… thế rốt cuộc, ngươi là ai ?
- Ta là một phần của cái sức mạnh
vốn muôn đời muốn làm điều ác
nhưng muôn đời làm điều ích lợi.
GOETHE. “PHAUST”
PHẦN THỨ NHẤT.
Chương I
ĐỪNG BAO GIỜ NÓI CHUYỆN VỚI NHỮNG NGƯỜI LẠ
Một buổi chiều mùa xuân,vào cái giờ mặt trời lặn nóng chưa từng thấy, trong công viên Hồ Pat’riarsi ở Moskva xuất hiện hai vị nam công dân. Người thứ nhất có dáng thâm thấp, béo tốt, hói đầu, mặc bộ quần áo mùa hè màu xám nhạt, cặp mũ còn khá lịch sự bóp lại cầm trong tay, chiếc kính gọng sừng đen to quá cỡ ôm ngang khuôn mặt được cạo kỹ lưỡng. Người thứ hai còn trẻ, vai rộng, tóc vàng hung rối bù, mũ cát két sọc vuông đội lệch ra sau gáy, áo sơ mi kẻ ô, quần dài trắng nhàu nát và chân đi đôi giày vải đen.
Người thứ nhất không phải ai khác, mà chính là Mikhail Aleksandrovich Berlioz, chủ tịch ban chấp hành của một trong những hội liên hiệp văn học lớn nhất Moskva, viết tắt là MASSOLIT, và ông đồng thời cũng là tổng biên tập một tờ tạp chí văn học lớn; còn người bạn đường trẻ của ông là nhà thơ Ivan Nikolaievich Ponưrev, bút danh Berdomnưi.
Bước vào bóng của hàng cây lipa đang bắt đầu nhú lá xanh, việc đầu tiên của hai nhà văn là chạy vội đến bên chiếc quầy ván sơn sặc sở với dòng chữ “ Bia và nước giải khát”.
Mà quên, có lẽ cần phải thông báo ngay cho bạn đọc biết đặc điểm kỳ lạ thừ nhất của cái buổi chiều tháng Năm khủng khiếp này. Đó là không chỉ ở cạnh quầy giải khát, mà suốt dọc cả con đường có trồng cây chạy song song với phố Malaia Bronnaia cũng không thấy một bóng người nào. Vào cái giờ đó, khi hình như mọi người đã hết cả sức để thở, khi vầng mặt trời, sau một ngày thiêu đốt Moskva, đang bọc mình trong màn sương khô lặn xuống một nơi nào đấy phía sau tuyến đường vòng Sadovoie, chúng ta không gặp một ai đi đến hóng mát dưới hàng cây lipa, không thấy một người nào ngồi trên những chiếc ghế băng - suốt dọc con đường dài vắng tanh vắng ngắt.
- Cho cốc nước khoáng narzan. – Berlioz nói với người bán hàng.
- Không có narzan đâu, - người đàn bà trong quầy đáp, và không hiểu sao lại tỏ vẻ phật ý.
- Có bia không ? – Bezdomnưi hỏi bằng giọng khàn khàn.
- Bia tối mới chở về, - người đàn bà trả lời.
- Thế có gì ? – Bezdomnưi lại lên tiếng.
- Nước mơ ấm, - người đàn bà nói.
- Thôi được, cho xin, cho xin, cho xin !...
Hai cốc nước mơ sủi rất nhiều bọt màu vàng, và trong không khí bốc lên một thứ mùi như trong tiệm cắt tóc. Uống xong, hai nhà văn lập tức đua nhau nấc cục; họ trả tiền và ngồi xuống một chiếc ghế băng, mặt ngoảnh ra hồ, lưng quay về phía phố Bronnaia.
Đúng lúc đó bắt đầu xảy ra điều kỳ lạ thứ hai chỉ liên quan tới một mình Berlioz: ông bỗng thôi nấc, tim đập mạnh một cái rồi lặn hẳn đi đâu mất; một thoáng sau, nó trở lại nhưng như có kèm theo một mũi kim tù nằm mắc bên trong. Thêm vào đó, Berlioz bỗng cảm thấy một nỗi sợ vô cớ nhưng rõ rệt đến nỗi ông muốn ngay lập tức bỏ chạy khỏi đây không ngoáy lại. Không hiểu cái gì khiến ông hoảng sợ, Berlioz đưa mắt rầu rĩ nhìn quanh. Mặt ông tái mét; ông lấy khăn mùi soa lau trán, nghĩ thầm: “ Cái gì xảy ra với mình thế này nhỉ? Trước đây chưa bao giờ như vậy cả … Hình như tim mình bị sao ấy … Mình mệt mỏi quá rồi. Có lẽ cần phải vứt tất cả lại để đến nghỉ ở Kislovodsk thôi…”
Đúng lúc đó, làn không khí oi ả bỗng cô đặc lại trước mắt Berlioz, tạo thành một người đàn ông trong suốt có hình thù hết sức kỳ dị. Trên mái đầu nhỏ tí là chiếc mũ lưỡi trai của dân đua ngựa, áo vét kẻ ô mỏng ngắn cũn cỡn… Người cao khoảng một sagien, nhưng vai hẹp, gầy không thể tưởng được, và bộ mặt, xin bạn đọc lưu ý cho, đầy vẻ nhạo báng.
Cuộc đời của Berlioz được sắp đặt từ trước đến nay vốn không quen với những chuyện khác thường. Mặt mỗi lúc một tái nhợt đi, ông trố mắt kinh hãi và hoảng sơ nghĩ: “Điều này là không thể có được!...”
Nhưng than ôi, điều đó lại là có thật; và người đàn ông dài ngoẵng, trong suốt đến có thể nhìn thấu qua được, chân không chạm đất, cứ lắc lư hết sang phải lại sang trái trước mặt ông.
Berlioz cảm thấy kinh hoàng tới mức ông phải nhắm mắt lại; còn khi mở mắt ra, thì ông thấy rằng tất cả đã kết thúc, ảo ảnh đã tan, không thấy người đàn ông mặc áo kẻ ô nữa, đồng thời cái mũi kim tù ở trong tim cũng đã rơi đâu mất.
- Hừ, quỷ quái thật, - ông tổng biên tập kêu lên – Ivan này, anh biết không, tôi suýt bị trúng nắng đấy! Thậm chí còn có cái gì như ảo giác nữa, - ông cố nhếch mép cười khẩy, nhưng trong mắt vẫn lộ vẻ hoảng hốt và hai bàn tay vẫn chưa hết run.
Nhưng dần dần ông cũng bình tĩnh lại, dùng tấm khăn phe phẩy quạt lên mặt và cất giọng khá sảng khoái: “ Và như vậy là…” - rồi tiếp tục câu chuyện vừa bị bỏ dở vì việc uống nước mơ.
Câu chuyện họ đang nói, như sau này mọi người được biết, là về Chúa Giêsu Christ. Chả là ông tổng biên tập trước đấy có đặt hàng với nhà thơ một bản trường ca về đề tài chống tôn giáo cho số tạp chí sắp tới của mình. Bản trường ca này, Ivan Nikolaievich đã sáng tác xong, và phải nói là trong một thời hạn hết sức ngắn; nhưng thật đáng tiếc, nó hoàn toàn không làm ông tổng biên tập thỏa mãn. Bezdomnưi đã nhuộm nhân vật chính của tác phẩm, tứclà Chúa Giêsu Christ, trong những mảng màu đen tối, nhưng dù sao thì, theo ý kiến của ông tổng biên tập, cũng phải viết lại toàn bộ bản trường ca. Và bây giờ ông gần như đang đọc cho nhà thơ một bài thuyết giảng về Giêsu, qua đó nhấn mạnh cái sai lầm cơ bản của nhà thơ. Khó có thể nói cái gì đã làm cho Ivan Nikolaievich đi chệch hướng - khả năng tạo hình ảnh của anh hay là sự thiếu hiểu biết hoàn toàn về vấn đề anh đang viết, - nhưng trong tác phẩm, Giêsu được anh xây dựng thành một nhân vật rất sinh động mặc dù không có sức lôi cuốn tí nào. Còn Berlioz lại muốn chứng minh với nhà thơ rằng: cái cơ bản không phải ở chỗ Giêsu là người như thế nào, tốt hay xấu, mà ở chỗ trên đời này hoàn toàn không hề tồn tại một Giêsu nào cả, và toàn bộ những câu chuyện về ông ta đều là những điều thuần túy bịa đặt, một huyền thoại tầm thường nhất.
Nên lưu ý rằng, ông tổng biên tập là người đọc nhiều và biết cách khéo léo viện dẫn những nhà sử học cổ đại, chẳng hạn như Philion Aleksandreus lừng danh hay Jozefh Phlavius thông thái, những người không bao giờ nói một lời nào về sự tồn tại của Giêsu. Tỏ ra có một vốn kiến thức đồ sộ, Mikhail Aleksandrovich thông báo với nhà thơ rằng cái đoạn nói về cuộc hành hình Giesu ở tập sách thứ mười lăm, chương bốn mươi tư trong bộ “ Sử biên niên” của Taxitus chỉ là một sự chép thêm vào sau này không hơn không kém.
Đối với nhà thơ, tất cả những gì ông tổng biên tập nói ra đều là mới mẽ, vì vậy anh nghe Mikhail Aleksandrovich rất chăm chú, nhìn thẳng vào ông bằng cặp mắt màu xanh linh hoạt, chỉ thỉnh thoảng lại nấc lên một tiếng và khẽ nén giọng nguyền rủa cốc nước mơ.
- Không có một tôn giáo Phương Đông nào mà trong đó lại không có chuyện nữ đồng trinh sinh ra Chúa, - Berlioz nói – và những người Thiên Chúa giáo không thể nghĩ ra được điều gì mới hơn, cũng bằng cách đó sáng tạo ra Giêsu của mình, kẻ trong thực tế chưa bao giờ có thật trong đời. Đó mới chính là điều ta cần phải tập trung nhấn mạnh …
Giọng nam cao của Berlioz vang khắp con đường dưới hàng cây vắng vẻ và Mikhail Aleksandrovich càng đi sâu vào những ngóc ngách hóc búa - chỉ những người thật thông tuệ mới liều mạng xông vào mà không sợ ngã gãy cổ, - thì nhà thơ càng được biết thêm nhiều điều thú vị và bổ ích về Oziris của Ai Cập, vị thần tốt bụng, con trai của Trời và Đất; về thần Phammuz của người Phinikia, về thần Mardus, thậm chí cả về thần Vitsliputsli dữ tợn ít nổi tiếng hơn; một thời được những người Astec ở Mehico rất sùng bái.
Và đúng vào lúc Mikhail Aleksandrovich đang kể cho nhà thơ nghe những người Astec lấy bột nặn tượng thần Vitsliputsli như thế nào, thì dưới hàng cây lipa của con đường xuất hiện một bóng người đầu tiên.
Về sau, thực thà mà nói, khi sự việc đã quá muộn, nhiều cơ quan khác nhau đã đưa ra những thông báo mô tả lại hình dạng của người này. Đem đối chiếu chúng với nhau, ta không thể không ngạc nhiên. Chẳng hạn, trong thông báo thứ nhất nói đó là một người thấp nhỏ, có răng vàng và thọt chân phải. Theo bản thông báo thứ hai thì đó là một người có thân hình đồ sộ, răng bịt bạch kim và thọt chân trái. Còn tờ thông báo thứ ba thì nói một cách ngắn gọn rằng con người này không có dấu hiệu gì đặc biệt.
Phải công nhận rằng: quả là không có một bản thông báo nào nên hồn cả.
Đúng ra, người được mô tả không thọt chân nào hết, vóc dáng không thấp nhỏ, cũng không đồ sộ, mà chỉ cao thôi. Còn về răng miệng, thì ở bên trái có bịt bạch kim, bên phải là răng vàng. Người đó mặc bộ quần áo màu xám đắt tiền, đi giày ngoại cùng màu với quần áo. Chíếc mũ bere xám đội lệch ngang tàng sang một bên tai, nách cắp cây can với tay cầm đen bóng khắc hình đầu chó pudel. Trông bề ngoài khoảng hơn bố mươi tuổi. Miệng hơi bị méo. Mặt cạo nhẳn nhụi. Tóc đen. Mắt phải đen, mắt trái không hiểu sao lại màu xanh. Lông mày đen, nhưng một bên cao hơn bên kia. Tóm lại: một người nước ngoài.
Khi đi ngang qua chiếc ghế băng nhà thơ và ông tổng biên tập đang ngồi, vị khách nước ngoài liếc nhìn hai người, dừng lại, rồi bỗng ngồi xuống chiếc ghế băng bên cạnh, cách đôi bạn nhà văn chỉ vài bước chân.
“ Người Đức”, – Berlioz nghĩ thầm.
“ Người Anh”, - Berdomnưi thầm nghĩ. – Chà, ông ta đi găng tay mà không cảm thấy nóng”.
Ông khách nước ngoài đưa mắt nhìn những ngôi nhà cao bao quanh hồ, và có thể nhận thấy rõ là ông ta đến đây lần đầu nên tỏ ra rất thú vị với cảnh vật xung quanh.
Ông ta nhìn một lúc lên các tầng nhà phía trên với những cánh cửa kính chói chang phản chiếu ánh nắng của vầng mặt trời sắp vĩnh viễn rời bỏ Mikhail Aleksandrovich, rồi chuyển ánh mắt xuống dưới thấp, nơi những ô cửa sổ bắt đầu tối sẫm trong ánh hoàng hôn, không hiểu vì sao cười khẩy với vẻ bao dung, mắt nheo nheo, hai tay đặt lên chíếc can, cằm kê lên tay.
- Ivan này, - Berlioz nói – anh mô tả rất hay và đầy hài hước, lấy thí dụ, đoạn nói về sự sinh ra của Giesu, con Đức Chúa Trời. Nhưng cái mấu chốt là ở chỗ trước Chúa Giesu đã sinh ra hàng loạt những Đức Chúa Con khác, chẳng hạn như thần Attit của người Phrighia. Tóm lại, chẳng một ai trong số họ đã được sinh ra cả, không hề có họ tồn tại, kể cả Giêsu, cho nên thay vào sự ra đời của Chúa hoặc sự xuất hiện của các thầy pháp, anh cần phải mô tả những tin đồn ngớ ngẫn về chuyện đó … Nếu không, theo câu chuyện của anh, thì Giesu quả đã được sinh ra thật!...
Bấy giờ, Berdomnưi đang nín thở để cố gắng chấm dứt những tiếng nấc cụt, nhưng vì thế mà càng nấc lên một cách khó chịu và to hơn; và cùng vừa lúc đó, Berlioz ngừng lời, vì người khách nước ngoài bỗng đứng lên và đi lại phía họ.
Hai nhà văn ngạc nhiên nhìn ông ta.
- Xin các ngài thứ lỗi cho tôi, - người khách nói giọng nước ngoài lơ lớ nhưng phát âm không sai, - vì rằng tôi, trong khi chưa quen biết, đã dám mạo muội… nhưng đề tài câu chuyện bác học của các ngài thú vị đến nỗi…
Nói đến đó, ông ta lịch thiệp bỏ chiếc mũ bêrê ra khỏi đầu, và hai người bạn của chúng ta không còn cách nào khác ngoài việc đứng dậy nghiêng mình đáp lễ.
“ Không, ông ta là người Pháp thì đúng hơn”, - Berlioz nghĩ thầm.
“ Có lẽ là người Ba Lan ?...” – Bezdomnưi thầm nghĩ.
Cần phải nói thêm rằng, ngay từ những lời đầu tiên, người khách nước ngoài đã gây cho nhà thơ một ấn tượng khó chịu, còn Berlioz thì lại thích, hay nói đúng hơn, không hẳn là thích, mà… biết diễn đạt thế nào nhỉ… có thể nói là tò mò.
- Cho phép tôi cùng ngồi với các ngài chứ ạ ? - người nước ngoài lễ phép hỏi, và hai nhà văn, không hiểu sao, bất giác dịch ra hai bên; ông khách khéo léo ngồi lọt vào giữa họ và lập tức bắt chuyện:
- Nếu như tôi nghe không nhầm, thì ngài vừa nói rằng chưa bao giờ có Giesu ở trên đời này phải không ạ ? - Vị khách ngoại quốc hướng con mắt bên trái màu xanh lục của mình về phía Berlioz và hỏi.
- Không, ngài nghe không nhầm đâu, - Berlioz lịch thiệp đáp. – Đúng là tôi có nói như thế.
- Ồ, thú vị quá nhỉ ! - Người khách thốt lên.
“ Ông ta cần cái quỷ quái gì đây ?” – Berdomnưi nghĩ thầm, mặt cau lại.
- Thế ngài đồng ý với điều đó chứ ? – Ông khách lạ quay sang phải hỏi Bezdomnưi.
- Một trăm phần trăm ! – Nhà thơ, vốn thích diễn đạt văn hoa và hình tượng, đáp.
- Tuyệt quá ! - Vị khách không mời thốt lên, và không hiểu sao, ông ta lấm lét nhìn quanh, hạ thấp giọng xuống , nói tiếp: - Xin bỏ qua sự bất nhã của tôi, nhưng tôi hiểu, là các ngài, ngoài những chuyện khác, lại còn không tin Chúa nữa phải không ạ ?- Ánh mắt lộ vẻ sợ hãi, ông ta nói tiếp: - Tôi xin thề là sẽ không nói với ai cả đâu.
- Vâng, chúng tôi không tin Chúa, - hơi mỉm cười trước vẻ sợ hãi của vị khách du lịch, Berlioz đáp, - nhưng về điều này có thể nói hoàn toàn công khai.
Người nước ngoài ngả lưng lên thành ghế băng và hỏi, giọng thậm chí rít lên the thé vì tò mò:
- Các ngài là những người vô thần ?
- Vâng, chúng tôi là những người vô thần, - Berlioz mỉm cười đáp, còn Bezdomnưi cau có nghĩ thầm: “ Cái con ngỗng ngoại quốc này cứ bám lấy mãi !”
- Ô, tuyệt vời quá ! - Vị khách nước ngoài kỳ lạ kêu lên và quay đầu hết nhìn nhà văn này đến nhà văn khác.
- Ở đất nước chúng tôi, chủ nghĩa vô thần không còn làm ai ngạc nhiên nữa, - Berlioz nói một cách lịch thiệp theo kiểu ngoại giao. - Phần lớn nhân dân chúng tôi đã từ lâu tự giác không tin vào những câu chuyện hoang đường và Chúa nữa rồi.
Đế đây, người khách nước ngoài bỗng làm một trò như sau: ông ta đứng dậy bắt chặt tay viên tổng biên tập đang ngơ ngác, và nói:
- Xin phép được chân thành cám ơn ngài!
- Vì sao ngài lại cảm ơn anh ấy ? – Bezdomnưi nhấp nháy mắt, hỏi.
- Vì ngài đây đã cung cấp một tin cực kỳ quan trọng, mà đối với tôi, một người du lịch, là vô cùng thú vị, - ông khách nước ngoài kỳ quặc giơ một ngón tay lên đầy hàm ý và giải thích.
Cái tin quan trọng đó có lẽ quả đã gây một ấn tượng rất mạnh đối với nhà du lịch, vì ông ta sợ hãi đưa mắt nhìn khắp các ngôi nhà, dường như lo lắng sẽ phải thấy trong mỗi ô cửa sổ một người theo chủ nghĩa vô thần.
“ Không, ông ta không phải người Anh…” – Berlioz nghĩ thầm; còn Bezdomnưi thầm nghĩ: “ Không hiều ông ta học nói tiếng Nga ở đâu như thế, điều này mới là thú vị !” – và lại cau mặt.
- Nhưng xin phép được hỏi các ngài, - sau một lúc ngẫm nghĩ căng thẳng, vị khách ngoại quốc lên tiếng, - thế phải làm sao đây với những bằng cứ về sự tồn tại của Chúa, mà như chúng ta biết, có cả thảy đến năm bằng cứ (1) như vậy.
- Ồ, - Berlioz đáp với vẻ thương hại, - nhưng không có một bằng cứ nào đáng giá hết, nhân loại từ lâu đã đem chúng vào viện lưu trữ rồi. Bởi vì, chắc ngài cũng đồng ý rằng, trong lĩnh vực trí tuệ thì không thể có một bằng cứ nào về sự tồn tại của Chúa cả.
- Đúng quá! - Người nước ngoài kêu lên. – Đúng quá ! Ngài lập lại hoàn toàn ý kiến của ông già Immanuil (2), người không bao giờ chịu sống yên ổn trong vấn đề này. Nhưng thật quá ngộ nghĩnh: ông ta đập tan tận gốc cả năm bằng cứ trên, rồi sau đó, như để chế nhạo chính bản thân, lại tự mình lập nên bằng cứ thứ sáu!
- Bằng cứ của Kant, - viên tởng biên tập thông thái mỉm cười đáp, - cũng không cói sức thuyết phục. Và chẳng phải vô cớ mà Schiller nói rằng những lập luận của Kant vầ vấn đề này chỉ có thể thỏa mãn những kẻ nô lệ, còn Strauss thì cười nhạo cái bằng cứ đó.
Berlioz vừa nói vừa tự hỏi thầm: “ Nhưng ông ta là ai nhỉ ? Và tại sao ông ta lại nói tiếng Nga thạo đến thế ?”.
- Cái lão Kant này, vì những bằng cứ như vậy, đáng phải cho ba năm ở Solovki (3). – Ivan Nikolaievich nổ ra hoàn toàn bất ngờ.
- Ivan! – Berlioz bối rối nói khẽ.
Nhưng cái đề nghị bắt Kant đi Solovki không những không làm người khách nước ngoài ngạc nhiên, mà thậm chí còn làm cho ông ta thích thú.
- Đúng thế, đúng thế, - ông ta hét to, và con mắt màu xanh lục hướng về phía Berlioz sáng lên lấp lánh. – Cho ông ta đến đấy là đúng lắm. Lần đó trong bữa ăn sáng, tôi đã nói với ông ta rồi: “ Thưa giáo sư, quyền là của ngài, nhưng điều ngài nghĩ ra không được ổn lắm. Nó có thể là rất thông minh, nhưng khó hiểu quá. Rồi người ta sẽ cười nhạo ngài cho mà coi.”
Berlioz trố mắt. “ Nói với Kant… trong bữa ăn sáng ?... Ông ta nói nhảm cái gì thế nhỉ ?” – ông nghĩ.
- Nhưng có điều, - không hề bối rối trước vẻ kinh ngạc của Berlioz, người khách nước ngoài vẫn tiếp tục nói với nhà thơ, - không thể nào bắt ông ta đến Solovki được là vì đã hơn một trăm năm nay ông ta đến ở những chỗ còn xa hơn Solovki rất nhiều, và xin cam đoan với các ngài rằng không có cách nào có thể lôi ông ta ra khỏi chỗ đó được !
- Ồ, thật đáng tiếc - Nhà thơ hay gây sự đáp.
- Và tôi cũng lấy làm tiếc! - một con mắt của người khách lạ lấp lánh sáng lên, ông ta nói tiếp: - Nhưng có một vấn đề làm tôi băn khoăn: nếu như không có Chúa, thì ai là người điều hành cuộc sống của con người và nói chung, toàn bộ kỷ cương trật tự trên mặt đất ?
- Tự con người điều hành lấy, - Bezdomnưi giận dữ và hấp tấp trả lời cái câu hỏi, thú thật, không thực rõ ràng lắm này.
