổ rồi tung chăn ngồi phắt dậy. Thay vì nhảy xuống đất tôi đã dang cả hai tay ôm gọn Tuấn vào lòng rồi kéo cháu ngã vật xuống giường. Và trước khi gần như ngất lịm đi vì những cảm xúc quái lạ điên cuồng không thể hiểu được, tôi mới nhận ra cả người Tuấn lúc đó trần truồng không có một mảnh vải...
Đến khi tôi choàng tỉnh dậy thì Tuấn đã chẳng còn trên giường. Lúc bấy giờ cái đồng hồ báo thức bỗng bật lên hồi chuông rộn rã báo hiệu đã sáu giờ dậy chuẩn bị đi làm. Nhìn đống chăn chiếu rách tan và bốn chân giường gẫy gục. Tôi không tin vào mắt mình nữa. Hình như tôi vừa từ địa ngục tối đen ngoi lên. Tôi chạy ra buồng ngoài. Buồng ngoài trống không. Tôi chạy vào buồng cửa Tuấn. Buồng trống không. Tôi chạy ra sân đập cửa hố xí ầm ầm. Sân và hố xí chẳng có bóng người. Tôi nhìn ra cổng. Hai cánh cổng vẫn khép chặt. Tuấn đã biến mất. Tuấn đã không còn ở với tôi nữa. Cháu tôi đã đi đâu và đi bằng cách nào. Tôi không tin là Tuấn đã đi. Hay là nó chui vào trốn ở một xó xỉnh nào đó. Lồng lộn như một con gà mái mất con tôi xới tung cả mấy gian buồng lên khiến bọn chuột được một phen chạy toán loạn. Nhưng vô ích. Tuấn đã không còn ở đây với tôi nữa. Sau cái đêm khủng khiếp đó tôi lăn ra ốm. Tất nhiên là mọi người ở cơ quan thị ủy ở ủy ban đổ xô đến thăm hỏi quà cáp. Có người hỏi cháu Tuấn đâu tôi nói lảng là đã gửi cháu về ở tạm trại điều dưỡng đặc biệt của quân đội rồi. Tôi ốm mất đúng một tuần mới gượng dậy đi làm được. Nhưng mà thật kinh khủng ngay cái ngày đầu tiên tôi đến văn phòng cơ quan làm việc, tức là cái ngày thứ mười sau cái đêm hoan lạc kinh dị ấy tôi bỗng thấy trong mình khác lạ một vài tháng sau thì bụng bắt đầu to ra. Có lẽ mình bị báng do sốt rét tôi nghĩ như vậy và quên đi cho tới ngày bụng phưỡn ra nom rất chướng mắt. Tôi đành đến khám ở bệnh viện tỉnh. Bác sĩ Liên, vợ một đại úy đang ở chiến trường C mà tôi đã giúp đỡ rất nhiều đã khám cho tôi. Chị khám rất kỹ làm tất cả các xét nghiệm máu rồi cuối cùng chị nói riêng cho tôi biết là tôi đã có mang. Và chị nói thêm: Nếu chị muốn hủy nó đi thì cần tiến hành gấp, rất gấp. Mà có lẽ phải mổ. Tôi sẽ trực tiếp làm hộ chị. Nhưng không phải ở cái khoa sản của bệnh viện này mà ở một bệnh viện rất xa cái thị xã này. Nghe bác sĩ Liên nói vậy, tôi choáng váng như đập đầu vào tường. Làm sao lại có chuyện ghê rợn như vậy, chắc ông cũng biết hồi đó cái tội chửa hoang là tội nặng lắm, nhục nhã lắm nhơ nhuốc lắm.
*
Thế là chẳng cần thu xếp gì cả. Tôi và bác sĩ Liên vội vàng lên đường. Chúng tôi đi nhờ một xe tải quốc doanh chở nước mắm lên một tỉnh rất xa tận biên giới Việt - Trung. Ròng rã năm ngày đi đường xóc đến lộng óc, bác sĩ Liên săn sóc tôi rất chu đáo. Chị rất tế nhị không bao giờ hỏi tôi điều gì mà tôi không muốn nói. Nhiều đêm tôi đã gục vào lòng chị. Tôi hiểu bác sĩ Liên là một người đàn bà nhân hậu và hiểu biết. Chị giúp tôi không phải để trả ơn mà vì chị thương tôi thông cảm chia sẻ với tôi nỗi niềm đau đớn thiệt thòi của những người đàn bà phải sống cô đơn. Lên tới cái tỉnh sát biên giới ấy chị Liên dẫn tôi vào bệnh viện của tỉnh do em gái chị làm giám đốc. Sau khi đã làm thủ tục rất nhanh với một cái họ tên khác tôi được đưa vào khoa phẫu thuật bồi dưỡng sức khỏe một tuần để chuẩn bị lên bàn mổ do chính tay hai chị em bác sĩ Liên mổ. Nằm ở khoa phẫu thuật được bốn ngày tới ngày thứ năm thì bỗng nhiên tôi đau bụng dữ dội. Cơn đau kéo dài từ sáu giờ sáng liên tục đến sáu giờ chiều từng không lúc nào ngớt. Trong mười giờ bụng tôi phình to như một cái trống cái. Và đã bảy giờ bảy phút tối hôm đó đang quằn quại trên cái giường ở phòng chờ phẫu tôi bỗng rú lên một tiếng rùng rợn như qui cái rú rồi đẻ phọt ra một đứa con gái đủ cả chân tay mắt mũi xinh đẹp tuyệt trần.
Một tháng sau tôi bế đứa con quay về thị xã. Không còn cách nào khác tôi đành phải làm bản tự kiểm điểm gửi cấp trên xin nhận kỷ luật. Tôi chờ đợi bị đuổi khỏi cơ quan. Nhưng không hiểu sao mà anh em trong cơ quan ủy ban rất thương tôi ái ngại cho tôi. Hai tháng sau tôi nhận được lệnh điều động về làm trưởng cái ga xép Thuận Thiên này. Các đông chí lãnh đạo vẫn không bỏ rơi tôi đã cố gắng giúp tôi một cơ hội để làm việc để kiếm sống nuôi cô con gái tinh khôn xinh đẹp như tiên nga giáng trần. Hôm tôi cầm lệnh điều động bế cháu về cái ga xép Thuận Thiên thì cũng là hôm tôi nhận được tin chị Hạnh đã mất ở quân y viện sau lần mổ sọ. Còn Tuấn thì... Tuấn đang ở đâu đang sống hay chết rồi tôi nhất quyết quên đi không cần nghĩ tới nữa.
Quá nửa đêm hôm đó vào khoảng một giờ sáng có một chuyến tàu hàng chạy ngang qua ga Thuận Thiên. Như thường lệ chuyến tàu thét lên một hồi còi như xé toang màn đêm yên tĩnh. Tiếng còi khủng khiếp đó đã khiến bác sĩ Trương Vĩnh Cần ngã nhào từ trên phản xuống nền nhà làm ông bổ choàng tỉnh dạy và chợt nhận ra ông vừa ra khỏi giấc mơ. Một giấc mơ thật kỳ lạ và gần gũi thân thiết đến nỗi ông có cảm tưởng như bà Phạm Thị Nhàn vừa đi ra khỏi căn buồng và cái hơi ấm áp của người đàn bà như vẫn còn vương lại phảng phất đâu đây. Bác sĩ Cần không ngạc nhiên khi thấy mình vừa gặp bà Nhàn trong mộng. Câu chuyện bà kể lại vẫn còn khắc in trong trí nhớ của ông. Ông cũng không còn lạ lùng ngơ ngác tự vấn mình vì sao ông lại được bà Nhàn gởi gấm nỗi lòng chua xót đắng cay của bà. Bác sĩ Cần cứ ngồi bệt trên nền nhà suy ngẫm vẩn vơ cho đến khi cụ Võm lục đục thức dậy và lặng lẽ tới ngồi cạnh ông. Bác sĩ Cần cũng chẳng kể lại cho ông cụ Võm nghe là ông vừa gặp bà trưởng ga. Thấy bác sĩ Cần cứ ngồi im như pho tượng ông cụ Võm vào buồng bê ra một đĩa ốc nhồi luộc và lít rượu trắng mời ông bạn già uống một bữa để cầu cho vong hồn bà Nhàn siêu thoát. Cô con gái của bà trưởng ga chưa thấy về viếng mẹ. Vì thế cỗ quan tài đựng xác bà Nhàn vẫn để ở ngoài sân ga, tất nhiên là có được dựng rạp che chắn cho đỡ mưa gió bất chợt. Suốt cả đêm hôm đó bác sĩ Cần đã ngồi uống rượu với ông cụ Võm bên cái cửa số trống toác nhìn ra ngoài trời tối đen mờ mịt sương khói và mưa bụi lạnh giá. Hai ông già đã xơi hết nhẵn đĩa ốc nhồi luộc và uống cạn không phải một chai mà những ba chai rượu cuốc lủi. Xem chừng tửu lượng của hai người không ai chịu kém ai. Tới năm giờ ba mươi sáng khi cái đài bán dẫn ở góc phòng của ông cụ Võm bắt đầu ọ ẹ với một cái giọng ư ử ọng ẹo vì gần hết pin thì cụ Võm cũng gục xuống chiếu ngáy khò khò. Bác sĩ Cần tu hết phần rượu cuối cùng rồi sau khi đã cẩn thận đắp cho ông cụ cái chăn bông rách ông bác sĩ mặc lại áo đội cái mũ lông của người êchkimô xứ tuyết bắc cực lên đầu. và mở cửa bước ra ngoài.