- Xin lỗi, - người lạ mặt nhẹ nhàng đáp - để điều hành được, dù sao cũng cần phải có một kế hoạch chính xác cho ít nhất một thời hạn tương đối nào đó. Xin phép được hỏi các ngài, làm sao con người có thể điều hành được, nếu như anh ta không những không có khả năng lập kế hoạch cho một khoảng thời gian ngắn đến nực cười, cứ cho là chỉ một nghìn năm chẳng hạn, mà anh ta thậm chí còn không thể bảo đảm được cho cái ngày mai của chính mình ? Và quả thật, - người lạ mặt quay sang nói với Berlioz, - ngài hãy thử hình dung rằng ngài bắt đầu điều hành, xếp đặt cuộc sống của người khác và của bản thân mình, nói chung, ngài bắt đầu cảm thấy ham thích, thì bỗng nhiên …khà…khà…khà, ngài bị bệnh xáckôm (4) phổi… - nói đến đó, vị khách nước ngoài cười ngọt lịm, dường như cái ý nghĩ về xackom mang lại cho ông ta một khoái cảm nào đó, - vâng, bệnh xáckom, - nheo mắt lại như mèo, ông ta nhắc lại cái từ lạ tai đó, - và thế là ngài hết điều hành ! Ngoài số phận của riêng chính mình, ngài sẽ không còn quan tâm đến số phận của ai khác. Những người thân bắt đầu nói dối ngài, và ngài, cảm thấy có điều gì bất ổn, vội vàng chạy bổ đến các bác sĩ danh tiếng, rồi đến bọn người lừa đảo, thậm chí có thể đến cả bọn lang băm thầy bói. Nhưng tất cả những cái đó đều hoàn toàn vô nghĩa, chính ngài cũng hiểu như vậy. Và rồi một kết cục bi thảm: cái người mà chỉ mới đây còn cho rằng mìng điều hành một cái gì đó, giờ bỗng nằm bất động trong hòm gỗ, và những người xung quanh hiểu rằng người vừa nằm xuống chẳng còn được tích sự gì, liền đem đi hỏa thiêu. Đôi khi lại còn tệ hơn nữa, có người định đi đến Kislovodsk, - nói đến đây ông khách nước ngoài nheo mắt nhìn Berlioz, - một việc tưởng như thật vặt vãnh, nhưng anh ta cũng không thể làm được, bởi vì chẳng hiểu vì sao mà lại bất thần trượt chân ngã xuống dưới bánh tàu điện ! Chẳng lẽ ngài sẽ nói đấy là do anh ta tự điều hành bản thân mình ? Có hợp lý hơn chăng nếu ta nghĩ rằng có một kẻ nào đó hoàn toàn điều hành anh ta? – và người lạ phá lên cười bằng một giọng rất lạ lùng.
Berlioz hết sức chăm chú nghe câu chuyện khó chịu về bệnh xáckôm và tàu điện, và ông bắt đầu bị những ý nghĩ lo sợ ám ảnh. “ Ông ta không phải người nước ngoài ! Không phải người nước ngoài ! – ông nghĩ, - Một đối tượng đáng ngờ… nhưng, đúng ra ông ta là ai ?”
- Tôi thấy hình như ngài muốn hút thuốc - người lạ mặt bỗng đột ngột hỏi Bezdomnưi. – Ngài thích loại nào ?
- Chẳng lẽ ngài có nhiều loại thuốc lá khác nhau à ? – nhà thơ cau có nói, anh đã hết mất thuốc lá.
- Ngài thích loại nào ? - người lạ mặt nhắc lại câu hỏi.
- “ Nhãn hiệu chúng ta”, - nhà thơ cáu kỉnh đáp.
- Có ngay “ Nhãn hiệu chúng ta”.
Cả tổng biên tập lẫn nhà thơ đều sửng sốt không chỉ vì xếp trong hộp thuốc đúng là những điếu “ Nhãn hiệu chúng ta”, mà còn bởi chính chiếc hộp. Nó rất đồ sộ, làm bằng vàng mười, khi mở trên nắp của nó có một hình tam giác dát kim cương lấp lánh bắn ra những tia lửa xanh và trắng.
Trong lúc đó, hai nhà văn có những suy nghĩ khác nhau. Berlioz nghĩ: “ Không, ông ta là người nước ngoài!” Còn Bezdomnưi lại nghĩ: “ Chà, quỷ tha ma bắt hắn đi!”
Nhà thơ và chủ chiếc hộp thuốc lá châm lửa hút, còn ông tổng biên tập Berlioz không nghiện thì từ chối.
“ Cần phản đối lại ông ta như sau, - Berlioz nhẩm tính. – Đúng là con người phải chết, không ai tranh cải để phủ nhận điều đó. Nhưng vấn đề là ở chỗ…”
Nhưng ông chưa kịp nói ra những lời trên, thì ông khách nước ngoài đã cất tiếng trước:
- Vâng, con người là phải chết, nhưng cái đó còn chưa sao. Tồi tệ nhất là đôi khi anh ta phải chết bất đắc kỳ tử, thế mới ngộ! Và nhìn chung không thể nói được là anh ta sẽ làm gì trong buổi chiều ngày hôm nay.
“ Một cách đặt vấn đề kỳ quặc thế nào ấy…” – Berlioz nghĩ bụng và lên tiếng phản đối:
- Ở chỗ này ngài hơi phóng đại lên đấy. Về buổi chiều hôm nay thì tôi biết được ít nhiều chính xác. Tất nhiên, nếu như trên đường Bronnaia tôi không bị một viên gạch nào đó rơi vào đầu..
- Gạch sẽ không bao giờ lại vô cớ rơi lên đầu ai cả, - người lạ mặt cắt ngang một cách tin tưởng. – Nói riêng thì, xin ngài cứ tin tôi, nó không hề đe dọa ngài trong bất kỳ trường hợp nào. Ngài sẽ chết một cách khác.
- Có thể, ngài biết cụ thể là cách nào? – Berlioz bị cuốn hút vào câu chuyện quả là kỳ quái, hỏi với một vẻ mỉa mai hoàn toàn tự nhiên. – Và ngài cho tôi biết chứ ?
- Sẳn sàng, - người lạ đáp ngay. Ông ta nhìn Berlioz từ đầu đến chân như thể ước lượng để may cho ông một bộ quần áo, rồi lẩm bẩm qua kẽ răng những từ gì đó kiểu như: “ Một, hai… Thủy tinh ở nhị thất…Mặt trăng đi khỏi…sáu - bất hạnh…buổi chiều - bảy…” – và lớn tiếng mừng rỡ tuyên bố: - Ngài sẽ bị đầu lìa khỏi cổ !
Bezdomnưi trố mắt nhìn một cách dữ tợn và man dại người lạ mặt suồng sã, còn Berlioz cười nhạt hỏi:
- Nhưng ai cắt ? Kẻ thù ? Bọn can thiệp ?
- Không, - người nước ngoài đáp, - một người đàn bà Nga, một nữ đoàn viên thanh niên cộng sản.
- Hừm… - khó chịu trước lối đùa như vậy của người lạ, Berlioz hầm hừ, - nhưng xin lỗi, điều đó thật khó tin.
- Tôi cũng xin lỗi ngài, - người nước ngoài đáp, - nhưng sự thực là như vậy. Và tôi còn muốn hỏi ngài, chiều hôm nay ngài sẽ làm gì, nếu như đó không phải là chuyện bí mật ?
- Không có gì là bí mật cả. Bây giờ tôi sẽ về nhà ở phố Sadovaia, sau đó đến mười giờ tôi có cuộc họp ở MASSOLIT, tôi sẽ chủ trì cuộc họp này.
- Không, điều đó là hoàn toàn không thể được, - người lạ mặt quả quyết tuyên bố.
- Vì sao ?
- Vì rằng, - người khách nước ngoài đáp và nheo nheo mắt nhìn lên bầu trời, nơi những con chim đen cảm thấy hơi lạnh của buổi tối đang lặng lẽ bay, - vì rằng Annuska đã mua dầu hướng dương , và không chỉ mua mà còn làm đổ ra nữa. Cho nên cuộc họp sẽ không thành.
Đến đây, thật dễ hiểu, giữa những người ngồi dưới bóng hàng cây lipa bắt đầu một sự im lặng.
- Xin lỗi, - một lát sau, Berlioz cất tiếng, mắt không rời người khách nước ngoài vừa ba hoa những điều nhảm nhí, - nhưng tại sao lại dầu hướng dương ở đây… và Annuska nào kia ?
- Dầu hướng dương ở đây là vì, - Bezdomnưi bỗng lên tiếng, có lẽ là anh quyết định tuyên chiến với người đối thoại không mời mà đến, - ngài đã từng bao giờ ở bệnh viện tâm thần chưa ?
- Ivan !... – Mikhail Aleksandrovich khẽ thốt lên.
Nhưng người khách nước ngoài không tự ái chút nào mà phá lên cười rất vui vẻ.
- Tôi đã ở đấy rồi, và không chỉ một lần ! – Ông ta vừa cười vừa kêu to, nhưng không rời cặp mắt khỏi mặt nhà thơ. – Còn có nơi nào mà tôi không đến ! Chỉ có điều đáng tiếc là tôi quên không hỏi giáo sư bệnh sizophrenia (5) là gì thôi. Cho nên tự ngài hãy tìm hiểu lấy qua ông ta, Ivan Nikolaievich nhé !
- Làm sao mà ngài biết tên tôi ?
- Ôi, Ivan Nikolaievich, thử hỏi ai mà lại không biết ngài ? – Nói xong, người khách nước ngoài rút từ trong túi ra tờ “ Báo Văn học” ngày hôm qua, và Ivan Nikolaievich trông thấy trên trang nhất bức ảnh bản thân, phía dưới là bài thơ của mình. Nhưng cái bằng cứ của vinh quang và nổi tiếng hôm qua còn làm nhà thơ vui mừng thì bây giờ không làm anh mừng chút nào.
- Tôi xin lỗi, - nhà thơ nói, mặt anh tối sầm lại, - ngài có thể đợi tôi một phút được không ? Tôi muốn nói riêng với đồng chí này vài lời.
- Ồ, rất vui lòng ! - người lạ mặt thốt lên, - ở đây, dưới bóng những cây lipa này, thích đến nỗi tôi, xin thú thật, không vội đi đâu cả.
- Anh Mikhail này, - kéo Berlioz ra một quãng xa, nhà thơ thì thầm, - hắn ta không phải khách du lịch đâu, gián điệp đấy. Hắn là dân Nga lưu vong bây giờ lại mò về đây. Anh hỏi giấy tờ hắn đi, không hắn chuồn mất đấy…
- Anh nghĩ thế ư ? – Berlioz lo lắng thì thầm hỏi lại, nghĩ bụng: “ Mà có lẽ đúng thế thật!”
- Anh hãy tin tôi, - nhà thơ ghé sát tai Berlioz và nói bằng giọng khàn khàn, - hắn giả đò làm bộ ngớ ngẩn để do thám đấy. Anh nghe hắn ta nói tiếng Nga như thế nào không, - nhà thơ vừa nói vừa liếc mắt theo dõi để kẻ lạ không lủi mất, - ta đến giữ hắn lại đi…
Và nhà thơ túm lấy tay áo Berlioz kéo đến bên ghế băng. Người lạ mặt không còn ngồi mà đang đứng bên cạnh chiếc ghế, tay cầm cuốn sổ nhỏ bìa xám thẫm, chiếc phong bì dầy bằng giấy tốt và tấm danh thiếp.
- Xin lỗi các ngài, vì mải sôi nổi tranh luận, tôi quên tự giới thiệu với các ngài. Đây là danh thiếp và hộ chiếu của tôi, đây là giấy mời tôi đến Moskva với tư cách chuyên gia, - người lạ mặt nói một cách quả quyết, ánh mắt sắc nhọn nhìn xuyên suốt hai nhà văn.
Hai người bối rối. “ Quỷ quái thật, ông ta đã nghe thấy hết”, - Berlioz nghĩ và bằng một cử chỉ lịch thiệp tỏ ý là không cần phải trình giấy tờ làm gì. Trong khi người nước ngoài chìa hộ chiếu cho tổng biên tập, nhà thơ đã kịp đọc thấy trên đó từ “giáo sư” viết bằng tiếng nước ngoài và chữ cái đầu tiên của họ ông ta - chữ V đúp.
- Rất hân hạnh, - lúc đó viên tổng biên tập lúng túng đáp, và người khách nước ngoài nhét các thứ giấy tờ vào túi.
Như vậy là quan hệ đã được lập lại, và cả ba người ngồi xuống ghế.
- Ngài được mới đến chỗ chúng tôi làm chuyên gia ư ? – Berlioz hỏi.
- Vâng, làm chuyên gia.
- Ngài là người Đức ? – Berlioz hỏi.
- Tôi ấy à ?... – giáo sư hỏi lại và bỗng trầm ngâm nghĩ ngợi. – Vâng, người Đức… - ông ta đáp.
- Ngài nói tiếng Nga thạo lắm, - Bezdomnưi nhận xét.
- Ô, nói chung tôi là người đa ngữ, biết rất nhiều thứ tiếng, - giáo sư đáp.
- Chuyên môn ngài là gì ạ ? – Berlioz hỏi.
- Tôi là chuyên gia về hắc ma thuật.
“ Thế đấy !...” - đầu Mikhail Aleksandrovich như va vào một cái gì đó.
- Và…và người ta mời ngài đến nước chúng tôi với tư cách là chuyên gia của môn đó ? – ông lắp bắp hỏi.
- Vâng, đúng thế, - giáo sư khẳng định và giải thích - Ở đây trong thư viện quốc gia người ta phát hiện ra những bản thảo nguyên gốc của nhà ma thuật Gerbert Avrilac thế kỷ thứ Mười. Vì thế họ mời tôi đến phân tích. Tôi là chuyên gia duy nhất trên thế giới.
- À, à ! Ngài là nhà sử học ? – Berlioz hỏi với vẻ nhẹ nhỏm và kính trọng.
- Tôi là người nghiên cứu lịch sử, - giáo sư đáp và nói thêm chẳng ăn nhập vào đâu cả. - Tối nay ở hồ Pat’riarsi sẽ có một câu chuyện rất thú vị.
Nhà thơ và tổng biên tập vô cùng ngơ ngác, còn giáo sư ra hiệu bảo hai người ghé lại gần, và khi họ vừa cuối xuống thì ông ta thì thào:
- Các ngài nên nhớ rằng Giesu là có thật.
- Thưa giáo sư, - Berlioz miễn cưỡng mỉm cười nói, - chúng tôi kính trọng những kiến thức uyên bác của ngài, nhưng về vấn đề này, chúng tôi có những quan điểm khác.
- Chẳng cần quan điểm nào cả ! - vị giáo sư kỳ quặc đáp. - Chỉ đơn giản là Giesu đã từng tồn tại, và ngoài ra không cần gì hết.
- Nhưng dù sao cũng cần một bằng cứ nào đó… - Berlioz cất tiếng.
- Không cần một bằng cứ nào hết, - vị giáo sư trả lời và nói tiếp bằng giọng khe khẽ, không hiểu sao âm sắc lơ lớ của ông ta đã biến mất, - Tất cả rất đơn giản: TRONG TẤM ÁO CHOÀNG MÀU TRẮNG…
-------------------
(1) Năm bằng cứ: trong thần học, có một hệ thống các bằng cứ nhằm khẳng định sự tồn tại của Chúa Trời, như: bằng cứ lịch sử luận, bằng cứ tâm lý luận, bằng cứ nhân chủng luận, bằng cứ vũ trụ luận, bằng cứ mục đích luận. Bằng cứ Kant đưa ra là bằng cứ luân lý (đạo đức) luận .
(2) Immanuil : chính là Kant Immanuil (1742-1804), nhà triết học người Đức.
(3) Solovki : hòn đảo ở Biển Trắng, trước sử dụng làm nơi lưu đày tội nhân.
(4) Sarcom: một dạng ung thư.
(5) Sizophrenia : bệnh tâm thần phân liệt
TRONG TẤM ÁO CHOÀNG MÀU TRẮNG với lần vải lót đỏ như máu, với dáng đi lê bước của người kỵ mã, rạng sáng ngày mười bốn tháng Nisan (1) mùa Xuân, quan tổng trấn xứ Giudea, Ponti Pilat, bước ra hàng cột lộ thiên giữa hai mái hiên của cung điện Herod đại đế.
Cái mà quan tổng trấn căm ghét nhất trên đời là mùi tinh dầu hoa hồng, và bây giờ tất cả đều báo hiệu một ngày ám gở: mùi dầu đó bắt đầu bám dai dẳng ngài ngay từ lúc trời vừa tờ mờ sáng. Ngài có cảm tưởng như mùi tinh dầu hoa hồng tỏa ra từ những thân cây cọ và trắc bá diệp ở trong vườn; dòng mùi thơm đáng nguyền rủa đó như trộn lẫn với mùi da và mùi đoàn vệ tống. Từ những dãy nhà ngang nằm sâu ở phía sau cung điện, nơi đóng quân của korgort (2) thứ nhất thuộc legio (3) Tia Chớp Số Mười Hai đến Iersalam cùng với quan tổng trấn, gió mang khói bay qua hiên thượng của khu vườn đến hàng cột, và lẫn vào với mùi khói hăng hắc chứng tỏ rằng các hỏa đầu trong các kenturia (4) đã bắt đầu nổi lửa, lại vẫn là cái mùi tinh dầu hoa hồng nồng nặc. Ôi, hỡi các thần linh, vì tội gì mà các người trừng phạt ta thế này ?!
“ Phải rồi, không còn nghi ngờ gì nữa! Đây lại là nó, cái căn bệnh hemikrania (5) khủng khiếp không có gì chống đỡ này rồi. Chẳng có thứ thuốc thang nào, chẳng trốn đi đâu được. Ta sẽ thử cố không cử động đầu xem”.
Trên nền sàn khảm cạnh đài phun nước đã chuẩn bị sẳn một chiếc ghế bành; quan tổng trấn, mắt không nhìn ai, buông người xuống ghế và chìa tay ra bên cạnh.
Tên thư ký kính cẩn đặt vào bàn tay đó một mảnh giấy da cừu. Mặt nhăn lại vì đau không nén được, quan tổng trấn đưa mắt liếc qua những hàng chữ viết trên đó, trả lại mảnh giấy cho tên thư ký rồi nặng nhọc nói:
- Tên bị bắt từ Galilê đến à ? Án văn đã gửi cho tiểu vương chưa ?
- Bẩm quan tổng trấn, rồi ạ, - tên thư ký đáp.
- Thế nào ?
- Ngài tiểu vương khước từ đưa ra lời luận tội và gửi bản tuyên án tử hình của Hội đồng Thượng thẩm lên cho ngài phê duyệt ạ.
Quan tổng trấn giật giật một bên má và nói khẽ:
- Dẫn tội nhân đến.
Ngay tức khắc, hai tên lính của legio dẫn từ dưới vườn lên ban công một người chừng hai mươi bảy tuổi và bắt dừng lại trước ghế quan tổng trấn đang ngồi. Người này mặc một chiếc áo hitôn màu xanh da trời đã cũ và rách nhiều chỗ, đầu bịt một dải khăn trắng với vòng thắt trên trán, còn hai tay bị trói quặt ra sau lưng. Phía dưới con mắt trái của người đó có một vết tím bầm lớn, cạnh góc miệng là vết rách đã khô máu. Người bị dẫn đến nhìn quan tổng trấn với vẻ tò mò lo ngại.
Quan tổng trấn im lặng một lúc lâu rồi khẽ hỏi bằng tiếng Aramei:
- Có phải đúng nhà ngươi xúi giục dân chúng phá Đền Thờ Iersalaim (9) không ?
Trong lúc hỏi, quan tổng trấn vẫn ngồi bất động như tượng đá, chỉ có đôi môi khẽ mấp máy phát ra tiếng. Quan tổng trấn ngồi như tượng đá vì ngài sợ cử động chiếc đầu đang đau dữ dội như có lửa đốt bên trong.
Người bị trói hai tay hơi chúi người lên phía trước và bắt đầu cất tiếng:
- Hỡi con người nhân từ! Xin người hãy tin…
Nhưng quan tổng trấn vẫn ngồi bất động như cũ và không hề cao giọng lên tí nào, tức khắc cắt ngang lời:
- Nhà ngươi gọi ta là con người nhân từ à ? Ngươi nhầm rồi đấy. Ở Iersalaim, tất cả mọi người thì thầm nói về ta rằng ta là một con quái vật điên khùng, và điều đó là đúng, - rồi ngài nói thêm vẫn bằng cái giọng đều đều như vậy: - gọi kenturion Crưsoboi đến đây gặp ta.
Khi viên chỉ huy đội kenturia đặc nhiệm là Mark, biệt danh Crưsoboi đến đứng trước mặt quan tổng trấn, tất cả mọi người đều tưởng như trên ban công trời bỗng tối sầm lại.
Crưsoboi cao hơn người lính cao nhất của legio đến một cái đầu, vai rộng đến nỗi che hẳn cả vầng thái dương vừa mới lên còn chưa cao lắm.
Quan tổng trấn nói với viên kenturion bằng tiếng La tinh:
- Tên tội phạm này gọi ta là “con người nhân từ”. Đưa nó đi khỏi đây một phút, giảng cho nó hiểu phải nói với ta như thế nào. Nhưng chớ làm nó tàn tật.
Và tất cả mọi người, trừ quan tổng trấn vẫn ngồi bất động, đều đưa mắt nhìn theo Mark Crưsoboi; anh ta giơ tay ra hiệu cho người bị bắt đi theo mình.
Nói chung, mỗi khi Crưsoboi xuất hiện bất kỳ ở đâu, mọi người đều phải nhìn theo anh ta – vì con người Mark quá cao lớn, và đối với những người lần đầu tiên trông thấy viên kenturion này thì còn vì khuôn mặt kỳ dị của anh ta : chiếc mũi vỡ do trước đây bị một quả chùy Gierman đánh trúng.
Tiếng ủng nặng của Mark gõ vang trên mặt sàn khảm, người tù bị trói bước theo sau không tiếng động, giữa những dãy cột hoàn toàn yên lặng, và nghe rõ tiếng chim bồ câu gù ngoài vườn cạnh ban công hòa với tiếng nước reo êm êm dễ chịu nơi đài phun.
Quan tổng trấn muốn đứng dậy, chìa thái dương đón lấy tia nước rồi lặng đi trong tư thế như vậy. Nhưng ngài biết rằng cả điều đó cũng không giúp được gì cho ngài.
Dẫn người bị bắt rời các dãy cột vào khu vườn, Crưsoboi cầm từ tay tên lính của legio đứng dưới chân bức tường đồng một ngọn roi và khẽ vung lên, đánh xuống vai người bị bắt. Cử chỉ của viên kenturion trông đờ đẫn, nhẹ nhàng, qua quýt nhưng kẻ bị trói lập tức ngã sấp xuống mặt đất như bị phạt ngang chân, miệng hớp hớp không khí, mặt cắt không còn hột máu, mắt trống không đờ đẫn. Mark chỉ đưa tay trái, nhẹ nhàng như xách chiếc bao tải rỗng, nhấc bỗng con người đang nằm dưới đất lên, đặt cho đứng trên hai chân và nói bằng giọng mũi tiếng Aramei hơi khó nghe:
- Phải gọi ngài quan tổng trấn La Mã là ighemon. Không được nói những từ khác. Ngươi hiểu chưa, hay là ta phải đánh nữa ?
Người bị bắt lảo đảo, nhưng kìm được mình, máu đã dồn trở lại mặt, anh ta thở lấy hơi và khàn khàn đáp:
- Tôi hiểu rồi, đừng đánh tôi.
Một phút sau, anh ta đã đứng trước mặt quan tổng trấn.
Một giọng buồn tẻ, ốm yếu vang lên:
- Tên là gì ?
- Tên tôi ấy à ? - người bị bắt vội vàng hỏi, toàn thân thể hiện một sự sẳn sàng biết điều khi đáp lại, để không làm quan tổng trấn tức giận thêm.
Quan tổng trấn nói khẽ:
- Tên của ta, ta đã biết rồi. Đừng có làm ra vẻ ngớ ngẩn hơn là ngươi vốn có. Tên nhà ngươi.
- Iesua (6), - người bị bắt vội vàng đáp.
- Có biệt danh không ?
- Ha – Notxri.
- Quê quán ?
- Thành phố Gamala, - người bị bắt đáp, dùng đầu ra hiệu rằng ở một nơi nào đó rất xa, về phía tay phải của anh ta, trên miền Bắc, có một thành phố tên là Gamala.
- Huyết thống của nhà ngươi ?
- Tôi không biết thật chính xác, - người bị bắt nhanh nhảu đáp, - tôi không nhớ cha mẹ tôi. Người ta bảo với tôi rằng bố tôi là người Xiri…
- Nhà ngươi sống thường xuyên ở đâu ?
- Tôi không sống thường xuyên ở nơi nào cả, - người bị bắt ngượng nghịu đáp, - tôi hành hương từ thành phố này sang thành phố khác.
- Điều đó có thể diễn đạt ngắn gọn hơn bằng một từ là lang thang, - quan tổng trấn nói rồi hỏi tiếp: - Có người thân không ?
- Không có ai cả. Tôi một mình trên đời.
- Biết chữ không ?
- Có ạ !
- Ngoài tiếng Aramei ra, còn biết thứ tiếng nào khác ?
- Tôi còn biết tiếng Hy Lạp.
Một mí mắt sưng mọng khẽ nâng lên, một con mắt đục mờ vì đau đớn nhìn người bị bắt chằm chằm, con mắt kia vẫn nhắm chặt.
Pilat cất giọng hỏi bằng tiếng Hy Lạp:
- Có phải nhà ngươi định phá Đền Thờ và kêu gọi dân chúng làm như vậy không ?
Người bị bắt bỗng sôi nổi hẳn lên, đôi mắt không còn tỏ vẻ sợ hãi nữa, và anh ta nói bằng tiếng Hy Lạp:
- Tôi, hỡi con người nhân… - một nỗi kinh hoàng chợt nhoáng qua cặp mắt người bị bắt vì suýt nữa anh ta lại lỡ lời, - tôi, thưa ighemon, không bao giờ trong đời có ý định phá Đền Thờ và không xúi giục ai làm cái việc vô nghĩa đó.
Trên khuôn mặt tên thư ký ngồi còng lưng trên chiếc bàn thấp và ghi chép lời khai, hiện ra vẻ ngạc nhiên; gã ngẩng đầu lên, nhưng lại lập tức cúi xuống mảnh giấy da cừu.
- Có vô số loại người khác nhau đổ về thành phố này để đón ngày hội. Trong số họ có cả phù thủy, thầy chiêm tinh, thầy bói và các bọn giết người, - quan tổng trấn nói bằng giọng đều đều, - có cả những kẻ chuyên nói dối nữa. Nhà ngươi chẳng hạn, là một kẻ nói dối. Ở đây đã ghi rõ: xúi giục phá Đền Thờ. Những người làm chứng khai như vậy.
- Những con người nhân từ đó, - người bị bắt nói và vội vàng thêm, - thưa ighemon, - rồi tiếp: - họ không học được điều gì cả và lẫn lộn hết những điều tôi nói. Nói chung tôi bắt đầu lo rằng sự nhầm lẫn này sẽ kéo dài rất lâu. Mà tất cả chỉ là vì anh ta chép lời tôi không đúng.
Im lặng bao trùm. Bây giờ cả hai con mắt ốm yếu đều đã mở ra nhìn người bị bắt một cách nặng nề.
- Ta nhắc lại, nhưng đây là lần cuối cùng: đừng có giả đò điên dại nữa, hỡi đồ kẻ cướp, - Pilat nói khẽ và đều đều, - lời của nhà ngươi được ghi chép lại không nhiều, nhưng cũng đủ để treo cổ nhà ngươi lên.
- Không, không phải đâu, thưa ighemon, - toàn thân căng thẳng lên trong ý muốn thuyết phục được người nghe, kẻ bị bắt nói, - có một người mang theo giấy da cừu cứ đi bám riết theo tôi và ghi chép lia lịa. Một lần , tôi liếc nhìn vào tờ giấy của anh ta và cảm thấy kinh hoàng. Quả thực là những điều được viết trong đó tôi không hề nói ra bao giờ. Tôi cầu khẩn anh ta: Lạy trời, anh hãy đốt tờ giấy này đi! Nhưng anh ta giật nó trong tay tôi và chạy mất.
- Ai thế ? – Pilat hỏi với vẻ kinh tởm và đưa tay lên sờ thái dương.
- Levi Matvei (7) - người bị bắt sẳn lòng giải thích, - anh ta là một người thu thuế, tôi gặp anh ta lần đầu tiên ở trên đường vào Viphaghia, ở cạnh vườn vả, và bắt chuyện với anh ta. Lúc đầu anh ta có thái độ thù địch với tôi, thậm chí lăng nhục tôi; anh ta gọi tôi là đồ chó và nghĩ rằng bằng cách đó đã lăng nhục tôi, - nói đến đây người bị bắt cười khẩy, - nhưng tôi không thấy ở con vật này có gì xấu để có thể tức giận với lời đó được.
Tên thư ký ngừng viết và ném trộm một cái nhìn ngạc nhiên, nhưng không phải về phía người bị bắt, mà về phía quan tổng trấn.
- …Nhưng sau khi nghe tôi nói, anh ta liền thay đổi thái độ, - Iesua nói tiếp, - cuối cùng, anh ta ném hết tiền xuống đường cái và nói rằng sẽ theo tôi đi hành hương.
Pilat cười khẩy bằng một bên má, để lộ những chiếc răng vàng khè, rồi quay cả thân hình về phía tên thư ký, nói:
- Ôi, cái thành phố Iersalaim này ! Có cái gì là không nghe thấy ở đây ! Người đi thu thuế, các ngươi có nghe thấy không, lại đi ném tiền ra đường cái !
Không biết trả lời ra sao, tên thư ký cho việc tốt nhất là lặp lại nụ cười của Pilat.
- Và anh ta nói rằng kể từ nay anh ta ghê tởm tiền bạc, - Iesua giải thích hành động kỳ quặc của Levi Matvei, rồi nói thêm: - Và từ hôm đó, anh ta trở thành bạn đường của tôi.
Vẫn tiếp tục nhe răng, quan tổng trấn quay sang nhìn kẻ bị bắt, rồi nhìn lên vầng thái dương không ngừng vượt lên cao ở phía trên những bức tượng hình ngựa chiến của trường đua ngựa nằm dưới xa phía tay phải; và trong một cơn đau nhói ngài chợt nghĩ rằng: cách giải quyết đơn giản nhất bây giờ là đuổi cái tên kẻ cướp lạ lùng này khỏi ban công mà chỉ cần nói hai từ “Treo cổ”. Đuổi cả đoàn vệ tống đi, rồi rời hàng cột lộ thiên vào hậu cung, ra lệnh che kín phòng, buông người xuống giường, đòi một cốc nước lạnh, bằng giọng rên rỉ gọi con chó Banga, than thở với nó về chứng hemikrania. Và ý nghĩ về chén thuốc độc bỗng thoáng vụt qua đầy quyến rũ trong chiếc đầu bệnh tật của quan tổng trấn.
Ngài ngồi nhìn kẻ bị bắt bằng đôi mắt mờ đục và im lặng một lúc lâu, khổ sở cố nhớ xem cái con người kia với bộ mặt bị roi đòn méo mó đứng dưới ánh mặt trời Iersalaim buổi sớm nắng gắt để làm gì, và ngài còn cần phải hỏi thêm những câu hỏi không cần thiết cho ai nào nữa.
- Levi Matvei à ? – người bệnh hỏi bằng giọng khàn khàn và nhắm mắt lại.
- Vâng, Levi Matvei, - giọng nói lanh lảnh vẳng đến tai Pilat như hành hạ ngài.
- Dù sao thì nhà ngươi cũng đã nói gì về ngôi đền với đám đông ngoài chợ ?
Giọng nói của người trả lời hình như cứ xoáy vào thái dương Pilat, khiến ngài đau đớn đến không thể tả nổi; và giọng nói đó lại cất lên:
- Thưa ighemon, tôi nói rằng ngôi đền của lòng tin cũ sẽ sụp đổ, và ngôi đền mới của chân lý sẽ được dựng lên. Tôi nói như vậy để cho dễ hiểu hơn.
- Này, kẻ lang thang, tại sao nhà ngươi lại gây rối loạn trong dân chúng ở ngoài chợ bằng những lời lẽ về cái chân lý mà chính nhà ngươi chẳng hề có tí ý niệm nào ? Chân lý là cái gì ?
Nói xong, quan tổng trấn nghĩ thầm: “ Ôi, hỡi các vị thần linh ! Ta hỏi hắn về những chuyện hoàn toàn không cần thiết ở trên tòa án…Lý trí của mình không còn nghe theo mình nữa…” Và ngài lại thoáng nghĩ đến chiếc chén với chất lỏng màu đen. “ Thuốc độc, thuốc độc cho ta…”
Và ngài lại nghe thấy giọng nói:
- Chân lý trước hết là ở chỗ hiện giờ ngài đang đau đầu, và đầu của ngài đau đến nỗi ngài đang hèn nhát nghĩ đến cái chết. Ngài không chỉ không đủ sức nói với tôi, mà thậm chí chỉ nhìn thôi ngài cũng cảm thấy khó khăn. Và bây giờ tôi vô tình trở thành đao phủ đối với ngài, điều đó làm tôi khổ sở. Ngài không thể nghĩ về một cái gì khác mà chỉ mơ ước một điều: gọi con chó của ngài đến, nó có lẽ là sinh vật duy nhất mà ngài quyến luyến gắn bó. Nhưng những đau đớn của ngài giờ đây rồi sẽ hết, đầu ngài sẽ đỡ.
Tên thư ký trố mắt nhìn kẻ bị bắt và không chép hết lời.
Pilat ngước đôi mắt lộ vẻ đau đớn lên nhìn người bị bắt và nhận thấy mặt trời đã lên khá cao phía trên trường đua ngựa, nắng đã chiếu rọi vào dãy cột tròn và đang bò dần đến bên đôi dép đã cũ mòn của Iesua, còn anh ta đang tìm cách đứng tránh ra khỏi các tia nắng.
Quan tổng trấn chợt rời ghế bành đứng dậy, hai tay ôm lấy đầu, trên khuôn mặt da vàng tái cạo nhẳn của ngài hiện ra vẻ kinh hoàng. Nhưng ngài lập tức dùng ý chí của mình chế ngự nỗi sợ hãi và lại buông người xuống ghế bành.
Trong lúc đó người bị bắt vẫn tiếp tục nói, nhưng tên thư ký không ghi chép gì thêm, mà chỉ vươn dài cổ ra như một con ngỗng, cố không bỏ sót một lời nào.
- Thế đấy, tất cả đã qua rồi, - người bị bắt nói, nhìn Pilat với vẻ đầy thiện ý, - và tôi rất vui mừng với điều đó. Tôi muốn khuyên ngài, thưa ighemon, là ngài hãy tạm rời cung điện một thời gian và đi dạo ở một nơi nào đó, cho dù là ở núi Eleon. Cơn giông sẽ bắt đầu, - người bị bắt quay đi nhìn lên mặt trời, - muộn hơn, vào buổi chiều. Cuộc đi dạo sẽ rất có lợi cho ngài, và tôi sẳn sàng đi theo ngài. Trong đầu tôi vừa nảy ra một vài suy nghĩ mới mà tôi cho rằng sẽ làm ngài quan tâm, tôi sẳn sàng chia xẻ cùng ngài, hơn nữa ngài đã gây cho tôi ấn tượng là một con người rất thông minh.
Tên thư ký tái nhợt người kinh hoàng, đánh rơi cuộn giấy xuống sàn.
- Tai hoạ là ở chỗ, - không bị ai ngắt lời, kẻ bị trói vẫn tiếp tục nói, - ngài là người quá cô độc và đã hoàn toàn mất hết lòng tin vào mọi người. Mà lẽ ra, chắc ngài cũng đồng ý, là không nên dồn toàn bộ sự quyến luyến vào một con chó. Cuộc sống của ngài quá đạm bạc, thưa ighemon, - nói đến đây người bị bắt tự cho phép nở một nụ cười mỉm.
Tên thư ký lúc này chỉ nghĩ mỗi một điều, là có nên tin ở tai mình nữa hay không. Có lẽ buộc phải tin. Và gã cố hình dung ra cơn giận dữ của quan tổng trấn tính nóng như lửa sẽ bùng ra dưới hình thức đáng sợ nào khi nghe những lời táo tợn chưa từng thấy như vậy của kẻ bị bắt. Nhưng điều này thì tên thư ký không thể hình dung nổi, mặc dù gã đã biết khá rõ quan tổng trấn.
Vừa lúc đó vang lên giọng khàn khàn đứt quãng của quan tổng trấn, ngài nói bằng tiếng Latinh:
- Cởi trói cho hắn.
Một trong số những tên lính vệ tống thúc cán dáo xuống đất, trao nó cho tên đứng bên cạnh, bước đến cởi sợi dây thừng trên tay kẻ bị bắt. Tên thư ký nhặt tấm giấy lên, quyết định bây giờ sẽ chưa ghi chép gì và không tỏ vẻ ngạc nhiên trước bất cứ chuyện gì xảy ra.
- Hãy nói thực đi, - Pilat hỏi khẽ bằng tiếng Hy Lạp, - nhà ngươi là một thầy thuốc đại tài phải không ?
- Không, thưa quan tổng trấn, tôi không phải là thầy thuốc, - người bị bắt đáp, khoan khoái xoa bóp nhữngngón tay bị trói chặt sưng bầm lên.
Đột ngột, Pilat trừng mắt nhìn xoáy vào người bị bắt, trong ánh nhìn giờ đây không còn vẻ đờ đẫn nữa, mà đã xuất hiện những tia lửa quen thuộc với tất cả mọi người.
- Ta hỏi nhà ngươi, - Pilat hỏi, - có thể nhà ngươi biết cả tiếng La tinh nữa ?
- Vâng, tôi có biết, - người bị bắt đáp.
Một màu hồng hiện ra trên đôi má vàng nhạt của Pilat, và ngài hỏi bằng tiếng La tinh:
- Làm sao nhà ngươi biết là ta muốn gọi chó ?
- Điều đó rất đơn giản, - người bị bắt đáp bằng tiếng La tinh, - ngài đưa tay trong không khí, - người bị bắt lặp lại cử động của Pilat, - dường như vuốt ve và môi ngài…
- Đúng thế, - Pilat nói.
Cả hai đều im lặng một lúc lâu. Rồi Pilat hỏi bằng tiếng Hy Lạp:
- Nhưng người là thầy thuốc chứ ?
- Không, không, - người bị bắt vội vàng đáp, - xin ngài hãy tin tôi, tôi không phải là thầy thuốc.
- Thôi được, nếu nhà ngươi muốn giữ bí mật về điều đó thì cứ giữ. Điều đó không liên quan trực tiếp đến công việc. Vậy là nhà ngươi khẳng định rằng nhà ngươi không xúi giục phá…hay là đốt, hay là bằng một cách nào đó hủy diệt Đền Thờ, phải không ?
- Thưa ighemon, tôi xin nhắc lại là tôi không hề xúi giục ai làm những việc như vậy cả. Chẳng lẽ tôi lại trông giống như một thằng ngốc sao?
- Ồ không, nhà ngươi không giống một thằng ngốc, - quan tổng trấn đáp khẽ và nhếch mép tạo thành một nụ cười đáng sợ, - thế thì nhà ngươi hãy thề là không có điều đó đi.
- Ngài muốn tôi lấy gì ra mà thề ạ ? - người bị bắt vừa được cởi trói linh hoạt hẳn lên.
- Hừ, thì cứ lấy cuộc đời của nhà ngươi ra mà thề, - quan tổng trấn đáp, - nhà ngươi lấy nó mà thề là đúng lúc đấy, vì bây giờ nó đang treo trên sợi tóc, hãy nhớ lấy điều đó !
- Thưa ighemon, ngài không nghĩ là ngài treo nó lên đấy chứ ? - người bị bắt hỏi, -Nếu ngài nghĩ thế thì ngài rất lầm đấy.
Pilat rùng mình và nói qua kẻ răng:
- Ta có thể cắt đứt sơi tóc đó.
- Và cả điều đó ngài cũng lầm, - người bị bắt mỉm cười rạng rỡ, lấy bàn tay che nắng, đáp lại, - ngài hãy công nhận rằng, có lẽ chỉ người nào treo nó lên thì mới có thể cắt đứt được nó mà thôi !
- Thế, thế đấy, - Pilat mỉm cười nói, - Bây giờ ta không nghi ngờ rằng bọn vô công rồi nghề ở Iersalaim đã đi theo ngươi sát gót. Ta không biết ai treo lưỡi của nhà ngươi lên, nhưng treo khá đấy. Nhân thể , hãy nói cho ta nghe, có đúng là nhà ngươi đã cưỡi lừa đi vào thành Iersalaim qua cổng Suz cùng với một đám dân đen hò hét chào mừng ngươi như một vị tiên tri không ?
Người bị bắt ngơ ngác nhìn quan tổng trấn
- Thưa ighemon, tôi không có con lừa nào cả, - anh ta đáp. – Đúng là tôi vào Iersalaim qua cổng Suz, nhưng đi bộ với một mình Levi Matvei mà thôi, và không ai kêu hét gì với tôi cả, vì lúc đó ở Iersalaim chưa có ai biết tôi.
- Thế nhà ngươi có biết, - Pilat hỏi tiếp, mắt vẫn không rời người bị bắt, - những tên sau đây không, một tên là Dismas, một tên khác là Hestas, cón tên thứ ba là Var-ravvan ?
- Tôi không hề biết những con người nhân từ này, kẻ bị bắt đáp.
- Thật chứ ?
- Thật ạ !
- Còn bây giờ nhà ngươi hãy nói nghe, có phải bao giờ nhà ngươi cũng nói “ những con người nhân từ” không ? Tất cả mọi người nhà ngươi đều gọi như thế sao?
- Tất cả, - kẻ bị bắt đáp, - những người ác không có ở trên đời.
- Lần đầu tiên ta nghe nói về điều đó đấy, - Pilat cười khẩy nói, - nhưng cũng có thể, ta biết đời còn quá ít ! Có thể không phải ghi chép, - quan tổng trấn quay sang nói với tên thư ký, mặc dù gã này đã từ lâu không ghi chép lấy một lời nào, rồi ngài tiếp tục nói với người bị bắt – Nhà ngươi đã đọc được điều đó trong một cuốn sách Hy Lạp nào à ?
- Không, tôi tự mình nghiệm ra điều đó.
- Và nhà ngươi truyền giảng điều đó ?
- Vâng.
- Thế nhưng, chẳng hạn tên kenturion Mark, ngừơi ta gọi hắn là Crưsoboi, cũng là người nhân từ à ?
- Vâng, - kẻ bị bắt đáp, - tuy nhiên, anh ta là một người bất hạnh. Từ khi anh ta bị những con người nhân từ làm cho tàn tật, anh ta trở nên dữ tơn và tàn nhẫn. Không hiểu ai đã làm tàn tật anh ta như vậy ?
- Ta sẳn lòng cho ngươi biết điều đó, - Pilat trả lời, - bởi vì chính ta đã chứng kiến việc ấy. Những người nhân từ xông vào hắn ta như một bầy chó săn xông vào con gấu. Bọn Gierman bấu vào cổ, vào tay, vàochân hắn. Manipulus bộ binh bị rơi vàovòng vây, và nếu như không có turna kỵ binh (8), do ta chỉ huy, đánh thọc sườn vào, thì nhà ngươi, triết gia ạ, không có dịp để nói chuyện với Crưsoboi đâu.Đó là trong trận Idistaviso, ở thung lũng Trinh nữ.
- Nếu như tôi được nói chuyện với anh ta, - người bị bắt bỗng nói một cách mơ mộng, - thì tôi tin rằng anh ta sẽ thay đổi nhiều.
- Ta cho rằng, - Pilat nói, - quan legat của legio sẽ chẳng lấy gì làm vui mừng, nếu như nhà ngươi nghĩ đến việc nói chuyện với các sĩ quan hoặc binh lính của ông ta. Nhưng thật may là điều đó sẽ không xảy ra, và người đầu tiên lo cho việc ấy sẽ là ta.
Vừa đúng lúc đó có một con chim én bay vụt vào dãy cột tròn của hàng hiên, lượn vòng dưới mái trần mạ vàng, sà xuống thấp đến nỗi đầu cánh nhọn suýt nữa quệt vào mặt của pho tượng đồng ở hốc khám trong tường, rồi mất hút sau đỉnh cột. Có thể, nó dự định sẽ làm tổ ở trên đó.
Vào khoảng khắc con én bay, trong mái đầu giờ trở nên nhẹ nhỏm và sáng sủa của quan tổng trấn đã kịp hình thành một quyết định. Nó như sau: ighmon đã xem xét vụ án nhà triết học đi chu du đây đó Iesua có biệt hiệu Ha-Notxri, và không tìm ra cấu thành tội phạm trong đó. Chẳng hạn, không thấy một mối liên hệ nhỏ nào giữa các hành động của Iesua và những vụ lộn xộn xảy ra ở Iersalaim cách đây không lâu. Nhà triết học lang thang là một người bị bệnh tâm thần. Vì vậy, quan tổng trấn không chuẩn y bản án tử hình Ha-Notxri do hội đồng thượng thẩm của Giudea đệ trình lên. Nhưng xét thấy những câu nói điên dại không tưởng của Ha-Notxri có thể gây nên những xáo động ở Iersalaim, quan tổng trấn trục xuất Iasua ra khỏi Iersalaim và quản thúc tại Kesaria St’ratonova ở Địa Trung Hải, tức là chính ở nơi có dinh của quan tổng trấn.
Chỉ còn lại việc đọc tên thư ký ghi quyết định đó.
Con én vẫy cánh ngay sát trên đầu ighemon, rồi nó bay vụt ra đài phun nước và biến mất ngoài trời. Quan tổng trấn ngước mắt lên nhìn người tù và thấy một cột bụi cháy đỏ cạnh anh ta.
- Đã hết chưa ?
- Thưa, rất đáng tiếc là chưa ạ, - tên thư ký đột ngột đáp và trao cho Pilat một cuộn giấy da cừu khác.
- Còn vật gì ở đây nữa ? – Pilat hỏi và cau mày lại.
Đọc xong mảnh giấy da cừu, nét mặt ngài càng thay đổi. Không biết có phải vì máu đen dồn lên cổ và mặt, hay có chuyện gì khác xảy ra, chỉ thấy da mặt ngài đã mất đi màu vàng tái, chuyển sang màu tím thẫm, còn đôi mắt như trũng sâu xuống.
Có lẽ vẫn là do máu, nó lại dồn lên thái dương và đập giần giật ở đó, nhưng có chuyện gì đấy đã xảy ra với đôi mắt của quan tổng trấn. Ngài có cảm tưởng như đầu của người bị bắt đã trôi tuột đi đâu mất, thay vào đó xuất hiện một cái đầu khác. Trên chiếc đầu hói này là vành mũ miện bằng vàng, răng thưa; trên trán có một nốt loét tròn ăn sâu vào da bôi thuốc cao; chiếc miệng móm không còn răng với vành môi dưới trễ xuống một cách đỏng đảnh. Pilat cảm thấy đã biến đi đâu mất những chiếc cột tròn màu hồng của ban công, những mái nhà của thành phố Iersalaim ở phía dưới xa sau khu vườn và tất cả chung quanh chìm ngập trong màu xanh rậm rì của những khu vườn Kápreia. Và bên tai nghe vẳng lên một cái gì đó kỳ lạ, dường như từ một nơi nào rất xa vọng lại tiếng kèn đồng không to lắm nhưng đầy đe dọa và một giọng mũi ngạo mạn kéo dài những từ : “ Luật trừng trị tội phạm thượng…”
Trong đầu vụt lướt qua những ý nghĩ ngắn ngủi, rời rạc và khác thường: “ Hắn ta chết rồi !” rồi tiếp đó: “ tất cả chết rồi !...” và cùng với chúng là một ý nghĩ kỳ quái nào đó về sự bất tử nhất thiết cần phải xảy ra - với ai ? – nhưng không hiểu sao sự bất tử đó lại gợi nên một nỗi buồn không thể chịu đựng nổi.
Pilat tập trung ý chí, xua đuổi ảo giác, bắt ánh mắt nhìn trở lại ban công, và trước mặt ngài lại hiện ra đôi mắt của người bị bắt.
- Này Ha-Notxri, nghe đây, - quan tổng trấn cất tếng, nhìn chằm chằm vào Iersua một cách lạnh lùng; vẻ mặt ngài đằng đằng sát khí, nhưng đôi mắt lại bồn chồn lo âu, - nhà ngươi có bao giờ nói về đức Hoàng đế vĩ đại không? Trả lời đi ! Có nói không ?...Hay là … không… nói ? - Phải kéo dài từ “không”, hơi dài hơn so với mức cần thiết ở trên phiên tòa xét xử, và trong ánh mắt gửi cho Iersua, dường như ngài muốn gợi lên trong người bị bắt một ý nghĩ nào đó.
- Nói sự thật bao giờ cũng nhẹ nhỏm và dễ chịu, - người bị bắt nhận xét.
- Ta không cần biết, - Pilat đáp lại bằng giọng dữ tợn cố nén lại, - là nhà ngươi dễ chịu hay không dễ chịu khi nói sự thật. Nhưng nhà ngươi buộc phải nói sự thật đó ra. Tuy nhiên khi nói hãy cân nhắc từng từ, nếu như nhà ngươi không muốn một cái chết không những không tránh khòi mà còn đau đớn.
Không ai biết có chuyện gì đã xảy ra với quan tổng trấn xứ Giudea, nhưng ngài cho phép mình giơ bàn tay lên làm như để che nắng, và từ phía sau bàn tay đó, như sau chiếc mộc chắn, ngài gửi cho người bị bắt một cái nhìn đầy hàm ý.
- Thế nào, - ngài nói, - trả lời đi, nhà ngươi có biết một tên Giuđa nào đó ở Kiriaph, và nhà ngươi đã nói gì với hắn - nếu như là có nói - về đức Hoàng đế La Mã ?