Buổi sáng cuối năm ở xứ núi đồi trung du lạnh lẽo và tĩnh mịch như xứ xở của những người câm điếc. Trời bay đầy sương mù và gió lạnh. Cánh vật đơn điệu tẻ nhạt buồn như một nét vẽ cô độc. Cái ga xép Thuận Thiên cách thị xã chín cây số đường mòn lượn quanh chân các quả đồi trơ trụi cọc cằn như những bầu vú khổng lồ đã bị lột da nhổ sạch lông dưới một rừng cây bạch đàn vô duyên lúc nào cũng phì phì xả ra một thứ mùi hăng hắc rất khó chịu. Bác sĩ Cần đi tha thẩn nhẩn nha như một con bò già mải chơi lạc chuồng chẳng thiết về chuồng nữa. Khoảng chín giờ sáng ông mới đến thị trấn và mò tới trước cửa cái hợp tác xã Vững Tâm chuyên sản xuất tăm tre xỉa răng mà hồn bà trưởng ga đã chỉ dẫn. Cũng chẳng khó khăn gì mà ông không tìm được anh thương binh cụt hai chân. Đó là một người đàn ông không thể đoán nổi tuổi gầy như con cò ốm vai xo cổ rụt mặt mũi hốc hác xanh lét đang ngồi chồm chỗm trên một cái chõng tre xung quanh là một núi những thanh tre đã được chẻ nhỏ tanh như sợi. Người đàn ông này tiếp ông bác sĩ cũng chẳng mặn mà gì. Sau vài câu chào hỏi tự giới thiệu và trò chuyện vơ vẩn nhất là tới khi nghe bác sĩ Cần nói lại không thiếu từng lời của bà trưởng ga chuyển lời hỏi thăm của bà và thông báo cho biết là anh có cô con gái đẹp như tiên đang làm công nhân ở nông trường Vinh Quang chưa có chồng có con gì cả thì người đàn ông vẫn cứ dửng dưng như là đang nghe một chuyện vớ vẩn vô hại nào đó chẳng có liên quan gì đến anh ta. Thái độ lạnh lùng nhạt nhẽo đó của người đàn ông khiến bác sĩ Cần đâm lúng túng. Ông nghĩ thầm: một là anh thương binh cụt hai chân này đang bị bệnh tâm thần phân lập. Hai là câu chuyện bi thảm mà bà trưởng ga vừa kể cho ông nghe chỉ là một câu chuyện bốc phét chỉ là một sự bịa đặt hoang tưởng của một cô gái già không chồng không con.
Chán ngán bác sĩ Cần đành cáo lui. Ông lủi thủi ra khỏi thị trấn và lại giống như một con bò già thơ thẩn lần theo con đường mòn đã quen tìm lối về lại chuồng sau khi đã làm một cuộc dạo chơi ngớ ngẩn vô nghĩa cuối cùng. Tâm trạng bác sĩ Cần lúc đó là tâm trạng của một lão già chán ngán hậm hực nghi hoặc khi nhận ra mình vừa bị lỡm. Khoảng bảy giờ tối bác sĩ Cần mới mò về tới ga Thuận Thiên. Lúc này trời đã tối như mực mưa lại hơi mau hạt. Gió lạnh thổi về gào réo ư ử như bầy chó đang lẩn quất xục mồi quanh các sườn dồi trơ trụi lạnh như băng giá. Vừa mò về đến gần đến cái nhà ga lù lù như cái lô cốt xi măng khổng lồ bỗng nhiên bác sĩ Cần nghe thấy có những tiếng khóc rất lảnh lót trong trẻo như tiếng khóc của con chim sơn ca vậy. Tò mò bác sĩ Cân rón rén bò tới gần một ô cửa sổ sáng ánh đèn. Vừa nhô đầu lên ông bác sĩ đã nhìn thấy một cô gái trẻ măng nõn nà đẹp như tiên nga giáng trần đang quì khóc cạnh một cỗ quan tài to hơn kích cỡ một cỗ quan tài bình thường để ở giữa cái phòng đợi của nhà ga. Kinh ngạc hết sức bác sĩ Cần kêu ố lên một tiếng và bám cửa sổ trèo phắt lên. Ông định nhẩy vào ôm lấy cô gái để mà cùng khóc lóc cùng than thở và bày tỏ nỗi lòng ân hận vì ông đã nghi ngờ oan cho mẹ cô. Nhưng đúng lúc ấy. Vâng đúng cái lúc bác sĩ Cần nhẩy phốc lên bậc cửa sổ thì khủng khiếp thay một tiếng nổ bùng lên đinh tai nhức óc. Bầu trời vụt chớp sáng lòe chói lọi... Đầu bác sĩ Cần như bị bửa làm đôi. Khắp người ông bốc lửa. Quần áo ông đứt phựt hết tất cả các khuy. Cái mũ lông dày xụ của người êch ki mô bay vọt lên trời. Thay vì bước vào ôm lấy cô gái để được cùng khóc lóc than thở bác sĩ Cần bị nhấc bổng lên hai tay hai chân dang hết cỡ, khắp người trần truồng chẳng còn một mảnh vải. Ông bác sĩ gầm lên một tiếng và cắm đầu rơi bổ xuống, Nền đất nứt toác ra ầm ầm, ầm cuộn réo xôi xục. Trước khi ngất đi bác sĩ Cần còn nhìn thấy ngọn đèn bão để cạnh đầu quan tài đổ choang xuống nền nhà lóe lên như một ánh chớp rồi phụt tắt tức thì. Đêm hôm đó cả cái nhà gà Thuận Thiên rùng rùng như đang bị nhấn chìm xuống chín tầng địa ngục. Gió bão gào thét như phát điên phát rồ và trời đất tối đen như mực. ở tận tít thị xã cách cái nhà ga Thuận Thiên 9 cây số, mặc dù mưa bão đùng đùng, đứng tại văn phòng chủ nhiệm của hợp tác xã Vững Tâm chuyên sản xuất tăm tre xỉa răng người ta vẫn còn nghe rất rõ tiếng những tiếng la hét điên loạn vì hoảng sợ vì đau đớn tới tột đỉnh nhất. Cả đêm hôm đó tất cả mọi người dân thị xã đều đóng chặt cửa không dám ra đường. Mãi tới sáng hôm sau một đoàn xe cứu hỏa và một đoàn cứu sập cắt đường chạy tới ga Thuận Thiên thì từ xe họ đã nhìn thấy cái nhà ga xây bằng bê tông cốt thép đổ mái bằng nom chắc chắn như một cái lô cốt khổng lồ đó đã sụp đổ tan tành. Gạch đá vôi vừa sắt thép bị nhổ bật lên văng ra tứ tung và tất cả đều bị nhấn chìm trong một thứ bùn đặc sệt như nham thạch từ núi lửa phun trào lên. Duy chỉ có một cái khác là nham thạch thì đen sì đục ngầu xám xịt bấn thỉu khét lẹt mùi lưu huỳnh còn thứ bùn này thì lại trắng đục ngầy ngậy và thơm lửng như mùi thơm của một loại hoa chưa có ở trên thế gian này.