- Sự thể như sau, - người kia bắt đầu kể một cách thích thú, - chiều ngài hôm kia, ở cạnh Đền Thờ, tôi làm quen với một người tự xưng là Giuđa, quê ở thành phố Kiriaph. Anh ta mời tôi về nhà ở Hạ Thành và giữ tôi lại thết cơm…
- Một người nhân từ ? – Pilat hỏi,và một tia lửa quỷ quái lóe lên trong cặp mắt của ngài.
- Một người rất nhân từ và ham hiểu biết, - người bị bắt khẳng định. - Anh ta tỏ ra hết sức quan tâm tới những suy nghĩ của tôi, đón tiếp tôi rất chu đáo…
- Rồi thắp đèn lên…- Pilat nói qua kẻ răng theo giọng của người bị gắt, đồng thời đôi mắt của ngài ánh lên lấp lánh.
- Vâng, đúng thế, - hơi ngạc nhiên trước việc quan tổng trấn đã biết điều đó, Iesua nói tiếp, - và đề nghị tôi nói ra những ý kiến về chính quyền nhà nước. Anh ta hết sức quan tâm đến vấn đề đó.
- Thế nhà ngươi đã nói những gì ? – Pilat hỏi, - hay là nhà ngươi sẽ trả lời rằng nhà ngươi đã quên mất mình đã nói những gì ? – nhưng trong giọng nói của Pilat đã cảm thấy vẻ thất vọng.
- Trong số những chuyện khác, tôi có nói rằng, - người bị bắt kể, - bất kể thứ quyền lực nào cũng là bạo lực đối với con người, và sẽ đến một lúc không còn quyền lực của các hoàng đế lẫn bất kỳ thứ quyền lực nào khác. Con người sẽ đến được vương quốc của sự thật và công lý, nơi nói chung sẽ không cần một quyền lực nào cả.
- Tiếp đó !...
- Tiếp đó không có gì cả, - người bị bắt nói, - vừa lúc đấy mọi người chạy vào bắt trói tôi và dẫn vào ngục.
Tên thư ký cố không bỏ sót một lời nào, ghi nhanh lên tấm da cừu.
- Trên thế giới đã, đang và sẽ không bao giờ có một quyền lực nào vĩ đại và tuyệt với đối với mọi người hơn là quyền lực của Hoàng đế Tiberi ! - giọng nói ốm yếu và đứt quãng của Pilat run lên.
Quan tổng trấn, không hiểu sao, với vẻ căm thù liếc nhìn tên thư ký và đội vệ tống.
- Và nhà ngươi, tên tội phạm điên rồ, không có quyền bàn luận về điều đó ! – Pilat quát lên. – Đưa đội vệ tống ra khỏi ban công ! - Rồi quay lại phía tên thư ký, nói tiếp: - Để ta lại một mình, đây là việc quốc gia đại sự.
Đội vệ tống nhấc những ngọn giáo lên, gõ những đôi giày bịt sắt, rời ban công bước xuống vườn; theo sau đội vệ tống là tên thư ký.
Trong một lúc lâu, sự im lặng trên ban công chỉ bị tiếng nước reo trong đài phun nước phá vở. Pilat nhìn thấy nước trào lên phía trên vòi phun thành hình một chiếc đĩa, mép của chiếc đĩa gãy vụn ra biến thành vô vàn dòng nước nhỏ.
Người bị bắt lên tiếng trước:
- Tôi thấy vì những điều tôi nói với chàng thanh niên quê ở Kiriaph này mà đã xảy ra một tai họa nào đó. Tôi linh cảm là, thưa ighemon, anh ta sẽ gặp một bất hạnh lớn, và tôi rất thương anh ta.
- Ta nghĩ, - quan tổng trấn cười khẩy một cách lạ lùng, nói, - rằng trên đời còn có những kẻ đáng để nhà ngươi thương nhiều hơn là cái gã Giuđa quê ở Kiriaph kia, và có những kẻ sẽ còn bất hạnh hơn hắn nhiều ! Vậy thì, Mark Crưsoboi, một tên đao phủ lạnh lùng và trung thành, những người, mà như ta thấy, - quan tổng trấn chỉ vào khuôn mặt đầy thương tích của Iesua, - đã đánh nhà ngươi vì những lời thuyết giáo của ngươi, những tên cướp Dismas và Hestas cùng với đồng đảng đã giết chết bốn tên lính, và cuối cùng là tên phản bội Giuđa bẩn thỉu, tất cả bọn chúng đều là những người nhân từ sao ?
- Vâng, người bị bắt đáp.
- Và thời của vương quốc chân lý sẽ đến ?
- Vâng, sẽ đến, thưa ighemon, - Iersua tin tưởng đáp lời.
- Nó sẽ không bao giờ đến cả ! – Pilat bỗng gầm lên bằng một giọng đáng sợ làm Iesua bất giác lùi lại, như nhiều năm trước đây trong thung lũng Trinh nữ, Pilat đã gầm lên với các kỵ sĩ của mình: “ Chém hết chúng đi ! Chém sạch! Tên khổng lồ Crưsoboi bị vây rồi!” Và bằng cái giọng đã khản đặc vì phải thường xuyên hô mệnh lệnh, ngài còn cao giọng hét thêm để dưới vườn có thể nghe thấy: “Quân tội phạm! Quân tội phạm! Quân tội phạm!”
Rồi hạ thấp giọng, ngài hỏi:
- Iesua Ha-Notxri, nhà ngươi có tin vào những vị chúa nào đó không?
- Chúa Trời chỉ có một, - Iesua đáp, - và tôi tin vào Người.
- Thế thì nhà ngươi hãy cầu nguyện Chúa của nhà ngươi đi. Cầu nguyện thật thành tâm đi! Mà thực ra, - giọng Pilat đến đây như nghẹn lại, - điều đó cũng chẳng giúp được gì. Ngươi có vợ không ? - Chẳng hiểu sao, Pilat rầu rỉ hỏi, tự mình không hiểu điều gì đang xảy ra với mình.
- Không, tôi chỉ có một mình.
- Cái thành phố đáng ghét, - không hiểu vì sao quan tổng trấn lẩm bẩm, so vai lại như bị lạnh và co tay vào nhau như đang rửa chúng, - giả như người ta cắt cổ nhà ngươi trước khi nhà ngươi gặp tên Giuđa quê ở Kiriaph thì có lẽ tốt hơn.
- Thưa ighemon, ngài nên thả tôi ra, - người bị bắt bất chợt cất tiếng cầu xin, và giọng nói của anh ta trở nên lo lắng, - tôi thấy là người ta muốn giết tôi.
Khuôn mặt Pilat méo đi vì những cơn co giật, ngài hướng cặp mắt nẩy lửa, lòng trắng vằn những mạch máu đỏ, về phía Iesua và nói:
- Nhà ngươi, đồ bất hạnh, cho rằng quan tổng trấn La Mã sẽ tha cho kẻ nói những điều mà nhà ngươi đã nói ư ? Ôi, hỡi các thần linh! Hay là nhà ngươi nghĩ rằng ta sẳn sàng thay chỗ cho nhà ngươi ? Ta không chia sẽ những ý nghĩ của nhà ngươi đâu ! Và hãy nghe ta nói: nếu từ giây phút này nhà ngươi còn thốt lên dù chỉ một lới, bắt chuyện với ai đó, thì hãy coi chừng ta ! Ta nhắc lại: hãy coi chừng !
- Thưa ighemon…
- Câm miệng ! - Pilat hét lên và đưa ánh mắt điên dại nhìn theo con chim én lại vừa chấp chới bay lên ban công. – Quân bay đâu ! – Pilat gọi lớn.
Khi tên thư ký và đội vệ tống quay trở lại chỗ của mình. Pilat tuyên bố rằng ngài duyệt y bản án mà phiên hợp Hội đồng thượng thẩm đã thông qua, tử hình tên tội phạm Iesua Ha-Notxri. Tên thư ký chép lại những lời của Pilat.
Một phút sau, Mark Crưsoboi đã đứng trước mặt quan tổng trấn. Pilat ra lệnh cho anh ta giao tội phạm cho viên chỉ huy đặc vụ, đồng thời truyền lại mệnh lệnh của quan tổng trấn cho giam Iesua Ha- Notxri tách khỏi những tội nhân khác, cấm nhữngngười trong đội đặc vụ trao đổi bất cứ chuyện gì hoặc trả lời bất cứ câu hỏi nào của Iesua, nếu trái lệnh sẽ bị trừng phạt nặng nề.
Theo hiệu lệnh của Mark, đội vệ tống quây kín xung quanh Iesua và dẫn anh ta xuống ban công.
Rồi sau đó, trước mặt quan tổng trấn xuất hiện một người đàn ông thân hình cân đối, đẹp đẽ, râu màu vàng sáng, với những hình đầu sư tử lấp lánh trên ngực, những chiếc lông chim ưng gắn trên đỉnh mũ trụ, những tấm vàng dát trên đai đeo kiếm, đôi giày đế ba lớp quấn dây lên tận đầu gối, áp choàng đỏ thắm vắt ngang vai trái. Đó là Iegat, chỉ huy trưởng iego. Quan tổng trấn hỏi Iegat là kogot những người Sebasti hiện nay đang ở đâu. Iegat thông báo họ đang vây quanh bãi trống trước trường đua ngựa, nơi sẽ tuyên cáo cho dân chúng biết về bản án đối với những tên tội phạm.
Quan tổng trấn liền ra lệnh cho Iegat điều từ korgot La Mã ra hai kenturia do Crưsoboi chỉ huy sẽ phải hộ tống những tội nhân và đoàn xe chở hình cụ cùng đao phủ lên Núi Trọc và khi đến nơi thì dàn thành vòng vây ở phía trên núi. Một kenturia khác ngay bây giờ phải đến Núi Trọc và lập tức phong tòa toàn bộ khu vực. Cũng với mục đích đó, tức là để bảo vệ Núi Trọc, quan tổng trấn đề nghị Iegat phái thêm kỵ binh, một ala Siri đến giúp sức.
Khi Iegat đã rời khỏi ban công, quan tổng trấn ra lệnh cho tên thư ký mời người đứng đầu Hội đồng thượng thẩm, hai thành viên của nó và chỉ huy đội cấm vệ của Đền Thờ Iersalaim đến cung điện, đồng thời nói thêm rằng phải bố trí sao cho trước khi hội kiến với tất cả những người đó, ngài có thể nói chuyện tay đôi với ngườiđứng đầu Hội đồng thượng thẩm.
Những mệnh lệnh của quan tổng trấn được thi hành nhanh chóng và chính xác, và khi mặt trời, trong những ngày đó thiêu đốt Iersalaim gay gắt khác thường, còn chưa kịp lên đến thiên đỉnh, thì trên hiên thượng của khu vườn cạnh hai con sư tử trắng bằng cẩm thạch đứng cạnh cầu thang, quan tổng trấn đã gặp người đứng đầu Hội đồng thượng thẩm, đại tư tế xứ Giudea, Jozeph Kaipha.
Trong vườn rất im ắng. Nhưng vừa rời khỏi hàng cột đi ra khoảng sân thương lóa nắng của khu vườn với những cây cọ đứng trên những chân voi khổng lồ, từ đây quan tổng trấn trông rõ toàn bộ thành phố Iersalaim mà ngài căm ghét trải rộng với những cây cầu treo, pháo đài và – cái chủ yếu nhất - một khối đá cẩm thạch không thể nào mô tả nổi với chiếc vảy rồng bằng vàng thay cho mái - Đền Thờ Iersalaim – thì bằng đôi tai tinh tường của mình, quan tổng trấn nghe thấy ở phía dưới xa, nơi bức tường đá ngăn cách dãy hiên dưới của khu vườn cung điện với quảng trường thành phố, tiếng ì ầm trầm trầm thỉnh thoảng xen lẫn những âm thanh khẽ khàng yếu ớt – không hẳn là tiếng kêu, mà cũng không hẳn là tiếng rên.
Quan tổng trấn hiểu rằng ở đó, trên quảng trường, đã tập trung lại một đám đông rất lớn những người dân Iersalaim bị kích động bởi các vụ lộn xộn xảy ra trong thời gian gần đây, và đám đông này đang nóng lòng đợi nghe lời tuyên cáo bản án, còn những tiếng kêu kia là của những người bán nước rong đang chạy đi chạy lại khắp nơi.
Quan tổng trấn bắt đầu bằng việc mới viên đại tư tế ghé vào ban công để tránh cái nóng dữ dội, nhưng Kaipha xin lỗi một cách lịch thiệp và giải thích rằng không thể làm như thế được vào ngày hôm trước của tuần Đại lễ Vượt qua. Pilat đội chiếc mũ trùm lên mái đầu chớm hói của mình và bắt đầu câu chuyện. Cuộc nói chuyện này diễn ra bằng tiếng Hy Lạp.
Pilat nói rằng ngài đã xem xét vụ án Iesua Ha-Notxri và đã duyệt y bản án tử hình.
Như vậy, trong cuộc hành hình sắp phải diễn ra hôm nay sẽ có ba tên kẻ cướp bị xử treo: Dismas, Hestas, Var-ravvan, và ngoài ra, cả tên Iesua Ha-Notxri này nữa. Hai tên đầu mưu toan xúi giục dân chúng chống lại Hoàng đế La mã, bị binh lính La Mã vây đánh bắt được, là thuộc quyền quan tổng trấn, và như thế có nghĩa ở đây không phải bàn đến. Còn hai tên kia, Var-ravvan và Iesua Ha-Notxri, bị chính quyền bản xứ bắt, và Hội đồng Thượng thẩm xử. Theo luật pháp và tục lệ, một trong hai tên này sẽ được ân xá nhân dịp đại lễ Vượt qua đến đúng vào ngày hôm nay.
Vì vậy quan tổng trấn muốn biết là trong số hai tội nhân, Hội đồng thượng thẩm định tha tên nào: Var-ravvan hay Ha-Notxri ? Kaipha nghiêng đầu tỏ ý đã hiểu rõ câu hỏi và đáp:
- Hội đồng thượng thẩm xin tha cho tên Var-ravvan.
Quan tổng trấn biết trước rất rõ ràng viên đại tư tế sẽ trả lời đúng như thế, nhưng ngài lại muốn tỏ ra rằng câu trả lời như vậy làm ngài rất kinh ngạc.
Pilat đã làm điều đó một cách vô cùng khéo léo. Cặp lông mày trên khuôn mặt ngạo mạn nhướn lên, quan tổng trấn nhìn thẳng vào mặt viên đại tư tế với vẻ kinh ngạc:
- Thú thật là ta sửng sốt trước câu trả lời như vậy, - quan tổng trấn nhẹ nhàng cất tiếng. – ta e rằng ở đây có sự nhầm lẫn chăng ?
Pilat nói rõ ý kiến của mình. Chính quyền La Mã không hề can thiệp chút nào vào quyền lực của chính quyền tăng lữ bản xứ, điều đó ngài đại tư tế phải biết rất rõ, nhưng trong trường hợp này là có sự sai lầm. Và chính quyền La Mã, tất nhiên quan tâm đến việc sửa chữa sai lầm đó.
Quả vậy, các tội của Var-ravvan và Ha-Notxri không thể so sánh với nhau về mức độ nặng nhẹ. Nếu như tên thứ hai, rõ ràng là một kẻ điên, có tội đã nói những lời vô nghĩa làm rối loạn dân chúng ở Iersalaim và một vài chỗ khác, thì tên thứ nhất phạm tôi nặng hơn nhiều. Hắn không chỉ tung ra những lời trực tiếp xúi giục nổi loạn, mà còn giết chết binh sĩ khi hắn bị vây bắt. Tên Var-ravvan nguy hiểm hơn Ha-Notxri.
Vì tất cả những điều đó, quan tổng trấn đề nghị ngài đại tư tế xét lại quết định và thả tên ít nguy hiểm hơn trong số hai tên bị kết án, mà tên đó, hoàn toàn không có gì phải nghi ngờ, là Ha-Notxri. Vậy thì ?...
Kaipha nhìn thẳng vào mắt Pilat và nói bằng giọng khe khẽ nhưng cứng rắn, rằng Hội đồng thượng thẩm đã xem xét tỉ mỉ vụ án và lần thứ hai thông báo rằng vẫn dự định tha tên Var-ravvan.
- Sao ? Thậm chí cả sau khi ta đã có ý kiến như vậy ? Cái ý kiến của ngươi thay mặt chính quyền La Mã ? Ngài đại tư tế, hãy nhắc lại lần thứ ba.
- Và lần thứ ba , chúng tôi thông báo là chúng tôi xin thả tên Var-ravvan, - Kaipha nói khẽ.
Và thế là hết, và không còn gì để nói thêm nữa. Ha-Notxri đã đi khỏi vĩnh viễn, và không còn ai để chữa những cơn đau đầu dữ dội, khủng khiếp của quan tổng trấn; không còn cách nào để thoát khỏi chúng, ngoài cái chết. Nhưng không phải ý nghĩ đó bây giờ làm Pilat sững sốt. Một nỗi buồn khó hiểu mà lúc này đã xuất hiện trên ban công, chợt bao trùm lấy toàn bộ tâm hồn ngài. Ngài lập tức cố tìm cách giải thích nó, và lời giải thích thật lạ lùng: quan tổng trấn mơ hồ cảm thấy rằng có một cái gì đó ngài chưa nói hết với người bị kết án hay cũng có thể, còn chưa nghe hết một điều gì đấy.
Pilat xua đuổi ý nghĩ đó đi, và nó vụt bay mất trong khoảnh khắc, cũng như lúc đến. Nó đã bay mất, nhưng nỗi buồn vẫn còn lại không được giải thích, bởi vì nó cũng không thể được giải thích bởi một ý nghĩ khác, rất ngắn, vụt lóe lên như tia chớp, rồi lại tắt ngay: “ Bất tử...Sự bất tử đã đến...” Sự bất tử của ai ? Điều này quan tổng trấn không hiểu nổi, nhưng ý nghĩ về sự bất tử bí hiểm đó làm ngài chợt cảm thấy lạnh người đi dưới làn ánh sáng gay gắt.
- Thôi được, - Pilat nói, - mọi việc sẽ ý như thế.
Nói đến đấy quan tổng trấn đưa mắt nhìn quanh, ánh mắt trùm lên cái thế giới ngài nhìn thấy được, và ngài ngạc nhiên trước sự thay đổi vừa diễn ra. Đã biến mất bụi hồng nặng trĩu hoa, đã biến mất những cây trắc bá diệp mọc bao quanh hàng hiên thượng, đã biến mất cả cây lựu, cả bức tượng trắng trong khu vườn, cả khu vườn xanh rờn cây là. Thay vào đó là một khối đậm đặc có màu đỏ rực trôi bồng bềnh trong đó những chùm táo đang chuyển động đi đâu đấy, và cùng với chúng là chính Pilat. Giờ đây, ngài đang bị một cơn giận dữ khủng khiếp nhất – cơn giận dữ của sự bất lực – bóp nghẹt, thiêu đốt tâm can mà mang đi.
- Khó chịu quá, - Pilat thốt lên. – Ta khó chịu quá !
Bàn tay ẩm ướt và lạnh ngắt của Pilat giật mạnh chiếc khóa trên cổ tấm áo choàng, và nó rơi xuống cát.
- Hôm nay trời oi thật, ở đâu đó đang có cơn giông, - Kaipha đáp, không rời mắt khỏi khuôn mặt đỏ bừng của quan tổng trấn và thấy trước tất cả những điều khốn khổ sẽ còn đến. “ Ôi năm nay cái tháng Nisan sao mà kinh khủng thế !”
- Không phải, - Pilat nói, - đây không phải là do trời oi nực đâu, mà ta khó chịu với nhà ngươi đấy, Kaipha ạ, - nheo cặp mắt lại thành một khe hẹp, Pilat cười nhạt rồi nói thêm: - Coi chừng, hãy giữ lấy mình, hỡi ngài đại tư tế !
Cặp mắt tối sầm của đại tư tế chợt lóe lên, và không hề kém quan tổng trấn lúc nãy một chút nào, ông ta để lộ ra trên khuôn mặt mình một vẻ kinh ngạc.
- Tôi vừa nghe thấy cái gì đây, thưa quan tổng trấn ? – Kaipha kiêu hãnh và bình thản nói, - Ngài đe dọa tôi sau cái bản án do chính ngài duyệt y ư ? Điều đó là có thể được sao ? Chúng tôi đã quen với việc quan tổng trấn La Mã cân nhắc từng lời trước khi nói ra một điều gì đấy. Thưa ighemon, không có ai nghe thấy chúng ta đấy chứ ạ ?
Pilat nhìn ngài đại tư tế bằng cặp mắt chết lặng và nhe răng tạo ra một nụ cười.
- Người nói gì thế, đại tư tế ? Ai có thể nghe thấy chúng ta ở đây ? Chẳng lẽ ta lại giống cái gã lang thang trẻ tuổi hôm nay sẽ bị treo cổ sao ? Ta là con nít ư, Kaipha ? Ta biết ta nói gì và nói ở đâu chứ. Cả khu vườn đã được canh phòng, cung điện cũng được canh phòng đến không còn một khe hở nào để chuột nhắt có thể lọt qua ! Mà không chỉ chuột, thậm chí đến cả cai tên, cái tên... quê ở Kiriaph ấy, cũng không qua được ! Mà này, đại tư tế, ngươi có biết hắn không ? Đúng... nếu một kẻ như hắn lọt được vào đây, hắn sẽ phải đau khổ mà tiếc cho mình, điều này thì ngươi tin ta chứ ? Vậy thì nhà ngươi, đại tư tế, hãy biết rằng từ nay nhà ngươi sẽ không được yên ổn mà sống đâu. Cả ngươi, cả dân chúng của nhà ngươi, - và Pilat đưa tay chỉ về phía xa bên tay phải, nơi ngôi đền đang bốc lửa trên đồi cao, - đây là ta nói với ngươi, ta, Pilat, kỵ sĩ Ngọn Giáo Vàng.
- Tôi biết tôi biết, - Kaipha với bộ râu đen rậm đáp lời không hề sơ hãi, và cặp mắt của ông ta long lên. Ông ta giơ một tay lên trời, nói tiếp, - Dân chúng Giudea biết rằng ngài căm thù họ bằng một lòng căm thù tàn bạo và ngài sẽ mang lại cho họ nhiều tai họa đau khổ, nhưng ngài sẽ không giết chết hết được họ đâu ! Đức Chúa Trời sẽ che chở cho họ ! Đức Hoàng đế toàn năng sẽ nghe thấy chúng tôi, sẽ che chở chúng tôi khỏi bàn tay của Pilat nguy hại !
- Ồ, không đâu ! – Pilat thốt lên, và cùng với mỗi lời nói ra, ngài cảm thấy nhẹ nhỏm hơn, không cần phải giả vờ, không cần phải dè dặt chọn lời nữa. – Nhà ngươi đã kêu ca với Hoàng đế quá nhiều về ta, và bây giờ đến lượt ta, Kaipha ạ ! Bây giờ ta sẽ gửi tín thư đi, mà không phải cho quan Thống đốc ở Antiokhia và cũng không phải về La mã, mà thẳng tới Kapreia cho chính Hoàng đế, trình báo rằng nhà ngươi đã che giấu những tên phiến loạn hiển nhiên ở Iersalaim khỏi cái chết như thế nào, và lúc đó ta sẽ cho thành Iersalaim uống không phải nước hồ Solomon như ta đã muốn vì lợi ích của các ngươi. Không, không phải nước ! Hãy nhớ lại, ta đã vì các ngươi mà phải gỡ từ trên tường xuống các tấm khiên khắc chữ kết của Hoàng đế, đã điều binh khiển tướng, đã phải thân chinh, như các ngươi thấy đấy, đến tận nơi đây để xem chuyện gì đang xảy ra với các ngươi. Đại tư tế, hãy nhớ lấy lời ta ! Nhà ngươi sẽ được trông thấy ở Iersalaim không chỉ một korgot, ồ không ! Đến dưới chân thành này sẽ có cả toàn bộ legio Phulminato, sẽ đến cả đoàn kỵ binh Ả Rập, và lúc đó, ngươi sẽ nghe thấy những tiếng kêu than khóc lóc cay đắng ! Lúc đó, nhà ngươi hãy nhớ tới tên Var-ravvan được cứu sống và sẽ phải hối hận vì đã bắt nhà triết học với những lời truyền giảng hoà bình phải chết !
Khuôn mặt đại tư tế nổi lên những chấm đỏ, đôi mắt bốc lửa. Ông ta, cũng hệt như quan tổng trấn, nhe răng, mỉm cười và đáp:
- Thưa quan tổng trấn, ngài có tin vào những điều ngài vừa nói ra không đấy ? Không, ngài không tin ! Kẻ quyến rủ dân chúng kia không mang hòa bình đến cho chúng tôi ở Iersalaim, và ngài, thưa ngài kỵ tướng, ngài hiểu rất rõ về điều đó. Ngài muốn thả hắn ra là để hắn xúi giục dân chúng, lăng nhục đức tin, và đẩy dân chúng vào lưỡi gươm La Mã ! Nhưng tôi, đại tư tế của nước Giudea, chừng nào còn sống tôi sẽ không để cho đức tin bị lăng nhục và sẽ bảo vệ dân chúng ! Ngài nghe thấy không hỡi Pilat ? – Nói đến đây, Kaipha với vẻ đe dọa đưa tay lên trời: - Hãy lắng nghe, hỡi quan tổng trấn !
Kaipha dừng lời, và quan tổng trấn lại nghe như có tiếng sóng biển ì ầm lăn đến tận chân tường của khu vườn Herod đại đế. Tiếng động đó từ phía dưới nổi lên dội vào chân và vào mặt quan tổng trấn. Còn sau lưng, phía sau hai cánh hiên của cung điện, nghe vẳng đến những tiếng kèn hiệu bồn chồn, tiếng rầm rập của hàng trăm bước chân, tiếng thép khua loảng xoảng, và quan tổng trấn hiểu rằng theo lệnh của ngài, đoàn bộ binh La Mã đã bắt đầu cho bọn phiến loạn và bọn trộm cướp diễn hành trước lúc chết.
- Ngài có nghe thấy không, thưa ngài tổng trấn ? - đại tư tế khẽ nhắc lại - chẳng lẽ ngài lại sẽ còn nói với tôi rằng, - đến đây, đại tư tế giơ cả hay tay lên trời, và chiếc mũ trùm màu thẫm tuột xuống khỏi đầu Kaipha, - tất cả những cái này là do một tên kẻ cướp thảm hại Var-ravvan gây nên sao ?
Quan tổng trấn đưa mu bàn tay lau mảng trán lạnh và ẩm ướt, nhìn xuống đất, rồi lại nheo mắt nhìn lên trời. Thấy quả cầu lửa đã gần như treo thẳng phía trên mái đầu ngài, và bóng của Kaipha co lại chỉ còn một tí ở đuôi con sư tử đá, ngài nói khẽ và thản nhiên :
- Sắp trưa rồi, Chúng ta mải nói chuyện mà việc thì còn phải làm tiếp.
Sau khi xin lỗi viên đại tư tế bằng những câu lịch sự. Pilat mời ông ta ngồi vào chiếc ghế dài dưới bóng râm của cây mộc liên, đợi ngài gọi những người khác cần cho cuộc thương nghị ngắn gọn cuối cùng và ra thêm một mệnh lệnh cho việc chuẩn bị hành hình.
Kaipha lễ phép nghiêng mình, áp một bàn tay lên ngực trái và ở lại trong khu vườn, còn Pilat trở lên ban công. Ở đó, ngài ra lệnh cho tên thư ký mời xuống vườn quan Iegat chỉ huy legio, quan tribunus chỉ huy korgot cùng với hai thành viên của Hội đồng thượng thẩm và quan chỉ huy đội cấm vệ đang đứng chờ lệnh gọi trong ngôi đình tạ hình tròn có đài phun nước ở dãy hàng hiên dưới phía bên kia của khu vườn. Pilat còn nói thêm rằng chính ngài sẽ ra ngay bây giờ, rồi đi vào phía trong của cung điện.
Trong khi tên thư ký đang đi mời những người đến dự cuộc thương nghị, tại căn phòng được những tấm màn vải đen che tối, quan tổng trấn đã có cuộc hội kiến với một người nào đó, khuôn mặt của người này bị chiếc mũ trùm che kín một nửa, mặc dù trong căn phòng những tia nắng mặt trời không thể quấy rầy anh ta được. Cuộc hội kiến diễn ra hết sức ngắn gọn. Quan tổng trấn nói khẽ với người nọ vài lời, sau đó anh ta đi ngay, còn Pilat theo lối hàng hiên có dãy cột tròn bước ra vườn.
Ở đó, trước mặt tất cả những ai ngài muốn gặp, quan tổng trấn trịnh trọng và lạnh lùng khẳng định rằng ngài chuẩn y bản án tử hình Iesua Ha-Notxri, và chính thức hỏi ý kiến các thành viên của Hội đồng thượng thẩm; là họ muốn tha mạng sống cho ai trong số các tội phạm. Nhận được câu trả lời rằng kẻ đó là Var-ravvan, quan tổng trấn nói:
- Rất tốt, - và ngài ra lệnh cho tên thư ký ghi ngay điều đó vào biên bản; rồi nắm chặt trong bàn tay chiếc khóa móc cổ áo được tên thư ký nhặt từ cát lên, ngài trịnh trọng nói: - Bắt đầu !
Lập tức tất cả những người có mặt rời chỗ bước xuống phía dưới theo chiếc cầu thang rộng bằng đá hoa cương giữa những bức tường hoa hồng tỏa hương ngây ngất; họ đi xuống mỗi lúc một thấp hơn đến bên bức tường của cung điện, về phía cổng dẫn ra một quảng trường lớn đầm phẳng lì, phía cuối quảng trường hiện lên những dãy cột và những bức tượng của sân vận động Iersalaim.
Chỉ đến khi cả đoàn người đã rời khỏi khu vườn ra đến quảng trường, leo lên chiếc bệ đài bằng đá rộng lớn nổi cao trên đó, Pilat, nhìn qua cặp mi mắt nheo hẹp, mới nắm hiểu được toàn bộ tình hình. Cái khoảng không gian mà ngài vừa mới vượt qua, từ bức tường của cung điện đến bệ đài, thì trống không; còn ở phía trước mặt mình Pilat không trông thấy mặt quảng trường ở đâu nữa – nó đã bị đám đông dân chúng ken đặt che lấp. Đám đông có lẽ đã tràn lên bệ đài, cả khoảng không gian trống sau lưng kia. nếu như không có ba hàng lính Sêbasti ở bên trái và lính của korgort Itureia tăng cường ở phía bên phải Pilat ngăn giữ.
Rồi Pilat leo lên bệ đài, bóp chặt một cách máy móc trong nắm tay chiếc khóa móc cổ áo giờ chẳng cần để làm gì, và nheo mắt nhìn. Quan tổng trấn nheo mắt không phải vì bị chói nắng, không phải thế ! Ngài, không hiểu sao, lại không muốn nhìn thấy đám tù nhân, mà ngài biết rất rõ là ngay bây giờ sẽ được chở ra theo và đưa lên bệ đài..
Tấm áo choàng trắng lót vải đỏ tía vừa mới xuất hiện trên bệ đá cạnh biển người, lập tức một đợt sóng âm thanh đập dồn dập vào tai Pilat: “ Ha-a-a…” Nảy sinh ra ở một nơi nào đó phía xa cạnh trường đua ngựa, đợt sóng âm bắt đầu không lớn lắm, nó rền lên như sấm, kéo dài mấy giây, rồi lắng xuống dần. “ Dân chúng đã trông thấy ta”, - quan tổng trấn nghĩ thầm. Đợt sóng chưa giảm xuống đến điểm thấp nhất, thì đột nhiên nó lại dâng lên, ngả nghiêng, chao đảo, cao hơn cả đợt sóng thứ nhất. Và như bọt nước sôi trên đỉnh con sóng biển bạc đầu, trên đợt sóng thứ hai này cũng sôi lên những tiếng huýt gió và những tiếng rú của phụ nữ nghe rõ qua tiếng ầm ầm như sấm. “ Đó là chúng bị đưa lên bệ đài… - Pilat nghĩ thầm, - còn tiếng rú là vì một số phụ nữ bị đè bẹp khi đám đông dồn về phía trước.”
Ngài đứng yên một lúc chờ đợi, vì biết rằng không có sức mạnh nào có thể bắt đám người kia im tiếng cho đến khi nó chưa phát tán ra ngoài hết những gì tích dồn lại bên trong nó và chưa tự mình ngừng lặng.
Và khi cái khoảng khắc đó đã đến, quan tổng trấn vung cánh tay phải lên cao, lập tức những tiếng ồn cuối cùng tan biến.
Liền đó, Pilat lấy hết sức thu hít vào đầy lồng ngực mình làn không khí nóng rẫy rồi hét lớn, giọng nói lạc đi của ngài lướt bay trên hàng nghìn mái đầu:
- Thừa mạng Hoàng đế vĩ đại !
Ngay lúc đó quân lính trong các kogort vung thẳng những mũi giáo lên trời và hét lên dữ dội, tiếng hét như những đợt sóng đập vào màng tai quan tổng trấn:
- Hoàng đế vạn tuế !
Pilat ngửa mái đầu lên nhìn thẳng vào mặt trời. Dưới hàng mi trong mắt ngài lóe lên một ánh lửa xanh, nó đốt cháy não, và những lời nói khảng đặc bằng tiếng Aramei bay ra trên đám đông.
- Bốn tên tội phạm bị bắt ở Iersalaim vì tội giết người, xúi giục nổi loạn, lăng miệt pháp luật và tôn giáo, đã bị kết án ô nhục – treo cổ ! Bản án này sẽ được thực hiện ngay bây giờ ở Núi Trọc ! Họ tên của bốn tên bị kết tội là Dismas, Hestas, Var-ravvan và Ha-Notxri. Bọn chúng đang ở kia !
Pilat giơ bàn tay chỉ về bên phải, tuy không nhìn thấy một phạm nhân nào, nhưng ngài biết rằng chúng đang đứng ở đó, nơi chúng phải đứng.
Đám đông dân chúng đáp lại bằng một đợt sóng kéo dài có vẻ như ngạc nhiên hoặc nhẹ nhõm. Khi tiếng ồn đã lắng xuống, Pilat nói tiếp:
- Nhưng trong số bốn tên chỉ có ba tên sẽ bị hành hình, bởi vì theo pháp luật và tục lệ, nhân ngày lễ Vượt qua, một tên trong số bốn tên đã bị kết án tử hình, theo sự lựa chọn của Hội đồng thượng thẩm bản hạt và sự duyệt y của chính quyền La Mã, sẽ được đức Hoàng đế nhân từ ban mạng sống !
Pilat hét to từng từ, đồng thời lắng nghe tiếng ồn ào lắng xuống dần, rồi thay vào đó là một sự im lặng hoàn toàn. Bây giờ không còn nghe vẳng đến một tiếng sột soạt hay tiếng thở mạnh nào, thậm chí có một khoảnh khắc Pilat cảm thấy như tất cả xung quanh đã vụt biến mất. Thành phố mà ngài căm ghét đã chết lặng, chỉ còn một mình ngài đứng đó, dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt, mặt hướng thẳng lên trời cao, Pilat lắng nghe sự im lặng thêm một lúc, rồi hét lớn:
- Tên của kẻ bây giờ sẽ được ân xá là …
Ngài ngừng lại thêm một lát, chưa nói ngay họ tên kẻ được tha, kiểm tra xem tất cả những điều cần thiết đã được nói hết chưa, vì ngài biết rằng cái thành phố chết lặng kia sẽ sống lại sau khi tên của kẻ may phúc được nói ra, và tiếp theo sẽ không ai còn nghe được thêm một từ nào nữa.
“ Xong cả chưa ? – Pilat thì thầm với mình không thành tiếng. – Xong cả rồi. Tên ấy là…”
Và, ném phụ âm “r” ra như một tràng sấm xuống thành phố đang câm lặng, ngài gầm lên:
- Var-ravvan !
Nói vừa dứt lời, Pilat tưởng chừng như mặt trời chợt ngân lên, kêu loảng xoảng, nổ tung ra và rót lửa vào hai tai ngài. Trong ngọn lửa đỏ sôi sục những tiếng gào thét, tiếng rên rỉ, tiếng reo cười, tiếng rú rít.
Pilat quay ngược bước theo bệ đài đi trở lại phía bậc thềm lên xuống, mắt không nhìn bất cứ một vật gì khác ngoài những viên đá lát nhiều màu dưới chân để khỏi sảy bước. Ngài biết rằng, giờ đây sau lưng ngài, những quả chà là, những đồng tiền đồng đang bay như mưa lên bệ đài, và trong đám đông gào hét kia mọi người chen lấn nhau, leo lên vai nhau để mong tự mắt mình nhìn thấy điều kỳ diệu – cái người vừa mới đây còn nằm trong móng vuốt thần chết giờ đã thoát ra ngoài. Những tên lính legio cởi dây trói trên người hắn xuống, vô tình gây cho hắn những cơn đau nhức nhối trên cánh tay đã trật khớp vì bị trói trong lúc hỏi cung; và hắn, vừa nhăn nhó, vừa rên rỉ, vẫn mỉm một nụ cười vô nghĩa và mất trí.
Ngài biết rằng cũng vào lúc này đoàn vệ tống đang dẫn ba tên lĩnh án tử hình bị trói chặt xuống bậc thềm đá ở hai bên bệ đài để dẫn chúng ra con đường chạy về phía Tây đến Núi Trọc. Vừa bước xuống khỏi bệ đài ra phía sau, Pilat liền mở to mắt, vì ngài biết rằng giờ đây ngài đã được an toàn – ngài không thể nào còn trông thấy ba tên tội phạm kia nữa.
Hoà vào tiếng ồn ào đã bắt đầu lắng xuống của đám đông giờ lại vang lên rất rõ những tiếng rao lanh lảnh của bọn mõ tòa đang lập lại bằng tiếng Aramei và tiếng Hy Lạp tất cả những gì mà quan tổng trấn vừa mới tuyên cáo trên bệ đài. Thêm vào đó, tai ngài còn nghe vẳng đến tiếng vó ngựa phi rầm rập đang đến gần và tiếng kèn đồng nổi lên từng hồi ngắn gọn và vui vẻ. Đáp lại những âm thanh đó là tiếng huýt gió chói tai của đám trẻ con ngồi trên các mái nhà của dãy phố chạy từ chợ ra trường đua ngựa và những tiếng hét “ Tránh ra !”
Một người lính, cầm tấm thẻ hiệu trong tay đứng một mình trên khoảng trống của quảng trường, lo lắng giơ tấm thẻ lên vẩy vẩy, và lúc đó, quan tổng trấn, Iegat chỉ huy legio, tên thư ký và đoàn vệ tống mới dừng lại.
Một ala kỵ binh phi nước kiệu mỗi lúc một nhanh hơn, thúc ngựa phóng như bay ra quảng trường, cắt chéo góc, vòng tránh qua đám đông dân chúng, rồi theo lối ngõ hẹp dưới bức tường đá phủ đầy những dàn nho, chạy theo con đường ngắn nhất thẳng đến Núi Trọc.
Viên chỉ huy ala kỵ binh, người Siri, vóc dáng bé nhỏ như một cậu thiếu niên và da đen như người lai, khi phi nước kiệu qua chỗ Pilat đứng, hét lên lanh lảnh một câu gì đó và rút thanh kiếm ra khỏi vỏ. Con ngựa ô dữ tợn ướt đẫm mồ hôi nhảy lồng lên quay ngang sang bên. Tra mạnh thanh kiếm vào vỏ, viên chỉ huy quất một roi lên cổ ngựa, bắt nó quay về hướng cũ và phóng nước đại vào lối ngõ hẹp. Theo sau là đoàn kỵ binh phi hàng ba trong lớp bụi mù mịt, những mũi giáo nhẹ bằng tre dập dờn, những khuôn mặt trông có vẻ càng đen thẫm hơn dưới lớp khăn quấn đầu rìu trắng toát với bộ răng lấp lánh nhe ra vui vẻ lần lượt diễu qua trước mặt quan tổng trấn.
Cuốn bụi bốc lên tận trời, ala kỵ binh xông vào lối ngõ nhỏ, và tên lính cuối cùng với chiếc kèn đồng sáng loáng dưới ánh mặt trời đeo sau lưng đã phóng qua trước mặt quan tổng trấn Pilat.
Đưa bàn tay lên che bụi và cáu kỉnh nhăn mặt, Pilat bước đi tiếp, về phía cổng khu vườn của cung điện; theo sau ngài là Iegat, tên thư ký và đoàn vệ tống.
Lúc đó là khoảng mười giờ sáng.
-------------------
CHÚ THÍCH :
(1) Tháng Nisan: khoảng cuối tháng Ba, đầu tháng Tư dương lịch, tháng có lễ Vượt Qua.
(2) (3) (4) : Các đơn vị chính trong quân đội La Mã; legio: đơn vị tổ chức chiến thuật chính của quân đội La Mã, chia ra thành 10 korgort. Một korgort có từ 360 – 600 lính, chia thành ba manipulut. Một manipulut chia làm hai kenturia. Chỉ huy kenturia là kenturion, còn gọi là bách trưởng.
(5) Hemikrania: chứng đau nửa đầu.
(6) Iesua Ha –Notxri : một cách phiên âm khác của tên Giesu. Iesua trong tiếng Aramei có nghĩa là Đức Chúa - Sự cứu vớt. Ha – Notxri có nghĩa là “ quê ở Nazaret”. Nazaret là thành phố quê của Chúa Giesu.
(7) Levi Matvei: là một trong những môn đồ của Chúa Giesu Christ, tác giả của sách “ Phúc âm của thánh Matvei” (hay Mathêu).
(8) Turna kỵ binh: Dưới thời đế chế La Mã, kỵ binh tách ra khỏi thành phần của legio và chủ yếu gồm những người không phải dân La Mã. Một turna bằng 1/10 ala. Một ala lúc đầu gồm 300 kỵ sĩ, sau lên đên 500 – 1000 người.
(9) Đền Thờ Iersalaim : Ở đây là ngôi đền chính của đạo Do Thái ở Giêrusalem, lần đầu tiên do vua Salomon xây, sau nhiều lần bị phá hủy và được Herod đại đế xây lại. Iersalaim: do tác giả cố ý gọi trệch tên thành phố Giêrusalem, thủ phủ xứ Giudea, theo một cách phiên âm khác ra tiếng Nga.
- Vâng, LÚC ĐÓ LÀ VÀO KHOẢNG MƯỜI GIỜ SÁNG, thưa ngài Ivan Nikolaievich đáng kính, - giáo sư nói.
Nhà thơ đưa bàn tay vuốt xuôi mặt như người vừa tỉnh ngủ, và chợt thấy bóng chiều đã buông xuống trên công viên hồ Pat’riarsi.
Nước trong hồ đã trở nên đen thẫm, một chiếc thuyền con nhẹ lướt trên mặt hồ, nghe vọng lại tiếng mái chèo vỗ nước và tiếng cười khúc khích của người phụ nữ nào đó ở trong thuyền. Trên những chiếc ghế băng đặt dưới hàng cây ở tất cả mọi phía của bờ hồ đã thấy có người ngồi, chỉ trừ phía có các nhân vật của chúng ta đang trò chuyện là vẫn vắng tanh.
Bầu trời trên thành phố Moskva có màu bàng bạc, giữa không trung hiện lên rõ nét một vầng trăng tròn, nhưng đó chưa phải trăng vàng, mà hãy còn trắng nhợt. Không khí trở nên dễ thở hơn, và dưới bóng hàng lipa, những giọng nói cũng có vẻ dịu dàng, ấm cúng hơn, như thường vẫn vậy vào những buổi chiều hôm.
“ Làm sao mà mình không nhận thấy là ông ta đã kịp dựng nên cả một thiên truyện nhỉ ?... – Bezdomnưi sửng sốt nghĩ thầm. – Kìa, trời đã bắt đầu tối rồi ! Hay đấy không phải là ông ta kể, mà tất cả do mình vừa ngủ thiếp đi và mơ thấy ?”
Nhưng có lẽ đó là do tay giáo sư kia kể lại, bởi nếu không thì buộc phải cho rằng cả Berlioz cũng vừa cùng mơ thấy những điều như thế, vì ông vừa nhìn chằm chằm vào mặt người khách nước ngoài vừa nói:
- Câu chuyện của ngài cực kỳ thú vị, thưa giáo sư, mặc dù nó hoàn toàn không khớp với những chuyện kể trong kinh Phúc Âm.
- Xin ngài bỏ qua cho, - viên giáo sư cười khẩy một cách bao dung, đáp: - ai chứ ngài thì chắc ngài phải biết rất rõ rằng tất cả những gì được chép trong Kinh Phúc Âm thực chất chưa bao giờ xảy ra cả, và nếu chúng ta dựa vào kinh Phúc Âm như một nguồn tài liệu lịch sử thì … - giáo sư lại cười khẩy lần nữa và Berlioz sửng sốt, vì lúc nãy chính ông vừa nói đúng những lời như vậy với Berdomnưi khi hai người trên đường đi dọc phố Bronnaia đến hồ Pat’riarsi.
- Nó quả là như thế, - Berlioz nói, - nhưng tôi e rằng không ai có thể khẳng định những điều ngài vừa kể đúng là đã xảy ra thật.
- Ồ không ! Có người có thể khẳng định được điều đó ! - bằng giọng nước ngoài lơ lớ, viên giáo sư đáp một cách vô cùng tự tin, rồi đột ngột dùng ngón tay vẫy vẫy ra hiệu cho hai nhà văn ghé gần lại bên ông ta.
Berlioz và Bezdomnưi từ hai phía nghiêng đầu lại gần viên giáo sư, và ông ta cất tiếng nói, nhưng lần này cái giọng nước ngoài lơ lớ, mà không hiểu sao lúc có lúc không ở ông ta, đã biến mất hoàn toàn.
- Sự thể là… - vừa nói viên giáo sư vừa đưa mắt nhìn quanh vẻ sợ sệt, rồi thì thầm tiếp, - Chính tôi đã tận mắt chứng kiến tất cả những việc đó. Cả trên ban công ở chỗ Ponti Pilat, cả ở trong vườn khi ông ta nói chuyện với Kaipha, cả ở trên bệ đài, nhưng chỉ có điều là bí mật, không ai biết, vậy xin các ngài hoàn toàn giữ kín cho, không nói với bất kỳ người nào hết !... Xuỵt !
Im lặng bao trùm, mặt Berlioz tái nhợt.
- Ngài…ngài đã đến Moskva được bao lâu ? – ông hỏi bằng giọng run run.
- Tôi vừa đến Moskva ngay tức thời, - viên giáo sư vẻ ngơ ngác đáp; đến lúc này hai người mới sực nhớ ra, nhìn kỹ vào mắt ông ta và thấy rằng con mắt bên trái, màu xanh, của người khách nước ngoài có vẻ hoàn toàn mất trí, còn con mắt bên phải thì trống rỗng, đen ngòm và chết cứng.
“ Ra thế, điều này đã giải thích tất cả !” – Berlioz bối rối nghĩ. – “Một gã điên người Đức đến đây, hoặc là hắn ta vừa mới lên cơn tại chỗ, trên hồ Pat’riarsi này. Toàn bộ câu chuyện hóa ra là thế !”
Đúng, tất cả đã được giải thích: cả bữa ăn sáng kỳ lạ với nhà triết học quá cố Kant, cả những câu ngớ ngẩn về dầu hướng dương và về Annuska, cả những lời tiên đoán về việc đầu lìa khỏi cổ, và tất cả mọi chuyện khác, chứng tỏ tay giáo sư này là một người điên !
Berlioz lập tức hình dung ra ngay là cần phải làm gì. Ngả người ra thành chiếc ghế băng, ông nháy mắt ra hiệu với Bezdomnưi ở phía sau lưng viên giáo sư, - ấy, đừng có trái ý ông ta, - nhưng nhà thơ ngơ ngác không hiểu các tín hiệu ấy có nghĩa là gì.
- Vâng, vâng, vâng, - Berlioz sốt sắng nói, - thực ra mọi chuyện đều có thể ! Thậm chí còn rất có thể nữa kia, cả Ponti Pilat, cả ban công, cả những thứ khác … Thế ngài đến đây một mình hay cùng với phu nhân ?
- Một mình, một mình, bao giờ cũng một mình, - viên giáo sư đáp với vẻ cay đắng.
- Thế hành lý của ngài đâu, thưa giáo sư ? – Berlioz quan tâm hỏi. - Chắc là ở khách sạn “ Met’ropol” ? Ngài dừng chân ở đâu ạ ?
- Tôi ấy à ? Không ở đâu cả, - tay người Đức dở điên dở dại đáp, con mắt màu xanh nhìn quanh hồ Pat’riarsi một cách rầu rỉ và hoang dại…
- Sao ? Thế… ngài sẽ sống ở đâu ?