Để khai thông cho đường sắt tất cả dân ở thị trấn đã được huy động tới dọn dẹp bốc dỡ trong hai ngày đêm liên tục. Nghe nói người ta xúc cái loại bùn đó đổ tạm lên mấy quả đồi trồng bạch đàn ở cạnh nhà ga chỉ một tháng sau tất cả những cây bạch đàn khẳng khiu trồng trên mấy quả đồi đó đều tăng vọt kích cỡ trở thành những cây đại thụ khổng lồ bốn năm người ôm không xuể. Ba ngày sau khi dọn dẹp nhà ga Thuận Thiên lại được khai thông. Có người đã nhìn thấy khi chuyến tàu đầu tiên xùng xịch xùng xịch chạy qua khu nhà ga cũ đổ nát hoang tàn tới sát một sườn đồi rợp bóng hoa trạc trìu thì từ trong một bụi cây bên đường có một ông già tay xách va ly đầu đội mũ lông quần áo tả tơi dính đầy cỏ may nhảy vọt ra leo tót lên tàu nhanh như một con chuột lẩn vào đám hành khách đông nghịt đang chen chúc bên các ô cửa sổ ầm ĩ chỉ trỏ cho nhau bàn tán om xòm về cái tai nạn mà họ không thể hiểu được là tai nạn gì vừa giáng xuống cái ga xép bé nhỏ côi cút có tên là Thuận Thiên mà họ đang đi qua.
Cách ga xép Thuận Thiên 13 ga ở về phía Đông Bắc có một Thành phố khá to, dân cư chen chúc tới gần 30 vạn người có hộ khẩu đăng ký chính thức và không dưới 5 vạn người thường xuyên có hộ khẩu tạm trú. Hơn ba thập niên về trước Thành phố này chỉ là một phố huyện có 8 nóc nhà và một xưởng chuyên xay xát gạo. Sau năm 1975, không rõ vì nguyên cớ gì phố huyện này bỗng dưng được nhẩy phốc vào một qui hoạch khẩn cấp xây dựng phát triển thành một Thành phố có tầm cỡ. Trong 5 năm liền, tiền của gạch ngói sắt thép và những đoàn người cứ nối nhau đổ về đây như thác lũ. Kết quả là 9 quá đồi bị bạt đi thành bằng địa. 108 khu nhà cao tầng mọc lên như 108 tổ ong khổng lồ xếp lổn ngổn trên một bình địa đỏ ngầu đất đồi và cát sỏi quanh năm tuôn bụi sặc sụa mờ mịt. Hai công trình hùng vĩ nhất, đồ sộ nhất dựng lên được coi như là 2 biểu tượng vĩ đại của Thành phố đó. Đó là nhà máy hóa chất Hoa Hồng đổ móng ở ngay chính giữa khu Trung tâm Thành phố một năm có thể phủ trùm lên tất cá các khu nội ngoại thành khoảng 108 tấn bụi có khả năng gây ung thư dạ con và viêm nhiễm tinh hoàn đồng thời cũng có thể cho ra lò 108 tấn phân hóa học siêu hạng có khả năng tăng năng suất lúa mùa lên hai lần và tàn sát tất cả các loại cỏ dại cùng các thứ côn trùng sâu bọ, tôm cá đã bao đời nay quen trú ngụ sinh sống ở trên cánh đồng. Công trình thứ hai là một hồ chứa nước nhân tạo ở phía Bắc Thành phố. Hồ này rộng 108 héc ta có thể chứa 108 tỷ mét khối nước. Theo như dự án thì nước ở hồ có thể đủ tưới tắm cho 9 lần diện tích trồng trọt thâm canh hiện có của các vùng phụ cận quanh Thành phố và đủ nước uống cho 9 lần số dân hiện đang sinh sống trong thành phố trong 90 năm vẫn chưa cạn. Tuy nhiên cũng cần nói rõ thêm dù có nói dại là nếu vì một lý do nào đó: động đất, lụt bão hoặc bị kẻ gian đặt mìn phá hoại nổ. Sập kè thì 108 tỷ khối nước đó sẽ đổ ập vào Thành phố thừa sức cuốn phăng tất cả nhà cửa và dân cư ở Thành phố này bạt ra tới biển đông và còn trôi tít tận ra khơi xa tới 9 hải lý có thừa.
Sau khi tận mắt chứng kiến cả ga xép Thuận Thiên nổ tung rồi bị nhấn chìm trong một tai họa động đất cỡ tới 9 Rích-te bác sĩ Cần đã bị ném văng vào một bụi mây rậm rạp cách nhà ga khoảng 40 phút và cứ nằm tịt trong bụi mây hai ngày liền không dám ngo ngoe động đậy. Nỗi khiếp hãi kinh hoàng đã làm ông gần như mất trí. Hai ngày rúc trong bụi mây đầy gai ông bác sĩ không ăn không ngủ không ỉa không đái mà chỉ rên ư ử như một con chó mắc bệnh đường ruột. Trong 2 ngày đó đã 9 lần ông định cắn lưỡi tự tử vì nghĩ rằng chính ông đã gây ra cái tai nạn ghê gớm này cướp đi cái mạng sống mơn mởn tươi non của cô gái xinh đẹp. Đấy là ông bác sĩ tưởng như vậy. Sang ngày thứ ba, nhà ga đã được dọn xong và tàu cũng đã thông thì ông bác sĩ cũng đã khóc cạn nước mắt, đã rên khản cả cổ và cũng đã đói thắt ruột khát cháy cổ. Sự đau đớn đói mệt của xác thịt cũng đã đẩy lui phần nào sự đau đớn đói mệt của tâm hồn. Ông bác sĩ bò ra khỏi bụi mây đang tính chuyện đi về một phương trời nào đó thì vừa hay có đoàn tàu xình xịch xình xịch chạy qua.
Thế là ông liền xách va ly nhảy vọt lên tàu và lẩn vào đám đông nhanh như một con chuột. Tuy nhiên cơn kinh sợ và sự hối hận vẫn còn dày vò ông khiến bác sĩ Cần có tâm trạng như một kẻ trốn tù. Lên được tàu rồi, sợ một người nào đó nhận ra mặt mình ông lẩn ngay vào buồng xí và cài chặt then cửa lại Và cứ như thế ông ở lỳ trong buồng xí cho đến lúc nhân viên bảo vệ đường sắt phá cửa xông vào thúc gáy ông đẩy xuống một ga xép cách thành phố này hơn một ki lô mét vì lý do: Đi lậu, không có vé. Chán ngán, mỏi mệt, đói và nỗi hối hận vẫn còn đeo đẳng trong lòng bác sĩ Cần một lần nữa loạng choạng run rẩy mặc cho hai cái cẳng chân lông lá đưa dắt đi đến đâu thì đến. Tuy vậy ông cũng không hề bị rơi xuống hồ xuống sông hoặc nhầm lối đâm quàng xuống rãnh hoặc một cái hố nào. Đôi cẳng chân dẫu không có mắt nhưng vẫn đưa được bác sĩ Cần đến cái nơi đáng phải tới nhất ở miền dồi núi hoang vu chẳng ra trung du mà cũng chẳng ra thượng du này. Nơi đó chính là Thành phố 30 vạn dân có hộ khẩu chính thức thêm 5 vạn dân đăng ký tạm trú.
Bác sĩ Trương Vĩnh Cần bị cảnh sát cơ động xét giấy ở tại quảng trường giữa thành phố, nhưng ông không bị bắt về đồn mà chỉ bị nghiêm khắc nhắc nhở:
- Này bố già... đi về nhà. Không được tập tênh ở đây nghe không. Về nhà đi...