- Trong căn hộ của ngài ấy, - người điên bỗng suồng sã đáp và nháy nháy mắt.
- Tôi…tôi rất hân hạnh, - Berlioz lúng túng, - nhưng, quả thật ở chỗ tôi, ngài sẽ thấy hơi bất tiện…còn ở “ Met’ropol” có những buồng rất tuyệt, đó là một khách sạn hạng nhất.
- Thế cả quỷ sứ cũng không có chứ ? - người điên bỗng quay sang vui vè hỏi Ivan Nikolaievich.
- Cả quỷ sứ…
- Đừng phản đối ông ta ! – Berlioz vội ngả người ra phía sau lưng ông giáo sư và mấp máy môi không thành tiếng, ra hiệu với nhà thơ.
- Không có quỷ sứ nào hết ! – ngơ ngác trước tất cả những chuyện ngớ ngẩn đó, Ivan Nikolaievich hét to lên điều đáng ra không cần phải nói. - Khốn khổ ! các người đừng có làm ra bộ tâm thần nữa đi !
Người điên liền phá ra cười ha hả, làm một con chim sẻ đậu ở cành lipa trên đầu ba người giật mình bay vụt đi.
- Ôi, điều đó quả thật là thú vị, - cười rung cả người, viên giáo sư nói, - mà sao các ngài lại thế, động tới cái gì cũng đều không cả ! – Ông ta bỗng đột ngột ngưng cười, và, một điều hoàn toàn dễ hiểu đối với những người bị bệnh tâm thần, sau trận cười lại rơi vào một thái cực khác, ông ta giận dữ và nghiêm khắc quát: - Thế nghĩa là không có à ?
- Ngài bình tâm lại đi, bình tâm lại đi, thưa giáo sư, - Berlioz lắp bắp, sợ làm ông ta quá xúc động, - ngài ngồi đây chốc lát với đồng chí Bezdomnưi này nhé, còn tôi xin phép chạy ra đằng góc kia gọi điện một tí, rồi chúng tôi sẽ đưa ngài đến nơi nào ngài muốn. Chắc là ngài còn chưa quen thành phố…
Phải công nhận những tính toán của Berlioz là đúng: chạy đến trạm điện thoại tự động gần nhất, báo về Cục phục vụ khách nước ngoài rằng có một chuyên gia ngoại quốc đang ngồi bên hồ Pat’riarsi trong một trạng thái không bình thường, cần có những biện pháp cần thiết, nếu không thì sẽ xảy ra những chuyện rắc rối.
- Gọi điện à ? Thôi được, ngài cứ đi gọi đi, - người khách điên buồn rầu đồng ý và bỗng nói tiếp bằng một giọng cầu khẩn tha thiết: - Nhưng trước lúc chia tay, tôi xin ngài là ít nhất ngài hãy tin rằng quỷ sứ có tồn tại thật ! Tôi không dám cầu xin ngài điều gì hơn. Ngài hãy nhớ rằng về điều đó có tồn tại bằng cứ thứ bảy, cái bằng cứ chắc chắn nhất ! Và ngay bây giờ, nó sẽ được đưa ra với ngài.
- Được rồi, được rồi, - Berlioz nói một cách dịu dàng giả tạo, và sau khi nháy mắt với nhà thơ đang khó chịu với ý nghĩ phải ngồi cạnh cái gã người Đức tâm thần điên dại này, ông đi vội ra cửa công viên nơi phố Bronnaia và ngõ Ermolaievski gặp nhau.
Còn tay giáo sư lập tức bỗng trở nên có vẻ hoàn toàn khỏe mạnh và vui vẻ.
- Mikhail Alexandrovich ! – ông ta gọi với theo Berlioz.
Ông tổng biên tập rùng mình quay lại, nhưng ông tự trấn an bằng ý nghĩ rằng tay giáo sư kia biết được tên và phụ danh của ông cũng là qua một tờ báo nào đó. Viên giáo sư chụm tay lại làm loa, kêu tiếp:
- Ngài có đồng ý, là tôi bây giờ sẽ ra lệnh gửi điện báo đến cho ông dượng của ngài ở Kíep không ?
Berlioz lại rùng mình. Làm sao mà gã điên này biết là ông có một ông dượng ở Kíep nhỉ ? Bởi vì chắc chắn là về điều này không có trên bất kỳ một tờ báo nào cả. Ôi, ôi, ôi.. hay là Bezdomnưi nói đúng ? Thế còn những giấy tờ kia là giả mạo ư ? Một kẻ thật kỳ quặc ! Phải gọi điện, gọi điện ! Gọi điện ngay lập tức ! Rồi người ta sẽ nhanh chóng tìm hiểu mọi chuyện.
Và không nghĩ gì thêm nữa, Berlioz chạy tiếp.
Vừa lúc ấy, ngay ở lối công viên dẫn ra phố Bronnaia, có một người đàn ông rời chiếc ghế dài đứng dậy đi ngược lại phía ông tổng biên tập – đó chính là người mà lúc nãy vừa hiện lên với Berlioz từ làn không khí nóng nực đậm đặc trong ánh nắng chiều. Chỉ có điều bây giờ anh ta không còn nhẹ bẫng trong không khí nữa, mà bằng xương bằng thịt bình thường; và trong ánh hoàng hôn đang bắt đầu buông xuống, Berlioz trông thấy rất rõ bộ ria thưa của anh ta chĩa ra lởm chởm, cặp mắt nhò tí có vẻ giễu cợt và hơi say, ống quần dài kẻ ô kéo cao đến nỗi để lộ ra những mảng tất trắng cáu bẩn.
Mikhail Alexandrovich bất giác lùi lại, nhưng ông lập tức tự trấn an rằng đó chỉ là một sự trùng họp ngu ngốc và bây giờ không còn thời gian để ngẫm nghĩ về điều đó nữa.
- Ông tìm cửa quay phải không ạ ? - người mặc quần kẻ ô hỏi bằng giọng nam cao như bị nứt rạn ra. - Mời theo hướng này ạ ! Đi thẳng, và ông sẽ ra đến nơi cần đến. Đáng lẽ ra ông phải trả công chỉ đường một phần tư lít …để thằng cựu quản ca nhà thờ này lấy lại sức ! – méo xệch miệng, gã lạ mặt gỡ hẳn chiếc mũ đua ngựa từ trên đầu xuống.
Berlioz không bỏ vào tai những câu uốn éo xin xỏ của tay cựu quản ca, chạy đến bên cửa quay và giơ tay ra cầm lấy thanh vịn ngang. Xoay trục cửa, ông đã định bước ra ngoài đường ray, thì một luồng ánh sáng trắng và đỏ bỗng đột ngột bừng lên và hắt thẳng vào mặt ông: ngọn đèn hiệu trong hộp kính ở cửa cháy lên dòng chữ: “ Cẩn thận, tàu điện !”
Ngay lúc đó, một chiếc tàu điện rẽ theo con đường mới đặt từ ngõ Ermolaievski qua ngõ Bronnaia lao ầm ầm tới. Vừa qua khỏi khúc vòng đến đoạn đường thẳng, nó bất ngờ bật đèn điện chiếu sáng từ bên trong và rú lên, tăng tốc.
Berlioz vốn thận trọng, nên dù đã đứng ở chỗ an toàn, ông vẫn quyết định quay vào phía trong cửa công viên; ông chuyển tay sang cầm lấy trục quay, bước lùi một bước. Nhưng bàn tay của ông bất thần tuột đi và rơi hẫng xuống, một chân trượt không kìm lại được theo mặt đá dốc như trên mặt băng chảy nghiêng xuôi xuống đường ray, chân kia bị hất lên cao, và Berlioz ngã xuống đường ray..
Cố tìm cách túm lấy một cái gì đó, Berlioz ngã ngửa, đập gáy không mạnh lắm lên mặt đừơng đá, và ông còn kịp nhìn thấy trên cao, - nhưng ở bên phải hay bên trái, ông không còn nhận ra nữa, - một vầng trăng lấp lánh như dát vàng. Ông còn kịp lật nghiêng người lại, đồng thời cũng trong khoảnh khắc đó bằng một cử động điên cuồng co hai chân lên bụng; và, sau khi đã nằm ở tư thế nghiêng người, ông trông thấy khuôn mặt trắng bệch vì kinh hoàng của cô gái lái tàu điện cùng dải băng đỏ thắm chít trên mái tóc đang vùn vụt lao tới không gì có thể cản nổi. Berlioz không hề kêu, nhưng xung quanh ông khắp dãy phố rú lên những tiếng thét kinh hoàng của phụ nữ. Cô gái lái tàu giật phanh điện, toa tàu chúi mũi xuống đất, rồi liền đó nó lại lập tức nảy lên, tiếng kính ở các ô cửa sổ vỡ tứ tung, bay loảng xoảng. Đúng vào khoảnh khắc ấy, trong đầu Berlioz có một ai đó tuyệt vọng thét lên: “ Chẳng lẽ ?...” Thêm một lần nữa, và là lần cuối cùng, mặt trăng thoáng lướt qua trước mắt ông, nhưng nó đã bị vỡ ra từng mảnh, rồi tất cả trở nên tối đen.
Chíêc tàu điện chạy trùm lên Berlioz, và có một vật gì tròn và đen đen bị ném lên bờ dốc đá dưới chân hàng rào bằng song sắt của công viên hồ Pat’riarsi. Lăn xuống hết bờ dốc, nó nhảy tâng tâng trên mặt đá của đường phố Bronnaia.
Đã lặng dần những tiếng kêu điên loạn của phụ nữ, tiếng còi của công an; hai chiếc xe cứu thương đã đến chở đi - một chiếc chở xác không đầu và cái đầu bị cắt rời vào nhà xác; chiếc thứ hai chở cô gái lái tàu điện xinh đẹp bị những mảnh kính vỡ làm bị thương; những người lao công mặc tạp dề trắng đã thu dọn hết mảnh kính vỡ và đổ cát lên những vũng máu; còn Ivan Nikolaievich không kịp chạy đến cánh cửa quay, ngã xuống một chiếc ghế băng, rồi cứ ngồi nguyên ở đó.
Đã mấy lần anh định đứng dậy, nhưng đôi chân không chịu tuân theo – Bezdomnưi dường như bỗng bị chứng tê liệt toàn thân.
Khi vừa nghe thấy những tiếng kêu rú đầu tiên, nhà thơ đã vùng dậy chạy đến bên cửa quay, và anh trông thấy chiếc thủ cấp bị cắt rời lăn lông lốc trên mặt đường đá. Việc đó làm anh mất trí tới mức, ngã xuống chiếc ghế băng, anh cắn vào cánh tay mình đến bật máu. Tất nhiên, anh không còn nhớ gì về tay người Đức điên dại và chỉ cố hiểu một điều: làm sao lại có thể chỉ mới một phút trước đây anh còn nói chuyện với Berlioz, mà bây giờ chiếc đầu đã…
Mọi người hốt hoảng vừa chạy dọc theo hàng cây ngang qua nhà thơ và kêu những câu gì đó, nhưng Ivan Nikolaievich không cảm nhận những lời của họ.
Nhưng bất thần có hai người đàn bà gặp nhau cạnh chiếc ghế dài; và một người trong số họ, mũi nhọn, tóc rối bù, hét lên với người kia ngay cạnh nhà thơ:
- Annuska, Annuska ở góc phố Sadovaia của chúng ta đấy mà ! Đó là do cô ả ! Cô ả mua dầu hướng dương ở cửa hiệu thực phẩm, nhưng lại va chai vào trục cửa quay, làm vỡ bắn hết cả ra váy… Cô ả chửi rủa một trận mới khiếp chứ ! Còn ông ta, tội nghiệp, trượt tay và ngã xuống đường ray…
Trong tất cả những gì người đàn bà nói chỉ có một từ lọt được vào bộ não sững sờ của Ivan Nikolaievich: “ Annuska”…
- Annuska…Annuska ?... – nhà thơ lẩm bẩm, ngơ ngác nhìn quanh, - hượm nào, hượm nào…
Bên cạnh từ “Annuska” xuất hiện thêm mấy từ “dầu hướng dương”, rồi sau đó, không hiểu sao tiếp theo là từ “Ponti Pilat”. Nhà thơ gạt Pilat sang một bên, quyết tâm lần mối, bắt đầu từ từ “Annuska”. Và cái mối đó được lần ra rất nhanh, nó dẫn ngay đến tay giáo sư điên dại nọ.
Đúng rồi ! Đây chính là ông ta đã nói rằng sẽ không có cuộc họp vì Annuska đã làm đổ dầu. Và quả thật, sẽ không có cuộc họp ! Như thế còn chưa hết: ông ta còn nói thẳng ra rằng Berlioz sẽ bị một người phụ nữ cắt đầu ! Đúng, đúng, đúng thế ! Lái xe điện đúng là phụ nữ ! Thế này là thế nào, hả ?
Không có gì phải nghi ngờ nữa, tay chuyên gia bí ẩn này đã biết trước chính xác toàn bộ sự tình chung quanh cái chết khủng khiếp của Berlioz. Trong đầu nhà thơ vụt loé lên hai ý nghĩ. Thứ nhất: “ Hắn ta hoàn toàn không phải là người điên ! Tất cả những cái đó chỉ là trò lừa lọc !” Và thứ hai: “ Có phải chính hắn ta đã bố trí tất cả như vậy không ?”
Nhưng xin phép hỏi, bằng cách nào ?!
- Ồ không ! Rồi chúng ta sẽ biết !
Gắng dồn hết sức lực, Ivan Nikolaievich đứng dậy và chạy bổ về chỗ cũ, nơi vừa ngồi nói chuyện với tay giáo sư nọ. Và thật may, ông ta còn chưa đi khỏi.
Trên đường Bronnaia, đèn đã bật sáng. Một vầng trăng tròn trịa treo trên hồ Pat’riarsi, và dưới ánh trăng, thứ ánh sáng bao giờ cũng mờ ảo, Ivan Nikolaievich có cảm tưởng như ông ta đang đứng, cắp dưới nách không phải chiếc gậy, mà là cây kiếm.
Tay cựu quản ca nhà thờ về hưu đang ngồi đúng chỗ Ivan Nikolaievich vừa ngồi mới đây. Bây giờ anh ta đã ngoắc lên mũi một kẹp kính rõ ràng là không cần thiết, một bên hoàn toàn không có mắt kính, còn bên kia thì bị nứt rạn. Điều đó làm cho người đàn ông mặc quần dài kẻ ô trông lại càng kỳ dị hơn so với lúc anh ta chỉ lối cho Berlioz ra đường ray.
Với trái tim ớn lạnh, Ivan Nikolaievich bước đến bên cạnh viên giáo sư, nhìn thẳng vào mặt ông ta và tin chắc rằng trên khuôn mặt đó hoàn toàn không có một tí chút dấu hiệu nào của sự điên dại.
- Hãy thú nhận đi, ông là ai ? – Ivan cất tiếng khàn khàn hỏi.
Người ngoại quốc chau mày và nhìn nhà thơ như mới thấy lần đầu, và trả lời một cách hằn học:
- Bất hiểu…tiếng Nga nói…
- Ngài đây không hiểu đâu, - tay quản ca ngồi trên ghế băng xen vào, mặc dù không có ai yêu cầu anh ta giải thích những lời của người nước ngoài.
- Đừng có giả vờ nữa ! – Ivan hùng hổ nói và cảm thấy trong ngực mình như lạnh hẫng đi. – Ông chỉ vừa mới đây nói tiếng Nga rất thạo đấy thôi. Ông không phải người Đức, mà cũng chẳng phải giáo sư nào cả ! Ông là kẻ giết người, là gián điệp ! Giấy tờ đâu ? – Ivan quát lên dữ tợn.
Viên giáo sư bí ẩn với vẻ kinh tởm nhếch cái mệng vốn đã méo xệch rồi, và nhún vai.
- Này anh, - tay quản ca khả ố lại chen vào, - sao anh dám quấy phiền vị khách du lịch quốc tế thế ? Vì việc đó người ta sẽ bắt anh phải chịu trách nhiệm một cách cực kỳ nghiêm khắc đấy !
Còn vị giáo sư đáng ngờ trong lúc đó đã lấy vẻ mặt trich thượng và quay người bỏ đi.
Ivan cảm thấy mất bình tĩnh. Thở hổn hển, anh quay sang nói với tên quản ca:
- Này, công dân, anh hãy giúp một tay bắt giữ tên tội phạm kia lại. Anh có trách nhiệm làm điều đó !
Tay quản ca sôi nổi hẳn lên, nhảy chồm dậy và hét tướng:
- Tên tội phạm nào? Hắn ở đâu ? Tên tội phạm người nước ngoài ấy à ? – đôi mắt tay quản ca ánh lên sung sướng. – Tên kia phải không ? Nếu như hắn đúng là tội phạm, thì việc trước hết là phải hét lên: “ Bắt lấy !” Không thì hắn lủi mất. Nào, ta cùng hét nhé ! Một-hai-ba, - và tay quản ca há miệng ra làm bộ như sắp hét to.
Ivan Nikolaievich đang lúc bối rối, và anh lập tức nghe theo tay hề quản ca, hét tướng lên: “Bắt lấy !” Nhưng gã quản ca đã chơi khăm anh, gã không hề phát ra một âm thanh nào.
Tiếng hét đơn độc, khàn khàn của Ivan không mang lại kết quả gì tốt đẹp. Có hai cô gái đi ngang hốt hoảng nhảy giạt sang một bên để tránh anh, và anh nghe thấy họ kêu: “Đồ say rượu !”
- À, thì ra mày cùng một giuộc với hắn ? – Ivan nổi khùng quát, - mày định giễu tao đấy phải không ?
Ivan chạy sang phải – tay quản ca cũng sang phải; Ivan sang trái – và cái gã đểu cáng kia cũng sang trái.
- Mày định giữ chân tao lại à ? – cáu điên người, Ivan hét. – Tao sẽ trao mày cho công an !
Ivan toan túm lấy cổ áo tên bợm, nhưng anh vồ trượt và không nắm bắt được gì. Tay quản ca đã như độn thổ mất.
Ivan kêu lên một tiếng, nhìn ra phía xa và lại trông thấy tay giáo sư lạ mặt đáng căm ghét nọ. Ông ta đã ở cạnh cổng ra ngõ Pat’riarsi, và không phải chỉ có một mình. Cái gã quản ca rất đáng ngờ kia đã kịp nhập bọn. Nhưng chưa hết, còn kẻ thứ ba nữa – đó là một con mèo không hiểu từ đâu hiện ra, nó to như con lợn đực thiến, đen như bồ hóng, với những chiếc ria của lính kỵ binh ngang tàng. Cả ba đi về phía ngõ Pat’riarsi, thêm vào đó con mèo lại đi bằng hai chi sau.
Ivan vội chạy đuổi theo, nhưng anh lập tức hiểu ra rằng đuổi kịp chúng là một việc rất khó.
Trong nháy mắt bộ ba nọ đã đi hết ngõ Pat’riarsi và đến phố Spiridonovka. Dù cho Ivan cố hết sức rảo bước, khoảng cách giữa anh và những kẻ bị anh đuổi theo vẫn không rút ngắn lại tí nào. Và nhà thơ chưa kịp định thần lại, thì vừa mới qua khỏi phố Spiridonovka vắng vẻ anh đã thấy mình đang ở cạnh cổng Nikitskie, nơi tình cảnh của anh càng thêm tồi tệ hơn. Ở đây người đông chen chúc, Ivan đụng phải một người qua đường và chịu một trận chửi rủa. Thêm vào đó, đám cướp bộ ba đến đây lại quyết định áp dụng phương thức quen thuộc của những kẻ bị săn đuổi – phân tán mỗi người mỗi ngả.
Tay quản ca nhà thờ vô cùng khéo léo lách vào một chiếc ô tô buýt vừa mới lao đến quảng trường Arbat và đi biến. Bị mất dạng một người trong bọn họ, Ivan tập trung chú ý vào con mèo và trông thấy con vật lạ lùng đó đi đến bên bậc lên xuống của một toa tàu điện chạy theo tuyến “A” đang đứng ở bến đỗ, trơ tráo gạt một người phụ nữ đang tru tréo xuống, bám chi trước vào tay vịn và thậm chí còn cố tìm cách chìa đồng mười côpêch cho bà bán vé qua cửa sổ để mở vì trời quá nóng.
Hành động của con mèo làm Ivan kinh ngạc đến nỗi anh đứng sửng sốt bất động cạnh cửa hàng thực phẩm phụ ở góc phố, nhưng anh lại càng kinh ngạc hơn nữa trước hành động của bà bán vé tàu điện. Bà ta, vừa trông thấy con mèo leo lên tàu điện, liền hét lên với một vẻ giận dữ đến mức làm người bà ta run bắn lên:
- Mèo không được lên ! Không được mang theo mèo lên ! Phừ ! Xuống đi, không tôi gọi công an đến bây giờ !
Cả bà bán vé, cả hành khách đều không cảm thấy lạ lùng trước điều đáng kinh ngạc nhất của sự việc đang xảy ra: cái chính không phải là ở chỗ con mèo lên xe điện, mà ở chỗ nó còn định trả tiền vé.
Con mèo tỏ ra không chỉ là một con vật biết trả tiền, mà nó còn rất tôn trọng kỷ luật. Sau tiếng kêu thứ nhất của bà bán vé, nó ngừng ngay cuộc tấn công, rời bậc cửa toa xe và ngồi xuống bến đợi, lấy đồng mười kôpêch cọ vuốt lên những sợi ria. Nhưng chỉ cần bà bán vé giật chuông, chiếc xe điện chuyển bánh, con mèo liền hành động như bất kỳ một người nào vừa bị đuổi xuống tàu điện nhưng lại rất cần phải đi cho bằng được. Để cả ba toa xe đi ngang qua mình, nó nhảy lên cung càng xe ở sau toa cuối cùng, chi trước bám vào một ống cao su thò từ thành toa ra, bằng cách đó tiết kiệm được mười kôpêch đi xe.
Mải theo dõi con mèo đểu giả, suýt nữa thì Ivan để mất dạng tay giáo sư - kẻ quan trọng nhất trong bộ ba. Nhưng thật may, ông ta chưa kịp lủi thoát. Ivan còn thoáng trông thấy chiếc mũ bêrê xám giữa đám đông người ở đầu phố Bonsaia Nikitskaia hay phố Ghersen gì đấy. Sau một khoảnh khắc, chính Ivan cũng đã có mặt tại đó. Nhưng kết quả mong muốn vẫn chưa đạt được. Mặc cho nhà thơ có cố sức bước đi thật nhanh, có chuyển sang chạy gằn, có xô giạt cả những người qua đường, thì anh cũng không rút ngắn được khoảng cách đến tay giáo sư nọ lấy một centimét nào.
Dù Ivan có mất bình tĩnh đến mấy, anh vẫn phải kinh ngạc trước cái tốc độ khác thường của cuộc săn đuổi. Vừa mới ở cạnh cổng Nikitskie, chưa kịp qua hai muơi giây đồng hồ sau, Ivan Nikolaievich đã thấy mình choáng mắt trước ánh điện của quảng trường Arbat. Thêm mấy giây nữa, họ đã đến một ngõ phố nhỏ và tối nào đó, vỉa hè khấp khểnh làm Ivan Nikolaievich vấp ngã sưng đầu gối. Rồi một đại lộ sáng trưng - đường Kropotkin, rồi một ngõ, rồi đường Ostogienka, rồi lại một ngõ nhỏ buồn tẻ tởm lợm, ánh điện tù mù. Và đến đây, Ivan Nikolaievich hoàn toàn để mất bóng cái người mà anh cần đến vậy. Tay giáo sư biến đi không còn dấu vết.
Ivan Nikolaievich đứng ngơ ngác, nhưng chỉ một thoáng thôi, vì anh vụt nghĩ rằng tay giáo sư kia nhất định phải ở trong ngôi nhà số 13, và chắc chắn là tại căn hộ số 47.
Xông vào cổng cầu thang, Ivan Nikolaievich chạy như bay lên tầng hai, tìm thấy ngay lập tức căn hộ đó và nóng nảy ấn chuông. Anh đợi không lâu: một cô bé độ năm tuổi ra mở cửa, không hỏi gì người bấm chuông, mà lập tức bỏ đi đâu đó.
Trong căn phòng ngoài rộng thênh thang và hết sức hoang tàn, được lờ mờ chiếu sáng bằng một ngọn đèn tí xíu dính dưới trần nhà rất cao và đầy vết cáu bẩn, trên tường treo chiếc xe đạp không xăm lốp, phía dưới là một rương gỗ lớn bịt bằng sắt, còn nằm trên giá ngay phía trên dãy mắc áo là chiếc mũ lông mùa đông, hai dải bịt tai dài buông thõng thẹo xuống dưới. Đàng sau cánh cửa dẫn sang phòng bên cạnh, một giọng đàn ông vang rền trong đài đang giận dữ hét về một điều gì đó bằng thơ.