Một lời nhắc nhở như thế nếu không dành cho người điên thì cũng tặng cho một kẻ dở ngô dở ngọng nửa hâm nửa tỉnh. Bác sĩ Cần vốn dĩ sợ công an. Ông vâng dạ cám ơn rối rít rồi xách va ly lủi thật nhanh ra khỏi cái quảng trường rộng thênh thang. Nhưng ông làm gì có nhà ở đây để mà đi về nhà. Chợt nhớ lời một ả gái điếm già đã có lần cười toét vào mặt ông: "Thứ bảy tuần tới mời ông tới em nhé. Căn hộ của em là phòng đợi nhà ga đấy... Thế là bác sĩ Cần hỏi đường lần tìm ra ga của Thành phố. Theo như đồ án xây dựng nhà ga chính nằm ngay giữa trung tâm thành phố. Sở dĩ quyết định đặt ga ở vị trí này là có "nhã ý" mỗi khi có một đoàn tàu từ xa đến hoặc từ nhà ga đi có kéo mấy hồi còi chào thì tất cả thành phố đều nghe được để không còn ai tị ai. Nhà ga của thành phố được xây dựng trên một khoảnh đất đồi san bằng rộng tới 9 héc ta gồm một tòa nhà 9 tầng 108 phòng trong đó phòng đợi tàu là rộng nhất có diện tích 900 mét vuông nền lát toàn đá trắng và tường thì phun xi măng màu đỏ trộn lẫn màu vàng. Tòa nhà nhìn ra một cái sân lát bê tông nhựa rộng thênh thang mà ở 4 góc sân có 4 hố xí công cộng. Hai hố xí bên phải dành cho đàn ông và 2 hố xí bên trái thì tất nhiên dành cho đàn bà trẻ con. Tại 4 hố xí công cộng này có bắt hệ thống phun nước hoa cô-lơ-nhơ suốt ngày suốt đêm để bảo đảm khử mùi khai và mùi thối. Và cũng để "che khuất các hố xí, bảo đảm mỹ quan, tế nhị...". Người ta xây một loạt các quầy nhỏ chuyên bán cơm phở, tái dê, bò thui, bia hơi, bia hộp. Các quầy này sẽ hoạt động 24 giờ trên 24 giờ để phục vụ khách đi tàu và bất cứ người dân nào cửa thành phố không thích đi tàu. Nói tóm lại đấy là một tổ hợp nhà ga hiện đại và thực dụng. Một nhà ga mẫu mực chỉ tội là nó mới đang đổ móng thì bị đình chỉ ngay lại vì thiếu vật liệu. Chính vì thế khi mò đến nơi thì bác sĩ Cần rơi vào một công trường dở dang, lổn ngổn cát sỏi đất đá và thậm chí cả *** chó.
Nếu không nhìn thấy hai đoạn đường ray chạy loằng ngoằng như hai con giun đang dãy dụa lẫn trong đám cỏ gấu và ngửi cái mùi giấy dầu bị đốt cháy khét lẹt - không hiểu tại sao các nhà ga đang xây dở lại rất thích đốt từng đống giấy dầu bốc khói đen xì thì nhất định bác sĩ Cần sẽ ngỡ mình lạc đường tới bãi rác công cộng rồi. Nản lòng quá bác sĩ Cần đành rúc vào một cái quán cóc nom hệt như lều vịt ở gần lối vào ga. Ông muốn tìm một thứ gì ăn tạm cho đỡ đói lòng nhưng tất cả mấy cái quán liền, quán cóc quanh ga đều trống hoác chỉ còn trơ lại mấy bộ bàn ghế mộc bị xích chặt vào nhau. Bác sĩ Cần càng chán nản hơn, ông chỉ còn biết thở dài oán trách mình đã quá bi lụy mấy ngày qua chỉ biết rúc vào bụi mây và buồng xí thành tâm, than khóc mà không tỉnh táo tranh thủ lùa được mấy cái bánh chưng hoặc bánh dầy giò vào bụng. Bác sĩ Cần than thở như vậy.
Mệt, đói, khát, và rét bác sĩ Cần đành ghé lưng lên một cái ghế dài đã long chân. Đầu gối lên cái va ly, chân quắp lại hai tay chắp vào nhau nhét vào háng - điệu nằm đích thực của những ke đói khổ không nhà - bác sĩ Cần thiếp đi trong khi bụng réo ùng ục như cống bị tắc.
*
Sáng hôm sau, vào khoảng 8 giờ, đang nhăn nhó rên rỉ trong giấc mộng mị nặng nề, bác sĩ Cần bị hai anh bảo vệ mặt mũi cau có dựng ngay dậy, chẳng nói chẳng rằng lôi thốc về trụ sở tổ bảo vệ dân phố ngay bên cạnh ga. Do sự tắc trách quan liêu hoặc nhầm lẫn nào đó của mấy anh công an phường mà tự dưng bác sĩ Trương Vĩnh Cần lại bị nhầm lẫn với một tay anh chị đại ca nổi tiếng trong giới giang hồ có biệt danh là Trương lão ca cầm đầu một băng chuyên buôn các cô gái trẻ bán qua Trung Quốc. Sau hơn một tiếng lấy cung qua quít anh Thiếu úy cảnh sát hình sự mới tốt nghiệp ra trường bèn đề nghị hãy cứ đưa ông lão ăn xin đầy khả nghi này về tạm giam ở trại giam cửa tỉnh để chờ lấy cung xét xử sau.
Bác sĩ Trương Vĩnh Cần đón nhận cái tai vạ oan trái đó với thái độ cam chịu và thành khẩn. Hơn hai mươi năm trời sống cô đơn bị người đời ruồng bỏ, khinh miệt lãng quên ông đã quá quen với sự nhẫn nhục. Rời khỏi trụ sở tổ tuần tra dân phố, ông được hai cảnh sát nai nịt tề chỉnh đưa ngay ra cửa sau và áp tải về thẳng trại giam tỉnh. Tại đây, đáng nhẽ ông được nhốt ở khu của những người chưa thành án nhưng do khu xà lim đó quá chật chội nên bác sĩ Cần được gửi tạm vào dãy của những tội nhân thụ án tử hình. Vì thế mà ngẫu nhiên trong mươi ngày ngắn ngủi bác sĩ Cần đã có dịp làm quen và kết bạn với tướng cướp Thạc gà gáy - một trong những tướng cướp khét tiếng vùng duyên hải giết không dưới hai chục mạng người, đã hết thời hạn một tháng xin giảm án đang nằm chờ ngày lên đoạn đầu đài. Do tình cờ mà cái chuồng cọp nhốt ông bác sĩ lại ở sát ngay cái chuồng cọp của tướng cướp Thạc gà gáy. Vì vậy, vừa mới chui vào cái lồng sắt kiên cố vuông vắn 9 mét vuông bác sĩ Cần đã nhìn ngay thấy ông bạn hàng xóm tướng cướp Thạc đang ngồi xếp chân bằng tròn chơi cờ tướng một mình ở chính giữa cái lồng sắt bên cạnh. Đó là một thanh niên mảnh khảnh nhưng khỏe mạnh, tóc cắt cao, da trắng, hai mắt đục như khói. Vì đã được cán bộ quản đốc trại giải thích rõ đây là khu biệt giam nhốt những tội nhân sắp bị đưa đi bắn nên bác sĩ Cần không giấu nổi tò mò và ngạc nhiên khi nhìn thấy một tội nhân tử hình lại có thể hiền lành và có phần nào khá điển trai như vậy. Thấy bác sĩ Cần cứ giương mắt ra nhìn, tướng cướp Thạc bèn ngoảnh mặt sang chĩa 2 ngón tay sang giả làm nòng khẩu súng lục nhằm thẳng vào mặt ông bác sĩ rồi tủm tỉm cười nhấc mông lên và bắn ra một tràng rắm ròn như tràng pháo tét khiến ông bác sĩ giật bắn mình hốt hoảng đánh rơi cả cái kính lão xuống sàn may mà không bị vỡ. Chỉ qua một đêm kẻ tội hình đã trở thành người hàng xóm thân thiện với bác sĩ Cần. Tướng cướp Thạc vui vẻ hỏi ông bác sĩ:.
- Lão ca đã đưa bao nhân mạng xuống âm phủ rồi?
Bác sĩ Cần lắc đầu:
- Tôi chưa bao giờ giết người.
Thạc gà gáy gật gù.
- Trước khi dựa cột thằng cha nào chẳng chối đây đẩy như vậy.
Bác sĩ Cần thật thà:
- Đây là lần đầu tiên tôi ngồi tù.
Tướng cướp Thạc cười phá lên:
- Bố diễn khéo ra phết. Nhưng tôi có lời nói lão ca đây đã vào cái chuồng cọp này rồi thì cần đéo gì đời nữa. Hãy sống thật với con người mình.
Rồi Thạc gà gáy nheo mắt ngắm nhìn bác sĩ Cần như ngắm một con khỉ già. Gã tướng cướp ngẫm nghĩ điều gì đó rồi tắc lưỡi:
- Nhìn kỹ lão ca thì không có tướng buôn lậu giết người. Mắt thế kia râu ria thế kia nói lão ca bỏ lỗi y hệt như lão già râu xanh mắc tội cưỡng hiếp gái vị thành niên.
Bác sĩ Trương Vĩnh Cần đỏ mặt tía tai. Gã tướng cướp trẻ nhảy thách ngay lên khoái chí:
- Đoán trúng phoóc mà. Thương công cho đệ đi. Lão ca tường thuật lại vụ cưỡng hiếp đó đi. Chắc là ly kỳ và dâm ô hấp dẫn lắm đây. Kể đi kể đi.
Bác sĩ Cần cúi gầm mặt xuống bò giật lùi lại một góc phòng giam. Ngồi chồm hỗm trong cái chuồng đối diện Thạc gà gáy cười hí lên dồn dập tung ra những câu hỏi tục tĩu. Bác sĩ Cần ù hết cả tai. Giá như có lỗ nẻ thì ông đã chui tụt xuống. Thạc gà gáy vẫn cứ hí lên dồn dập chọc ghẹo ông bác sĩ. Thái độ của gã rất thân thiện và để biểu thị lòng thân thiện đó tướng cướp Thạc bèn tung sang cho bác sĩ Cần một bao ba số năm mới cứng.
Không hiểu vì lý do nào đấy có thể do sự nhầm lẫn hoặc do sự quan liêu của ông quản trị trưởng nhà giam mà ngay từ hôm đầu tiên vào ngự ở trong chuồng cọp bác sĩ Cần lại được hưởng ân huệ tiêu chuẩn đặc biệt của một tử tù đang đợi ra trường bắn. Thật là bõ cho ông sau bao ngày lang thang đói khát. Ông ăn thật lực uống thật lực và hút cũng thật lực. Bữa nào cũng vậy: cơm canh giò chả tim gan bia rượu bê vào đầy ụ mâm chỉ loáng một cái bác sĩ Cần đã chén sạch như chùi. Chính ông cũng không hiếu tại sao ông lại ăn nhiều như vậy. Không phải chỉ có ông ngạc nhiên mà tướng cướp Thạc ở chuồng bên cạnh cũng phải ngạc nhiên. Nhiều bữa Thạc còn liệng sang cho ông nửa con gà, cái chân giò hoặc từng miếng chả to bằng bàn tay khi thấy mâm đã sạch trơn rồi mà ông bác sĩ vẫn còn thòm thèm. Ăn nhiều thì ỉa cũng khỏe. Ngày nào cái thùng gỗ ở góc chuồng cũng đầy phè *** đái Có hôm còn trào ra sân lênh láng, bốc mùi hôi thối không chịu được. Nhưng tướng cướp Thạc không vì thế mà khó chịu. Thạc tấm tắc: Bố già siêu quá. Đớp hít ỉa đái như thế thì ** chết tươi các em chíp hôi cũng phải thôi. Vì ông bác sĩ không nói nên Thạc vẫn đinh ninh ông cũng đang nằm chờ cái ngày tắc tử như mình. Người cùng cảnh thì bao giờ cũng mau thân ái với nhau. Nhiều hôm sau bữa ăn Thạc than thở: Nhìn lão huynh ăn uống ỉa đái mà đệ phát thèm. Đệ không ăn được. Đã thế lại táo bón kinh khủng. Mắt thì cứ mờ đi từng ngày một. Không khéo đến cái ngày ấy hai mắt đệ lòa hẳn thì nguy. Làm ma sáng còn chẳng ăn ai. Ma mù thì có mà toi đời uổng một kiếp ma còn vật được thằng nào nữa. Hơn hai chục năm trời chịu án kỷ luật thui thủi ở nhà xác, chịu sự khinh bỉ ghê tởm hắt hủi của bè bạn và xã hội, còn ít thời gian rỗi rái bác sĩ Cần chỉ còn biết lại giao du chơi bời với mấy thằng dở người ăn mày và lũ gái điếm bệnh hoạn ba trợn ba trạo ở ngoài ga.
*
Đây là lần đầu tiên bác sĩ Cần phải ngồi tù mà lại ngồi ở trong cái chuồng cọp trở thành hàng xóm của một tội nhân tử hình. Cái hoàn cảnh oái oăm trớ trêu và hiếm có này đối với bác sĩ là cảnh lạ đời. Hàng ngày ngoài những lúc ăn ngủ ỉa đái. Bác sĩ Cần nằm dài mê mải ngắm nhìn tướng cướp Thạc ngồi tọa thiền.
Ông tò mò háo hức lạ lùng như đứa trẻ vào chơi ở vườn bách thú đứng trước cái cũi sắt nhốt con hố đang nằm duỗi dài lim dim mắt ngủ gà ngủ gật. Một ngày có 12 tiếng thì Thạc ngồi tọa thiền tới 8 tiếng. Một đêm có 12 giờ thì Thạc cũng phải ngồi tọa thiền không dưới 8 giờ.
"Đệ đã học được phép luyện nội công thần khí thuộc môn phải Võ Đang của một võ sư người Thổ ở Cao Bằng". Thạc nói với bác sĩ Cần như vậy. Suy nghĩ một lúc Thạc nói tiếp: Nếu như đệ tu luyện thêm 5 năm nữa thì có thể chống được súng đạn. Rất tiếc là số đệ đã tới nên mới bị bắt sớm thế này. Nhưng... còn nước còn tát. Mặc dù đã cùng đường nhưng đệ vẫn cố một lần cuối cùng. Biết đâu đấy. Vả lại, cái việc ngồi tu luyện thần khí như thế này chỉ có lợi mà thôi, chí ít là ta sẽ không bao giờ bị hoảng loạn. Có chết cũng phải chết cho đàng hoàng.
Và Thạc nói thêm:
- Ở cái khu chuồng cọp này cứ mười thằng vào ăn chực nằm chờ thì có tới bảy tám thằng phát điên trước ngày ra trường bắn. Đời cũng chó lắm lão huynh ạ. Không cứng tay nó đớp mình cái chắc. Có một ngày không hiểu nghĩ sao tướng cướp Thạc vứt sang cho bác sĩ Cần tờ báo đã nhàu nát. ở trang tư có đăng bài viết với đầu đề: "Tên tướng cướp Thạc gà gáy đã sa lưới và đang đợi ngày lên đoạn đầu đài". Bài báo kể tóm tắt tiểu sử Thạc: quê ở vùng trung du Bắc Bộ đi bộ đội đặc công. Giải ngũ. Sinh viên năm thứ hai tổng hợp Toán. Can án lừa đảo bị đuổi học. Bỏ vào Sài Gòn ra Huế, lên Cao Bằng Lạng Sơn buôn chè rồi buôn thuốc phiện. Bị bắt. 2 năm tù ngồi. Thả trước 6 tháng. Lại tiếp tục tái phạm tội ác. Trở thành tướng cướp cầm đầu đảng mặt chó chuyên cướp giật trên tuyến đường 5 Hà Nội - Hải Phòng. Hung hãn. Võ nghệ cao cường. Độc ác tàn bạo mất hết nhân tính. Đã giết người hàng chục lần bằng tất cả các thủ đoạn: chém, đâm, bắn, thắt cổ và bổ cả cuốc chim vào đầu. Bị bắt lần thứ hai và là lần cuối cùng ở quê ngay tại nhà đêm 30 tết vào đúng phút giao thừa. Bị tuyên án tử hình. Không chống án. Và cuối cùng bài báo nói rõ hiện đang nằm khám tử hình đợi ngày lên đoạn đầu đài.