Ivan Nikolaievich hoàn toàn không cảm thấy bối rối trong gian phòng lạ, anh đi thẳng ra hành lang, bụng nghĩ thầm: “ Tất nhiên hắn ta phải trốn vào buồng tắm thôi”. Trong hành lang rất tối. Vấp phải tường, Ivan trông thấy một dãy ánh sáng yếu ớt ở phía dưới cánh cửa, anh sờ tay tìm thấy nắm đấm cửa và kéo không mạnh lắm. Cửa mở, Ivan rơi vào đúng buồng tắm, và anh nghĩ thầm rằng quả là mình gặp mai.
Nhưng thật ra anh không gặp mai như anh cần! Một luồng hơi nóng ẩm ướt trùm lên người Ivan, trong làn ánh sáng mờ mờ hắt ra từ lò than đang đun nước, anh nhìn thấy mấy chiếc chậu lớn treo trên tường, một bể tắm loang lổ những vệt men trắng tróc ra trông đen đúa thật đáng sợ. Và ở trong chiếc bể tắm là một người đàn bà trần truồng, thân mình phủ một lớp bọt xà bông, tay cầm miếng xơ mướp kỳ lưng. Người đàn bà nheo nheo cặp mắt cận thị nhìn Ivan vừa xông vào đột ngột, và có lẽ nhận lầm anh thành người khác trong làn ánh sáng tù mù như ở địa ngục này, nên nói khẽ và vui vẻ:
- Kariuska ! Thôi đừng loanh quanh ở đây nữa ! Thế nào, anh điên rồi à ?... Phedor Ivannovich sắp về bây giờ đấy. Ra khỏi đây ngay đi ! – và chị ta vung miếng xơ mướp về phía Ivan.
Rõ ràng đây là một sự hiểu nhầm. Người có lỗi, tất nhiên không ai ngoài Ivan Nikolaievich. Nhưng anh không muốn thú nhận điều đó, và chỉ vừa kịp thốt lên vẻ chê trách: “ Ôi, đồ hư hỏng !” – thì không hiểu sao, đã có mặt trong gian bếp. Ở đây không thấy ai cả, chỉ có gần chục chiếc bếp dầu đã tắt đứng câm lặng trên mặt bệ. Một dải ánh trăng chiếu xuyên qua lớp kính cửa sổ đầy bụi hàng bao năm nay không lau chùi, rọi sáng một góc bếp, nơi có bức tượng thánh treo trong bụi bậm và mạng nhện, phía sau khung tường thòi lên phần trên của hai cây nến thường dùng trong các lễ cưới. Phía dưới bức tượng thánh lớn lại còn một bức ảnh thánh khác nhỏ hơn, bằng giấy.
Không ai rõ lúc đó Ivan Nokolaievich nghĩ gì, nhưng chỉ biết trước khi chạy ra lối cửa sau, anh thủ lấy một trong hai cây nến và bức ảnh thánh nhỏ bằng giấy. Cùng với những đồ vật ấy, anh rời bỏ căn nhà lạ, vừa đi vừa lẩm bẩm những câu gì đó, cảm thấy xấu hổ khi nghĩ về sự việc anh mới trải qua trong buồng tắm, bất giác cố đoán xem gã Kiriuska trơ tráo nọ là ai và không biết chiếc mũ lông kinh tởm với đôi dải bịt tai dài kia có phải của hắn ta không.
Trong ngõ nhỏ vắng ngắt và tối tăm, nhà thơ nhìn quanh tìm kẻ chạy trốn, nhưng không thấy bóng dáng hắn ta ở đâu cả. Lúc đó Ivan liền quả quyết nói với chính mình:
- Phải rồi, hắn ta ở ngoài sông Moskva ! Ta đến đó thôi !
Đáng ra phải hỏi Ivan Nikolaievich, rằng tại sao anh ta lại cho rằng tay giáo sư kia phải nhất thiết đang ở ngoài sông Moskva chứ không ở một nơi nào khác. Nhưng oái oăm một nỗi là lúc đó không có ai để hỏi cả. Cái ngõ nhỏ khốn khổ hoàn toàn vắng người.
Sau một khoảng thời gian hết sức ngắn ngủi, ta lại đã có thể trông thấy Ivan Nikolaievich trên những bậc đá hoa cương của bờ sông Moskva.
Cởi bộ áo quần đang mặc trên người ra, Ivan trao nó cho một người đàn ông để râu có dáng bộ dễ chịu đang ngồi hút thuốc quấn cạnh chiếc áo khoác ngoài có thắt lưng đã sờn rách và đôi giày mòn vẹt lỏng dây. Vung vẩy tay cho người dễ chịu, Ivan co tay, cong người lao xuống nước. Anh như bị nghẹt thở, nước quá lạnh, và thậm chí trong đầu nhà thơ còn lướt qua một ý nghĩ là có khi anh không đủ sức để nổi lên trên mặt nước. Nhưng rồi anh cũng nổi lên được, và vừa thở vừa phun nước phì phì, với cặp mắt mở tròn vì kinh hoàng, Ivan Nikolaievich bắt đầu bơi theo dòng nước đen nồng nặc mùi dầu hỏa giữa những đường gẫy khúc của hàng cột đèn trên bờ hắt bóng xuống.
Khi Ivan ướt sũng từ đầu đến chân nhảy theo các bậc đá đến chỗ vừa nãy gời áo quần nhờ người đàn ông để râu trông hộ, thì hóa ra cả hai thứ - nghĩa là cả áo quần của anh lẫn gã đàn ông mang râu nọ - đều đã bị cuỗm mất. Đứng trên cái chỗ vừa nãy để đống quần áo, giờ chỉ còn lại một chiếc quần lót dài kẻ sọc, chiếc áo khoác rách có thắt lưng, cây nến, bức ảnh thánh và hộp diêm. Sau khi vung nắm đấm dọa ai đó ở đàng xa trong cơn giận dữ bất lực, Ivan vận lên người tất cả những gỉ còn sót lại trên bãi.
Lúc đó Ivan Nikolaievich cảm thấy lo lắng trước hai sự việc: thứ nhất là không cánh mà bay mất chiếc thẻ hội viên MASSOLIT bất ly thân của anh; thứ hai là với bộ dáng thế này liệu anh có thể trót lọt đi trong thành phố Moskva được không ? Dù sao cũng là mặc quần lót… Thực ra thì việc này chẳng quan hệ gì đến ai, nhưng mong sao cũng đừng có ai hỏi han xét giữ gì…
Ivan dứt đứt những nút cúc của chiếc quần lót dài ở chỗ mắt cá, nơi cài dải dây vòng qua bàn chân, hy vọng là như vậy trông nó gần giống chiếc quần dài mùa hè hơn, rồi anh cầm bức ảnh thánh, cây nến và bao diêm rời chỗ bước đi, sau khi đã nói to với chính mình:
- Đến chỗ Griboedov ! Hoàn toàn không nghi ngờ gì, hắn ta phải ở đấy !
Thành phố đã bắt đầu cuộc sống buổi đêm. Những chiếc xe tải kéo theo dây xích loảng xoảng chạy vùn vụt qua làn bụi tung mù. Trong thùng xe, trên những bao tải là những người đàn ông nào đó nằm dài, bụng ngữa lên trời. Tất cả các cửa sổ đều để mở. Phía trong cửa sổ nào cũng cháy sáng một ngọn đèn dưới chiếc chao màu da cam, và từ tất cả các cửa sổ, từ tất cả các cửa lớn, từ tất cả các cánh cổng, từ mái nhà và ban công, từ nhà hầm và sân trong, khắp nơi vọng ra tiếng gào rú khàn khàn của khúc pôlônêdơ trong bản nhạc kịch “Evghênhi Oneghin”.
Những lo lắng của Ivan Nikolaievich hoàn toàn là hiện thực: những người qua đường đã chú ý đến anh và quay đầu lại nhìn theo. Vì vậy, anh quyết định rời bỏ những đường phố chính để len lỏi qua các ngõ nhỏ, nơi mọi người không biết đến nỗi tò mò dai dẳng, và anh ít khả năng bị giữ lại tra hỏi về chiếc quần lót anh đang mặc – nó cứ bướng bỉnh không muốn giống quần áo mặc ngoài một chút nào.
Ivan Nikolaievich đã làm đúng như vậy, anh dấn mình sâu vào mạng lưới bí ẩn của các ngõ nhỏ ở khu Arbat, bắt đầu len lỏi dưới những bức tường, lo lắng liếc nhìn quanh, chốc chốc quay đầu ngó lại phía sau, thỉnh thoảng ẩn mình vào các vòm cổng và cố tránh những ngã tư có đèn đường và những cửa biệt thự choáng lộn của các đại sứ quán.
Và suốt trên con đường gian khổ của anh, nhà thơ không hiểu sao cứ bị hành hạ bời dàn nhạc vang lên khắp mọi nơi, trong tiếng đệm của nó, một giọng nam trầm nặng nề hát về mối tình của mình với Tachiana.
Ngôi nhà hai tầng cổ kính màu kem sữa đứng trên đại lộ vòm cung có hàng cây ở giữa, nằm sâu trong một khu vườn đã tàn lụi được ngăn cách với vỉa hè của đại lộ bằng một hàng rào gang khía rãnh. Trước nhà là khoảng sân nhỏ rải nhựa, về mùa đông, trong sân nổi lên một đống tuyết lớn với cây xẻng cắm trên, còn mùa hè nó biến thành một chi nhánh tuyệt vời của khách sạn ngoài trời với mái che bằng vải bạt.
Ngôi nhà này được gọi là “Nhà Griboedov” do chỗ dường như trước đây nó thuộc về một bà dì của nhà văn Alekxandr Sergheevich Griboedov. Nhưng có đúng thật như vậy không – chúng ta không biết chính xác. Thậm chí có người còn nhớ rằng Griboedov không hề có bà dì chủ nhà nào cả … Nhưng ngôi nhà vẫn có tên như vậy. Hơn thế nữa, một tay khoác lác của Moskva còn kể rằng , trong gian phòng cột tròn ở tầng hai, nhà văn danh tiếng đã đọc trích đoạn của hài kịch “ Đau khổ vì trí tuệ” cho bà dì kia nghe, trong lúc bà ta nằm dài trên ghế xôpha. Mà thật ra, hỏi ma nào biết được, có thể ông đã đọc thật, điều đó không có gì quan trọng cả !
Cái quan trọng là ngôi nhà này hiện nay thuộc về MASSOLIT, cái tổ chức do ông Mikhail Alekxandrovich Berlioz bất hạnh đứng đầu cho đến khi ông xuất hiện ở công viên Hồ Pat’riarsi.
Theo sáng kiến của các thành viên MASSOLIT, không ai gọi ngôi nhà này là “Nhà Griboedov” nữa, mà tất cả đều gọi một cách đơn giản “Griboedov”. “ Chiều qua tớ loanh quanh ở Griboedov suốt hai tiếng đồng hồ”, - “ Kết quả thế nào ?” – “ Nài được đi nghĩ ở Italia một tháng”. – “ Khá lắm !” Hoặc là: “ Đến gặp Berlioz đi, hôm nay ông ta tiếp khách ở Griboedov từ bốn đến năm giờ chiều”… vân vân và vân vân.
Toàn bộ MASSOLIT được bố trí ở Griboedov một cách lý tưởng đến nỗi không thể nào nghĩ là có thể tiện lợi và ấm cúng hơn. Bất kỳ người nào vào Griboedov trước hết muốn hay không muốn đều được làm quen với những thông báo của các hội thể thao và những bức ảnh tập thể cũng như cá nhân của các hội viên MASSOLIT treo dọc hai bên tường cầu thang dẫn lên tầng hai.
Trên cánh cửa của phòng đầu tiên ở tầng trên này treo một tấm biển lớn “ Tiểu ban nhà nghỉ - câu cá”, và ngay bên cạnh là hình một con cá chép mắc câu đang vật vã.
Trên cánh cửa phòng số hai là dòng chữ không thật dễ hiểu lắm: “ Vé nghỉ sáng tác một ngày. Hỏi M.V. Podloznaia”.
Cánh cửa tiếp theo mang một dòng chữ rất ngắn nhưng đã hoàn toàn khó hiểu: “ Perelưghino”. Từ đó, người khách tình cờ đến Griboedov sẽ lóa mắt trước vô số những bản đề sặc sỡ trên các cánh cửa gỗ dẻ của bà dì: “ Đăng ký xin giấy. Gặp Poklevkina.”. “Thủ quỹ”, “ Thanh toán cá nhân cho tác giả các vở ca kịch ngắn”…
Sau khi cắt ngang dãy người xếp hàng dài vô tận bắt đầu từ phòng thường trực ở phía dưới, ta có thể trông thấy biển đề trên cánh cửa “Vấn đề nhà ở”, nơi người ra vào không ngớt.
Phía bên kia “Vấn đề nhà ở” là một tấm biểu ngữ sặc sỡ vẽ mỏm đá lớn, trên mỏm đá, một kỵ sĩ mặc áo choàng phớt với súng trường khoác sau vai đang phi ngựa; phía dưới là những cây cọ và bancông; trên bancông có một người trẻ tuổi tóc rối bù đang nhìn đâu đó lên cao bằng cặp mắt rất xanh, tay cầm chiếc bút máy. Biển đề: “Nghỉ sáng tác dài hạn từ hai tuần (truyện ngắn) đến một năm (tiểu thuyết, truyện dài nhiều tập). Ialta, Súuc-Su, Borovoie, Sikhitgiri, Makhindgiauri, Lêningrad (Cung điện Mùa Đông)”. Ở cánh cửa này người cũng xếp hàng nhưng không đến nỗi dài lắm, chừng trăm rưởi người.
Tiếp đó, nằm dọc theo những chỗ vòng khúc, lên xuống của ngôi nhà Griboedov là “Ban Chấp hành MASSOLIT”, “Quầy thủ quỹ số 2,3,4,5”, “Ban biên tập”, “Chủ tịch MASSOLIT”, “Phòng chơi bida”, một loạt các phòng ban phụ khác, và cuối cùng đến gian phòng cột tròn, nơi trước kia có một bà dì nằm thưởng thức bản hài kịch của một người cháu thiên tài.
Bất kỳ người khách nào (tất nhiên nếu anh ta không phải là kẻ quá đần độn) sẽ lập tức luận ra rằng những con người may mắn được là hội viên của MASSOLIT sống sung sướng đến mức nào, và một nỗi ghen ăn ghét ở đen tối bắt đầu hành hạ anh ta. Và không chậm trễ, anh ta liền ném lên trời những lời trách móc cay đắng là sao trời không ban tặng cho anh ta lúc sinh ra là một tài năng văn học – mà thiếu cái đó, lẽ hiển nhiên, thì đừng hòng mơ ước cái gì có được tấm thẻ hội viên MASSOLIT, tấm thẻ màu nâu sẫm thoang thoảng mùi da quý với một đường viền mạ vàng rộng, tấm thẻ khắp Moskva ai cũng biết.
Người nào có thể nói được gì để bào chữa cho lòng ghen tỵ đó ? Nó là thứ tình cảm thuộc phạm trù hèn kém, nhưng dù sao cũng phải thông cảm với tình cảnh của người khách. Bởi vì những gì anh ta thấy trên tầng hai chưa phải là tất cả và còn lâu mới là tất cả. Toàn bộ tầng dưới của ngôi nhà bà dì là tiệm ăn - một tiệm ăn phải nói hết ý ! Cũng là công bằng khi nó được coi là tiệm ăn tốt nhất ở đất Moskva này. Và điều đó không chỉ vì nó được đặt trong hai gian phòng lớn với trần cuốn vẽ những con ngựa màu tím, bờm Asiri; không chỉ vì trên mỗi chiếc bàn ăn đều có gắn đèn, trải khăn; không chỉ vì không phải bất kỳ người nào muốn cũng đều vào được đây; mà còn vì chất lượng đồ ăn thức uống ở Griboedov này hơn hẳn bất kỳ một tiệm ăn nào khác của Moskva, và chúng được bán ra với một giá phải nói là hết sức phải chăng.
Và vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên trong câu chuyện sau đây mà tác giả của những giòng văn trung thực bậc nhất này một lần nghe được cạnh hàng rào gang của Griboedov:
- Hôm nay anh ăn tối ở đâu, Amvrosi ?
- Sao lại hỏi ngớ ngẩn thế, tất nhiên là ở đây rồi, Phoka yêu quý ạ ! Artribald Artribaldovich hôm nay mách thầm với tớ là sẽ có cá vược đặt sẵn a naturen (1). Một món cá tuyệt vời !
- Anh biết cách sống lắm, Amvrosi ạ ! - người gầy guộc, tàn tạ, với vết loét trên cổ, tên là Phoka, thở dài nói với nhà thơ có vóc dáng khổng lồ, môi mọng, tóc vàng óng, má hồng hào tên Amvrosi.
- Tớ không biết cách biết kiếc đặc biệt gì cả đâu, - Amvroisi bác lại, - mà chỉ có một ý bình thường là được sống cho ra con người. Cậu muốn nói là cá vược thì ở tiệm ăn “Kolize” cũng có chứ gì ? Nhưng ở “Kolize” một suất cá vược giá mười ba rúp mười lăm kôpêch, còn ở chỗ chúng tôi giá chỉ năm rúp năm mươi ! Ngoài ra, ở “Kolize” cá vược phải giữ đến ngày thứ ba, và, ngoài ra nữa, cậu còn không được đảm bảo là sẽ không phải chấp nhận một chùm nho do một thằng thanh niên từ ngõ Nhà hát xông ra ném vào mặt. Không, tớ dứt khoát loại trừ “Kolize”, - tay sành ăn Amvrosi oang oang khắp cả dãy phố. - Đừng có thuyết phục tớ, Phoka !
- Tôi có thuyết phục anh đâu, Amvrosi ạ, - Phoka rầu rỉ nói. – Ăn ở nhà cũng được.
- Ôi, xin kiếu ! – Amvrosi lại sang sảng, - Tớ đã hình dung ra cảnh vợ cậu đang cố xử lý món cá vược đặt sẳn a natuean trong chảo ở khu bếp tập thể của căn hộ ! Hi-hi-hi ! …Ô rơvoa (2), Phoka ! – và vừa nghêu ngao hát, Amvrosi vừa bước đến hàng hiên dưới tán dù che.
Ê-hê-hê… Đúng, quả vậy, quả như vậy thật ! Những cư dân Moskva cố cựu còn nhớ nhà Griboedov lừng danh ! Cá vược rán đặt sẳn là cái gì ! Rẻ lắm, Amvrosi ạ ! Còn cá tầm, cá tầm trong những chiếc xoong trắng bạc, từng miếng cá tầm sắp giữa những khúc thân tôm và trứng cá tươi ? Còn trứng gà nướng với nấm mũ nghiền nhừ đựng trong cốc ? Còn philê thịt sáo hầm, anh có thích không ? Với nấm củ ? Chim cun cút theo kiểu Giênơ ? Mười rúp rưỡi ! Lại còn nhạc Jaz, lại còn phục vụ nhã nhặn ! Còn vào tháng Bảy, khi cả gia đình đã đi đến nhà nghỉ, riêng anh bận những công việc văn chương không thể trì hoãn giữ lại Moskva, - ngoài hàng hiên, dưới bóng những chùm nho quấn quýt, trong vệt nắng vàng choé trên chiếc khăn trải bàn sạch tinh là đĩa súp prentanhiơ ? Amvroisi, anh còn nhớ không ? Nhưng cần gì lại nói thế nhỉ ? Qua cặp môi của anh, tôi thấy là anh còn nhớ. Những món cá hồi trắng, cá vược của anh là cái gì !... Rồi còn đủ loại chim dẽ, gà gô theo mùa, cun cút, dẽ giun ? Rồi nước khoáng narzan buốt lạnh cổ ? Nhưng thôi, đủ rồi, đừng lạc đề nữa, hỡi bạn đọc, xin mời theo tôi !...
Vào hồi mười giờ rưỡi tối, sau khi Berlioz tử nạn ở công viên Pat’riarsi, trên tầng hai của nhà Griboedov chỉ có một căn phòng bật đèn sáng, ở đó mười hai nhà văn đã tụ tập lại để dự cuộc họp và mệt mỏi ngồi chờ Mikhail Alekxandrovich Berlioz.
Những con người ngồi trên ghế, trên bàn và thậm chí cả trên hai bệ cửa sổ trong phòng Ban chấp hành MASSOLIT, đang khổ sở vì nóng bức. Không một tia gió tươi mát nào lọt vào các ô cửa sổ để mở toang. Thành phố Moskva đang trả lại số hơi nóng đã tích tụ được sau một ngày trong các lớp nhựa đường, và rõ ràng là đêm đến cũng không mang lại sự dễ chịu hơn chút nào cho mọi người. Từ dưới tầng ngầm của ngôi nhà bà dì, nơi đặt bếp tiệm ăn, bốc lên mùi hành tỏi và tất cả đều cảm thấy khát, tất cả đều cáu kỉnh và bực bội.
Nhà viết văn xuôi Beskudnikov - một người trầm lặng, ăn mặc lịch sự, với cặp mắt đồng thời vừa chăm chú nhưng lại vừa khó nắm bắt được, - rút đồng hồ từ trong túi ra. Kim nhích dần đến con số mười một. Beskudnikov gõ gõ ngón tay lên mặt đồng hồ, giơ ra cho nhà thơ Dvubratski ngồi bên cạnh trên mặt bàn và vì không có việc gì làm, đang vung vẩy đôi chân đi giày màu vàng đế cao su.
- Thế đấy, - Dvubratski lẩm bẩm.
- Chắc anh chàng mắc lại ở Kliazma rồi, - vang lên giọng trầm của Nastasia Lukinisna Nevremenova, nàng con gái mồ côi của một lái buôn Moskva giờ trở thành nhà văn chuyên viết những truyện ngắn về đề tài chiến đấu trên biển với bút danh “ George Hoa Tiêu”.
- Xin lỗi ! – Dagrivov, tác giả của những vở ca kịch ngắn, mạnh dạn lên tiếng. – Riêng tôi thì tôi cũng vui lòng được ngồi uống chén trà ngoài bancông hơn là phải chịu luộc chín ở đây. Hình như cuộc họp ấn định vào mười giờ thì phải.
- Mà bây giờ ở Kliazma thật là khoái, - George Hoa Tiêu cố ý chọc mọi người có mặt ở đây, vì biết rằng khu nhà nghỉ mát Perelưghino của Hội ở Kliazma là niềm ao ước chung của tất cả. – Bây giờ có lẽ họa mi đang hót. Tôi bao giờ cũng làm việc có hiệu quả hơn khi ở ngoại ô, đặc biệt là vào mùa xuân.
- Đã ba năm nay, tôi đóng tiền để bà xã đau bệnh bazdo(3) được gửi đến thiên đường đó, mà chẳng hiểu sao không thấy tăm hơi gì cả, - nhà viết truyện ngắn Ieronim Poprikhin cay đắng và độc địa nói.
- Điều đó còn tùy ai gặp mai, - nhà phê bình Ababkov ngồi trên bệ cửa sổ gầm gào.
Trong cặp mắt nhỏ tí của George Hoa Tiêu cháy lấp lánh niềm vui, và nữ văn sĩ nói bằng giọng contranto thật dịu dàng:
- Đừng thế, các đồng chí, không nên ganh tị. Tất cả chỉ có hai mươi hai nhà nghỉ, hiện đang xây dựng thêm bảy nhà nữa, thế mà chúng ta ở MASSOLIT phải đến ba nghìn người.
- Ba nghìn một trăm mười một người, - một ai đã từ trong góc phòng chêm vào.
- Đấy, thấy chưa, - George Hoa Tiên tiếp tục, - làm sao bây giờ? Lẽ đương nhiên được nhận nhà nghỉ phải là những người tài năng nhất trong số chúng ta…
- Những ông tướng ! – nhà biên kịch Glukharev xông thẳng vào cuộc tranh biện.
Beskudnikov giả vờ ngáp dài, bước ra khỏi phòng.
- Một người chiếm những năm buồng ở Perelưghino, - Glukharev ném sau lưng anh ta.
- Lavrovich một mình sáu buồng ! – Dêniskin nói rõ to, - và phòng ăn ghép bằng ván sồi !
- Ê, bây giờ cái chính không phải là chuyện đó, - Ababcov gầm gào, - cái chính là đã mười một giờ rưỡi rồi.