Thạc cười tủm tỉm nói với bác sĩ Cần.
- Cái thằng phóng viên viết bài báo này là một thằng bạn cùng tổ 3 người với đệ từ ngày xưa ngày xưa đời lính đấy lão huynh ạ. Chính nó đã vào tận đây thăm và phỏng vấn đệ hơn một giờ đồng hồ. Tên thật của nó là Phạm Hữu Cải. Nhưng còn chuyện thú vị hơn.
Thằng đại úy cảnh sát hình sự chỉ huy vụ chộp đệ ở nhà quê lão huynh có biết là ai không. Nó chính là thằng thứ ba ở cùng tổ tam tam với đệ và thằng Cải đấy. Tên thật của nó là Trần Hải. Chứ không phải là Lê Đức như trong bài báo đã viết đâu.
Vẫn tủm tỉm Thạc kể:
- Đời cũng lạ thật. Cứ y như trong tiểu thuyết vậy. Hòa bình lập lại, 3 thằng cùng ra quân. Đệ vào tổng hợp Toán. Thằng Cải di học lớp báo chí trung ương còn thằng Hải thì chuyển sang công an sau đó đi học đại học cảnh sát ở Cộng hòa dân chủ Đức. Mười năm sau mỗi thằng một số phận. Thật đúng là như trong tiểu thuyết rồi còn gì nữa. Đời lạ thật.
Nằm dài ra nền xi măng lạnh ngắt, vươn tay duỗi chân cho đỡ mỏi, ngẫm nghĩ một lúc. Thạc bật dậy cười khùng khục rồi hào hứng tiếp tục câu chuyện:
- Thú thật với lão ca nếu không có thằng Hải thì có mà Thánh chộp được đệ. Chỉ có thằng Hải mới biết được chỗ yếu độc nhất của đệ cho nên nó mới thắng. Ngày xửa ngày xưa hồi còn ở lính với nhau. Một lần nằm gác chân tâm sự đệ đã kể cho nó nghe cái gót chân A-sin ấy của đệ.
"Hồi còn kháng chiến chống Pháp gia đình đệ chạy tản cư lên vùng Chiêm Hóa, Tuyên Quang mẹ đệ bị ho lao rồi chết ở đó. Chết vào đúng "giao thừa" ba mươi tết.
Vì vậy hàng năm cứ vào lúc giao thừa đệ đốt một nén nhang trên bàn thờ mẹ. Hồi ở chiến trường không có bàn thờ thì đệ lập một cái bàn thờ dã chiến tại chỗ. Nén nhang cháy hết thì cũng xóa bàn thờ luôn. Cái thằng Hải này nhớ dai nắm được cái gót chân A-sin đó của đệ. Gần Tết cuối năm ngoái sau chiến dịch tổng tiến công truy quét tội phạm rất dữ dội của công an, đệ tạm giải giáp bọn đệ tử rồi lẩn về quê đào hầm ở gần cửa sông ẩn náu tính chuyện vượt biên. Cũng vào những ngày này thằng Hải bây giờ đã là đại úy ở Bộ Nội vụ bổ sung về tăng cường trực tiếp chỉ huy đội săn bắt cướp truy nã đệ trước đó. Nó và đệ tử đụng nhau ba lần ở trên tàu hỏa và bến ô tô nhưng cả ba lần đệ đều cho nó bẽ mặt ăn vỏ chuối. Nhưng tới lần thứ tư thì nó đã thắng. Nó đã nhớ ra cái gót Asin của đệ nên đêm ba mươi Tết năm ngoái đã bí mật về ém ở ngay vườn chuối sau nhà đệ và đợi đúng lúc giao thừa thì đạp cửa xông vào với khẩu AK lăm lăm trên tay. Nó đã chọn đúng lúc trên tay đệ chỉ có độc nhất một nén nhang đang thắp dở. Thằng Hải nhớ dai đã thắng một đòn quyết định. Và đệ đã bại trước thằng bạn cũ của mình.
Bác sĩ Cần đọc trong bài báo thấy anh phóng viên Phạm Hữu Cải tả rất chỉ tiết cái cảnh tướng cướp Thạc đã không kịp cho nổ quả lựu đạn mỏ vịt lúc nào cũng đeo ở thắt lưng. Quả lựu đạn tử thủ quyết chết tan thây cùng với kẻ xông vào sát sạt bắt gã chứ quyết không chịu để bị bắt sống. Bài báo cũng kể rất lý thú cái đoạn sau khi bắt sống được tướng cướp Thạc rồi, hai đồng chí công an trong đó có đại úy Lê Đức cùng một tốp dân quân đã trói ghì Thạc như trói một con lợn vào xe cải tiến và tức tốc đẩy chiếc xe đó lên công an huyện rồi lấy ô tô tải chở luôn cả Thạc vẫn bị trói chặt vào cỗ xe cải tiến chạy một hơi về ty công an Thành phố. Tất nhiên cái chỉ tiết gót A-sin mà Thạc gà gáy vừa kể thì không thấy bài báo đả động gì tới.
Có một cái lệ ở trong dãy khám tù tử hình là người ta chỉ làm công tác chuẩn bị cho tử tù một nửa ngày trước cái ngày phạm nhân bị đưa đi hành quyết. Đây là một cái lệ nhằm tránh cho tử tội phải chịu đựng một quãng thời gian dài hoảng loạn trí não. Một buổi chiều tối sau khi đã chén hết cân rưỡi thịt chó và uống cạn chai bia Vạn Lực, bác sĩ Cần đang ngồi nhâm nhi ly cà phê với điếu ba số thì ở chuồng cọp bên tướng cướp Thạc thong thả nói với sang giọng tỉnh khô báo cho bác sĩ Cần biết: Sáng mai em phải đi rồi lão huynh ạ. Thạc chỉ nói có một câu như vậy rồi lại ngồi xếp vòng tròn thẳng lưng nhắm mắt tọa thiền. Suốt cả đêm hôm đó Thạc ngồi im như một pho tượng đá.
Cho đến 5 giờ sáng thì bốn người cảnh sát ăn mặc nghiêm chỉnh tới mở khóa chuồng cọp đưa Thạc gà gáy đi ra. Suốt đêm hôm đó bác sĩ Cần cũng không sao ngủ được. Ông nằm co ro không dám hỏi không dám ho không dám liếc nhìn sang, thậm chí cũng giấu cả tiếng thở dài chỉ lặng lẽ hút từ điếu đầu tiên cho đến điếu cuối cùng của bao thuốc 3 số sang trọng. Gần sáng mệt quá bác sĩ Cần thiếp đi. Ông chỉ choàng dậy khi nghe tiếng gầm đồng thanh của tất cả đám tử tù trong khám tử hình cùng loạt gầm lên nhịp nhàng u trầm chào tiễn biệt một kẻ cùng hội cùng thuyền đi vào cõi chết.
Bác sĩ Cần không hề được chứng kiến cái cảnh tướng cướp Thạc ung dung đi giữa 4 người cảnh sát vào cái phòng đợi rộng có 8 mét vuông ở gần cổng ra vào trại giam. Tại đây tướng cướp Thạc gà gáy thong thả chén hết một đĩa xôi gà và hút hết một điếu thuốc lá đầu lọc. Và cũng tại đây Thạc gà gáy đã từ chối nói lời cuối cùng và cũng đã trả lại không nhận một mầu giấy chỉ to bằng bàn tay và cây bút chì ngun cũn đầu vót rất tù với ý đồ người tử tù có muốn viết nhiều thì cũng không còn đầu chì đâu nữa mà viết. Sau cái thủ tục đó, bác sĩ Cần cũng không nhìn tận mắt cái cảnh Thạc gà gáy bị điệu lên xe và tức tốc dưa thẳng ra trường bắn ở phía Tây ngoại ô Thành phố. Tại đây một chiếc cọc gỗ đã được trồng nguy trên sát miệng huyệt đào sẵn và một đội hành quyết 6 người áo mũ chỉnh tề súng tuốt trần lưỡi lê đang đứng nghiêm chờ đợi. Và bác sĩ Cần cũng không thể được chứng kiến cái phút cuối cùng từ trên xe bước xuống tướng cướp Thạc gà gáy bỗng nhiên suy sụp rất đột ngột. Hai chân ríu lại người mềm nhũn phải có hai cảnh sát xốc nách vất vả lắm mới dìu được gã tới trói vào cây cột hành quyết. Một loạt súng vang rền và chỉ trong chớp mắt, cái thân thể mảnh khảnh của tướng cướp Thạc gà gáy giẫy lên mấy cái rồi chĩu xuống trong sợi dây trói. Cái đầu của gã gục xuống ngực áo đang phun máu đỏ lòe.
*
Ba ngày đêm liền sau cái ngày ông bạn hàng xóm tướng cướp Thạc gà gáy bị đưa đi xử tử, bác sĩ Cần không sao chợp mắt được.
Kèm theo căn bệnh đó là ông mất hắn cái khả năng ăn uống như uống như hổ. Suốt ba ngày bác sĩ Cần chỉ ngồi co ro như con khỉ ốm ở góc chuồng, đầu gục vào hai gối. Thỉnh thoảng vô tình nhìn sang cái chuồng cọp rỗng không bên cạnh ông lại giật mình tưởng như vẫn còn thấy tướng cướp Thạc đang ngồi tọa thiền lù lù bất động. Ngày thứ tư ngay giữa buổi trưa ông bác sĩ mơ thấy hồn tướng cướp Thạc lù lù bay về. Cái luồng khí đặc quánh màu da cam cứ cuốn lên sôi sục lông lộn như một con ác thú đang bị nhốt trong chuồng cọp. Luồng khí đặc quánh màu da cam đó phả vào mặt ông một luồng hơi tanh tưởi lạnh đến chết người mà người ta vẫn quen gọi là luồng khí của tử thần. Rồi luồng khí đó tan rã dần nhạt dần và hóa thành một giải khói đen mỏng dính ngoằn ngoèo bay lên trời. Rồi bác sĩ Cần lại nghe có tiếng khóc than nho nhỏ ở đâu đó trên cao. Tiếng khóc đó than rằng: "Hãy thắp cho mẹ tôi một nén nhang. Hãy thắp cho mẹ tôi một nén nhang". Tới đây thì bác sĩ Cần choàng tỉnh dậy. Bàng hoàng ngây ngất vừa quệt mồ hôi đang đổ ra ròng ròng ở lưng ở nách bác sĩ Cần vừa run rẩy nghĩ: Chắc là hồn cậu ấy vừa về báo mộng cho mình đây.
Nghĩ như vậy tự dưng ông bác sĩ bỗng sa nước mắt ông lồm cồm bò dậy chắp tay vái lên trời rồi rì rầm khấn: Tôi đã nghe rõ lời của cậu rồi. Tôi xin hứa với cậu, nếu như tôi được ra khỏi đây, thì ngay cái tết đầu tiên trở lại đời tự do tôi sẽ tìm về quê của cậu tìm về đúng nhà của cậu sẽ thay cậu thắp một nén nhang cháy đỏ cắm ngay ngắn trên bàn thờ mẹ cậu. Tất nhiên là nén nhang đó sẽ được cắm vào cái bát hương đúng vào lúc pháo nổ báo hiệu giao thừa bước sang năm mới. Ông bác sĩ lẩm bẩm hứa thầm trước hương hồn của tướng cướp Thạc gà gáy và ông cũng không thề ngờ lời hứa đó lại sớm được thực hiện.
Đúng hai tuần sau cái ngày Thạc gà gáy bị điệu đi dựa cột thì lệnh bắt tạm giam bác sĩ Trương Vĩnh Cần được hủy bỏ. Cũng không có gì khó hiểu lắm vì cảnh sát hình sự đã tình cờ bắt được quả tang tên đầu đảng băng buôn người Trương lão ca đang cùng đồng bọn áp tải sáu em mắt xanh mỏ đỏ lén lút vượt qua biên giới. Tất nhiên bác sĩ Trương Vĩnh Cần đã được trả lại tự do ngay kèm theo một lời xin lỗi của những người có trách nhiệm.
Bác sĩ Trương Vĩnh Cần ra tù vào đúng ngày thứ ba của một đợt rét rất dữ dội kéo dài liên tục mười bảy ngày. Không hiểu vì sao giáp tết rồi trời chẳng chịu ấm lên mà lại trở rét ghê gớm đến như vậy. Suốt l7 ngày liền gió bấc thổi ù ù như bão. Đường phố tự dưng vắng tanh vắng ngắt như đang bị dịch hạch.
Ra khỏi tù, bác sĩ Cần đi thẳng ra cái trường bắn ở phía Tây ngoại ô thành phố nơi có những quá đồi lùn trọc thui lủi để thăm mộ Thạc gà gáy. Trời giữa trưa mà âm u như buổi hoàng hôn, cái cột bắn vẫn chưa nhổ. Ngôi mộ đắp vội chôn Thạc gà gáy đã kịp lún xuống sau mấy ngày gió mưa xùi sụt. Một chút cỏ dại lá sắc như dao đã kịp bò lên đánh vầng trên đất mộ. Cỏ thì tươi non xanh mơn mởn mà đất thì già cỗi vàng như nghệ. Bác sĩ Cần ngậm ngùi cắm cho Thạc gà gáy một nén hương rồi ông ngồi bệt trên hai hòn gạch vỡ ngắm mưa bay, ngắm cái mả mới lù lù câm lặng. Nỗi buồn như con giun đất lấm láp cứ từ từ bò từ gan lên phổi lên tim lên óc ông bác sĩ khiến ông nôn nao ca người chỉ mong được nôn thốc nôn tháo một bãi ra cỏ. Ông chợt nhớ tới một cậu em của bà Ngót tên là Thắng. Thạc gà gáy hơn Thắng ba tuổi. Có một cái gì đó thật đau lòng thật trớ trêu.
Thắng sướng từ nhỏ, những năm chiến tranh chỉ chuyên cần đi học, hiện là kỹ sư trưởng phòng thiết kế một nhà máy cơ khí lớn. Cậu em vợ cũ của ông thành đạt nhưng đã từ mặt anh rể mặc dù ông đã nuôi nó như con đẻ. Còn Thạc gà gáy. Nó đã phải ra trận rồi bây giờ bị xử bắn vì những tội ác giết người rất dã man của nó. Ngồi dưới vòm trời mưa dầm gió rét âm u, bác sĩ Cần thương nhớ cả hai. Ông không nghĩ nhiều tới sự được thua số phận mỗi đứa mà chỉ thương cảm cho cả hai. Rồi ông ngửa mặt lên trời mơ màng buồn tủi. Rồi ông lom khom bốc mấy tảng đất đắp lên chỗ lún của cái mả Thạc gà gáy. Ba tuần lễ rồi hồn của Thạc gà gáy chắc đã tiêu tan tiêu cùng gió mây hòa vào vũ trụ. Chẳng còn hy vọng gì gặp lại cái luồng khí đặc quánh màu da cam sôi sục cuộn réo ở đâu đây. Hai tay lấm đầy đất miên man đứng mãi dưới trời mưa bay gió lạnh bác sĩ Cần bỗng giật mình như người vừa tỉnh dậy sau cơn mê. Cây hương đã cháy hết từ lúc nào. Chùi tay vào cỏ, ông bác sĩ chắp hai tay vái ngôi mộ ba vái rồi quay gót. Phải về thôi. Nhưng về đâu bây giờ nhỉ. Khi đi ngang qua cây cọc bắn nhìn thấy hai lỗ đạn cháy xém xuyên thủng cột bác sĩ Cần bỗng chợt nhớ ra là mình phải về đâu bây giờ và ông lầm bầm suy tính. Từ nay đến tết chỉ còn hơn ba tuần nữa thôi.
Không rõ có cái gì đưa đường chỉ lối mà bác sĩ Cần lại tìm được về đúng ngôi nhà của tướng cướp Thạc gà gáy ở xóm Vân Thù xã Lại Giang, ở cách không xa thị trấn Cốc Lếu nổi tiếng buôn lậu sát biên giới phía Bắc. Khi còn sống Thạc gà gáy không hề cho ông biết nhà cậu ta ở đâu. Còn bài báo lại nói sai quê tướng cướp Thạc gà gáy ở tỉnh Hưng Yên cũ.