Tiếng ồn ào nổi lên, bắt đầu một cái gì đó như sự nổi loạn. Mọi người gọi điện về cái xóm Perelưghino đáng ghét nọ, nhưng không gọi được nhà nghỉ cần tìm, mà lại gặp phải nhà Lavrovich, được biết rằng Lavrovich đang ngồi ở ngoài sông, và vì vậy tất cả tỏ vẻ hoàn toàn thất vọng. Gọi hú họa đến Tiểu ban văn học, theo số máy phụ 930, nhưng tất nhiên là chẳng tìm thấy ai ở đó cả.
- Đáng lẽ ông ta phải gọi điện đến chứ ! – Deniskin, Glukharev và Kvant lớn tiếng hét.
Ôi, họ la hét chỉ phí công vô ích: Mikhail Alekxandrovich không thể nào gọi điện đi đâu được nữa rồi. Ở xa, rất xa nhà Griboedov, trong một gian phòng lớn được chiếu sáng bằng những ngọn đèn điện hàng nghìn nến, nằm trên ba chiếc bàn kẽm là cái mà vừa mới đây còn là Mikhail Alekxandrovich.
Trên chiếc bàn thứ nhất, ta thấy tấm thân trần máu đã khô đông lại với một bàn tay bị gãy và lồng ngực dập nát; trên mặt bàn thứ hai là chiếc đầu không còn răng cửa với đôi mắt mờ đục mở to giờ không còn sợ làn ánh sáng hết sức gay gắt nữa; và trên chiếc bàn thứ ba là một đống giẻ rách nát.
Đứng cạnh thi thể mất đầu là giáo sư pháp y, chuyên gia giải phẫu bệnh viện và phẫu thuật viên của ông, các đại diện của cơ quan thẩm cứu và nhà văn Gieldưbin, phó chủ tịch thứ nhất của Mikhail Alekxandrovich Berlioz ở MASSOLIT, được gọi đến đây bằng điện thoại, bỏ bà vợ đang đau ốm ở lại nhà.
Một chiếc xe đến đón Gieldưbin, và việc đầu tiên là chở ông cùng với dự thẩm viên (lúc đó đã gần nửa đêm) đến căn nhà của người quá cố, niêm phong toàn bộ giấy tờ của Mikhail Alekxandrovich lại, rồi sau đó mới đến nhà xác.
Và bây giờ những người đứng cạnh thi hài kẻ quá cố đang thảo luận nên làm thế nào tốt hơn: khâu gắn chiếc đầu bị cắt rời ra vào cổ hay cứ đặt thi hài như thế vào hội trường nhà Griboedov, chỉ đem một chíêc khăn đen lớn phủ mặt tử thi kín đến tạn cằm ?
Vâng, Mikhail Alekxandrovich không thể gọi điện đi đâu được nữa, và những Deniskin, Glukharev cùng Kant với Beskudnikov cáu kỉnh kêu la là chỉ phí công vô ích. Đúng nửa đêm, cả mười hai văn sĩ rời tầng hai đi xuống tiệm ăn. Và ở đây họ lại một lần nữa thầm nguyền rủa Mikhail Alekxandrovich: tất cả các bàn ngoài hiên, hiển nhiên đã không còn chỗ trống, và họ buộc phải ngồi lại ăn tối trong các gian phòng dù đẹp đẽ nhưng rất nóng bức này.
Và vào đúng nữa đêm, trong gian phòng thứ nhất trong số những gian phòng đó có một cái gì đó đổ ầm ầm, rơi loảng xoảng, rung tới tấp, nhảy tâng tâng. Và liền ngay đó một giọng nam lanh lảnh hét lên trong điệu nhạc: “Alliluia !!” Đó là dàn nhạc Jaz lừng danh của nhà Griboedov bắt đầu lên tiếng. Những khuôn mặt đẫm mồ hôi rạng rỡ hẳn lên, những con ngựa vẽ trên trần nhà dường như sống dậy, các ngọn đèn dường như sáng thêm, và bỗng nhiên, như hóa điên, cả hai gian phòng đều bắt đầu nhảy, rồi tiếp theo đó là cả hàng hiên phía ngoài cũng nhảy.
Glukharev nhảy với nữ thi sĩ Tamara Bán Nguyệt, Kvant cũng nhảy, nhà viết tiểu thuyết Giukopov nhảy với một nữ diễn viên điện ảnh nào đó mặc áo màu vàng, Dragunski, Trerdactri nhảy, Deniskin nhỏ con nhảy với George Hoa Tiêu đồ sộ, người đẹp nữ kiến trúc sư Semeikina Gall nhảy trong vòng tay siết chặt của một người lạ mặt nào đó mặc quần dài trắng bằng vải gai. Nhảy: cả chủ nhà lẫn khách mời, cả dân Moskva và nhà văn Iogann từ Kronstad đến, cả một anh chàng Vitia Kuptic nào đó từ Rostov tới, có lẽ là đạo diễn, với đám nấm hắc lào hồng hồng trên khắp một bên má; nhảy: cả những đại diện tinh hoa nhất của tiểu ban thơ ca thuộc MASSOLIT, tức là Pavianov, Bogokhulski, Sladki, Spitrkin và Adelphina Buzdiac, cả những thanh niên không rõ nghề nghiệp đầu húi bốc, vai áo độn bông, cả một người nào đó rất đứng tuổi với bộ râu lẫn một cánh hành xanh, cùng nhảy với ông ta là một cô gái quá thời trong chiếc áo màu da cam nhàu nát đang mòn mỏi bởi chứng thiếu máu.
Đầm đìa mồ hôi, các nhân viên phục vụ đi lại với những vại bia cũng đổ mồ hôi đầm đìa giơ cao trên đầu, chốc chốc lại kêu lên khàn khàn và cáu kỉnh: “Xin lỗi, thưa ông, xin lỗi !” Ở một nơi nào đó vang vang những khẩu lệnh được hô vào loa: “Một suất Karski ! Hai ly Duprovca ! Đĩa lòng thêm !!” Cái giọng nam lanh lảnh bây giờ không còn hát nữa, mà rít lên : “Alliluia !” Tiếng nhạc jaz nhiều khi bị át đi bởi tiếng loảng xoảng của đống bát đĩa mà những người rửa bát thả trượt theo băng chuyền dốc xuống bếp. Tóm lại, đúng là địa ngục.
Và vào nửa đêm, xuất hiện một bóng ma trong địa ngục. Một người đàn ông đẹp dáng, mắt đen, với bộ râu nhọn mặc áo đuôi tôm bước ra hàng hiên và đưa ánh mắt đầy quyền uy nhìn khắp vương quốc của mình. Những kẻ ưa thần bí nói rằng, đã có thời người đàn ông đẹp đẽ này không vận áo đuôi tôm, mà nịt ngang người một chiếc thắt lưng da rộng bản, từ đó thò ra những báng súng lục; còn mái tóc đen nhánh được vấn trong một tấm lụa điều, và chiếc chiến thuyền giương lá cờ đen ngòm với hình đầu lâu dưới quyền chỉ huy của ông ta đã từng rong ruổi trên mặt biển Karaibe.
Nhưng không, không ! Những kẻ ưa thần bí chuyên đi bịp người đã nói không đúng sự thật, trên thế giới này không hề có biển Karaibe nào cả, và những tên cướp biển liều lĩnh không rong ruổi trên đó, không có những cổ thuyền chiến ba buồm đuổi theo chúng; và trên mặt nước không vật vờ làn khói súng đại bác. Không có gì cả, và chưa bao giờ có gì cả ! Mà chỉ có một gốc lipa già cỗi, chỉ có dãy hàng rào bằng gang và phía ngoài là đại lộ… Và tảng nước đá đang tan dần trong bình nước, nhìn rõ ở phía sau chiếc bàn bên cạnh cặp mắt bò đực của ai đó ngầu máu, và cảm thấy thật kinh hoàng, thật khủng khiếp… Ôi, hỡi các vị thần linh, các vị thần linh của tôi, thuốc độc đâu, hãy cho tôi thuốc độc !...
Và bất thần sau chiếc bàn vang lên một từ: “Berlioz !” Tiếng nhạc jaz chững lại, rời rạc rồi lặng ngắt, dường như bị ai đó lấy nắm tay đánh vụn, cắt ngang. “ Cái gì, cái gì, cái gì, cái gì ?!!! “ – “Berlioz !!!” Rồi mọi người nhảy vụt dậy, rồi khắp nơi nổi lên tiếng la hét…
Vâng, đúng thế, nỗi đau khổ như một cơn sóng chợt dâng trào khi nghe cái tin khủng khiếp về Mikhail Alekxandrovich. Một người nào đó xăng xái hét lên là cần phải lập tức, ngay tại đây, không ai rời chỗ, thảo ra một bức điện tập thể và gửi nó đi không chậm trễ.
Nhưng bức điện nào, chúng tôi xin hỏi, và gửi đi đâu ? Và gửi nó để làm gì ? Mà quả thực, gửi đi đâu ? Và dù là bức điện nào đi nữa, thì nó cũng cần gì cho cái con người với chiếc gáy dập nát đang bị bóp chặt trong đôi tay cao su của phẫu thuật viên giải phẫu bệnh lý, còn cổ thì bị những mũi kim cong của giáo sư chọc nát ? Ông đã chết, và ông không cần bất cứ một bức điện nào. Tất cả đã kết thúc, chúng ta sẽ không bày thêm việc cho ngành bưu điện nữa.
Vâng, ông đã chết rồi… Nhưng chúng ta thì hẵng còn đang sống !
Vâng, đau khổ như con sóng dâng tràn, giữ ở trạng thái cao trào một lúc, rồi bắt đầu rút xuống, một vài ai đó đã quay trở về bàn, và – lúc đầu còn kín đáo, sau đó công khai không giấu giếm, - tiếp tục uống rượu và nhắm thức ăn. Chẳng lẽ lại bỏ phí món thịt gà rán dơ volai ? Chúng ta có thể giúp được gì Mikhail Alekxandrovich ? Bằng cách nhịn đói ư ? Chúng ta là những người còn sống cơ mà !
Tất nhiên, người ta đã khoá nắp đàn piano lại, ban nhạc giải tán ra về, một vài nhà báo đi đến tòa soạn của mình để viết điếu tang. Nghe nói Gieldưbin từ nhà xác đã đến đây, đang ngồi ở phòng làm việc của người quá cố, và lập tức có tin loang ra là ông ta sẽ thay thế Berlioz. Gieldưbin gọi cả mười hai Ủy viên ban chấp hành từ tiệm ăn lên gặp mình, và trong cuộc họp được triệu tập cấp tốc ngay tại căn phòng làm việc của Berlioz, mọi người bắt đầu thảo luận một số vấn đề về việc sắp đặt lại gian phòng cột tròn của nhà Griboedov, việc chuyển thi hài người quá cố từ nhà xác về đây, việc tổ chức lễ viếng và những việc khác có liên quan đến sự kiện đau buồn này.
Còn tiệm ăn thì đã trở lại sống cái cuộc sống bình thường của mình, và có lẽ sẽ cứ tiếp tục sống như vậy cho tới khi đóng cửa, tức là đến bốn giờ sáng, nếu như không xảy ra một việc, lần này thì hoàn toàn đặc biệt và làm cho toàn bộ khách ở đây kinh ngạc hơn nhiều so với tin về cái chết của Berlioz...
Những người đầu tiên gây ra xôn xao lo lắng là cánh xà ích túc trực ở cổng nhà Griboedov. Một người trong bọn họ bỗng nhổm người trên ghế xe ngựa, hét toáng lên:
- Chu cha, trông kia !
Tiếp liền đó, không hiểu từ đâu ra, cạnh hàng rào bằng gang, một đốm lửa nhỏ vụt loé lên và tiến dần lại phía hiên nhà. Những người ngồi sau bàn theo nhau nhổm dậy nhìn, và họ thấy rằng đi về phía tiệm ăn cùng với đám lửa nhỏ kia là một bóng ma nhờ nhờ trắng. Khi nó tiến đến tận dàn cây leo, tất cả mọi người đã như hóa đá sau bàn với những miếng cá tầm xóc trên nĩa cầm trong tay, mắt trố ra nhìn kinh ngạc. Người gác cửa, đúng lúc đó vừa từ phía sau cánh cửa phòng gửi áo ngoài của tiệm ăn bước ra sân để hút thuốc, vội giẫm tắt điếu thuốc và tiến lại phía bóng ma với mục đích rõ ràng là chận ngang đường vào tiệm ăn, nhưng không hiểu sao cuối cùng ông ta đã không làm việc đó mà dừng lại, trên môi nở một nụ cười ngớ ngẩn.
Và bóng ma đi qua dàn cây leo, bước lên hiên, không bị ai ngăn trở. Đến lúc này, mọi người mới nhận thấy rằng đó hoàn toàn không phải là bóng ma nào cả, mà đích thị nhà thơ nổi tiếng nhất Ivan Nikolaievich Bezdomnưi.
Nhà thơ đi chân đất, mặc chiếc áo khoác bạc trắng rách bươm, trên ngực áo găm lủng lẳng bằng kim băng bức ảnh in hình một vị thánh nào đó không ai biết đã mờ nét, và nửa dưới người là chiếc quần lót dài kẻ sọc cũng màu trắng. Trong tay Ivan Nikolaievich cầm một ngọn nến thường dùng trong các buổi lễ cưới đã thắp lên. Trên má phải của anh có một vết xướt còn mới. Thật khó có thể đo được chiều sâu của sự im lặng bao trùm trên hàng hiên tiệm ăn. Nghe rõ cả tiếng bia chảy xuống sàn từ chiếc cốc vại cầm nghiêng trong tay một người phục vụ nào đó.
Nhà thơ giơ ngọn nến lên quá đầu, nói to:
- Chào các bạn ! – nói rồi anh cúi nhìn xuống bên dưới chiếc bàn gần nhất và buồn bã thốt lên: - Không, hắn không có ở đây.
Trong phòng vang lên hai giọng nói. Giọng thứ nhất, rất trầm, buông ra một cách tàn nhẫn:
- Rõ rồi, cơn sốt trắng(4).
Còn giọng thứ hai, của phụ nữ, hoảng hốt:
- Làm sao công an lại để cho anh ta đi ngoài phố trong bộ dạng như thế này nhỉ ?
Ivan Nikolaievich nghe thấy câu nói đó và đáp ngay:
- Họ đã hai lần muốn giữ tôi lại ở ngõ Skatertnưi và ở đây, trên phố Bronnaia, nhưng tôi nhảy qua hàng rào, và các vị thấy đấy, bị rách một bên má ! – Ivan Nikolaievich bất thần giơ cao ngọn nến và hét to: - Hỡi các văn hữu ! (Giọng khàn khàn của anh đanh lại và trở nên nóng nảy). Tất cả hãy nghe tôi ! Hắn đã xuất hiện ! Hãy lập tức tìm bắt lấy hắn, nếu không hắn sẽ gây ra những tai họa không lường nổi !
- Cái gì ? Cái gì ? Anh ấy nói cái gì ? Ai đã xuất hiện ? - từ bốn phía mọi người nhốn nháo hỏi.
- Tên chuyên gia ! – Ivan đáp, - và tên chuyên gia đó vừa giết chết Mikhail Berlioz ở hồ Pat’riarsi.
Mọi người từ gian nhà trong chen nhau đổ ra hàng hiên, xung quanh ngọn nến của Ivan hình thành một đám đông quay tròn.
- Xin lỗi, xin lỗi, anh hãy nói cho rõ hơn, - Ivan Nikolaievich nghe vang lên bên tai một giọng nói khe khẽ và lịch thiệp, - anh nói cho rõ, ai giết ? Ai giết ?
- Một tên chuyên gia người nước ngoài, một giáo sư gián điệp ! – Ivan nhìn quanh, đáp.
- Nhưng họ tên hắn là gì ? - giọng khe khẽ lại hỏi.
- Họ tên ấy à ?! – Ivan Nikolaievich buồn rầu thốt lên, - gía như tôi biết được họ tên của hắn ! Tôi chưa kịp nhìn rõ họ tên hắn trên tấm danh thiếp… Chỉ nhớ chữ cái đầu tiên là “Vê”, họ hắn bắt đầu bằng chữ “Vê” !... Họ nào bắt đầu bằng chữ “ Vê” nhỉ ? – Ivan đưa bàn tay lên ôm trán và tự hỏi mình, rồi anh bỗng lẩm nhẩm: - Vê, vê, vê ! Va …vô …Vasner à ? Vagner à ? Vainer ? Vegner ? Vinter ? – tóc trên đầu Ivna như dựng ngược lên vì căng thẳng.
- Vulph phải không ? - giọng của một phụ nữ nào đó kêu lên nảo nùng.
Ivan nổi cáu:
- Đồ ngu ! – anh hét to, đưa mắt tìm người vừa nói. – Vulph thì có liên quan gì ở đây ? Vulph không có lỗi gì hết ! Vô, vô… Không ! Tôi không nhớ được ! Này các bạn, chúng ta phải làm như sau: hãy gọi điện ngay bây giờ cho công an, để họ phái năm người đi môtô mang súng máy lùng bắt tay giáo sư. Mà đừng quên nói rằng cùng với hắn ta còn có thêm hai đứa nữa: một tên người dài ngoẵng, quần áo kẻ ô… một mắt kính bị vỡ… và một con mèo đen, béo hú. Còn tôi bây giờ phải lục tìm khắp nhà Griboedov đã… Tôi cảm thấy là hắn đang ở đây!
Ivan Nikolaievich lo lắng xô giạt mọi người vây quanh ra, tay huơ huơ ngọn nến làm dầu nến chảy ra rơi cả lên người, rồi anh bắt đầu ngó xuống phía dưới các bàn ăn. Bỗng có ai đó gọi lớn: “ Mời bác sĩ đến !” – và một khuôn mặt béo tốt, dịu dàng, cạo nhẳn nhụi, đeo kính gọng sừng, xuất hiện trước mặt nhà thơ.
- Đồng chí Bezdomnưi, - khuôn mặt đỏ nói bằng một giọng như diễn văn, - đồng chí hãy bình tĩnh lại đi ! Đồng chí đang quá xúc động bởi cái chết của con người được tất cả chúng ta yêu quý là Mikhail Alekxandrovich … Không, phải gọi thân mật hơn là Misa Berlioz. Chúng tôi hiểu rất rõ điều đó. Đồng chí cần phải được nghỉ ngơi. Bây giờ các bạn sẽ đưa đồng chí vào giường, và đồng chí sẽ ngủ một lát…
- À, mày, - Ivan nhe răng, cắt ngang lời, - mày có hiểu là cần phải bắt ngay thằng giáo sư kia không? Thế mà mày lại chõ miệng vào nói những lời nhảm nhí ! Đồ ngu !
- Đồng chí Bezdomnưi, tôi xin lỗi, - khuôn mặt nọ đỏ tía lên, đáp, rồi vừa bước lùi ra sau, vừa hối hận là đã giây vào sự việc này.
- Ai thì cho xin chứ mày thì không xin xỏ gì hết, - Ivan Nikolaievich nói với giọng căm ghét.
Các cơ mặt anh co giật làm khuôn mặt trở nên méo mó; anh nhanh như chớp chuyển ngọn nến từ tay phải sang tay trái rồi dang rộng cánh tay giáng một cái tát vào ngay mang tai của khuôn mặt vừa lộ vẻ thông cảm nọ.
Đến lúc này mọi người mới nghĩ ra là phải giữ tay Ivan lại – và họ đã làm đúng như thế. Ngọn nến bị tắt ngấm, chiếc kính văng ra khỏi mặt rơi xuống sân lập tức bị giẫm nát. Ivan hét lên một tiếng dữ dội đến mức người đi ngoài đường cũng nghe thấy, và bắt đầu tự vệ. Vang lên tiếng bát đĩa rơi từ trên bàn xuống, tiếng phụ nữ kêu la.
Trong lúc ngoài hàng hiên những người phục vụ dùng khăn trói Ivan lại, trong phòng gửi áo ngoài đã diễn ra câu chuyện sau đây giữa tên thuyền trưởng cướp biển và người gác cửa:
- Anh có thấy là anh ta chỉ mặc quần lót không ? – tên cướp biển lạnh lùng hỏi.
- Thưa ông Artribaldo Artribaldovich, xin ông thể tất cho, - người gác cửa đỏ tía mặt nói, - tôi có thể làm được gì ạ ? Tự tôi cũng hiểu rằng ngoài hiên đang có các bà, các cô ngồi…
- Ở đây chẳng liên quan gì đến các bà, các cô cả. Các bà, các cô thì thế nào cũng xong, - tên cướp biển đáp, mắt nhìn như thiêu rụi người gác cửa, - còn với công an thì không xong được ! Người mặc quần lót chỉ có thể đi ngoài phố Moskva trong một trường hợp là bị công an giải đi, và cũng chỉ đến có một nơi duy nhất là đồn công an ! Còn ông, làm gác cửa thì phải biết là khi trông thấy một người như vậy thì phải lập tức huýt còi, không được chậm giây nào. Ông nghe thấy chưa ?
Người gác cổng đờ đẩn nghe ngoài hiên có tiếng la hét nhộn nhạo, tiếng bát đĩa rơi và tiếng phụ nữ kêu.
- Biết phải làm gì với ông bây giờ ? – Tên hải tặc hỏi.
Da trên mặt người gác cửa đổi sang màu của người sốt phát ban, còn mắt thì như bị chết cứng đờ đẩn. Ông cảm thấy như mái tóc đen, bây giờ được chảy rẽ ngôi, lại bọc trong lớp lụa đỏ rực như lửa. Áo đuôi tôm và áo sơ mi trong ngực biến mất, và từ sau thắt lưng da hiện ra chuôi một khẩu súng ngắn. Người gác cửa hình dung ra cảnh mình bị treo cổ trên trục ngang của cột buồm mũi thuyền. Tự mắt mình, ông nhìn thấy chiếc lưỡi thè lè ra của chính mình và mái đầu không còn sinh khí gục thõng xuống một bên vai, thậm chí ông còn nghe cả tiếng nước vỗ xuống mạn thuyền. Đầu gối của người gác cửa đã khuỵu xuống. Nhưng vừa lúc đó, tên cướp biển đem lòng thương hại ông và tắt đi ánh nhìn sắc nhọn của mình.
- Coi chừng đấy, Nikolai ! Đây là lần cuối cùng. Chúng tôi không cần những người gác cửa vô tích sự như vậy trong tiệm ăn đâu. Ông hãy đến nhà thờ xin làm gác cổng thì hơn. – Nói xong, tay thuyền trưởng hạ lệnh ngắn gọn, rõ ràng, chính xác : - Gọi Pantalei ở quầy căngtin lên đây. Mời công an đến. Lập biên bản, chuẩn bị xe. Đưa đến bệnh viện tâm thần. - Rồi thêm: - Huýt còi lên !
Mười lăm phút sau, đám thính giả vô cùng kinh ngạc không chỉ ở tại tiệm ăn, mà cả ở ngoài đại lộ lẫn trong các cửa sổ của những ngôi nhà vây quanh khu vườn của tiệm ăn, đều thấy từ trong cổng nhà Griboedov năm người – Pantelei, người gác cửa, một công an, một nhân viên phục vụ tiệm ăn và nhà thơ Riukhin – khiêng ra một người trẻ tuổi quấn trong những chiếc khăn trông hệt như một con búp bê; anh ta, nước mắt chảy ròng ròng, vừa cố tìm cách nhổ nước bọt trúng vào mặt Riukhin, vừa thổn thức gào lên:
- Đồ đểu ! Đồ đểu này !
Tài xế chiếc xe tải quay máy với vẻ mặt dữ tợn. Bên cạnh, một tay xà ích thúc ngựa, quất sợi dây cương màu tím nhạt lên thân con vật, hét :
- Hỏa tốc đây ! Chở người đến bệnh viện tâm thần đây !
Xung quanh, đám đông ồn ào bàn tán về sự kiện chưa từng thấy này; tóm lại, một cảnh om sòm, xấu xa, tởm lợm, hấp dẫn, hèn hạ, nó chỉ kết thúc khi chiếc xe tải đã chở nhà thơ Ivan Nikolaievich bất hạnh cùng Riukhin, Pantelei và người công an rời cổng nhà Griboedov đi khuất.
----------------------
CHÚ THÍCH
(1) A naturen: thứ thiệt, nguyên chất ( Phiên âm tiếng Pháp.)
(2) Ô rơvoa : tạm biệt (PÂTP).
(3) bazdo: rối loạn tuyến giáp trạng.
(4) Chỉ chứng suy nhược tâm thần do nghiện rượu.