Rời khỏi trường bắn, bác sĩ Cần đi thẳng ra ga leo lên một đoàn tàu vừa đỗ lại để uống nước thêm than. Rồi chuyến tàu lại đi. Bác sĩ Cần gục xuống bên khung cửa sổ ngủ như chết cho tới khi hai anh nhân viên trên tàu đập vai ông nói cho biết là con tàu đã chạy tới cái ga cuối cùng của nó. Bác sĩ Cần bước xuống tàu ông không đi ra lối cửa ga mà tắt ngang qua đường sắt rồi cứ thế lội ruộng vượt đường qua đồi qua suối như bị ma quỷ túm áo lôi đi.
Ba ngày đêm đầu tóc quần áo ông lúc nào cũng sũng xĩnh nước. Sang ngày thứ tư hai môi ông nẻ toác ra. Ngày thứ năm hai cái tai xám đen teo quắt lại như hai miếng tai chua khô. Sang tới ngày thứ chín ống quần bên phải của ông bỗng dưng bục tung chỗ đầu gối. Tới cuối ngày thứ mười ba thì ông rách tã như một lão ăn mày khắp người bốc lên một thứ mùi vừa chua vừa khắm. Chạng vạng chiều ngày thứ mười bốn, vào lúc 6 giờ 35 phút thì ông đã tới được thôn Vân Thù xã Lại Giang. Đó là một xóm nhỏ lơ phơ vài nóc nhà nép sát vào chân mấy quả núi đá xám ngoét. 15 phút sau ông đã đứng trong vườn ngôi nhà lụp sụp của tướng cướp Thạc gà gáy. Cái gì đã đưa đường dắt lối cho bác sĩ Cần thúc ông đi mười bốn ngày đêm quên ăn quên ngủ như vậy. Chịu Có mà thánh mới hiểu được. Chỉ biết là cuối cùng thì ông đã tìm được tới đúng địa chỉ. Và khi ông gõ cộc cộc cái đầu gậy dính bê bết bùn đất xuống một phiến đá nhỏ ở góc sân thì có một con chó mực ghẻ bé con gày giơ xương từ trong liếp lao ra sủa ăng ẳng mấy cái rồi sán đến bên ông ngoáy đuôi rối rít xin ăn rất xăng xái và bần tiện.
Một người đàn bà nhà quê che một miếng vải xô cáu bẩn ngang mắt nom như người không có mắt ôm một bó lạt ngâm ướt ròng ròng từ dưới cái ao cạnh nhà đi vào cân. Bác sĩ Cần chưa kịp hỏi thì bà ta đã hỏi trước:
- Có phải nhà ông ở trên công an huyện về không ạ.
Bác sĩ Cần chưa kịp trả lời thì bà lại nói luôn:
- Thế thì tôi trả lại cái nhà này cho các ông đây. Tôi còn phải về để gói bánh. Mà các ông cứ cẩn thận quá. Cả cái xóm này có ai muốn dây vào thằng Thạc đâu cơ chứ. Như thế là ở trên công an huyện đã cho người về nghiệm thu cái nhà của thằng Thạc rồi đây.
- Mời ông vào.
Bác sĩ Cần lẳng lặng theo người đàn bà bước lên thềm. Bên trong nhà tối âm u phả ra mùi mốc meo và lặng ngắt như nhà mồ.
Một ngọn đèn dầu đặt trên bàn thờ gỗ đen bóng đủ soi rõ ảnh của một thiếu phụ trẻ vấn khăn nhung có đôi mắt đang mở to buồn đến nỗi nếu có ai vô tình nhìn vào lâu một chút thì có thể ngã ngồi xuống và tan biến thành một vũng nước mắt tức thì. Người đàn bà thong thả nói:
- Bà cố ngoại thằng Thạc chết rồi ông ạ. Hôm nghe tin thằng chắt bị xử bắn bà cụ đang ngồi ăn cơm bỗng hức lên một tiếng rồi lăn đùng ra chết tươi. Cũng là quả báo cả thôi.
Lặng đi một lúc, người đàn bà lại thong thả kể tiếp:
- Tháng trước ông thân sinh ra thằng Thạc gà gáy có đi một chiếc ô tô đen bóng sang trọng về tận ngôi nhà này. Thế là vừa tròn đúng 26 năm, kể từ cái ngày ông ấy đem thằng Thạc vứt về đây gửi bà cố ngoại trông nom bây giờ mới thấy ông ấy quay lại tìm con.
Có lẽ ông ấy đọc báo đăng tin bắt được một thằng tướng cướp Thạc gà gáy khét tiếng nào đó quê ở thôn Lại Giang và nó sắp bị xử tử ông ấy mới giật mình bán tín bán nghi quay lại đây để xem cái thằng tướng cướp sắp bị bắn ấy có phải là thằng con bị bỏ rơi của mình không. Cái ông bố thằng Thạc nom phúc hậu dễ mến lắm. Tai to, mặt lớn, nhân trung rõ là dài. Tối hôm đó tôi sang mượn bà cố ngoại thằng Thạc cái cối giã trầu tình cờ mà nhìn thấy ông kia. Ông thắp một nén nhang cắm lên bàn thờ vợ, vái hai cái rồi thò tay định phủi lớp bụi bám trên ảnh. Nhưng bàn tay vừa chạm vào tấm kính thì ông rú lên một tiếng rụt phắt tay lại. Nói có ngọn đèn kia, trời tuy tối nhưng tôi cũng nhìn rất rõ hai bàn tay ông bố thằng Thạc bỗng sưng phồng lên méo mó rồi rỏ ra những giọt nước vàng nhền nhện. Thật cũng là quả báo quả báo cả thôi ông ạ.
Một cơn gió ùa vào trong nhà lạnh buốt. Bác sĩ Cần quay đầu lại. Người đàn bà không có mắt đã biến mất từ lúc nào. Người hay là ma? Bác sĩ Cần ngồi xuống cái bậc cửa nứt toác lạnh và ẩm. Người ông bải hoải. Hai cẳng chân tê dại. Đêm ba mươi tối như mực. Cả cái xóm Vân Thù im phăng phắc như đang nín thở đợi đón giao thừa. Thỉnh thoảng mới nghe có tiếng chày dã thì thụp ở đâu đó. Nhà cửa Thạc gà gáy ở mãi cuối thôn nhưng lại đầu gió nên càng chơ vơ lạnh lẽo vắng lặng. Cũng phải ba hoặc bốn giờ nữa mới bước sang năm mới. Bác sĩ Cần bày bó hương lên bậu cửa rồi ngồi dựa lưng vào cây cột mọt kêu kẽo kẹt và ngủ thiếp đi lúc mà chẳng hay. Giấc ngủ mê mệt chẳng mộng mị sau những ngày dài đêm thâu chạy tế lên như con chó hoang vô chủ không hề chợp mắt. Bác sĩ Trương Vĩnh Cần cũng không thể ngờ được ông đang ngủ đúng cái chỗ mà đêm giao thừa cái tết nào đó Thạc gà gáy len về đốt hương quỳ lạy mẹ trước khi bị công an xông vào đá vào gáy ngã gục xuống rồi đè nghiến lên ngay bụng còng hai tay lại.
Bác sĩ Cần ngủ say lắm. Ông ngáy o o đến nỗi con chó mực con ghẻ lở chạy tới gần hít lấy hít để cái gấu quần rách bươm của ông.
Bác sĩ Cần ngủ rất say. Tới quá nữa đêm một tiếng nổ gầm rung chuyển tiếp ngay sau đó là hàng tràng pháo tép pháo dây pháo đùng thi nhau nổ vang chát chúa ròn rã. Bác sĩ Cần cuống cuồng bật dậy mắt nhắm mắt mở châm vội nén nhang rồi lập cập cắm lên cái bát hương sứt ở trên bàn thờ. Vái xong ba vái chưa kịp nói gì lúc ngẩng lên ông bác sĩ bỗng bủn rủn cả người khi nhìn thấy từ trong đôi mắt buồn đến chết người của người thiếu phụ trẻ trong ảnh bỗng từ từ rỏ ra những giọt nước mắt đỏ ngầu như máu.